🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thủ Tục Truy Cứu Trách Nhiệm Hình Sự Đối Với Pháp Nhân Thương Mại Và Những Vấn Đề Đặt Ra Khi Thi Hành Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (Hiện Hành) Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: ThS. VĂN THỊ THANH HƯƠNG TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. TRẦN QUỐC THẮNG NGUYỄN THỊ PHƯƠNG ANH BÙI BỘI THU Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: ĐẶNG THU CHỈNH HOÀNG MINH TÁM PHƯƠNG ANH VIỆT HÀ Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/22-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5373-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020. Mã số ISBN: 978-604-57-6117-5. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Nguyễn Ngọc Chí Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại và những vấn đề đặt ra khi thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự (hiện hành) : Sách chuyên khảo / Nguyễn Ngọc Chí ch.b. - H : Chính trị Quốc gia, 2019. - 396tr. ; 21cm 1. Pháp luật 2. Bộ luật tố tụng hình sự 3. Trách nhiệm hình sự 4. Pháp nhân 5. Thương mại 6. Việt Nam 7. Sách chuyên khảo 345.5970268 - dc23 CTF0449p-CIP LỜI NHÀ XUẤT BẢN Lần đầu tiên ở Việt Nam trách nhiệm hình sự và thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; qua đó đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với hoạt động tố tụng tiến hành giải quyết vụ án mà pháp nhân thương mại bị buộc tội. Cuốn sách chuyên khảo Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại và những vấn đề đặt ra khi thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự (hiện hành) do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí làm chủ biên, phân tích các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội như khái niệm, phạm vi áp dụng, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng giới thiệu các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân một số nước trên thế giới và cách thức triển khai áp dụng quy định. Trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị để xử lý các vấn đề đặt ra khi thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo đảm xử lý đúng đắn 5 vụ án, cũng như góp phần đấu tranh hiệu quả phòng, chống tội phạm. Cuốn sách bao gồm các bài viết được lựa chọn trong Hội thảo khoa học “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân và những vấn đề đặt ra khi triển khai thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và các giảng viên Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Duy Tân Đà Nẵng, Trường Đại học Luật thuộc Đại học Huế, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội,... Cuốn sách là tài liệu tham khảo có giá trị đối với bạn đọc trong việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định pháp luật hết sức quan trọng này để phục vụ công tác nghiên cứu, xây dựng và thực thi pháp luật tố tụng hình sự; đồng thời là tài liệu phục vụ việc giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo luật ở nước ta. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 10 năm 2019 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6 V LỜI NÓI ĐẦU iệc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân là xu hướng của thời đại, luật hình sự nhiều quốc gia trên thế giới quy định pháp nhân là chủ thể tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự với các hình phạt tương ứng, phù hợp với đặc điểm của pháp nhân trong quá trình thực hiện tội phạm. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 lần đầu tiên quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Đây có thể được xem là điểm đổi mới nổi bật, mang tính đột phá trong chính sách hình sự của nước ta, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, giải quyết những khó khăn, bất cập trong việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật của pháp nhân thương mại, đồng thời, tạo điều kiện tốt hơn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại do các hành vi vi phạm của pháp nhân thương mại gây ra. Các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được quy định tập trung tại Chương XI Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 gồm 16 điều (từ Điều 74 đến Điều 89) và trong một số điều khoản chung của Bộ luật Hình sự. Việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại đặt ra yêu cầu phải có quy định về thủ tục tố tụng đối với pháp nhân thương mại trong quá trình giải quyết 7 vụ án hình sự. Nói cách khác, để bảo đảm cho việc thực thi các quy định của Bộ luật Hình sự về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung một chương mới (Chương XXIX - Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân) gồm 16 điều (từ Điều 431 đến Điều 446) quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân thương mại dựa trên nguyên tắc: “Thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này” (Điều 431 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Vì vậy, ngoài quy định chung, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn có các quy định đặc thù đối với pháp nhân thương mại bị buộc tội khi tiến hành tố tụng giải quyết vụ án ở Chương XXIX về các nội dung: thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với pháp nhân thương mại; người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng; biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với pháp nhân thương mại trong quá trình giải quyết vụ án; những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội; thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội... Nếu như trước khi quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, bắt đầu cách đây trên dưới 20 năm thì các nghiên cứu về thủ tục tố tụng đối với pháp nhân rất ít ỏi, nếu không 8 muốn nói là đang ở vạch xuất phát. Trong điều kiện đó, sự nỗ lực của các tác giả tham gia biên soạn cuốn sách này đã bước đầu giải mã được một số nội dung trọng yếu của thủ tục tố tụng đối với pháp nhân thương mại bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án, đó là: Thứ nhất, về cơ sở của việc quy định thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân, các nghiên cứu đã chỉ ra định hướng cải cách tư pháp; yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, pháp nhân; yêu cầu của hội nhập quốc tế và thực tiễn đấu tranh xử lý tội phạm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng... Những cơ sở này là nền tảng hình thành quy định trách nhiệm hình sự pháp nhân và thủ tục tố tụng giải quyết vụ án đối với pháp nhân trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Thứ hai, nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là phương châm định hướng cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được quy định tại Chương II của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không chỉ được quán triệt cho các hoạt động của các chủ thể tố tụng hình sự, của cá nhân mà còn đối với cả pháp nhân thương mại tham gia vụ án hình sự. Các nghiên cứu đã chỉ ra nhóm nguyên tắc trực tiếp quy định áp dụng đối với pháp nhân, như nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật... đồng thời cũng khẳng định tất cả các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đều được áp dụng đối với pháp nhân thương mại trong quá trình 9 giải quyết vụ án dựa trên đặc điểm và trong giới hạn quy định của pháp luật. Thứ ba, sự thay đổi chủ thể của tội phạm không chỉ là cá nhân mà còn là pháp nhân trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 dẫn đến sự thay đổi của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho phù hợp. Vì vậy, khái niệm bị can, bị cáo không chỉ được hiểu là cá nhân (thể nhân) mà gồm cả pháp nhân nên Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự và quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này (khoản 1 Điều 60). Các nghiên cứu bước đầu đã làm rõ, chỉ ra các đặc điểm, phạm vi của quy định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội để khắc phục vướng mắc trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của họ và phù hợp với thực tiễn tố tụng xử lý trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Thứ tư, các biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được các tác giả đề cập, phân tích đặc điểm của các biện pháp này so với các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với cá nhân. Thông qua đó, làm rõ tính chất của biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân trong quá trình giải quyết vụ án. Thứ năm, một vấn đề được các tác giả quan tâm là đối tượng chứng minh đối với vụ án pháp nhân bị buộc tội. Trên cơ sở tham khảo Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, các nghiên cứu đã phân tích yếu tố đặc thù đối 10 với pháp nhân về các vấn đề cần phải được chứng minh khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử đối với pháp nhân bị buộc tội: có tội phạm xảy ra hay không; thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự; lỗi của pháp nhân và của cá nhân là thành viên của pháp nhân đó; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết khác liên quan đến miễn hình phạt; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Thứ sáu, đặc điểm của thủ tục khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với pháp nhân được các tác giả nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Về cơ bản, thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định đặc thù dựa trên các đặc điểm của pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, những quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng được áp dụng nếu không trái với các quy định riêng biệt cho pháp nhân bị cáo buộc phạm tội của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Thứ bảy, các giới thiệu và kiến nghị kinh nghiệm thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân ở một số nước trên thế giới cũng là nội dung được sự quan tâm của các nhà khoa học, các tác giả trong cuốn sách này. Các bài viết có phạm vi bao trùm, với các quốc gia tiêu biểu ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Đại Dương... đã chỉ ra bản chất, đặc điểm của thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân ở 11 các quốc gia được nghiên cứu và những kinh nghiệm mà Việt Nam có thể chia sẻ, tiếp thu trong quá trình triển khai Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Những nội dung về thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân thương mại bị buộc tội nêu trên thể hiện khá đa dạng, cung cấp các ý tưởng khoa học mới, hy vọng sẽ nhận được sự quan tâm của bạn đọc. Cuốn sách chuyên khảo Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại và những vấn đề đặt ra khi thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự (hiện hành) được biên soạn trên cơ sở Hội thảo: “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân và những vấn đề đặt ra khi triển khai thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” do Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Đại học Duy Tân Đà Nẵng tổ chức tại thành phố Đà Nẵng vào tháng 12 năm 2017. Chúng tôi chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Ban Giám hiệu Trường Đại học Duy Tân Đà Nẵng, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, thầy cô giáo và các bạn sinh viên của các cơ sở đào tạo luật đã tham gia tích cực vào Hội thảo và quá trình biên soạn cuốn sách này. Rất mong nhận được các đóng góp của bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn. Chủ biên PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ 12 THỦ TỤC TỐ TỤNG TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí* Lần đầu tiên luật tố tụng hình sự (tố tụng hình sự) Việt Nam quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự (trách nhiệm hình sự) đối với pháp nhân thương mại, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 dành một chương (Chương XXIX) quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại làm cơ sở pháp lý cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án đối với pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội và tạo điều kiện để pháp nhân thương mại và người tham gia tố tụng khác bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng. Mặt khác, việc quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân _____________ * Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ pháp lý (LERES). 