🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thường Thức Về Triết Học Mác - Lênin Quyển 1: Thế Giới Quan Triết Học Duy Vật Biện Chứng
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
SÁCH XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
THƯỜNG THỨC VỀ TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN
QUYỂN 1
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
THƯỜNG THỨC VỀ TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN
QUYỂN 1
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương TRẦN THANH LÂM
Phó Chủ tịch Hội đồng
Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM MINH TUẤN
Thành viên
NGUYỄN HOÀI ANH
PHẠM THỊ THINH
NGUYỄN ĐỨC TÀI
TỐNG VĂN THANH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
THƯỜNG THỨC VỀ TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN
QUYỂN 1
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
BỘ SÁCH LÝ LUẬN PHỔ THÔNG TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN RỘNG RÃI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
TRƯỞNG BAN
GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng
Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
CÁC THÀNH VIÊN
PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc Phó Trưởng ban PGS.TS. Lê Văn Lợi Thành viên PGS.TS. Dương Trung Ý Thành viên GS.TS. Trần Văn Phòng Thành viên PGS.TS. Trần Minh Trưởng Thành viên
BIÊN SOẠN
PGS.TS. Đặng Quang Định (Chủ biên)
GS.TS. Trần Văn Phòng
GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991)
khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Từ đó đến nay, Đảng luôn luôn nhấn mạnh “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Cùng với khẳng định vai trò, giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là học thuyết cách mạng và khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, Đảng ta thường xuyên quan tâm, coi trọng tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” đã xác định một trong những hướng nghiên cứu chủ yếu là “Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa
5
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn Việt Nam; chỉ rõ vấn đề cần bổ sung, phát triển. Tiếp tục nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ sự bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh”.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, trong thời gian qua công tác lý luận đã đạt được những kết quả quan trọng. Tư duy lý luận tiếp tục có bước phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được đổi mới cả về nội dung và hình thức, đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Nội dung, phương pháp tuyên truyền còn đơn giản; tài liệu tuyên truyền chưa đa dạng; thiếu những bộ tài liệu mang tính cẩm nang, thường thức chính trị, ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với trình độ và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Hiệu quả tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa cao. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức
6
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa thật sâu sắc, toàn diện, hệ thống.
Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quán triệt và thực hiện các nghị quyết của Đảng, với vai trò là trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp của hệ thống chính trị, trung tâm quốc gia nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ năm 2020, dưới sự chỉ đạo của GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, nhóm tác giả, các nhà khoa học ở các viện chuyên ngành thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã biên soạn bộ sách lý luận phổ thông về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới đất nước. Bộ sách gồm nhiều quyển, tập trung nghiên cứu 10 nhóm vấn đề:
1. Thường thức về triết học Mác - Lênin.
2. Thường thức về kinh tế chính trị Mác - Lênin. 3. Thường thức về chủ nghĩa xã hội khoa học. 4. Thường thức về tư tưởng Hồ Chí Minh. 5. Thường thức về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 6. Thường thức về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
7
7. Thường thức về hệ thống chính trị Việt Nam. 8. Thường thức về nhà nước và pháp luật. 9. Thường thức về văn hóa.
10. Thường thức về dân tộc, tôn giáo.
Bộ sách được biên soạn công phu, khoa học, nội dung súc tích, bảo đảm tính cơ bản, hệ thống, cập nhật về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến lý luận rộng rãi cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong bối cảnh mới.
Mặc dù đã rất cố gắng trong công tác biên soạn, biên tập, nhưng đây là những cuốn sách thường thức, phổ thông đòi hỏi phải có cách thức tiếp cận và thể hiện phù hợp, nên chắc chắn khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Ban Biên soạn và Nhà xuất bản mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để bộ sách được hoàn thiện hơn về nội dung trong những lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu bộ sách quý với bạn đọc.
Tháng 8 năm 2022
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
8
Triết học Mác - Lênin do C. Mác và Ph. Ăngghen
sáng tạo ra và được V.I. Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện mới, trên cơ sở kế thừa những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học trong lịch sử nhân loại.
Triết học Mác - Lênin là một hệ thống quan điểm khoa học về thế giới xung quanh, về những quy luật vận động, phát triển của thế giới, về xã hội và về bản thân con người trong thế giới ấy. Triết học Mác - Lênin là sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng; giữa lý luận với thực tiễn; giữa tính khoa học với tính cách mạng. Triết học Mác - Lênin đã góp phần xây dựng thế giới quan và phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, đem lại những biến đổi vĩ đại trong sự phát triển của lịch sử nhân loại thời hiện đại. Việc nghiên cứu, học tập và vận dụng triết học Mác - Lênin là hết sức quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, là môn khoa học có tính khái quát hóa, trừu tượng hóa cao,
9
nên việc nhận thức triết học không hề đơn giản. Để giúp đông đảo bạn đọc học tập, nghiên cứu triết học Mác - Lênin có hiệu quả, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn bộ sách Thường thức về triết học Mác - Lênin gồm nhiều quyển.
Xin trân trọng giới thiệu Quyển 1 - Thế giới quan triết học duy vật biện chứng cùng bạn đọc.
TẬP THỂ TÁC GIẢ
10
Phần I
KHÁI QUÁT VỀ THẾ GIỚI QUAN
1. Đnh nghĩa thế giới quan, nhân sinh quan
a) Thế giới quan
* Định nghĩa: Thế giới quan là hệ thống quan niệm của con người về thế giới; về vị trí của con người trong thế giới đó.
Trong quá trình cải tạo, tìm hiểu, nhận thức thế giới xung quanh, con người bắt gặp hàng loạt vấn đề cần lý giải như: Thế giới bên ngoài, xung quanh con người là gì? Bn cht ca n là gì? Cái gì chi phối sự tồn tại và biến đổi của các sự vật, hiện tượng trong thế giới bên ngoài, xung quanh con người? Con người có nguồn gốc từ đâu? Con người có quan hệ như thế nào với thế giới bên ngoài, xung quanh? Vì sao có người giàu, người nghèo, người tốt, người xấu? Con người có nhận thức và cải tạo được thế giới không? Ý nghĩa cuộc sống của con người là ở chỗ nào? v.v.. Quá trình tìm tòi và giải đáp những câu hỏi trên đã hình thành ở con người những quan niệm nhất định về thế giới. Đó chính là thế giới quan.
11
* Nội dung: thế giới quan thể hiện những quan niệm của con người về các vấn đề:
Thứ nhất, về bản chất của thế giới, nghĩa là những quan niệm của con người về tự nhiên, xã hội, về hiện thực xung quanh.
Thứ hai, thể hiện quan niệm của con người về chính bản thân con người, về mục đích, ý nghĩa cuộc sống của con người hay có thể hiểu là khả năng tự nhận thức về bản thân, về vị trí, vai trò của mình trong thế giới và trong quan hệ với những người xung quanh.
Thứ ba, thể hiện quan niệm về khả năng của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. b) Nhân sinh quan
* Định nghĩa: Nhân sinh quan là hệ thống những quan niệm của con người về cuộc đời, về ý nghĩa, mục đích sống của con người.
* Nội dung: Nhân sinh quan phản ánh điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt của con người, được thể hiện ở nhiều khía cạnh, mức độ khác nhau. Song có thể thấy nhân sinh quan được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, những quan niệm, đánh giá, nhận xét của cá nhân hoặc của cộng đồng người, về cuộc sống của mình và xã hội xung quanh. Ví dụ như, sự tự đánh giá về vai trò của mình trong cộng đồng, ý thức trách nhiệm của mình trong cộng đồng ấy.
12
Thứ hai, những quan niệm về thái độ ứng xử của bản thân mình, của cộng đồng để xác định cách sống, ý nghĩa, giá trị cuộc sống. Ví dụ như, thái độ yêu cuộc sống, cống hiến, yêu lao động, v.v..
Thứ ba, những mong muốn, khát vọng của cá nhân, cộng đồng người về cuộc sống tương lai. Ví dụ như, mong ước cuộc sống hạnh phúc, yên bình, an nhiên.
Nhân sinh quan có vai trò định hướng cho mọi hoạt động của con người, định hướng cuộc sống của con người. Do vậy, nó có vai trò rất quan trọng trong đời sống của một cá nhân và của một cộng đồng người nhất định.
c) Quan hệ giữa thế giới quan và nhân sinh quan Thế giới quan và nhân sinh quan đều là kết quả quá trình nhận thức của con người, phản ánh về thế giới bên ngoài xung quanh con người. - Tuy nhiên, thế giới quan nói đến quan hệ giữa con người, xã hội loài người và thế giới xung quanh. Con người ở đây có thể là cá nhân một người, một tng lp, một giai cp hoặc một cộng đồng xã hội người. Vì vậy, thế giới quan bao hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm, quan điểm về cuộc sống của con người và loài người.
13
2. Sự hình thành thế giới quan
Thế giới quan không có sẵn trong đầu óc con người mà được hình thành trong quá trình lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên, xã hội của con người. Quá trình cải biến giới tự nhiên, con người làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính của nó, từ đó, con người phản ánh, có hiểu biết về sự vật. Thế giới quan luôn biến đổi, luôn được các thế hệ người bổ sung, phát triển, qua các thời đại lịch sử khác nhau.
Ví dụ như, ở thời kỳ cổ đại con người chưa hiểu về nhật thực, về bầu trời nên những hiểu biết về vũ trụ chủ yếu chỉ dựa trên phỏng đoán chưa rõ ràng, chưa biết nguyên nhân, bản chất của hiện tượng đó. Nhưng ngày nay, khi khoa học phát triển, con người hiểu đúng về bầu trời, vũ trụ, về nhật thực, nguyệt thực. Đây là hiện tượng xảy ra khi mặt trăng đi qua trái đất và mặt trời trên cùng một đường thẳng và quan sát từ trái đất, lúc đó mặt trăng che khuất hoàn toàn hoặc một phần mặt trời.
Mỗi bước tiến của lịch sử nhân loại, mỗi thành quả của kinh nghiệm xã hội, mỗi mốc đánh dấu sự tiến bộ trong lịch sử khoa học đều góp phần phát triển thế giới quan của con người. Ngày nay,
14
những thành tựu khoa học hiện đại giúp cho chúng ta có thế giới quan khoa học hơn.
3. Cấu trc thế giới quan
Thế giới quan là sự thống nhất giữa tri thức, niềm tin và lý tưởng.
a) Tri thức
Tri thức là yếu tố quan trọng nhất, là cơ sở của thế giới quan.
Tri thức là kết quả của quá trình con người phản ánh thế giới, là sự hiểu biết về thế giới thu nhận được thông qua lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên, xã hội. Tri thức có nhiều loại khác nhau: tri thức về tự nhiên, tri thc về xã hội, tri thc về con người, tri thức kinh nghiệm, tri thức lý luận. Ví dụ, kinh nghiệm trong lao động sản xuất được thể hiện qua câu tục ngữ “khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen”.
