🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thời Hoàng Kim - Vương Tiểu Ba
Ebooks
Nhóm Zalo
Tiểu thuyết
THỜI HOÀNG KIM
1
Khi tôi hăm mốt tuổi, đang lao động tại Vân Nam thì Trần Thanh Dương hăm sáu tuổi, là cán bộ y tế thuộc địa phương tôi lao động. Tôi ở đội 14 dưới đồng, cô ở đội 15 trên núi. Một hôm cô xuống núi tranh luận với tôi vấn đề cô không lăng nhăng. Lúc đó tôi chưa quen cô lắm, chỉ gọi là có biết. Chuyện cô muốn tranh luận là: mặc dù ai cũng bảo cô lăng nhăng, nhưng cô cho là không phải thế. Bởi vì lăng nhăng chài đàn ông, cô chưa chài ai, mặc dù chồng cô ở tù đã một năm nay. Cô không chài ai, trước đó cũng không cho nên cô không hiểu tại sao người ta bảo cô lăng nhăng. Nếu tôi muốn an ủi cô thì không khó. Tôi có thể chứng minh bằng logic rằng cô không lăng nhăng. Nếu cô Dương lăng nhăng thì cô phải chài đàn ông, như vậy ít nhất phải có một người đàn ông nào đó để cô chài. Bây giờ không chỉ ra được người đàn ông đó thì mệnh đề cô Dương chài đàn ông là không đứng được. Nhưng tôi cứ nói, cô Dương lăng nhăng, hơn nữa không cần phải nghi ngờ gì cả.
Cô Dương tìm tôi để chứng minh cô không lăng nhăng có nguyên cớ là tôi tìm cô nhờ tiêm cho tôi. Đầu đuôi câu chuyện thế này: Lúc đang vào vụ bận bịu, đội trưởng không bảo tôi cày mà bảo tôi cấy, lưng tôi không thể thẳng mãi được. Những người quen tôi đều biết rằng lưng tôi có một vết thương cũ mà tôi lại cao hơn mét chín. Nếu cấy một tháng trời thì đau chịu không nổi, không tiêm novocain thì không ngủ được. Mớ kim tiêm của đội tôi đều bong hết lớp mạ và cái nào cũng quằn mũi, mỗi lần rút ra là móc theo thịt ở lưng tôi. Sau này lưng tôi như bị bắn đạn ghém, vết thương mãi không khỏi, lúc ấy tôi nghĩ đến cô Dương ở đội 15, là bác sĩ tốt nghiệp Đại học Y khoa Bắc Kinh, chắc phân biệt được kim tiêm và móc câu, cho nên tôi nhờ cô khám. Khám xong trở về chưa đến nửa tiếng, cô đuổi theo đến tận nhà, bắt tôi chứng minh cô không lăng nhăng.
Cô nói, cô không mạo nhận là lăng nhăng. Theo cô quan sát, người lăng nhăng rất tốt bụng, hay giúp người khác, rất không muốn để ai thất vọng. Do đó cô còn nể
phục người lăng nhăng nữa. Vấn đề không phải ở chỗ lăng nhăng tốt hay không tốt mà ở chỗ cô hoàn toàn không lăng nhăng. Cũng như mèo không phải là thỏ vậy, nếu mèo bị ai đó gọi là thỏ thì nó sẽ mất tự tin. Bây giờ người ta cứ nhất định bảo cô lăng nhăng, làm cho cô mất hồn mất vía, hầu như chẳng biết mình là ai mữa.
Cô Dương ở trong lều của tôi, mặc áo choàng, để lộ cánh tay và bắp chân, ăn mặc như trong phòng khám của cô trên núi, chỉ khác là tóc xõa ra thì cô búi lại, chân thì thêm đôi guốc. Nhìn dáng vẻ của cô tôi bắt đầu đoán xem, bên trong áo choàng trắng cô mặc cái gì hay không có gì cả. Điều này có thể cho thấy là cô rất đẹp, bởi vì cô biết rằng mặc hay không mặc cũng thế. Đó là lòng tự tin được nuôi dưỡng từ nhỏ. Tôi bảo cô rằng cô lăng nhăng thật, tôi còn đưa ra một số lý do: lăng nhăng chẳng qua là một cách gọi, ai cũng bảo cô lăng nhăng thì cô lăng nhăng, chẳng sao cả. Mọi người bảo cô chài đàn ông thì cô chài đàn ông, cũng chẳng sao cả. Còn tại sao ai cũng bảo cô lăng nhăng, theo tôi thì thế này: người ta cho rằng, con gái đã có chồng nếu không chài đàn ông thì da mặt sạm đen, vú thõng thẹo. Trong khi cô trắng trẻo, đôi vú không xệ mà nở nang gọn gàng, cho nên cô lăng nhăng. Nếu cô không muốn người ta nói cô lăng nhăng thì cô phải làm cho mặt sạm đen, làm cho vú xệ xuống. Khi ấy người ta sẽ không nói cô lăng nhăng nữa. Như thế thì cô rất thiệt, nếu cô không muốn thiệt thì cô đi chài đàn ông đi. Như thế cô sẽ tự cho mình là lăng nhăng. Người khác không có nghĩa vụ phải biết chắc cô có chài đàn ông hay không mới quyết định bảo cô là lăng nhăng hay không lăng nhăng. Nhưng cô có nghĩa vụ làm cho mọi người không thể nói là cô lăng nhăng. Cô Dương nghe đến đó mặt đỏ lên, trừng mắt như muốn cho tôi một cái tát. Cô gái này nổi tiếng về tát người, khối anh ăn tát của cô rồi.
Lùi lại hai mươi năm trước, khi tôi và cô Dương bàn về vấn đề lăng nhăng. Lúc đó sắc mặt tôi vàng vọt, đôi môi nứt nẻ dính điếu thuốc cuốn, đầu tóc bù xù, mặc bộ quần áo bộ đội thủng lỗ chỗ, những chỗ rách vá bằng keo, ngồi bắt chân chữ ngũ trên ghế băng như một thằng lưu manh. Bạn hãy tưởng tượng một gã như thế mà nói với cô chuyện vú xệ với không xệ thì bàn tay cô ngứa ngáy đến mức nào. Cô khó chịu vì có rất nhiều đàn ông khỏe như vâm đến đòi khám bệnh, họ đâu có bệnh gì. Họ không đến khám bệnh mà đến xem cô lăng nhăng. Chỉ có tôi là ngoại lệ. Sau lưng tôi như bị lão Trư Bát Giới bổ cho mấy nhát bồ cào. Chẳng biết đau hay không
nhưng mấy lỗ thủng cũng đủ lý do để đến khám. Những lỗ thủng ấy cho cô một hy vọng, cô có thể chứng minh cho tôi thấy cô không lăng nhăng. Có một người không bảo cô lăng nhăng cũng còn hơn chẳng có ai. Nhưng tôi lại làm cô thất vọng.
Tôi nghĩ thế này: nếu tôi muốn chứng minh cô không lăng nhăng mà chứng minh được thì câu chuyện e quá dễ dàng. Thực tế tôi chẳng chứng minh được gì, ngoài những điều tôi không cần chứng minh. Mùa xuân năm ấy đội trưởng bảo tôi bắn hỏng mắt con chó của anh ta làm cho nó nhìn ai cũng quay đầu lại như múa ba-lê, từ đó anh ta thù tôi. Tôi muốn chứng minh vô tội, chỉ có ba điều:
1- Đội trưởng không có chó;
2- Con chó sinh ra đã hỏng mắt;
3- Tôi là người không có tay, không bắn được.
Ba điều ấy chẳng điều nào đứng được cả. Đội trưởng đúng là có con chó nâu, mắt của nó mới bị bắn, tôi không những có thể cầm súng mà còn bắn giỏi. Trước đó không lâu tôi đã từng mượn súng hơi của Tư, dùng đậu xanh làm đạn, vào trong kho lương thực đang để không, bắn được một kilô chuột. Trong đội không ít người bắn giỏi, trong đó có Tư. Súng là của hắn, hơn nữa khi hắn bắn con chó thì tôi đứng bên nhìn. Nhưng tôi không thể tố giác ai cả, tôi và hắn lại thân nhau, huống hồ anh ta có bắt nọn được Tư thì cũng chẳng dám chắc là tôi bắn. Cho nên tôi im lặng. Im lặng là thừa nhận. Thế là tôi đi cấy, đứng dưới ruộng như cái cột điện, gặt xong tôi lại đi chăn trâu, ăn cơm nguội. Tất nhiên tôi làm phất phơ. Một hôm lên núi tôi mượn súng của Tư, đúng lúc nhìn thấy con chó, tôi giơ súng bắn nốt con mắt kia, hỏng cả hai mắt nó không biết đường chạy về – có trời mà biết nó chạy đi đâu.
Nhớ lại những ngày ấy, làm ruộng chăn trâu, rỗi rãi thì nằm nhà, ngoài ra chẳng làm cái gì. Tôi thấy mọi việc chẳng liên quan gì đến mình. Nhưng cô Dương lại xuống núi tìm tôi. Thì ra có dư luận cô ăn nằm với tôi, cô muốn tôi phải chứng minh là chúng tôi đứng đắn vô tội. Tôi bảo muốn thế, phải chứng minh hai điều:
1- Cô Dương là gái trinh,
2- Tôi bị thiến, không có khả năng sinh hoạt tình dục.
Hai điều ấy khó chứng minh, do đó chúng tôi không chứng minh được là mình vô tội. Tôi lại ngả theo hướng chứng minh mình không vô tội. Cô Dương nghe thế mặt trắng bợt rồi đỏ ửng, đứng dậy lẳng lặng bỏ đi.
Cô Dương bảo tôi là kẻ độc ác. Lần trước bảo tôi chứng minh cô trong sạch vô tội thì tôi trợn mắt lên nói ba lăng nhăng, lần này bảo tôi chứng minh hai người vô tội thì tôi lại đề nghị làm tình. Cho nên cô quyết định sớm muộn gì cũng cho tôi một cái tát. Nếu tôi biết cô định như thế thì chuyện sau đây đã không xảy ra.
2
Hôm đó là sinh nhật tròn hăm mốt tuổi, tôi đang chăn trâu bên sông. Chiều nằm ngủ trên bãi cỏ, tỉnh dậy thì trống trơn, rau bị trâu ăn sạch. Nắng á nhiệt đới thiêu đốt tôi đỏ rực, da bỏng rát, thằng bé con ngỏng cổ lên trời, to tướng. Đó là quang cảnh lễ sinh nhật của tôi.
Tôi tỉnh lại thấy chói mắt, trời xanh đến rợn người, quần áo tôi phủ một lớp bụi như rắc phấn rôm. Chưa lần nào tôi cương cứng như thế chắc là tại ở đây hẻo lánh đồng không mông quạnh.
Tôi dậy xem trâu ở đâu, chúng nó đang nằm nhai cỏ bên sông xa xa. Lúc đó bốn bề yên ắng, gió thổi hiu hiu. Mấy con trâu trong trại tranh giành trâu cái, húc nhau mắt đỏ ké, rớt dãi lòng thòng. Trâu của chúng tôi không thế, có người đến trêu chọc cũng dửng dưng nằm đó. Để chúng khỏi húc nhau thành thương tật ảnh hưởng đến làm vụ, người ta đem thiến hết.
Mỗi lần thiến trâu tôi đều xem. Nói chung với trâu đực, dùng dao xẻo là xong, nhưng đối với những con hung hãn quá thì phải thiến bằng chày, tức rạch dao lấy tinh hoàn ra dùng chày đập nát. Sau đó nó chỉ biết ăn cỏ cày ruộng, không biết chuyện gì khác cả, khi giết cũng không cần trói. Ông đội trưởng cầm chày tin chắc nếu dùng cách này với người thì cũng có hiệu quả như thế. Ông hay quát chúng tôi: chúng mày là đồ súc sinh, cứ cho một chày thì mới tử tế được! Theo logic của ông cái thứ đo đỏ dài một gang trên người tôi là hóa thân của mọi tội ác.
Tất nhiên tôi không nghĩ vậy, theo tôi cái ấy rất quan trọng như sự sống còn của tôi. Trời ngả về chiều, từng cụm mây lững lờ trôi một cách lười biếng, nửa dưới xám đen, nửa trên còn sáng rực. Hôm đó tôi tròn hăm mốt tuổi, là thời hoàng kim của đời tôi với bao nhiêu mơ ước. Tôi muốn yêu, muốn ăn, còn muốn là đám mây nửa sáng nửa tối trên trời. Về sau tôi mới biết, cuộc đời là một quá trình bị đập bằng chày một cách chậm chạp, người ta mỗi ngày một già đi, ước mơ cũng mất dần, cuối cùng thì như con trâu bị chày đập. Nhưng trong ngày tròn hăm mốt tuổi tôi không thấy trước được điều đó. Tôi cảm thấy mình sẽ mạnh mẽ mãi mãi, chẳng có bất cứ cái gì nện được tôi.
Tối đó tôi mời cô Dương đến ăn cá. Cho nên buổi chiều phải kiếm được cá. Hơn năm giờ chiều tôi mới sực nhớ ra và chạy đến chỗ tát nước để xem. Chưa đến chỗ nhánh sông đã thấy hai đứa trẻ người dân tộc vừa đánh nhau vừa chạy ra, bùn đất tung tóe, người tôi cũng dính bùn. Đến lúc tôi xách tai chúng nó mới dừng lại. Tôi quát:
“Đồ ranh con, cá đâu?”
Thằng lớn hơn nói: “Tại thằng Nông chó chết, nó ngồi trên kè làm sập mẹ nó rồi!”
Thằng Nông gào lên cãi: “Anh Vương Nhị! Tại kè làm đếch chắc!” Tôi bảo: “Đồ cứt chó! Bố mày chặt cây đắp mà dám bảo không chắc à?”
Tôi vào trong xem đúng là đổ tan hoang, nước tát ra chảy trở lại, cá mất hết, một ngày làm cật lực vứt đi cả. Tôi không thể nhận tôi sai, ra sức mắng mỏ thằng Nông, Thằng Tu (thằng lớn) cũng về hùa với tôi. Thằng Nông cáu quá nhảy cẫng lên gào:
“Thằng Vương Nhị chó chết, thằng Tu chó hết, chúng mày về hùa với nhau bắt nạt tao! Tao bảo bố tao lấy súng bắn bỏ mẹ!”
Nói rồi nó chạy lên bờ định chuồn, tôi nắm cổ chân kéo lại!
Thằng Nông kêu choe chóe cắn tôi, bị tôi ấn xuống đất sùi bọt mép, chửi tôi bằng tiếng dân tộc tiếng Hoa, tiếng Thái. Tôi chửi lại bằng tiếng chính thống, đột
nhiên nó ngừng chửi, tóm lấy hạ bộ tôi đang cương cứng rồi nhìn rất đỗi khâm phục, nó trầm trồ:
“Ồ! Nhớ chị thằng Tu đây mà!”
Tôi buông nó ra và vội mặc quần.
Buổi tối tôi thắp ngọn đèn bão ở trạm bơm, cô Dương đến, cô nói cuộc sống vô nghĩa quá, còn nói tất cả mọi chuyện cô làm đều trong sạch vô tội. Tôi bảo cô dám bảo mình trong sạch vô tội chính là cái tội to nhất. Theo tôi bản tính của con người là thích ăn biếng làm, háo sắc dâm ô, nếu cô sống khắc khổ giữ mình như giữ ngọc đó là phạm tội giả dối, còn tệ hơn cả thích ăn biếng làm, háo sắc dâm ô. Cô có vẻ nghe nhưng không hề phụ họa.
Một hôm tôi thắp đèn bên sông nhưng mãi chăng thấy cô đến, hơn chín giờ cô đứng ngoài cửa gọi:
- Vương Nhị! Đồ mạt hạng! Ra đây tôi bảo!
Tôi đi ra. Cô mặc đồ trắng, trang điểm rất chỉnh tề, nhưng thái độ căng thẳng. Cô bảo: Anh mời tôi ăn cá, tâm sự, thế cá đâu? Tôi đành phải nói cá vẫn ở dưới sông. Cô bảo thôi được, chỉ còn lại tâm sự. Ở đây nói đi. Tôi bảo vào trong nhà nói chuyện, cô bảo cũng được và bước vào, cơn nóng giận vẫn bừng bừng.
Hôm sinh nhật lần thứ hăm mốt, tôi định dụ Dương vì cô là bạn tôi, hơn nữa khuôn ngực đầy đặn, lưng thon, mông tròn, ngoài ra cô có cái cổ cao thanh tú, khuôn mặt đẹp. Tôi muốn làm tình và tôi nghĩ cô không nên từ chối, nếu cô muốn nhờ thân thể tôi để mở thông tấm lòng mình tôi sẽ cho nó mở, cho nên tôi lại mượn thân thể cô thì không có gì mà không được. Duy nhất có một vấn đề cô là đàn bà, đàn bà bao giờ cũng hẹp hòi. Cho nên tôi phải gợi mở và tôi bắt đầu giải thích thế nào là “nghĩa khí”.
