🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thú Hoang Ebooks Nhóm Zalo ĐOẠN I CHƯƠNG MỘT Saigon, ngày… Liễu thân mến, Tao nói với mày là tao phải đi khỏi cái tỉnh Vĩnh Long này. Tao không chì đá như mày tưởng, tao chịu đựng không bền trước những cái nhìn soi bói của bè bạn, người quen. Tao lầm-lỡ, nhưng tao không phải đĩ-thõa như thiên hạ tưởng. Liễu ơi! đàn bà phạm tội vì trót yêu một người rồi giết một mầm sống trong bụng, phải trả một giá quá đắt… dẫu cho nước sông Cổ Chiên cũng chưa rửa sạch hết nhục nhã. Phải nuốt nước mắt, phải bịt mặt mà đi chỗ khác, để mai kia mốt nọ còn có cơ-hội lấy chồng. Ở đây, chỉ tổ làm gương xấu cho gái nhà lành. Tao phải đi, dẫu có vào nơi cùng-cốc thâm-sơn cũng cam lòng. Trước đó tao cũng muốn đi. Nhưng là đi vào hư-vô, vào cõi chết. Tao mua sẵn một ống thuốc ngủ, rồi sau đó, tao thèm món gì lập tức ăn món nấy. Liên tiếp bốn ngày, tao ngốn nào là thịt quay, thịt bò nướng chanh, cá chẽm chiên tương, bánh ngọt, xoài tượng, hột vịt lộn. Đến thỏa-thuê, chê chán. Quá no nê, con người đâm ra uể oải, chểnh mảng ngay cả chuyện tự tử. Thật ra, công việc đó đâu có khó khăn gì, chỉ cần một ly nước lạnh để đưa thuốc vào bao tử là xong xuôi, nhưng ống thuốc dấu cất ở tận đáy rương nên tao làm biếng lấy ra. Ngày thứ tư, tao đi uốn tóc, sơn móng tay, và mua bông hường về cắm trong cái lục bình ở phòng ngủ. Tao mặc một bộ “côm-lê” màu gạch tôm, dồi phấn thật khéo, thoa son thật tươi, lại xịt dầu thơm Nuit d’Orient trên tóc, để mình được đẹp đẽ trước khi từ giã cõi đời. Nhưng mà trong khi trang điểm, nhìn bóng trong kiếng, tao thấy mình đẹp, chưa đáng chết và oan-nghiệt hãy còn dài. Tao bỗng run sợ, vội lấy ống thuốc ngủ liệng vào cầu tiêu… Đó, Liễu thấy chưa? Chết đâu có dễ dàng. Phải can đảm lắm thì việc tự-vận mới đặt được kết quả. Mà thôi, tao đi là ổn thỏa. Đất Sàigòn mênh-mông, có thể vùi chôn tông tích, lẫn quá khứ. Lại nữa, tao thù đời, tao cần phải tạo lấy một tương lai. Tao muốn sau này tao đẻ một lũ con trai để thiên hạ không nhắm ngay cái lầm-lỡ của tao, mà tròng vào đời sống của chúng như trường hợp đẻ con gái. Liễu, mày là một đứa khá mặt chai mày đá, không hề đính-chính lời dèm siểm. Tao mến mày ở thái độ bình thản đầy kiêu hãnh đó. Nhưng dầu sao đất Vĩnh Long cũng không phải là thế-giới của mày. Ở đó, chỉ có cái nhãn hiệu bịp bợm. Mày cũng là một con thú hoang trong tâm-hồn. Tao chờ mày ở Sàigòn, vui buồn, chị em có nhau. Đi là phải Liễu à! Thời thế bây giờ đảo điên lắm. Saigon là chỗ để cho bọn hồ ly yêu nghiệt dấu đuôi, để chúng có cơ hội tu chỉnh lại cuộc đời. Tao hy vọng lắm, ngay khi viết bức thư này, tao đã tìm lại được sự bồng bột đối với cuộc đời như những năm xửa, năm xưa. Thật sự, tao sợ miệng đời lắm. Tao hèn nhát, quay mặt với sự thật, nhưng tao không muốn mình bị sự lầm lỗi đầu tiên tàn sát cả một cuộc đời dài. Vĩnh Long không hề dung thứ nhược điểm của ai. Người chung quanh rặt là một thứ đạo đức cứng ngắt, không thể mở cho kẻ thất bại cô đơn một sinh lộ nào. Có lý do gì mà mày muốn nấn ná ở đó? Cái chí lớn, mộng tưởng của mày, chắc là tắt ngấm lâu rồi? Cuộc sống ở Vĩnh Long không thể nào thỏa mãn những giấc mơ phiêu lưu mạo hiểm của mày. Vậy mày nên nghe lời tao. Tao cô đơn, tao cần mày. Vậy mày nên tom góp quần áo, vòng xuyến lên đây, để đi học Anh văn, và anh rể tao sẽ đưa mày làm sở Mỹ, lương mỗi tháng tám ngàn đồng. Nếu mày có miệng lưỡi khá, viết lách trơn xuôi, ảnh sẽ dành cho mày một chân phóng viên của một tờ nhật báo. Hãy làm thứ chim bói cá, gặp mồi là chớp liền. Saigon là một con sông rộng có nhiều mồi, một nơi dành cho kẻ thích hoạt động, đó Liễu. Tao mòn mỏi chờ mày. Bạn mày. HIỆP ĐỨC Tôi xếp thơ lại bỏ vào cái ví da màu đen, rồi lục-đuc thu xếp quần áo và những vật dụng cần thiết vào chiếc va-li da cũ màu nâu. Tôi đã cương quyết rời bỏ cái tỉnh lẻ đìu hiu này, nơi đã nhốt tôi hai mươi năm. Tôi có cảm tưởng như mình là một loại cô hồn thích phá phách, nhưng phải đầu hàng thầy pháp, và bị ông ta nhốt vào một cái tĩn, có dán bùa Lỗ Ban trên nắp. Tôi loay hoay viết một lá đơn xin thôi việc, nộp vào Ty Tiểu học và không cần đợi giấy phép chấp thuận. Sẵn dịp má tôi về quê ngoại chơi trọn tháng, tôi có ý định liều một lần. Tôi đi rồi xin phép sau. Nếu xin phép má tôi bỏ việc ngang, để đi đến một xứ lạ, không thân nhân, không công việc bảo đảm cho hai bữa cơm mỗi ngày, chắc chắn không bao giờ má tôi bằng lòng. Má tôi thường nói cái đất Saigon vàng thau lẫn lộn, con gái lục tỉnh lạng quạng lạc lên đó chỉ việc hư thân, và biến thành nàng Kiều lưu lạc chốn Lâm Truy. Tôi cho đó là những lời đe dọa vô căn cứ. Tôi không là loài khỉ, nên khó ai rung cây nhát được. Tôi đã từng nuôi dưỡng ý tưởng thoát ly khỏi tỉnh này, để tìm một không khí mới. Tôi sẽ rời bỏ ngôi nhà cổ âm thầm với tiếng cắc kè trên đầu kèo, như lời nguyền rủa tương lai từng đêm, với đàn chuột lắt chí chóe dưới đáy tủ nghe nhức nhối, rờn rợn trong tâm não, và tôi sẽ đi trốn mùi ngan ngát của hoa hoàng lan, lẫn hoa dạ lý thơm suốt đêm làm tôi muốn chết ngộp. Tôi ngại nghe tiếng chim heo hét lên buốt óc vào lúc tảng sáng, và tiếng xà lan xình xịch bên kia sông. Tôi muốn chạy trốn bối cảnh nhàm chán đó, cùng những âm thanh rã rời buồn nản, như cuộc sống tôi hiện tại. Tôi đi đây, ngày mai ra sao cũng mặc. Cứ đi, bỏ lại sau lưng mình cái thành phố nhỏ hẹp, với ánh đèn đường vàng vọt, với những lời dèm pha cho mọi nỗi bất hạnh, với cuộc sống che dấu, đạo đức giả vờ. Tôi vào giường dỗ giấc. Tiếng động trong nhà lẫn ngoài ngõ rỉ rả lọt vào tai tôi. Nhìn chiếc đồng hồ tay qua ánh đèn ngủ, những con số li ti mờ nhạt, tôi giương mắt to lên hơn. Hơn hai giờ đêm, giấc ngủ gần gũi. Tôi đã bắt đầu say say vì viên thuốc an thần nuốt vào lúc chập choạng tối. Tôi ngủ lơ mơ bên chiếc băng gần tài xế, thuốc ngủ còn quyện lại trong cơ thể. Tôi quàng chiếc khăn the màu đỏ túm mái tóc cho khỏi tung gió. Trời còn tối, những vì sao nhấp nháy trên nền trời đen, gió lạnh lòn vào gáy tôi như một bàn tay lạ vuốt lên đó. Chiếc khăn mỏng trùm từ trán qua gáy. Tôi gài nút áo len cuối cùng và nhắm mắt dưới đôi kiếng râm. Đèn trong xe tắt bớt, chỉ chừa lại ngọn đèn lù mù chính giữa. Tôi chập chờn trong giấc ngủ đứt nối. Bỗng tiếng xe thắng gấp làm tôi chúi mũi tới trước, và tiếng kêu ơi ới của chú lơ xe cất lên: – Mời bà con cô bác xuống xe qua bắc. Tôi choàng tỉnh dậy, hai mi mắt cay cay. Tôi bước xuống xe, lao đao trong niềm trống vắng đơn độc. Tôi ra đi không báo trước cho bất cứ đứa bạn nào. Tôi sợ đưa tiễn bịn rịn. Tôi lầm lũi bỏ quê hương đi một mình trên chuyến xe đò vào lúc tờ mờ sáng. Cuộc hành trình này sao mà đơn độc, không một ánh mắt quyến luyến, một bàn tay vẫy giã từ. Tôi vụt thấy mình mâu thuẫn. Bước chầm chậm theo đoàn người đi trước, tôi mệt nhọc chán nản, Tôi muốn quay trở lại thành phố cũ, cái thành phố mà tôi ngấy chán từ lâu, nhưng sao lúc rời bỏ nó, tôi cảm thấy ngậm ngùi luyến tiếc? Chiếc bắc từ từ rời bến, tôi âm thầm từ giã cái thành phố này, xa dần những hình ảnh quen thuộc, đoạn tuyệt những thú vui của tuổi học trò. Tôi đem theo những gì trong chuyến phiêu lưu vô định đó? Phải chăng chỉ còn là những kỷ niệm thời thơ ấu? CHƯƠNG HAI Tôi bôi dầu nhị thiên đường lên màng tang, rồi đi nhanh ra khỏi lớp, như chạy trốn những tiếng cười nói xôn xao. Đến hàng cây điệp bên hông lớp, tôi ngồi bệt trên sân cỏ mịn như phủ nhung Vài giọt ánh sáng trải qua khe lá, rơi rớt trên nền cỏ như những vết thẹo. Tôi gỡ chiếc kẹp đồi mồi sắp sửa tuột ra khỏi đuôi tóc đen dài, còn ngan ngát mùi bồ kếp. Tôi nhớ lờ mờ là những cây điệp này, hồi tôi mới vào đây, chưa cao khỏi đầu, mái tóc này vừa buông khỏi vành tai, và hồi ông giám thị chưa rụng mấy cái răng cửa. Trong một tháng, từng lớp kỷ niệm dưới mái trường này bỗng trơn tuột qua ký ức. Tôi có cảm tưởng mình là kẻ mơi tới đây vài ba hôm gì đó. Gió vỗ về trên mái tóc, tôi cảm thấy đầu mình đỡ nặng. Tôi đưa hai bàn tay mum múp thịt lên bó tóc, vụt tôi bắt gặp đường tâm đạo đứt đoạn. Nhớ lại ông chú tôi, cách đấy mấy tháng khi nhìn bàn tay tôi, ông bảo: – Con nhỏ này có đường tâm bể, số nó sau này có đời tình ái ba chìm bảy nổi. Ba tôi rầy chú, không muốn cho tôi lo nghĩ viển vông về hậu vận. Nhưng có một điều tôi biết chắc chắn là sự học vấn của tôi sẽ bị dở dang, vì đường trí đạo tôi ngắn, lại thêm một cái hố dài, rộng nằm chắn ngang qua đó. Theo tướng số học truyền khẩu, cái hố nằm trên đường trí đạo biểu hiệu sự đãng trí trầm trọng, hoặc đi đến cuồng trí cũng nên. Tôi đưa bàn tay vuốt tóc, xếp nỗi lo lắng vu vơ về tương lai dễ dàng như gom mớ tóc vào chiếc kẹp đồi mồi. Tiếng guốc lê lộp cộp trên hành lang tráng xi măng và tiến về phía hàng điệp. Tôi vụt quay lại. Kim đến gần. Tôi hỏi: – Đi đâu vậy mày? Kim không trả lời. Chợt thấy mặt nàng buồn quá, tôi vịn vai nàng: – Kim à, hôm nay có giờ âm nhạc… – Giờ cuối là giờ thường thức, tao xin phép đi về. – Mày bịnh hả Kim? – Không, không có gì. Tôi rủ rê: – Tối nay đi coi hát bóng với tao đi. Kim mở rộng cặp mắt thoáng vui: – Phim gì? – “Ba người ngự lâm pháo thủ” có Gene Kelly và Lana Turner đóng vai chánh. Kim lắc đầu: – Tao không thích phim kiếm hiệp. Tao thích phim tình cảm. Tôi trề môi: – Tao thích phim có kép đẹp… Mà có nhiều khi không cần coi phim, tao vẫn thích tới rạp hát, miễn là tụ họp bạn bè đông đủ để nói chuyện khào. Kim lặng thinh. Tôi chợt hỏi: – Kim à, mày có kép chưa? Sao mày chầm dầm cái mặt hoài vậy. Kim ngó tôi sửng sốt. Tôi vụt cảm thấy bực dọc, tự nghĩ là không còn lòng dạ nào học hành ở đây nữa. Kim dịu dàng nắm lấy tay tôi: – Nói nhảm hoài. Liễu nè, tối nay mày lại ngủ với tao. – Chắc là đêm nay có chuyện gì hấp dẫn đây? Kim có vẻ cụt hứng: – Nhà vắng, tao rủ mày về nói chuyện chơi có gì mà hứng thú? – Thôi đi bà, nói chuyện với bà chán bỏ xừ. Vả lại, tối nay tao đi coi hát bóng. Tôi đùa: – Bồ tao mua giấy cho rồi. Mày coi tao có phước không? Nàng vẫn lặng lẽ, nụ cười nhếch trên đôi môi mỏng khắc khổ. Kim ngoắc tôi, rồi chỉ vào lớp, và bỏ đi trước. Tôi đứng dậy, phủi những hạt bụi bám trên đũng quần, bước nhanh vào lớp. Tôi đã vào đây hơn ba năm, ngày mà ngôi trường này chỉ có vỏn vẹn hai lớp lợp lá, và phên vách không mấy kín đáo. Những buổi trưa, nắng luồn kẽ vách rớt trên nền đất không mấy phẳng phiu như những nhát dao chém. Ban giáo sư gồm có bốn người và một ông giám thị với mái tóc như rắc muối bọt. Các vị giáo sư vốn xuất thân từ các trường tiểu học, có khoảng mười lăm năm trong nghề thầy giáo, được đề cử lên dạy trung học. Mỗi vị phải kiêm ít nhứt là bốn môn học. Sáu trăm lá đơn nộp vào Đệ Thất mà nhà trường chỉ chọn sáu mươi đứa. Số học sinh bà con quen biết xa gần với ông Hiệu trưởng và ban giáo sư chiếm hơn phân nửa. Đứa nào vừa hên, vừa giỏi mới có thể chen chân vào số chỗ trống còn lại. Bọn học sinh được chấm đậu vào học đó có khác nào cá vượt mấy lần vũ môn mới hóa thành rồng. Chúng tôi là những học sinh tiên phong, để các giáo viên tập sự làm giáo sư trung học. Hình như ngôi trường này, ngày trước là nhà xác của một bệnh viện, và ngôi nhà vĩnh biệt này nhường lại cho Ty Tiểu học. Kim là bạn ngồi cách tôi một cái bàn, ngang mặt. Nàng sống lặng lẽ như một cái bóng. Vốn ít nói và tình cảm ít khi biểu lộ trên mặt. Đôi mắt lá răm nhiều bóng tối của Kim lúc nào cũng nhìn chăm chăm như muốn khắc vật trước mắt vào tim. Nàng thích màu tím một cách say sưa – quai nón lá, chiếc kẹp lóc, giấy bao tập, cành hoa nhung trên mái tóc đều màu tím. Tôi có cảm tưởng Kim bị màu tím vây khốn suốt năm tháng. Bạn bè thì thầm cho là nàng lập dị, và xem Kim như cái bóng tím lung linh trước mắt. Sự lãnh đạm của Kim đôi khi làm cho tôi cảm thấy khó chịu. Những giờ xả hơi, bạn bè túm tụm nhau tán gẫu, Kim yên lặng bỏ ra bờ rào bứt những chùm hoa ti-gôn, với ba cánh hình quả tim, đem ép vào quyền nhật ký. Kim lại mê thơ tiền chiến và nàng chịu khó lượm các bài thơ Nguyễn Bính, T.T.Kh. chép vào một cuốn sách bằng giấy “pơ-luya” màu đóng lại từng lớp như miếng bánh da lợn. Nàng lựa cho mình cái biệt hiệu Thùy Liên để thay cho cái tên cúng cơm do cha mẹ đặt. Tôi thường lén đọc mấy bài thơ do nàng sáng tác chép trên mấy trang giấy màu tím lá cẩm, trang hoàng bằng những cánh hoa ép khô. Những ngày nghỉ học, Kim đi bắt bướm đem về chích “phọt-môn” để giữ cho bướm đừng rã , rồi lần lượt ép vào khung nhung tím thẩm lộng kiếng treo trong phòng ngủ. Có một lần tôi đến thăm Kim nằm dưỡng sức tại phòng riêng sau một cơn đau trầm trọng. Bước vào phòng nàng – trên tường ngoài những khung bướm, còn xen kẽ những câu danh ngôn, tục ngữ viết nắn nót lã lướt bằng mực tím trên nền giấy trắng, tôi vụt cảm thấy mình đi lạc vào một thế giới thuần tím – riềm, màn, chăn, chiếu cũng toàn màu tím buồn rầu. Tôi buột miệng bông đùa: – Nè Kim, mai sau lấy chồng, nhớ lựa thằng nào tên Tím. và khi có con nhớ đặt là Tím Than,Tím Nhạt, Tím Hoa Cà, Tím Lá Cẩm nghe. Kim che miệng cười, nụ cười như mếu. Từ nhỏ, nàng đã tạo cho mình một thế giới biệt lập và chui rúc vào đó, sống bó mình giữa những màu tím, bỏ phí các vui tươi hồn nhiên của tuổi trẻ. Kim ghét nói chuyện thời trang. Tôi đã dần dà chinh phục nàng bằng cách mách mấy bài thơ tiền chiến lãng mạn mít ướt cho nàng thu lượm vào quyển nhật ký ướp bông công chúa mùi thơm ngọt ngào. Có lần tôi bắt gặp nàng đỏ mặt và đôi mắt mọng ướt khi đọc quyển Nửa Chừng Xuân. Kim khóc dễ dàng. Tình cảm nàng như sợi dây đàn căng thẳng. Trong lúc vui, nàng thường nói với tôi: – Dường như Thượng Đế đã cho tao hai lu nước mắt trong người, chỉ cần một cơ hội nhỏ nhen nào đó là tuôn ra. Kim vịn vai tôi, giục: – Bà Hảo triệu mày vào ngay. Tôi đứng dậy bước theo Kim. Vào đến lớp, tôi thấy các bạn đang bàn tán hò hét sôi lên. Bà giám thị đứng trên bục cười nói xôn xao. Nụ cười bà nhăn nhở vén cả cái nướu thâm đen. Thấy tôi vào, bà Hảo ngoắc lại và mở bóp trao cho tôi một mẫu giấy bằng bàn tay. Tôi chợt thấy hàng chữ.: “Cấm Túc ngày chúa nhật” viết rất sắc bằng ngòi bút lá tre. Nét chữ tím bay bướm làm vành tai tôi nóng ran lên và hình như máu gấp rút dồn lên mặt. Tôi xếp tờ giấy bỏ vào túi áo bà ba, cúi đầu cám ơn bà Hảo rồi lặng lẽ bỏ về chỗ ngồi. Bà Hảo tiếp: – Tôi đã xin với giáo sư Trường cho em khất vào chúa nhựt sau vì thầy Biểu có ý mời tất cả hai lớp Đệ Tứ đi xuống thăm vườn cam của thầy ấy chúa nhựt này. Tôi ngồi cười lặng thinh. Tôi nhớ lại từ ngày học Việt văn với thầy Trường, chưa bao giờ tôi khỏi bị đem ra làm để tài cho thầy nhiếc. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy số điểm trên mười lấy một lần. Điểm nào cũng khởi sự bằng con số không và số đơn vị chỉ là con số chưa qua tám. Thầy Trường hà tiện hay tại tôi phải có cái tội lớn là viết chữ xấu? Tôi đụng một bóng người mặc chiếc áo trắng dài tay bén nếp cầm một chiếc cặp to tướng dầy cộm lủi thủi bước nhanh từ phòng giáo sư sau hồi chuông reo báo hiệu giờ Việt văn đến . Tiếng sỏi lạo xạo trên lối đi gấp rút như khuấy lên nỗi chán chường trong lòng tôi từng nhịp. Vào đến lớp, ông Trường liệng chiếc cặp đánh ầm trên bàn giáo sư và đi ngay xuống chỗ tôi ngồi. Chiếc kiếng trắng máng trên vầng trán bóng nhẵn như đánh sáp. Ông xỉa xói: – Liễu, chữ viết của con không ai đọc nổi. Con chưa làm bác sĩ, không có quyền viết tháo nghe chưa? Ông quày trở lại mở cặp lục một tờ giấy gạch vuông. Bài Luận của tôi chằng chịt nét viết chì đỏ. Ông trao cho tôi và, gằn từng tiếng một, nước miếng bắn lên tay tôi âm ấm. – Đáng lý bài này được mười bốn điểm nhưng… Ông nhíu mày nhìn xuống tờ giấy lật lại trang sau tiếp: – Nhưng thầy bớt phân nửa số điểm về tội khác khỏi phải giải thích. Tôi nhìn xuống giọt nước miếng còn đọng lại trên da bàn tay, cảm thấy nỗi gớm ghiếc trôi nhanh qua đầu. Chờ cho ông Trường đi nơi khác, tôi rút nhanh chiếc khăn trong túi áo lau vết nước bọt, bôi xóa gấp rút sự sỉ nhục của ông ta. Tôi đọc nhanh hàng chữ phê bình dành cho giáo sư trong khung vuông trên đầu bài: ”Cảm thấy nữ sinh thông minh nhưng vì chịu ảnh hưởng bạn bè thành ra lơ đãng”. Hàng chữ đỏ màu máu viết rất sắc, bay bướm để làm gương cho tôi. Tôi tự hỏi: không biết giáo sư Trường muốn nói tôi bị ảnh hưởng ai mà cứ mỗi bài Luận tôi bị mắng, bị chế diễu như một con hề cái hạ cấp, rẻ tiền và hết thời. Tôi ngán những giờ Việt văn, hãi hùng những đòn mà thầy Trường trừng trị cái tội viết chữ xấu vốn dĩ trời đã ban cho tôi, ghét những giờ cấm túc, một cách giam lỏng, một lối phạt tù đối với học trò. Một trăm tờ giấy gạch vuông viết hai mặt những chữ lỡ bỏ dấu không ngay. Viết xong bài phạt mấy ngón tay tôi cứng đờ ra và dường như các đầu lóng tay hết cả chất nhờn để co giãn nữa. Có bữa ông đập bàn, hét muốn lạc giọng: – Có ỉa cũng rán ỉa cho ngay lỗ xí chớ có đâu làm bừa bãi như vậy, Liễu! Cả lớp lặng thinh, sự bất mãn le lói hiện trên một vài nét mặt. Tôi giữ thái độ im lặng trịch thượng và chống cự bằng hai con mắt mở gườm gườm nhìn vào ông. Chắc ở tiền kiếp, tôi đã hạ nhục ông trước công chúng một vài lần gì đó nên bây giờ ở kiếp đầu thai lại, ông phục hận tôi bằng hình thức thầy trò chăng? Tôi ngại những lời mắng nhiếc công khai mà tôi chỉ có quyền câm miệng không biện bạch chi cả. Nếu trả treo, chống báng thì tôi sẽ bị hội đồng giáo sư tống cổ ra khỏi trường. Tôi đã cố gắng bằng hết mọi khả năng nhưng sao vẫn chưa đủ sức chống lại những định kiến xấu mà ông đã nghĩ về tôi? Thỉnh thoảng tôi muốn thay đổi không khí bằng cách “cúp cua” giờ Việt văn, tránh né những lời trách mắng, tránh những cái nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống của ông Trường nhưng ông cũng chẳng tha cho và quyết tìm đến tận nhà và bằng một giọng thương hại, ông xổ vài bài luân lý đến nhức cả đầu óc, nặng cả lồng ngực. Mãi đến bây giờ, tôi dần dà quen thuộc với những miếng giấy cấm túc, quen nghe những lời nói đắng chát của ông, quen nhìn số điểm lúc nào cũng khởi đầu bằng con số không to tướng và cũng quen tay viết mỗi chữ viết sai chính tả hằng trăm tờ giấy học trò. Một giọng từ cuối lớp oang oang lên: – Thưa cô xin cho con Liễu khỏi bị cấm túc luôn cho rồi đi cô. Bà Hảo lại cười, nhìn tôi thương bại: – Thật tình cô không có quyền gì trong việc ông Trường cả. Cô chỉ có thể xin cho em khất lại kỳ sau. Cả lớp nhao nhao lên: – Cô rán thử một lần xem sao. Bà Hảo xua tay, toe toét cười: – Ù, để cô nhờ thầy Biểu xin giúp một lần coi ra sao? Cô Hảo bước lại gần tôi ân cần: – Liễu! lúc này cô coi em có vẻ… Bà ngập ngừng .Tôi hỏi vặn: – Thưa cô sao đó cô? Bà Hảo có vẻ ái ngại: – Em lộ vẻ bất mãn với nhà trường. Tôi đáp gọn: – Thưa cô, đâu có. Em.. Bà Hảo nghiêm trang – Em có chuyện gì buồn? Tôi cũng nghiêm trang: – Thưa cô, em không muốn học nữa. – Vì lý do gì? – Em chán đời lắm. Bà Hảo cầm tay tôi: – Hồi đó có một thời, cô cũng như em. Cơn chán đời rồi sẽ trôi qua. Em phải kiếm cái bằng Thành Chung đã. Đức ngồi gần tôi xía vào: – Nó sắp lấy chồng, cô à. Bà Hảo ngạc nhiên: – Thật sao em? Tôi cự Đức: – Không giỡn nghen. Tao đang nói chuyện đứng đắn đây. Rồi tôi xoay qua bà Hảo, lòng buồn rũ rượi. Tôi nói. – Cô à, em không muốn học chữ. Em muốn học nghề. – Bộ con gái học bao nhiêu chữ đủ xài rồi sao? Tôi cúi đầu lặng thinh. Bà Hảo cười buồn: – Em sao lúc nào cũng vậy. Không ai hiểu em cả. Bà Hảo không phải là bà giám thị dưới mắt bọn học trò chúng tôi. Tôi che miệng ngáp: – Em hiểu em rõ lắm. Em đang chán, hết muốn đi học. Bà Hảo nói lớn: – Em rán chịu cấm lúc tuần sau. Cô sẽ tìm cách giúp em. Tôi nói cũng lớn: – Có trời mà giúp em hết chán. Tiếng hò hét lẫn tiếng huýt sáo sôi lên huyên náo tưởng chừng như tốc nóc tôn bay bổng. Bà Hảo quay trở lại bục gỗ, vẫn giữ nụ cười, khẽ lắc đầu. Bà tìm cây thước nhôm đập khe khẽ trấn áp những âm thanh sôi réo lên. Tiếng nhốn nháo yếu dần, rồi mất hẳn. Bà Hảo hai tay xoa vào nhau, hai bàn tay gầy guộc nổi gân xanh. Bà Hảo đối với chúng tôi, ngoài cương vị bà giám thị, còn thêm cái tình thân mật của một bà chị vui tính dễ tha thứ bao quanh một lũ em nghịch ngợm, hỗn loạn. Vào một buổi chiều trước giờ ra sân tập thể dục do bà Hảo hướng dẫn, thăng Tín nằm ngửa trên bàn nghêu ngao hát trong khi chờ đợi bà từ phòng giáo sư xuống dắt đi. Cao hứng, thằng Tín lấy gân cổ ngâm: Mấy đời bánh đúc có xương Mấy đời giám thị biết thương học trò. Giọng của Tín vừa hài hước vừa rên siết. Bà Hảo đã hiện lù lù trước cửa lớp. Tín vẫn thản nhiên lấy giọng ca thêm vài bản Lý Con Sáo. Cả lớp cười rộ. Bà Hảo bước vào vỗ nhẹ đầu nó: -Thôi đừng ca bậy nữa, ngâm thơ như vậy không sợ cô buồn sao? Thằng Tín lỡ bộ ngồi dậy cười lỏn lẻn sượng sùng như vừa đi ăn cắp vặt bị người ta trông thấy. May quá nếu hai câu thơ đó lọt vào tai ông Tổng Giám Thị thì có lẽ cả bọn đều bị cấm túc ít nhất là một tháng. Từ năm bọn chúng tôi còn học Đệ Lục, thằng Quan trưa trưa vô lớp sớm. Nhiều thì giờ không biết lấy gì tiêu khiển, nó ngứa ngáy tay chưn, bèn lên bảng vẽ một cái chén và dưới cái chén con số tám màu đỏ và phía sau cùng, nó vẽ con số không to bằng cái dĩa bàn bằng phấn xanh. Ông Mậu – Tổng Giám Thị – đi ngang tình cờ nhìn vào lớp. Thằng Quan vẽ xong đã bỏ ra ngoài xe nước mía đá ngồi nhâm nhi một ly nước đá si-rô. Ông Mậu nhìn lên bảng, đôi mày rậm dài như hai cây chổi tàu cau nhíu lại và những nếp nhăn trên trán hằn lên. Ngừng một lúc, ông quày quả bỏ lên phòng giáo sư. Đến giờ chuông reo vào học, khi chúng tôi đã ngồi yên, thằng Quan lật đật chạy xóa bảng thì ông đã lù lù tiến tới trước cửa lớp với khuôn mặt đỏ rần và cử chỉ mất bình tĩnh. Sự đe dọa của ông đè nặng chúng tôi. Thằng Tín nói khẽ: – Chết thằng Quan rồi, nó tới số mới chọc ổng. Thoáng một cái, thằng Quan đã tái mặt và ngồi bất động như tượng gỗ, chờ đợi… Môi ông Mậu mím chặt lại khắc nghiệt và mắt ông mở trừng trừng như giam cả bọn chúng tôi vào trong con ngươi. Không khí lớp học bỗng ngộp thở. Ông bước tới bàn viết hét gần lạc giọng: – Đứa nào vẽ trên bảng như vậy, nói thiệt, tao tha. Bằng không tao truy được thủ phạm là đưa ra Hội Đồng Kỷ Luật và tống cổ luôn. Chúng tôi ngầm bảo nhau bằng ánh mắt: thà cùng bị cấm túc cả lớp, chớ nhất định không chỉ thủ phạm. Ông ngoắc một nữ sinh có tiếng hiền lành khờ khạo nhất lớp, hỏi: – Nè em gì đó? Oanh khúm núm thưa: – Con tên Oanh. Ông Mậu gật gù chỉ lên bảng: – Đâu em Oanh đọc dùm qua coi nó viết gì đó? Oanh mỉm cười đưa tay vuốt chót mũi ngập ngừng, yên lặng một lúc rồi lắp bắp thưa: – Con không biết ý nghĩa hình vẽ đó. Ông càng bực dọc, sẵn đứng gần thằng Tín, ông lôi nó dậy: – Chắc thằng này biết. Tín nhìn Quan như hỏi ý kiến rồi dõng dạc nói: – Theo con nghĩ, hình đó nghĩa là bác Tám Mậu. Cả lớp không nhịn được cười. Không khí treo chỉ ban nãy vụt được bóc trần. Chỉ có thằng Quan có vẻ nghĩ ngợi. Ông Mậu cười một nụ cười pha một chút cay nghiệt. – Coi nó vẽ cái chén nói theo tiếng Nam là bát, đến số 8 và số không kêu bằng tiếng Tàu là Mậu. Đôi môi bắt đầu run lên, ông tiếp: – Tao đâu có chọc ghẹo, mắng ông chửi cha nó, mà nó hài tên, hài thứ tao như vậy. Ông vừa dứt lời thì thằng Quan từ từ đứng dậy, mặc dầu thằng Tín ghì lấy nó ngồi xuống. Thằng Quan ngập ngừng thưa: – Thưa thầy, chính con vẽ. Tức thì ông Mậu tiến về phía nó và tặng trên má nó một tát tai nháng lửa. Năm ngón tay in rõ trên đôi má màu xám của Quan. Nó lảo đảo ngã chúi nhủi tới trước, chiếc kính cận của nó văng xuống nền gạch. Đôi mắt nó ẩm ướt nheo lại vươn một chút căm hờn. Quan khom xuống lặng lẽ lượm chiếc kiếng lên mang vào. Không khí nặng nề ngột ngạt trùm xuống lớp học. Cơn giận của ông Mậu chưa rút xuống, tay ông vẫn run run. Để giữ bình tĩnh, ông lấy điếu thuốc gắn trên môi, rồi bật lửa. Ông chậm rãi bước lên bục gỗ nhìn tổng quát lớp học và gằn từng tiếng một: – Tất cả các học sinh lớp Đệ Tứ A phải cấm túc chiều thứ bảy luôn cả sáng chúa nhật, nghe rõ chưa? Ông trỏ vào mặt Quan tiếp: – Còn thằng kia, mày phải cấm túc trọn tháng này. Ông hất hàm cười khẩy: – Mày cần kêu ca gì không? Tao nhân đạo lắm, không thôi tao đưa mày ra Hội Đồng Kỷ Luật và tống cổ ra khỏi trường. Ông rít thêm một hơi thuốc nữa, sửa lại chiếc cà-vạt trên cổ, rồi bước ra cửa. Chúng tôi thở phào như vừa trút một tai ách bất thần. Ông Tổng Giám Thị đã thết chúng tôi một chầu ăn sáng bĩ bàng. Tai họa bất thần làm cả lớp bàng hoàng. Vài nét mặt bực dọc vì bị họa lây nhìn Quan một cách ghét bỏ lẫn hờn dỗi. CHƯƠNG BA Tiếng chuông nhà thờ róng rã ngân dài báo hiệu giờ lễ đầu chấm dứt. Hàng lớp người từ nhà thờ tuôn ra như một dòng suối chảy mạnh. Tiếng guốc lẫn tiếng giầy trên lối sỏi rào rạo ê óc. Gió sông thổi mạnh làm rối tung những mái tóc xõa dài và nô giỡn với mấy tà áo màu sặc sỡ như những cánh bướm chập chờn trong gió sớm. Sao hôm vừa mới lặn, nền trời đen màu chì nứt ra và những luồng ánh sáng từ dưới chân những vườn cây ăn trái phun lên. Sương mù trắng đục màu muối bọt vẫn còn phủ kín những mái nhà lưa thưa bên kia sông. Những chiếc xuồng rau cải chở khẩm thỉnh thoảng tròng trành vì những chiếc xuồng gắn máy đuôi tôm rẽ nước, xô sóng dồn vào phía sau lái. Các bác xuồng câu tôm nhổ sào, thổi chiếc đèn “ con cóc” lồng trong khung kiếng hình lục giác và lần lượt bơi về ngủ bù lại đêm thức gần trắng. Họ có vẻ uể oải, mệt nhọc co ro trong chiếc áo “ bành tô” sờn vai. Tiếng búng lốc chốc của lũ tôm cựa mình trong rọ chật ních bên cạnh be xuồng Chúng tôi đã tề tụ đủ mặt trước sân trường nhốn nháo như đàn vịt vừa thả ra khỏi chuồng. Gần ba mươi chiếc xe đạp cũ mới đủ loại. Bọn con gái mặc đồng phục áo bà ba trắng, quần đen. Những chiếc nón lá nhấp nhô như mấy tay nấm rơm trôi tới lui trên sân cỏ. Bà Hảo vừa bước vào cổng chính giữa tiếng reo hò, mừng rỡ của lũ học trò. Bà tươi cười, cầm chiếc nón lá quai nhung đen và ăn mặc đồng hóa với bọn nữ sinh. Một giọng xuýt xoa: – Cô hôm nay coi trẻ như nữ sinh trường áo tím. Bà Hảo dẫy nẩy: – Các em cứ ngạo cô hoài. Cỡ cô để vào viện bảo tàng là vừa. Giọng con Đức thì thầm bên tai tôi: – Nữ sinh Từ Dũ đó, tụi mày ơi. Chà hôm nay ông Biểu gặp cô phải xỉu liền. Bà Hảo rút chiếc khăn lụa trong túi áo ra lau những giọt mồ hôi rịn trên mặt đắp phấn bột. Môi cô không khép kín răng biểu hiện sự dễ dãi cởi mở. Nụ cười cô lúc nào hình như cũng chực sẵn ở vành môi tô son màu tím để che dấu làn da môi thâm đen. Con Đức báo cáo với chúng tôi là bà Hảo chỉ đóng kịch vui tươi ở nhà trường, chớ về đến nhà, bao giờ bà cũng bực dọc cau có khi nhìn ông chồng trong manh áo rách toang, mốc thếch, hôi hám với cái đầu trọc nhẵn nhụi. Ông Chánh, chồng bà, mắc chứng bệnh khật khùng, tái phát nặng từ ngày lấy bà được vài tháng gì đó. Người biết chuyện đồn rằng ông Chánh điên chữ. Ngày ông du học bên Pháp trước khi trở về, nước với mảnh bằng Cử nhân triết học, bọn Tây muốn hủy diệt người Việt nào kiến thức rộng, nên tiêm cho ông một mũi thuốc gì đó và ít lâu sau ông không còn tỉnh táo nữa. Suốt ngày, ông chỉ biết đọc báo, rồi thảo những bài diễn văn dài hàng mấy trang và đem ra trước nhà, đứng bên hòn non bộ oang oang đọc. Nhà bà Hảo quay mặt ra đường đối diện với nghĩa địa. Con đường đá này dẫn đến ngôi trường Tiểu học cách nhà bà một cái cầu bắt ngang con kinh nhỏ. Từ trường Tiểu học, có thể nhìn ra sân nhà bà. Bên kia nghĩa trang là hàng me sầm uất che rợp cả lối đi. Các bác phu xích lô thường đậu xe dưới gốc cây ngủ trưa. Ông Chánh, trước khi diễn thuyết, phải thay chiếc áo xanh thợ thuyền rách nát phía sau lưng. Ông phát thanh mỗi ngày hai lần, buổi sáng trước khi học trò vào lớp và buổi chiều lúc tan trường. Khán giả trung thành của ông là mấy thằng nhóc chân cẳng mốc cời. Ông đi đi lại lại, tay chắp sau mông, ra vẻ trầm tư một lúc. Mặt trời ban mai tuôn ánh nắng xuống chiếc sân gạch vuông. Nước trong hòn non bộ chốc chốc lại xao động. Bầy cá thia thia Tàu vẫy đuôi giỡn nắng trong khóm rong mềm mịn lả lướt. Ông Chánh rách rưới, bẩn thỉu thấp thoáng giữa khoảng sân chen chúc các chậu hoa bằng sành, bóng ngời được ông chăm sóc cẩn thận. Tất cả thì giờ còn lại của ông mỗi ngày là trồng trọt, vun quén cho hoa. Ông không còn biết sự hiện diện của bà Hảo trong ngôi nhà cổ kính này. Ông đã rời ngôi nhà chạm trổ từ cây cột với mái nhà ngang dành chứa lúa ruộng. Gia sản ông hiện giờ chỉ còn vài ba bộ đồ lành và một chiếc áo rách rưới dành cho lúc ông diễn thuyết. Mỗi ngày ông xuống con rạch sau nhà mò cua, bắt cá đem lên tự làm thức ăn lấy. Trong lúc gào thét chửi bới, ông thường vỗ ngực khoe có một đời sống tự do, độc lập. Nếu những con cá nào ông cho là chưa đúng tuổi trưởng thành của nó là ông thả ngay. Mãi đến bây giờ, hai mươi năm trôi qua, bà Hảo nhìn ông chồng với nét mặt thản nhiên không cau có khi nghe ông nói nhảm. Thỉnh thoảng, bà cũng che miệng cười lúc nhìn ông chồng hùng hồ rủa xả chế độ thực dân Pháp, ông sỉ nhục chính quyền hiện tại, bêu riếu ngạo nghễ tôn giáo. Thỉnh thoảng người ta nghe tiếng thét sang sảng lan rộng cả vùng: – Việt nam muôn năm! – Thằng Tây cướp nước, buôn lậu văn hóa. Đả đảo! – Bảo Đại bị vợ ghen đánh què giò! – Đả đảo Hít Le! Hoan hô Ấn Độ. v.v… Ông vừa nói vừa thở. Hai đường gân cổ nổi gồng lên mồ hôi rịn từ chân tóc, chân lông. Mỗi câu hoan hô hay đả đảo ông đều hướng nhìn bọn khán giả tí hon, rồi đưa tay chào chúng theo kiểu nhà binh. Lũ trẻ thích thú reo cười ầm ĩ làm ông phấn khởi hơn và ông cố gắng kéo gân cổ hò hét đến lạc giọng. Vài ba người đi bộ, chay lại nhìn và bọn học trò bị ông thu hút quên cả giờ học sắp đến. Tiếng trống vào học giục giã, réo gọi. Cả bọn ùn ùn chạy rần rộ qua cầu ván. Có đứa còn tiếc rẻ, ngoái cổ lại nhìn. Đôi khi, ông không cần khán giả, cứ đến giờ là ông ra sân nói cho hả hơi. Giọng ông oang oang và tiếng lá của hàng dương bên nghĩa địa rì rào bản nhạc đệm. Mắt ông mở trừng nhìn những ngôi mộ đất chen chúc nhau như gửi những nỗi uất ức cho những người khuất mặt. Nói một lúc, ông nhìn