Tri thức khái quát nhất, sâu sắc nhất là tri thức lý luận triết học khoa học. Vì triết học chỉ ra được những quy luật chung nhất về sự vận động, biến đổi của thế giới vật chất, của xã hội loài người. Triết học chỉ ra nguyên nhân, bản chất của mọi sự thay đổi trong thế giới vật chất. Vì vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
15
Tuy nhiên, bản thân tri thức chưa phải là thế giới quan. Tri thức phải được chuyển hóa thành những nhận định, đánh giá của con người đối với thế giới xung quanh, phải góp phần hình thành nên niềm tin, lý tưởng của con người thì khi ấy tri thức mới tham gia vào thế giới quan.
b) Niềm tin
Niềm tin là trạng thái tình cảm thể hiện sự tin tưởng vào các nguyên tắc sống, quan điểm, tư tưởng... góp phần hình thành tình cảm, lương tâm, ý chí, bản lĩnh hành động của con người. Chính niềm tin tạo nên tính tích cực của cá nhân trong quan hệ đối với thế giới bên ngoài. Niềm tin thúc đẩy con người với tư cách là chủ thể hoạt động phù hợp với những quan điểm trong thế giới quan của mình và xác định đúng phương châm hành động cho họ.
c) Lý tưởng
Lý tưởng là mục tiêu cao đẹp được phản ánh vào trong đầu óc con người dưới hình thức một hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống của cá nhân mà cao nhất là có thể sẵn sàng hy sinh quên mình để thực hiện mục tiêu đó. Sự hình thành lý tưởng là trình độ phát triển cao của thế giới quan. Lý tưởng
16
thể hiện sự nhận thức sâu sắc và niềm tin mãnh liệt, là động cơ mạnh nhất thúc đẩy con người hoạt động. Lý tưởng tựa như ngôi sao sáng dẫn đường, chỉ hướng cho con người hoạt động. Ivanốp, nhà tâm lý học người Nga đã viết: “lý tưởng là cái vì nó mà ta sống, dưới ánh sáng của nó ta hiểu được ý nghĩa của cuộc đời”.
Niềm tin, lý tưởng có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó tạo nên ý chí, khát vọng, làm tăng thêm nghị lực, nhiệt tình, quyết tâm của con người để thực hiện mục tiêu, vượt qua khó khăn, thử thách. Với một niềm tin sâu sắc, lý tưởng cao cả, các lãnh tụ của giai cấp vô sản như C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp đấu tranh vì hạnh phúc của con người. Các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh đời mình cho lý tưởng cách mạng. Điều đó làm cho họ trở nên bất tử.
4. Các loại hình thế giới quan
Thế giới quan được phân loại theo hai tiêu chí chủ yếu: theo lịch sử và theo góc độ nhận thức khoa học.
a) Theo lịch sử
Theo tiêu chí này có ba hình thức thế giới quan: huyền thoại, tôn giáo và triết học.
17
- Thế giới quan huyền thoại
Thế giới quan huyền thoại là hình thức thế giới quan đặc trưng của người nguyên thủy, trong giai đoạn sơ khai của lịch sử. Thế giới quan huyền thoại thể hiện qua các huyền thoại mà con người xây dựng nên để phản ánh thế giới hiện thực khách quan. Thế giới quan huyền thoại phản ánh những kết quả cảm nhận ban đầu của người nguyên thủy về tự nhiên, về xã hội. Mỗi dân tộc đều có huyền thoại để giải thích nguồn gốc các hiện tượng tự nhiên xung quanh, như: sấm, chớp, mưa, gió, v.v. và nguồn gốc dân tộc mình. Nhưng không phải mọi huyền thoại đều có thể trở thành thế giới quan. Chỉ những huyền thoại có tính chất hệ thống hóa và thể hiện quan niệm của con người về thế giới tự nhiên, về xã hội, về chính con người mới là thế giới quan.
Ở Việt Nam, truyền thuyết Con Rồng, Cháu Tiên giải thích nguồn gốc cao quý của người Việt. Lạc Long Quân và Âu Cơ kết duyên, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra 100 người con trai, 50 người theo mẹ lên rừng, 50 người theo cha xuống biển sinh sống. Đó chính là cách giải thích của người Việt cổ về nguồn gốc các dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay. Truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh là quan niệm của
18
người Việt xưa về hiện tượng mưa lũ xảy ra vào tháng bảy âm lịch hằng năm tại Bắc Bộ và phản ánh ước mơ chinh phục tự nhiên của con người đ tn ti v pht trin. Thần Trụ Trời của người Việt giải thích sự tồn tại của các sự vật: trời, đất và vì sao trời với đất lại phân đôi; vì sao mặt đất có những chỗ lồi lõm không bằng phẳng, vì sao có biển, có sông, có núi.
Ở Hy Lạp, nhiều thần thoại đã giải thích một số hiện tượng tự nhiên, như: nguồn gốc của thế gii; giải thích về sự ra đời của trái đất, bầu trời, bóng tối, ánh sáng, địa ngục, tình yêu, v.v.. Theo họ, tất cả các sự vật, hiện tượng đó đều do các vị thần cai quản và quyết định.
Trong thần thoi n Đ, mi s vt, hin tưng đu tương ng vi mt v thn, v d: thần tnh yêu, thần mt tri, thần bin, thần hong hôn, thần mây, thần mưa, thần sm, thần chp, v.v..
- Thế giới quan tôn giáo
Thế giới quan tôn giáo là hình thức thế giới quan phản ánh thế giới hiện thực khách quan xung quanh con người một cách hư ảo, là sự giải thích ẹ
thế giới trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo của một ờệ
lực lượng siêu nhiên, thần bí. Thế giới quan tôn ừ
giáo thể hiện niềm tin của con người vào sức mạnh 19
của các lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người. Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu, tín ngưỡng cao hơn tri thức, trí tuệ, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người. Niềm tin tôn giáo được thể hiện qua các hoạt động tôn giáo thể hiện sự sùng bái các lực lượng siêu nhiên.
Thế giới quan tôn giáo ra đời trong điều kiện trình độ nhận thức và lao động sản xuất của con người còn hết sức thấp kém, con người bất lực trước những lực lượng tự nhiên như sấm, sét, bão, lụt, động đất... Bên cạnh đó, con người còn bất lực trước cả những hiện tượng xã hội mà con người gặp phải, như: chiến tranh, áp bức bóc lột, bất công trong xã hội, v.v.. Từ đó, con người thần thánh hóa những sự vật, lực lượng theo mong ước của mình nhằm cứu giúp, che chở cho cuộc sống của mình.
Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào sự tồn tại và sức mạnh vô hạn của thế giới thần thánh, của lực lượng siêu nhiên, con người bất lực và luôn phụ thuộc vào các lực lượng thần thánh đó. Đối với các thần thánh, con người là kẻ cầu xin và phục tùng, chứ không phải là kẻ sáng tạo như trong thần thoại.
20
Thế giới quan tôn giáo là sự thể hiện khát vọng được giải thoát khỏi những khổ đau, được an ủi về mặt tinh thần và vươn tới một thế giới hạnh phúc, thánh thiện, tốt đẹp hơn của con người.
- Thế giới quan triết học
Triết học ra đời khi có sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay, khi khả năng tư duy trừu tượng của con người phát triển.
Khác với thần thoại và tôn giáo, triết học diễn tả những vấn đề của thế giới quan không phải bằng những hình tượng hoặc bằng niềm tin tôn giáo, mà bằng một hệ thống lý luận, thông qua các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Nếu trong thế giới quan thần thoại yếu tố biểu tượng cảm tính, yếu tố niềm tin vào lực lượng siêu tự nhiên đóng vai trò chủ đạo, thì trong thế giới quan triết học, yếu tố tư duy lý luận đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, thế giới quan triết học được thể hiện ở mức độ hiểu biết, khái quát nhất về sự tồn tại của thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Theo nghĩa đó, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Tuy nhiên, không phải triết học nào cũng phản ánh đúng hiện thực khách quan, do vậy, không phải triết học nào cũng là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học.
21
Thế giới quan triết học được phân thành hai hình thức cơ bản: thế giới quan triết học duy tâm và thế giới quan triết học duy vật. Thế giới quan triết học duy vật đưa ra quan niệm về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy trên cơ sở khẳng định thế giới là vật chất, tồn tại khách quan, không do ai sáng tạo ra, con người là chủ thể của thế giới. Ngược lại, thế giới quan triết học duy tâm khẳng định thế giới và con người do một lực lượng tinh thần sáng tạo ra và quyết định.
+ Thế giới quan triết học duy tâm
Trong lịch sử có hai khuynh hướng thế giới quan triết học duy tâm cơ bản là thế giới quan triết học duy tâm khách quan và thế giới quan triết học duy tâm chủ quan.
• Thế giới quan triết học duy tâm khách quan coi sự vật, hiện tượng chỉ là sản phẩm của ý niệm, của tinh thần. Những lực lượng này có trước giới tự nhiên, sinh ra giới tự nhiên, quy định giới tự nhiên.
• Thế giới quan triết học duy tâm chủ quan cho rằng ý thức, tinh thần nằm bên trong con người, chúng có trước và sản sinh ra vạn vật, ra thế giới khách quan.
Ở phương Đông, đại diện cho khuynh hướng này là Nho giáo với quan niệm “thiên mệnh”
22
(mệnh trời). Theo Nho gio, mi sự vật, hiện tượng ếớếọợà
l do tri sinh ra, “vn vt bn h thiên” (vn vt ìứếớếọđu c ngun gc t tri), “Mưu s ti nhân, thnh àếớếọ
s ti thiên”. Phật giáo với quan niệm “vạn pháp duy tâm” (mi s vt, hin tưng đu t tâm mra); “nht thit duy tâm to” (mi ci đu do tâm to ra). Tâm ở đây là thuộc ý thức, tinh thần ở trong con người.
+ Thế giới quan triết học duy vt
Trong lch s, thế giới quan triết học duy vật cng c nhiu hnh thc.
• Thế giới quan triết học duy vật thời cổ đại Thời cổ đại, ở Hy Lạp - La Mã, Trung Quốc, Ấn Độ đã xuất hiện thế giới quan triết học duy vật về giới tự nhiên, về vật chất và ý thức. Triết học duy vật cổ đại thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, đó là những dạng vật chất cụ thể, cảm tính. Ví dụ, Talét cho thế giới vật chất có nguồn gốc từ nước; Hêraclít cho thế giới vật chất có nguồn gốc từ lửa, Đêmôcrít cho thế giới vật chất có nguồn gốc
từ nguyên tử...
ằ
úàả
Ưu điểm của những quan điểm này là lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, thế giới không phụ thuộc vào thần linh hay thượng đế. Tuy nhiên, những lý giải về thế giới còn mang nặng tính trực
23
quan nên những quan niệm về thế giới còn mang tính ngây thơ, chất phác.
• Thế giới quan triết học duy vật thế kỷ XVII-XVIII Thế giới quan triết học duy vật thế kỷ XVII-XVIII thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất. Tuy nhiên, bị ảnh hưởng bởi khoa học thực nghiệm và cơ học cổ điển nên thế giới quan triết học duy vật thời kỳ này mang tính siêu hình, máy móc và những quan điểm của họ về thế giới chưa phản ánh đúng thế giới hiện thực. Ví dụ như, họ không giải thích được vật chất và thuộc tính của nó. Họ cho rằng “óc tiết ra ý thức giống như gan tiết ra mật”.