Theo tôi nghĩa khí là tình thân ái vĩ đại của các giang hồ hảo hán. Các hào kiệt trong “ Thủy hử ” giết người đốt nhà như cơm bữa nhưng khi nghe nói cái tên Cập Thời Vũ là rạp mình bái phục. Tôi cũng như các anh hùng rác rưởi đó, không tin gì
hết nhưng điều không bao giờ dám phản lại đó là nghĩa khí. Chỉ cần cô là bạn tôi thì cho dù cô phạm đủ mọi tội ác, trời không dung đất không tha thì tôi vẫn đứng bên cô. Đêm đó tôi dâng hiến tình thân ái của tôi cho cô, cô rất cảm động và nói rằng tình thân ái đó cô xin nhận. Không những thế cô còn muốn đáp lại bằng tình thân ái còn lớn hơn nữa, cho dù tôi có là kẻ tiểu nhân đê tiện cũng không quay lưng lại. Tôi nghe nói vậy rất yên tâm, tôi nói thật ý mình: Tôi đã hăm mốt tuổi, chưa biết gì về chuyện giữa đàn ông và đàn bà, trong lòng bức bối lắm. Cô nghe rồi sững người, chắc là chưa hề chuẩn bị về tâm lý. Nói mãi cô chẳng có phản ứng gì. Tôi đặt tay lên vai cô, cảm thấy đường gân thớ thịt rất căng thẳng. Mụ này có thể trở mặt cho tôi cái tát bất kỳ lúc nào. Nếu vậy thì chứng tỏ đàn bà chẳng hiểu gì về tình nghĩa cả. Nhưng không. Cô bỗng hứ một tiếng rồi cười to. Cô còn bảo, tôi thật ngốc, bị anh lừa dễ quá!
Tôi bảo: Lừa gì? Cô nói gì?
Cô bảo: Tôi chẳng nói gì cả.
Tôi hỏi cô chuyện tôi vừa nói cô có đồng ý không? Cô xì một tiếng, mặt đỏ bừng. Tôi thấy cô xấu hổ bèn chủ động ra tay, cô ẩy ra rồi nói, không ở đây, ta lên núi đi.
Tôi và cô cùng lên núi.
Về sau cô nói, cô vẫn không hiểu tình thân ái vĩ đại của tôi là thật hay là bịa ra tức thời để lừa cô. Nhưng cô lại nói, những lời ấy như lời nguyền làm cô mê mẩn, cho dù có mất hết cũng không ân hận. Thực ra tình thân ái vĩ đại không thật và cũng không giả, cũng như mọi thứ trên đời, bạn tin nó là thật thì nó là thật, bạn nghi nó là giả thì nó là giả. Nhưng tôi sẵn sàng thực hiện lời tôi nói, cho dù trời long đất lở cũng không lùi bước. Chính vì có thái độ như thế cho nên người ta không tin tôi. Mặc dù tôi coi kết bạn là sự nghiệp suốt đời thì bạn tôi chỉ có Dương và hai ba người nữa. Đêm hôm đó chúng tôi lên núi, đi được nửa đường cô bảo cô phải về qua nhà, bảo tôi chờ sau núi. Tôi hơi ngờ cô cho tôi leo cây nhưng không nói gì, đi thẳng đến đó ngồi hút thuốc. Một lát sau cô trở lại.
Dương nói, khi lần đầu tôi tìm cô để tiêm, cô đang gục xuống bàn ngủ. Ở Vân
Nam ai cũng có nhiều thời gian để ngủ gật lắm cho nên lúc nào cũng mơ mơ tỉnh tỉnh. Tôi đi vào, phòng hơi tối lại, vì nhà tranh vách đất, ánh sáng chỉ có ở cửa chiếu vào. Lúc đó cô tỉnh lại, ngẩng đầu hỏi tôi cần gì. Tôi bảo đau lưng, cô bảo nằm xuống cô xem cho. Tôi nằm phục xuống, chiếc chõng tre muốn sập luôn. Lưng tôi đau quá, không cúi người được. Nếu không tôi đã không tìm đến cô.
Dương nói, hồi trẻ tôi ăn đói cho nên dưới mắt có quầng đen. Người tôi rất cao, quần áo rách bươm, ít nói. Cô tiêm cho tôi xong tôi đi luôn, hình như có nói cảm ơn, hay là không. Đến khi cô nhớ ra rằng có thể chứng minh cho cô là không lăng nhăng thì đã mất nửa phút rồi. Cô chạy ra đuổi theo, thấy tôi đi tắt về đội 14. Tôi đi xuống dốc, nhảy qua rãnh leo qua gò, men theo ven núi đi rất nhanh. Chiều hạ, ngược gió gọi tôi không nghe thấy. Tôi thì không quay đầu cứ thế đi mất.
Dương bảo lúc ấy cô muốn đuổi theo nhưng thấy rất khó. Hơn nữa chưa chắc tôi đã chứng minh được cô không lăng nhăng. Cho nên cô quay về phòng khám. Về sau cô đổi ý, đi tìm tôi, vì mọi người đều bảo cô lăng nhăng cho nên tất cả đều là kẻ thù. Còn tôi chắc không phải. Cô không muốn để mất cơ hội, không muốn tôi thành kẻ thù.
Hôm đó tôi ngồi sau núi hút thuốc. Mặc dù đêm tối tôi vẫn nhìn được rất xa vì trăng rất sáng, không khí rất trong lành. Tôi còn nghe được tiếng chó sủa xa xa. Dương ra khỏi đội 15 tôi cũng nhìn thấy, ban ngày chưa chắc nhìn rõ được như thế. Nhưng dù sao cũng khác ban ngày vì không một bóng người.
Tôi cũng không dám chắc trên núi này đêm hôm không có người vì xung quanh một màu xám bạc. Nếu có người cầm đuốc đi thì có nghĩa là muốn thiên hạ biết rằng anh ta ở đó. Nếu bạn không cầm đuốc thì như mặc chiếc áo tàng hình, người biết anh ở đâu thì nhìn thấy, người không biết thì không nhìn thấy. Tôi nhìn thấy Dương đi đến, tim tôi đập liên hồi, chẳng ai bảo cũng biết trước khi làm chuyện đó cần phải thân thiết một chút.
Phản ứng của Dương lạnh băng, đôi môi cũng lạnh băng, vuốt ve cũng như không. Đến lúc tôi lóng ngóng cởi cúc áo cô thì cô đẩy ra, lần lượt tự cởi, gấp lại để bên rồi nằm ngửa ra trên mặt cỏ.
Dương khỏa thân trông rất đẹp. Tôi vội cởi quần áo nhoài người lên, cô lại đẩy ra, đưa cho tôi một vật gì.
“Có biết sử dụng không? Có cần hướng dẫn không?”
Đó là bao tránh thai. Tôi đang hưng phấn nghe thế hơi mất hứng, nhưng tôi lồng vào rồi hấp ta hấp tấp chẳng đâu vào đâu. Bỗng Dương nói lạnh băng:
“Này! Anh biết anh đang làm gì không?”
Tôi bảo tất nhiên là biết. Cô làm ơn nằm dịch lại một chút được không? Tôi muốn nhờ ánh trăng tìm hiểu kỹ một chút xem kết cấu của cô ra làm sao. Chỉ nghe bốp một cái như tiếng sét đánh ngang tai, thì ra một cái tát. Tôi nhảy dựng lên ôm quần áo đi.
3
Tối đó tôi không đi được vì Dương kéo tôi lại, lấy danh nghĩa tình thân ái vĩ đại để giữ tôi. Cô thừa nhận đánh tôi là có lỗi, cũng thừa nhận là đối xử với tôi không tốt, nhưng cô bảo tình thân ái vĩ đại của tôi là giả, cô còn bảo tôi lừa cô ra đây để nghiên cứu cơ thể của cô. Tôi bảo biết là giả sao lại tin tôi. Tôi muốn nghiên cứu cơ thể cô với sự cho phép của cô, nếu không bằng lòng thì bảo chứ sao lại đánh, chẳng ra sao cả. Cô ôm lấy tôi và chúng tôi làm chuyện đó trên bãi cỏ.
Trước sinh nhật tuổi hăm mốt, tôi là đứa trẻ, sau đêm đó tôi không còn là trẻ con nữa. Nhưng tôi không vui vì khi tôi làm chuyện đó Dương chẳng nói năng gì, hai tay vòng dưới đầu làm gối, cứ nhìn tôi mà nghĩ đâu đâu, cho nên từ đầu chí cuối chỉ mình tôi biểu diễn. Tôi cũng chẳng giữ được lâu, thoáng cái đã hết. Xong chuyện, tôi vừa cáu kỉnh vừa chán chường.
Dương bảo cô không dám tin chuyện đó là thật. Cô đã từng có chồng, ngày nào cũng làm chuyện đó với cô. Cô không nói năng gì, chờ một ngày hắn sẽ xấu hổ giải thích tại sao lại làm như vậy nhưng hắn chẳng nói gì cho đến khi vào tù. Tôi chẳng thích nghe chuyện đó bèn nói cô đã không thích sao lại đồng ý. Cô bảo cô không muốn người ta bảo cô hẹp hòi. Tôi bảo cô đúng là hẹp hòi. Về sau cô nói thôi không
cãi nhau nữa, cô bảo tôi tối nay lại đến đây, có thể cô sẽ thấy thích. Tôi không nói gì. Sáng sớm khi trời đầy sương mù, tôi chia tay với cô rồi xuống núi chăn trâu.
Tối hôm đó tôi không đến gặp Dương mà vào bệnh viện. Chuyện uẩn khúc là thế này: Buổi sáng khi tôi đến trại trâu, một số người không đợi được tôi đã mở cổng dắt trâu đi. Ai cũng chọn con to khỏe đi cày. Một cậu người địa phương, tên là Tam đang dắt con trâu trắng to. Tôi đến bên bảo anh ta rằng nó bị rắn cắn không cày được. Hắn ta như không nghe thấy, tiện tay tôi giật lấy dây chạc, hắn vung tay tát tôi. Tôi đẩy hắn ngã bệt xuống đất. Sau đó rất nhiều người xông đến vây chúng tôi vào giữa đòi đánh. Một bên là thanh niên trí thức Bắc Kinh, một bên là thanh niên địa phương, đều vung gậy gộc, thắt lưng. Cãi nhau một hồi rồi bảo không đánh nhau nữa, để tôi và thằng Tam vật nhau. Thằng này không vật nổi tôi bèn đấm tôi, tôi đá cho một cú bay vào hố phân, cứt trâu be bét khắp người, thằng này giật lấy đinh ba phang tôi, mọi người can ra.
Chuyện xảy ra buổi sáng là thế. Buổi tối tôi chăn trâu về, đội trưởng bảo tôi đánh bần nông trung nông lớp dưới, phải mở cuộc họp đấu tố. Tôi bảo anh thừa dịp trả thù, tôi là thằng không dễ bắt nạt đâu. Tôi còn bảo tổ chức đánh hội đồng. Đội trưởng bảo không định xử phạt tôi mà mẹ cậu Tam làm căng quá không biết giải quyết thế nào. Về sau anh ta bảo không mở cuộc họp đấu tố nữa mà là cuộc họp góp ý kiến, tôi lên kiểm điểm. Nếu tôi không chịu thì để bà góa kia đến gặp tôi.
Cuộc họp rối như canh hẹ. Dân làng nhao nhao nói, họ bảo thanh niên trí thức xấu xa, bắt chó trộm gà còn đánh người. Thanh niên trí thức bảo nói như cứt, ai ăn cắp, có bắt được quả tang không? Các bố chúng mày đến đây giúp xây dựng biên giới chứ không phải là tội phạm đi lính mà chúng mày làm càn. Tôi đứng đó không kiểm điểm mà chửi. Không dè mẹ thằng Tam mò lên từ phía sau. Cầm chiếc ghế nặng trịch phang tôi một cái vào lưng, đúng vào vết thương cũ, tôi ngất đi.
Tôi tỉnh dậy thấy Tư dẫn một tốp người hò hét đòi đốt trại trâu, còn bảo bắt mẹ thằng Tam đền mạng. Đội trưởng dẫn một tốp người chặn lại, đội phó bảo khiêng tôi đi bệnh viện, vệ sinh viên bảo không được khiêng, lưng gãy rồi, khiêng là chết. Tôi bảo lưng tôi hình như chưa gãy, các cậu khiêng đi mau lên. Nhưng không ai dám chắc là lưng tôi gãy hay chưa, cho nên cũng không ai dám chắc khiêng thì chết hay
không. Tôi cứ phải nằm đấy. Về sau đội trưởng đến hỏi rồi nói, quay điện thoại gọi bác sĩ Dương đến để khám xem thế nào. Lát sau Dương đầu tóc rối bời hai mắt sưng húp chạy đến, câu đầu tiên là: anh đừng sợ, nếu anh bị liệt em sẽ chăm nom suốt đời. Khám xong kết luận như tôi nghĩ. Thế là tôi ngồi lên xe trâu đến bệnh viện tuyến trên.
Đêm đó Dương đưa tôi đi viện, đợi cho đến lúc có phim chiếu X quang, biết không có vấn đề gì mới về. Dương bảo một hai ngày nữa cô lại đến thăm tôi, nhưng mãi chẳng thấy. Tôi ở một tuần, đã đi lại được, tôi phóng về tìm Dương.
Khi tôi bước vào phòng y vụ của Dương, trên lưng tôi mang rất nhiều thứ. Ngoài những nồi niêu bát đĩa, còn đồ ăn đủ cho hai người ăn một tháng. Thấy tôi vào, Dương cười lạnh lùng nói, anh khỏi rồi à, mang những thứ ấy đi đâu?
Tôi bảo đi Thanh Bình tắm suối nước nóng. Dương uể oải ngồi xuống ghế nhìn lên nói, tốt lắm, suối nước nóng chữa bệnh rất tốt. Tôi bảo không phải đi tắm suối nước nóng mà lên núi phía sau, ở vài ngày. Dương bảo trên núi chẳng có gì, nên đi suối nước nóng.
Suối nước nóng Thanh Bình là một đầm bùn lầy, xung quanh toàn là dốc cỏ tranh. Một số người đủ mọi thứ bệnh dựng lều ở hàng năm trời. Nếu tôi đến đó, không những bệnh không khỏi mà còn có thể nhiễm bệnh phong. Vùng núi hoang phía sau, ngòi lạch ngang dọc, cỏ mật bời bời trong rừng thưa, một vùng vắng ngắt không vết chân người, suối chảy hoa trôi. Tôi dựng nơi đó một cái lều tranh, ở đó có thể tĩnh dưỡng tinh thần và sức khỏe. Dương nghe rồi bật cười: Đến đó bằng cách nào? Có thể tôi sẽ đi thăm anh. Tôi vẽ đường cho cô rồi vào núi.
Tôi vào trong đó, Dương không đến thăm tôi. Mùa khô, chiếc lều nghiêng ngả trong những cơn gió thổi lồng lộng không lúc nào ngừng. Dương ngồi trên ghế nghĩ về những chuyện đã xảy ra, hoài nghi tất cả. Cô rất khó tin rằng mình sẽ điên rồ đến một nơi hẻo lánh như thế, bị người ta gán cho cái tiếng lăng nhăng oan uổng rồi thành lăng nhăng thật. Chuyện này thật khó tin. Dương nói, có lúc cô đi ra khỏi phòng nhìn về phía núi, thấy rất nhiều đường ngoằn ngoèo đi sâu vào trong núi. Lời tôi nói với cô còn văng vẳng bên tai cô. Dương biết rằng đi theo những con
đường đó vào núi sẽ tìm thấy tôi. Điều đó không còn nghi ngờ gì. Nhưng càng không còn gì nghi ngờ nữa thì càng đáng ngờ. Có thể con đường đó chẳng dẫn đến đâu, rất có thể Vương Nhị không ở đó, cũng có thể chẳng tồn tại một Vương Nhị nào cả.