bóng nắng đọng vũng trên thềm nhà và ông ngừng ngay cuộc diễn thuyết, ông lấy tay áo lau mồ hôi chảy nhễ nhại trên vầng trán cao bóng nhẵn như tô sáp, đoạn lầm lũi vào nhà trên khuôn mặt rám nắng còn vương một chút hờn dỗi lẫn khoái trá. Ngày ông Ngô Đình Diệm vừa lên nắm chánh quyền, ông bị xe cảnh sát “ xúc” chở về bót. Khi bị trói thúc ké hai tay trong chiếc xe lưới bốn bề, ông như con sư tử vừa bị nhốt, gào thét, chửi rủa, điên dại. Các cảnh sát viên phải nhét khăn vào miệng ông và, ông được thả sau vài ba tiếng đồng hồ khi bà Hảo xách dù tới lãnh, giải thích với nhà cầm quyền về chứng mất trí trầm kha của ông. Ông đã từng nếm mùi nhà thương Chợ Quán. Vào đó, giữa thế giới dở điên dở tỉnh, ông là lãnh tụ sáng suốt của họ. Ông bày ra những yêu sách cho tất cả bệnh nhân điều trị nơi đây. Ông cầm đầu làm loạn. – Đả đảo Giám đốc bệnh viện. – Yêu cầu cho chúng tôi ăn uống bổ dưỡng. – Đập phá chỗ ăn ngủ thiếu vệ sinh. Sau mỗi câu hò hét của ông, các bệnh nhân nhao nhao lập lại như gánh hát sơn đông mãi võ làm náo động cả dưỡng đường. Ông đứng vỗ ngực, oang oang hò hét giữa đám đông, bộ điệu oai phong lẫm liệt như một nhà lãnh tụ. Sau đó xe chữa lửa cho vòi rồng vào tắm cả bọn. Ông Chánh là cục nợ “trí thức” của bà Hảo và bà đã phải trả cả một buổi xuân xanh. Nắng dịu, mặt trời chiều chuộng bọn chúng tôi tôi đi du ngoạn xa thành phố hơn hai mươi cây số nên khuất vào nền mây âm u. Bà Hảo đứng giữa bọn học trò mà mắt vẫn liếc về phía cổng trường chờ đợi, có vẻ sốt ruột. Bọn tôi ngồi bệt xuống sân cỏ tán gẫu để thu ngắn giờ khởi hành. Có đứa bày ra trò “đá gà nước”. Cả bọn con gái tán đồng, mỗi đứa đi tìm nhổ một cọng cỏ còn ngậm sương sớm. Đức réo lộng lạc: – Tao dành “ đá” với con Liễu. Ai giựt nó sẽ bước qua xác tao. Đức tằng hắng thị oai. Từ hàng Giáo Sư, Giám Thị đến nam nữ học sinh cả trường, ai không biết cái tính đanh đá chua ngoa của nàng. Tuy nhiên, nàng thích làm nghĩa, thích binh vực kẻ yếu khi họ cần đến nàng. Đức có khoa “võ miệng” tinh thông chưa có ai là địch thủ trong lớp. Bọn tôi đặt cho nàng hỗn danh là “Đức Cống”. Nàng là một mẫu người đồng bóng, vui buồn bất thường, một loại người “trợt búa sút cán”. Bọn nào hiền lành thì tránh né nàng. Chúng tôi thì thầm: – Thôi, tránh voi không hổ mặt nào. Có đứa thêm: – Mình chén kiểu đụng với muỗng dùa chỉ lỗ. Bọn cố tình ăn thua đủ bảo nhau: – Hạ con này một trận cho nó bỏ tánh kiêu hãnh, phải dắt nhau ra sân banh thanh toán võ mồm nếu cần đến võ tay chân cũng được. Hè năm ngoái, Đức đưa quyển “Lưu Bút Ngày Xanh” chuyền tay tất cả bạn bè trong lớp ghi những cảm tình và những kỷ niệm sau ba năm chung học. Nội dung quyển lưu bút là than thở buổi chia tay về nghỉ hè và lòng quyến luyến chủ nhân quyển lưu bút. Người viết vào đó trước hết phải trang trí quanh tấm ảnh mình bằng những cành hoa hồng, hoa tulipe cắt từ những tấm cạc bonne année. Đứa nào khéo tay thì vẽ thêm bướm, thêm cảnh trăng mọc, cảnh cánh buồm trên sông. v.v… Giọng văn viết cho chủ nhân quyển lưu bút phải thật sự mít ướt, quanh quẩn những từ ngữ nào là sầu chia ly về, phượng vĩ rơi trong sân như màu máu.. mặc dầu người viết vào đấy toàn là những cảm nghĩ trái ngược với lòng mình. Tôi nghĩ rằng quyển lưu bút là một pho nói xạo, tình cảm giả, chữ nghĩa ăn rập nhau như được đúc từ một khuôn bánh in. Cái tật nói dai, nài nỉ khỏe của Đức đủ buộc hơn ba phần tư lớp học lần lượt biên cảm nghĩ vào đó. Phần còn lại là mười đứa con trai, Đức mới nghĩ trao cho Sáo, đứa con gái cuối cùng trong lớp – Sáo Mồng – vì ả lúc nào cũng chải tóc phồng to trước trán như cái mồng của con gà trống. Đức và Sáo cạnh tranh nhau từ cái chua ngoa đanh đá đến tấm nhan sắc, kể cả tiếng ho, hơi thở. Trong giờ nữ công, Sao đang ngồi tẩn mẩn thêu bên cạnh một mảng ánh sáng rớt từ trên cành me keo rơi xuống, đọng vũng trên bàn học, nhuộm vàng mái tóc Sao. Đức men tới chìa cuốn lưu bút bọc gấm màu vỏ lựu với nét chữ sáng lấp lánh màu ngân nhủ. Đức hạ giọng: – Sáo viết cho mình để dành kỷ niệm nghe Sáo? Sáo nhướng mày, ghim cây kim vào khung vải nhìn vào quyển lưu bút rồi lạnh lùng lắc đầu: – Tao chẳng biết viết gì vô đó. Vả lại, tao không có hình đẹp và bông hoa trang trí vào đó. Đức nài nỉ: – Viết gì cũng được, miễn có chữ của mày là tao vui rồi. Sáo liếc tôi rồi nheo mắt. Điệu bộ ngạo mạn khinh miệt làm Đức có vẻ hờn dỗi nhưng nàng cố gắng xếp lại tự ái, năn nỉ thêm một lần nữa. – Chỗ chị em, mày rán viết cho tao mấy câu thôi. Sáo cười nửa miệng, hỏi: – Còn nếu tao không có hình thì gắn gì vô đó? Đức vuốt lưng Sáo, giong vỗ về: – Mày nói giỡn, chẳng lẽ hồi đó đến giờ, mày chưa chụp hình lần nào? Sáo tiếp lời: – Tao lấy hình ở trong bằng cấp Tiểu học dán được không? Đức ép bụng, vờ tươi cười: – Ừa, sao cũng được, miễn là có hình mày thì thôi, kỷ niệm chớ đâu có phải xin hình đẹp như ảnh hoa hậu. Nói xong, Đức dúi quyển lưu bút vào lòng Sáo, rồi bỏ đi mang theo niềm hy vọng sẽ đọc được những lời vuốt ve dù rằng sự nịnh nọt đó, có nhiều khi Đức cũng cảm thấy chói tai. Sau một tuần thúc giục từng buổi học, Sáo trao lại cho Đức quyển lưu bút. Đức hối hả giở ra xem. Mặt nàng bỗng xám dần như màu sáp. Chiếc ảnh bán thân của Sáo không có lấy một cành hoa để trang trí và dưới tấm hình là bốn câu thơ cảm để của Sáo: Đức Cống đâu trôi tắp lại trường. Tao mày hai đứa chẳng yêu thương, Nể lời năn nỉ, tao cho ảnh. Xin chớ vì đây hiểu lạc đường… Đức xếp tập lưu bút ném lên bàn, cười móc. Nghĩ một lúc, nàng giở ra xé toang chỗ bài thơ rồi ngoe ngoải bỏ đi ra, trong lúc Sáo cười dòn. Tiếng cười của Sáo như đập vào tim Đức từng nhát một. Và bắt đầu từ đó, chiến tranh ngấm ngấm giữa hai người chỉ chờ dịp châm ngòi là bùng nổ dữ dội. ☆ Trận đá gà nước hào hứng đến độ lôi cả bà Hảo nhập bọn với chúng tôi, Anh Nam Giò tình nguyện ăn thua đủ với bà Giám Thị. Bà Hảo rút một cọng cỏ mọng nước. Bà dùng móng tay nhọn nặn chất nước nhỏ bằng đầu kim gút. Giữ cho giọt nước bên kia địch thủ tóm cả về bên mình. Đến lượt bà Hảo đấu với Nam Giò – anh này có tiếng cao nhất trường chiếc đầu anh trôi nổi trên sân mỗi khi có dịp tập họp cả trường nghe ông Hiệu trưởng nói chuyện. Ai muốn tìm ảnh, khỏi mất công đi mà chỉ cần nhìn cái đầu nào vượt hẳn lên trong đám. Chúng tôi làm một lũ trọng tài vây quanh. Kẻ ủng hộ Nam Giò, người theo phe cô Hảo. Mỗi toán cổ võ “gà” của mình. Nữ sinh về phe bà Hảo. Còn bọn con trai ủng hộ Nam Giò . Đức rộng họng hét to: – Rán đi cô, kẻo mất mặt tụi em. Bà Hảo cố nhịn cười và giữ cho giọt nước trên cọng cỏ không bị lay động. Lũ con trai gào thét “cho nước” Nam Giò. Bà Hảo chìa con gà cỏ của mình sẵn sàng chờ đợi. Nam Giò đưa cọng cỏ ngậm nước xáp tới. Cả bọn hồi hộp chờ đợi bà Hảo kề đầu cọng cỏ của mình dúi nhẹ vào cọng cỏ của anh Nam. Chỉ bằng một cái chớp mắt, giọt nước ở đầu cọng cỏ bà Hảo đã “tóm” giọt nước của Nam Giò về phía mình. Bọn con gái vỗ tay cùng hét: – Cô thắng rồi. Bà Hảo vứt cọng cỏ xuống cười lớn. Bọn con trai chỉ còn biết nhìn nhau tức tối. Một giọng khàn, trách móc hét lên: – Thằng Nam Giò “bết” quá, làm bể mặt anh em hết trọi. Ông Biểu chợt xuất hiện sau lưng chúng tôi tự bao giờ, nham nhở cười. Ông dựng chiếc Sachs trầy trụa cả nước sơn để lộ ra những đám rỉ sét. Tiếng máy xe gào thét mệt mỏi và khi xe lăn, người ta có cảm tưởng như đang đứng giữa vùng sương mù trộn bóng tối dày đặc. Làn khói xám từ đằng sau như một dòng thác đen ngòm, mùi xăng nồng mũi. Hôm nay, ông Biểu gọn gàng trong chiếc áo thun ngắn tay bó sát thân, cái thân hình thiếu thịt nhiều xương. Ông đội mũ lưỡi trai mặc quần sọt, đôi vớ cao gần tận gối, tất cả cùng màu trắng tinh khiết, mùi Eau de Cologne toát ra hỗn xược. Thằng Tín vỗ tay nhảy cẫng lên: – Thầy hôm nay giống thể tháo gia quá. Đức chen vào: – Thầy mình vừa trẻ vừa đẹp trai. Nàng nhìn tôi, thấp giọng: – Thật là xứng đôi vừa lứa già quá. Ông Biểu dựng chiếc xe Sachs bên thềm cười thân mật, rồi nhìn xuống đồng hồ tay. – Xin lỗi cô đây và các em, vì lý do kỹ thuật nên tôi tới trễ. Bà Hảo nhìn thầy trách móc lẫn nũng nịu: – Tại ông mà bọn tôi phải bày trò chơi để thu ngắn giây phút đợi chờ cho đỡ sốt ruột. Đức nói lầm bầm: – Chiếc xe của thầy nên đem vào Viện Bảo Tàng dấu là vừa. Sáo chen vào: – Thưa thầy, tụi con đi chừng bao lâu mới tới dưới ấy? Ông Biểu gãi đầu – Nếu đi lẹ thì chừng một giờ, còn đi rề rề, vừa đi vừa ngắm cảnh thì hai ba giờ cũng nên. Bà Hảo vỗ vai Sáo: – Em lo gì, đến nhà thầy, sẽ có cơm dọn sẵn chờ. Thầy sẽ cho người bắt gà vịt rửa chưn để thết bọn mình mà. Cả bọn con gái nhốn nháo lên. Để chứng tỏ nỗi vui mừng đó, chúng tôi thường cho hai tay vào túi áo bà ba và vẫy vẫy hai vạt trước. Mặc dầu chúng tôi đã học gần cuối năm Đệ ngũ, chúng tôi vẫn chưa hề mặc áo dài lần nào. Đa số không mang guốc và cả trường chỉ có vài mái tóc “phi dê”, những mái tóc uốn lăn quăn như mớ xà- lách xoong. Thường nhật, chúng tôi mặc áo bà ba trắng quần đen, loại quần ống rộng xùng xình may hết khổ vải. Mải đến ngày ông Hiệu trưởng người Bắc di cư vào chỉ thị phải đi guốc, chúng tôi mời tập mang guốc và cảm thấy như chân cẳng bị xiềng. Đôi khi, bọn tôi ngồi đâu bỏ guốc lại đó. Lúc trả bài hoặc lên bảng, vài ba đứa vô ý đi chân trần là giáo sư biên phạt cấm túc. Gần cả tháng, chúng tôi mới quen dần. Còn bọn con trai bị cấm mặc quần “xà-lỏn” trong lớp, nếu không sẽ bị phạt ra sân lượm rác, kể luôn cả anh chàng nào mang guốc hoặc bỏ áo ra ngoài quần. Ông Biểu rút chiếc còi trong túi quần, kề lên môi. Tiếng ré ngân dài, cả bọn yên lặng chờ lệnh. Ông Biểu dõng dạc: – Các em nữ sinh nào không có xe hoặc không biết đi xe đạp, hãy cho thầy biết. Gần nửa số con gái đưa tay lên. Ông tiếp: – Thầy đề nghị mỗi anh con trai nào chưa đèo ai, hãy chở dùm một chị và thay phiên nhau khi nào người làm tài xế đuối sức. Sau một lát, chúng tôi đã phân công nhau xong xuôi. Bà Hảo hỏi bâng quơ: – Em nào tình nguyện chở cô? Chúng tôi chẳng hẹn cùng la lớn: – Thưa cô, để thầy chở cô. Cô Hảo vụt đỏ mặt, e thẹn như con gái mới lớn. Chúng tôi được dịp cười vang. Niềm phấn khởi dâng tràn trong nắng sớm. Trên con đường trải đá, đỗ nát nối liền tỉnh ly ra quận Chợ Lách, chúng tôi gồm năm mươi đứa, hớn hở trèo lên những chiếc xe đạp đã được sửa sang cẩn thận chiều hôm qua và bắt đầu cuộc hành trình như một đoàn tay đua. Trong đoàn có một ban cấp cứu gồm vài ba đứa được bầu làm y tá chở một mớ thuốc cầm máu, thuốc trợ tim và thuốc cảm nắng. Bà Hảo cẩn thận đem theo mấy chai thuốc trúng thực nữa. Bà Hảo ngồi trên yên sau của chiếc xe Sachs sau vài ba giây do dự. Chiếc xe rồ lên, ngần ngừ một lúc, rồi nhả khói như sa mù buổi sớm. Con đường nằm giữa cánh đồng rộng hút mắt, bên cạnh con sông chạy dài song song. Vì con đường vắng xe cộ, chúng tôi đi nghênh ngang không trật tự. Mạnh đứa nào cố gắng vượt lên. Bọn con trai làm tài xế khom lưng đạp rút theo các nàng. Gió ngược dựng tóc chúng tôi ra phía sau. Trên đường nhiều ổ gà, những chiếc xe bốc lên, hạ xuống như những con thuyền trên sóng nhỏ. Gió từ ruộng thổi tới, từ sông thổi qua, cuốn những tà áo, làm tròng trành mấy chiếc nón bài thơ. Ông Biểu vượt chúng tôi một đoạn đường và cả bọn tha hồ thở khói. Chúng tôi có cảm tưởng sa mù buổi sáng chưa tan. Chiếc khăn san bằng the đỏ quàng quanh cổ bà Hảo bay phất phới. Mùi khói quyện hơi xăng cay mắt. Bà Hảo sợ ngã ra sau, vòng tay ôm choàng qua hông ông Biểu, âu yếm như một cặp nhân tình trẻ. Oanh cong xương sống đạp đèo Đức đàng sau, cố vượt lên cho bằng chiếc xe Sachs. Bà Hảo vẫy tay trêu chúng Lôi. Đức hai lay làm loa thét: – Thưa cô, thưa thầy, làm ơn đi sau tụi em. Nếu không, chắc tụi em chết ngộp dọc đường. Bà Hảo vỗ nhẹ vào lưng ông Biểu: – Thôi mình đi sau, bọn nó kêu quá kìa ông. Ông Biểu hãm bớt “ga” nhường chúng tôi vượt qua mặt. Thằng Tín trườn tới gọi tôi: – Chị Liễu nhìn lại sau mà coi ổng bả đang mùi kia kia. Tôi ngồi sau lưng Kim quay lại, thấy ông Biểu nói gì với bà Hảo nhiều lắm. Đôi môi bà mấp máy không ngừng và bàn tay bà Hảo tuột xuống nằm trên đùi ông. Rồi đó bà Hảo ngồi sát lại ông Biểu, chốc chốc ông lại buông một tay khỏi “ghi đông” quàng ra sau lưng bà Hảo. Chiếc xe Sachs đã lùi lại sau đoàn xe đạp hàng trăm thước và hình như không muốn bò nữa. Chúng tôi vượt qua từng cánh đồng thoai thoải. Bên kia bờ sông, rải rác mấy lò gạch êm đềm nhả ra những luồng khói lên cao và tản mác trên khung trời xanh nhạt. Con đường thỉnh thoảng có vài đoạn thu hẹp dài bằng ba gang bàn tay, cỏ lấn lối. Loài hoa trinh nữ lốm đốm hoa tím nhạt như nụ bông phấn mịn bên cạnh những dẫy bìm bìm hình cái chuông lắc lư trước gió. Chúng tôi đồng xuống xe và ngồi nghỉ bên hàng cây còng rợp bóng. Nắng đuổi trên hàng cây đến tận chân vườn. Mồ hôi rịn từ những vầng trán, những lưng áo ẩm ướt. Cơn mệt ngấm vào làm đôi chân tôi đã bắt đầu mỏi rục. Tôi quăng xe ngã bừa bãi, rồi ngoái lại gọi Kim: – Mình ngừng ở đây nghỉ chân chờ ông Biểu. Kim bước xuống kêu mỏi. Chúng tôi tìm một gốc cây còng ngồi xuống, chiếc rễ to tướng nổi gồng trên đám cỏ, tựa lưng vào đó mà thở. Tôi gọi đùa: – Kim ơi, lát nữa, mày tiếp tục chở tao nghe, tao hết gân cốt rồi . Kim quay lại, cười nhẹ nhàng. Trên tay nàng đã cầm sẵn mấy đóa bìm bìm phơn phớt tím. Nàng men đến trao tôi mấy đóa và phần còn lại, nàng lôi chiếc xe đạp dậy và gắn lên tay lái. Cả bọn chúng tôi kẻ ngồi, người đứng. Thằng Tín và mấy đứa nghịch ngợm leo tuốt lên những cành cây còng sà xuống chỗ chúng tôi. Hàng muôn ngàn lá đỏ buông tay rơi xuống như đàn bướm dật dờ, lảo đảo và cuối cùng nằm tung toé trên ngọn cỏ rải rác trên mặt sông như những vết phỏng lửa. Nhìn những chiếc lá tách bến xuôi theo dòng, tôi liên tưởng cuối năm học này, chúng tôi mỗi đứa một nơi và tôi sẽ về nơi nào? Tôi chỉ biết chắc có một điều là tôi sẽ không còn tiếp tục học nữa. Tôi sẽ từ giã nhà trường vĩnh viễn, nhào ra đời tìm sống. Số bạn bè đã lần lượt bỏ học từ mấy năm trước, mấy đứa có nhan sắc được mấy thanh niên có địa vị đem xe hoa chực chờ rước về nhà. Chúng nó lần lượt bỏ học và bây giờ có hai ba đứa dắt con đi phố. Thỉnh thoảng bọn nó tới thăm thầy và bạn cũ. Chúng kể chuyện chồng con. Đứa thì tiếc rẻ đời làm học trò, đưa xúi chúng tôi đừng lấy chồng sớm. Tôi tự hỏi cuối năm nay, nhà trường hết lớp, mỗi đứa chúng tôi phải đi Saigon học hay là ở tỉnh sẽ có trường dạy đến bậc đệ nhị cấp hay không? Với cái vốn học ít oi nửa thầy nửa thợ nửa cu li như tôi, tôi sẽ làm gì nếu tôi không đậu được bằng Thành Chung? Tự nhiên tôi cảm thấy một nỗi xót xa cựa quậy trong lòng. Tương lai mù mịt dàn trải ra trước mắt tôi. Sáo ngồi xắn quần khỏi gối chừa ra đôi chân trắng lạnh trên cành cây me keo, cách tôi một khoảng chừng năm thước. Nàng thòng hai chân xuống khuấy nước. Mặt nước nhăn nheo xáo động. Hai chân nàng đập mạnh nước bắn tung tóe và xô những chiếc lá trôi ngược. Sáo ngoắc tôi: – Liễu, qua đây vọc nước, mát lắm. Tôi lắc đầu. Sáo tiếp: – Làm gì mà nghĩ ngợi dữ vậy? Bộ mới đi chơi một chút mà đã nhớ bồ rồi hả? Tôi không muốn đính chánh và tiếp tục lắc đầu. Sáo vẫn soi bói: – Nè Liễu, mày định xin đi làm phải không? Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp: – Đó là cái chắc rồi. Đức chêm vào: – Sao bỏ học ngang vậy? Nhà mày nền cao tới ngực mà. Oanh lại góp chuyện: – Liễu nó định lấy chồng, tụi bây à, mặc dầu tiền nhà nó đủ sức thiêu tụi mình cháy như heo quay. Tôi chợt buồn. Chúng nó có lẽ ngờ tôi giàu có nhưng không muốn đi học nữa để chờ người đến xỏ mũi dẫn về làm vợ. Chúng nó đâu có ngờ được, tôi sống trong một ngôi nhà có tiếng là to, là đẹp nhất làng với thềm nhà cao tới ngực, mái ngói uốn cong, cột kèo chạm trổ tỉ mỉ. Trên những bàn thờ tổ tiên, những bộ lư đồng phải hai ba người bê mới nổi, bên cạnh những chiếc bình da rạn và đồ sứ quý giá có từ hàng mấy trăm năm về trước và với một lô họ hàng giàu có danh tiếng nhất tỉnh và cũng ích kỷ chưa ai bì kịp. Chúng nó chưa hề biết mỗi ngày, sau những giờ ở trường, tôi trở về nhà chui vào mấy trại chầm lá lợp nhà với bộ đồ đen mốc thếch và mặt mũi như lọ lem vì phấn lá đắp đầy mặt, chỉ còn hai trong con mắt và hàm răng chưa bị nhuộm đen thôi. Lúc đó nhìn vào gương, tôi vụt không nhịn được cười, tôi cảm thấy mình xa lạ: một người con gái da đen nào đó. Khi gần đến giờ đi học, tôi lại hối hả tắm rửa, tẩy hết vết tích lam lũ, bươn bả đọc ngấu nghiến bài buổi học hôm qua. Sau giờ tan học, tôi không có quyền nán lại đi chơi rong hoặc đi xem hát như lũ bạn, mà phải gấp rút trở về nhà và tiếp tục công việc kiếm tiền nuôi thân. Có nhiều lúc tôi muốn lấy chồng, lấy ai cũng được, miễn là họ cao ráo sạch sẽ, học tới trung học. Tôi muốn thay đổi hoàn cảnh. Đời con gái lu câm và buồn nản quá, nên tôi ưa mơ mộng vẩn vơ lúc nào hay lúc đó. Nhưng khi ngồi trong vườn bóng lộn ánh trăng, nằm trên chiếc chiếu in bóng cây lựu già, tôi chợt thấy rằng đời sống tình cảm không thể dễ dàng như vậy được. Tôi thèm yêu bằng một mối tình gay cấn và lãng mạn, rồi mới chịu lấy người mình yêu làm chồng. CHƯƠNG BỐN Ông biểu hãm tay “ga” lại, ngừng dưới cây bàng mọc bên mé nước. Tuy chỗ hai người ngồi chỉ cách chúng tôi hơn trăm thước nhưng vì những rặng cây mọc không ngay hàng thẳng lối nên không thể nhìn thấy nhau. Gió hiu hắt và bóng mát rợp một khoảng đất rộng. Bà Hảo xuống xe ngồi bệt trên đám cỏ dưới gốc cây trong khi ông Biểu tìm chỗ dựng chiếc xe Sachs. Bà Hảo nhặt chiếc lá bàng đỏ, to bằng chiếc quạt mo phe phẩy trước mặt và lượm vài ba hòn sỏi ném xuống mặt nước tạo thành những vòng tròn lan rộng. Buổi sáng này, bà Hảo có thể cảm thấy niềm vui bao quanh và tôi mong bà nhìn cây cỏ, cảnh vật chung quanh như khoác vẻ đầm ấm thân mật. Suốt hai mươi năm bên cạnh ông chồng, sinh thú héo dần. Bà chỉ tìm thấy hạnh phúc ngọt ngào được hai tháng đầu và hạnh phúc đó vụt chết một cách đột ngột làm bà tê điếng. Mãi đến bây giờ, bà vẫn phải kéo dài cuộc sống che đậy, đắp điếm bên cạnh ông chồng dở tỉnh dở điên. Bà thường tâm sự với tôi về đời sống vợ chồng: – Cô lấy chồng chỉ vui được ba tháng, rồi buồn ba năm và khô kéo một đời. Chúng tôi chỉ biết lặng thinh nhìn đôi mắt ướt rượt của bà. Bà tiếp: – Cô tin rằng hôn nhân là một cuộc xổ số, các em à. Một hôm, trước mặt Đức và tôi, bà bùi ngùi: – Mấy người bạn cô bây giờ đã có ít nhất là vài đứa con và có người đã được năm ba mụn cháu rồi. Đức ngắt lời bà Hảo: – Thưa cô, dầu cô không con, còn có tụi em đây chi? Bà Hảo cảm động vuốt lưng Đức: – Cô cũng nghĩ vậy. Rồi bà phá lên cười như mỉa mai lẫn cay đắng. Tôi vụt nghĩ rằng bà Hảo đang khóc trong niềm bất hạnh kéo dài. Quả thực bà thương mến chúng tôi, và chúng tôi coi bà như một bà mẹ vừa trẻ, vừa vui tính. Đôi khi chơi với chúng tôi, bà quên mất tuổi già. Ảo tưởng trẻ trung trong những giờ ở trường giúp bà tạm quên nỗi buồn bực và bà ngại trở về nhà nằm thườn thượt trên đi-văng, nghe những lời rủa xả bâng quơ của ông Chánh, ngại nhìn ông rách rưới như một kẻ hành khất nhởn nhơ quanh nhà và bà sợ đôi mắt có nhiều gân máu của ông như mắt một con quái vật. Ngoài giờ nói chuyện trước đám đông, ông Chánh lủi thủi làm việc quanh nhà, lặng lẽ âm thầm không buồn nói với ai. Có nhiều khi, bạn của bà Hảo đến chơi, ông ngã đầu chào rất sâu, rồi bỏ đi vào phòng riêng. Bà có nhiều tiền, ruộng vườn cò bay thẳng cánh. Đời sống vật chất quá đầy đủ không làm cho bà cảm thấy niềm phấn khởi nào. Bà xin đi dạy học để giết thì giờ nhàn rỗi, để tìm lại không khí trẻ trung, để trốn vài tiếng đồng hồ mỗi ngày cái ngôi nhà quạnh hiu như một ngôi nhà mồ và để khuất mắt ông chồng lúc thì ồn ào như một cái loa phóng thanh, lúc thì lại câm nín thai thủi như một bóng ma. Bà chạy trốn những hình ảnh đó và thèm khát những nụ cười hồn nhiên, những câu bông đùa tinh nghịch, những cuộc vui tập thể và những khoảng trời rộng, cây cỏ ruộng đồng. Những màu sắc tươi sáng ngoạn mục của thiên nhiên có thể làm trẻ lại tâm hồn cằn cỗi của bà. Ông Biểu đã mang đến cho bà niềm vui rộng lớn, làm sống lại thời bà còn là học sinh trường Áo Tím. Trời bỗng dịu nắng. Những miếng ruộng nước phản chiếu màu mây bầm tím, như những miếng đá. Tôi hết buồn ngủ, và mặt Kim cũng bớt úa xào. Chúng tôi nắm tay nhau đi dài theo con rạch. Bỗng có tiếng ngâm thơ khe khẽ: Say đắm nhưng lòng vẫn quạnh hiu Đó là số kiếp của tình yêu… Giọng ngâm vang lên rồi tuột xuống thấp, tản mác theo tiếng rì rào của gió luồn trong lá làm hai mi mắt tôi nặng cơn buồn ngủ, chợt tôi cố giương mắt tìm về chỗ phát ra tiếng ngâm thì phân nửa nét mặt ẩn hiện sau gốc cây sung già với chiếc mũi cao dài và màu da bánh mật, con mắt gã nhắm lại say sưa. Kim vỗ vai tôi thì thầm: – Hơi ngâm tuy ngắn, nhưng giọng nghe thảm. Tôi bước một khoảng dài ghé đầu nhìn, vụt kêu lên: – À, té ra anh Nam. Nghe kêu đến tên mình, Nam mở choàng mắt thò đầu khỏi gốc cây cười ngượng ngùng. Tôi bạo dạn tiếp: – Có kém gì Quách Đàm đâu. Nam nhếch mép, để lộ hai hàm răng trắng đều, đáp: – Vậy hả chị? Tuổi trẻ đôi lúc cũng trở thành nghệ sĩ bất ngờ chớ. Kim đứng nép bên tôi, có vẻ lúng túng khi anh Nam hỏi đến: – Nghe đồn chị Kim có làm thơ đăng nhật báo. Tôi ôm vai Kim trêu: – Làm thơ xong, phải nhờ anh Nam ngâm mới tuyệt. Nhất định tôi sẽ là thính giả số một, xin dành phần trước nghe anh chị? Kim đỏ mặt quờ quạng bứt chiếc lá vò nát trong tay. Nam học Đệ tứ B là người được bầu làm trưởng lớp. Vóc người anh mảnh khảnh, cao lêu nghêu. Anh đạo mạo, ra vẻ đàn anh, nhưng anh vẫn không dấu nổi sự tinh nghịch ngấm ngầm ở đôi mắt hơi xếch nhiều tròng đen. Thằng Quan tặng cho anh cái ngạo danh là Nam Giò. Bên lớp Đệ tứ A, chúng tôi có một chị Trưởng lớp cao chưa cô nào trong lớp bì nổi nên tục gọi là Ngọc Cao Cẳng, và chúng tôi chẳng ngần ngại cáp đôi hai anh chị cao nhất trường đó. Mỗi lần tôi kêu ngạo danh của Ngọc là nàng đỏ mặt và hờn dỗi lướt qua đôi mắt. Ngọc và chúng tôi đều quên một điều là cặp giò dài là một ưu điểm cho sự gợi cảm của phụ nữ. Chỉ tiếc là Ngọc không được đầy đặn và hồng hào. Nam thì vẫn thản nhiên chấp nhận lũ bạn tinh quái. Thái độ không phản đối của anh không làm cho chúng bạn chọc già. Nhưng đối với Ngọc thì bọn nó càng được mợn chọc phá kinh khủng. Đức vuốt vai Ngọc căn dặn: – Bao giờ lấy thằng Nam Giò nhớ đưa về Bến Tre mà ở. Bến Tre là xứ trồng dừa. Hai người về đó thì hợp tình hợp cảnh quá, có chỗ làm ăn. Mỗi ngày đi bẻ dừa mướn mà khỏi phải leo trèo chi cả, chỉ đứng ở dưới gốc là bẻ được dừa rồi. Tôi cảm mến thái độ trầm tĩnh của Nam và cảm thấy ở anh một cái gì khó hiểu nhưng không kém thơ mộng, Anh thường sang lớp tôi chơi với bọn con trai. Anh có thái độ người lớn, vững chãi, tự tin đối với bọn con gái. Anh an ủi Ngọc: – Chị cứ lờ đi là tụi nó không nói nữa. Ngày nào tôi không nhìn thấy anh Nam đi phất phơ trên hành lang hoặc qua lớp tán gẫu với bọn thằng Tín, tôi cảm thấy dường như có một sự trống vắng dàn trải trong tâm hồn tôi. Tôi thích nhìn anh hùng hồn điều khiển cả trường đồng ca bản Quốc Thiều vào buổi chào cờ và hạ cờ. Tôi thích ngắm anh với nét mặt tư lự trên bậc tam cấp dưới bóng điệp và khe khẽ ngâm những bài thơ tiền chiến. Giọng anh rên siết, bùi ngùi như xô giạt vào lòng tôi từng con sóng dịu dàng đằm thắm. Tôi cảm thấy lo ngại vẩn vơ trước những cặp mắt nhìn Nam như muốn độc chiếm anh từ những đứa nhu mì e ấp như Kim đến những nàng có chút máu du côn, gàn dở như Đức, Sáo. Chẳng ai bảo ai, chúng tôi ngầm đồng ý với nhau rằng Nam là linh hồn của hai lớp đệ Tứ, là cái móc nối liền giữa hai lớp chúng tôi. Mỗi đứa con gái muốn chiếm anh một cách. Và sự lãnh đạm của anh đã giúp bọn con gái này đỡ chống đối nhau. Anh được lòng hết tất cả những người cảm mến anh. Anh có trí nhớ tuyệt xảo về tánh tình của mỗi cô bạn gái như ông thầy thuốc Bắc nhớ từng vị thuốc trong các hộc tủ. Sở thích mỗi cô anh đã xếp vào một ngăn tủ và khi đối diện họ, anh kéo cái ngăn tủ đó ra không lẫn lộn chút nào. Bà Hảo thường vỗ vai khen anh: – Em là type người đi với bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy. Hèn chi thằng này có số đào hoa. Quan chen vô: – Thưa cô, nó vô duyên nên cao nhòng nhòng mà không có ai thương. Cái tuổi của nó đáng lẽ ở nhà quê là hai ba vợ, năm bảy con rồi. Nước dâng lên liếm mé bờ. Cơn mệt đã tan theo gió sông. Chúng tôi chờ ông Biểu và bà Hảo tới rồi tiếp tục đi. Thằng Tín sốt ruột đạp xe chạy ngược lại phia sau tìm kiếm. Chúng tôi nghĩ rằng chiếc xe tới tuổi dưỡng lão của ông Biểu đã nằm vạ dọc đường. Hơn nửa giờ rồi, bóng dáng hai người vẫn mù mịt và chúng tôi cảm thấy cuộc hành trình đã nhạt lần đi vẻ hào hứng của nó. Chúng tôi hướng mắt chờ đợi thằng Tín trở lại. Đàn trâu với màu da đen mốc từ bên cánh đồng đối diện chúng tôi lũ lượt băng qua đường. Chúng nhảy ùm xuống mé nước ngâm thân thể. Những cặp sừng nhọn hoắt nhô lên mặt nước và tiếng thở phì phò sôi lên. Vũng nước đục ngầu. Chúng tôi vây quanh đàn trâu và nhặt vài ba viên đá sỏi nhỏ ném trên lưng nó, trong khi chờ thằng Tín và ông Biểu. Có tiếng reo lên: – Kìa, thằng tiểu yêu nó cong lưng đạp gió ngược trở về đó. Thôi chúng ta sửa soạn đi là vừa. Tín đã đến trước chúng tôi, quăng đại chiếc xe trên bãi cỏ, với hai mắt mở tròn và hổn hển thở. Thằng Quan hỏi dồn: – Gặp ổng bả không? Tín lăn ra cỏ cười sằng sặc. Chúng tôi bu quanh nó chờ đợi Nó khoe: – Nè, bà con ơi, tui thấy chuyện này ngộ lắm. Tín muốn khêu gợi lòng hiếu kỳ. Cả bọn sốt ruột hỏi: – Cái gì vậy Tín? Tín làm ra vẻ ngập ngừng: – Tui vừa đi tới thì thấy ổng bả đang “mùi” dưới gốc bàng gần mé nước. Thằng Quan lắc vai Tín: – Ông bả mùi cách nào? Tín họp báo ngay: – Tui bèn nép xe vào gốc cây và rình thấy ổng đang cài mấy cái bông bìm bìm trên tóc bả và bả ngã người trong lòng ổng. Cả hai đều quay lưng lại phía tui đứng núp đó. Thằng Quan khoái chí tiếp: – Chỉ có vậy thôi sao mậy? Cách mùi đó có vẻ cải lương cổ điển quá. – Rồi ổng cúi xuống mặt bả… Cả bọn định rủ nhau mò lại coi tiếp. Quan khoát tay cản: – Thôi đừng làm bẽ mặt ổng bả. Rán chờ một chút xong “pha” đó thì ổng bả tới chớ gì. Tín reo lên: – “Pha” gì đó Quan? Chắc mày giàu tưởng tượng vậy hãy kể cho anh em nghe chút chơi. Bọn con gái rã vòng vây Tín, tìm chỗ ngồi. Nam rầy: – Tụi bây nghịch vừa vừa chớ. Nam nhìn chúng tôi mỉm cười. Đôi mắt anh không dấu được nét rạng rỡ tinh quái. Những câu hỏi về hai ông bà và những hình ảnh Tín vừa kể nhảy múa trong đầu tôi. Kim lôi tôi ngồi xuống, anh Nam ngả lưng trên gốc cây sung, hai tay khoanh trước ngực im lặng nhìn ra sông. ☆ Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình và lần này, ông Biểu dẫn đầu. Để chúng tôi khỏi bị ngộp thở vì khói của chiếc Sachs như sa mù dầy đặc buổi sáng nên ông Biểu cho xe chạy hết tốc lực. Mặt trời đã lên tận đỉnh đầu. Mồ hôi làm ướt cả áo, cơn mệt ngấm vào từng tế bào. Mấy đứa con trai còn dai sức, và để cho quên cơn mệt, chúng tôi hè nhau hát những bản hùng ca. Tiếng hát ngoi lên, rần rộ, hối hả. Những chiếc lưng khom sát tay lái và những bắp thịt đùi cuồn cuộn nổi lên. Hai bàn chân đạp gấp rút vẹt gió và gió lôi những mái tóc ngược ra sau. Bà Hảo vẫy chúng tôi chỉ vào khu vườn sầm uất trước mặt cách chúng tôi khoảng năm trăm thước. Tiếng gọi của bà Hảo lạc loài giữa tiếng động cơ và tiếng gió rào rạt từ những cành cây hai bên vệ đường. Ông Biểu quay lại hét lớn: – Sắp tới nhà thầy tồi, rán lên mấy em gái. Bọn con trai hí hửng đạp rút qua mặt chiếc Sachs, buông thỏng tay lái để diễn tả sự khoái trá. Lũ con gái lục đục theo sau. Chúng tôi đã xuống xe, ùa vào một khu vườn cam sầm uất. Những cây cam thẳng hàng đều đặn trên những líp đất cao. Giữa hai hàng líp cam dài mút mắt, có xẻ một cái lạch nước sâu, rộng hơn một thước có thể dùng xuồng đi trên ấy được. Thân cây cao hơn đầu người không quá hai tấc đơm vô số trái, kéo những cành nhánh nặng trĩu gầy guộc là sà gần phết đất. Ánh nắng mặt trời như bị cản lại, chỉ có vài giọt nắng yếu ớt rớt dưới gốc cây lu câm như ánh đèn thiếu dầu. Chúng tôi lũ lượt kéo vào một ngôi nhà vách bổ kho, lợp ngói móc, nằm giữa hai tàn cây vú sữa che rợp từ mái ngói đến chiếc sân đất bóng nhẵn hình chữ nhật có viền chung quanh những khóm hoa đông hầu đỏ thẫm ngoi lên màu lá xanh mọng nước. Dây hoa bò ẻo lả trên nền đất đen nhẵn thín như tráng nhựa. Giữa sân là lối đi cẩn vỏ sò trắng bóng. Chúng tôi dựng xe bên gốc vú sữa rồi bước vào mái hiên. Bà Hảo lẹ chân giành chiếc võng treo bên mái hiên trong lúc chúng tôi vào tận bên trong ngồi chật nít cả bộ ván gõ kê giữa nhà. Bọn con trai đã rủ nhau chạy tuốt ra mấy vườn cam và không đợi mời, chúng nó thi nhau bẻ những trái cam vàng ối la sà gần mặt đất. Một người đàn bà trên bốn mươi tuổi trong bộ đồ vải săng-đầm còn mới khoát màn bước ra, nhai trầu nhóc nhách. Bà mỉm cười gật đầu chào tổng quát. Cả bọn con gái đang ngồi đầy trên ván và trên những chiếc ghế đẩu trong nhà, đều đứng dậy cúi đầu thi lễ. Ông Biểu bước theo sau, tay còn cầm chiếc khăn tay lau những giọt nước còn đọng trên da mặt. Ông đưa bàn tay trái xoè ra khỏi đầu, trấn an chúng tôi, rồi dõng dạc chỉ bà Hảo giới thiệu: – Mình, đây là bà Hảo, bạn đồng nghiệp của tôi. Ông quay sang chúng tôi: – Và đây là cô Biểu. Chúng tôi lại gật đầu một lần nữa và Đức lẹ miệng xã giao một câu cũ rích: – Tui con nghe thầy nhắc đến cô luôn mà hôm nay mới hân hạnh được gặp. Bà Biểu cầm cục thuốc xỉa độn dưới môi chà qua chà lại trên hàm răng đen bóng, chẫm rãi nhổ nước cốt trầu xuống ống nhổ cao quá gối kê bên cạnh bàn uống nước, rồi ôn tồn bắt chuyện bà Hảo: – Hôm tuần trước, nhà tôi có cho hay sẽ có chị và các em xuống chơi. Tôi mừng được chị và các em chiếu cố đến với vợ chồng chúng tôi mà không ngần ngại đường sá xa xôi… Bà Hảo vẫn ngồi vắt vẻo trên võng bây giờ mới khệ nệ đứng dậy, hơi lúng túng một lát, rồi đáp: – Em vẫn hằng ao ước được đi về vườn một chuyến để thay đổi không khí và học cách làm vườn với chị. Bà