• Thế giới quan triết học duy vật của L.Phoiơbắc L.Phoiơbắc có quan điểm đúng đắn về sự tồn tại khách quan của giới tự nhiên, độc lập với ý thức, ý chí của con người. Con người là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. L.Phoiơbắc đã nhìn thấy được tính chất sinh động, muôn màu, muôn vẻ, đa dạng của thế giới vật chất - giới tự nhiên, đồng thời, ông cũng thừa nhận rằng, con người bằng các giác quan sẽ nhận thức được thế giới đó. Tuy nhiên, L.Phoiơbắc lại có quan niệm duy tâm về lịch sử, xã hội của con người khi cho rằng có một thứ tôn giáo quy định sự tồn tại của xã hội. Đó là tôn giáo tình yêu.
24
• Thế giới quan triết học duy vt biện chứng Thế giới quan triết học duy vật biện chứng do C.Mc v Ph.Ăngghen sng lp, giải thích đúng đắn về thế giới vật chất và vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học trong thời đại ngày nay. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng giải thích đúng đắn về thế giới vật chất, về con người, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng được hình thành trên cơ sở của các thành tựu khoa học và được minh chứng thông qua lao động sản xuất, ủ
cuộc sống và thực nghiệm khoa học.
b) Theo trình độ nhận thức
Từ tiêu chí này, thế giới quan có thể chia thành: thế giới quan tiền khoa học, thế giới quan phi khoa học và thế giới quan khoa học.
- Thế giới quan tiền khoa học là những quan niệm được hình thành qua những trải nghiệm trong cuộc sống, với trình độ nhận thức còn thấp kém. Những quan điểm này chưa có căn cứ khoa học, đặc biệt là của khoa học tự nhiên nên phản ánh thế giới khách quan xung quanh chưa đầy đủ, chưa chính xác.
25
- Thế giới quan phi khoa học do không dựa trên những hiểu biết khoa học, không phản ánh hiện thực hoặc phản ánh sai lầm hiện thực.
- Thế giới quan khoa học là thế giới quan được hình thành trên cơ sở những hiểu biết một cách đúng đắn, chân thực hiện thực khách quan, dựa trên những thành tựu của khoa học và đã được lao động sản xuất, cuộc sống, thực nghiệm khoa học chứng minh.
26
Phần II
NỘI DUNG CỦA TH GII QUAN TRIT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG
à
1. Th gii quan trit học duy vật biện chứng là th gii quan khoa học
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học trong thời đại ngày nay. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng giải thích đúng đắn về thế giới vật chất, về con người, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng được hình thành trên cơ sở của các thành tựu khoa học và được minh chứng thông qua lao động sản xuất, cuộc sống, thực nghiệm khoa học.
2. Điều kiện cho sự ra đời của th gii quan trit học duy vật biện chứng
* Thế giới quan triết học duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
27
Chính sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã tạo điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự ra đời của thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Bởi lẽ:
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật cho việc thoát khỏi tính chất duy tâm, thần thoại, siêu hình của thế giới quan triết học duy vật biện chứng.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng khẳng định vị thế, vai trò của con người trong chinh phục thiên nhiên, trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Sự phát triển mạnh mẽ của sở hữu tư bản tư nhân chủ nghĩa đã khơi dậy những mặt mạnh vốn có của nó và đồng thời cũng làm bộc lộ rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản; làm nảy sinh nhiều vấn đề về thế giới quan cần trả lời, nhất là những vấn đề về tính chủ động, tích cực, sáng tạo của con người trong quan hệ với thế giới tự nhiên; về nguồn gốc, bản chất con người, về vị trí của con người trong xã hội đương thời, số phận con người, v.v..
- Những điều kiện này thúc đẩy cho sự ra đời của nhiều thế giới quan khác nhau, trong đó có thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Đây cũng chính là một trong những điều kiện thực tiễn xã hội
28
quan trọng thúc đẩy cho sự ra đời của thế giới quan triết học duy vật biện chứng.
* Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho giai cấp vô sản phát triển không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Điều này góp phần làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở châu Âu phát triển hết sức mạnh mẽ. Trong khi đó, nhiều thế giới quan triết học duy tâm, siêu hình, phản khoa học đang tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Trước tình hình này, thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân đòi hỏi phải có một thế giới quan triết học duy vật biện chứng thực sự khoa học, cách mạng làm chỗ dựa cho phong trào công nhân xây dựng cương lĩnh chính trị, đường lối đấu tranh chống giai cấp tư sản, chống chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính điều này là một trong những điều kiện chính trị - xã hội quan trọng thúc đẩy sự ra đời của thế giới quan triết học duy vật biện chứng.
3. Tiền đề cho sự ra đời của th gii quan trit học duy vật biện chứng
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng ra đời có tiền đề khoa học tự nhiên, tiền đề lý luận và tiền đề thuộc về bản thân C.Mác và Ph.Ăngghen.
29
a) Về tiền đề khoa học tự nhiên
Bước sang thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên, nhất là khoa học về thế giới vĩ mô đã có bước phát triển vượt bậc về chất. Tiêu biểu như: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của G.R.Mayơ (1814-1878); Thuyết tiến hóa của S.R.Đácuyn (1809-
1882); Thuyết tế bào của M.G.Sleđen (1804-1892) và T.Svanơ (1810-1882). Những phát minh khoa học này đã chứng minh ba điểm rất quan trọng làm tiền đề khoa học tự nhiên cho sự ra đời của thế giới quan triết học duy vật biện chứng:
Một là, bản thân thế giới tự nhiên tự nó là biện chứng, tự nó luôn tồn tại, vận động, biến đổi, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó, không do ai sáng tạo ra, không do lực lượng siêu nhiên, thần thánh nào điều khiển cả.
Hai là, chính những phát minh khoa học này, một mặt đã chứng tỏ con người là chủ thể tích cực trong mối quan hệ với tự nhiên, là chủ thể quyết định chính số phận của mình. Mặt khác, cung cấp những cơ sở khoa học, luận cứ khoa học để chỉ ra những hạn chế, sai lầm của các loại hình thế giới quan triết học duy tâm, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan huyền thoại, thế giới quan triết học siêu hình.
Ba là, những phát minh khoa học này làm cơ sở khoa học vững chắc để giải thích, luận chứng,
30
chứng minh cho những nội dung của thế giới quan triết học duy vật biện chứng ra đời.
b) Về tiền đề lý luận
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập đã tiếp thu những nội dung khoa học, tiến bộ của thế giới quan duy vật trước đó từ thời cổ đại đến thời kỳ của các ông. Đặc biệt, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những giá trị khoa học, tiến bộ, duy vật trong thế giới quan triết học duy vật nhân bản của nhà triết học người Đức Phoiơbắc, vận dụng thế giới quan triết học duy vật biện chứng để khắc phục thế giới quan triết học duy tâm của nhà triết học duy tâm người Đức Hêghen. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo thế giới quan triết học duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu hình, máy móc, trực quan, không triệt để của nó. Trên cơ sở đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm giàu thế giới quan triết học duy vật của các ông bằng phương pháp biện chứng, còn phương pháp biện chứng được C.Mác và Ph.Ăngghen đặt trên nền thế giới quan duy vật. Đồng thời, cả thế giới quan triết học duy vật, cả phương pháp biện chứng đều được C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển lên một trình độ mới về chất hơn hẳn so với trước đó.
Trong thế giới quan triết học duy vật biện chứng, thế giới quan duy vật là thế giới quan duy
31
vật biện chứng, còn phương pháp biện chứng là phương pháp biện chứng duy vật. Không những vậy, thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen còn là thế giới quan triết học duy vật biện chứng triệt để so với thế giới quan triết học duy vật không triệt để của Phoiơbắc. Được coi là triệt để vì thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan niệm, giải thích một cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự nhiên mà cả xã hội, lịch sử loài người. Điều mà thế giới quan triết học duy vật trước đó, kể cả thế giới quan triết học duy vật của Phoiơbắc không làm được. Rõ ràng, thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen là một hình thức phát triển cao của thế giới quan triết học duy vật. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen cũng hoàn toàn là thế giới quan khoa học, cách mạng.
c) Tiền đề chủ quan thuộc về bản thân C.Mác và Ph.Ăngghen
Sự ra đời của thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen ngoài các điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên, tiền đề lý luận còn có vai trò chủ quan của hai ông.
* C.Mác (Karl Henrich Marx) sinh ngày 5/5/1818, mất ngày 14/3/1883. Ông sinh ra tại Triơ (Trier),
32
tỉnh Ranh, nước Đức trong một gia đình lao động, bố là luật sư. Tỉnh Ranh gần nước Pháp nên chịu sự ảnh hưởng tư tưởng dân chủ cách mạng của Đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789. Điều này đã sớm ảnh hưởng, tác động tích cực đến C.Mác. Ngay từ khi còn nhỏ, đang theo học trung học tại quê nhà, C.Mác đã thể hiện là người thông minh, có tư tưởng dân chủ, có tư duy độc lập và sáng tạo. Đặc biệt, C.Mác được gia đình, cha mẹ giáo dục chu đáo nên ông sớm tiếp thu, thừa hưởng tinh thần nhân đạo, yêu thương con người và yêu tự do từ gia đình. Vì vậy, ông sớm có thái độ lạc quan, yêu đời, có nhân sinh quan tích cực. Ông cũng là người đam mê nghiên cứu khoa học và mơ ước giải phóng người lao động khỏi mọi hình thức nô dịch, bóc lột, áp bức, bất công. Những tố chất, đức tính và phẩm chất ấy ở C.Mác đã góp phần quan trọng trong việc hình thành nên thế giới quan triết học duy vật biện chứng, trong đó có nhân sinh quan lành mạnh, tiến bộ của ông.
* Ph.Ăngghen (Fridric Engels) sinh ngày 28/11/1820 tại Bácmen nước Đức, mất ngày 5/8/1895 tại Luân Đôn, nước Anh. Ông sinh ra trong một gia đình chủ xưởng dệt, nhưng không có cơ hội tốt nghiệp trung học vì ông buộc phải học nghề kinh doanh từ rất sớm. Tuy nhiên, ông chăm chỉ tự học về các khoa học và triết học. Ph.Ăngghen
33
sớm nhận ra bản chất chế độ chuyên chế, độc đoán của nhà nước phong kiến Phổ và căm ghét nó. Ph.Ăngghen sớm có cơ hội tiếp xúc với thực tiễn đời sống giai cấp vô sản Anh, trực tiếp tham gia phong trào Hiến chương Anh và thực tiễn này đã giúp ông thoát khỏi ảnh hưởng thế giới quan triết học thần bí của phái Hêghen trẻ. Hơn nữa, chính những trải nghiệm đời sống thực tiễn ở Anh đã giúp ông hiểu và có cái nhìn khách quan về đời sống xã hội Anh khi ấy; khơi dậy ở ông tinh thần dân chủ cách mạng, quan niệm vô thần, tình yêu thương những người công nhân, sự đồng cảm với cuộc sống của họ. Chính những điều này là cơ sở quan trọng để hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, trong đó có nhân sinh quan lành mạnh, tích cực ở Ph.Ăngghen.