Mấy ngày sau, Tư dẫn mấy người đến bệnh viện thăm tôi. Ở bệnh viện chẳng ai nghe nói đến Vương Nhị cả, càng không biết anh ta đi đâu. Lúc đó bệnh viện đang lan truyền bệnh viêm gan, những người mắc bệnh này đều về nhà chữa trị, các thầy thuốc về các đội chữa bệnh tận nhà. Tư và mấy người về đội thì chẳng thấy đồ đạc của tôi đâu, đi hỏi đội trưởng có thấy Vương Nhị đâu không. Đội trưởng hỏi Vương Nhị là ai? Chưa nghe cái tên ấy bao giờ. Tư bảo mấy hôm trước còn họp để đấu hắn, con mụ lắm mồm lấy ghế phang anh ta một nhát tí chết. Nghe gợi ý như thế đội trưởng càng không nghĩ ra tôi là ai. Hồi đó có một đoàn thanh niên trí thức đến thăm hỏi tình hình của thanh niên trí thức ở các địa phương, nhất là chuyện có người bị đánh bất tỉnh, do đó đội trưởng càng không muốn nhắc đến tôi. Cậu Tư đến đội 5 hỏi Dương có thấy tôi đâu không, anh còn hé ra mấy từ ám chỉ quan hệ bất chính giữa cô và tôi. Dương tỏ ra chẳng biết tí gì về chuyện đó.
Khi Tư đi rồi, Dương càng chẳng hiểu ra sao. Xem chừng rất nhiều người nói Vương Nhị không tồn tại. Nguyên nhân làm người ta lúng túng là ở đó. Điều ai cũng bảo tồn tại thì nhất định không tồn tại, đó là vì tất cả đều là lừa dối. Điều ai cũng bảo không tồn tại thì nhất định tồn tại, thí dụ như Vương Nhị, nếu anh ta không tồn tại thì cái tên đó ở đâu ra? Dương không nén nổi tò mò, cô vứt bỏ tất cả vào núi tìm tôi.
Tôi bị con mụ đanh đá lấy ghế đánh ngất đi. Dương đã từng ở trên núi chạy xuống thăm tôi. Khi đó cô còn bật khóc và nói công khai rằng nếu tôi bị tật nguyền thì chăm sóc tôi suốt đời. Nếu tôi không chết cũng không bị tật thì rất may cho tôi, nhưng Dương không thích, vì như thế coi như cô công khai thừa nhận là lăng nhăng. Giả sử tôi chết hay bị thương thành tật thì phải hơn, nhưng tôi chỉ ở bệnh viện một tuần rồi chuồn. Đối với Dương, tôi chỉ là một người trong ký ức, một hình ảnh nhìn từ phía sau, đang vội vã xuống núi. Cô không hề muốn làm tình với tôi, cũng không muốn dan díu với tôi trừ phi có một nguyên nhân gì ghê gớm lắm. Do
đó cô đi tìm tôi tức là hành vi lăng nhăng thực sự.
Dương bảo cô vào núi tìm tôi, dưới chiếc áo choàng trắng không mặc gì cả. Cô cứ thế chạy trên những triền núi sau đội 15, cỏ mọc rậm rì trên đất đỏ. Buổi sáng gió thổi lạnh buốt như nước khe, buổi chiều gió nóng bỏng cuốn theo bụi đất. Gió luồn dưới lớp áo choàng như bàn tay, như làn môi ấm. Thực ra Dương không cần tôi, cũng không cần phải tìm thấy tôi. Trước kia khi người ta bảo cô lăng nhăng, nói tôi là người tình của cô thì cô ngày nào cũng đi tìm tôi. Lúc đó hình như phải thế, vì từ khi cô công khai tỏ ra lăng nhăng, tỏ ra tôi là người tình của cô thì chẳng ai bảo cô là lăng nhăng nữa, chẳng ai nhắc đến Vương Nhị trước mặt cô nữa, trừ Tư. Mọi người đều sợ sự lăng nhăng công khai bạo dạn đến nỗi chẳng dám nói đến nữa.
Ai cũng biết người ta đến điều tra, chỉ tôi là không biết. Bởi vì tôi đi chăn trâu, sớm đi tối về, tai tiếng lại không hay ho gì chẳng ai bảo với tôi, khi tôi nằm viện cũng chẳng ai đến thăm. Khi ra viện, tôi vào trong núi, trước khi đi chỉ gặp có hai người, một là Dương, cô không nói cho tôi biết chuyện đó, một người nữa là đội trưởng, anh ta cũng không nói gì về chuyện đó, chỉ bảo tôi đi suối nước nóng chữa bệnh. Tôi bảo anh ta tôi chẳng có đồ đạc gì cả nồi niêu bát đĩa chẳng hạn, cho nên không đi được. Anh ta bảo sẽ mượn cho tôi. Tôi bảo tôi mượn chưa chắc đã trả, anh ta bảo không sao. Anh ta đưa tôi khá nhiều thịt ướp và lạp xường nhà làm.
Dương không nói với tôi chuyện đoàn kiểm tra vì cô không quan tâm, cô không thuộc đám thanh niên trí thức, đội trưởng không nói vì tưởng tôi biết rồi. Anh ta nghĩ tôi đem rất nhiều thứ đi như thế sẽ không bao giờ quay lại nữa. Cho nên khi cậu Tư hỏi Vương Nhị ở đâu thì anh ta hỏi lại Vương Nhị là ai? Và không bao giờ nhắc đến nữa. Đối với Tư và mấy người nữa thì tìm thấy tôi có nhiều cái lợi, tôi có thể chứng minh chúng tôi ở đây bị đối xử rất tồi tệ, luôn luôn bị đánh ngất đi. Đối với lãnh đạo, tôi không tồn tại lại có lợi, họ có thể nói rằng thanh niên trí thức ở đây chẳng ai bị đánh cả. Đối với tôi, tồn tại hay không tồn tại chẳng có nghĩa lý gì. Nếu không ai đến tìm tôi thì tôi ở đó trồng ít ngô để ăn, sẽ không bao giờ thò mặt ra nữa. Cho nên tôi không quan tâm mình tồn tại hay không.
Tôi nằm trong lều cũng đã từng nghĩ mình tồn tại hay không tồn tại, thí dụ mọi người bảo tôi và Dương dan díu với nhau, điều đó chứng minh tôi tồn tại. Nói theo
cách của cậu Tư là Vương Nhị và Trần Thanh Dương tụt quần nằm với nhau, thực ra cậu ta không nhìn thấy. Giới hạn tối đa trí tưởng tượng của cậu ta chỉ đến tụt quần. Còn Dương thì nói tôi mặc bộ quân phục vàng, chạy xuống núi nhanh thoăn thoát. Tôi cũng không biết mình đi đường không ngoái lại. Những việc đó tôi không tưởng tượng ra, cho nên chúng chứng minh tôi tồn tại.
Thằng nhỏ của tôi đang cương cứng, điều này cũng không phải tôi tưởng tượng ra. Tôi vẫn chờ đợi Dương đến thăm nhưng cô không đến. Khi cô đến thì tôi lại chẳng mong chờ.
4
Tôi đã nghĩ sau khi tôi vào núi thì Dương đến ngay, nhưng tôi nhầm. Tôi chờ mãi rồi chán, không chờ nữa. Tôi ngồi trong lều nghe cây lá xào xạc khắp rừng, đến mức quên cả mình và xung quanh. Tôi nghe thấy dòng thác lũ không khí ào ào trôi phía trên đầu đúng lúc tâm hồn tôi bay bổng, như hoa nở, măng phá vỏ vươn thẳng lên trời. Đến lúc suy thì tôi cũng an nghỉ, nhưng khi đang thịnh thì cứ hân hoan. Đúng lúc ấy thì Dương đến đứng ngay trước cửa lều. Nhìn thấy tôi trần như nhộng ngồi trên chõng tre, cô kinh hoàng kêu lên.
Chuyện Dương vào núi tìm tôi có thể kể lại đơn giản như sau: Tôi vào núi được hai tuần thì cô đến. Lúc đó là hai giờ chiều, cô như một dâm phụ lồng lên, trút hết đồ lót, chỉ choàng tấm áo ngoài, chân trần chạy vào núi. Cô chạy qua bãi cỏ, xuống lòng sông cạn, đi rất lâu, đường sông rất phức tạp nhưng cô không nhầm một chỗ nào. Cô rời lòng sông đi vào triền núi mọc những cây hướng dương, nhìn thấy một túp lều mới dựng. Nếu không có một anh chàng Vương Nhị chỉ dẫn thì trong vùng rừng núi bạt ngàn thế này làm sao tìm ra được túp lều.
Về sau Dương kể, cô muốn tin rằng tất cả những điều cô thấy đều là có thực. Việc có thật phải có lý do. Lúc đó Dương cởi nốt áo, ngồi cạnh tôi, nhìn xuống thằng bé của tôi, nó đỏ như một vết thương cháy bỏng. Túp lều đang rung lên trong gió, ánh nắng lọt vào lốm đốm trên người Dương. Tôi đưa tay sờ nắn vú Dương cho đến khi mặt cô ửng hồng, núm vú cứng lên. Dương như chợt tỉnh giấc ôm chặt lấy tôi.
Tôi và Dương làm tình lần thứ hai. Lần đầu có nhiều tình tiết mà tôi không hiểu. Về sau tôi mới hiểu, Dương bị người ta nói là lăng nhăng vẫn cứ canh cánh trong lòng. Đã không chứng minh được là không lăng nhăng thì cô thích thú thành người lăng nhăng thật. Giống như người đàn bà bị bắt quả tang đang gian dâm, bị người ta bắt đứng trước mọi người kể lại tỉ mỉ, khi bọn người không chịu nổi sự xấu xa nữa thì hét lên “Trói nó lại!”. Bị lột hết quần áo, cô ta chẳng thấy xấu hổ gì nữa cho đến khi bị buộc đá ném xuống sông. Dương không hề sợ mình thành người lăng nhăng, thế còn tốt hơn nhiều so với bị gọi là lăng nhăng mà lại không lăng nhăng. Điều cô ghét chính là sự việc đã biến cô thành người lăng nhăng.
Khi chúng tôi đang say sưa thì một con thằn lằn chui ra từ kẽ vách vừa chạy vừa dừng, đến giữa nhà rồi giật mình lao vút ra ngoài nắng. Lúc đó Dương đang kêu rên dồn dập như thác lũ tràn ngập chiếc lều. Tôi sợ hãi phủ phục bất động. Nhưng Dương bảo: nhanh lên, đồ xấu xa, cô cấu vào đùi tôi. Khi tôi “nhanh” thì từng đợt từng đợt chấn động như từ sâu trong lòng đất dội lên. Về sau Dương bảo cô cảm thấy tội mình rất nặng, thế nào cũng bị báo ứng.
Khi cô bảo sẽ gặp báo ứng thì sắc hồng trên ngực cô nhạt đi, lúc ấy chúng tôi chưa xong. Nhưng có vẻ như cô muốn nói cô chỉ chịu báo ứng với chuyện trước đây, bỗng một cơn co thắt từ đầu truyền đến chân, tôi xuất tinh rất mạnh. Chuyện này không liên quan gì đến Dương, chắc rằng chỉ mình tôi chịu báo ứng vì nó.
Sau đó Dương bảo tôi cậu Tư tìm tôi khắp nơi. Cậu ta đến bệnh viện, ở đó người ta bảo tôi không tồn tại. Tìm hỏi đội trưởng, anh ta cũng bảo tôi không tồn tại, cuối cùng cậu ta tìm đến Dương, cô bảo: “Nếu mọi người đều bảo anh ta không tồn tại thì chắc là anh ta không tồn tại rồi, tôi không có ý kiến gì”. Nghe đến đấy, cậu Tư khóc rống lên.
Tôi nghe Dương kể vậy, cảm thấy rất kỳ quặc. Chẳng lẽ vì con mụ đanh đá nện tôi một cú mà tôi tồn tại, và cũng vì thế mà không tồn tại. Thực ra việc tôi tồn tại chẳng cần phải tranh cãi. Chính vì thế mà tôi chui vào ngõ cụt. Để chứng minh sự thật không cần tranh cãi đó, hôm đoàn thăm hỏi đến, tôi chạy từ trên núi xuống, đi vào hội trường đang tổ chức tọa đàm. Tan họp, đội trưởng bảo, trông cậu không có vẻ ốm đau gì cả, về nuôi lợn đi. Anh ta còn tổ chức cho bắt tôi và Dương về chuyện
dan díu. Tất nhiên bắt tôi không dễ vì tôi nhanh chân lắm, đừng hòng theo kịp nhưng sẽ thêm phiền cho tôi. Lúc đó tôi mới tỉnh ra, tội gì phải chứng minh cho người ta rằng tôi tồn tại.
Khi nuôi lợn, tôi phải gánh rất nhiều nước. Công việc này rất nhọc nhằn, muốn chây lười cũng không được vì lợn không no là tru tréo lên. Ngoài ra còn thái rau bổ củi rất nhiều. Chăn nuôi lợn trước kia có ba phụ nữ, bây giờ có mỗi mình tôi. Tôi không thể bằng ba người đàn bà được, nhất là lưng lại đau. Lúc này tôi chỉ muốn mình không tồn tại.
Buổi tối tôi và Dương làm tình trong căn nhà nhỏ. Hồi ấy tôi yêu nghề lắm, rất chăm chỉ, để hết tâm trí vào hôn và vuốt ve, mọi kỹ thuật đều rất rành rẽ. Dương rất vừa lòng. Tôi thấy trong những lúc như thế chẳng cần phải chứng minh mình đang tồn tại, từ sự thể nghiệm đó tôi rút ra được một kết luận, mãi mãi đừng bao giờ để người ta chú ý đến mình. Người Bắc Kinh nói, không sợ người ta ăn cắp mà sợ nhớ. Bạn đừng bao giờ để người ta nhớ đến mình.
Sau một thời gian, đội thanh niên trí thức chúng tôi được điều đi. Nam thì đến nhà máy đường làm công nhân, nữ thì về các vùng quê dạy học. Chỉ mình tôi vẫn ở lại nuôi lợn, nghe nói vì tôi chưa cải tạo tốt. Dương bảo là tôi bị người ta nhớ rồi. Người đó chắc là đại diện quân sự của nông trường. Dương còn nói tay này là cái thứ không ra gì. Thì ra khi cô làm ở bệnh viện, hắn đã chọc ghẹo cô, bị cô tát cho, thế là cô bị điều xuống đội lao động phụ trách y tế. Đội 15 sống rất khổ, ăn uống chẳng có gì, điều cô đến đó rõ ràng là muốn chơi xấu. Dương bảo nhất định nó sẽ còn làm tôi sống dở chết dở. Tôi nói rồi. Nó làm gì được tôi? Cùng quá là bố mày biến. Về sau mọi chuyện đều bắt đầu từ đó.
Sáng hôm ấy mới mờ đất, tôi xuống núi đến trại nuôi lợn. Qua giếng thấy thằng đại diện đang đánh răng. Hắn để nguyên đầy mồm bọt trắng nói chuyện với tôi trông rất tởm, tôi bỏ đi không nói câu gì. Sau đó hắn đến trại lợn mắng tôi sa sả, bảo tại sao anh dám bỏ đi, nghe vậy tôi vẫn không nói gì. Hắn bảo tôi giả câm giả điếc, tôi vẫn không nói gì. Sau đó tôi lại bỏ đi.
Hắn đến bám điểm tại đội tôi, không đi nữa. Hắn bảo, chưa moi được lời nói của
tôi thì chưa chịu. Chuyện này có thể có hai nguyên nhân, một là hắn đến thị sát thấy tôi giả câm giả điếc, cáu quá không đi nữa, hai là không phải hắn xuống thị sát mà nghe nói tôi và Dương có quan hệ với nhau cho nên hắn đến kiếm chuyện với tôi. Bất kể hắn đến làm gì, tôi đều chẳng nói chẳng rằng, hắn cũng chẳng biết làm thế nào.
Hắn tìm tôi bảo tôi viết kiểm điểm, hắn còn bảo tôi quan hệ lăng nhăng, quần chúng rất tức giận, nếu tôi không kiểm điểm sẽ phát động quần chúng để xử lý tôi. Hắn còn bảo, hành vi của tôi đủ gọi là phần tử xấu, đáng bị chuyên chính. Tôi có thể tự bào chữa là tôi không lăng nhăng, ai chứng minh được tôi lăng nhăng? Nhưng tôi chỉ nhìn hắn, như con lợn rừng đang nhìn, như một gã khùng đang nhìn, như mèo đực đang nhìn mèo cái. Nhìn đến mức hắn nhụt chí đành để tôi đi.
Cuối cùng hắn cũng chẳng moi được lời nào của tôi. Thậm chí hắn không biết được rút cục tôi câm hay không câm. Người ta bảo tôi không câm, hắn không dám tin vì hắn chưa bao giờ nghe tôi nói câu nào. Cho đến hôm nay hắn vẫn không biết tôi có câm hay không. Nghĩ lại chuyện này tôi rất khoái.