Biểu có vẻ chân thành: – Nếu chị không chê ở vườn buồn thì chị về đây mua đất rồi trồng cây ăn trái như hai vợ chồng chúng tôi đây. Đức nhìn tôi, đôi mắt tinh quái, nói nhỏ: – Cô Hảo mà về đây, ông Biểu cho vài mẫu cam đã có huê lợi rồi, khỏi mất công trồng. Quý Phi được ở gần Hoàng Hậu, têm trầu cho Hoàng Hậu ăn. Bà Hảo nhìn lại chỗ chúng tôi ngồi có vẻ bực mình trước thái độ thì thầm của Đức. Đức cũng không vừa, kê miệng vào tai tôi mấp máy, nhưng không nói gì cả. Con a đầu này trịch thượng, tai ác lắm, ưa khai thác những nhược điểm của kẻ khác. Tôi xô nó ra, sửa lại vẻ mặt trang nghiêm. Bà Biểu nhổ xác trầu và rót hai tách nước mời bà Hảo: – Chị lại uống chút trà nóng và nhai bậy miếng trầu cho nó vui miệng. Bà Hảo bước lại ngồi trên bộ ván trước tách trà ướp sen bốc khói nghi ngút. Bà nhìn ông Biểu, đôi mắt xếp nhiều lằn nhăn phía sau đuôi đưa đẩy ướt rượt. Ông Biểu ngả lưng trên chiếc ghế xích đu bằng mây đen bóng ngời màu vỏ lựu già, hai tay để ra ót, lắc lư. Bọn con gái chúng tôi xin phép ra sau nhà rửa mặt. Gian nhà đang rần rộ vụt trống vắng và ba người còn lại chìm giữa yên lặng. Bà Hảo cầm lá trầu ngắt nhẹ phía đuôi và bôi một chút vôi hồng nhạt trên sống lá. Bà Biểu nhìn bà Hảo, cười hồn nhiên: – Chị có ăn trầu lần nào chưa? Bà Hảo cười đượm một chút buồn bã, mệt mỏi: – Em có ăn một vài lần khi được mời như hôm nay. Ông Biểu ngồi dậy, đốt điếu thuốc gắn lên môi, chêm vào: – Không khéo ăn vào say rồi lội vườn té không ai đỡ cho. Bà Hảo cười lớn: – Còn lũ học trò nữa chi, chẳng lẽ tụi nó bỏ cô ở lại giữa vườn cho thầy chúng nó hay sao? Bà Biểu đứng dậy đi vào trong, lúc trở ra, bà mang một chiếc chiếu bông và cái gối vuông hai mặt thêu cườm. Bà trải chiếc chiếu và mời: – Chị nằm nghỉ một chút rồi theo nhà tôi ra vườn chơi với các em. Bà Hảo từ chối: – Em chẳng mệt mỏi gì lắm, vậy xin phép chị cho em ra ngoài ấy dòm chừng chúng nó, tụi này nghịch ngợm lắm, không khéo rồi đây, chúng nó làm tan hoang vườn cam hết. Chúng tôi thi nhau bẻ cam nửa ăn, nửa chọi cá phi lặn hụp dưới rãnh nước. Những con cá to bằng bàn tay xòe màu xanh dương sáng ngời đang nhởn nhơ dưới đáy nước trong như hổ phách. Đức reo lên: – Liễu ơi, con cá phi bị thương và cục đất của tao vừa quăng xuống trúng đầu nó. Tôi chạy nhanh lại, nhìn theo ngón tay của Đức. Một con cá đang lảo đảo mấy vòng rồi chuồn sâu xuống đáy nước. Lũ nó kéo tới xem đông như coi hát thí. Những đứa chưa bao giờ đặt chân về nhà quê, nên thấy cái gì cũng làm lạ. Chúng nó say sưa ngắm đàn cá như nhìn một kỳ quan. Tôi nhìn vào mé nhà sau của ông Biểu. Khói trắng từ các mặt cáo dưới bếp cuồn cuộn tuôn ra. Vài ba người con gái đang lăng xăng chạy từ sàn nước ra và khệ nệ bưng những chiếc rổ to nghi ngút khói. Con Sáo tinh nghịch tiến lại gần quan sát thật kỹ, rồi hớn hở trở lại, báo cáo: – Tụi mày ơi, cô Biểu bắt hàng chục con gà đem rửa cẳng khao tụi mình. Thằng Tín xuýt xoa: – Bữa nay chúng mình đi ăn đám cưới. Sáo mân mê một nhánh tóc: – Mối tình của tuổi mùa xuân thứ hai, hoặc gọi là hồi xuân cũng được, À, thực đơn có gì nhỉ? Như cao hứng, Kim góp chuyện: – Chung qui gì cũng vài ba món: xé phay, nấu cháo, cà ri hay ra-gu. Đức ngắt lời: – Lạy trời, mong cho bả xào sả ớt. Tao mê ăn món đó lắm. Nó có vẻ mặn mòi, ấm bụng. Tôi ngồi trên líp cam cạnh mé nước, nhìn bóng mình chìm dưới đáy lạch. Bầy cá phi nghe động, lủi vào đám cỏ hai bên bờ. Cơn mệt mỏi đã rút xuống khi tôi ăn hết mấy trái cam chín cây. Vài ba đứa tìm nơi sạch ngồi đấu láo. Trời đã đứng bóng. Những giọt ánh sáng rớt từ những luống cam đến mặt nước của mấy con lạch như những vết rỗ rơi vào tâm hồn tôi. Tôi dường như khao khát một cái gì lờ mờ lắm. Tôi tưởng tượng hình ảnh ông Biểu cúi xuống hôn môi bà Hảo, theo lời thằng Tín kể ban nãy, tư nhiên một cảm giác ấm ấm chạy lên tận đầu rồi tản mác khắp thân thể tôi như một luồng nước ấm. Để xóa nhanh những ray rứt không đâu, tôi đứng phắt dậy, hòn đất khô nãy giờ trong tay tôi giờ đã nát nghiến. Tôi thẫn thờ bỏ đi dọc theo con rạch xa dần những đám người cười nói trửng giỡn . Tôi đi khuất sau đám cây và tìm một nơi ngồi thoải mái. Lấy chiếc khăn tay màu xám trải bên một gốc cây cam có nhiều trái chín quằn quại, tôi có thể nằm dài ra đó vói tay bẻ được. Tôi có cảm tưởng như mình đang ngồi trong một cái chòi kết bằng lá, lẫn trái. Nỗi lo lắng kiếm sống hằng ngày đã xếp qua một bên những ý nghĩ rối rắm cồn cào. Từ lâu lắm, tôi chưa bao giờ có những lúc nhàn rỗi như hôm nay. Những việc vặt vãnh từ nhà đến những công việc nhà trường chiếm hết giờ gấc, tôi ít khi có dịp ngồi một mình buông thả đầu óc quanh co trong các ý nghĩ vơ vẩn như thói thường của những đứa con gái vừa mới lớn. Cái giọng khôi hài của thằng Tín lúc bắt gặp ông Biểu và bà Hảo dưới gốc cây bàng ban sáng còn văng vẳng đâu đây: – Ông kề môi xuống môi bả, bả nhắm mắt lại khi hai bàn tay ổng quấn chặt lấy người bả và bàn tay sơn móng màu vỏ tỏi của bả bấu lấy bả vai ổng. Thằng Tín lại thêm thắt vài chi tiết do sự tưởng tượng của nó làm chúng tôi cười lớn. Nhưng khi ngồi một mình trong nơi im vắng và bóng mát chiếm gần trọn, chỉ có vài đốm ánh sáng mặt trời lạc loài nơi đây khiến tôi nghĩ ngợi quàng xiêng. Tôi vụt tưởng tượng đến một người con trai nào đó ngồi bên cạnh trong bối cảnh thanh vắng dễ làm môi trường cho hai người khác phái ngất ngây vì tế bào nổi sóng từng đợt. Trong một thoáng nét mặt rám nắng và đôi mắt nghịch ngợm của Nam lướt nhanh qua đầu làm tôi lảo đảo . Tôi tự nhủ anh Nam lắm đưa mê, mình không thể cạnh tranh với Đức, Sáo… Đủ thứ loại con gái đó vây quanh chàng chặt chịa như một hàng rào sắt. Việc tôi độc chiếm chàng chỉ là một giấc mơ xa vời dù chàng nhiều thiện cảm với tôi đi nữa. Tôi lắc đầu xua đuổi mọi ý nghĩ đang hành hạ tôi và đưa tay lên bấm cuống một trái cam vừa chín tới bóc ra. Mùi thơm của chất vỏ cay cay. Tôi lấy miếng vỏ lột ra bóp mạnh. Chất nước the bắn tung tóe làm xốn mắt tôi. – Liễu, làm gì mà ngồi một mình ở đây? Tôi quay lại và bắt gặp Nam đang ngồi vắt vẻo trên một cành bưởi, tay cầm một tờ tập san cũ. Tôi vụt mắc cỡ vì cảm thấy những ý nghĩ của mình nãy giờ như bị lột trần và tự nhiên máu dồn nhanh lên trên mặt tôi. Hai vành tai tôi nóng lên. Tôi lúng túng đáp: – Tôi định đi thử một vòng cho hết khu vườn này nhưng đi đến đây thì không còn muốn tiến thêm nữa, mỏi chân lắm rồi. Nam tuột xuống rủ rê: – Bọn mình rán đi thử coi khu vườn này ra tận đâu. Tôi ngập ngừng trong giây lát, không phải vì bị mỏi chân mà chỉ sợ người khác nhìn thấy được tôi đi bên cạnh Nam, nhưng rồi tôi bạo dạn: – Ừ, thì đi. Tôi đang trốn bọn Đức, Sáo. Tụi nó ồn ào quá làm mình phát điên được. Nam cười nhẹ: – Tôi cũng đi trốn bọn thằng Quan. Ở lẩn quẩn bên tụi nó nhiều khi muốn loạn óc. Chúng tôi đi bên nhau, lặng lẽ như hai cái bóng ngã dài trên líp cam, bỏ lại sau lưng những giọng cười nói, hò hét của chúng bạn. Tôi tưởng chừng mình tan vào bóng mát. Mùi chiên xào lừ trong bếp nhạt dần. Khói bốc lên từ nhà bếp và tản lạc trên không trung êm vắng. Tiếng bằm, chặt trên mấy tấm thớt mất hút. Chúng tôi đi trên những chiếc lá khô xào xạc. Để phá tan sự im lặng bao lấy chúng tôi, Nam quay sang tôi, hỏi: – Liễu có nhớ hết bài thơ ”Lỡ bước sang ngang” của thi sĩ Nguyễn Bính không? Tôi nhìn anh mỉm cười: – Tôi chỉ nhờ lam nham vài ba câu thôi. Vả lại, tôi không mấy ưa thơ quá ướt. Tôi tấn công thêm: – Anh nhớ bài ”Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm thì ngâm cho mình nghe đi. Nói xong, tôi vụt ngượng về tiếng xưng hô thân mật vừa thoát ra, nhưng tôi tự trấn an là xưa nay, Nam vẫn gọi tôi bằng Liễu chớ không kèm theo tiếng chị như mọi người. Trong suốt một đời, người con gái phải có một lần bạo dạn đúng lúc chớ. Nam trỏ chỗ khoảng đất sạch và rủ tôi ngồi xuống đó nghỉ chân. Tôi giành phần chiếm gốc cây rồi ngã người ra nằm dài. Nam so giọng và điềm nhiên nhìn tôi, rồi cất tiếng ngâm. Giọng ngâm buồn rầu, ngọt như chất mật ong rót ngấm vào lòng tôi từng đợt. Khu vườn im vắng. Một loạt tiếng chim trong trẻo ở bụi gai. Trời trưa đứng bóng. Hơi mát từ mương lạch và đám rau dại mọc ở hai bên mương tỏa rộng. Tôi cảm thấy khung cảnh nơi đây thật êm ả một cách bất ngờ. Nam tựa mình trên gốc cây đối diện tôi. Bài thơ ngâm được nửa chừng anh vụt mở to nhìn tới trước mặt. Tôi ngạc nhiên và hướng theo đôi mắt anh. Từ bên kia líp cam, cách chỗ chúng tôi ngồi chừng hai mươi thước, trên líp đất có một mái tóc dài quằn quại. Giữa những hàng cây sầm uất, chẳng lẽ có người nằm. Tôi buột miệng: – Không chừng ma! Nam lắc đầu, rướn người lên quan sát. Vẫn không thấy rõ, anh mò sang chỗ tôi ngồi nhưng anh vẫn lắc đầu tỏ ý như chưa nhận ra ai. Tôi cúi xuống cầm nhánh cây khô vẽ lên nền đất những hình ảnh rối rắm như ý nghĩ hiện tại đang vây quanh trong đầu tôi. Tôi đoán chắc bà Hảo rủ ông Biểu tiếp tục lại cuộc hành trình cảm giác lúc nãy. Nam cố theo dõi và hai bóng vụt im lìm, lùm cỏ đứng yên. Bất chợt cánh tay anh lòn qua lưng tôi đột ngột và siết mạnh. Tôi ngã người buông xuôi không chống trả. Tiếng nói của Nam thì thầm gấp rút bên tai tôi: – Liễu! Tôi bàng hoàng và trước mắt tôi như có lớp sa mù mỏng. Tiếng tim tôi đập rộn ràng như một loạt trống. Tôi ngây ngất, tê dại và từng đợt sóng nóng bỏng chồm lên cao. Tiếng Quan réo ơi ơi đẩy tôi ngồi phắt dậy như một cái lò xo. Tôi vuốt lại mái tóc, sửa lại chiếc áo mất nếp. Nam thong thả đứng dậy gởi về tôi ánh mắt còn tiếc rẻ, rồi khom xuống lượm tờ báo nằm trên lá khô. Không hẹn, chúng tôi nhìn qua đám cỏ đuôi chồn. Khóm cỏ có vài chùm hoa màu nâu mịn như nhung có những cây gãy, rủ xuống. Mấy chiếc lá cam khô nhầu nát trên khoảng đất chỗ hai người. Gió bắt đầu di động, lá khô trên cành thi nhau rải rác trên líp đất và nổi trên mặt nước. Thỉnh thoảng lũ cá phi trồi lên khuấy nước và những chiếc vòng nhỏ nở rộng trên mặt lạch và vỡ tan khi chạm phải bờ đất. Thằng Quan cắm đầu chạy tới. Nam rời khỏi chỗ tôi ngồi và thản nhiên đi về phía nhà bếp. Nam đưa tay vẫy thằng Quan còn cách anh vài líp cam. Hai tay nó bơi trên không nó thở hào hển trách: – Hai người đi đâu mà cả làng chia nhau đi kiếm? Tôi tưởng chị Liễu té mương chết chìm rồi chớ. Nó quay lại đấm vào lưng Nam: – Còn mày, bị ma dấu cho ăn đất sét phải không? Chúng tôi cùng cười. Lũ bạn từ những góc vườn túa ra. Đức thị oai: – Liễu, mày đi đâu khai thiệt, nếu không thì tao cột mày ở gốc cam khảo về tội bắt tụi tao chờ cơm bằng cách căn nọc cho ổ kiến vàng đeo vào lưng. Tôi nhún vai thách thức và thừa biết Đức nửa đùa, nửa đay nghiến về việc tôi bỏ đi riêng với Nam. Tôi cảm thấy lòng tự ái mình được ve vuốt. Tôi muốn báo cho nó biết tôi là kẻ chiến thắng trong cuộc chạy đua và tôi đã đến đích nhanh chóng vẻ vang. Tôi cười nhạt và chợt bắt gặp đôi mắt hờn ghen của nàng. Sẵn dịp, Đức tấn công chớp nhoáng. Nàng vuốt lưng tôi: – Hai đứa bay dắt tay nhau đi mùi ở đàng đó phải không? Quanh đây im vắng, cảnh vật thơ mộng… Hèn nào bay không bỏ trốn? Tôi cảm thấy mắc cỡ nhưng không kém vui sướng, và biết đâu từ giây phút này, tôi an ổn vì mấy con bạn lúc nào cũng sẵn sàng cạnh tranh mình từng tiếng ho. Huống chi tôi đã phổng tay trên thần tượng của chúng nó. Nhưng tôi cóc cần mọi lời mỉa mai xỉa xói. Tôi muốn cầu cứu Nam bảo vệ an ninh cho tôi nhưng tôi thừa biết cái tài xử sự khéo của Nam với mọi thành phần con gái chung quanh. Anh sẽ không còn hiệu lực nữa. Tôi sẽ là cái bia để cho Đức nhắm vào đó lấy danh nghĩa trêu chọc để nhả nọc đay nghiến. Nhưng tôi cần gì hơn tình yêu của Nam cho tôi một cách đột ngột làm tôi có cảm tưởng mình rơi từ một hành tinh nào đó? Tôi nhảy dù xuống vùng đất êm dịu đến rời rã và tưởng chừng xương thịt mình tan hoang trong niềm hạnh phúc không hẹn. Đức chẳng tha, kề tai tôi, thì thầm: – Nó đã làm gì mày chưa Liễu? Cái thằng Nam tán tận lương tâm thiệt mà. Tôi cười khinh miệt hỏi gằn: – Mày ghen hả? Nếu của mày thì tao xin huờn lại chớ có sao đâu, mượn đỡ một chút có gì đâu mà hốt hoảng, cuống quýt lên vậy? Đức bị tấn công bất thần, đỏ mặt nhưng trong chớp mắt nàng lấy lại bình tĩnh cười giả lả: – Thôi nói giỡn mày chút chơi. Thằng Nam là cái thá gì? Khối thằng đang đút “đờ măng” mà tao chưa có thì giờ cứu xét, chớ sá gì thằng Nam giò cao lêu nghêu như cây cột đèn đường. Tôi bỏ đi vào sân nước rửa đôi bàn chân nhớp bụi. Tiếng bằm hối hả trên thớt gỗ, tiếng mỡ reo trong chảo và củ hành bốc thơm nồng làm bao tử tôi cồn cào. Tôi cầm chiếc gáo sọ dừa khoát mặt nước, xúc xối đôi bàn chân mum múp trắng và đôi gót ửng hồng. Theo tướng số, đáng lý tôi phải có một cuộc sống nhàn hạ chớ không phải đầu tắt mặt tối từ thuở nhỏ. Có lẽ mình đã lỗi số. Khi tôi nhìn lên bắt gặp Đức đang hội họp bè bạn. Nàng ngó về phía tôi như cố cho tôi biết là nàng đang bàn tán về tôi, một lối cạnh tranh bất chính. Tôi cảm thấy mình bị thương tổn ít nhiều về những câu khôi hài có dụng ý mỉa mai của Đức. Thú thiệt tôi đầu hàng cái đanh đá của nàng. Tôi né tránh nàng như né tránh một thứ bịnh truyền nhiễm, Nhưng tình thế hiện tại đã lôi tôi đặt vào hàng địch thủ của nàng và chắc chắn tôi không còn an ổn trong cuộc sống mỗi ngày hai buổi ở nhà trường. Nhưng tôi phải tỏ ra mình lì lợm, trịch thượng. Sự câm lặng của mình đôi khi sẽ làm cho địch thủ khó lường được. Tôi nghĩ thái độ phớt lờ sẽ tạo cho người khác có một ảo tưởng tôi là một tay có thủ đoạn. Tiếng kêu thỏ thẻ từ nhà bếp vọng ra. Tiếng của bà Hảo: – Liễu, vô cô chỉ cái này coi. Tôi máng chiếc gáo lên cây nọc và đi ngay vào nhà trong lúc bà Hảo múc nước từ trong cái mái dầm. Tôi đến bên bà: – Thưa, cô kêu em. Bà trỏ vào lu, tôi nhìn tận đáy. Trái bí đao to bằng bắp vế chìm trong đáy nước, xác bí gần muốn rã. Tôi ngạc nhiên: – Thưa cô, sao lại bỏ bí vào nước mưa? Bà Hảo cầm ly nước uống một cách ngon lành, rồi đưa tôi phân nửa còn lại: – Em uống thử, nước mưa chứa lâu năm có ngâm bí uống vào sẽ mát tỳ mát vị. Tôi cầm ly nước đưa lên môi. Bà Hảo khom xuống múc thêm một ly nữa. Trong khi bà khom xuống, mắt tôi chạm phải một miếng cỏ đuôi chồn vướng trên tóc bà. Tôi xin phép: – Cô để em gỡ cọng cỏ trên tóc cô. Không đợi, bà Hảo phủi nhanh như phi tang một chứng tích. Tôi nhìn lên nhà trên. Phía trong sân, hai dãy bàn dài đã bày biện đầy chén đũa, ly tách. Bà Hảo, sau khi uống một hơi cạn ly nước rủ tôi trở ra vườn. Tôi và bà đi song song nhau và tôi cũng nghi bà Hảo cũng bắt gặp Nam và tôi đang tập sự yêu đương bên gốc bưởi. Ông Biểu đứng giảng giải về nghề làm vườn đến mức độ tuyệt xảo của ông ta. Nụ cười ông toe toét dễ dãi và hai cánh tay gầy guộc trắng lạnh của ông như thừa ra, quều quào. Bầy học trò say sưa theo dõi câu chuyện vườn tược. Tôi đã nhập bọn và bị cuốn hút vào câu chuyện. Ông vịn một cành cam nhỏ sai trái lắc nhè nhẹ có vẻ hài lòng. Chúng tôi xuýt xoa khi cành cây không lớn hơn ngón chân cái bao nhiêu mà phải chịu đựng gần năm mươi trái cam. Một giọng