Có thể nói, chính tình yêu thương những người lao động, tinh thần hy sinh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng người lao động, niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, cùng sự thông minh sắc sảo của C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhân tố chủ quan với tư cách là tiền đề chủ quan đóng vai trò quan trọng nhất cho sự hình thành và phát triển của thế giới quan duy vật biện chứng của các ông, nhất là niềm tin của các ông vào những người công nhân.
34
4. V.I. Lênin pht triển th gii quan trit học duy vật biện chứng trong điều kiện mi
a) Hoàn cảnh lịch sử
V.I. Lênin (Vladimir Ilyich Lenin) sinh ngày 22/4/1870 tại thành phố Ximbiếcxcơ, mất ngày 21/1/1924 tại làng Goócki tỉnh Mátxcơva. Ông là người xuất sắc phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện:
Một là, bước vào những năm đầu của thế kỷ XX, khoa học tự nhiên hiện đại đã đạt được những thành tựu mới, đặc biệt là trong vật lý học, đi sâu nghiên cứu thế giới vi mô, khoa học tự nhiên về thế giới vi mô, thế giới điện tử, trường, sóng, hạt, các tia anpha, tia beta, tia gamma, v.v.. Tuy nhiên, các nhà khoa học tự nhiên giỏi trong nghiên cứu tự nhiên nhưng không đứng vững trên thế giới quan triết học duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật nên đã rơi vào thế giới quan triết học duy tâm, không giải thích được những thành tựu khoa học mới.
Hai là, về chính trị - xã hội, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa có nhiều biểu hiện mới khó nhận thức, nhưng bản chất ăn bám, bóc lột của nó không thay đổi. Chủ nghĩa đế quốc, một mặt, làm cho chủ nghĩa tư bản tăng thêm
35
sức mạnh kinh tế, quân sự nhưng mặt khác đã làm lộ rõ hơn bản chất bóc lột, ăn bám của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện mới. Chính chủ nghĩa đế quốc cũng không chỉ làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản mà còn làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với các dân tộc chính quốc thêm gay gắt, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Tình hình mới này đòi hỏi phải biết vận dụng thế giới quan triết học duy vật biện chứng vào luận giải những vấn đề mới của chủ nghĩa đế quốc, vào xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực và đấu tranh chống các loại thế giới quan duy tâm, siêu hình.
Ba là, đây là thời kỳ bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga Xôviết với bao khó khăn về chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Xôviết non trẻ, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân lao động, v.v..
Đối với nước Nga, vào hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX, phong trào cách mạng trở nên mạnh mẽ hơn bất cứ nước nào ở châu Âu. Ví dụ như Cách mạng dân chủ tư sản 1905-1907, Cách mạng tư sản tháng Hai năm 1917 và đỉnh cao là Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười năm 1917. Tuy nhiên, ở nước Nga khi ấy cũng xuất hiện một số thế giới quan triết học duy tâm, siêu hình, không khoa học
36
nhằm chống lại thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen. Điển hình là thế giới quan triết học duy tâm chủ quan của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (chủ nghĩa Makhơ); chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại; chủ nghĩa thực dụng; chủ nghĩa dân túy Nga, muốn thay thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen bằng thế giới quan duy tâm, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan phản khoa học. Trước tình hình đó, V.I. Lênin với tài năng, bản lĩnh, trí tuệ của mình đã khái quát thành tựu khoa học tự nhiên, tổng kết phong trào công nhân Nga và phong trào công nhân quốc tế, nghiên cứu lý luận, bổ sung, phát triển thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới.
b) Nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng được V.I. Lênin bổ sung, phát triển V.I. Lênin không chỉ xuất sắc đấu tranh chống lại thế giới quan triết học duy tâm chủ quan của chủ nghĩa dân túy Nga, chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (chủ nghĩa Makhơ), các loại thế giới quan phản khoa học, không tiến bộ, sai lầm khác bảo vệ sự đúng đắn, tính khoa học của thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen mà còn bổ sung, phát triển thế giới quan triết học duy vật biện chứng này. Những nội
37
dung cơ bản của thế giới quan triết học duy vật biện chứng được V.I. Lênin bổ sung như sau: Một là, khắc phục những hạn chế của thế giới quan triết học duy vật thế kỷ trước, do yêu cầu cấp bách V.I. Lênin phải đưa ra được định nghĩa về vật chất để chống lại phái Makhơ - đang phủ định phạm trù vật chất với tư cách hòn đá tảng của thế giới quan triết học duy vật biện chứng, đã đưa ra định nghĩa phạm trù vật chất1 để bổ sung vào quan niệm duy vật của thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Trước đây, do chưa có nhu cầu cấp bách, hơn nữa C.Mác và Ph.Ăngghen còn phải lãnh đạo phong trào công nhân, nghiên cứu những vấn đề kinh tế, chủ nghĩa xã hội khoa học và triết học khác cấp bách hơn nên các ông chưa đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất. Hai là, đấu tranh chống thế giới quan triết học duy vật siêu hình, V.I. Lênin đã có nhiều bổ sung về phương pháp biện chứng duy vật trong thế giới quan triết học duy vật biện chứng, làm cho thế giới quan triết học duy vật biện chứng trở nên hoàn bị hơn, triệt để hơn, khoa học hơn.
Ba là, V.I. Lênin có nhiều bổ sung về lý luận nhận thức duy vật biện chứng của triết học Mác
1. Xem V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t.18, tr.151.
38
để củng cố thêm tính khoa học, duy vật của thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen. V.I. Lênin bổ sung cụ thể thêm ba nguyên tắc lý luận nhận thức duy vật biện chứng:
- Thừa nhận sự vật khách quan tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức con người và loài người. Có nghĩa là chúng ta công nhận thế giới tự nhiên là tồn tại khách quan, dù chúng ta có nhìn thấy nó hay không, chúng ta có nhận thức được nó hay không thì nó vẫn tồn tại tự nó theo những quy luật riêng của nó.
- Cảm giác, tri giác, ý thức của con người nói chung là hình ảnh chủ quan của chúng ta về thế giới khách quan. Con người có khả năng nhận thức được sự vật. Do vậy, theo V.I. Lênin “Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã được nhận thức và cái chưa được nhận thức”1. Nghĩa là con người có khả năng nhận thức được thế giới. Thế hệ này chưa nhận thức được thì các thế hệ sau sẽ nhận thức được. Thế hệ sau không nhận thức được thì thế hệ sau nữa sẽ nhận thức được. Con người ở đây được hiểu là loài người, là nhân loại chứ không phải cá nhân một con người cụ thể. Bởi lẽ, mỗi con người cá nhân cụ
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.117.
39
thể thì nhận thức là có hạn, nghĩa là mỗi chúng ta không thể biết được tất cả mọi thứ.
- Nhận thức là một quá trình biện chứng và chính lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học, là tiêu chuẩn để kiểm tra kết quả nhận thức đúng hay sai. Trong nhận thức con người sẽ đi từ cái chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, cứ như vậy không có giới hạn cuối cùng. Trong quá trình nhận thức này thì lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học hay nói khác đi chính là cuộc sống thực tế, chính quá trình sản xuất vật chất, quá trình đấu tranh chính trị - xã hội hay thực nghiệm khoa học là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định kết quả nhận thức này đúng, kết quả nhận thức kia sai. Ví dụ như, tranh cãi nhau xem nhôm là kim loại có dẫn điện không thì chỉ có cách là đấu điện vào dây nhôm, nếu dây nhôm dẫn điện thì khẳng định được nhôm dẫn điện.
Bốn là, V.I. Lênin cũng có nhiều bổ sung trong quan niệm duy vật về lĩnh vực đời sống lịch sử, xã hội để củng cố thêm cho thế giới quan triết học duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen, làm cho thế giới quan triết học duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen triệt để hơn, hoàn bị hơn.
40
5. Đặc trưng của th gii quan trit học duy vật biện chứng
Thứ nhất, thế giới quan triết học duy vật biện chứng giải quyết đúng đắn cơ sở tồn tại và bản chất của thế giới.
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng khẳng định:
- Thế giới là vật chất. Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Ngoài thế giới vật chất không còn thế giới nào khác. Nếu có cũng chỉ là sự tồn tại khác của vật chất mà thôi. Đó là các dạng “sóng”, “điện từ trường sinh học”, “dạng vật chất vi mô, siêu vi mô”...
- Vật chất tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Vật chất vô cùng, vô tận cả về đại vĩ mô và siêu vi mô. Có những dạng vật chất con người có thể nhận thức được thông qua các giác quan, nhưng cũng có những dạng vật chất con người không nhận thức được thông qua các giác quan, chúng vẫn tồn tại.
- Trong lịch sử, khi khoa học chưa phát triển, Đêmôcrít - nhà triết học Hy Lạp cổ đại tin rằng nguyên tử là dạng vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được nữa. Đến thế kỷ XVI-XVII, các nhà khoa học, triết học vẫn tin điều đó là đúng. Tuy nhiên, vào năm 1895, Rơnghen (Wilhelm Conrad Röntgen) phát hiện ra tia X (tia Rơnghen);
41
năm 1896, Béccơren (Antoine Henri Becquerel) phát hiện ra hiện tượng phóng xạ; năm 1897, Thomson (J.J.Thomson) phát hiện ra điện tử (e) - một thành phần cấu tạo nên nguyên tử,... Những phát minh này đã chứng tỏ nguyên tử không phải là dạng vật chất nhỏ nhất, không bất biến và có cấu trúc phức tạp. Điều này đã bác bỏ những quan niệm không đúng về vật chất, làm thay đổi căn bản thế giới quan của con người.
- Không thể sáng tạo, không thể tiêu diệt được vật chất. Vật chất không mất đi, nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác.
- Phương thức, hình thức tồn tại của vật chất là vận động, không gian và thời gian.
- Những tư tưởng về vật chất của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của khoa học thời bấy giờ.
Thứ hai, thế giới quan triết học duy vật biện chứng là thế giới quan triết học duy vật triệt để. Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm sáng tỏ mối quan hệ giữa sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, đời sống vật chất và ý thức của con người. Như vậy, thế giới quan triết học duy vật biện chứng không chỉ duy vật, biện chứng, khoa học trong giải thích giới tự nhiên mà cả trong giải thích xã hội, lịch sử, tinh thần của con người.
42
Thứ ba, thế giới quan triết học duy vật biện chứng có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
Trong thế giới quan triết học duy vật biện chứng, các nguyên lý, phạm trù, quy luật của chủ nghĩa duy vật cũng đồng thời là những nguyên tắc, phương pháp luận hướng dẫn cho hoạt động của con người tạo nên một lý luận thống nhất. Trong đó, thế giới quan duy vật là thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng là biện chứng duy vật. Sự kết hợp này đã làm cho thế giới quan duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen trở thành một hệ thống, một chỉnh thể thống nhất chặt chẽ: thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng, thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, thống nhất giữa lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp là phương pháp biện chứng duy vật, thống nhất giữa phép biện chứng, nhận thức luận và lôgíc học.