13 thương mại là một bảo đảm để giải quyết vụ án khách quan, công bằng, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội. Việc xuất hiện các quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại không phải ngẫu nhiên mà mang tính tất yếu do kết quả của các nguyên nhân, điều kiện của sự phát triển kinh tế, xã hội, pháp lý; là thực tiễn vận hành của cơ chế đấu tranh, xử lý phòng ngừa tội phạm cũng như quy luật hình thành, chiều hướng và xu thế phát triển tội phạm trong điều kiện hiện nay. Do đó, các quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 xuất phát từ quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. 1. Quy định của luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân là cơ sở cho các quy định thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự Luật hình sự nhiều quốc gia trên thế giới quy định pháp nhân là chủ thể tội phạm, là chủ thể của trách nhiệm hình sự cách đây trên dưới một thế kỷ với các hình phạt tương ứng, phù hợp với đặc điểm của pháp 14 nhân trong quá trình thực hiện tội phạm1. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua lần đầu tiên quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Đây có thể được xem là điểm mới nổi bật, mang tính đột phá trong chính sách hình sự nước ta, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, giải quyết những khó khăn, bất cập trong việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật của pháp nhân thương mại, đồng thời, tạo điều kiện tốt hơn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại do các hành vi vi phạm của pháp nhân thương mại gây ra. Có thể nói: “cùng với vai trò thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, ngày càng nhiều hành vi vi phạm đặc biệt nghiêm trọng của pháp nhân được thực hiện, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, đe dọa cuộc sống an lành của người dân” nhưng “quy định của pháp luật hiện hành, khi pháp nhân là các doanh nghiệp có hành vi vi phạm thì chỉ có thể áp dụng biện pháp xử phạt hành chính hoặc buộc pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra theo quy định của pháp luật dân sự” nên “cứ tiếp tục duy trì chính sách hình sự chỉ xử lý cá nhân người phạm tội như hiện nay, thì chúng ta mới chỉ xử lý đến cá nhân người trực tiếp điều hành doanh nghiệp mà _____________ 1. Xem PGS.TS. Trịnh Quốc Toản: Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. 15 chưa xử lý những ông chủ thật sự - người được hưởng lợi chính từ những hành vi vi phạm của doanh nghiệp”1. Vì vậy, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là tất yếu, đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững nền kinh tế đất nước, đòi hỏi của nguyên tắc bình đẳng trong chính sách hình sự của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng như thể hiện được tinh thần hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được quy định tập trung tại Chương XI Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 gồm 16 điều (từ Điều 74 đến Điều 89) và trong một số điều khoản chung của Bộ luật Hình sự. Theo đó: (i) Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn đầy đủ 04 điều kiện: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp nhận của pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân; chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; (ii) Pháp nhân thương mại có thể bị áp dụng chế tài gồm 03 hình phạt chính: Phạt tiền (Điều 77), Đình chỉ hoạt động có thời hạn (Điều 78), Đình chỉ hoạt động _____________ 1. TS. Trần Văn Dũng, chuyên đề: “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và những vấn đề cần quan tâm khi xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015”, Hội thảo khoa học triển khai thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ Tư pháp, 2016. 16 vĩnh viễn (Điều 79); 03 hình phạt bổ sung: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định (Điều 80), Cấm huy động vốn (Điều 81), Phạt tiền khi không là hình phạt chính (Điều 77) và 05 biện pháp tư pháp (tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra (Điều 82). Ngoài ra, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định khác không trái với quy định của Chương XI của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì pháp nhân thương mại không chỉ là chủ thể của trách nhiệm hình sự mà còn là chủ thể của tội phạm thông qua quy định về khái niệm tội phạm: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà 17 theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” (Điều 8). Tinh thần này được thể hiện trong tất cả các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về pháp nhân thương mại phạm tội cũng như trong quy định nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017), theo đó: mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, một số chuyên gia pháp luật hình sự lại cho rằng, pháp nhân không thể là chủ thể của tội phạm do không có “lý trí” và “ý chí” khi thực hiện tội phạm như thể nhân và do đó không thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm, nhất là dấu hiệu về lỗi, về năng lực hành vi. “Các nghị quyết của pháp nhân chỉ là kết quả của con số cộng các ý chí cá nhân thành viên chứ không phải từ sự mong muốn của chính bản thân pháp nhân. 18 Do vậy, không thể quy kết hành vi của pháp nhân xuất phát từ ý chí và lý trí của chính pháp nhân mà là ý chí của những con người cụ thể. Khi pháp nhân không thể tự mình thực hiện hành vi thì không thể nói là pháp nhân có lỗi, vì lỗi luôn luôn đi liền với hành vi cụ thể”1. Do đó, khi pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cao đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì chỉ có thể là chủ thể của (chịu) trách nhiệm hình sự chứ không thể là chủ thể của tội phạm. Pháp nhân là chủ thể tội phạm hay chủ thể của trách nhiệm hình sự dẫn đến những quan niệm khác nhau và cách đối xử khác nhau khi áp dụng chính sách hình sự cũng như trong việc thiết kế xây dựng luật hình sự. Trên cơ sở tiếp cận pháp nhân thương mại là chủ thể tội phạm, các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 tạo ra “cảm giác” có hai bộ luật ở cùng một bộ luật, trong đó một bộ luật quy định về cá nhân phạm tội và một bộ luật quy định về pháp nhân phạm tội, đồng thời quy định một số chế tài dường như của cá nhân phạm tội được áp dụng cho pháp nhân... GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa có cùng quan điểm pháp nhân chỉ là chủ thể của trách nhiệm hình sự nên khái niệm tội phạm trong luật hình sự không có gì thay _____________ 1. Phạm Hoài Nam: Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân - nhìn từ dấu hiệu “lỗi” theo luật hình sự, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, 2012. 19 đổi, khi bổ sung trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân và việc bổ sung này chẳng qua chỉ là sự mở rộng phạm vi chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm1. Do vậy, nếu quan niệm pháp nhân là chủ thể của trách nhiệm hình sự chứ không phải là chủ thể tội phạm sẽ khắc phục được “cảm giác” hai trong một nêu trên và những mâu thuẫn của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, như gán các khách thể tội phạm cho pháp nhân không thể xâm hại hoặc phải xác định dấu hiệu lỗi của pháp nhân khi phạm tội. Trong quá trình nghiên cứu, đang còn có những quan điểm khác nhau về việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, chẳng hạn: Tại sao chỉ quy định pháp nhân thương mại mới là chủ thể của tội phạm? Nội hàm pháp nhân thương mại là gì? Có lỗi của pháp nhân khi thực hiện tội phạm không? Nếu có lỗi thì được xem xét là lỗi của một nhóm người hay của cá nhân trực tiếp? Giữa các pháp nhân có đồng phạm không? Hoặc có xảy ra đồng phạm giữa pháp nhân và cá nhân không? Nếu có thì thuộc hình thức đồng phạm nào? Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm của pháp nhân thương mại được xem xét như thế nào khi xác định trách nhiệm hình sự của pháp nhân _____________ 1. Xem Nguyễn Ngọc Hòa: Khái niệm tội phạm và việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, Tạp chí Luật học, số 2/2016, tr.3-13. 20 thương mại? Hình phạt quy định áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội đã phù hợp và thể hiện tính nghiêm khắc của chế tài hình sự chưa? Có khác gì với chế tài hành chính không? Những vấn đề nêu trên sẽ được tiếp tục nghiên cứu để có câu trả lời thỏa đáng trong tương lai, nhưng hiện tại Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm, là chủ thể của trách nhiệm hình sự và những quy định này đòi hỏi phải có quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Để bảo đảm thực thi các quy định của Bộ luật Hình sự về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định một chương hoàn toàn mới (Chương XXIX) gồm 16 điều (từ Điều 431 đến Điều 446) về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân thương mại. Như vậy, quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là cơ sở để hình thành các quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm đối với pháp nhân thương mại, đồng thời những quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại làm cho trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được chứng minh, phán quyết và trở thành hiện thực trong thực tiễn. Nói cách khác, đây là mối quan hệ biện chứng, qua lại giữa luật nội dung và luật hình thức trong lĩnh vực tư pháp hình sự. “Bộ luật Hình sự là đạo luật 21 quy định về tội phạm và hình phạt, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cách thức xử lý tội phạm”1. Do đó, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng phải quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại để bảo đảm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, không làm oan cho pháp nhân thương mại và cũng không để lọt tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền của pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội. Ngoài ra, quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn được dựa trên các định hướng của cải cách tư pháp; yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, pháp nhân; yêu cầu của hội nhập quốc tế và thực tiễn đấu tranh xử lý tội phạm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng... Những cơ sở này là nền tảng hình thành quy định trách nhiệm hình sự pháp nhân và thủ tục tố tụng giải quyết vụ án đối với pháp nhân trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử _____________ 1. Nguyễn Hòa Bình: Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.35. 22 vụ án. Chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới đã có sự phát triển mang tính đột phá mà một trong những nội dung là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ cần phải áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại thông qua thủ tục tố tụng minh bạch, rõ ràng, khách quan, dân chủ, không oan, sai và cũng không bỏ lọt tội phạm. Như vậy, cơ sở của việc quy định thủ tục tố tụng đối với pháp nhân thương mại xuất phát từ yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và thực tiễn đấu tranh xử lý tội phạm. Những cơ sở này là nền tảng hình thành quy định trách nhiệm hình sự pháp nhân thương mại và thủ tục tố tụng giải quyết vụ án đối với pháp nhân thương mại trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án vụ án. Nhận xét về thủ tục tố tụng đối với pháp nhân của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình đánh giá: “Nội dung đổi mới có tính đột phá trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện trong Bộ luật Hình sự năm 2015 là áp dụng trách 23 nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Đáp ứng đổi mới này, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung Chương XXIX với 16 điều luật quy định cụ thể thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân”1. 