5
Cuối cùng chúng tôi bị giam lại, viết kiểm điểm mất rất nhiều thời gian. Lúc đầu tôi viết thế này: Tôi và Dương có quan hệ bất chính. Đó là tất cả. Cấp trên nói viết thế sơ sài quá phải viết lại. Sau tôi viết tôi và Dương có quan hệ bất chính, tôi ăn nằm với cô ấy rất nhiều lần, cô ấy vui lòng cho tôi làm như vậy. Cấp trên bảo vẫn chưa đủ chi tiết. Tôi thêm chi tiết: Chúng tôi đã giao hợp trái phép bốn mươi lần, địa điểm là ở chiếc lều tôi làm trộm. Hôm đó không phải mười lăm thì là mười sáu âm lịch, chỉ biết là trăng rất sáng. Cô Dương ngồi trên giường, lấy chân quặp lưng tôi, ánh trăng soi trên người cô. Chúng tôi còn nói chuyện vài câu, tôi bảo vú cô ấy không những tròn mà rất căng, rốn tròn và nông, tất cả đều rất tuyệt. Cô Dương bảo thế à, chính em cũng không biết. Về sau ánh trăng dịch đi chỗ khác, tôi châm điếu thuốc, hút được một nửa thì cô cầm lấy hút mấy hơi. Cô véo mũi tôi, bởi vì người địa phương bảo con trai còn trinh thì mũi rất cứng, mà trác táng quá độ đến sắp chết thì mũi mềm đi. Có lúc, cô ấy nằm dài trên giường, có lúc cô ấy lại ôm tôi như con Kangaroo ở Úc, thở hổn hển vào mặt tôi. Khi ánh trăng rọi vào cửa sổ phía bên
kia thì tôi và cô ấy buông nhau ra, tôi viết không phải để cho thằng đại diện đọc, hắn phục viên lâu rồi, dù sao chúng tôi phạm khuyết điểm như vậy thì phải viết kiểm điểm thôi.
Sau này tôi rất thân với ông trưởng phòng nhân sự của trường. Ông ấy bảo cái hay nhất của cán bộ nhân sự là được đọc các bản kiểm điểm. Tôi chắc là ông nói cả bản của tôi nữa. Tôi cho là bản kiểm điểm tôi viết rất văn vẻ vì khi viết là tôi đang ở phòng khách, không có việc gì làm, viết như nhà văn chuyên nghiệp.
Đầu đuôi câu chuyện là thế này, một buổi tối, tôi bỏ trốn. Sáng hôm đó tôi báo cáo cán bộ hậu cần, tôi ra thị trấn mua thuốc đánh răng, ông ta là lãnh đạo của tôi và có trách nhiệm giám sát tôi, phải thường xuyên theo dõi tôi, thế mà một hôm không thấy tôi đâu nữa. Buổi sáng tôi đem trên núi xuống cho ông ta ít quả tỳ bà chua rất ngon, dưới đồng bằng quả này không ăn được vì đầy kiến bên trong. Ông ta bảo, ông ấy không có gì hiềm khích với tôi, đại diện quân sự đi vắng, ông ấy có thể cho tôi đi được, nhưng anh ta có thể về bất cứ lúc nào, khi đó ông ta không thể bao che cho tôi được. Ra khỏi đội, tôi leo lên núi phía sau đội 15, lấy gương chiếu vào cửa sổ phòng Dương. Lát sau cô lên núi, nói hai ngày đầu cô bị kèm rất chặt không ra được. Cô bảo mấy hôm nay cô lại có kinh, nhưng không sao cứ chơi đi, tôi bảo không được. Khi chia tay Dương nhất định đưa tôi hai trăm tệ, mới đầu tôi không chịu, mãi sau mới nhận.
Về sau Dương kể, mấy ngày đầu cô bị kèm rất chặt và cô cũng không thấy kinh. Thực ra đội 15 không theo dõi cô. Ở đó người ta có thói quen bảo người không lăng nhăng là lăng nhăng, còn người lăng nhăng thật thì mặc kệ cho muốn làm gì thì làm. Mấy hôm cô không lên núi, để tôi chờ mãi, bởi vì cô đã cảm thấy chán chuyện này rồi. Cô phải có hứng mới chịu làm tình, không phải cứ làm tình là có hứng. Tất nhiên sau mỗi lần như vậy cô chẳng thấy day dứt gì cả, cô còn cho tôi hai trăm, tôi nghĩ cô tiêu không hết thì tôi tiêu hộ. Tôi đem số tiền đó đi thị trấn mua khẩu súng hai nòng.
Sau này khẩu súng hai nòng cũng là chủ đề trong bản kiểm điểm. Người ta nghĩ tôi dùng nó để bắn chết ai đó. Thực ra nếu để giết người thì khẩu súng hai nòng hai trăm tệ và khẩu súng đồng bốn mươi tệ là như nhau. Khẩu súng của tôi là để bắn vịt
giời trên đầm nước, ở trên núi chẳng để làm gì, nó lại nặng như cái xác chết. Tôi đến thị trấn thì trời đã về chiều, cũng không phải phiên chợ, con đường đất vắng ngắt, mấy cửa hàng mậu dịch trống trơn. Người bán hàng đang ngủ gật, ruồi bay khắp nơi khắp chỗ. Trên giá bày nồi nhôm chảo nhôm có biển đề “lồi nhôm, trảo nhôm”. Tôi nói chuyện với cô bán hàng hồi lâu, cô đưa tôi vào trong kho xem, thấy khẩu súng săn Thượng Hải bèn mua luôn, mặc dù biết nó để đó đã hai năm, không bán được. Sẩm tối tôi ra bờ sông bắn thử, hạ một con vịt giời. Lúc này thằng đại diện từ nông trường đi bộ ra, thấy tôi cầm súng sợ quá. Hắn lải nhải, như thế là không đúng, không ai được mang súng cả. Hắn sẽ bảo đội tịch thu. Tôi nghe nói vậy chỉ muốn cho hắn một phát vào bụng. Nếu bắn, hắn chắc chết và tôi cũng không sống đến hôm nay.
Hôm đó, trên đường từ thị trấn về, tôi gặp thằng Tu. Nó bảo chúng nó đã bắt hết cá ở chỗ kè chắn. Phần của tôi đã phơi khô, chị nó đang giữ. Chị nó bảo tôi đi lấy. Tôi và chị nó rất quen nhau, một cô bé thon thả xinh xắn, da bánh mật. Tôi bảo để khi khác. Tôi cho Tu túi đường (cửa hàng ăn thị trấn bán mỗi thứ đó) bảo nó đến đội 15 nhắn tin cho Dương biết tiền của cô cho tôi đã đem đi mua súng rồi. Dương nghe thế rất sợ, nghĩ tôi sẽ bắn chết thằng đại diện. Cô nghĩ thế không phải vô cớ, tôi suýt bắn hắn thật.
Tối đó, khi tôi đang bắn vịt ở ven sông thì gặp hắn, tôi vẫn lặng thinh như mọi khi. Hắn thì lải nhải luôn mồm. Tôi điên tiết lắm vì đã hơn nửa tháng hắn cứ lải nhải mãi một câu: mày là phần tử xấu, phải cho đi cải tạo, không thể buông lỏng mày một phút nào. Hắn còn nói hôm nay hắn nhận được một tin rất hay, sẽ công bố cho mọi người biết. Nhưng hắn không nói, chỉ nói tôi và “con điếm” Dương từ nay sẽ rất khó sống. Tôi nghe hắn nói vậy cáu lắm chỉ muốn bóp cổ cho chết tươi, nhưng cứ để hắn nói tin gì đã rồi sẽ ra tay. Nhưng hắn không nói, chỉ nói mấy câu vu vơ, hắn bảo: về đội sẽ nói, tối mày đến hội nghị tao sẽ công bố.
Buổi tối tôi không đến họp, ở nhà dọn đồ đạc chuẩn bị trốn lên núi. Tôi nghĩ chắc sẽ xảy ra chuyện gì lớn để đến nỗi thằng đại diện định trừng phạt tôi và Dương, nhưng đó là chuyện gì tôi không biết, hồi đó mọi chuyện khó đoán lắm. Thậm chí tôi còn nghĩ Trung Quốc đã phục hồi chế độ quân chủ, thằng đại diện là thổ ty vùng
này, hắn có thể giã nát tôi, tống Dương vào lầu xanh. Khi tôi thu dọn xong mới biết là không quan trọng đến thế. Vì người ta hô khẩu hiệu ở hội nghị ở đây tôi cũng nghe thấy. Thì ra nông trường quốc doanh này sẽ đổi thành trung đoàn khai hoang, thằng đại diện có thể là trung đoàn trưởng. Dù thế nào hắn cũng không thể dìm chết tôi và lôi Dương đi. Tôi do dự một lát, khoác đồ lên vai, cầm dao rựa phá hết mọi thứ trong phòng rồi lấy than viết lên tường: “xxx (tên thằng đại diện), đ. mẹ mày!” Thế rồi tôi lên núi.
Tôi ra khỏi đội 14, như sau này tôi viết trong kiểm điểm: Tôi và đại diện quân sự có tư thù, có hai chuyện đáng nói: một là, trước đoàn thăm hỏi, tôi kể lại chuyện bị đánh ngất đi như thế nào, điều này làm mất mặt người đại diện, hai là ghen ăn tức ở, cho nên anh ta một mực muốn xử lý lôi. Khi anh ta sắp làm trung đoàn trưởng thì tôi cảm thấy không chịu được nữa, tôi bỏ lên núi. Bây giờ tôi vẫn nghĩ đó là lý do tôi bỏ đi. Nhưng người ta bảo, thằng đại diện không hề làm trung đoàn trưởng, cho nên lý do tôi đi là không tin được. Điều tin được là, tôi và cô Dương có tư tình. Tục ngữ có câu, mê sắc thì có gan trời, việc gì chúng tôi cũng dám làm. Câu nói này cũng có lý, nhưng tôi trốn khỏi đội 14 không có ý định tìm Dương, định đi luôn cho xong. Đến chân núi mới nghĩ, dù sao cô ấy cũng là bạn tôi, nên chào từ biệt. Không ngờ Dương bảo sẽ đi trốn với tôi. Nếu việc lớn thế này mà không cho cô tham gia thì tình bạn vĩ đại đem mà vứt cho chó. Dương vội vàng thu dọn rồi cùng tôi trốn đi. Nếu không cùng sửa soạn với cô thì tôi chết bệnh trên núi rồi. Cô đem theo rất nhiều thuốc chữa bệnh và cả một bọc to tướng bao tránh thai.
Sau khi chúng tôi bỏ trốn lên núi, cả nông trường rối lên. Họ tưởng chúng tôi trốn sang Myanmar. Tin này truyền đi chẳng hay ho gì cho ai cả, cho nên họ không báo cáo lên trên, chỉ thông báo truy nã nội bộ nông trường. Chúng tôi rất dễ bị nhận ra, lại còn mang khẩu súng hai nòng chẳng ai có, rất dễ phát hiện, vậy mà chẳng ai tìm ra. Nửa năm sau chúng tôi tự trở lại nông trường, ai về đội nấy, một tháng sau mới bị tổ nhân sự gọi lên viết kiểm điểm. Cũng là năm hạn của chúng tôi, gặp đúng cuộc vận động và bị phát giác.
6
Tổ nhân sự nằm ngay trên đường vào nông trường bộ, đó là một căn nhà đất trơ
trọi, có thể nhìn thấy từ xa vì quét vôi trắng lốp và lại ở trên gò cao. Xung quanh đó mọc đầy những cây gai màu xanh sẫm, bên dưới là đất đỏ tươi. Tôi ở đó kiểm điểm cặn kẽ. Chúng tôi lên núi phía sau đội 15 trồng ngô, nơi đó đất xấu, đến một nửa không nẩy mầm. Chúng tôi bỏ, đêm ngủ ngày đi, tìm nơi khác để ở. Về sau nhớ ra trong núi có cối xay nước bỏ hoang, ở đó đất bỏ hoang rất màu mỡ. Trong trạm xay có ông Lưu trốn từ trại phong ra. Chẳng ai đến đó nữa, chỉ có Dương một lần nhớ lại mình là bác sĩ có đi thăm một lần. Chúng tôi đến đó ở thung lũng phía sau cối xay nước, Dương khám bệnh cho ông già, tôi trồng trọt giúp ông. Sau đó một thời gian tôi đi chợ Thanh Bình, gặp bạn học cũ. Anh ta nói tay đại diện đi rồi, không ai nhớ chuyện cũ đâu. Thế là chúng tôi về. Tất cả là như vậy.
Tôi ở tổ nhân sự rất lâu. Có lúc tình hình dễ chịu, người ta bảo vấn đề đã rõ ràng rồi, anh chuẩn bị viết ra. Về sau đột nhiên trở nên nghiêm trọng, họ nghi chúng tôi vượt biên, móc nối với thế lực chống đối, nhận nhiệm vụ quay về. Họ gọi Dương đến thẩm tra rất gay gắt.
Người ta bảo tôi kiểm điểm việc vượt biên. Thực ra trong vấn đề này tôi không phải hoàn toàn vô can. Tôi có vượt biên thật. Tôi hóa trang thành người Thái, sang bên kia biên giới đi chợ, mua diêm và muối, tôi không nói vì thấy chẳng có gì đáng nói.
Về sau tôi dẫn người của tổ nhân sự đến kiểm tra nơi tôi ở, cái lều sau đội 15 đã thủng mái, bãi ngô dụ chim chóc đến ăn, sau lều có nhiều bao cao su dùng rồi vứt đó, đó là chứng cớ chúng tôi đã ở đây. Người địa phương không thích bao cao su vì họ bảo nó ngăn cản trao đổi âm dương, làm người ta yếu dần đi. Thực ra bao cao su họ dùng là trăm phần trăm cao su thiên nhiên, tốt hơn mọi loại của tôi đã dùng.
Về sau tôi nhất định không chịu đưa họ đi đâu cả, tôi vẫn nói tôi không ra nước ngoài, họ không tin. Đưa đi xem họ vẫn không tin. Việc không cần làm thì đừng làm. Cả ngày tôi chẳng nói chẳng rằng. Dương cũng vậy. Những ngày phiên chợ, đồng bào dân tộc chở rau quả tươi đi qua. Những người thẩm vấn thì lúc đầu hỏi sau cũng im, người dự nghe cũng ít dần, sau chỉ còn một người. Anh ta cũng thích đi chợ, nhưng chưa đến lúc thả chúng tôi ra, bỏ mặc chúng tôi ở đây không ai coi chừng thì lại không đúng quy định. Anh ta ra cửa gọi một chị đứng lại. Nhưng
thường người ta không đứng lại mà còn bước nhanh hơn. Thấy vậy chúng tôi bật cười.
Cuối cùng anh ta cũng gọi được một chị. Dương đứng dậy sửa sang đầu tóc, bẻ cổ áo cho ngay ngắn rồi quay ra sau, chị ta trói cô lại, từ cổ tay quàng qua cổ rồi quấn trên khuỷu tay. Chị ta xin lỗi vì không biết trói, đồng chí tổ nhân sự bảo, được rồi. Sau đó anh ta trói tôi, để hai chúng tôi ngồi trên hai chiếc ghế tựa quay lưng vào nhau rồi quấn vòng dây ngang lưng. Xong xuôi, anh ta khóa cửa đi chợ. Rất lâu sau anh ta mới về ra bàn làm việc lấy đồ rồi hỏi: Cần đi vệ sinh không? Trời sắp tối rồi, lát nữa tôi quay lại cởi trói cho các người. Sau đó lại đi.
Cuối cùng anh ta cởi trói cho chúng tôi, Dương sửa sang đầu tóc phủi sạch bụi trên người, chúng tôi lại về phòng khách. Ngày nào chúng tôi cũng đến tổ nhân sự, đến ngày chợ phiên lại bị trói, ngoài ra còn bị dẫn đến các đội để bị đấu tố. Họ còn luôn luôn dọa còn dùng các biện pháp chuyên chính khác nữa. – Chúng tôi bị thẩm vấn như thế đó.
Về sau họ không nghi chúng tôi ra nước ngoài nữa, đối xử với Dương cũng tử tế hơn, thường đưa cô đến bệnh viện kiểm tra bệnh viêm tuyến tiền liệt cho tham mưu trưởng. Hồi đó nông trường chúng tôi có nhiều cán bộ lâu năm từ quân đội ra, rất nhiều người mắc bệnh này. Qua điều tra mới biết rằng cả nông trường chỉ một mình Dương biết trong cơ thể người ta có tuyến tiền liệt. Các đồng chí tổ nhân sự bảo chúng tôi kiểm điểm vấn đề quan hệ nam nữ. Tôi bảo tại sao anh biết chúng tôi có quan hệ nam nữ? Anh có nhìn thấy không? Họ bảo thế thì kiểm điểm vấn đề buôn gian bán lận. Tôi bảo tại sao anh biết tôi buôn gian bán lận? Họ lại bảo kiểm điểm vấn đề theo địch làm phản, kiểm điểm cái gì thì các người bàn với nhau, chưa kiểm điểm thì chưa thả. Tôi và Dương bàn nhau, cuối cùng quyết định kiểm điểm chuyện quan hệ nam nữ. Dương bảo việc đã làm kể ra không việc gì phải sợ.