Thứ tư, thế giới quan triết học duy vật biện chứng có sự thống nhất giữa tính khoa học, tính cách mạng và tính thực tiễn. Chính sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đã được xây dựng trên những tiền đề kinh tế - xã hội, từ thực tế cuộc sống, từ những nhận thức tiên tiến của nhân loại và dựa trên sự phản ánh khái quát đúng đắn,
43
sâu sắc những tư liệu do khoa học và thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học đem lại. Thế giới quan duy vật biện chứng thừa nhận sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học, coi thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học là cơ sở, là tiền đề của lý luận. Theo thế giới quan duy vật biện chứng không có cái gì là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Sự vật khi tồn tại đã bao hàm khả năng phủ định, bị thay thế. Cái mới, cái tiến bộ hơn sẽ xuất hiện và chiến thắng tạo nên sự phát triển không ngừng của sự vật, hiện tượng và của thế giới. Thế giới quan duy vật biện chứng khi khẳng định sự tất thắng của cái mới đã mang tinh thần lạc quan cách mạng. Đồng thời, nó còn thể hiện tính tích cực khi không coi những thành tựu lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng là đã hoàn thiện, là bất khả xâm phạm mà phải luôn bổ sung, phát triển nó trên cơ sở sự phát triển của nhận thức, của khoa học và của thực tiễn. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng do vậy đã phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, khẳng định khả năng và vai trò to lớn của con người trong thế giới, giúp con người hình thành mục đích, phương hướng, biện pháp để tác động vào thế giới.
44
6. Th gii quan trit học duy vật biện chứng có quan niệm đúng đắn về vật cht
Thời kỳ cổ đại, các nhà triết học duy vật quy vật chất là một dạng cụ thể nào đó của thế giới vật chất. Căn cứ vào đó họ giải thích sự tồn tại, vận động, biến đổi của thế giới nói chung. Các nhà triết học Hy Lạp như Talét cho rằng vật chất là nước, Hêraclít cho rằng vật chất là lửa, Anaximen cho rằng vật chất là không khí... Trường phái Ngũ hành ở Trung Quốc cho rằng có năm yếu tố là: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là khởi nguyên của thế giới. Ở Ấn Độ, trường phái Lokayata, Charơvác cho rằng đất, nước, lửa, không khí là khởi nguyên của thế giới.
Không dừng lại ở việc quy vật chất về một dạng cụ thể, nhất định, Anaximandrơ - nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng: “Apeiron” là vật chất của thế giới, là cơ sở của mọi vật trong vũ trụ nói chung. “Apeiron” là một dạng vật chất vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn. Quan niệm này cố gắng thoát ly cách nhìn trực quan về vật chất, muốn tìm bản chất sâu xa sau các hiện tượng cảm tính. Nhưng do hạn chế lịch sử nên quan niệm này mới dừng lại ở tính thô mộc, tự phát.
Bước tiến quan trọng nhất trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học cổ đại là thuyết nguyên tử của Lơxíp, Đêmôcrít và Êpiquya.
45
Các nhà triết học này cho rằng, nguyên tử cấu thành nên vật, vật chất là nguyên tử. Nguyên tử là hạt vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được nữa, có trong mọi dạng vật chất, có nhiều hình dạng khác nhau. Các sự vật khác nhau do hình dạng khác nhau của nguyên tử tạo thành. Mặc dù quan niệm này không đúng, nhưng đây là học thuyết thể hiện tư duy trừu tượng, khái quát cao, là những phỏng đoán thiên tài về cấu tạo của vật chất, đồng thời đặt nền móng cho chủ nghĩa duy vật sau này phát triển hơn nữa.
Đến thế kỷ XVII-XVIII, các nhà triết học duy vật như Đềcáctơ, Brunô, Bêcơn, Niutơn, Spinoza... đặc biệt là triết học Pháp như Hônbách, Điđrô, Rútxô, Lametơri... quan niệm về vật chất dựa trên cơ sở phân chia thế giới thành từng đối tượng, lĩnh vực riêng biệt để nghiên cứu, từ đó dẫn đến đồng nhất vật chất với từng đối tượng, lĩnh vực riêng biệt đó. Họ cho rằng, vật chất là khối lượng, năng lượng, quảng tính... Đềcáctơ cho rằng, vật chất là cái gì đó có quảng tính, vật chất là nguồn gốc của mọi sự vật, vật chất là vô tận và vĩnh viễn...
Thuyết nguyên tử thời cổ đại vẫn được các nhà triết học duy vật thời kỳ này tiếp tục phát triển. Thậm chí các nhà triết học duy vật vẫn đồng nhất nguyên tử với vật chất. Coi nguyên tử là viên gạch cuối cùng xây dựng nên lâu đài thế giới vật chất.
46
Niutơn coi khối lượng của vật chất là đặc trưng bất biến. Nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất không phân chia được, trong lòng nó không có gì xảy ra. Không gian - thời gian - vận động là những thực thể khác nhau cùng tồn tại mà không có quan hệ nội tại. Tính tất yếu khách quan của hiện thực là tính tất yếu của các định luật cơ học.
Tuy vậy, thời kỳ này, nhiều quan niệm của các nhà duy vật đã làm rõ hơn những thuộc tính của vật chất. Hônbách cho rằng, vật chất là tất cả những gì và bằng cách nào đó tác động vào tư duy của chúng ta, tồn tại bên ngoài khi tác động vào giác quan thì gây ra cảm giác. Vật chất có vận động là thuộc tính cơ bản, nhưng ông cho rằng đó là vận động cơ học.
Ưu điểm lớn nhất trong quan niệm về vật chất của các nhà duy vật thế kỷ XVII-XVIII là quan niệm về vật chất dựa trên cơ sở phân tích thế giới vật chất, chứng minh sự tồn tại khách quan của vật chất. Mặc dù vậy, do ảnh hưởng bởi cơ học cổ điển nên quan niệm của các nhà triết học duy vật thời kỳ này vẫn còn mang tính siêu hình, cơ giới, tách rời vật chất và các thuộc tính của nó.
Chủ nghĩa Mác ra đời giữa thế kỷ XIX, tiếp thu những thành tựu vĩ đại của khoa học tự nhiên và những tư tưởng tiến bộ lịch sử loài người từ thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức, đã thống nhất
47
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tạo thành chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cho triết học thực sự trở thành một khoa học. Vì vậy, chủ nghĩa duy vật mácxít là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học. Tính khoa học của chủ nghĩa Mác biểu hiện trước hết ở quan điểm về vật chất.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những giá trị tích cực, đồng thời vạch ra những hạn chế trong quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước đó, đồng thời các ông đã tổng kết những thành tựu của khoa học hiện đại, khái quát thành một quan niệm khoa học về vật chất. Các ông nêu lên quan niệm về sự đối lập giữa vật chất và ý thức, về tính thống nhất vật chất thế giới, về những dạng tồn tại cụ thể của nó. Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng cần phân biệt tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không tồn tại cảm tính. Khác với các đối tượng vật chất cụ thể, những từ như “vật chất” và “vận động” chỉ là những sự tóm tắt, trong đó chúng ta tập hợp theo những thuộc tính chung của chúng rất nhiều sự vật khác nhau có thể cảm nhận được bằng các giác quan. Phương thức, hình thức tồn tại của vật chất, sự tồn tại của vật chất dưới dạng cụ thể, nêu lên tính vô hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được của
48
vật chất và các hình thức tồn tại của nó tức là vận động, không gian, thời gian.
Ph.Ăngghen phê phán quan điểm đem quy vật chất về nguyên tử, về những hạt nhỏ đồng nhất, hoàn toàn giống nhau về chất, chỉ khác nhau về số lượng. Ông coi quan niệm đó là siêu hình, mang tính cơ giới. Qua đó, Ph.Ăngghen đã nêu lên tính vô hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được của vật chất và các hình thức tồn tại của nó là vận động, không gian và thời gian. Tuy C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất, nhưng những tư tưởng về vật chất của các ông đã có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của khoa học thời bấy giờ. Nó là cơ sở trực tiếp để V.I. Lênin phát triển học thuyết duy vật biện chứng về vật chất sau này.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên. Nó đánh dấu bằng một loạt những phát minh quan trọng, nhất là trong lĩnh vực vật lý học hiện đại, đặc biệt là vật lý học vi mô đã có những phát hiện mới về cấu trúc của vật chất.
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X có nguồn gốc từ nguyên tử, đó là tia có bước sóng cực ngắn vào khoảng 100 - 0,01A0 (1A0 = 10-8 cm), vậy tia X có phải là vật chất không? vì nó gần như không có khối lượng.
49
Năm 1896, Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Uranium có nguyên nhân bên trong là do tính không bền vững của nguyên tử gây ra. Chứng tỏ nguyên tử không phải là bất biến.
Năm 1897, Thomsơn phát hiện ra điện tử, phát minh đó chứng tỏ nguyên tử có thể phân chia và có thể chuyển hóa.
Năm 1901, Kauphman bằng thực nghiệm đã chứng minh khối lượng điện tử tăng khi vận tốc tăng. Chứng tỏ khối lượng không phải là bất biến.
Menđêlêép phát hiện ra bảng hệ thống tuần hoàn với hơn 90 nguyên tố (nguyên tử), ngoài ra còn dự đoán các nhân tố mới, và chứng tỏ các nguyên tố hóa học có thể chuyển hóa cho nhau.
Có thể so sánh về khoa học tự nhiên thế kỷ XVIII-XIX với thế kỷ XX như sau:
Thế kỷ XVIII-XIX Thế kỷ XX
1- Mức vi mô của vật chất là nguyên tử
1- Mức vi mô của vật chất là hạt cơ bản và đang tiến sâu vào mức độ siêu vi mô (Nghiên cứu các hạt vi mô: Nguyên tử 10-8cm, hạt cơ bản 10-33cm... xảy ra trong khoảng 10-5 - 10-25 giây.
50
Th kỷ XVIII-XIX Th kỷ XX
2- Nguyên tử không thể có cấu trúc
3- Các nhân tố hóa học là bất biến
4- Vật chất chỉ có dạng chất
5- Chủ yếu hiểu về thế giới vật chất vĩ mô
6- Bức tranh chung là cơ học - điện tử
2- Nguyên tử có cấu trúc phức tạp gồm hạt nhân và điện tử và còn nhỏ hơn nữa 3- Các nhân tố hóa học có
thể chuyển hóa cho nhau 4- Vật chất có nhiều dạng: chất, trường sóng và có thể chuyển hóa
5- Hiểu thế giới vật chất hai phía: đại vĩ mô và siêu vi mô
6- Bức tranh tương đối - lượng tử
Những phát minh của các nhà khoa học, nhất là vật lý học trong đó có vật lý vi mô đã chứng ếế
minh vật chất có cấu trúc phức tạp, không bất biến, khối lượng vật chất có thể thay đổi. Điều đó đã chứng tỏ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất mà C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất là hoàn toàn đúng đắn.