nói từ sau lưng quen thuộc. Huấn dồn dã hỏi: – Thưa thầy, chắc thầy thâu nhiều huê lợi lắm? Ông Biểu cười hả hê: – Chỉ bán khoảng từ nửa triệu đến một triệu mỗi năm. Chúng tôi đồng xuýt xoa: – Sao thầy đi dạy làm gì cho cực? – Thầy muốn tìm tuổi trẻ nơi các em, chớ tiền lương giáo sư không đủ mua phân bón một công vườn. Ông tiếp: – Thầy còn một điều mơ ước nữa là lập một ngôi nhà khách giữa vườn cây, cho bóng đèn giăng mắc từng gốc cây quanh nhà và trong vườn rải rác những cái ghế đá dài bằng cẩm thạch huyết. Bà Hảo hớn hở tiếp: – Ông nhớ mời tụi tôi xuống khánh thành ngôi nhà khách và đừng quên mỗi tuần cho bọn này về đây, ngồi băng đá để ngắm kiểng vật nghe hôn? Lập ngồi cạnh ông Biểu, ngước lên nhìn ông với đôi mắt to sâu thoáng rực sáng và nụ cười tinh quái lướt qua vành môi. Lập có nét mặt vừa bi thảm, vừa buồn cười. Hai nét đối nghịch nhau tạo cho chàng sự độc đáo và Lập là một kịch sĩ số một của trường Cao Tiểu. Giọng hát của chàng lúc đau buồn như những lời rên siết ai oán, lúc như xoáy nứt và đổ vỡ bờ tường, Lập đứng trước máy vi âm, trong bộ đồ bà ba bằng vải đen trong đêm hát tất niên hồi năm ngoái, chúng tôi từ dưới khán đài nhìn lên sân khấu trong ánh đèn thuần một màu máu. Lời ca của chàng đẩy chúng tôi từ một nơi đèo heo hút gió, đến những bãi cát trắng chạy dài hút mắt và đến sóng đại dương vỗ rào rạt bất tuyệt. Chúng tôi lạc loài vào những động thiên thai gặp bầy tiên đang giặt lụa bên bờ suối rồi trở về trần thế nghe những nỗi uất hận của đám dân Hời. Lập còn oai phong lẫm liệt trong vai Khắc Chung sang cứu nàng Công chúa Huyền Trân tận Chiêm Quốc và Lập đã biến thành một cụ già râu tóc bạc phơ, lụm cụm run rẩy cầm chiếc gậy quờ quạng đi xin ăn trong vai người hành khất. Từng loạt pháo tay nổ dòn sôi lên như đổ vách rạp để tán thưởng Lập. Lúc đó, trái tim tôi đánh phập phồng. Lập mỉm cười nhìn thầy Biểu, dặn: – Thầy nhớ cho con xin một cái băng đá càng xa ngôi nhà khách và ánh sáng đèn điện như mắc cửi càng tốt. Ông Biểu khôi hài: – Ù, thầy sẽ dành cho Khắc Chung một băng đá cuối vườn. Cả bọn cười rộ. Huấn chêm vào: – Và mày sẽ đem Huyền Trân đến đó ăn mót của thừa của Chế Mân. Thằng Tín thích chí vỗ đen đét vào vai Huấn khen: – Hèn lâu cóc mới mở miệng, tao tưởng mày không biết nói giỡn chớ! Huấn ngó tôi cười nửa miệng. Thực ra, Huấn ít khi bông đùa, chàng chỉ tiếp xúc với bạn bè bằng cách rỉ tai từng đứa sau những giờ học. Huấn có hai người anh đi bộ đội chống Pháp và tử trận năm 1946 tại Đồng Tháp Mười. Huấn mồ côi cha mẹ từ lúc được năm tuổi và chàng sống nhờ sự bảo trợ của bà chị lớn có chồng nghèo, con đông. Chàng sống thiếu thốn từ vật chất lẫn tinh thần. Huấn có tài nói khéo, lời nói chàng lôi cuốn người nghe. Chẳng bao lâu, chàng chinh phục gần ba phần tư lớp để nhúng tay vào việc phá hoại chính quyền Pháp. Báo chí, truyền đơn, cờ xí có tinh cách chống thực dân được phổ biến trong phạm vi học đường. Những cuộc bãi khóa xúc tiến khi những yêu sách của học sinh không được đáp ứng nhanh chóng. Những học sinh nào không hưởng ứng sẽ được đãi bằng những trận mưa đá ném tới tấp vào người khi ngày bãi khoá đã ấn định và thông báo trước. Nhà trường không còn biện pháp nào để ngăn chận, phải nhờ chính quyền can thiệp. Những đứa tình nghi bị bắt đem về Ty Công An hỏi thăm sức khỏe vài ba giờ đồng hồ, rồi ông Hiệu Trưởng đến lãnh. Tội nhân trở về trường được gọi lên nghe thêm vài bài công dân giáo dục và những lời hăm dọa lẫn cảnh cáo đưa ra Hội Đồng Kỷ Luật đuổi học. Huấn mang danh là vua cấm túc, Bọn tôi còn gọi hắn là “yên hùng tí hon” trong lúc nói đùa. Huấn có cái tác nhỏ nhắn, mặc dù hắn lớn tuổi nhất lớp. Những cuộc chơi tập thể tại nhà riêng hoặc nhà của bạn những ngày lễ chỉ mang tính cách giải trí bề ngoài nhưng bên trong là việc phân công làm loạn. Từng cuộn truyền đơn, báo chí, tin tức dấu trong yên xe, đút vào áo lót, nhét dưới đế giày. Trong nhà một cộng tác viên của Huấn chứa đầy tài liệu, hình ảnh, đút nhét trong bồ lúa, ở vách lá, trong ổ gà và những ống tre làm phên vách. Ngoài giờ ở nhà trường Huấn thường lân la nhà bạn bè trò chuyện. Đề tài của Huấn không ngoài việc phổ biến sâu rộng những tin tức và lôi kéo người nghe nhúng tay vào việc phá hoại chính quyền Pháp, gây hoang mang cho những phần tử lưng chừng, những đứa con của những người làm cho nhà nước Pháp thời bấy giờ. Chàng mở hội lạc quyên, dùng tiền mua giấy mực in truyền đơn, và vải vóc vẽ biểu ngữ. Một số học sinh sau khi đọc những tác phẩm của các nhà văn có khuynh hướng chống Pháp ùn ùn bỏ nhà đi khu theo kháng chiến. ☆ Tiếng động ở nhà bếp thưa dần rồi ngưng hẳn. Khói bếp chỉ còn là một màu xanh lung linh trong biển nắng. Bà Biểu trong chiếc áo lục soạn trắng mát và chiếc quần Mỹ-A đen bóng bước ra chỗ chúng tôi ngồi quanh ông Biểu. Bà nhã nhặn bảo chồng: – Cơm nước xong xuôi rồi, vây mình mời chị đây và các cháu dùng bữa rồi nghỉ trưa một chút để rồi còn sức về. Bà Hảo đứng dậy đon đả: – Chúng em làm phiền chị quá. Bà Biểu liệng cục thuốc xỉa xuống mương, tươi cười: – Không mấy thuở chị và các em xuống chơi, dầu có cực đôi chút, tôi cũng thấy vui. Ông Biểu ra lệnh. – Vậy chúng ta vô ăn cơm rồi ra bẻ thêm mỗi em một mớ đem về làm quà cho ba má hoặc anh chị em. Bà Biểu tiếp: – Các em bẻ chừng nào xách không nổi nữa thì thôi. Bà Hảo lắc đầu cản: – Chị đừng cho tụi nó thả cửa như vậy không khéo anh chị mất mấy mẫu cây trái. Quan làm vẻ quan trọng: – Cô nói phải, đó, nhứt quỷ, nhì ma, thứ ba là tụi em. Đức ngắt lời: – Học trò như tụi bây phải đặt vào hạng nhứt trước ma lẫn quỷ. Tụi bây là bọn cô hồn sống. sống. Ông Biểu lắc đầu cười dòn nói với vợ: – Tôi thách chúng nó đứa nào ăn mỗi cây cam một múi thôi mà ăn hết vườn cam của mình, tôi sẽ thường cho một mẫu. Sáo nói nhỏ vào tai tôi: – Nghe ông xúi dại ăn vào trúng thực chết liền tại chỗ, còn đâu lãnh được một mẫu cam thường. Bà Hảo nhìn tổng quát: – Có em nào tình nguyện thử coi. Chúng tôi nhìn nhau dò hỏi. Sáo lớn tiếng: – Thưa cô, thử lần này rủi trúng thực mà chết thì tiếng xấu bay tận thiên đình. Chúng em chỉ muốn ăn cam cho bổ phổi, cho nhuận trường để giữ da mặt. Quan thêm: – Và xuống âm phủ, không hiểu kẻ mê ăn chết sẽ vô cửa ngục thứ mấy? Thầy Biểu xua tay rồi vò đầu Quan. – Dầu có kẻ tình nguyện ăn, thầy cũng xin cản trước khi Diêm Vương bắt. Nói giỡn với mấy em, chớ ăn nội một cây cũng đủ lăn ra chết rồi. Bà Biểu giuc: – Thôi, mời chị và mình vào trước cho các em nó vào sau. Ăn cho sớm để đồ ăn nguội mất ngon. Bà Hảo hô to: – Các em hãy đi rửa tay xong rồi ráp vô để thím chờ. CHƯƠNG NĂM Ngồi đối diện mâm cơm bĩ bàng gồm có gà đút lò, vịt tiềm, cá lóc nướng, cháo tôm, toàn là những món ăn ngon mà tôi chưa có dịp ăn lại kể từ nhiều năm nay, từ ngày nhà tôi suy sụp bất ngờ. Những thửa ruộng cò bay thẳng cánh bất thần bị tịch thu, trong nhà không còn một hột lúa ruộng. Ruộng của ông tôi mênh mông, bỗng nhiên con cháu không còn chút đất cắm dùi vì cái tội có ông nội làm quan cho Pháp. Tôi nhớ rõ lắm. Đó là một buổi sáng có sương mù và trời đất bắt đầu lành lạnh, có lẽ là đã qua nửa tháng chạp rồi. Theo lệ thường, ông tôi sẽ ngồi ghe đi cùng với một người Miên –anh Tuốt– tới Vĩnh Long trôi nổi về miệt Hóc Hỏa để thâu lúa ruộng. Chiếc ghe lườn với chiếc mui lá chầm uốn cong hình bán nguyệt sẽ trở về trước Tết để đón giao thừa. Anh Tuốt chèo lái và chị Bảy nấu cơm và kiêm luôn người chèo đàng mũi. Ông tôi chỉ việc nằm đọc sách, báo từ sáng cho tới giờ đậu ghe lại ăn cơm hai bữa và ngủ. Trong ghe, chị Bảy Một (chị chột hết một mắt) đã cụ bị sẵn lương thực có thể dùng trong vòng một tuần. Từ Vĩnh Long chèo qua Cần Thơ thì nghỉ lại đó vài ba tiếng đồng hồ để mua thêm thực phẩm, rồi lại nhổ sào tiếp tục cuộc hành trình. Chiếc ghe rời bến nước sau nhà tôi, sẽ quay về nhanh hay trễ là do khả năng chèo chống của anh Tuốt và của chị Bảy Một định đoạt. Trước khi chiếc ghe bung ra khỏi nhà thủy tạ, lũ cháu nội và sáu bà vợ của ông tôi cùng hằng chục con trai và con gái đứng xếp hàng trên bờ tiễn ông bằng cách vẫy tay, bằng những cặp mắt mừng rỡ lộ liễu của lũ cháu khiếp sợ ông, của vài ba đứa con của các bà vợ trẻ tuổi suýt soát tuổi cháu nội của bà vợ lớn. Riêng đôi mắt của bà vợ thứ sáu thoáng buồn buồn, còn những bà kia hình như vừa trút được một gánh nặng. Họ có vẻ không bịn rịn làm màu mè. Ông tôi sống giữa những bà vợ lấy ông vì địa vị hiển hách ngày xa cũ và giữa tiền bạc đắp đầu gối họ. Chỉ còn bà vợ út quấn quít lấy ông, còn đẻ rán cho ông vài mụn con đỏ. Mấy bà kia đã tẩy chay việc làm vợ chồng với ông. Họ sống với ông như một người quen sống vì nghĩa, sống che dấu người ngoài, sống cho bầy con mình có cha để chúng đỡ tủi thân. Sự có mặt hay vắng mặt của ông tôi trong ngôi nhà cổ âm thầm này không có nghĩa lý gì nữa. Ông chỉ đem lúa, tiền về nuôi họ đủ mỗi ngày hai bữa cơm và miễn sao con cái họ không đến nỗi rách rưới. Ông tôi ngồi ló đầu ra khỏi mui ghe cũng đưa tay vẫy. Trong cơn gió làm chiếc ghe tròng trành, ông nghe những tiếng dặn dò từ bến: – Ông nhớ mua cho sắp nhỏ một mớ khoai lang nghen. Bà vợ thứ nhất tức là bà kế mẫu của ba tôi dặn. Bà thứ nhì thêm: – Đừng quên mua cho bầy trẻ vài chục ký mắm lóc. Một bà khác nữa hỏi: – Ông mua một mớ khóm Cầu Đúc, lựa khóm già nở mắt đem về thì vừa, mua chín quá đem về chưa tới nhà nó rục hết. Bà áp út hớt hơ hớt hãi, hét: – Ờ Bảy, mày nhớ thắng cho bà một khạp nước màu bằng nước khóm ép nghe. Mấy thằng oắt con rần rần chạy xuống nhà thủy tạ la ầm lên: – Anh Tuốt nhớ hớt cá thia thia Rạch Giá cho tụi em. Nhớ hớt cho thiệt nhiều, lựa cá “gộc” đá cho giỏi nghen. Bà Út trổ giọng uốn éo: – Mình đừng có quên là em ở nhà đợi mình về, có mua cho em cái gì cho gọn dễ xách nếu có mắc tiền chút đỉnh cũng được. Bà vợ cả nhìn bà Út nửa con mắt rồi bỏ vô nhà. Ông tôi chỉ còn nghe những tiếng reo hò nho nhỏ của lũ con bắt đầu nổi loạn khi chiếc ghe khuất sau rặng dừa để vào rạch nhỏ rồi đổ ra sông lớn. … Sau hai tháng, chiếc ghe đó trở về với hai người chèo và trong khoang thì trống trơn. Anh Tuốt ốm đi nhiều, tay chèo như uể oải và chị Bảy Một, với con mắt sáng còn lại, bơ phờ. Lũ con nít độ ba mươi đứa ra mừng rồi tiu nghỉu khi anh Tuốt nói không có cá thia thia và mấy bà vợ lo lắng nhìn sâu vào bên trong hỏi dồn: – Ông đâu rồi tụi bây? – Sao kẹt lâu quá vậy? – Tá điền chưa đong đủ lúa sao? – Ông có mạnh giỏi không? Bao nhiêu câu hỏi phi vào đầu anh Tuốt nhanh đến độ không trả lời kịp. Anh lặng lẽ cặm sào rồi nhảy lên bờ thuật: – Ông xuống tới dưới bị tá điền ở bên sóc người Miên cự nự về vụ thất mùa và đồng lòng không đong lúa. Sau một hồi cãi vã, chúng dùng mác đâm ông trọng thương. Lúc cậu Hai đem ông về chòi ở Hóc Hỏa chạy chữa thì ông chết. Đợi chôn cất ông xong xuôi đầu đó, cậu Hai mới cho tụi con về thưa lại với các bà. Chị Bảy Một khóc thút thít tiếp: – Trước khi ông nhắm mắt, ông có trối nên đem ông về mai táng đất nhà. Tôi nhìn qua một lượt, sao chẳng nghe tiếng kêu khóc nào của các bà vợ và mấy đứa con. Dường như họ xem cái tin dữ này như tin người hàng xóm chết. Rồi họ lặng lẽ bỏ vào tiếp tục công việc đang làm dở. Thỉnh thoảng họ kể cho nhau nghe những giấc chiêm bao mà bây giờ họ mới đem ra minh chứng điềm ông tôi chết dữ. Bà vợ thứ tư ong óng: – Cách đây nửa tháng, tui thấy ổng về kêu cửa. Chừng tôi ngó lên thấy mặt mũi ổng đổ máu. Sợ quá, tui hét lên và mới biết mình nằm chiêm bao. Bà cả chen vô: – Tao cũng thấy ổng về và lại gần tao kêu đói. Khi tao làm cho ổng một dĩa cơm sườn bưng lên thì ổng ôm ngực kêu đau. Tao nhìn lên thấy sao mà ngực ông đổ máu xối xả. Bà vợ thứ sáu hỏi anh Tuốt: – Mày thấy ông chết có nhắm mắt không? – Thưa bà, ông chết nhưng hai con mắt còn mở trao tráo. Con phải nhờ cô Bảy vái van một hồi rồi con vuốt, ông mới chịu nhắm mắt. Các bà cứ đem giấc mộng ra thuật một cách say mê. Giọng bà nào cũng sôi nổi và thỉnh thoảng có tiếng cười lác đác. Sau đó, một vài bà mếu máo một cách gượng gạo làm tôi mắc cỡ. Quay qua chị Bảy Một, bà Út hỏi: – Mày vái làm sao Bảy? – Con vái: các bà, các cậu ở xa quá không ai hay, vậy xin ông thương mà nhắm mắt lại. Chị Bảy pha trò: – Chắc ông còn nuối bà Út nên chỉ nhắm hơi hơi thôi. Không khí trong nhà tuy không đượm vẻ tang tóc lắm nhưng có cái gì trống vắng, nhờn nhợt phủ quanh và tháng ngày trôi chầm chậm trong quên lãng. Các bà vợ của ông tôi lần lượt bỏ ngôi nhà hương hỏa đi làm lại cuộc đời. Các bà lớn tuổi hơn không còn cơ hội lấy chồng lại ra mua gánh bán bưng nuôi thân và con cái. Ngày ông tôi còn sống, họ ỷ lại vào gia sản, trông cậy những huê lợi hàng năm, những lẫm lúa đầy tận nóc của ông tôi. Tai nạn bất thần làm họ tỉnh mộng, họ nhìn lại trong tay mình không có lấy một cục đá chọi chim và họ phải bồng bế nhau đi tìm sự sống sau khi tiêu gần hết mấy món tư trang. ☆ Đức thúc vào hông tôi gọi: – Liễu làm gì thẫn thờ vậy? Tôi giật mình vội cầm đũa gắp một miếng thịt gà đút lò cho vào chén. Đức bấm vào đùi tôi: – Coi bộ nãy giờ mày như người mất hồn, chắc thắng Nam Giò nó lại dẫn hồn phách mày vô vườn bưởi rồi. Tôi mỉm cười về câu nói dẫy đầy ám khí của nàng và tôi cầm ly bia uống một hơi gần cạn để bôi xóa những ý nghĩ lộn xộn trong đầu. Khi chất bia ngấm vào người, tôi ngây ngây. Tôi nhìn từ chỗ ngồi đến người ở cuối bàn, thấy ai cũng có vẻ đáng mến hơn ngày thường một cách kỳ lạ. Chợt nhớ tới Nam, tôi ngẩng lên tìm kiếm, chàng từ bên kia bàn cách tôi lối mười cái ghế đang gặm cái xương cánh gà và cười nói xôn xao với Huấn. Bà Hảo ngồi đầu bàn danh dự ăn một cách cần mẫn. Tôi nghĩ ngay đến cọng cỏ đuôi chồn vương trên mái tóc có vài sợi bạc ban nãy và đoán chừng bà vừa ăn vừa ôn lại chuyện mới xảy ra bên líp cỏ đuôi chồn và cái khung cảnh bên gốc cây bàng cạnh bờ sông. Thấy tôi nhìn bà hơi lâu, bà dừng đũa lại: – Liễu, sao em ăn yếu quá vậy? Sáo nhìn sang tôi: – Ăn ít cũng mang tiếng ăn nghe mậy. Tôi cười hồn nhiên và tiếp tục ăn để bù lại những ngày ăn toàn rau dưa chấm tương hay nước mắm sả ớt. Tôi ăn ngấu nghiến như chưa hề được ăn ngon như thế bao giờ. CHƯƠNG SÁU Nắng bớt hanh, trời ngả màu xám, chúng tôi từ giã mảnh vườn sầm uất đó không mấy luyến tiếc vu vơ. Thời tiết buổi chiều đe dọa chuyến về của bọn tôi. Ông Biểu nhìn trời, rồi lắc đầu trấn an chúng tôi: – Chẳng lẽ tháng hè lại đổ mưa. Nhưng các em hãy cố gắng về cho sớm kẻo ba má đợi. Tôi leo lên xe và Kim được Huấn đèo giúp. Nhìn lại rặng vườn âm u, tôi âm thầm gởi lại đây một kỷ niệm đơn sơ của tuổi học trò, của tình yêu sơ sài không hẹn trước. Linh cảm cho tôi biết, tôi đến đây chỉ một lần, nhưng tôi mong Nam còn đến với tôi dày đặc như những chiếc lá cam và chàng sẽ cho tôi những mộng đẹp ngọt ngào như một trái cam chín cây trong mảnh vườn xa tít mắt này. Cũng con đường hồi sáng, nhưng bây giờ tôi cảm thấy dài ra, uể oải như có cái gì níu lấy hai chân. Tôi đạp xe chầm chậm. Trời thương tôi nên không