Thế là tôi viết như một nhà văn. Đầu tiên là chuyện bỏ trốn lên núi, viết đến mấy chương, tôi viết Dương như một con Kaola. Cô thừa nhận hôm đó rất hưng phấn, đúng là như một con Kaola. Bởi vì cuối cùng cô đã có dịp để thực hiện tình thân ái vĩ đại cho nên hai đùi cô quắp chặt lấy tôi, hai tay quàng vai tôi, coi tôi như một cái cây để trèo lên.
Về sau tôi có gặp lại Dương, khi đó đã là những năm 90. Dương bảo cô đã ly dị và sống ở Thượng Hải với con gái, đi công tác lên Bắc Kinh. Đến nơi mới nhớ ra Vương Nhị ở đây, biết đâu gặp được. Thế rồi gặp tôi ở hội miếu hồ Long Trạch. Tôi vẫn thế, mép có nếp nhăn, quầng dưới mắt vẫn thâm, mặc áo bông đã lỗi mốt, ngồi dưới đất ăn mà không vào nhà hàng sang trọng. Duy nhất có khác là tay bị vàng khè vì axit nitric.
Dương thay đổi nhiều, cô mặc áo choàng dạ mỏng, váy dạ kẻ ô vuông, đi giày cao gót, đeo kính mạ vàng, mang vẻ quan chức một công ty, nếu Dương không gọi thì tôi không dám nhận. Tôi nghĩ mỗi người đều có bản chất của mình, đặt đúng chỗ thích hợp sẽ sáng sủa rạng rỡ. Bản chất tôi là loại lưu manh thổ phỉ, bây giờ là một thị dân, giáo viên, chẳng ra thế nào.
Dương bảo con gái đang học đại học năm thứ hai, gần đây biết chuyện chúng tôi, rất muốn gặp tôi. Đầu đuôi câu chuyện thế này: Bệnh viện của Dương muốn đề bạt cô, phát hiện trong hồ sơ có một đống chuyện. Lãnh đạo sau khi thảo luận, nhận định rằng đây là tư liệu phê phán người ta trong “cách mạng văn hóa”, cần phải hủy đi. Họ cử người về tận Vân Nam điều tra, công tác phí mất một vạn tệ, cuối cùng lấy được tài liệu, trả lại cho chính người viết. Cô đem về nhà để đó, con gái đọc được. Nó nói: Thì ra các người tạo ra tôi như thế đấy!
Thực ra tôi và con gái Dương chẳng có quan hệ gì, lúc cô bé ra đời thì tôi đã rời Vân Nam từ lâu. Dương cũng giải thích như thế nhưng cô bé bảo tôi có thể cho tinh dịch vào ống nghiệm gửi đến Vân Nam để cho Dương thụ tinh. Nguyên văn lời cô bé nói là: Đồ rác rưởi như các người thì chuyện gì chẳng làm được.
Đêm đầu tiên khi vào đến trong núi, Dương rất hưng phấn. Buổi sáng, lúc đó sương luồn qua khe tường vào nhà, tôi đang ngủ thiếp đi thì Dương đánh thức dậy, cô bảo tôi tiếp tục, không dùng bao tránh thai vì cô muốn đẻ cho tôi đứa con, mấy năm nữa nó xệ như thế này, Dương kéo đầu vú xuống. Tôi thấy không đẹp, nói phải nghĩ cách giữ cho nó. Cho nên tôi vẫn cứ dùng bao tránh thai. Về sau Dương chẳng quan tâm đến chuyện này nữa.
Sau này gặp lại Dương, tôi hỏi, thế nào, xệ rồi chứ? Cô nói: Còn sao nữa, như quả
mướp ấy, anh có muốn xem không. Sau đó tôi có nhìn thấy, thì ra không phải. Nhưng Dương nói, sớm muộn gì rồi cũng thế, chẳng có cách nào khác.
Tôi viết xong bản kiểm điểm nộp lên, lãnh đạo rất khoái. Một tay to đầu, tham mưu trưởng hay chính ủy gì đó, gặp chúng tôi, bảo rằng thái độ chúng tôi rất tốt. Lãnh đạo tin chúng tôi không theo địch làm phản. Nhiệm vụ chủ yếu từ nay về sau là kiểm điểm quan hệ nam nữ. Nếu kiểm điểm tốt thì cho chúng tôi lấy nhau. Nhưng chúng tôi không muốn lấy nhau. Về sau lại bảo nếu kiểm điểm tốt thì cho về vùng trong, cô Dương cũng có thể được điều lên bệnh viện cấp cao. Thế là tôi ngồi phòng khách hơn một tháng để viết, tôi viết bằng giấy than, bản chính tôi cầm, bản sao đưa cho Dương. Chúng tôi có hai bản kiểm điểm hệt như nhau.
Sau đó đồng chí tổ nhân sự, thương lượng với tôi, nói rằng sẽ mở hội nghị phê phán. Những người đã từng bị tổ nhân sự thẩm tra đều phải tham gia, kể cả bọn buôn gian bán lận, tham ô và mọi kẻ xấu xa. Chúng tôi thuộc cùng một loại nhưng lãnh đạo trung đoàn nói: chúng tôi còn trẻ, thái độ kiểm điểm tốt, cho nên có thể không tham gia. Nhưng có người căn vặn, chúng tôi bị thẩm vấn sao không tham gia, tổ nhân sự khó xử. Cho nên chúng tôi phải tham gia. Quyết định cuối cùng là động viên chúng tôi tham gia. Nghe nói bị đấu tố, tư tưởng sẽ có một chấn động, về sau sẽ ít phạm sai lầm, tốt như thế sao lại không tham gia? Đến ngày họp, các đội sản xuất quanh vùng kéo về mấy ngàn người. Chúng tôi cùng với rất nhiều người đứng trên bục cao. Đợi rất lâu, nghe mấy bài phê phán lài lê thê mới đến hai can phạm Nhị, Dương. Thì ra vấn đề của chúng tôi là tư tưởng dâm ô, đồi trụy, bỏ lên núi để trốn tránh cải tạo tư tưởng. Về sau được chính sách của Đảng cảm hóa, đã xuống núi, rời bỏ con đường tối tăm. Nghe những lời như thế chúng tôi vô cùng xúc động, giơ tay hô to cùng với mọi người: Đả đảo Vương Nhị! Đả đảo Trần Thanh Dương!
Chịu trận này rồi, chúng tôi coi như được yên. Nhưng vẫn phải viết kiểm điểm vì lãnh đạo đoàn muốn xem.
Trên núi phía sau đội 15, có lần Dương rất hưng phấn, muốn đẻ cho tôi một đứa con, tôi không muốn. Sau đó tôi nghĩ, đẻ cũng chả sao, tôi nói lại thì cô không muốn nữa, nhưng cô lại nghĩ tôi muốn làm chuyện kia, cô nói, làm thì làm chẳng
sao cả. Tôi rất ít khi làm tình vì chỉ nghĩ đến mình thì ích kỷ quá. Huống chi khai hoang rất mệt, chẳng sức đâu mà làm chuyện ấy. Điều tôi có thể kiểm điểm là khi nghỉ tôi chỉ sờ ngực cô ấy thôi.
Khai hoang vào mùa hè, gió nóng hừng hực, trên người không có tí mồ hôi nào, nhưng da thịt khô rát. Khi trời nắng quá thì núp dưới bóng cây, chỉ nằm thôi chứ không ngủ được. Đầu thì gối khúc tre, nằm trên áo tơi bằng lá cọ, tôi lấy làm lạ tại sao họ không hỏi chuyện áo tơi. Đó là thứ dùng để bảo hộ lao động của nông trường, rất quý hiếm. Tôi đem vào núi hai cái, một cái vốn là của tôi, một cái tôi tiện tay quơ được ở cửa nhà người ta. Về sau tôi chẳng mang về cái nào, cho đến khi rời Vân Nam cũng chẳng ai đòi.
Khi chúng tôi nằm đất ngủ, Dương lấy nón lá úp lên mặt, mở cúc cổ áo và ngủ ngay. Tôi thò tay vào, một cảm giác tròn trĩnh và rất đẹp, sau đó tôi mở tiếp mấy cúc áo nữa, thấy làn da phớt hồng, khi làm việc bao giờ Dương cũng mặc áo nhưng ánh nắng chiếu qua lớp vải mỏng cũng vẫn nhìn được rất rõ. Còn tôi lúc nào cũng cởi trần, da đen như quỷ sứ.
Khi Dương nằm có cảm giác như đôi vú của Dương rắn chắc nhưng thực ra rất mịn màng. Sau hai mươi năm hầu như không thay đổi là bao, chỉ có núm vú to hơn và hơi đen. Dương bảo đó là tại con bé. Vừa ra đời nó đã vồ lấy cái đó mà bú như lợn, một con lợn con trắng hồng, thế rồi mẹ nó thành bà già để cho nó thành cô gái xinh đẹp như mẹ nó ngày xưa.
Có tuổi rồi, Dương trở nên nhạy cảm. Tôi gặp lại Dương trong một khách sạn để ôn lại nghĩa cũ tình xưa, nói đến những chuyện này cô có cảm giác e ngại. Hồi xưa không thế, trong bản kiểm điểm, khi viết đến cặp vú của cô, tôi còn do dự nhưng Dương bảo cứ viết thế. Tôi bảo thế thì lộ liễu quá, cô bảo lộ liễu thì lộ liễu, em không sợ! Cô còn bảo tự nhiên nó như thế chứ đâu phải trò ma mãnh gì, còn người ta nghĩ thế nào thì kệ họ, không phải việc của cô.
Qua bấy nhiêu năm trời, bây giờ tôi mới phát hiện ra rằng, Dương là vợ cũ của tôi. Chuyện thế này: Kiểm điểm xong, người ta bảo chúng tôi phải cưới nhau. Tôi thấy không cần, nhưng lãnh đạo bảo, không cưới thì rất tai tiếng, phải đi đăng ký.
Chúng tôi đi, buổi sáng đăng ký kết hôn, buổi chiều ly dị. Hồi đó rối như canh hẹ, họ quên đòi lại bản đăng ký kết hôn. Thế là Dương vẫn giữ cho đến nay. Chúng tôi mang mảnh giấy cũ nát ấy đến khách sạn, thuê một phòng hai người. Nếu không có cái đó thì không được ở chung phòng. Hai mươi năm trước không thế, chúng tôi ở cùng phòng viết kiểm điểm hàng tháng trời thì lại chẳng cần đăng ký.
Tôi viết chuyện chúng tôi ở trong núi. Lãnh đạo bảo tổ nhân sự truyền đạt lại rằng, chi tiết không cần nói nhiều, chỉ khai báo vụ án thôi. Tôi nghe mà điên tiết: Mẹ nó chứ, chuyện ấy là vụ án à? Dương bảo tôi: Thế giới này bao nhiêu người, mỗi ngày làm bao nhiêu chuyện ấy, nhưng xứng đáng được coi là vụ án đâu có nhiều. Em thấy đều là vụ án cả nhưng lãnh đạo không biết thôi. Đã thế thì anh cứ khai báo đi. Thế là tôi viết: Đêm hôm đó, chúng tôi rời ngọn núi phía sau, đi đến nơi “gây án”.
7
Sau bao nhiêu năm tôi gặp lại Dương, chúng tôi thuê phòng khách sạn. Vào phòng, tôi giúp Dương cởi áo khoác, cô bảo Vương Nhị bây giờ văn minh quá. Điều ấy cho thấy tôi đã thay đổi. Trước kia không những tướng mạo dữ dằn mà hành vi cũng hung hãn.
Tôi và Dương ở trong khách sạn lại “gây án”. Căn phòng được sưởi ấm, cửa kính màu nước trà. Tôi ngồi trên sô pha, Dương ngồi trên giường, tán chuyện một lúc rồi dần dần có vẻ muốn phạm tội. Tôi bảo, em bảo cho anh xem nó xệ thế nào mà, cho anh xem đi. Dương đứng dậy cởi áo ngoài, bên trong mặc áo lót thêu, Dương lại ngồi xuống và nói, hơi sớm quá. Lát nữa tiếp viên còn đem nước sôi đến. Họ có chìa khóa, xộc vào mà không thèm gõ cửa đâu. Tôi hỏi, khi ấy người ta nói thế nào. Dương bảo cô chưa bao giờ gặp trường hợp ấy, nhưng nghe nói, người ta sập cửa đánh rầm và chửi: đồ chết tiệt!
Trước khi vào núi, có lần tôi đang nấu rau lợn, tôi phải nhóm bếp, thái rau, gọi là rau nhưng thực ra là dây khoai và dây bầu nước, ném thêm ít đường vào nồi, đổ nước. Tôi phải cùng lúc làm bao nhiêu việc mà thằng đại diện cứ lải nhải, nói tôi xấu xa và còn bảo tôi “nói với con điếm Dương của mày”, nó cũng là đồ xấu xa. Bỗng
hắn thấy tôi nổi xung, vớ lấy một con dao dài, nhằm cái bịch treo trên xà chém phăng một nhát. Thằng này sợ quá lủi mất, nếu hắn còn tiếp tục lải nhải nữa tôi cho bay đầu. Tôi hung tợn như vậy bởi vì tôi không nói.
Về sau ở tổ nhân sự tôi cũng không nói nhiều, kể cả lúc bị trói, cho nên tay tôi bị trói đến thâm tím. Dương hay nói. Cô bảo: chị ơi trói đau quá, hoặc: chị ơi lấy khăn tay độn cho tôi, cái khăn buộc tóc tối ấy. Dương thân thiện với mọi người, đỡ khổ. Chúng tôi cái gì cũng khác nhau.
Dương bảo trước kia tôi không được văn minh lắm. Khi ở tổ nhân sự, khi người ta cởi trói cho chúng tôi, trên áo cô đầy vết bụi và nhọ than vì dây buộc củi đầy dăm và ám khói bếp, cô chỉ phủi được phía trước, định nhờ tôi phủi phía sau thì tôi đã ra đến cửa rồi, đuổi đến nơi thì tôi đã đi xa và không ngoảnh đầu lại. Do đó mà Dương chẳng thích tôi, yêu lại càng không.
Theo định nghĩa của lãnh đạo, việc chúng tôi làm trong núi, ngoài chuyện Dương như con Kaola, còn thì không tính là tội. Những việc tôi làm khi khai hoang là chuyện nhỏ, cho nên tôi không phải kiểm điểm tiếp. Thực ra còn chuyện khác nữa. Lúc đó gió nóng thổi mạnh, Dương vòng tay sau gáy làm gối, ngủ rất say. Tôi cởi toang áo, Dương để lộ ra cả thân trên, như là cố ý. Trời xanh ngắt, trong bóng mát cũng xanh, tôi bỗng động lòng, phủ phục trên tấm thân nõn nà của cô. Tôi không nhớ mình đã làm gì nữa. Tôi kể lại, tưởng Dương không nhớ. Nhưng Dương nói: “Nhớ, nhớ chứ! Lúc ấy em tỉnh rồi. Anh hôn vào rốn em đúng không? Thật nguy hiểm, xuýt nữa thì em yêu anh”.
Dương kể lúc ấy cô chợt tỉnh lại, thấy cái đầu bù xù của tôi trên bụng và một cái đụng nhẹ trên rốn. Lúc ấy cô cũng không kìm nổi, giả vờ ngủ để xem tôi còn làm gì nữa. Nhưng tôi chẳng làm gì cả, ngẩng đầu nhìn xung quanh rồi bỏ đi.
Trong bản kiểm điểm tôi viết rằng, đêm đó chúng tôi rời núi sau, đi về phía “gây án”, trên vai vác nặng đồ đạc, định ở lại trong núi phía nam. Ở đó đất tốt, hai bên đường cỏ mọc lút đầu người. Ở sau đội 15 cỏ chỉ cao nửa mét. Đêm đó có trăng, chúng tôi còn đi một đoạn quốc lộ cho nên đến mờ sáng đã đi được hai mươi kilômét, đi vào núi phía nam, chính xác là đến đồng cỏ phía nam của trại Chương
Phong, đi nữa là gặp rừng già. Chúng tôi dựng lều dưới một gốc cây to, kiếm ít phân trâu khô nhóm lửa, trải nylon trên bãi cỏ rồi cởi hết quần áo đã ướt sũng, ôm nhau ngủ trong ba cái chăn dạ quấn lại. Ngủ khoảng một giờ thì tỉnh giấc vì ba cái chăn đã ướt đầm, lửa đã tắt. Nước từ trên cây nhỏ xuống rào rào, những giọt nước bằng hạt đậu bay trong không khí. Đó là vào tháng một, mấy ngày lạnh nhất. Phía khuất của núi ẩm ướt vô cùng.