2. Đặc điểm thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân là thẩm quyền, thủ tục, thời hạn khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, thi hành án áp dụng cho quá trình giải quyết vụ án là pháp nhân được quy định trong luật tố tụng hình sự thể hiện tính chất, đặc điểm của pháp nhân khi tham gia tố tụng. Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được quy định tại Chương XXIX với 16 điều luật tập trung vào 09 nội dung: Phạm vi áp dụng thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân; người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng; quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ; các biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội; chứng cứ và những vấn đề cần phải chứng minh trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự là pháp nhân thương mại; thủ tục khởi tố vụ _____________ 1. Nguyễn Hòa Bình: Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Sđd, tr.35. 24 án, khởi tố bị can, điều tra, truy tố, xét xử đối với pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội; thủ tục đương nhiên xóa án tích đối với pháp nhân. Ngoài việc bổ sung Chương XXIX, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn sửa đổi, bổ sung một số nội dung ở các chương khác trong Bộ luật để có cơ sở pháp lý xử lý vụ án do pháp nhân phạm tội. Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thể hiện các đặc điểm sau: a) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định thủ tục tố tụng riêng mà chỉ có một số quy định đặc thù khi tiến hành tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội Chủ thể tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là cá nhân, pháp nhân thương mại và đều phải chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự; các chủ thể này bình đẳng trước pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự, do đó, về nguyên tắc chung, không có thủ tục tố tụng hình sự riêng biệt cho pháp nhân thương mại. Có chăng chỉ là các quy định mang tính đặc thù áp dụng với pháp nhân thương mại để pháp nhân thương mại có thể vận hành theo các thủ tục chung của tố tụng hình sự. Đây là cách tiếp cận có tính phổ quát trong các hệ thống pháp luật tố tụng hình sự trên thế giới, các quốc 25 gia không hình thành hệ thống các quy định riêng về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân mà áp dụng thủ tục tố tụng chung, thống nhất cho cả cá nhân, pháp nhân bị cáo buộc phạm tội. Cách tiếp cận này xuất phát từ triết lý bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ tố tụng, khi đã là chủ thể bị cáo buộc phạm tội thì cá nhân hay pháp nhân đều có các quyền và nghĩa vụ tố tụng như nhau không có bất kỳ sự thiên vị nào, nếu như vậy sẽ không có công lý. “Với nghĩa chung nhất, tư pháp được quan niệm như là một ý tưởng về một nền công lý, đòi hỏi việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, bảo đảm lòng tin của nhân dân và xã hội vào pháp luật, góp phần duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho cá nhân, sự ổn định và phát triển của xã hội”1. Các quốc gia như: Hoa Kỳ, Canađa, Nhật Bản, và các quốc gia trong Liên minh châu Âu (EU) hay Trung Quốc... đều quy định thủ tục tố tụng chung áp dụng cho cá nhân và pháp nhân bị cáo buộc phạm tội. Tuy nhiên, pháp nhân thương mại có những đặc điểm khác với cá nhân nên cần thiết phải có những thủ tục riêng phù hợp với đặc điểm của pháp nhân khi tham gia tố tụng ngoài các quy định của thủ tục tố tụng chung. Các quy định riêng biệt _____________ 1. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.828. 26 về thủ tục tố tụng đối với pháp nhân thương mại bị truy cứu trách nhiệm hình sự không làm mất đi tính thống nhất của thủ tục tố tụng mà chỉ là sự bổ sung để pháp nhân thương mại có các điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng một cách bình đẳng với các chủ thể bị buộc tội khác. Những quy định riêng biệt áp dụng cho pháp nhân thương mại trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án được xem như là một trong các thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự như các thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, thủ tục rút gọn khi giải quyết vụ án hình sự... Vì vậy, quan niệm thủ tục tố tụng đối với pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội độc lập với thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân là nhận thức sai lầm dẫn đến cách hiểu có hai Bộ luật Tố tụng hình sự, một áp dụng cho cá nhân và một áp dụng cho pháp nhân. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng tiếp cận theo cách này và được thể hiện tại quy định ở Điều 431: “Thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”. Như vậy, phạm vi áp dụng khi tiến hành thủ tục tố tụng đối với pháp nhân trong quá trình giải quyết vụ án là quy định của Chương XXIX và tất cả các quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trên cơ sở tính chất, 27 đặc điểm của pháp nhân trong quan hệ tố tụng hình sự. Khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân thương mại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải dựa vào các quy định của Chương XXIX và tất cả các quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để áp dụng cho phù hợp với tính chất, đặc điểm của pháp nhân thương mại trong quan hệ tố tụng hình sự. Do vậy, các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là phương châm định hướng cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được quy định tại Chương II của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không chỉ được quán triệt cho các hoạt động của các chủ thể tố tụng hình sự, của cá nhân mà còn đối với cả pháp nhân thương mại tham gia vụ án hình sự. Trong số các nguyên tắc cơ bản có nhóm nguyên tắc trực tiếp quy định áp dụng đối với pháp nhân như: nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật (Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quy định mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Hoặc nguyên tắc Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân (Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quy định: “Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật”..., đồng thời cũng khẳng định tất cả các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự 28 năm 2015 đều được áp dụng đối với pháp nhân thương mại trong quá trình giải quyết vụ án dựa trên đặc điểm và trong giới hạn quy định của pháp luật. b) Các khái niệm truyền thống thay đổi khi xuất hiện quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Do sự thay đổi quy định về chủ thể tội phạm, chủ thể chịu trách nhiệm hình sự của Bộ luật Hình sự năm 2015 không chỉ là cá nhân mà còn là pháp nhân nên dẫn đến sự thay đổi trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho phù hợp. Vì vậy, khái niệm bị can, bị cáo không chỉ được hiểu là cá nhân (thể nhân) mà gồm cả pháp nhân nên Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự và quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này (khoản 1 Điều 60). Tương tự như vậy, khái niệm bị cáo được quy định “là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này” (khoản 1 Điều 61). Ngoài ra, các khái niệm bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những khái niệm có liên quan khác đều có thay đổi nội hàm do có sự xuất hiện của pháp nhân 29 thương mại trong thủ tục tố tụng hình sự. Đồng thời với sự thay đổi này, các quyền và nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân cũng được quy định và thực hiện thông qua người đại diện pháp nhân. Các quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân bị cáo buộc phạm tội là cơ sở trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của đại diện pháp nhân và phù hợp với thực tiễn tố tụng xử lý trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Như vậy, việc thay đổi nội hàm (chủ thể, quyền và nghĩa vụ...) trong quy định của pháp luật hiện hành đã làm thay đổi các khái niệm tố tụng hình sự truyền thống, thể hiện bản chất pháp lý của khái niệm đã thay đổi phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, pháp lý của đất nước trong giai đoạn hiện nay. c) Người đại diện của pháp nhân tham gia tố tụng là đặc điểm nổi trội của thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân Người đại diện pháp nhân thương mại được xem là nội dung cốt lõi của thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự thương mại, do mọi quyền và nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân thương mại đều được thực hiện thông qua người đại diện trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Khác với trường hợp cá nhân bị cáo buộc phạm tội, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân không thể buộc tất cả mọi thành viên của pháp nhân tham gia vào các hoạt động tố tụng mà cần phải có người đại diện. Do đó, việc xác định người đại 30 diện pháp nhân thương mại trong tố tụng hình sự là hết sức quan trọng. Quan niệm mang tính phổ quát cả trong khoa học và trong luật thực định đều thống nhất rằng người đại diện của pháp nhân thương mại tham gia tố tụng là người đại diện theo pháp luật hoặc người được pháp nhân cử làm đại diện hoặc người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định đại diện cho pháp nhân tham gia các hoạt động tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Ở đây cũng cần có sự phân biệt người đại diện pháp nhân tại thời điểm tội phạm được thực hiện với đại diện pháp nhân tại thời điểm bị cáo buộc phạm tội. Trong nhiều trường hợp người đại diện cho pháp nhân tại hai thời điểm này không phải là một, do đó, pháp luật nhiều quốc gia quy định người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng hình sự là người đại diện cho pháp nhân tại thời điểm pháp nhân bị cáo buộc phạm tội (bị khởi tố). Đồng thời cũng cần khẳng định, người đại diện chỉ là người thay mặt cho pháp nhân trong quan hệ tố tụng, mọi hoạt động của họ được xem như hoạt động của pháp nhân bị cáo buộc phạm tội chứ không phải bản thân người đại diện bị cáo buộc phạm tội; tư cách pháp lý của người đại diện khi tham gia tố tụng là tư cách pháp lý của pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại 31 tham gia tố tụng là một trong những người tham gia tố tụng (khoản 20 Điều 55) bên cạnh tư cách bị can (Điều 60) và bị cáo (Điều 61) của pháp nhân khi tham gia tố tụng. Theo những quy định này thì các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân với tư cách bị can, bị cáo sẽ được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân nên ngoài các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân còn có các quyền và nghĩa vụ độc lập khi tham gia tố tụng. Nói cách khác, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có những quyền, nghĩa vụ được ủy quyền và những quyền, nghĩa vụ độc lập khi tham gia tố tụng giải quyết vụ án. Điều 434 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền”. Như vậy, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải tham gia tất cả các hoạt động tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân; pháp nhân phải cử và tạo điều kiện để người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tất cả các hoạt động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho 32 pháp nhân trong phạm vi đại diện theo căn cứ Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; Điều lệ của pháp nhân; Nội dung ủy quyền; Quy định khác của pháp luật. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 137 và Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015). Do vậy, trong trường hợp pháp nhân có nhiều đại diện thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng “Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử pháp nhân... có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng” (Điều 434). Theo quy định tại Điều 434 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì chỉ có người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự mới có đủ tư cách để đại diện cho pháp nhân đó tham gia các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Do đó, pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động tố tụng, trong trường hợp người đại diện không tham dự được thì pháp nhân phải cử người đại diện thay thế, nếu không pháp nhân không cử cơ quan có thẩm quyền tố tụng sẽ quyết định cử người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng. 33 Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, giới tính, nghề nghiệp, chức vụ của mình; nếu có sự thay đổi những thông tin này thì phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc thay đổi người đại diện cho pháp nhân tham gia các hoạt động tố tụng phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án. Điều 435 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Cụ thể như sau: Thứ nhất, người đại diện của pháp nhân có quyền: Được thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm; được biết lý do pháp nhân mà mình đại diện bị khởi tố; được thông báo, được giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 435 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; được nhận quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng; quyết định đưa vụ án ra xét xử; bản án, quyết định của Tòa án và 34 quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại pháp nhân mà mình đại diện hoặc buộc phải thừa nhận pháp nhân mà mình đại diện có tội; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật theo quy định của Bộ luật này; tự bào chữa, nhờ người bào chữa cho pháp nhân; được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa cho pháp nhân kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; tham gia phiên tòa, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; phát biểu ý kiến sau cùng trước khi nghị án; xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thứ hai, người đại diện của pháp nhân có nghĩa vụ: Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thứ ba, việc triệu tập đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại Điều 440 Bộ luật Tố tụng 35 hình sự năm 2015, theo đó: Khi triệu tập người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải gửi giấy triệu tập. Giấy triệu tập ghi rõ họ tên, chỗ ở hoặc làm việc của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm có mặt, gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. Giấy triệu tập được gửi cho người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hoặc pháp nhân nơi người đó làm việc hoặc chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đại diện theo pháp luật của pháp nhân cư trú. Cơ quan, tổ chức nhận được giấy triệu tập có trách nhiệm chuyển ngay giấy triệu tập cho người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Khi nhận giấy triệu tập, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải ký nhận và ghi rõ ngày, giờ nhận. Người chuyển giấy triệu tập phải chuyển phần giấy triệu tập có ký nhận của người đại diện cho cơ quan đã triệu tập; nếu người đại diện không ký nhận thì phải lập biên bản về việc đó và gửi cho cơ quan triệu tập; nếu người đại diện vắng mặt thì có thể giao giấy triệu tập cho một người đủ 18 tuổi trở lên trong gia đình để ký xác nhận và chuyển cho người đại diện. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải có mặt theo giấy triệu tập. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể ra quyết định dẫn giải. 36 d) Những đặc điểm về chứng cứ và chứng minh trong thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân Thủ tục tố tụng về chứng cứ và chứng minh đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội được tuân theo các quy định về chứng cứ, chứng minh chung và những quy định riêng biệt đối pháp nhân của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 dựa trên đặc điểm của pháp nhân khi tham gia tố tụng giải quyết vụ án. Các quy định về chứng cứ và chứng minh của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được áp dụng đối với pháp nhân trong quá trình giải quyết vụ án, như: quy định về các thuộc tính của chứng cứ, nguồn chứng cứ, biện pháp thu thập chứng cứ, đối tượng chứng minh và các bước của quá trình chứng minh vụ án... khi chứng minh đều phải tuân theo. Tuy nhiên, những quy định này chỉ được áp dụng khi phù hợp với tính chất, đặc điểm của pháp nhân bị cáo buộc phạm tội do đó một số quy định sẽ không áp dụng đối với đại diện pháp nhân tham gia tố tụng, chẳng hạn: biện pháp hỏi cung bị can sẽ không áp dụng đối với pháp nhân trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ. Ngoài các khác biệt này và cũng do đặc điểm của pháp nhân khác với cá nhân nên Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có một số quy định riêng biệt về chứng cứ và chứng minh áp dụng đối với pháp nhân trong quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, thủ tục tố tụng về chứng cứ và chứng minh đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội được tuân theo các quy định về chứng cứ, chứng minh chung và những quy định riêng biệt 37 đối với pháp nhân của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 dựa trên đặc điểm của pháp nhân khi tham gia tố tụng giải quyết vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ có thể ra các quyết định hoặc bản án dựa trên cơ sở các chứng cứ chứng minh về sự việc phạm tội cũng như hành vi bị cáo buộc phạm tội của cá nhân, pháp nhân và những tình tiết khác có liên quan. Tội phạm khi thực hiện bao giờ cũng để lại dấu vết bên ngoài thế giới khách quan, do đó khi tiến hành chứng minh làm rõ vụ án cần phải thu thập các dấu vết tội phạm để lại làm căn cứ để khôi phục toàn bộ diễn biến của vụ án đưa đến nhận thức đúng đắn mang tính khách quan về tội phạm. Căn cứ vào các quy định về đối tượng chứng minh, những vấn đề cần phải chứng minh của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và đặc điểm của pháp nhân bị cáo buộc phạm tội, Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội như sau: - Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự. Ngoài việc phải chứng minh dấu hiệu của tội phạm (hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt) cũng như thời gian, địa điểm và những tình tiết khác liên quan đến pháp nhân còn phải chứng 38 minh hành vi của pháp nhân bị cáo buộc phạm tội có trong phạm vi được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm hay không. Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm được quy định trong luật hình sự, nếu không quy định thì không được buộc tội và xử lý trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân (Điều 74). - Lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân. Lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của cấu thành tội phạm cho dù chủ thể thực hiện tội phạm là cá nhân hay pháp nhân nên là nội dung quan trọng cần phải được chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án. Lỗi của pháp nhân có đặc thù được thể hiện thông qua ý chí của các thành viên hội đồng thành viên đối với các hoạt động vì lợi ích của pháp nhân hoặc đối với các hoạt động theo quyết nghị của hội đồng thành viên. Vì vậy, khi xác định lỗi của pháp nhân cần chú ý xem xét hành vi bị cáo buộc phạm tội có được thực hiện theo quyết nghị của hội đồng thành viên hoặc thực hiện vì lợi ích của pháp nhân hay không. Chỉ có như vậy mới có thể xác định chính xác lỗi của pháp nhân khi thực hiện hành vi bị cáo buộc phạm tội. Khi chứng minh lỗi của pháp nhân, theo quy định của Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng còn có trách nhiệm chứng minh lỗi của các thành viên pháp nhân nhằm cá thể hóa trách nhiệm của mỗi thành viên trong việc hình 39 thành lỗi của pháp nhân khi thực hiện tội phạm. Ngoài ra, quy định này còn hướng tới việc xác định mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa lỗi của các thành viên pháp nhân với lỗi của pháp nhân trong việc thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc định tội và quyết định hình phạt đối với pháp nhân của Tòa án. - Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra. Việc chứng minh tính chất, mức độ phạm tội do pháp nhân gây ra cũng tương tự như chứng minh tính chất, mức độ phạm tội của cá nhân đều nhằm xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ định khung được quy định ở điều luật mà pháp nhân bị cáo buộc phạm tội. - Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết khác liên quan đến miễn hình phạt. Việc chứng minh các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là cần thiết để xác định mức độ trách nhiệm hình sự và mức độ chịu hình phạt và miễn hình phạt đối với pháp nhân phạm tội. Đây là một trong những căn cứ quyết định hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự mà các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đối với pháp nhân. - Nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Việc xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội để có biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm hiệu quả trong công cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm do vậy cũng là đối tượng cần phải chứng minh trong quá trình tố tụng giải 40 quyết vụ án hình sự. Đối với vụ án mà chủ thể thực hiện tội phạm là pháp nhân, việc chứng minh nguyên nhân, điều kiện phạm tội cụ thể trong từng vụ án phức tạp hơn đối với vụ án được thực hiện bởi cá nhân do hoạt động của pháp nhân thương mại thường liên quan đến việc thực hiện các chính sách kinh tế, môi trường của Nhà nước, liên quan đến các đối tác trong và ngoài nước, liên quan đến các cơ quan, cá nhân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, môi trường... Việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là biện pháp thu thập chứng cứ đặc thù của pháp nhân bị cáo buộc phạm tội. Nếu như đối với vụ án do cá nhân thực hiện thì người thực hiện tội phạm sẽ bị áp dụng biện pháp khởi tố bị can và biện pháp hỏi cung bị can nhằm thu thập chứng cứ phạm tội thông qua việc hỏi cung của bị can, thì đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội không thể áp dụng biện pháp này mặc dù pháp nhân cũng bị áp dụng biện pháp khởi tố bị can theo quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào đặc thù của pháp nhân khi tham gia tố tụng giải quyết vụ án, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định biện pháp lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Theo quy định này thì việc lấy lời khai đại diện cho pháp nhân (đại diện theo pháp luật của pháp nhân, đại diện được pháp nhân cử tham gia tố tụng và đại diện cho pháp nhân được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định tham gia tố tụng) do Điều tra viên tiến hành nhằm thu thập 41 chứng cứ phạm tội theo trình tự thủ tục do luật tố tụng hình sự quy định. đ) Đặc điểm về biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân Các biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thể hiện đặc điểm của các biện pháp này so với các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với cá nhân bị cáo buộc phạm tội. Thông qua đó, làm rõ tính chất của biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân thương mại bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội không thể áp dụng các biện ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế như đối với cá nhân bị cáo buộc phạm tội theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, như các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam... nên chỉ có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế mang tính đặc thù. Điều 436 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định các biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với pháp nhân, bao gồm: kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án. Những biện pháp cưỡng chế này phù hợp với đặc điểm của pháp nhân khi tham gia tố tụng và có tác dụng hỗ trợ cho quá trình giải quyết vụ án, ngăn ngừa hậu quả của tội 42 phạm do pháp nhân thực hiện cũng như bảo đảm điều kiện để buộc pháp nhân phải chấp hành hình phạt do Tòa án tuyên. Áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Các biện pháp này được áp dụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án và do các cơ quan có thẩm quyền trong các giai đoạn tố tụng tương ứng quyết định áp dụng. Thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định. Khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối pháp nhân phải dựa trên cơ sở các căn cứ do luật tố tụng hình sự quy định và dựa vào tính chất, mức độ phạm vi hành vi mà pháp nhân bị cáo buộc phạm tội. Những căn cứ đó là: - Pháp nhân bị cáo buộc phạm tội mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tiền hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại. - Khi xác định có căn cứ hành vi phạm tội của pháp nhân gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con người, môi trường hoặc trật tự, an toàn xã hội. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân phải tuân theo các quy định về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn của luật tố tụng hình sự. Như 43 vậy, biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân là một biện pháp của tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng nhằm hỗ trợ cho quá trình giải quyết vụ án, ngăn ngừa hậu quả của tội phạm do pháp nhân thực hiện cũng như bảo đảm để thi hành án. Các quy định về biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thể hiện đặc điểm của các biện pháp này so với các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với cá nhân. Thông qua đó, làm rõ tính chất của biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân trong quá trình giải quyết vụ án. e) Những đặc điểm của thủ tục khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với pháp nhân Thủ tục khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có những quy định riêng mang tính đặc thù dựa trên các đặc điểm của pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, những quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng được áp dụng nếu không trái với các quy định riêng biệt cho pháp nhân bị cáo buộc phạm tội của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Điều 431 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành theo quy định của Chương 44 này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”. Trên cơ sở nguyên tắc này, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định một số thủ tục tố tụng đặc thù đối với pháp nhân bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Theo đó: (i) Về thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với pháp nhân được quy định như sau: Điều 432 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định khởi tố vụ án, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự với nội dung khi xác định có dấu hiệu tội phạm do pháp nhân thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại các điều 143, 153 và 154 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Căn cứ, trình tự, thủ tục thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự được thực hiện theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Điều 433 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định khởi tố bị can, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân. Theo đó: khi có đủ căn cứ xác định pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; tên và địa chỉ của pháp nhân theo quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền; tội danh, điều khoản của Bộ luật Hình sự đã áp dụng; thời gian, địa điểm phạm tội và những tình 45 tiết khác của tội phạm. Nếu pháp nhân bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì trong quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân phải ghi rõ từng tội danh và điều, khoản của Bộ luật Hình sự đã áp dụng; (iii) Thẩm quyền, trình tự, thủ tục khởi tố bị can, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân được thực hiện theo quy định tại Điều 179 và 180 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. (ii) Tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo. Điều 443 quy định vấn đề này như sau: - Quyết định tạm đình chỉ điều tra khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra. Trường hợp này việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả. - Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo là pháp nhân khi thuộc một trong các trường hợp: không có sự việc phạm tội; hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm; 46 hành vi phạm tội của pháp nhân đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được pháp nhân thực hiện tội phạm; hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. (iii) Thẩm quyền và thủ tục xét xử đối với pháp nhân. Điều 444 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thẩm quyền và thủ tục xét xử đối với pháp nhân như sau: Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự về các tội phạm do pháp nhân thực hiện là Tòa án nơi pháp nhân thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi pháp nhân đó có trụ sở chính hoặc nơi có chi nhánh của pháp nhân đó thực hiện tội phạm. Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với pháp nhân phạm tội được thực hiện theo thủ tục chung quy định tại Phần thứ tư và Phần thứ sáu của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Phiên tòa xét xử đối với pháp nhân phải có mặt người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; có mặt bị hại hoặc người đại diện của bị hại. (iv) Thẩm quyền, thủ tục thi hành án đối với pháp nhân. Điều 445 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thẩm quyền, thủ tục thi hành án đối với pháp nhân như sau: - Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành hình phạt tiền đối với 47 pháp nhân. Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tiền được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. - Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thi hành các hình phạt khác và các biện pháp tư pháp quy định tại Bộ luật Hình sự đối với pháp nhân theo quy định của pháp luật. - Trường hợp pháp nhân bị kết án thực hiện chia, tách, hợp nhất, sáp nhập thì pháp nhân kế thừa các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân bị kết án có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thi hành án phạt tiền, bồi thường thiệt hại. (v) Thủ tục đương nhiên xóa án tích đối với pháp nhân. Theo Điều 446 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thủ tục đương nhiên xóa án tích đối với pháp nhân: Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của pháp nhân được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 89 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án cấp giấy chứng nhận pháp nhân đã được xóa án tích. 3. Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật tố tụng hình sự các nước trên thế giới khá đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là dựa 48 vào đặc điểm của hệ thống pháp luật ở từng quốc gia. Mặc dù vậy, thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự trong pháp luật đều có một số điểm chung sau đây: a) Không quy định thủ tục tố tụng riêng đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội và do đó không có luật tố tụng hình sự riêng khi truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Các quốc gia dựa trên quan niệm tội phạm cho dù là cá nhân hay pháp nhân thực hiện thì họ đều được bình đẳng trước pháp luật, nếu bị cáo buộc phạm tội họ đều phải được áp dụng một trình tự, thủ tục tố tụng giống nhau, mọi sự phân biệt đều tạo ra sự bất bình đẳng và xâm phạm đến quyền con người nên không thể có luật riêng áp dụng dụng cho pháp nhân bị cáo buộc phạm tội. Nguyên tắc này được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự các quốc gia. Ở Hoa Kỳ, thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội (bao gồm cả cá nhân và pháp nhân) được quy định bởi pháp luật liên bang và pháp luật các bang. Nguồn của pháp luật tố tụng hình sự liên bang bao gồm Hiến pháp (đặc biệt là các Tu chính án quy định những bảo đảm đối với quyền con người trong tố tụng hình sự), Mục số 18 Bộ pháp điển luật liên bang Hoa Kỳ, và Bộ Quy tắc Tố tụng hình sự liên bang do Tòa án tối cao Hoa Kỳ ban hành. Mỗi bang có hệ thống các quy định tố tụng hình sự riêng của bang. Hệ thống pháp luật tố tụng này được áp dụng đối cá nhân và pháp nhân bị cáo buộc phạm tội, không có thủ tục tố tụng hình sự dành riêng cho pháp nhân. Tương tự như vậy “hệ thống luật tố tụng 49 Nhật Bản cũng không xây dựng thể chế luật riêng điều chỉnh liên quan đến hoạt động tố tụng về trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Trong trường hợp này, thủ tục tố tụng chung trong pháp luật tố tụng hình sự được áp dụng, và yêu cầu đặt ra đó là công tố viên phải làm rõ được nguyên nhân hành vi vi phạm của cá nhân đặc định là người đại diện, người làm công, nhân viên của pháp nhân, chỉ trong những trường hợp đó, công tố viên mới có quyền truy tố pháp nhân với tư cách là bị cáo”1. Hệ thống pháp luật của các quốc gia châu Âu (EU) cũng không có quy định riêng thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự cho pháp nhân bị cáo buộc phạm tội mà các quy định của luật tố tụng hình sự được áp dụng chung cho cả thể nhân và pháp nhân. b) Mặc dù sử dụng chung các quy định của luật tố tụng hình sự nhưng do đặc điểm của pháp nhân bị cáo buộc phạm tội khác với thể nhân nên luật tố tụng hình sự các nước có một số quy định để phù hợp với các đặc điểm này khi giải quyết trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Trước hết, đó là những quyền con người chỉ áp dụng cho cá nhân như quyền riêng tư, quyền bất khả xâm phạm về những thông tin, dữ liệu, hồ sơ cá nhân của mình, _____________ 1. Nguyễn Thị Phương Châm: “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân từ góc nhìn lý luận và thực tiễn trong pháp luật Nhật Bản”, tài liệu hội thảo khoa học: “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân và những vấn đề đặt ra khi triển khai thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, thành phố Đà Nẵng, 2017. 50 nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ ngay cả khi tiến hành tố tụng đối với họ còn đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội không phải là đối tượng thụ hưởng quyền này khi tiến hành tố tụng. Lý giải cho sự khác biệt này giữa thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân với thể nhân ngoài việc cho rằng các nhà sáng lập nước Mỹ khi soạn thảo Hiến pháp Mỹ chỉ quan tâm đến việc bảo vệ quyền và tự do cá nhân chứ không nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của các công ty là quan điểm cho rằng: pháp nhân (chủ yếu là các công ty) là thực thể pháp lý mang tính hư cấu, được nhà nước thừa nhận là có tư cách chủ thể. Phạm vi và tính chất hoạt động kinh tế của các công ty đòi hỏi nhà nước phải có sự quản lý chặt chẽ, nhất là trong một số lĩnh vực mà vi phạm của công ty có khả năng xảy ra trên diện rộng và gây hậu quả kinh tế - xã hội lớn. Trong khi đó, đa phần chứng cứ về hành vi vi phạm của công ty hoặc những người đại diện của công ty nằm ở các hồ sơ và tài liệu chính thức của công ty. Nếu đặc quyền theo Tu chính án số 5 cũng được áp dụng đối với công ty thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với công ty sẽ gần như bất khả thi, làm vô hiệu hóa nỗ lực quản lý nhà nước và thực thi pháp luật nghiêm minh đối với các doanh nghiệp này1. _____________ 1. Nguyễn Thị Bích Thảo: “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở Hoa Kỳ”, tài liệu hội thảo khoa học: “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân và những vấn đề đặt ra khi triển khai thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, thành phố Đà Nẵng, 2017. 