làm gió ngược. Huấn dừng lại đợi tôi. Chàng đề nghị tôi để chàng tiếp sức bằng cách để Kim níu tôi như kéo “rờ-mọt”. Chiếc xe tôi tròng trành một lúc mới giữ nổi thăng bằng. Kim cố gắng lôi tôi trong lúc Huấn cong lưng đạp mạnh. Đến những ổ gà trên đường, tôi buông tay Kim để giữ lấy tay lái và tôi lại tiếp tục “báo đời” hai đứa nó cho đến khi nhìn thấy giải đèn vàng úa trước mặt của bến bắc đìu hiu thưa thớt khách sang sông. Tôi dẫn xe xuống phà và dựng vào thành bắc nhìn xuống dòng sông đen đặc chảy lờ đờ. Tôi khoanh tay trước ngực, gió lành lạnh ở hai bàn tay. Tôi nhìn hai bên bờ, những cây bần mọc bên mé nước chiếu ra hàng muôn triệu chấm ánh sáng xanh lân tinh chớp tắt liên hồi. Tôi tưởng tượng đó là một khối lân tinh tập trung hàng hà sa số hồn ma bóng quế. Một lần nọ, có con đom đóm bay lạc vào nhà, bà ngoại tôi nói rằng: – Vong hồn người nào đó về thăm nhà mình. Tôi cảm thấy rờn rợn và trí óc non nớt của tôi dễ bị đe dọa. Mẹ tôi thêm: – Bắt đom đóm, sẽ làm bể chén dĩa sau đó. Bây giờ đứng trên thành chiếc phà nhìn hàng triệu con đom đóm chiếu lập lòe, tôi nhớ đến lời ba tôi năm xửa năm xưa: – Mỗi con đom đóm là một linh hồn người chết và mỗi ngôi sao xẹt là có người vừa lìa bỏ cõi đời. Thành thử, mỗi khi nhìn thấy đom đóm la đà bay qua, tôi nghĩ đến bà tôi đang nhập vào con vật sáng ánh như màu ngọc sa-phia về bên tôi và khi nhìn sao đổi ngôi, tôi nghĩ một cái tang rũ xuống gia đình nào đó và tự nhiên tôi buồn bâng quơ. Tiếng chân vịt của chiếc phà rồ lên rồi im dần. Nước xoáy tròn, dề lục bình chơi với chết hụt dưới lườn phà. Tôi giao Kim chiếc xe đạp và theo hẳn Huấn. Từ đây đến nhà không còn xa lắm. Huấn và tôi đi song song nhau. Huấn một tay vịn ghi-đông xe và một tay bỏ lửng. Lũ bạn sốt ruột đã rùng rục phóng xe mạnh ai về nhà nấy. Chúng tôi đi bộ qua một ngôi đình nằm bên đường. Nơi đó cửa đóng im lìm và không có một ánh đèn. Nóc đình uốn hình hai con rồng giao du và có vài nơi ngói bể nát đổ xuống lòng máng xối. Quanh đình trống trơn và đồng ruộng chạy thoai thoải. Huấn chỉ vào đình, giọng chàng trầm xuống: – Nơi sân đình này, mười năm về trước ba tôi đã bị chết chém. Tôi hơi hoảng hốt hỏi tới: – Sao vậy Huấn? Huấn ngậm ngùi: – Tây bắt ba tôi đang “chém dè “ dưới mé nước, và khi bọn nó thấy dề rau mác lay động, chúng nghi có quân kháng chiến trốn ở đó. Chúng sai bọn lính Miên theo hầu làm chó săn dùng dao chém xả vào mấy lùm rau mác. Ba tôi bị thương nơi cánh tay, máu loang đến mặt nước đỏ ngầu và ông đành trồi lên đầu hàng chúng. Khi lôi cổ ba tôi lên khỏi mặt nước, bọn nó đem ông vào sân đình và sẵn mác, chúng chém người đứt lìa cổ. Nói đến đó, giọng Huấn trầm xuống ướt sũng nước mắt. Thầy Biểu và lũ bạn dừng lại chờ tôi và Huấn. Bà Hảo thận trọng điểm lại số học trò. Khi Huấn và tôi vừa đi tới thì bà Hảo reo lên: – Thiếu hai đứa này. Tụi em làm gì mà lục đục tới bây giờ mới đến? Vài giọng cười rúc rích chế nhạo. Huấn dõng dạc: – Thưa cô, chị Liễu thích đi bộ một khoảng cho đỡ tê chân nên em ở lại cùng đi với chị ấy cho vui. Ông Biểu trở về phía đình: – Các em có biết ngôi đình lèo tèo đó là ngôi đình lịch sử không? Bầy học trò nhao nhao lên – Thưa thầy, sao người ta gọi đình này là đình Khao? Ồng Biểu tằng hắng: – Ngày xưa khi quân Pháp vừa mới đặt nền đô hộ thì nơi đây, những bậc tiền nhân chống Pháp ban đêm tụ tập làm lễ “uống huyết ăn thề”, mỗi người dùng gươm cắt tay lấy máu cho vào vịm pha rượu đế. Trên nóc đình treo hằng trăm thanh gươm. Tất cả mọi người ngồi xếp hàng quanh chậu huyết pha rượu. Họ thề với nhau: “Ai có tâm địa phản bội tổ quốc sẽ bị những thanh kiếm thiêng này rơi xuống chém đứt đầu”. Thề xong, họ chia nhau uống huyết trong chậu để tăng cường sự hăng say phụng sự tổ quốc, chia sớt gian khổ với anh em đồng sanh tử… Chúng tôi tiếp tục tiến vào thành phố. Bên kia đường tiếng hát ru em hòa lẫn tiếng kẽo kẹt của chiếc võng làm mí mắt tôi nặng. Tôi nhìn lên trời. Con trăng lưỡi liềm treo lơ lửng trên nóc nhà việc làng, tỏa ra ánh sáng yếu ớt. Một giọng hát từ trong mái lá cất cao lên… Đến dốc cầu rẽ qua thành phố, chúng tôi chia tay nhau. Tôi ở bên này cầu, rẽ theo con sông Long Hồ phía bên trái và được về nhà sớm hơn các bạn. Bên kia sông, sự hoạt động về đêm sôi lên tràn trề… CHƯƠNG BẢY Mùa tựu trường tới, ông Hiệu Trưởng cũ đã đổi đi, và một ông Hiệu Trưởng khác dòng dõi vua chúa ngoài Huế đổi về. Trọn một mùa hè qua, lòng tôi đã xáo động không ngớt, hình bóng Nam cứ chiếm hết cả ý nghĩ của tôi. Mấy trận mưa dầm dề làm đám cỏ bên hông nhà xanh um và cây hoàng lan đêm đêm nở hoa thơm ngát. Tôi bắt đầu viết nhật ký và viết thư gởi Nam. Chàng hồi âm cho tôi rất âu yếm. Tôi không dám khoe với Kim, nhưng thường tìm nàng để cùng nàng nhắc đến những mối tình thiên thu của các nhân vật lịch sử. Chúng tôi dành tiền mua chỉ màu và ngồi thêu suốt ngày bên khung cửa sổ quay về dòng sông. Kim hát bài Mỵ Nương Trương Chi hoài không chán. Nhưng tôi muốn khám phá đời sống qua Nam. Tình yêu là gì? Chuyện đó tuy gần mà sao xa quá làm tôi bứt rứt. Tựu trường, má tôi may cho tôi chiếc áo cẩm vân trắng. Tôi bắt đầu đi guốc, và sửa dáng đi cho nhàn rỗi, uyển chuyển hơn. Thế nào cũng phải gặp Nam. Nhà trường tổ chức một bữa tiệc mặn vào lúc tối để đón tiếp ông Hiệu Trưởng mới và bà vợ trẻ đẹp biết đánh đàn tranh của ông ta. Bữa tiệc đó chỉ có ban giáo sư và các giám thị ở trường. Bọn học trò thì cũng hùn tiền lại, tổ chức tiệc trà trên sân cỏ nhà trường vào buổi xế cùng ngày. Ông Hiệu Trưởng cũng có tham dự, nói vài lời huấn dụ, và chúng tôi bắt đầu mê lời nói ngọt lịm và trơn láng của ông ta. Tôi không quên buổi chập choạng tối trong sân trường, trên bãi cỏ Nhật Bản xanh mịn như thảm nhung chạy dài đến nhữug lối sỏi. Hàng ghế học trò đâu nhau phủ nắp trắng làm bàn ăn luôn cả ghế dựa. Phòng khánh tiết lộ thiên lợp bằng nền trời đen chi chít các vì sao mọc sớm. Anh Nam và chị Ngọc làm trưởng ban tổ chức của hai lớp Đệ Ngũ (hồi chúng tôi còn học Đệ Ngũ). Cả hai đến từng nhà các bạn cùng lớp mượn chén dĩa và những dung cụ dùng cho bữa tiệc. Hai dãy bàn chạy dài từ cổng vào, vòng theo cái sân bao quanh phòng Giám Thị. Những chén dĩa ly cốc không đồng nhất. Nhà trường rước về môt toán thợ nấu đồ rừng, dắt con dê xuống nhà kho dành cho các bác tùy phái, nơi đây nổi lên ba bốn bếp lửa. Con dê bị trói bốn chân, bác đồ tể cho nhậu rượu đế. Khi nó say túy lúy nằm thở hồng hộc thì bác đồ tề dắt nó ra giữa sân cột vào cây trụ, rồi dùng roi quật vào lưng nó. Tuy say nhưng nó phải cố gắng đâm đầu chạy trối chết. Nếu nó vừa ngừng lại thì trận mưa roi lại trút xuống. Bác đồ tể hành nó mệt ngất xỉu rồi mới chịu đem ra cắt tiết. Bọn tôi đứng quanh nhìn cách chết thê thảm của nó, ngạc nhiên hỏi bác đồ tể: – Tại sao bác không cắt cổ dê như heo hay bò, hoặc đập đầu cho nó chết tốt, đỡ tội nghiệp hơn. Với bộ ngực, hai cánh tay bắp thịt cuồn cuộn có xâm những hình cổ quái, ướt đẫm mồ hôi, bác đồ tể thở hồng hộc vì phải rượt theo con dê hằng mấy mươi vòng quanh cột trụ. Tôi nhìn người và vật xoay tròn trên khoảng đất làm đầu óc tôi xây xẩm. Bác ngồi xuống nghỉ mệt, vấn điếu thuốc rồi giải thích: – Phải làm cho nó xuất hạn trước khi cắt cổ thì thịt ăn không hôi. ☆ Hàng cây điệp giăng mắc bóng đèn vàng vọt hiu hắt. Ông Mậu cười bâng quơ, đoạn ông quay qua ông Giám Thị tên Minh: – Thôi cũng tạm được, đèn nửa mờ nửa tỏ càng tăng thêm vẻ thơ mộng. Ông Minh ngắt lời: – Nghe nói người Huế có món cơm gọi là “Cơm Âm Phủ “, chắc lúc ăn cơm, họ cũng dọn ra chỗ tranh tối tranh sáng cho có vẻ trần gian giáp nối với âm cảnh, nên món cơm đó có cái tên thơ mộng và ý nghĩa như vây, phải không ông Tổng Giám Thị? Ông Mậu cười xòa rồi giải thích về món cơm đặc biệt của quê ông cho đám học trò đứng quanh lẫn ông Giám Thị nghe và ông rao vài đường suy tôn món cơm ấy. Thằng Tín há hốc mồm rồi hạ giọng: – Đúng là khi ăn cơm đó xong thì chỉ muốn đi âm phủ cho rồi. Chúng tôi rúc rích cười và ông Minh cũng hiểu ý, mấp máy đôi môi đen thâm vì khói thuốc. Thằng Quan trổ giọng quê hương của bà nội nó, nó vốn là Triều Châu lai Việt: – À, cái lầy cơm âm phủ của nị sao bì kịp cơm Dương Châu của ngộ ngon nhất bên Tàu. Khi đó, ông Mậu và ông Minh vừa quay đi. Trên phòng giáo sư, bàn tiệc đã bày sẵn và trên bàn rải rác những đóa hoa điệp đỏ lẫn hoa ti-gôn hồng nhạt. Bọn học trò tinh nghịch đem dây tơ hồng vàng ối cho bò lên những chiếc khăn ăn xếp hình đóa sen nở. Bọn học trò rỉ tai nhau rúc rích cười. Hôm nay là ngày đám cưới của các vị giáo sư và giám thị. Tiệc thịt dê lại còn có ý nghĩa hơn. Chúng nó thì thầm tại sao không đãi gà, vịt, heo, bò mà lại làm dê. Năm nay là mùa giao duyên của hàng giáo sư. Ông Biểu đã dòm ngó bà Hảo hồi mấy tháng trước. Bà Lý đã đưa ông Chung vào căn phòng sau nhà kho mà bà ở tạm. Căn phòng đơn sơ nhưng nhờ bà khéo bày biện nên trông cũng có vẻ ấm cúng. Bà tự nấu ăn lấy, lúc rảnh, thêu thùa săn sóc da mặt, coi sách, trồng bông hường. Bà từ Saigon đổi về đây dạy nữ công và gia chánh. Bà hơn bốn mươi tuổi, đã góa chồng gần hai mươi năm nay. Bà chỉ có đứa con gái độc nhất đã bỏ nhà theo trai trước khi bà về đây nhận việc. Bà sống cô độc, thui thủi tội nghiệp. Chẳng bao lâu, bà chinh phục được một đám học trò lui tới chơi với bà vào những giờ tan việc ở trường. Bà cảm thấy đỡ trống vắng trong cuộc sống giữa nơi tứ cố vô thân này. Tuy trên bốn mươi tuổi nhưng bà còn giữ được vẻ trẻ trung lâu nhờ gương mặt trái soan, cặp môi gọn gàng, cởi mở và màu da mịn màng nhờ nuôi dưỡng công phu. Nhưng chắc chắn hơn hết là bà trẻ nhờ giọng cười, và bà phong lưu nhờ cách phục sức ở nhà bằng bộ “côm-lê” trắng viền ren trong như búp bông lài. Bọn học trò trong câu chuyện thường thành thật khen bà: – Cô đúng là gái một con trông mòn con mắt. Bà chống chế một cách yếu ớt nhưng không che dấu nỗi sung sướng và hãnh diện trong ánh mắt. Dáng bà thon thon, và bà thường thích mặc màu trắng nên dễ lẫn lộn trong bọn học trò con gái khi bà đứng chung với chúng tôi. Bà vương vãi cho người chung quanh sự trẻ trung và bà đã làm cho chúng tôi quên bà suýt soát tuổi cha mẹ chúng tôi. Bà tham dự tất cả những cuộc chơi có tính cách thể thao với bọn tôi như những buổi chơi vũ cầu trong sân trường. Giọng cười bà cất lên trong trẻo, tinh nghịch và phơi phới vào những chiều trên khoảng sông vắng bà theo chúng tôi đi bơi. Mỗi người mặc chiếc quần xanh dương thẫm bó ống và chiếc áo ngắn tay màu xanh thiên thanh. Bộ đồ đó dành mặc tập thể dục. Bà bì bõm lội kiểu chó và chúng tôi xúm nhau bao quanh bà và xô sóng vào tấn công bà, làm bà chới với vì những lượn sóng xoáy tròn, và bà kêu la bài hãi làm nhốn nháo cả mặt sông. Chúng tôi giỡn cho bà vừa mệt rồi lôi bà vào bờ. Bà leo lên chiếc cầu ván bắt từ bờ nhủi xuống sông ngồi thở. Chiếc áo mỏng trong suốt và hơi thở bà gấp rút làm tôi có cảm tưởng ngắm bà như một bức tượng bán thân giữ cả một nguồn sinh lực mùa xuân dai dẳng. Đức lội vào bờ ngồi cạnh và vuốt trên lưng bà, nửa đùa nửa thực: – Thân thể cô là thân thể đàn bà nên nồng nàn hơn thân thể bọn con gái tụi em nhiều. Trong những lúc đó, cuộc sống huyên náo, trong sáng làm bà Lý trẻ trung, nghịch ngợm hơn. Bà cười đùa sảng khoái, quên khoảng thời gian cô độc, buồn nản từ ngày bà về cái tỉnh lẻ mà trước kia bà cứ nghĩ rằng nơi đó sẽ xa bóng dáng thân thuộc của người thân và những chuỗi ngày góa bụa của bà sẽ còn kéo dài mãi không thôi. Ngày xưa, khi chồng bà chết vì bạo bịnh, bà mang thai đứa con gái đầu lòng được mười lăm hôm. Cuộc sống vợ chồng chỉ đến với bà trong vòng hai tháng. Mẹ chồng thấy nàng dâu còn trẻ nên đề nghị gả bà Lý cho một người đàn ông góa vợ và có địa vị trong làng sau khi mãn tang con trai bà. Bà mẹ chồng cứ nghĩ đến tương lai của đứa cháu nội mồ côi khi bà nhắm mắt từ bỏ tất cả. Nhưng lúc có những hình ảnh, những kỷ niệm thuở bà còn là nữ sinh trường Áo Tím và thuở chồng bà còn học trường Trương Vĩnh Ký lãng vãng trong trí nhớ nên bà không thiết gì đến chuyện cải giá. Bà giận mẹ chồng và cho là mình đã bị xúc phạm và bà nghĩ mẹ chồng mình muốn tống cổ mình ra khỏi nhà. Bà khóc lóc, vật vã mấy ngày liền, rồi bồng con trở về sống với mẹ ruột. Hai năm sau, bà đã xin đi dạy học nuôi con. Bà Lý chỉ có ý nghĩ làm lại cuộc đời khi đứa con gái lớn lên và dần dần xa bà. Nó không còn quấn quít bà như lúc còn bé. Bấy giờ bà mới thấy cần một người đàn ông bên cạnh lúc đau yếu hoặc lúc thất bại. Sau khi con gái bà lén trốn theo trai, bà cảm thấy có chồng là điều cần thiết. Bà không còn chịu đựng nổi sự cô độc vò võ bên bà mẹ già nên xin đổi về đây mong rằng cuộc sống buồn nản sẽ có cơ hội thay đổi và bà lại chờ đợi. Bà tâm sự với chúng tôi: – Cô tưởng về đây sẽ buồn và cô độc hơn nữa, nhưng trái lại… Bà không mấy thích chơi với nữ đồng nghiệp vì bà có mặc cảm thua sút họ. Môn bà dạy có tính cách phụ thuộc và bà còn mặc cảm là mình có trình độ văn hóa thấp, và nghèo hơn các bạn dạy cùng trường. Bà thích tâm sự và nghe tâm sự của chúng tôi, thích tìm hiểu đời sống của các cô nữ sinh ngoài phạm vi nhà trường nên bà thường đến thăm nhà mỗi đứa. Chúng tôi xem bà như một người chị, một người bạn có thể gia nhập vào sự sôi nổi huyên náo trong các cuộc chơi. Trong hàng giáo sư, số mê bà chiếm hết hai phần ba. Họ tìm đủ cách chinh phục bà. Trong số đó, chỉ có ông Chung dạy toán lý hóa là được bà chú ý nhất. Ông Chung cũng vừa đổi về đây một lượt với bà. Vừa gặp ông ở phòng giáo sư, bà hoảng hốt vì tướng mạo người này có nhiều nét giống chồng bà. Nụ cười ông Chung vừa tươi, vừa nghịch ngợm ở chiếc răng khểnh. Cũng đôi mắt một mí dưới chiếc kính cận và mụt ruồi nằm dưới cằm. Bà cho là chồng bà tái sinh nhưng già đi đôi chút. Rồi thì hình ảnh ông bạn đồng nghiệp đó lởn vởn trước mắt bà mỗi ngày hai buổi trong phòng giáo sư. Dần dà sự gặp gỡ đó biến thành một thói quen kỳ lạ. Bà bắt chuyện với ông Chung và hình như bà là một thỏi kim loại thu hút ông. Bà không mặc áo trắng, bà may thêm vài cái áo lụa Bombay, và mỗi khi đi đâu, bà cũng quàng khăn san màu bia vàng óng. Sự thay đổi của bà, ngoài quần áo, còn ở chỗ căn phòng mới sơn màu kem, rèm sáo màu hồng rắc bông trắng. Bà lại hỏi chúng tôi là liệu bà uốn tóc có hợp với tuổi tác không? Đôi khi, bà kể lể: – Sao trời có thể nặn hai người giống nhau như hai hột đậu vậy cà? Lũ thằng Tín thông báo với chúng tôi: – Bà con ơi! Coi mòi ông Chung đang chiếu tướng bà Lý. Cặp này không sớm thì muộn cũng “cụp” nhau. Mà bà Lý gan trời mới nhào vô ông Chung. Oanh nhìn quanh quất tiếp · – Tao ở gần bà Chung. Trời ơi! Con mẹ Bắc đó dữ như sư tử Hà Đông. Hàm răng khít rịt như sẵn sàng đay nghiến ai. Đức tiếp lời: – Mà đúng sự thật bả ở tỉnh Hà Đông, bả nói với tao hôm nọ khi tao đem bài đến nộp cho ổng. Sáo chen vào: – Lạng quạng, bả xé bà Lý ra trộn gỏi, tao ghê đàn bà Bắc số một, ngọt bề ngoài, đắng bên trong, đúng là viên thuốc bọc đường. Thằng