Dương nói khi tỉnh dậy, cô thấy bên tai có tiếng súng máy, hai hàm răng tôi đập vào nhau lập cập, tôi bị sốt. Tôi mà bị cảm thì lâu khỏi lắm, phải tiêm. Dương nhỏm dậy, không được, thế thì ốm cả hai. Làm chuyện ấy mau lên. Tôi không cựa quậy, nói: cố chịu đi, lát sau mặt trời mọc. Sau đó tôi hỏi: em xem liệu anh có làm được không? Tình hình trước khi “gây án” là như thế.
Còn “vụ án” thì xảy ra như sau: Dương cưỡi lên người tôi, nhún nhảy, sau lưng cô là sương mù trắng đục. Lúc ấy hình như bớt lạnh, xung quanh có tiếng mõ trâu. Ở đây người Thái không nhốt trâu, trời sáng là chúng nó tự ra, cổ trâu đeo cái mõ bằng gỗ, phát tiếng câm đục. Một con vật to đùng xuất hiện bên cạnh chúng tôi, lông treo những hạt sương, đó là một con trâu trắng, nó nghiêng đầu, một mắt nhìn chúng tôi.
Sừng trâu trắng có thể làm cán dao, trong veo rất đẹp nhưng hay bị nứt, tôi có con dao như vậy nhưng không bị nứt chuôi, lưỡi cũng cực tốt nhưng bị tổ nhân sự tịch thu mất, sau này hết chuyện, tôi đòi, họ bảo không thấy đâu. Khẩu súng cũng vậy, lão Quách ở tổ nhân sự van xin đòi mua nhưng chỉ muốn trả năm mươi tệ, cuối cùng cả dao cả súng chẳng đòi được.
Trước khi “gây án”, tôi và Dương nói chuyện rất lâu. Cuối cùng Dương cởi nốt áo lót, vẫn mặc váy đi giày da. Tôi đến bên lật tóc cô lên xem, đã có khá nhiều tóc bạc.
Dương đã phi-dê tóc, cô bảo trước kia tóc đẹp, tiếc không dám cắt. Bây giờ thì thôi, làm phó giám đốc bệnh viện, rất bận không thể ngày nào cũng gội đầu. Đuôi mắt cũng có nếp nhăn, con gái khuyên đi mỹ viện cũng chưa đi được.
Về sau Dương bảo, thôi được xem đi. Dương cởi nịt ngực. Tôi giúp một tay
nhưng không được, móc ở phía trước tôi lại đưa tay ra sau. Dương bảo xem ra anh chưa học được thói xấu và quay người lại cho tôi xem. Tôi xem rất kỹ nhận xét đôi câu. Không hiểu tại sao Dương lại đỏ mặt nói: thôi xem rồi, còn muốn gì nữa và định mặc xu-chiêng vào. Tôi nói, khoan đã, cứ để thế đi. Dương bảo, sao, lại định nghiên cứu cả cấu trúc cơ thể nữa à? Tôi bảo, tất nhiên rồi, bây giờ chưa vội, nói chuyện một lát đã. Dương càng đỏ mặt, cô bảo, Vương Nhị ơi, anh cả đời không học được cái hay, vẫn lưu manh như ngày xưa.
Hồi ở tổ nhân sự, cậu Tư đến thăm tôi, cậu ta bám trên bậu cửa sổ nhìn tôi bị trói như chiếc bánh chưng. Cậu ta nghĩ chắc tôi rất nặng, không khéo bị xử bắn bèn ném vào một bao thuốc, gọi anh Vương Nhị ơi, anh em có chút lòng thành, rồi khóc hu hu. Cậu này đa cảm, hay khóc. Tôi bảo châm thuốc đi rồi đưa vào, cậu ta làm theo, nhoài người đến trật khớp vai mới đưa đến miệng tôi được. Sau cậu ta hỏi có cần làm gì nữa không, tôi bảo không. Tôi còn nói, cậu đừng kéo đàn kéo lũ đến thăm tôi, cậu ta vâng. Cậu Tư vừa đi khỏi, lại một lũ nhóc con đến, mắt tôi bị khói thuốc làm cay sè bộ dạng không ra sao, đứa cầm đầu bảo: đồ mất dạy. Tôi bảo, thằng bố con mẹ mày mất dạy. Chúng nó không mất dạy làm sao có mày? Chúng nó bốc đất ném tôi. Khi được thả ra tôi đến tìm bố nó, tôi bảo: hôm nay tôi bị trói ở tổ nhân sự thằng bé lếu láo lấy đất ném tôi. Anh ta nghe rồi nọc con ra đánh một trận, tôi đứng xem, xong mới đi. Hồi đó Dương nghe tôi kể vậy, đã bình phẩm thế này: Vương Nhị, anh là đồ lưu manh.
Nhưng tôi đâu có phải vẫn lưu manh. Bây giờ tôi có nhà có cửa, đã học được nhiều cái hay, hút xong điếu thuốc, tôi ôm lấy Dương, rất thành thạo vuốt ve ngực cô, rồi định cởi váy. Dương bảo khoan đã, nói chuyện một lát, anh cho em xin điếu thuốc. Tôi châm thuốc đưa cho Dương.
Dương bảo, trong núi Chương Phong, lúc cô ngồi nhún nhảy trên người tôi, xung quanh sương mù dày đặc, bỗng cô cảm thấy cô đơn vô cùng, trống vắng vô cùng. Mặc dù một bộ phận cơ thể tôi đang cọ xát trong cô nhưng cô vẫn thấy sao mà cô đơn, trống vắng đến thế. Về sau tôi sống lại, tôi bảo: nào đổi nhau, em trông anh này. Tôi lật lên trên. Dương bảo, lần ấy là cái lần anh lưu manh hơn mọi lần khác.
Dương nói thế vì lúc đó tôi bỗng phát hiện bàn chân cô rất xinh xắn đẹp đẽ, tôi
bỗng ôm lấy hai chân Dương và hôn vào lòng bàn chân cô. Dương nằm ngửa, hai tay dang rộng, túm chặt lấy cỏ, rồi lắc mạnh đầu cho tóc che kín mặt, rên lên một tiếng.
Trong bản kiểm điểm tôi viết, tôi buông chân Dương, vén tóc trên mặt cô. Dương bỗng giãy giụa rất mạnh, nước mắt giàn giụa nhưng hai tay vẫn để yên, trên má cô có hai quầng đỏ rất đáng ngại. Thế rồi cô không giãy giụa nữa và nói, đồ lưu manh, anh định làm gì. Tôi bảo sao thế, cô cười, bảo không sao, làm tiếp đi, tôi lại ôm lấy đôi chân cô, cô vẫn nằm ngửa hai tay dang rộng, răng cắn chặt môi, không nói không rằng. Nếu tôi nhìn lâu một chút thì cô lại mỉm cười. Tôi nhớ mặt Dương rất trắng, tóc đen nhánh. Mọi chuyện là như thế.
Dương kể lại lúc đó cô nằm trong mưa lạnh, bỗng cảm thấy hơi lạnh thấm vào từng lỗ chân lông. Cô cảm thấy một nỗi buồn dâng lên tự trong lòng, không thể dứt ra được. Bỗng nhiên một sự hưng phấn ập xuống. Sương lạnh mưa rơi đều ngấm sâu vào tận trong cơ thể. Khoảnh khắc đó cô rất muốn chết. Cô không chịu nổi, muốn kêu lên, nhưng nhìn thấy tôi cô lại không muốn kêu nữa. Trên đời này chưa có một người đàn ông nào có thể làm cô kêu lên trước mặt họ. Cô không thấy hợp với bất kỳ một ai.
Về sau Dương kể lại mỗi lần làm tình với tôi là một lần cô bị hành hạ. Trong thâm tâm cô muốn kêu lên, muốn ôm chặt lấy tôi mà hôn như điên như dại, nhưng cô không thích, cô không muốn yêu ai cả. Tuy thế khi tôi hôn bàn chân cô thì một cảm giác chua xót đâm xuyên vào trái tim cô.
Chúng tôi làm tình trên núi Chương Phong, có con trâu già đứng bên nhìn. Sau nó ọ một tiếng rồi chạy đi, chỉ còn hai chúng tôi. Rất lâu sau, trời sáng dần. Mây mù tan, người Dương đẫm nước sáng bóng lên. Tôi buông cô ra đứng dậy, thấy đã khá gần trại bèn nói: ta đi thôi. Thế là chúng tôi đi, không trở lại nơi đó nữa.
8
Trong bản kiểm điểm tôi nói, tôi và Dương làm tình không biết bao nhiêu lần trong núi phía sau chỗ ông già Lưu. Nguyên nhân là vì vùng ấy là đất quen, canh
tác đỡ vất vả. Cuộc sống cũng yên ổn, cho nên ấm bụng thì sinh tình. Vùng đó vắng vẻ, ông già Lưu nằm chờ chết. Trên núi không mù thì mưa, Dương thắt cái dây dưng to của tôi, đeo dao vào đó, chân đi ủng, không một mảnh vải trên người.
Về sau Dương bảo cả đời cô chỉ kết bạn với một người là tôi. Cô bảo đó là vì hồi ở căn nhà nhỏ bên bờ sông tôi nói về tình thân ái vĩ đại. Người ta sống nên làm lấy vài việc, thì đó là một. Sau đó cô không kết bạn với ai cả. Một việc mà làm với nhiều người thì chẳng nghĩa lý gì.
Tôi đã có dự cảm như thế. Cho nên khi yêu cầu cô điều đó, tôi đã nói: Người ta giữ đạo vợ chồng, chúng ta có gì đâu, chỉ có tình thân ái thủy chung. Dương bảo được.
Qua mùa mưa, chúng tôi đóng giả người Thái đi chợ Thanh Bình. Chuyện sau đó tôi đã kể, tôi gặp bạn học cũ. Mặc dù hóa trang nhưng họ nhận ra ngay vì tôi cao quá, không hóa trang thành lùn được. Người ta hỏi: Anh Nhị đi đâu thế? Tôi bảo tôi không biết tiếng Hán! Tôi cố nói lơ lớ nhưng vẫn lộ tiếng Bắc Kinh. Một câu là lộ chân tướng.
Về nông trường là chủ ý của Dương. Tôi đã lên núi là không tính chuyện về. Dương theo tôi lên núi vì tình thân ái vĩ đại thì tôi không thể không cùng cô xuống núi. Thực ra tôi có thể bỏ trốn bất kỳ lúc nào, nhưng Dương không muốn.
Về sau Dương kể lại ở trên núi cô cũng thấy rất thú vị. Sương mù dày đặc, đeo dao, đi ủng lội trong mưa. Nhưng một việc làm mãi cũng chán. Cho nên cô muốn xuống núi, chịu sự vùi dập ngay trong cõi nhân gian này.
Tôi và Dương ở trong khách sạn ôn lại tình thân ái vĩ đại, nhớ lại lần xuống núi, đến một ngã tư, đi về bốn phía: một đường đi nước ngoài, một đường đi vùng trong, một đường đi về nông trường, còn một đường là nơi vừa đến. Con đường đó còn đến khu dân cư có nhiều thợ rèn người Arôn, họ là những thợ rèn đời này qua đời khác. Tôi tuy không phải gia truyền nhưng cũng có thể làm thợ rèn. Tôi rất quen họ, họ đều phục kỹ thuật của tôi. Con gái Arôn rất xinh, trên người đeo nhiều đồ trang sức bằng đồng, bằng bạc. Dương nhìn rất mê, cô rất muốn lên núi làm con gái Arôn. Khi
đó mùa mưa vừa qua đi, mây bốc lên cuồn cuộn, nắng chiếu chói chang. Chúng tôi có mọi sự lựa chọn, có thể đi mọi hướng, cho nên tôi đứng ở ngã tư rất lâu. Về sau khi tôi vào vùng trong, đứng chờ ôtô thì vẫn còn hai đường để chọn, có thể chờ tiếp hoặc về nông trường. Khi tôi theo con đường đi xuống núi, trong lòng tôi ngổn ngang trăm mối.
Dương từng nói, tôi tư chất trung bình, khéo tay nhưng đầu óc tối tăm. Nói tôi tư chất trung bình, tôi có thể không đồng ý lắm, nói tôi rất tối tăm thì có, khéo tay thì có thể thấy rõ. Tôi đúng là có khéo tay, không chỉ thể hiện khi sờ con gái. Bàn tay không to, ngón tay dài. Trên núi, những người Arôn rèn dao tốt hơn tôi nhưng khắc hoa văn trên đó thì chẳng ai bằng tôi. Do đó có ít nhất hai chục thợ rèn muốn chúng tôi dọn về ở với họ, họ rèn dao, tôi khắc hoa văn, chúng tôi thành dân làng. Nếu hồi đó dọn về ở với họ thì bây giờ chắc quên cả tiếng Hán rồi.
Dương nói tôi tư chất bình thường, rõ ràng là cô không tính đến tài năng văn chương của tôi. Tôi viết kiểm điểm ai cũng muốn xem. Khi bắt đầu viết, tôi có tâm trạng khó xử. Viết mãi rồi mê luôn vì toàn viết chuyện đã xảy ra mà những chuyện đã xảy ra có ma lực ghê gớm.
Tôi viết hết mọi chi tiết nhưng không viết chuyện đã xảy ra:
Tôi và Dương lên núi phía sau đội 15, làm tình trong căn nhà nhỏ rồi xuống khe suối đùa giỡn. Nước xói mòn hết đất đỏ còn lại đất sét xanh, chúng tôi tắm xong lên nằm sưởi nắng trên nền đất ấy. Tôi nằm sau Dương gối đầu lên tóc và đi sâu vào thân thể cô. Chúng tôi lặng lẽ, yên bình nằm với nhau, thỉnh thoảng cựa mình nhẹ. Trời tối dần, ánh nắng chuyển sang màu đỏ, chân trời nổi lên cụm mây trắng bạc. Gió hiu hiu thổi trong khe núi. Trời đất tràn ngập một nỗi buồn tê tái. Dương đầm đìa nước mắt, cô bảo không cầm lòng được trước cảnh này.
Tôi vẫn giữ bản sao những trang kiểm điểm của tôi, có lần tôi đưa cho người bạn làm văn học Anh Mỹ xem, anh ta bảo rất hay, có âm điệu của tiểu thuyết thời kỳ Victoria. Còn việc bỏ đi các chi tiết vụn vặt, anh ta bảo cũng rất hợp lý vì nó phá vỡ tính hoàn chỉnh của câu chuyện. Bạn tôi đúng là có học vấn. Tôi còn trẻ không biết tiểu thuyết thời kỳ Victoria là cái gì. Điều tôi nghĩ chỉ là đừng vẽ đường cho hươu
chạy. Bản kiểm điểm của tôi nhiều người muốn xem, giả sử họ xem rồi, không nhịn được lại đi lăng nhăng thì chẳng hay ho gì.
Bản kiểm điểm của tôi còn bỏ sót sự thật sau đây, lý do như trên đã nói. Chúng tôi đã phạm sai lầm, lẽ ra bị xử bắn, lãnh đạo đã cứu chúng tôi, cho chúng tôi được viết kiểm điểm, một sự khoan hồng quá lớn lao! Cho nên chúng tôi quyết tâm chỉ viết chúng tôi xấu xa đến thế nào.
Thời gian chúng tôi ở sau núi ông già Lưu, Dương làm một cái váy đơn giản đóng giả người Thái để đi chợ Thanh Bình, nhưng mặc vào bước đi rất vướng víu. Đến một con sông, nước trên núi xuống lạnh như băng, sâu đến bụng và chảy xiết, tôi phải vác Dương qua sông mới bỏ xuống, tôi nhớ lúc đó mặt cô đỏ rần. Tôi bảo anh có thể vác em đến tận chợ rồi vác về, còn nhanh hơn cô đi õng ẹo. Dương bảo, chỉ được cái bẻm mép.
Cái váy đơn giản như cái ống vải, chân váy chỉ rộng ba mươi phân, có thể đứng tiểu không cần ngồi, Dương bảo cô không tài nào học được cái chiêu đó. Đến chợ Thanh Bình quan sát một lát cô đưa ra kết luận nếu hóa trang thì làm con gái Arôn hơn. Đường về đi trên núi, Dương mệt lử, mỗi lần qua suối cô lại kiếm cái cây trèo lên để tôi ghé vai vào vác.
Thời tiết đầu hạ, trời đầy mây trắng, nắng chiếu rực rỡ, nhưng trong núi vẫn mưa, những mảng đất đỏ trơn trượt. Tôi cứ thế vác Dương lên dốc như lần đầu bước vào sân băng, tay phải tôi ôm chặt đùi Dương, tay trái xách súng, lưng đeo gùi, đi trên mặt dốc trơn như mỡ, rất vất vả. Một lần trượt chân chút nữa trôi xuống khe núi, may mà có khẩu súng chống xuống, tôi căng hết sức ra mới trụ lại được. Đúng lúc ấy cái của nợ trên vai tôi lại vùng vằng đòi xuống. Trận ấy tí chết.