51 Nếu như pháp luật tố tụng hình sự Mỹ nhấn mạnh trong tố tụng hình sự, pháp nhân về cơ bản được hưởng các quyền hiến định nói trên như đối với cá nhân thì tuy nhiên, pháp nhân không được hưởng đặc quyền theo Tu chính án số 5 (quyền không bị buộc phải làm chứng để buộc tội chính mình)1. Theo các án lệ của Tòa án tối cao Mỹ, đặc quyền theo Tu chính án số 5, về mặt lịch sử, chỉ giới hạn đối với các thể nhân và chỉ áp dụng đối với lời khai và tài liệu, hồ sơ cá nhân của người đó, chứ không áp dụng đối với hồ sơ, tài liệu của các tổ chức, và cũng không áp dụng đối với các cá nhân hành động nhân danh tổ chức đó. Ví dụ, cá nhân giữ chức vụ quản lý công ty không thể viện dẫn đặc quyền theo Tu chính án số 5 để không khai báo hay cung cấp tài liệu, hồ sơ liên quan đến hành vi vi phạm của công ty. Đối với các quyền hiến định khác, các án lệ của Tòa án liên bang đã thừa nhận pháp nhân được hưởng quyền chống lại việc khám xét và thu giữ bất hợp lý theo Tu chính án số 4; quyền được hưởng trình tự tố tụng công bằng (due process) và không bị truy cứu hai lần về cùng một tội (double jeopardy) (Tu chính án số 5); quyền có luật sư, quyền được xét xử có bồi thẩm đoàn, quyền được xét xử nhanh chóng, quyền được đối mặt với bên buộc tội, quyền triệu tập nhân chứng (theo Tu chính án _____________ 1. Bellis v. United States, 417 U.S. 85, 89-90 (1974). 52 số 6), quyền không bị yêu cầu nộp bảo lãnh quá mức (Tu chính án số 8). Dĩ nhiên, khác với cá nhân, quyền được luật sư giúp đỡ về pháp lý của pháp nhân không bao gồm quyền được hưởng dịch vụ miễn phí của bào chữa công vì quyền này chỉ dành riêng cho cá nhân là người nghèo không đủ khả năng chi trả phí luật sư. 4. Những vấn đề được đặt ra khi triển khai Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân thương mại Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại cũng như thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với loại chủ thể này trong tố tụng hình sự, đồng thời, do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mới có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2018 nên chưa có thực tiễn kiểm nghiệm để nhận xét, đánh giá về tính phù hợp, hiệu quả đối với quá trình tố tụng giải quyết vụ án là pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, bước đầu trên cơ sở lý luận, kinh nghiệm của thế giới, các nghiên cứu đã đưa ra một số nhận xét, đánh giá và vấn đề đặt ra khi triển khai thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đối với trường hợp pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội. a) Ngoài các quy định chung, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn có những quy định riêng về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng trong quá 53 trình giải quyết vụ án của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, việc thiết kế một chương riêng của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Chương XXIX) tạo ra cảm giác có hai Bộ luật Tố tụng hình sự, một dành cho cá nhân và một dành cho pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội với thủ tục tố tụng riêng biệt, do đó không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng, với thông lệ quốc tế, dễ dẫn đến nhầm lẫn trong nhận thức và trong thực tiễn hoạt động tố tụng giải quyết vụ án. Vì vậy, cần có các nghiên cứu làm rõ căn cứ lý luận, thực tiễn, học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm các nước để thiết kế những quy định đặc thù về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại ở những nội dung tương ứng đối với cá nhân bị cáo buộc phạm tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự, không nên quy định chương riêng. b) Người đại diện pháp nhân thương mại trong tố tụng hình sự là yếu tố quan trọng của quá trình giải quyết vụ án, do vậy, xác định điều kiện để một người có thể trở thành đại diện pháp nhân thương mại khi tham gia tố tụng cần phải được luật hóa, được quy định chi tiết với những ràng buộc chặt chẽ nhằm khắc phục tình trạng đại diện pháp nhân không có mặt hoặc trốn tránh các nghĩa vụ, trách nhiệm tố tụng của pháp nhân mà mình đại diện. Đồng thời, cần nghiên cứu trường hợp người được cử hoặc được chỉ định đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng nhưng trong quá 54 trình giải quyết vụ án họ lại (đã, đang, sẽ) thực hiện một tội phạm vì lợi ích của pháp nhân thì có áp dụng biện pháp ngăn chặn (như: giữ khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam...) không? Nếu quy định biện pháp ngăn chặn đối với người đại diện pháp nhân trong trường hợp này thì căn cứ áp dụng là gì và tiến hành theo trình tự, thủ tục nào? Trên cơ sở những quy định về thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội cần bổ sung các quy định về thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với pháp nhân thương mại, khi pháp nhân đó có nhiều chi nhánh, nhiều đại diện ở các địa phương khác nhau được giải quyết ra sao? Cần bổ sung quy định cụ thể về việc pháp nhân thương mại có thể thay đổi người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng được không? Nếu được thay đổi thì thẩm quyền, thủ tục được quy định như thế nào? Cũng cần quy định chi tiết căn cứ, điều kiện để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định cử người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng khi pháp nhân không có người đại diện nhằm tránh sự tùy tiện khi áp dụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Vấn đề dẫn giải đối với người đại diện theo pháp luật của pháp nhân cũng cần phải được đặt ra khi người đó cố tình không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. 55 Để tránh bỏ lọt tội phạm, khoản 2 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân, do vậy sẽ dẫn đến trường hợp người đại diện và pháp nhân đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cùng một tội phạm trong cùng vụ án thì giải quyết tư cách đại diện pháp nhân của cá nhân đó như thế nào và theo thủ tục, trình tự ra sao là vấn đề đặt ra cần có sự nghiên cứu để bổ sung vào Bộ luật Tố tụng hình sự. c) Đối với trường hợp pháp nhân đang tiến hành thủ tục phá sản tại thời điểm bị cáo buộc phạm tội chưa được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định, do đó sẽ không thể áp dụng thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân đang tiến hành thủ tục phá sản. Khoảng trống pháp luật này có thể sẽ gây ra nhiều hệ lụy không chỉ đối với nền kinh tế, hoạt động của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới tính nghiêm minh của nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự. Vì vậy, cần nghiên cứu bổ sung quy định này trên cơ sở đặc thù của pháp nhân thương mại đang trong quá trình phá sản và phù hợp với quy định của Luật Phá sản năm 2014 theo hướng thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự được tiến hành đồng thời với thủ tục phá sản của pháp nhân thương mại. d) Thu thập chứng cứ và chứng minh về hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại. Việc thu thập 56 chứng cứ và chứng minh đối với pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội ngoài các quy định chung còn được quy định ở 2 điều luật của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân thương mại bị buộc tội” (Điều 441) và “Lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân” (Điều 442). Tuy nhiên, việc quy định này sẽ dẫn đến hai cách hiểu khi áp dụng: Thứ nhất, theo Điều 431 quy định về phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội thì việc chứng minh sẽ được áp dụng các quy định của Chương XXIX mà cụ thể là Điều 441, 442 và các quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về chứng cứ và chứng minh. Vì vậy, mặc dù Điều 441 không quy định phải chứng minh mục đích, động cơ phạm tội của pháp nhân thương mại nhưng trong quá trình giải quyết vụ án các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn phải có nghĩa vụ chứng minh để bảo đảm xử lý tội phạm khách quan, toàn diện. Thứ hai, do Điều 441 có tên gọi “Những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân thương mại bị buộc tội” nên sẽ có cách hiểu chỉ những vấn đề được quy định tại điều luật này mới buộc phải chứng minh trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án đối với pháp nhân thương mại bị buộc tội do vậy động cơ, mục đích phạm tội của pháp nhân sẽ không phải chứng minh. Cách hiểu này còn được củng cố bởi quy định tại Điều 431 “... đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái 57 với quy định của Chương này” nên việc chứng minh động cơ, mục đích phạm tội của pháp nhân thương mại còn có thể sẽ trái với quy định của Điều 441. Theo người viết, việc chứng minh động cơ, mục đích phạm tội của pháp nhân không chỉ có ý nghĩa trong việc giải quyết trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội mà còn có ý nghĩa trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm nên cần thiết phải được quy định là một trong những vấn đề cần phải chứng minh khi giải quyết vụ án. Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần có sự giải thích rõ ràng hoặc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự theo hướng cần phải chứng minh làm rõ mục đích và động cơ phạm tội của pháp nhân. Lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là biện pháp thu thập chứng cứ đặc thù của pháp nhân bị cáo buộc phạm tội. Nếu như đối với vụ án do cá nhân thực hiện thì người thực hiện tội phạm sẽ bị áp dụng biện pháp khởi tố bị can và biện pháp hỏi cung bị can nhằm thu thập chứng cứ phạm tội thông qua việc hỏi cung bị can thì đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội không thể áp dụng biện pháp này mặc dù pháp nhân cũng bị áp dụng biện pháp khởi tố bị can theo quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào đặc thù của pháp nhân khi tham gia tố tụng giải quyết vụ án, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định biện pháp lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Theo quy định này thì việc lấy lời khai đại diện cho pháp nhân (đại diện theo pháp luật của pháp nhân, đại diện được 58 pháp nhân cử tham gia tố tụng và đại diện cho pháp nhân được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định tham gia tố tụng) do Điều tra viên tiến hành nhằm thu thập chứng cứ phạm tội theo trình tự, thủ tục do luật tố tụng hình sự quy định. Như vậy, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là biện pháp thu thập chứng cứ do Điều tra viên, cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo trình tự, thủ tục của luật tố tụng hình sự nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án là pháp nhân. Tuy nhiên, theo người viết quy định này còn nhiều bất cập, thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ nhất, quy định biện pháp lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân chưa phù hợp với các quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Điều 60, Điều 61 cũng như Điều 432, Điều 433 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đều xác định hành vi do