Trước những phát minh khoa học, quan niệm vật chất của các nhà triết học duy vật thế kỷ XVII XVIII không giải thích được. Từ đó dẫn đến cuộc
51
khủng hoảng thế giới quan của các nhà triết học và khoa học tự nhiên, đòi hỏi có quan niệm mới về vật chất.
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo đã lợi dụng sự bế tắc và hoang mang của các nhà khoa học, để xuyên tạc chống lại chủ nghĩa duy vật, tuyên truyền quan điểm duy tâm. Chẳng hạn họ tuyên bố vật chất “tiêu tan”, vật chất “biến mất”... khiến cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình đến chủ nghĩa tương đối, hoài nghi và cuối cùng rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Tiêu biểu như chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán ở Đức và Áo với đại biểu Makhơ, Avenariut, Poanhcare...
V.I. Lênin đã chỉ ra thực chất của cuộc khủng hoảng là khủng hoảng về thế giới quan mà nguyên nhân nằm ngay trong bước nhảy vọt của nhận thức con người từ thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô. Cách khắc phục là các nhà khoa học tự nhiên phải nắm vững nguyên lý, tinh thần duy vật biện chứng của vật lý học nói riêng và khoa học tự nhiên nói chung. Trong bối cảnh đó tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của V.I. Lênin ra đời đáp ứng đòi hỏi lịch sử nói trên. Trong tác
52
phẩm này, V.I. Lênin khẳng định vật chất không “tiêu tan”, “biến mất”, không bị tiêu diệt, cái bị tiêu diệt chính là giới hạn hiểu biết trước đây của chúng ta về vật chất. Trong tác phẩm, V.I. Lênin đưa ra một định nghĩa kinh điển về phạm trù vật chất, nhằm chống lại chủ nghĩa duy tâm, khắc phục cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên, phát triển triết học Mác.
Trên cơ sở đó, V.I. Lênin phát triển học thuyết duy vật biện chứng và đưa ra định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1.
Định nghĩa trên gồm ba nội dung quan trọng: Thứ nhất, vật chất là một phạm trù triết học khái quát những thuộc tính chung của các sự vật, không phải thuật ngữ để chỉ những sự vật cụ thể, nhất định (như: nước, lửa, không khí, cái bàn, cái ghế...).
Trong quá trình phản ánh thế giới, con người đã khái quát, thâu tóm những thuộc tính chung của một nhóm đối tượng vật chất nhất định và
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.151.
53
biểu đạt những thuộc tính chung ấy trong một định nghĩa, khái niệm, phạm trù nhất định. Mức độ khái quát đầu tiên là định nghĩa. Ví dụ: cây thông là loài cây có lá kim.
Mức độ khái quát cao hơn là khái niệm. Ví dụ: thực vật là loài có xenlulôzơ (thực vật rộng hơn loài thông, bất kỳ thực vật nào cũng có xenlulôzơ).
Mức độ khái quát cao hơn là phạm trù. Ví dụ: giới tự nhiên hữu sinh là dạng vật chất có tế bào (bao gồm cả động vật và thực vật).
Mức độ khái quát cao nhất là phạm trù triết học. Ví dụ: giới tự nhiên là phạm trù chỉ toàn bộ thế giới vật chất, có cùng các thành phần hóa học trong cấu tạo (bao gồm cả giới tự nhiên hữu sinh và giới tự nhiên vô sinh).
Theo đó, phạm trù triết học là phạm trù rộng nhất, chung nhất, và khái quát nhất, thâu tóm đặc tính chung nhất của mọi đối tượng vật chất. Vì vậy, không thể quy vật chất về một dạng cụ thể duy nhất nào đó. Mỗi dạng vật chất cụ thể chỉ có một hoặc một số thuộc tính chung với các dạng vật chất khác mà thôi. Các đối tượng vật chất cụ thể đều có giới hạn, có sinh ra, biến đổi và chuyển hóa thành cái khác, còn vật chất nói chung thì vô hạn và vô tận, không sinh ra và mất đi.
54
Trong các phạm trù triết học thì phạm trù vật chất là phạm trù rộng nhất, bao quát nhất. Vì thế giới là vật chất, không có gì khác ngoài vật chất, ngay cả ý thức, tinh thần, v.v. cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống, có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt là bộ óc người.
Thứ hai, phạm trù vật chất khái quát thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất, phổ biến nhất của mọi dạng tồn tại cụ thể là thực tại khách quan, tức là vật chất tồn tại thực và khách quan - không lệ thuộc vào cảm giác (ý thức) của con người. Ví dụ như, trái đất, ngôi sao, điện tử, nước, lửa, không khí, ánh sáng... tồn tại thực và không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Con người có tồn tại hay không tồn tại, có biết hay không biết thì chúng vẫn tồn tại tự thân.
Như vậy, thực tại khách quan là tiêu chuẩn cần và đủ để phân biệt cái gì thuộc về vật chất. Điều này cũng nói lên rằng, thực tại khách quan là thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất của vật chất.
Ngày nay, khoa học đã khám phá những bí mật của thế giới vật chất, càng phát hiện thêm những dạng hạt, phản hạt, các loại trường với những kết cấu và thuộc tính mới lạ đối với con người. Điều đó thể hiện sự tồn tại khách quan của thế giới vật
55
chất với tính đa dạng của nó. Khoa học ngày càng phát triển, càng khẳng định quan niệm duy vật biện chứng về vật chất là đúng đắn, và do đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành thế giới quan và phương pháp luận của các khoa học hiện đại, kể cả trong điều kiện đổi mới tư duy hiện nay.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã bao quát toàn bộ hiện thực - cả tự nhiên và cả trong xã hội. Đời sống xã hội, trong đó có con người cũng là những dạng vật chất tồn tại khách quan và biến đổi theo những quy luật vật chất. Sự hình thành, biến đổi và mất đi của những thực thể nhất định, sự sống, cái chết của con người trong xã hội cũng nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Nói cách khác, cuộc sống của con người không có số mệnh, không có năm xung, tháng hạn, không có sự chi phối của đấng thần linh như các nhà duy tâm quan niệm.
Thứ ba, vật chất có trước, cảm giác, ý thức của con người có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức. Ý thức là kết quả phản ánh những thuộc tính vật chất vào trong bộ óc con người. Ví dụ như, một sự vật xuất hiện trước mắt chúng ta, chúng ta nhìn ngắm, nghiên cứu nó, chúng ta mới có hiểu biết về hình dáng, màu sắc, tính chất của nó. Như vậy,
56
vật đó có trước, còn hình ảnh về nó trong đầu óc chúng ta là cái có sau, chỉ là kết quả của quá trình phản ánh thông qua các giác quan của con người. Không có sự vật đó thì không có hình ảnh (cảm giác, ý thức) về nó.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải đáp duy vật khoa học vấn đề cơ bản của triết học. Đó là mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và khả năng nhận thức thế giới của con người. Định nghĩa cũng chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan và khách quan khi cho rằng: ý thức, tinh thần có trước; chống lại thuyết không thể biết (cho rằng con người không thể nhận biết được thế giới, hoặc nếu có chỉ là bề ngoài, hiện tượng mà thôi). Định nghĩa này khẳng định con người hoàn toàn có thể hiểu biết được thế giới, thông qua quá trình phản ánh. Từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp 1 đến bản chất cấp 2 (n) và không có giới hạn nào của nhận thức. Nhận thức của cá nhân thì hữu hạn, nhưng nhận thức của con người thì vô hạn. Về nguyên tắc, không có cái con người không thể biết, chỉ có cái con người chưa biết mà thôi.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin có ý nghĩa quan trọng:
- Khắc phục được thiếu sót của chủ nghĩa duy vật cũ về vật chất.
57
- Chống lại cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan.
- Chống lại thuyết không thể biết.
Định nghĩa này cũng phát triển quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất, ý thức, các thuộc tính vật chất và tạo cơ sở cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã hội.
Định nghĩa cũng khắc phục cuộc khủng hoảng vật lý, khắc phục tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, chủ nghĩa duy vật cổ đại và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII, cổ vũ các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra ngày càng nhiều những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng làm phong phú tri thức của con người về thế giới.
Vật lý học hiện đại ngày càng đi sâu nghiên cứu thế giới vi mô, vĩ mô và các thiên thể lớn trong vũ trụ. Thành quả của nó đã chỉ ra sự thống nhất giữa thế giới từ vi mô đến vĩ mô, từ các sự vật trên trái đất đến các thiên thể, các thiên hà trong toàn vũ trụ.
Phát minh khoa học của Bútlêrốp (1828-1886) về cấu tạo các hợp chất hữu cơ đa phân tử và kết quả tổng hợp các chất hữu cơ từ các chất vô cơ đã
58
khẳng định sự thống nhất giữa thế giới hữu cơ và thế giới vô cơ, giữa thế giới vô sinh và thế giới hữu sinh.
Ngày nay sinh học đã đạt được nhiều thành tựu trong nghiên cứu về gen di truyền nên đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực sinh học. Con người có khả năng dựa vào quy luật sinh học để tạo ra được nhiều loài giống cây trồng, vật nuôi có những thuộc tính mới theo nhu cầu của mình. Điều đó càng khẳng định chắc chắn tính thống nhất vật chất của thế giới giữa thực vật và động vật, giữa các giống loài, giữa giới vô sinh và giới hữu sinh.
Những kết quả nghiên cứu của con người về não, về hệ thần kinh, ngày càng làm rõ nguồn gốc vật chất của hiện tượng tinh thần. Đồng thời những kết quả của nó góp phần giúp cho kỹ thuật tự động hóa, điều khiển học phát triển làm tăng khả năng hoạt động thực tiễn của con người.
Xã hội loài người là cấp độ cao nhất của các tổ chức vật chất, cấp độ đặc biệt của tổ chức vật chất, của sự sống trên trái đất. Nhân tố cơ bản của hoạt động xã hội là những con người có ý thức, song đời sống xã hội vẫn có tính khách quan. Các quan hệ vật chất vẫn là cơ sở tồn tại của toàn bộ đời sống
59
xã hội. Như vậy, tính thống nhất của thế giới ngày càng được các thành tựu của khoa học khẳng định một cách rõ ràng. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhận định trước đây của Ph.Ăngghen.
Ngày nay, khoa học tự nhiên phát hiện ra vô vàn những thuộc tính mới của vật chất đã chứng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vật chất là đúng đắn và ngày càng mở rộng thêm khả năng nhận thức thế giới của con người. Kết quả nghiên cứu của nhà khoa học được trao giải Nobel Vật lý năm 2019 cho thấy, chúng ta chỉ mới biết được 5% của vũ trụ với các vật chất tạo nên các hành tinh, ngôi sao, cây cối và con người. Phần còn lại là vật chất tối chiếm 25% và năng lượng tối chiếm 70%. Đây là một bí ẩn và là một thách thức đối với vật lý hiện đại và tiếp tục mở ra khả năng nhận thức thế giới của con người.
7. Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng cho thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngoài thế giới vật chất này không có thế giới nào khác. Khoa học đã chứng minh,
60
không có thế giới thần linh, ma quỷ nào khác ngoài thế giới vật chất. Nếu có thế giới khác, đó cũng là tồn tại khác của vật chất mà thôi: sóng, trường, lượng tử...
Thứ hai, thế giới vật chất tồn tại khách quan tự nó, có trước và độc lập với ý thức con người. Vì trước khi con người sinh ra thế giới vật chất đã tồn tại. Thế giới vật chất vận động theo những quy luật của vật chất, không cần tuân theo ý muốn của con người.
Thứ ba, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ vật chất với nhau. Con người chúng ta cũng đang có mối liên hệ vật chất với giới tự nhiên vô cơ. Hằng ngày, con người phải dùng đồ ăn, thức uống từ tự nhiên để bổ sung những vi chất cho cơ thể mình. Thiếu những thứ đó con người không thể tồn tại được.
Thứ tư, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, không sinh ra, không mất đi, chỉ chuyển hóa lẫn ếớấấ
nhau. Vật chất vô hạn và vô tận cả về đại vĩ mô và siêu vi mô, không có cái gì nhỏ nhất và chẳng có cái gì lớn nhất.
Thứ năm, ý thức tinh thần cũng chỉ là thuộc tính của bộ óc người - một dạng vật chất sống, đặc biệt có tổ chức cao, do đó cũng bị chi phối bởi quy luật của thế giới vật chất.
61
Khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới để khẳng định sự tồn tại của thế giới là khách quan. Thế giới vật chất và con người là quá trình tiến hóa lâu dài, không do một đấng thần linh nào tạo ra. Thế giới vật chất đã biến đổi theo những quy luật của vật chất, không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Sự sống, chết của con người cũng tuân theo những quy luật vật chất ấy. Khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới góp phần xây dựng quan điểm vô thần khoa học, định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người.
8. Thế giới vật chất vận động và biến đổi không ngừng
Thế giới quan triết học duy vật biện chứng khẳng định thế giới vật chất vận động biến đổi không ngừng. Quan niệm này đối lập với quan điểm duy tâm cho rằng có một lực lượng tinh thần tạo ra sự vận động, chi phối mọi sự vật. Quan điểm duy vật siêu hình lại tìm đến “cái hích đầu tiên của thượng đế” thì vật chất mới vận động.
Theo thế giới quan triết học duy vật biện chứng, vận động là vận động của vật chất, vật chất tự vận động, vật chất biểu hiện sự tồn tại thông qua vận động, không có vận động tách rời vật chất.
62
a) Định nghĩa
Ở thế kỷ XIX, dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên, Ph.Ăngghen đã phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và đưa ra định nghĩa khái quát nhất về vận động. Ông cho rằng, vận động bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
Vận động của vật chất là sự tác động qua lại giữa các yếu tố, bộ phận khác nhau trong một sự vật hay giữa các sự vật với nhau. Ví dụ như, cây thay đổi hằng ngày là do sự trao đổi chất liên tục với môi trường bên ngoài, với thế giới vật chất
ếớấế
vô cơ.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất. Nghĩa là vận động gắn liền với vật chất, không tách rời vật chất. Thông qua vận động mà vật chất biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại của mình. Do đó, muốn nhận thức được sự vật phải nhận thức nó trong quá trình vận động. Ví dụ như, con người chỉ sống được nếu các bộ phận của cơ thể vận động, liên hệ, có sự trao đổi chất với môi trường bên ngoài. Thông qua vận động con người cũng thay đổi cả về hình thức bên ngoài đến chức năng bên trong của cơ thể.
63
b) Các hình thức vận động cơ bản của vật chất Mặc dù thế giới vật chất có vô vàn sự tồn tại khác nhau và do vậy cũng có vô số các hình thức vận động cụ thể. Nhưng theo Ph.Ăngghen, thế
giới vật chất có năm hình thức vận động cơ bản: - Vận động cơ học là sự thay đổi, dịch chuyển vị trí của các sự vật trong không gian. Ví dụ, sự di chuyển của ô tô từ điểm A đến điểm B trong không gian.
- Vận động vật lý là sự vận động của các hạt cơ bản, của các điện tử, của từ trường và các điện từ trường. Ví dụ, khi ta nung nóng một đầu thanh sắt thì sự truyền nhiệt diễn ra làm đầu thành sắt kia bị nóng.
- Vận động hóa học là sự hóa hợp hay phân giải của các chất. Ví dụ, phản ứng hóa học diễn ra sự ăn mòn khi axít tác động vào kim loại.
- Vận động sinh học là sự trao đổi chất của cơ thể sống với môi trường, là quá trình sinh trưởng, tiến hóa của các loài. Ví dụ, sự trao đổi chất của cơ thể động vật với môi trường.
- Vận động xã hội là quá trình tương tác giữa các cá nhân theo những phương thức khác nhau nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Vận động xã hội được xem là hình thức vận động cao nhất vì xã hội là một dạng vật chất đặc biệt, là bộ phận
64
đặc thù của tự nhiên. Xã hội đồng thời cũng là một hình thức tổ chức cao nhất và phức tạp nhất trong thế giới khách quan. Sự vận động của xã hội được nhận thức một cách khoa học bằng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác.
c) Các hình thức vận động đều tuân thủ các nguyên tắc sau đây
Các hình thức vận động không tách rời nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau. Các hình thức vận động cao bao giờ cũng nảy sinh từ các hình thức vận động thấp. Trong các hình thức vận động cao, các vận động thấp không bị triệt tiêu. Hình thức vận động cao bao giờ cũng bao hàm các hình thức vận động thấp. Cụ thể là, vận động vật lý nảy sinh từ vận động cơ học và bao hàm vận động cơ học; vận động hóa học nảy sinh từ vận động vật lý và bao hàm vận động vật lý... Ví dụ như, người nguyên thủy đã biết đánh lửa từ việc dùng một cành cây dùi vào thân cây khác. Đây là việc chuyển hóa từ cơ học sang vật lý.
Mặc dù ở mỗi loại sự vật có thể cùng tồn tại nhiều hình thức vận động khác nhau nhưng sự vật nào cũng chỉ có một hình thức vận động đặc trưng, thường là hình thức vận động cao nhất của sự vật. Vì vậy, không thể xem hình thức vận động
65
đặc trưng của sự vật này là hình thức vận động đặc trưng của sự vật khác. Ví dụ như, ở đối tượng vật chất vô cơ có thể đó là vận động vật lý, hóa học. Nhưng ở xã hội loài người thì có hình thức vận động cơ bản đấu tranh giai cấp để giải quyết những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chứ không phải là đấu tranh sinh tồn như các loài động vật.
d) Vận động và đứng im
Đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Ví dụ như, một người nằm ngủ thì họ chỉ dừng cử động tay chân, nhưng cơ thể con người đó vẫn đang vận động về mặt sinh - lý để chuyển hóa nội tiết tố trong cơ thể họ. Do vậy, sự đứng im này chỉ là tương đối, chỉ được xác định trong một quan hệ cụ thể nào đó ở một hình thức vận động nhất định mà thôi.
Đứng im là một trạng thái, trong đó, sự vật chưa thay đổi căn bản về chất, nó còn là nó, chưa chuyển thành cái khác có nghĩa là không đứng im tuyệt đối, ngay lúc đứng im sự vật vẫn đang vận động. Sự vận động đó đang làm thay đổi về chất, nhưng chưa thay đổi chất căn bản, mới chỉ thay đổi chất không cơ bản. Khi đó sự vật chưa thay đổi thành cái khác.
66
Ví dụ như, sau một đêm ngủ, các tế bào cơ thể đã thay đổi, sự lão hóa đã thực hiện nhưng con người chưa già đi ngay. Sự già đi phải là quá trình lâu dài từ sự thay đổi căn bản, chủ yếu của tế bào, sự lão hóa chiếm xu thế chủ yếu. Vì vậy, ở một trạng thái đứng im, sự vật vẫn vận động nhưng chưa trở thành cái khác.
Trong mối quan hệ giữa vận động và đứng im thì vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Vì ngay trong lúc đứng im sự vật vẫn vận động nhưng ở hình thức khác, không có sự vật nào đứng im tuyệt đối. Ví dụ như, khi con người ngồi im một chỗ thì cơ thể con người vẫn làm việc, con người vẫn vận động cùng trái đất xoay quanh mặt trời với tốc độ rất lớn. Theo đó, đứng im chỉ là tương đối mà thôi. Đứng im và vận động tạo thành mâu thuẫn biện chứng của sự vận động.
9. Không gian và thời gian là hình thức tồn ti của vật cht
a) Không gian là hình thức tồn tại của vật chất, biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt cũng như trật tự phân bố của các sự vật. Không có vật chất nào không tồn tại ở một không gian nhất định và không có không gian nào tách rời khỏi vật chất, không gian là không gian của vật chất.
67
Trong không gian Ơcơlít (Euclid), vật chất được xem xét ở tính ba chiều: dài, rộng, cao (không gian ba chiều, không gian thực). Cần lưu ý phân biệt khái niệm không gian ba chiều với “không gian đa chiều” - một khái niệm khoa học tự nhiên dùng để chỉ tập hợp một số đại lượng đặc trưng cho các thuộc tính khác nhau của khách thể nghiên cứu và tuân theo những quy tắc biến đổi nhất định. Đó là một công cụ toán học hỗ trợ dùng trong quá trình nghiên cứu chứ không phải để chỉ không gian thực.
b) Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của các quá trình, biểu diễn trình tự xuất hiện, mất đi của sự vật (quá khứ, hiện tại, tương lai). Do vậy, thời gian cũng là thời gian của sự vật.
Ví dụ như, khi nói thời gian sinh tồn của một cây nào đó là 30 năm thì “30 năm” không phải là thời gian theo nghĩa triết học mà đó là đại lượng dùng để đo thời gian. Thời gian vật chất của cây đó là nói về quá trình thay đổi từ khi hạt nảy mầm cho đến khi trưởng thành, ra hoa, kết quả và chết đi. Người ta có thể dùng bất kỳ đại lượng nào để đo sự sinh trưởng cũng không làm ngắn lại hay kéo dài sự tồn tại của cây đó.
68
c) Không gian và thời gian có các thuộc tính - Tính khách quan: Không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất, gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do vậy, không gian và thời gian của vật chất cũng tồn tại khách quan.
- Tính vĩnh cửu và vô tận: Nghĩa là, không gian và thời gian, không có tận cùng về một phía nào, xét cả về quá khứ và tương lai, cả về phía trước và phía sau, cả về bên trên và bên dưới, cả về bên phải và bên trái. Vật chất vô cùng, vô tận, vĩnh viễn. Do vậy, không gian và thời gian của vật chất cũng vô cùng, vô tận, vĩnh viễn.
10. Th gii quan trit học duy vật biện chứng có quan niệm đúng đắn về nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một trong những vấn đề phức tạp của triết học, là một trong những nội dung của cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Nhờ những thành tựu của khoa học trong các thời kỳ lịch sử và của hoạt động thực tiễn xã hội mà vấn đề này ngày càng được làm sáng tỏ.