Khi đã hoàn hồn, tôi phát hai cái nên thân vào mông Dương, cô tỏ ra ngoan ngoãn hẳn, không dám nói một câu.
Chuyện này lạc đề, tôi không viết.
9
Khi tôi và Dương làm tình ở núi Chương Phong, cô còn rất trắng, mạch máu hiện rõ trên thái dương, sau này đen sạm đi vì nắng gió, về đến nông trường lại trắng ra. Sau này đến thời kỳ quân dân cùng xây dựng biên giới, mỗi chủ nhật có một cái máy kéo to tướng chở những người có vấn đề đến lò gạch để dỡ gạch, dỡ xong lại chở đến đội sản xuất trên tuyến biên giới, nhập vào đội tuyên truyền. Xe của chúng tôi chở bọn phản cách mạng, trộm cắp, bọn theo tư bản, trai gái lăng nhăng, mâu thuẫn địch ta có cả trong nội bộ nhân dân. Làm xong việc lại tổ chức đấu tố một trận để củng cố chính trị biên phòng. Đi công tác như thế này, nhà nước nuôi, ngồi đất ăn, có dân quân vũ trang canh phòng. Ăn xong chúng tôi đứng dựa bên máy kéo, một lũ các mụ xề đến bình phẩm từ đầu tới chân. Kết luận là: da trắng thế làm sao mà chẳng lăng nhăng.
Tôi hỏi lão Quách ở tổ nhân sự, bắt chúng tôi làm những việc ấy là thế nào chỉ là để cho bên kia họ biết bên này ghê gớm lắm, không dám sang. Lẽ ra chúng tôi không phải đi nhưng chạy mãi không kiếm đủ người. Dù sao chúng tôi cũng là thứ chẳng ra gì, đi cũng được. Tôi bảo đi thì đi chẳng ngại, anh đừng có sai người ta túm tóc cô Dương. Làm quá bố mày lại vào rừng. Hắn bảo hắn không biết chuyện này, nhất định sẽ xem lại. Thực ra tôi định lên núi từ lâu nhưng Dương bảo tôi đừng đi, túm tóc thì có sao.
Khi chúng tôi bị lôi đi đấu tố, Dương mặc bộ quần áo học sinh, rộng thùng thình. Về sau cô đem đi, khi quét dọn vệ sinh vẫn còn mặc. Khi bị đấu tố, Dương rất thành thạo, hễ nghe nhắc tên chúng tôi, lập tức lấy trong cặp sách ra đôi giày giải phóng giặt sạch sẽ, buộc bằng dây gai, treo lên cổ để chờ lên sân khấu.
Dương bảo vừa tắm ở nhà, lúc ấy cô lấy áo của tôi làm áo tắm, biểu diễn cho con gái xem cảnh bị đấu. Người bẻ gập xuống nhưng mặt phải ngẩng lên cho người ta nhìn, tư thế rất giống điệu múa samba của Brazil. Cô bé hỏi thế bố con, Dương bảo bố con đi máy bay. Nó cười hơ hớ, thấy thật thú vị.
Tôi nghe mà thấy như có gai đâm. Một là, tôi không đi máy bay. Khi bị đấu có hai thằng nhóc Tứ Xuyên giải tôi, nó rất lịch sự, bao giờ cũng xin lỗi tôi trước: Anh Nhị ơi chịu khó nhé. Sau đó ấn cổ lôi tôi ra. Dương thì có hai con mất dạy đội tuyên truyền vừa bẻ cánh tay vừa túm tóc lôi đi. Theo cô nói người ta đối xử với tôi còn tệ
hơn, nói thế thì oan cho hai thằng nhóc Tứ Xuyên. Hai là, tôi không phải bố cô bé. Đấu tố xong thì có biểu diễn văn nghệ. Chúng tôi bị lôi xuống khỏi sân khấu, ném lên máy kéo, chạy suốt đêm về nông trường bộ. Cứ mỗi lần bị lôi đi đấu về là Dương có đòi hỏi tình dục rất mạnh.
Chúng tôi rời núi quay về nông trường bị đấu hết lần này đến lần khác. Có lần trung đoàn trưởng còn mời đến nhà, nhắc đến sai lầm của chúng tôi. Ông ta nói, sai lầm đó ông cũng từng mắc phải, sau đó nói chuyện tuyến tiền liệt với Dương. Lúc đó tôi cáo từ, trừ phi ông ta bảo tôi sửa đồng hồ. Có thời gian chúng tôi rất khổ, một tuần bị đấu hai lần. Chính ủy nói, người như Vương Nhị, Trần Thanh Dương không cần đấu, nếu không, ai cũng chạy lên núi cả thì nông trường làm thế nào? Ông ta nói cũng có lý, hơn nữa ông ta không bị viêm tuyến tiền liệt. Dương không vứt đôi giày, cô vẫn cất trong cặp sách để phòng xa. Một thời gian, chúng tôi không bị đấu nữa, có lần chính ủy đi họp, đoàn trưởng đến ban quân vụ bảo thả chúng tôi về vùng trong.
Về chuyện đấu tố, đầu đuôi thế này: Vùng này có một hình thức hoạt động văn nghệ truyền thống là đấu tố trai gái lăng nhăng. Đến mùa vụ, ai cũng mệt mỏi. Đội trưởng bảo, vui chơi một chút, đấu bọn lăng nhăng. Nhưng họ vui chơi thế nào thì tôi chưa được xem, họ bôi nhọ nồi lên mặt người ta, tôi không muốn nhìn.
Về sau có rất đông cán bộ đến tiếp quản nông trường, ra lệnh cấm trò này. Lý do là vi phạm chính sách. Nhưng đến thời kỳ quân dân xây dựng biên giới thì khôi phục lại. Đoàn ra lệnh chúng tôi đến trình diện tại đội tuyên truyền để chuẩn bị đấu tố. Lập tức tôi định chạy lên núi nhưng Dương không chịu đi với tôi. Cô còn nói cô xinh đẹp nhất trong đám lăng nhăng ở đây. Khi đấu cô, các đội đều kéo đến xem, cô rất hãnh diện.
Đoàn yêu cầu chúng tôi hoạt động với đội tuyên truyền, họ bảo hai chúng tôi thuộc mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, có nghĩa là tội không nặng, cần chú ý chính sách. Nhưng lại nói nếu quần chúng phẫn nộ, yêu cầu đấu chúng tôi thật gay gắt thì cũng cần linh hoạt. Kết quả là quần chúng thấy chúng tôi là phẫn nộ. Đội trưởng truyên truyền là người của đoàn trưởng, anh ta cũng tử tế với chúng tôi, chạy đến nhà khách thương lượng với chúng tôi: Bác sĩ Dương có thể chịu đựng
một chút được không? Dương bảo không sao cả. Về sau thì cô treo giày lên cổ. Nhưng mọi người vẫn chưa thỏa mãn. Anh ta đành để Dương chịu khổ thêm. Cuối cùng anh ta bảo ai cũng hiểu cả tôi không nói nữa. Xin hai vị cố thêm chút nữa.
Mỗi khi bị đấu, chúng tôi chờ ở vườn chuối, nơi đó là hậu đài. Khi sắp đến lượt, Dương đứng dậy, bỏ cặp tóc xuống, ngậm trong miệng, sửa sang rồi lần lượt cặp lại, bẻ cổ áo, kéo ống tay xuống, chắp tay ra sau chờ trói.
Dương bảo họ dùng lạt tre, dây cọ để trói, làm sưng tay cô vì vậy cô mang dây phơi bằng vải ở nhà đến. Người ta còn cằn nhằn, con gái khó trói, chỗ nào cũng tròn trịa, dây không ăn. Thế là hai bàn tay to lớn tóm lấy cổ tay cô từ phía sau, hai bàn tay nữa quấn chặt lại.
Người ta dẫn Dương ra, đằng sau có người túm tóc không cho nhìn sang hai bên, không cho cúi xuống, cho nên cô đi cứ phải nghiêng nghiêng đầu nhìn ánh sáng trắng xanh của ngọn đèn măng sông, có lúc cô thẳng đầu nhìn thấy những bộ mặt lạ và mỉm cười với họ. Lúc ấy cô nghĩ đây là một thế giới xa lạ, cô chẳng hiểu họ đang làm gì.
Dương chỉ hiểu, bây giờ cô là kẻ lăng nhăng. Dây quấn quanh mình như mặc chiếc áo bó, lộ hết những đường cong. Cô nhìn thấy đũng quần bọn đàn ông nhô lên, cô biết là tại cô, nhưng vì sao lại thế thì cô không hiểu.
Dương bảo khi đấu, họ đều túm tóc cô rồi bắt cô nhìn bốn phía, do đó bao giờ cô cũng bện tóc thành hai đuôi sam, quấn chặt bằng dây chun để tiện cho họ nắm. Cô bị người ta vặn vẹo và nhìn thấy tất cả, tất cả đều ghi lại trong tim cô. Nhưng cô không hiểu gì hết. Tuy vậy cô rất vui, điều người ta muốn cô làm thì cô đã làm, còn lại cô chẳng cần quan tâm điều gì. Dương đã đứng trên sân khấu diễn vai một kẻ lăng nhăng như thế đó.
Đấu xong, đến mục biểu diễn văn nghệ, tất nhiên chúng tôi đâu có đủ tư cách để xem. Chúng tôi bị giải lên máy kéo về nông trường bộ. Lái xe sốt ruột về nhà ngủ cho nên đã nổ máy sẵn. Vì thế Dương chưa kịp cởi dây trói. Tôi phải bế lên, sau đó xe rất xóc, trời lại tối đen, không tài nào cởi được. Về đến nơi tôi bế phắt cô vào
phòng, có đèn mới cởi dần ra được. Lúc đó sắc mặt Dương hồng lên, cô nói: Làm chút tình thân ái vĩ đại được không? Người ta không chờ được nữa đâu!
Dương bảo, khoảnh khắc đó, cảm thấy mình như một hộp quà tặng, đang mở giấy gói, trong lòng hân hoan sung sướng, trút bỏ hết mọi ưu phiền, chẳng cần phải nghĩ tại sao mình lăng nhăng và lăng nhăng là cái gì, cùng những thứ khó hiểu khác như tại sao chúng mình lại đến đây, đến để làm gì, vân vân. Bây giờ cô đã trao thân mình vào tay tôi rồi.
Lần nào cũng vậy, sau cuộc đấu tố là Dương lại đòi tình thân ái vĩ đại. Làm ngay trên bàn, nơi tôi viết kiểm điểm. Độ cao vừa vặn, Dương ngồi trên bàn bám vào tôi như con Kaola, có lúc hứng chí còn kêu lên. Khi ấy đèn tắt, chẳng nhìn thấy bộ dạng của cô. Cửa sổ phía sau bao giờ cũng mở, sát đó là sườn núi rất dốc, luôn luôn có người ngó nghiêng như con quạ đậu trên bậu cửa. Trên bàn bao giờ cũng có ít trái lê núi, cứng không cắn được, chỉ để cho lợn ăn. Có lúc Dương cầm ném qua vai tôi, bách phát bách trúng, người bị ném lăn lông lốc xuống dốc. Cách ấy chẳng có lợi gì cho tôi vì mất hứng. Chẳng giấu gì bạn, tôi sợ họ chết. Việc này có thể đưa vào bản kiểm điểm, nhưng tôi sợ người ta lại bảo tôi trong thời gian thẩm vấn lại tiếp tục phạm sai lầm, tội lại nặng thêm.
10
Về sau, chúng tôi ôn lại tình thân ái vĩ đại trong khách sạn. Chúng tôi nhắc lại mọi chuyện thời đó, người ta định đập chết chúng tôi nhưng chúng tôi không chết. Bây giờ mọi thứ của tôi vẫn cứng rắn như xưa, vì tình thân ái vĩ đại tôi có thể tồng ngồng chạy ba vòng trên phố. Cái thằng tôi xưa nay mặt trơ trán bóng. Cho dù thế nào đi nữa, hồi đó vẫn là thời đại hoàng kim của tôi, cho dù người ta gọi tôi là lưu manh. Tôi quen biết khá nhiều người ở đó, kể cả người dắt ngựa thồ, người dân tộc trên núi cao. Nhắc đến Vương Nhị biết chữa đồng hồ ai cũng biết. Tôi ngồi với họ bên bếp lửa, uống rượu hai hào một cân, có thể uống rất nhiều, tôi được họ yêu mến.
Ngoài ra, bọn lợn trong chuồng cũng thích tôi, vì tôi cho đường gấp ba bình thường. Sau cãi nhau với cán bộ hậu cần, tôi nói lợn của ta đều được no, đúng
không. Trong con người tôi có rất nhiều tình thân ái vĩ đại, muốn đem cho mọi người nhưng chẳng ai cần cho nên tôi trút hết cho Dương.
Tôi và Dương thể hiện tình thân ái vĩ đại ở khách sạn chỉ để cho vui, giữa chừng tôi rút ra một lần thấy có chút máu. Dương bảo có tuổi rồi, niêm mạc mỏng, anh đừng làm mạnh quá. Cô còn bảo, ở Vân Nam lâu quá trở về bắc, tay nứt nẻ cả, dầu hàu chất lượng xấu quá bôi chẳng ăn thua gì, Dương lấy ra một lọ glycérine thoa cho tôi, sau đó làm tình chính diện để dễ nói chuyện. Tôi nằm giữa hai đùi dang rộng của Dương.
Mặt Dương có nhiều nếp nhăn li ti, dưới ánh sáng chúng như những sợi vàng. Tôi hôn môi, Dương không phản đối, bởi vì đôi môi mềm và hé mở. Trước kia cô không cho tôi hôn môi, bảo hôn vào giữa cổ và cằm kích thích mạnh hơn. Chúng tôi lại nói chuyện ngày xưa.
Dương bảo đó cũng là thời hoàng kim của cô. Tuy rằng mọi người bảo cô lăng nhăng nhưng cô trong sạch và vô tội. Đến hôm nay cô vẫn vô tội. Nghe thế tôi bật cười. Dương bảo việc chúng tôi làm chẳng tội tình gì. Chúng tôi có tình thân ái vĩ đại, cùng nhau bỏ trốn, cùng bị đấu tố, sau hai mươi năm lại gặp nhau, cô giang hai chân cho tôi nằm vào, cho nên coi là có tội, cô chẳng biết tội ở chỗ nào. Điều quan trọng là cô chẳng hiểu gì về tội lỗi cả.
Thế rồi Dương thở gấp, mặt đỏ lựng, hai đùi kẹp chặt, cơ thể căng cứng trong vòng tay tôi, tiếng kêu bị kìm nén lọt qua hàm răng nghiến chặt. Rất lâu mới thả lỏng, lúc ấy Dương mới nói tuyệt diệu quá.
Sau khi tuyệt diệu quá, Dương lại bảo chẳng có tội tình gì. Bởi vì cô chẳng hiểu gì hết, như Socrates([1]). Mặc dù đã sống hơn bốn mươi năm, trước mắt vẫn là một thế giới mới lạ. Cô không hiểu tại sao người ta lại đẩy cô đến Vân Nam hoang vắng như thế, cũng không biết tại sao lại thả cô về. Không biết tại sao nói cô lăng nhăng, bắt giải lên sân khấu để đấu tố, cũng không biết tại sao bảo cô không lăng nhăng, rút lại hồ sơ đã viết. Những việc đó đã được giải thích đủ kiểu nhưng cô chẳng hiểu gì cả. Cô không biết, cho nên cô không có tội. Tất cả các cuốn sách về luật pháp đều nói như thế.
Dương bảo, con người ta sống trên thế gian này chính là để chịu đày đọa cho đến chết. Nghĩ thế rồi thì thanh thản. Cũng nên nói tại sao cô lại có kiến giải như vậy, tất cả đều phải đi ngược lại đến lúc tôi ở bệnh viện về, qua chỗ cô và đi vào núi. Tôi bảo Dương đến thăm tôi, cô do dự mãi. Khi đã quyết, cô vượt qua nắng gió giữa trưa hè đến lều của tôi, khoảnh khắc ấy cô có nhiều tưởng tượng rất đẹp. Đến khi bước vào lều, cô thấy tôi trần như nhộng nhìn thấy hạ bộ tôi như một dụng cụ tra tấn xấu xa. Cô hoảng hốt kêu lên và mất hết hy vọng.