pháp nhân thương mại thực hiện có dấu hiệu tội phạm là bị can, bị cáo thông qua quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử đối với pháp nhân thương mại của Tòa án, do đó cần phải quy định biện pháp hỏi cung bị can, xét hỏi bị cáo tại Tòa đối với pháp nhân mới đúng tính chất của biện pháp điều tra thu thập chứng cứ này. Mặt khác, Điều 434 quy định “mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông qua 59 người đại diện theo pháp luật của pháp nhân” nên không thể áp dụng biện pháp lấy lời khai đại diện pháp nhân như quy định này mà phải áp dụng hỏi cung bị can. Cũng cần nhắc lại việc phân biệt rõ ràng tư cách đại diện pháp nhân và tư cách cá nhân của người đại diện. Với tư cách cá nhân họ không phải là bị can, bị cáo nhưng với tư cách người đại diện cho pháp nhân bị cáo buộc phạm tội, họ có địa vị pháp lý đại diện cho bị can, bị cáo là pháp nhân. Thứ hai, quy định biện pháp lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đã nhầm lẫn bản chất pháp lý của các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự. Về thực chất các biện pháp hỏi cung bị can, lấy lời khai (người làm chứng, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, lợi ích liên quan...) đều là việc thu thập chứng cứ thông qua các lời khai của những người liên quan trực tiếp hoặc biết được sự việc phạm tội, hành vi phạm tội và những tình tiết khác liên quan đến vụ án nhưng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 lại quy định những biện pháp điều tra khác nhau: biện pháp hỏi cung chỉ áp dụng đối với bị can, còn biện pháp lấy lời khai được quy định áp dụng đối với những người tham gia tố tụng khác. Sự khác biệt này thể hiện tính chất, mức độ cưỡng chế không giống nhau giữa các biện pháp, trong đó, biện pháp hỏi cung có tính chất, mức độ cưỡng chế cao hơn biện pháp lấy lời khai và chỉ áp dụng cho người bị cáo 60 buộc phạm tội chứ không áp dụng cho các chủ thể tố tụng khác. Đồng thời, sự khác biệt này còn thể hiện thái độ lên án nghiêm khắc của xã hội, của Nhà nước đối với người bị cáo buộc phạm tội. Do đó, quy định áp dụng biện pháp lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân sẽ không phản ánh được bản chất của biện pháp điều tra thu thập chứng cứ này cũng như chưa thể hiện được chính sách hình sự của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, theo người viết, nếu đã xác định “mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông qua người đại diện pháp luật của pháp nhân” thì khi pháp nhân bị cáo buộc phạm tội (là bị can, bị cáo) sẽ phải áp dụng biện pháp hỏi cung chứ không phải là biện pháp lấy lời khai đối với người đại diện pháp nhân trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án. Trong trường hợp xác định tính chất pháp lý của đại diện pháp nhân là người làm chứng như quy định của luật tố tụng hình sự một số nước (Luật tố tụng hình sự Pháp là ví dụ) thì quy định biện pháp lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân mới phù hợp với đặc điểm của người đại diện pháp nhân trong tố tụng hình sự, phản ánh được bản chất pháp lý của biện pháp điều tra này đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội và khắc phục được sự mâu thuẫn giữa các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bảo đảm sự thống nhất, nhất quán của hệ thống các quy phạm pháp luật tố 61 tụng hình sự, thuận tiện cho việc áp dụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. đ) Vấn đề bồi thường thiệt hại cho pháp nhân thương mại bị oan trong tố tụng hình sự cũng chưa được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, mặc dù nó đã được quy định để khắc phục các thiệt hại đối với cá nhân bị oan do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra và là một quyền con người quan trọng được quy định trong các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên và được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. “Bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự” quy định tại Điều 31 là nguyên tắc cơ bản thể hiện trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền đối với những thiệt hại mà họ gây ra cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Nguyên tắc này được xem như hệ quả tất yếu của việc vi phạm pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra; đồng thời, nó cũng khẳng định việc tôn trọng, bảo vệ quyền con người bằng cơ chế hữu hiệu của tố tụng hình sự. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thực hiện yêu cầu bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại do người có thẩm quyền của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu tăng cường trách nhiệm đối với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành 62 tố tụng khi tiến hành các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án. Việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017. Tuy nhiên, nguyên tắc này (Điều 31 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) lại thiếu vắng nội dung bồi thường thiệt hại cho pháp nhân bị oan trong tố tụng hình sự. Vì vậy, theo người viết cần bổ sung quy định bồi thường thiệt hại cho pháp nhân bị oan do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội. e) Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 và một số văn bản khác cũng như trong các điều ước quốc tế, hiệp định mà Việt Nam là thành viên. Những văn bản này thể hiện khá đầy đủ các nội dung của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, gồm: dẫn độ, tương trợ tư pháp, chuyển giao người chấp hành hình phạt và những hoạt động hợp tác quốc tế khác trong tố tụng hình sự làm cơ sở cho hoạt động cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, những quy định về hợp tác quốc tế trong thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại bị cáo buộc phạm tội chưa được đề cập. Trong khi đó, pháp nhân thực hiện tội phạm có yếu tố nước ngoài sẽ gia tăng 63 trong điều kiện hội nhập quốc tế, khi có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài ngày càng phát triển. Vì vậy, cần nghiên cứu bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự đối với pháp nhân bị cáo buộc phạm tội. 64 MỐI LIÊN HỆ GIỮA QUY ĐỊNH PHÁP NHÂN PHẠM TỘI VỚI QUY ĐỊNH THỦ TỤC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ PGS.TS. Trịnh Tiến Việt* 1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 được thông qua vào ngày 27/11/2015, sau đó được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 20/6/2017. Một trong những điểm mới đột phá trong chính sách hình sự là Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đã bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại tại các điều: Điều 2 (Cơ sở của trách nhiệm hình sự), Điều 6 (Hiệu lực của Bộ luật Hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Điều 8 (Khái niệm tội phạm), Điều 33 (Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội), các điều từ Điều 74 _____________ * Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 65 đến Điều 89 (Chương XI - Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội). Trong đó, xác định cụ thể điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại (Điều 75) và quy định 31 tội phạm trong lĩnh vực kinh tế và môi trường mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 76) cùng với các hình phạt, biện pháp tư pháp, các căn cứ quyết định hình phạt áp dụng riêng đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 77 - 89), sau đó thêm Tội tài trợ khủng bố (Điều 300) và Tội rửa tiền (Điều 324) trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2017 (tăng lên thành 33 tội phạm). Theo đó, pháp nhân thương mại chỉ chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm này trong trường hợp chúng được thực hiện nhân danh và vì lợi ích, dưới sự điều hành, chấp thuận của chính pháp nhân ấy. Điều này thể hiện quan điểm hoàn toàn đổi mới của các nhà lập pháp về chủ thể của tội phạm và đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong xử lý những vi phạm trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây ra1, cũng như trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế2 khi Việt Nam tham gia nhiều _____________ 1. Pháp nhân thường có tài sản lớn hơn cá nhân (thể nhân), pháp nhân có khả năng lớn hơn thể nhân trong việc sửa chữa, khắc phục hậu quả và nộp các khoản phạt. 2. Xem Paul Schiff Berman: The Globalization of Jurisdiction, University of PennsyIvania Law Review, Vol.151, 2002, p.311. 66 công ước quốc tế về phòng, chống tội phạm như: Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000, Công ước chống tham nhũng năm 2003 của Liên hợp quốc, v.v.. Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, trong đó có quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Cho nên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân (ở đây được hiểu pháp nhân thương mại) là một vấn đề mới được đặt ra, đặc biệt là vấn đề thủ tục tố tụng. Việc pháp nhân phạm tội không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân. Cùng với đó, quá trình giải quyết vụ án hình sự cần làm rõ các tình tiết, hành vi phạm tội của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì cần xử lý hình sự cả cá nhân và pháp nhân về tội mà họ đã thực hiện để giải quyết, xử lý tội phạm triệt để, toàn diện và tránh bỏ lọt tội phạm và cá nhân, pháp nhân phạm tội... Chính vì vậy, bước đầu làm sáng tỏ mối liên hệ giữa quy định về pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự 67 năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 với quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, hướng tới bảo đảm tính tương thích, thống nhất và phù hợp giữa các quy định này, cũng như bảo đảm xử lý đúng pháp nhân phạm tội, đúng tội, đúng pháp luật và đúng trình tự, thủ tục, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. 2. Nội dung mối liên hệ giữa quy định về pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 với quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Nghiên cứu nội dung các quy định về pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho thấy mối liên hệ giữa những quy định này là liên hệ hữu cơ, thống nhất giữa quy định về nội dung với quy định về hình thức. Trong đó, quy định về pháp nhân phạm tội là thuộc về phạm trù nội dung còn quy định thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân thuộc về phạm trù hình thức thực hiện nội dung đó. Theo phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, “liên hệ là khái 68 niệm dùng để chỉ sự nương tựa, sự thâm nhập vào nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng”1, trong đó có hai cặp phạm trù “nội dung” và “hình thức”. Giữa nội dung và hình thức thì nội dung có trước và có ý nghĩa quyết định đối với hình thức; ngược lại, hình thức có sự độc lập tương đối và tác động ngược lại đối với nội dung. Như vậy, trên cơ sở này, mối liên hệ giữa các quy định trong hai Bộ luật đã nêu đã thể hiện đúng quy luật ấy với các nội dung khái quát như sau: Một là, sự ghi nhận quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 chính là nguyên nhân làm xuất hiện các quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân và sự thay đổi các quy định liên quan trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nếu Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 vẫn duy trì quy định giống như Bộ luật Hình sự năm 1999 - pháp nhân không phải chịu trách nhiệm hình sự - thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sẽ không có quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Khi Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định bổ sung thêm chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại (Điều 8) và Chương XI - _____________ 1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp Lý luận chính trị, Triết học Mác-Lênin, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, t.1, tr.76. 