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc lập, siêu tự nhiên, không phụ thuộc
69
vào vật chất, có trước vật chất và sáng tạo ra thế giới vật chất. Ở các học thuyết triết học duy tâm khác nhau, quan niệm về ý thức cũng không hoàn toàn giống nhau. Nhưng sự giống nhau của các học thuyết này là ở chỗ đều coi ý thức là điểm xuất phát, sinh ra giới tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã chỉ ra mối liên hệ khăng khít giữa ý thức với vật chất, không thừa nhận tính siêu tự nhiên của ý thức và khẳng định ý thức có nguồn gốc từ vật chất. Nhiều nhà khoa học trước Mác đã có đóng góp đáng kể trong việc chứng minh sự phụ thuộc của ý thức vào vật chất.
Trường phái Lokayata của Ấn Độ cổ đại, một trường phái duy vật đã cho rằng không có linh hồn bất tử. Linh hồn hay ý thức chỉ là một thuộc tính của cơ thể. Ý thức của con người do vật chất tạo ra. Vật chất sinh ra ý thức giống như gạo được nấu thành rượu. Nhưng rượu lại có thể làm người ta say, đó là thuộc tính mà gạo không có. Cách giải thích này thô sơ, giản đơn nhưng cũng đã cho người ta hình dung được nguồn gốc của ý thức và sự khác biệt của ý thức đối với vật chất.
Các nhà triết học duy vật cổ Hy Lạp đều quan niệm ý thức không thể tách rời vật chất, Hêraclít
70
cho ý thức (linh hồn) là trạng thái quá độ của lửa. Đêmôcrít cho ý thức cũng là nguyên tử, nhưng là những nguyên tử hình cầu. Song, do trình độ khoa học đương thời nên họ đã không giải thích đúng đắn nguồn gốc và bản chất của ý thức. Chẳng hạn, tại sao vật chất lại sinh ra ý thức; vật chất có năng lực cảm giác nảy sinh và phát triển từ vật chất không có năng lực cảm giác như thế nào...? Vì vậy, một số nhà duy vật đã không hiểu sự khác biệt cơ bản của ý thức đối với vật chất và đã coi ý thức là một dạng của vật chất. Có người còn quan niệm một cách đơn giản, họ cho rằng ý thức, tư tưởng do bộ óc con người sinh ra tương tự như gan tiết ra mật, như dịch vị do tuyến vị sinh ra... Hiểu như vậy sẽ dẫn đến sự lẫn lộn giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Một số nhà duy vật khác lại cho rằng ý thức là thuộc tính phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Theo họ, mọi đối tượng vật chất sống đều có ý thức.
Theo thế giới quan triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
a) Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu khoa học, nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất,
71
nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Chính bộ óc người và thuộc tính phản ánh của thế giới vật chất là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
- Bộ óc người là một dạng vật chất sống đặc biệt, là cơ quan vật chất của ý thức. Bộ óc người (có hàng tỉ tế bào thần kinh); các tế bào thần kinh liên hệ với nhau và với các giác quan, làm cơ sở cho quá trình phản ánh thế giới của con người. Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trên cơ sở của hoạt động sinh lý thần kinh trong bộ óc người.
- Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại và tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác khi hai hệ thống vật chất đó tác động lẫn nhau. Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát triển từ thấp lên cao, từ phản ánh vật lý, phản ánh hóa học của giới tự nhiên vô cơ đến tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ không điều kiện, phản xạ có điều kiện (tâm lý), phản ánh ý thức.
Phản ánh ý thức của con người là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Nó là thuộc tính của một dạng vật chất đặc biệt, có tổ
72
chức cao là bộ óc người. Như vậy, bộ óc người và sự tác động của thế giới khách quan lên bộ óc là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b) Nguồn gốc xã hội
Theo thế giới quan triết học duy vật biện chứng, lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức.
- Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ các nhu cầu của con người. Tuy nhiên, trong quá trình lao động, con người làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, từ đó con người nhận thức và có tri thức về nó. Con người càng tác động vào sự vật bao nhiêu thì khả năng con người hiểu biết được các thuộc tính của vật chất ngày càng phong phú hơn, do đó tri thức về sự vật ngày càng đầy đủ. Ví dụ như, khi lao động sản xuất nông nghiệp, người ta biết được tính chất, thuộc tính của từng loại đất, từ đó người ta biết chế tạo ra các công cụ lao động phù hợp, trồng loại cây phù hợp cho năng suất, hiệu quả cao hơn.
- Ngôn ngữ được hình thành trong quá trình lao động của con người, xuất phát từ nhu cầu trao đổi kinh nghiệm lao động với nhau. Trong quá
73
trình lao động, do nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và phối hợp hoạt động với nhau, người ta thấy cần phải trao đổi, từ đó xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ lúc đầu rất giản đơn, đó có thể chỉ là ký hiệu, quy ước về cử chỉ, ngữ điệu cơ thể, về sau ngôn ngữ ký hiệu, ngôn ngữ nói, chữ viết ra đời làm cho khả năng trao đổi kinh nghiệm, phối hợp hoạt động ngày càng trở nên dễ dàng và phong phú.
Hệ thống ngôn ngữ dùng để biểu đạt những hiểu biết của con người về thuộc tính của sự vật, của ý nghĩa hành động, nên không có lao động không thể có ngôn ngữ. Lao động càng phức tạp, sâu sắc thì ngôn ngữ càng hoàn thiện. Ngôn ngữ ra đời thúc đẩy tư duy trừu tượng phát triển, nhờ đó ý thức hình thành và phát triển.
Ví dụ như, cây hồi, cây quế, cây trầm hương đều có mùi thơm, nhưng ba mùi thơm khác nhau nên ngôn ngữ (tên gọi) phải khác nhau để phân biệt thuộc tính của từng loại cây đó. Thời kỳ cổ đại, khả năng con người có hạn nên người nguyên thủy săn bắt. Khi con người chế tạo ra cung tên thì hoạt động săn bắn mới xuất hiện.
Như vậy, lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển của ý thức con người.
74
11. Th gii quan trit học duy vật biện chứng có quan niệm đúng đắn về bản cht của ý thức
a) Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nghĩa là ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan trong bộ óc người trên cơ sở thực tiễn, do thực tiễn quy định.
Là hình ảnh chủ quan bởi lẽ, sự hiểu biết của mỗi con người tùy thuộc vào phương thức, đối tượng, nội dung, năng lực phản ánh... của mỗi chủ thể. Do vậy, sự hiểu biết đầy đủ, sống động, phong phú, giàu cảm xúc phụ thuộc nhiều vào nhân tố chủ quan. Tất nhiên, tính đúng đắn của tri thức được chủ thể phản ánh không phụ thuộc vào chủ thể mà phụ thuộc vào đối tượng phản ánh, mang tính khách quan.
Ví dụ như, nhìn một sự vật, có người cho là đẹp, nhưng có người lại cho là không đẹp; người thấy được giá trị, người lại không thấy giá trị; người thấy được thuộc tính bên trong, người lại chỉ thấy hình thức bề ngoài mà thôi.
Ý thức là hình ảnh của sự vật được “di chuyển” vào trong bộ óc con người và được cải biến ở trong đó. Do vậy, ý thức không phải là hình ảnh vật lý, đó là hình ảnh tinh thần. Theo đó, ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
75
b) Phản ánh ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động. Trên cơ sở hoạt động lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học, con người chủ động tác động vào sự vật, hiện tượng làm cho chúng bộc lộ thuộc tính, tính chất, qua đó con người phản ánh và có hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Hơn nữa, con người còn biết vận dụng tri thức để cải tạo sự vật.
Ví dụ như, khi con người biết cây cao su có thể cho mủ để phục vụ nhu cầu của con người, con người chủ động nghiên cứu nó, trồng để cạo mủ, không chờ ngẫu nhiên như trước đó.
c) Ý thức có tính sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất đa dạng.
Thứ nhất, trên cơ sở những hiểu biết có trước, ý thức của con người có thể tạo ra sự hiểu biết mới về sự vật. Ví dụ, trên cơ sở những cấu trúc vật chất hiện có mà con người biết, con người có thể tạo ra cấu trúc vật chất mới với khả năng liên kết bền vững hơn, nhiều tính năng hơn. Con người có thể tạo ra kim cương nhân tạo phục vụ cho cuộc sống của mình.
Thứ hai, trên cơ sở những hiểu biết đã có, ý thức của con người có thể dự báo tương lai, khuynh hướng vận động của sự vật (dự báo thời tiết...).
76
Ví dụ, khi biết được tốc độ gió của cơn bão và điều kiện khí hậu, áp suất nơi cơn bão đang tồn tại, con người có thể dự báo được hướng đi của bão để kịp thời phòng tránh.
Tính sáng tạo của ý thức dựa trên cơ sở sáng tạo của các hình thức phản ánh. Cùng một đối tượng phản ánh, mỗi chủ thể có phương thức phản ánh khác nhau sẽ thu nhận được sự hiểu biết khác nhau. Phản ánh thụ động sẽ cho hiểu biết thụ động, phản ánh tích cực, chủ động, sáng tạo sẽ cho những hiểu biết mới, sáng tạo.
Ví dụ như, cùng nghe một thầy giáo giảng bài, nhưng khả năng lĩnh hội tri thức, hiểu biết của mỗi người rất khác nhau. Có người nghe hào hứng, chủ động, có người nghe hời hợt, ép buộc. Vì thế, sự hiểu biết của mỗi người có được sẽ khác nhau. Khả năng tư duy, phong cách giảng đổi mới, sáng tạo của người thầy cũng sẽ thúc đẩy khả năng tư duy của người học để hình thành những hiểu biết mới.
12. Kt cu của ý thức
Là hiện tượng tâm lý - xã hội, ý thức bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với hữu cơ. Tuỳ theo cách tiếp cận, có thể phân chia kết cấu ý thức ở những góc độ khác nhau.
77
a) Theo chiều ngang, có thể xem ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức (sự hiểu biết), niềm tin, tình cảm, ý chí.
- Tri thức (sự hiểu biết) là yếu tố cơ bản, cốt lõi nhất của ý thức. Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau (như: tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người...) và có nhiều cấp độ khác nhau (tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học...).
Muốn cải tạo thế giới, con người phải có sự hiểu biết về thế giới, tức là phải có tri thức về đối tượng cải tạo. Bởi vậy, mọi hiện tượng của ý thức đều có nội dung tri thức ở những mức độ khác nhau. Quá trình hình thành và phát triển ý thức cũng chính là quá trình con người tìm kiếm, tích lũy tri thức về thế giới. Càng hiểu biết về sự vật thì ý thức về sự vật càng sâu sắc.
- Niềm tin là trạng thái cảm xúc của chủ thể về những tri thức, hiểu biết thu nhận được trong quá trình phản ánh thế giới. Do khả năng nhận thức của chủ thể bị ngăn cản bởi nhiều yếu tố, như khả năng phản ánh, hiểu biết của chủ thể, sự bộc lộ các thuộc tính của đối tượng phản ánh... Nên mức độ
78