Quan ngắt lời: – Chị và chị Đức mai sau lấy chồng lưng còm để sẵn sàng luồn cúi, còn cô nào mà động tới lông chưn chồng mấy bà là mấy bà xởn tóc, lột truồng người ta giữa ban ngày. Sáo cự nự: – Nè, tui con nít chớ nói chuyện bao đồng, con nít hãy lo ăn sữa bột đừng có nói chuyện vợ chồng. Chồng tao sao này dắt tình nhân lượn trước mặt thử coi. Tao có cách riêng giữ hồn phách của chồng, khỏi cần la lối ồn ào. Oanh trề môi: – Thôi đi mẹ, mẹ chỉ làm thinh vác cây sắt lụi người ta như lụi cá nướng trui đó à? ☆ Giờ nhập tiệc đã bắt đầu. Chúng tôi thuộc nhóm bồi tiệc nên được ăn tiệc thịt dê và chúng tôi đùa giỡn náo loạn cả sân trường dưới ánh đèn vàng nhỏ từ những cành cây còng cao, um tùm lá. Tiếng pha lê cụng nhau, mùi rượu nồng nặc, tiếng cười dòn dã, những lời bông đùa huyên náo. Khách qua đường dừng chân lại nhìn vào sân trường và cười hùn với bọn học trò tác yêu tác quái. Bọn con gái thật quá lộng, những chuyện tếu thanh lẫn tục làm quà cho bữa tiệc trong hàng ghế con gái. Kim và tôi đang ngồi thưởng thức miếng thịt dê với ly bia pha xá xị. Trong ánh đèn mờ mờ, mặt Kim đỏ bừng; tôi cầm chai bia rót thêm vào ly cho nàng. Tôi hỏi: – Uống bia pha nước ngọt mau say phải không Kim? Đức cầm ly bia đang sùi bọt trắng xóa đến gần Kim, vịn vai nàng. – Cha chả. Phật Bà Quan Âm hôm nay phá giới. Con Kim này đã uống bia khác nào Tam Tạng ăn thịt chó uống rượu đế. Kim nhìn tôi một lúc trách: – Tại con Liễu nó cứ rót bia vào ly tao hoài. Oanh thêm: – Đừng lo, lát nữa con Liễu sẽ cõng mày về. Sáo rỉ vào tai tôi: – Kêu thằng Huấn cõng cho. Kim lắng nghe và cự nự nhưng không lấy gì làm quyết liệt: – Đừng nói bậy, người ta nghe được kỳ lắm. Tụi bây giỏi tài cáp đôi hoài. Đức cười hóm hỉnh: – Muốn ăn gắp bỏ cho người đó, tụi bây ơi! Oanh can: – Thôi tụi mày, hôm nay không phải là ngày gây gổ mà là ngày ơn đền oán giải. Ngọc reo lên: – Phải đó, các bạn ạ, theo tao thì một câu nhịn bằng chín câu cự. Kim bật cười thành tiếng. Huấn cầm chai bia đi ngang bắt gặp Kim đang cười dòn, chàng ghé lại: – Chắc hôm nay Kim vui lắm phải không? Kim vụt làm nghiêm đáp: – Có gì đâu anh, các chị này đang cãi nhau cho buổi tiệc có hài lẫn bi vậy mà. Tôi day qua Sáo: – Sáo! hình như mày và con Đức bắt tay giao chiến. Sao hai đứa này kiếm chuyện kê nhau hoài vậy? Chúng tôi đang túm tụm nhau nói thì thằng Tín hớt hơ hớt hãi chạy lại: – Mấy người hãy lên phòng giáo sư coi ếch bắt cặp kia. Oanh hỏi dồn: – Mày nói vậy nghĩa là sao? Tín lắc đầu, xua tay: – Muốn thấy thì đi ngang qua đó. Oanh chêm vào: – Đi đi anh chị ơi. Nếu thằng Tín nói gạt, tụi mình sẽ căng nọc, đánh nó một trận. Thằng Tín hất hàm. – Muốn ăn phải lăn vô bếp chớ. Muốn chết thì lết vô hòm. Mấy người này vừa tọc mạch vừa làm biếng. Tức thì, Oanh lôi Ngọc bỏ ghế đi mất. Chẳng bao lâu chúng tôi lần lượt tiến về phòng giáo sư. Trên chiếc bàn đặt dài chiếm cả văn phòng, từng cặp một ngồi đối diện nhau. Ống Biểu ngồi ngang bà Hảo, ông Chung đối diện bà Lý, ông Thái ngang mặt bà Mai. Đức kề tai tôi: – Mày thấy chưa? Tôi lắc đầu: – Thì họ sắp đặt để ngồi với nhau từng cặp, chớ có gì đâu mà thằng Tín la bài hãi như vậy? Đức rùng vai: – Mày có mắt bận quần. Hãy nhìn xuống gầm bàn kia. Tôi liếc xuống gầm bàn, rồi kéo Đức đi một nước. Các ông đã rút chân ra khỏi giày sờ soạng trên bàn chân quý bà. CHƯƠNG TÁM Vào giờ nữ công, bọn con trai học chung với chúng tôi được phép ngồi lại lớp tự do làm bài hoặc học bài, nhưng cấm làm ồn. Trừ những giờ dưỡng nhi thì chúng được mời ra khỏi lớp. Bọn con gái hiếu kỳ thích hỏi về phép dưỡng nhi và nguồn gốc làm thế nào có “nhi” để “dưỡng”. Những câu hỏi đó ngoài chương trình học tập nhưng bà Lý cũng cố gắng diễn giải cho chúng tôi hiểu. Chúng tôi hỏi bà cho tận gốc tận nguồn nên khi giảng những chuyện riêng của phụ nữ bà Lý không muốn lũ con trai nhỏ tham dự. Bà phải cho nữ sinh thấy hình ảnh về sự sinh tồn loài người và bà dạy cách chọn bạn trăm năm cùng nhiều mục ngoài phạm vi dưỡng dục con cái. Bọn con trai cho rằng giờ này sẽ có nhiều chuyện hấp dẫn nên chúng vẫn tìm cách lẻn vào. Bà Lý giục bọn con trai: – Đi ra mau đi các em trai, chỗ đàn bà con gái học làm mẹ làm vợ mà chàng ràng vô đây làm gì? Em trai nào muốn học thì phải xỏ lỗ tai đi. Thằng Tín trả treo: – Thưa cô, sao chương trình học bỏ sót giờ học dưỡng thê cho tụi em. Vậy chừng nào có giờ họp hội đồng giáo sư, cô nhớ nói lũ con trai yêu cầu học thêm mục đó. Bà Lý cười lớn: – Em Tín mới ngần ấy tuổi mà đã muốn dưỡng thê rồi. Quan ngắt lời bà: – Vậy chớ các chị này cũng suýt soát tuổi tụi em, sao trong chương trình học lại có mục nuôi con lựa chồng. Oanh hùng hồ đuổi: – Thôi mời các cậu ra sân đá cầu, chừng nào chuông đổ thay giờ học, mới được mò vô, nghe chưa? Thằng Quan nháy mắt và mỉm cười. Ý nó nói rằng Oanh có bổn phận để cửa he hé, đợi khi bà Lý không để ý chúng nó lộn trở vào núp dưới gầm bàn nghe bà Lý dạy dưỡng nhi. Oanh làm bộ xua đuổi chớ nàng đã hứa với chúng nó trước là sẽ cho vào nghe. Những ánh mắt đồng lõa của bọn con trai với chúng tôi ngời lên biểu đồng tình. Bà Lý không để ý, thoăn thoắt trở về bục gỗ giảng về đề tài: “Chọn người bạn trăm năm có đầy đủ sức khỏe để bảo vệ hạnh phúc gia đình” . Sáo sau khi nghe xong, đưa tay lên hỏi: – Thưa cô, người đàn ông có sức khỏe mới có vợ được, còn những người ốm yếu chắc ở vậy tới già. Ai cũng xúm nhau lựa người tốt cả, còn người xấu để cho ai? Bà Lý mỉm cười: – Cô chỉ giảng trong phạm vi bài học mà chương trình đã soạn sẵn. Mà thực tế lại còn lắm chuyện thiên hình vạn trạng nữa. Bà Lý cúi xuống mấy tờ giấy quay ronéo, tiếp: – Người đàn ông cần phải có vóc dáng cao ráo, không cần phải là một lực sĩ.. nhưng các em đừng chọn thứ ngực lép đít teo, gió thổi cũng bay. Thằng Tín từ dưới gầm bàn thò đầu lên, gọi Oanh nho nhỏ: – Đừng nghe lời bả. Nhiều đàn ông có những cái vượt ra ngoài lớp vải che thân thì coi không đẹp mắt, nhưng cái ở trong vải lại xuất sắc… Oanh khựng lại một lúc, nàng chợt hiểu, lập tức đưa chân đạp cho thằng Tín một cái. Chúng tôi cười rúc rích. Nghe động, bà Lý chạy ù xuống. Bọn con trai thấy cơ mưu bại lộ, bèn bò càng bò niễng ra cửa chạy thoát. Cơn cười lan rộng và được bóc trần một lúc. Bà Lý thở dài trách: – Chẳng có ai mà khỉ khọn như tụi này. Chuyện gì mà mấy em cười dữ vậy Sáo? Sáo dõng dạc: – Thưa cô, thằng Tín nói bậy. Bà kêu lên: – Trời ơi, lũ nó lẻn vô hồi nào vậy? Chết chưa, ai đời con trai gì thích nghe dưỡng nhi. Bộ muốn giải phẫu thành đàn bà sao? Đức phì cười: – Chắc là này mai sau nuôi con thế vợ. Tôi dám cá là thằng Tín trước sau gì cũng làm mọi vợ. Bà Lý căn dặn: – Các em nhớ giờ học gia chánh dưỡng nhi nên khóa cửa lại và tuyệt đối không cho đứa con trai nào léng phéng lại gần. Kỳ cục quá, chỗ đàn bà con gái người ta nói chuyện riêng. Có lũ kia vào giảng bài nhột miệng quá trời… Bà dặn thêm: – Giờ nữ công, có thể cho tụi nó vào ngồi chơi được, bắt tụi nó xỏ kim dùm. ☆ Giọng bà Lý uốn éo vang lên và lũ học trò cười sôi sục. Ông Chung bước ra khỏi lớp trong khi lũ học trò đang cặm cụi làm bài tập. Gió từ hàng cây me keo luồn qua mặt cáo. Giọng cười bà Lý vẫn thẽo thợt. Ông Chung chắp tay sau mông đi đi lại lại dưới mái hiên. Mỗi lần ông đi ngang lớp bà Lý, ông liếc rồi chúm chím cười bâng quơ. Bà Lý mỗi khi nghe ông Chung sắp đi ngang lớp mình, sửa lại mái tóc hoặc nhìn lại nếp áo, hay có vài cử chỉ thừa thãi, lúng túng. Chúng tôi ngồi bên khung thêu chốc lại nhìn bà cười nửa miệng. Bà Lý bước lại cửa chính nhìn ra hàng cây điệp, cố tạo cho mình một thái độ tự nhiên, nhưng khi ông Chung bước gần đến cửa, bà xoa trên chốt cửa và những đường gân máu ửng lên hai vành tai bà. Ông Chung đi ngang bà, nụ cười rạng rỡ. Hôm nay, bà đánh phấn sương sương, thoa son nhạt, đeo sợi dây chuyền mề đay hình trái tim. Cả hai nói với nhau bằng sự yên lặng che dấu bọn học trò tinh quái đang theo dõi họ từng cử chỉ. Hai ông bà thôi miên nhau, đấu nhãn nhau, trời gầm chưa chắc làm họ tỉnh. Đức khều đùi tôi thì thầm: – Liễu, hai ông bà đang đá bóng nhau kia. Tôi lặng thinh và tiếp tục công việc. Khi bà Lý bước vào, tôi vụt hỏi: – Thưa cô, muốn vẽ chữ L cho đẹp trên mặt gối phải vẽ làm sao? Bà Lý tươi cười, thái độ phấn khởi bước lại bảng đen vẽ chữ L thật bay bướm nằm giữa chùm hoa hồng. Đức tinh quái tiếp: – Cô vẽ dùm em chữ C bên cạnh. Bà chẳng nghĩ tiếp tục vẽ chữ C ôm gắn bó chữ L và lùi lại mấy bước ngắm công trình vừa sáng tạo của mình. Bà nghiêng đầu qua một bên, ra vẻ hài lòng. Vụt một tràng cười như pháo nổ dòn làm bà ngơ ngác. Bà nhìn lại mẫu vẽ trên bảng. Những tiếng cười vẫn rải rác phía tận cùng lớp. Đức ngồi tỉnh bơ như kẻ vô tâm tuy việc làm của nàng do sự cố ý ác độc. Mặt bà Lý bỗng đỏ bừng. Bà không nói nửa lời. Bọn học trò bớt cười và lẳng lặng cúi xuống khung thêu. Không khí nặng nề, ngột ngạt trùm xuống. Bà Lý chống cằm nhìn ra ngoài. Tiếng chuông xe đạp bên nhà chứa xe réo lên từng chập. Thằng Tín nghe động, chạy ra hiên. Ông Chung, một tay vịn ghi đông một chiếc xe nằm bìa, tay kia bấm chuông, mắt hướng về lớp chúng tôi. Có lẽ ông cần phải gây tiếng động mới lôi cuốn được sự chú ý của bà Lý. Thằng Tín trở vào, cười rúc rích: – Thầy Chung đang thử xem chuông xe của chị Kim có hư để ổng sửa dùm. Đức hỏi dồn: – Thiệt không Tín? Giờ này là giờ Lý Hóa bên lớp Đệ Ngũ B mà sao ổng bỏ ra sửa xe cho con Kim vậy? Kim bẽn lẽn nhìn ra ngoài thềm. Bóng nắng còn lại vài ba đốm sáng quạnh hiu, nằm dã dượi trên nền xi măng bóng nhẵn. Bà Lý nhìn đăm đăm một xó góc bảng, không muốn nhìn bọn học trò đang rì rầm nói chuyện trong lúc thêu thùa. Giọng cười chế nhạo lúc nãy vẫn còn lác đác ở cuối lớp học. Bỗng nhiên bà Lý chống tay đứng dậy. Bà xẵng giọng: – Tôi yêu cầu các em đừng cáp đôi thiên hạ nữa. Các em đừng làm tôi bực mình vì cái trò giỡn trững nhảm nhí của các em. Sao mà có kẻ hẹp hòi khi thấy người đàn bà nói chuyện niềm nở với người đàn ông là đổ hô họ cặp bồ với nhau. Bà nhìn chằm chặp vào chỗ Đức ngồi. Sự tức giận làm bà nghẹn ngào và mặt bà đổi ra màu sáp. Đức nhìn bà im lặng trịch thượng một lúc, rồi nhếch mép cười mai mỉa. Chuông đổi giờ học réo lên như lột trần một cái vung úp chúng tôi ngộp thở. Bà Lý chụp chiếc bóp da cá sấu, bước lẹ ra khỏi lớp. Đức ong óng: – Bả làm như mình chẳng biết gì ráo. Con này từng bắt gặp nhiều lần bả với ông Chung mùi mẫn với nhau mỗi buổi tối. Sáo nói: – Con này chắc năm nay thi rớt. Mỗi tối không lo học bài mà lại đi rình rập thiên hạ. Thằng Quan hớn hở: – Chị thấy gì đó, nói mau nghe chơi. Tín nói huỵch tẹt: – Ông bả hôn nhau ra sao? Có vẻ “màn bạc” không chị? Oanh nạt: – Thôi đi, muốn viết tiểu thuyết huê tình thì dẹp sách vở xin thôi học. Còn ở đây, cấm phát ngôn trung thành theo cái óc tưởng tượng đa nghen. Đức nhìn tổng quát, giọng sang sảng: – Chúa nhựt nào, ông Chung chẳng mò tới bả. Bữa nọ, tao qua nhà con Trầm, cháu kêu tao bằng cô, chơi. Chắc tụi bây cũng biết nhà con Trầm ở gần nhà bà Lý, cách một cái hàng rào thấp, chó nhảy cũng qua. Tao gặp ổng dựng chiếc xe Puch màu đỏ ở gần cây sa-bô-chê và đến cửa nhà bà Lý gõ cộp cộp. Bà Lý hí hửng mở cửa rước ổng vào, rồi đóng cửa, tắt đèn. Tiếp bạn đồng nghiệp theo cái kiểu đó còn giả mù sa mưa, mắng người ta . Oanh, mặt phựt sáng, mắt mở tròn: – Đi xe Puch đỏ chưa chắc là ông Chung. Đức tức mình: – Còn ai vô đó? Tao hỏi mày, bộ con Trầm điên hay sao mà không thấy ổng tới ngày một ngày hai từ một tháng nay? Sáo chen vào: – Phải chi bả đừng đính chánh thì nghe không chói tai. Chơi cái kiểu cả vú lấp miệng em có khác nào vén quần lòi chân ghẻ. Đức nói hăng hái: – Trời ơi! Cái trường này là cái sào huyệt của bọn lang chạ mà,. Chúa nhật tới, tụi bây cứ theo tao. Cả bọn vỗ tay hưởng ứng. Tín vụt nói: – Có lần thầy Giám thị Minh nói rằng mấy bà này học chung với con trai sẽ bị đồng hóa mất. Quan nói: – Biết đâu tụi mình bị đồng hóa với các bà. Tụi mình là thành phần thiểu số. Sáo ong óng: – Thứ con trai tính tình bán nam bán nữ xài không được, nuốt không vô, nên bỏ ra rìa tình cảm. Huấn dẩy nẩy: – Các bà thật là hung bạo. Nữ kê tác quái. Quan thêm: – Nói xin lỗi, toàn thể chị em nơi đây đã thành loại đực tính cả rồi, chỉ trừ chị Kim. Thằng Tín được nước, nhiếc tiếp: – Vậy mà bà Sáo với bà Đức cứ công kích nhau hoài. Đúng là lươn chê lịch nhớt, thỏ chê cáy hèn. Tôi ngứa miệng: – Nín đi! nghe mệt bắt chết. Bọn kép thần đồng chê lũ đào độc, lũ hề mặt mốc. Còn đào thương thì quá ít, lại không có kép chánh đóng vai người hùng. CHƯƠNG CHÍN Bóng nắng chiều thỏn mỏn lần bên kia sông và bóng tối bắt đầu bôi xóa lem luốt trên tàn cây, rơi rớt trên mái lá. Những ngọn đèn dầu vàng vỏ hiu hắt lung linh qua mặt cáo. Dưới sông, ghe thương hồ bắt đầu cặp vào bến vắng và những xuồng câu tôm rải rác trên sông im lìm bên ánh đèn lồng leo lét. Oanh và tôi đứng tựa cây cột ngoài hiên bên nhà cô em họ nàng, nơi đó có thể nhìn thấy phía trước căn phòng bà Lý vài mươi thước, nhai đậu phọng rang mắt hướng về phía trước sân trường chờ đợi. Đôi mắt Oanh vụt sáng lên và nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt bầu bĩnh. Bọn thằng Tín lũ lượt kéo vào. Chúng nép theo bờ rào như hai tên trộm. Thằng Tín đến trước. Tôi giựt lấy chiếc đồng hồ vàng trên tay Oanh nhìn kỹ. Nó nói: – Chị Đức và chị Sáo còn lạng quạng trước rạp hát uống nước mía. Chắc mấy bả sắp tới rồi. Bà Lý nhìn đồng hồ tay rồi hé cửa nhìn ra ngoài sân. Đèn trong xóm chập chờn qua khung cửa. Sân trường vắng lạnh và hình như rộng ra. Hàng cây lắc lư lảo đảo. Gió bất thần lùa vào khung cửa chớp khép, ngọn đèn Hoa Kỳ đặt giữa bộ sa lông lao chao nhún nhảy trong ống khói pha lê. Tôi cảm thấy lạnh rờn rợn và những hột gai ốc nồi đầy trên hai cánh tay. Vụt tôi rùng mình nhớ đến ngôi trường này ngày xưa là cái nhà xác. Từ ngày bà Lý về ở đây, chưa lần nào bà tuyên bố là gặp ma hiện về, mặc dù nhiều người nói là ban đêm oan hồn uổng tử thường hiện lên, ngồi vắt vẻo trên mấy cành me keo giữa đêm khuya và những tiếng hát ru em văng vẳng mơ hồ, nhưng khi người ta ra tìm kiếm tiếng hát đó thì chỉ nhìn thấy thoáng một tà áo dài trắng phất phơ rồi biến mất. Nghe đến đó, tôi cảm thấy rùng mình, rờn rợn trên gáy và ái ngại cho bà Lý. Nhưng bà có đức tin mãnh liệt. Bà sẽ cầu kinh mỗi đêm và bà đem hình Chúa và Đức Mẹ cùng các Thánh treo từ cánh cửa chính. Rất có thể nhờ đó ma quái sẽ không dám lẻn vô phá phách. Bà ít khi một mình bước ra khỏi phòng để ngắm các vì sao chi chít trên khung trời đen cao thăm thẳm. Bà chưa hề bắc ghế ra sân vào những đêm trăng sáng như trải bạc xuống khu trường và những ngôi nhà trong xóm ngủ yên dưới ánh sáng trong xanh mát dịu của những con trăng rằm. Bà thường rủ rê chúng tôi vào những ngày rằm lớn đến chơi với bà. Bà ngồi trên sân cỏ bên ấm trà nóng ướp sen và tán gẫu với đám học trò, bà tâm sự với chúng tôi cuộc đời cô đơn bất hạnh từ ngày bà còn lứa tuổi chúng tôi. Dưới ánh trăng bàng