69 “Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội” thì tương ứng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định Chương XXIX - “Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân” và khái niệm bị can, bị cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được hiểu rộng hơn là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự hay bị Tòa án đưa ra xét xử (Điều 60, Điều 61), v.v.. Hai là, không chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân, tiền đề, quy định về pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự còn có tính quyết định đối với quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Chẳng hạn, sự việc ngày 13/9/2008, khi đoàn kiểm tra liên ngành bắt quả tang Công ty V. đóng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xả một lượng nước thải lớn chưa qua xử lý ra sông Thị Vải gây ô nhiễm môi trường và thiệt hại lớn về kinh tế, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, song các cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể xử lý hành chính, mà chưa thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân tại thời điểm đó, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 chưa điều chỉnh vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân, mà chỉ đến khi Bộ luật Hình sự năm 2015 được thông qua (có nghĩa là sau 7 năm), vấn đề trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại mới được các nhà làm luật quy định và nó mang tính quyết định ở chỗ, cần có thủ tục để truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, sự thay đổi quy định về trách nhiệm hình sự đối với 70 pháp nhân trong quá trình cải cách pháp luật sau này cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi (sửa đổi, bổ sung) song hành trong quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ba là, mặc dù quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự chịu sự quyết định và chỉ xuất hiện khi có các quy định về pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự, nhưng ngược lại, quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân lại là phương thức để thực thi quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân phạm tội trên thực tế. Nói một cách khác, việc áp dụng quy định về pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Luật hình sự và luật tố tụng hình sự phải thực hiện trên các nguyên tắc nhất định; quy định của Bộ luật Hình sự và quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải phù hợp với nhau, không được mâu thuẫn với nhau. Nhiệm vụ của cả hai ngành luật này đều phải góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức nhưng cũng phải bảo đảm xử lý nghiêm minh, kịp thời, có căn cứ và đúng pháp luật đối với tất cả các hành vi phạm tội do người hay pháp nhân gây ra. Như vậy, mối liên hệ giữa quy định về pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng 71 hình sự năm 2015 đã được thể hiện cụ thể qua các quy định tương ứng trong hai Bộ luật này như sau: 2.1. Nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự là cơ sở của quy định về trách nhiệm xử lý pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự Trên cơ sở ghi nhận pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã xác định nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội như sau: “Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật” (khoản 2 Điều 3). Nguyên tắc này chính là tiền đề để xác định trách nhiệm xử lý pháp nhân phạm tội tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội” (Điều 18). Chỉ khi pháp nhân thương mại bị coi là chủ thể của tội phạm và hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của pháp nhân bị xử lý về hình sự thì mới cần thiết phải quy định trách nhiệm xử lý vụ án hình sự đối với pháp nhân của cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự rõ ràng là tiền đề làm phát sinh quy định về trách nhiệm xử lý pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, 72 ngược lại thì trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự khi xác định có dấu hiệu tội phạm do pháp nhân thực hiện của cơ quan tiến hành tố tụng lại chính là yếu tố bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc mọi hành vi phạm tội của pháp nhân được xử lý kịp thời, nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật (đã nêu). 2.2. Quy định về pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự là cơ sở (căn cứ) của quy định về khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự đối với pháp nhân phạm tội theo quy định tại Điều 432 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Khi xác định có dấu hiệu tội phạm do pháp nhân thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại các điều 143, 153 và 154 của Bộ luật này”. Theo đó, việc khởi tố vụ án hình sự chỉ được quyết định khi “xác định có dấu hiệu tội phạm do pháp nhân thực hiện” mà để xác định có dấu hiệu tội phạm do pháp nhân thực hiện hay không chắc chắn phải căn cứ trên các quy định của Bộ luật Hình sự về điều kiện và phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Quy định về điều kiện và phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật Hình sự cũng chính là cơ sở của quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 433 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi có đủ căn cứ xác định pháp nhân đã thực hiện hành vi mà 73 Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân”. Theo đó, chỉ khi nào có hành vi tương ứng với hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành của 33 tội danh được quy định tại Điều 76 mà đáp ứng các điều kiện được quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì cơ quan tiến hành tố tụng mới quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân. Tức là việc khởi tố bị can đối với pháp nhân chỉ được quyết định khi xác định được rằng có hành vi cấu thành các tội phạm quy định ở các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 mà được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại, vì lợi ích của pháp nhân thương mại, có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. Bởi lẽ, quy định của Bộ luật Hình sự về phạm vi, điều kiện chịu trách nhiệm hình sự và cấu thành tội phạm tương ứng trong phạm vi đó là cơ sở để khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với pháp nhân phạm tội nên nếu những quy định này thay đổi cũng sẽ khiến cho cơ sở để khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với pháp nhân phạm tội thay đổi. Chẳng hạn, nếu như Bộ luật Hình sự thu hẹp phạm vi, bổ sung thêm điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân sẽ làm giảm bớt các 74 trường hợp có căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với pháp nhân phạm tội. Ngược lại, nếu như Bộ luật Hình sự mở rộng phạm vi, giảm bớt điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân sẽ làm tăng lên các trường hợp có căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với pháp nhân phạm tội. Hiện nay, phạm vi của các tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự là 33 tội danh, do đó, trong tương lai căn cứ vào yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và tình hình tội phạm mà biên độ dao động này có thể mở rộng hoặc thu hẹp hơn. 2.3. Quy định pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự là cơ sở để xác định chủ thể và địa vị của chủ thể tham gia thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân Việc pháp nhân thương mại được xác định là chủ thể của tội phạm, phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã trở thành căn cứ cho việc xác định chủ thể tham gia thủ tục tố tụng hình sự truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Việc pháp nhân thực hiện một trong 33 tội phạm được quy định tại Điều 76, thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là cơ sở để cơ quan tiến hành tố tụng sẽ khởi tố bị can đối với pháp nhân. Do pháp nhân là tổ chức nên không thể đưa toàn bộ tổ chức này tham gia vào hoạt động tố tụng với tư cách bị can. Bởi vậy, khoản 1 Điều 434 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định chủ thể tham gia hoạt 75 động tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân như sau: “Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền”. Bởi lẽ, theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, pháp nhân là chủ thể của tội phạm nên tư cách bị can, bị cáo và nghĩa vụ gánh chịu trách nhiệm hình sự thuộc về bản thân pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân chỉ thay mặt cho pháp nhân tham gia tố tụng, không phải gánh chịu trách nhiệm hình sự về tội mà pháp nhân phạm phải. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân cũng không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân (khoản 2 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, vì những lý do khác nhau, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể không phải hoặc không thể theo đuổi nghĩa vụ tham gia tố tụng đến cùng. Trong trường hợp đó, để bảo đảm chắc chắn luôn có người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng, khoản 1 Điều 434 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định: “Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường hợp pháp 76 nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà pháp nhân không có người đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng”. Như vậy, việc ghi nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm chính là cơ sở để xác định địa vị pháp lý khi tham gia tố tụng hình sự của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị buộc tội. Đó là người có nghĩa vụ tham gia tố tụng, thay mặt pháp nhân thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng chứ không phải là chủ thể gánh chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà pháp nhân thực hiện. Ngoài ra, quy định về vấn đề người đại diện trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng phù hợp với quy định về trường hợp có nhiều người cùng đại diện theo pháp luật trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã điều chỉnh1. _____________ 1. Điều 13 về “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. 2. Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp...”. 77 2.4. Quy định pháp nhân phạm tội trong Bộ luật Hình sự là cơ sở để áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự trong thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân của Bộ luật Tố tụng hình sự Chỉ khi pháp luật hình sự quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm, phải chịu trách nhiệm hình sự thì quan hệ pháp luật hình sự mới phát sinh giữa Nhà nước với pháp nhân khi pháp nhân này thực hiện một tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự. Chỉ khi quan hệ pháp luật hình sự giữa Nhà nước và pháp nhân phạm tội phát sinh thì quyền khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và trừng trị pháp nhân phạm tội của Nhà nước mới được thiết lập. Phục vụ cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và trừng trị pháp nhân phạm tội, Nhà nước (thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng) có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết và theo luật định đối với pháp nhân phạm tội. Các biện pháp cưỡng chế của luật tố tụng hình sự “là những biện pháp bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình sự khách quan, nhanh chóng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”1. Do đó, quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật Hình sự chính là căn cứ để quy định về các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân bị buộc tội _____________ 1. Xem Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên): Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, tr.247. 78