Khi cô đi tìm tôi, thấy trong rừng cây có rất nhiều ruồi vàng bay. Gió từ các nơi thổi đến luồn qua áo mỏng lan đi khắp người. Nơi tôi ở không một vết chân người. Ánh nắng mùa hè như đang thả xuống vô vàn mảnh mica lấp lánh. Dưới tấm áo choàng thì cô chẳng còn gì trên người, lúc đó tâm trí cô tràn đầy những hy vọng viển vông. Nhưng dù sao đó cũng là thời đại hoàng kim của cô, tuy rằng mọi người bảo cô lăng nhăng.
Dương đi tìm tôi,vượt qua những ngọn đồi trọc, gió thổi luồn trong áo, luồn qua những vùng nhạy cảm tình dục trên da thịt cô, khi đó sự thèm muốn rạo rực khó nắm bắt, như gió vậy. Nó lan tỏa như cơn gió trên đồng hoang. Cô nghĩ đến tình thân ái vĩ đại của chúng tôi, nhớ lại lúc tôi hấp tấp xuống núi, cô còn nhớ tóc tôi rối bời, khi chứng minh cô lăng nhăng thì đôi mắt nhìn thẳng vào cô. Cô thấy cần tôi, chúng ta có thể cặp với nhau thành một đôi đực cái. Giống như hồi bé bò qua bậc cửa cảm nhận được làn gió bên ngoài, trời xanh, nắng rực rỡ, chim bồ câu bay. Tiếng gù của chim bồ câu suốt đời không quên. Bây giờ Dương muốn nói chuyện với tôi y như hồi đó cô muốn hòa làm một với thế giới bên ngoài, tan biến vào đất trời. Nếu trên đời này chỉ còn mình cô thì cô đơn quá.
Khi đến lều của tôi, cô nghĩ đến tất cả nhưng không nghĩ đến cái thân dưới của tôi như thế. Nó xấu xí quá, không đáng xuất hiện trong sự mơ mộng của cô. Cô muốn khóc thật to mà không khóc được, như có người bóp lấy họng. Cái gọi là chân thành đây ư. Sự chân thành không tỉnh dậy nữa. Khoảnh khắc đó cô biết rằng trên đời này còn có những gì nữa, sau đó cô quyết định, bước tới và tiếp nhận sự đày đọa với sự vui sướng vô hạn.
Cô còn nói, khoảnh khắc ấy cô nhớ lại hồi nhỏ mặc áo bông, vất vả bò qua được
bậu cửa để ra sân thì bụi bay vào mắt, cô đau đến không chịu nổi và bật khóc nức nở mà chẳng bớt đau. Cho đến khi gặp tôi trong lều, không phải lần đầu cô nhìn thấy cái ấy, nhưng trước đó cô không tin trên đời này lại có cái thứ ấy.
Dương kể, đứng trước cái xấu xa, cô nghĩ đến tình thân ái vĩ đại. Hồi đại học có một cô gái xấu như ma (hay là xấu như cái này) cứ muốn ngủ cùng giường với cô. Không những thế đang đêm còn đòi hôn môi cô, sờ vú cô. Nói thực lòng, cô không thích cái thói ấy nhưng vì tình bạn nên cô cố chịu. Bây giờ thì nó đang giơ nanh múa vuốt ở đây, cái nó đòi hỏi cũng như thế. Thôi thì cho nó được toại nguyện, coi như tình cảm bạn bè. Thế là cô bước tới, chôn sâu cái xấu xa và tràn ngập vui sướng.
Dương bảo lúc đó cô vẫn nghĩ mình vô tội. Thậm chí khi chúng tôi trốn sâu vào rừng, hầu như ngày nào cũng thể hiện tình thân ái vĩ đại. Cô bảo, không thể bảo cô xấu xa, hoàn toàn không, vì cô không hề biết tôi và cái của tôi tại sao lại như vậy, cô làm thế là vì tình thân ái vĩ đại, đó là một lời thề ước. Giữ chữ tín không thể là có tội. Cô đã hứa giúp đỡ tôi trong tất cả mọi việc. Nhưng cái lần bị trơn trượt trên núi, tôi đã phát mạnh vào mông cô hai cái, làm vấy bẩn hoàn toàn sự trong trắng của cô.
11
Tôi đã để rất nhiều thời gian viết kiểm điểm nhưng lãnh đạo bảo kiểm điểm chưa triệt để, phải viết tiếp. Cho nên tôi nghĩ nửa cuối cuộc đời tôi sẽ sống trong kiểm điểm. Cuối cùng Dương viết một bản kiểm điểm rồi đưa cho tổ nhân sự, không đưa tôi xem. Từ đó họ không bắt chúng tôi viết nữa. Không những thế, cũng không lôi chúng tôi ra đấu nữa. Hơn nữa, Dương trở nên lạnh nhạt với tôi, một thời gian tôi sống vô vị, chán chường, bỏ về vùng trong. Cô viết những gì tôi không thể nào đoán ra được.
Từ Vân Nam về tôi mất hết: khẩu súng, con dao, mọi dụng cụ làm việc. Chỉ có hồ sơ thì dày cộp lên. Trong đó là những tài liệu chính tay tôi viết, từ đó bất kỳ đi đến đâu người ta đều biết tôi là lưu manh. Cái được lợi là về thành phố sớm hơn mọi người, nhưng về sớm cũng chẳng hay ho gì, lại phải cắm ở ngoại ô Bắc Kinh.
Tôi đến Vân Nam mang theo dụng cụ chữa đồng hồ. Thời gian sống ở chỗ ông già Lưu, tôi chữa đồng hồ cho người ta, tuy là nơi vắng vẻ nhưng có một số đoàn ngựa thồ qua đó. Có người nhờ tôi giám định đồng hồ buôn lậu, tôi bảo giá bao nhiêu là bấy nhiêu. Tất nhiên tôi không làm không công. Cho nên tôi sống trong núi khá dễ chịu. Nếu không xuống núi thì bây giờ tôi có bạc vạn.
Còn khẩu súng hai nòng của tôi cũng là đồ quý. Ở đây súng carbin, súng khai hậu có nhiều, còn súng hai nòng không hề có. Nòng to lại có những hai nòng, trông cũng đáng sợ, nếu không người ta đã bắt chúng tôi đi rồi. Tôi, ông già Lưu thì người ta không bắt đâu mà chưa biết chừng sẽ bắt Dương đi. Con dao của tôi lúc nào cũng đeo bên hông. Khi ngủ, khi làm tình cũng không bỏ ra. Dương thấy đeo dao rất oai. Cho nên có thể nói con dao đã thuộc về Dương. Dao và súng đã bị tổ nhân sự lấy đi. Hòm dụng cụ thì để lại trên núi để phòng lúc gặp chuyện gì thì lại chạy lên. Khi rời Vân Nam, vội vàng chẳng kịp lên lấy, thế là tôi hoàn toàn trắng tay.
Tôi nói với Dương, tôi không thể nào nghĩ ra cô đã viết gì trong bản kiểm điểm cuối cùng. Cô bảo bây giờ chưa nói được, cô muốn nói một chuyện nhưng đợi đến lúc chia tay. Hôm sau Dương về Thượng Hải, cô bảo tôi đưa cô ra ga.
Dương và tôi khác nhau hoàn toàn. Trời sáng, Dương tắm nước lạnh (hết nước nóng) rồi mặc quần áo, từ trong đến ngoài đều toát lên vẻ lady, còn tôi từ trong đến ngoài đều đặc sệt lưu manh. Thảo nào người ta trả bản kiểm điểm của cô, còn của tôi thì họ giữ lại. Có nghĩa là màng trinh rách của cô đã liền lại. Còn tôi vốn chẳng có cái đó. Hơn nữa tôi còn phạm tội lôi kéo người khác. Chúng tôi cùng nhau phạm rất nhiều tội nhưng Dương thì không biết tội cho nên tất cả đổ lên đầu tôi.
Chúng tôi thanh toán tiền khách sạn rồi đi ra phố. Lúc đó tôi nghĩ, bản kiểm điểm của Dương chắc là đầy chất dâm ô. Những người đọc bản kiểm điểm đều là gan lim dạ sắt, trình độ cao siêu, lay động được những người như thế thì ghê thật. Dương bảo, cô chẳng viết gì cả, chỉ viết về cái tội thật sự của cô.
Tội thật sự mà cô nói, đó là hôm đi trên núi Thanh Bình, cô mặc váy bó, được tôi vác trên vai, tóc rũ đến lưng tôi. Trên trời mây trắng bồng bềnh, xung quanh vắng lặng, chỉ có hai chúng tôi. Tôi vừa phát hai cái vào mông cô, rất mạnh, cảm giác
bỏng rát như lửa đốt lan ra. Đánh xong, tôi cứ cắm cổ đi mặc kệ mọi thứ xung quanh.
Dương bảo, khoảnh khắc đó cô cảm thấy toàn thân rã rời, tê dại vắt trên vai tôi. Cô thấy mình như dây leo quấn thân cây, như chim nuôi trong lồng. Cô chẳng muốn để tâm đến bất cứ điều gì nữa và quên hết mọi chuyện. Chính trong khoảnh khắc ấy cô đã yêu tôi, yêu thật sự và điều đó không bao giờ thay đổi.
Lúc ở ga, Dương bảo cô nộp lên, đoàn trưởng cầm lấy đọc ngay. Đọc xong mặt đỏ gay như cái của anh. Về sau ai đọc mặt cũng đỏ như gấc chín ai cũng như cái ấy. Tổ nhân sự gặp cô mấy lần, bảo cô viết lại nhưng cô nói, đó là sự thật, không thể sửa một chữ nào. Họ đành để vào túi hồ sơ của chúng tôi.
Dương bảo nhận cái đó tức là nhận mọi tội lỗi. Ở tổ nhân sự, người cho cô xem đủ loại bản kiểm điểm để cho cô thấy chẳng ai kiểm điểm như cô cả. Nhưng cô cứ viết thế. Dương bảo sở dĩ cuối cùng cô viết chuyện ấy ra vì nó xấu xa hơn tất cả những gì cô đã làm. Trước kia cô thừa nhận là đã dạng chân ra, bây giờ cô viết thêm, cô làm những điều đó vì cô thích làm. Làm và thích làm khác nhau lắm. Làm thì phải đấu tố, thích làm thì phải cho ngựa xé xác và băm vằm. Nhưng chẳng ai có quyền xé xác chúng tôi cho nên họ đành thả chúng tôi ra.
[1] Triết gia Hy Lạp lừng danh 470-399 TCN, người từng nói: Ta chỉ biết mỗi một điều là ta không hiểu gì cả (ND).
TÌNH YÊU THỜI CÁCH MẠNG
Lời tựa
Đây là một cuốn sách nói về làm tình. Làm tình có sức mạnh thôi thúc bên trong, nhưng tự phát thì nhiều khi không được phép, nó làm cho sự việc trở nên phức tạp. Thí dụ, Di Hòa Viên ở phía bắc nhà tôi, nếu không có cái gọi là hướng bắc thì tôi phải đi về hướng nam, qua nam cực và bắc cực, đi hơn bốn vạn kilômét mới đến được. Điều tôi muốn nói là: người ta có thể giải thích mọi thứ một cách khiên cưỡng, kể cả chuyện làm tình. Do đó làm tình cũng có thể có lý do không đáng tin.
Tác giả
16-7-1993
Về cuốn tiểu thuyết này:
Mùa hè năm 1993, Vương Nhị 42 tuổi, làm việc tại một cơ quan nghiên cứu. Trong tác phẩm của tác giả, anh ta có nhiều bạn trùng tên. Chính tác giả hồi trẻ người ta cũng gọi là “Vương Nhị”, cho nên anh ta cũng là anh em trùng tên với tác giả. Không như các Vương Nhị khác, anh ta người thấp bé, rắn chắc, tóc dày râu rậm, chưa về địa phương lao động.
Chương 1
1
Thời trẻ Vương Nhị là công nhân tại một nhà máy đậu phụ Bắc Kinh. Đó là một nơi tạp phí lù, người ta bảo xưa kia là hội quán của một tỉnh nào đó. Như vậy có nghĩa là khi kinh thành còn là một thành trì xây bằng gạch xám thì đã có một số thương gia của tỉnh nào đó góp tiền xây một khu nhà cho những người đi thi hoặc tiến cử đến Bắc Kinh trú tạm. Chuyện ấy đã xa xưa lắm rồi. Đó là khu nhà xây bằng gạch nhỏ ngói nhỏ màu xám, rất cổ lỗ. Chắc đã từng có cổng lầu cao, trước cổng có những thứ như bia đá xuống ngựa, cột đá buộc ngựa, sau không còn nữa, chỉ có cột
cổng bằng xi măng và cánh cổng bằng rào sắt, phía trong cổng có một đoạn đường ngắn cho ô tô chở đậu phụ ra vào. Rìa đường có một dãy nhà lợp mái tôn, là nơi để xe đạp của công nhân. Cuối dãy có một ngôi nhà nhỏ, xây gạch đỏ, bốn mùa xuân hạ thu đông nồng nặc mùi xú uế, đèn sáng thâu đêm suốt sáng, đó là nhà xí. Có lần phía trong tường vẽ đàn bà cởi truồng, người ta bảo là Vương Nhị vẽ.
Thời gian Vương Nhị làm ở đó, mùa đông bầu trời Bắc Kinh lúc nào cũng một màu đỏ tía, đó là màu khí anhydrit suynfuya và khói than phun ra từ hơn một triệu cái lò. Ánh mặt trời khi lọt được xuống đã để lại các màu khác ở trên cao. Vương Nhị có trí nhớ rất tốt về màu sắc. Nhưng bạn có tin hay không thì tùy, anh ta là người mù màu. Biết thế cho nên anh ta không học vẽ, đỡ được bao nhiêu phiền toái.
Ở nhà máy chẳng ai biết anh ta mù màu, không thể trở thành họa sĩ được. Họ chỉ biết ngón tay phải của anh ta đen đen, mà người khác thì không. Điều đó cho thấy rằng anh ta hay cầm than để vẽ, người khác thì không vẽ, nét vẽ trên tường lại đúng là bằng than. Ngoài ra bức vẽ chỉ nguệch ngoạc mấy nét nhưng tỏ ra rất lão luyện, rõ ràng phải hay vẽ mới vẽ được như thế. Tất cả những điều đó chứng minh rằng anh ta vẽ. Bức vẽ có lâu rồi, chẳng ai để ý nhưng từ khi có người vẽ thêm những sợi lông tua tủa bằng bút chì và một cái tên người thì câu chuyện trở nên nghiêm trọng. Theo anh người vẽ đầu tiên và người vẽ thêm là hai người khác nhau. Nhưng chẳng ai chịu nghe. Người ta đã quét vôi trắng lên, nhưng chỉ được mấy ngày lại có ai đó vẽ lên như trước và cũng lại có người thêm thắt vào, rõ ràng là cố tình làm bậy. Bạn biết không, cái tên người ta viết bên cạnh hình người đàn bà là “Lão Lỗ”, đó là tên người đứng đầu nhà máy đậu (chủ nhiệm ủy ban cách mạng). Mụ này bốn lăm bốn sáu tuổi, béo trùng trục, hai má đỏ bóng như thoa mỡ. Mụ ta nói sa sả như cãi nhau, có lúc tóc dựng lên như đuôi công. Mụ ta đứng đầu, có nghĩa là trên cử đến. Có hay không có mụ thì đậu phụ vẫn ra, vẫn bán. Nhưng chẳng ai muốn gây chuyện với mụ. Lúc đó chẳng có chứng cớ gì bảo là Vương Nhị vẽ nhưng mụ ta thường xấn tới Vương Nhị như muốn xé xác anh. May mà xung quanh có người có thể ngăn mụ ta lại. Sau đó mụ nhổ nước bọt vào anh ta. Nhổ nước bọt muốn cho trúng thì phải tập luyện và phổi phải khỏe, nhưng mụ Lỗ không có khả năng ấy cho nên toàn nhổ vào người khác.
Người vẽ khuyết danh đó phải vẽ trong thời gian chưa đến năm giây, nhưng năm giây đó làm cho Vương Nhị lận đận cả một đời.
Vương Nhị làm công nhân ở đó vào năm 1973, lúc đó thành phố Bắc Kinh rất nhếch nhác, người thành phố ăn mặc rách rưới. Hồi đó đâu biết mốt thời trang, đâu biết trào lưu ăn diện. Không có âm nhạc thịnh hành, không có phim ảnh đáng xem, tâm trạng trống rỗng ai cũng chỉ muốn gây sự với người khác.
Năm 1973 đã qua lâu rồi, vẽ bậy trong nhà xí vẫn là việc thường thấy, người như mụ Lỗ chẳng có gì lạ lẫm với mọi người. Cho nên nhìn thấy những điều đã nói trên cũng như xem bức ảnh thông tấn đã lỗi thời, chẳng còn gì hấp dẫn người ta nữa. Chỉ có một trường hợp sẽ làm cho nó thay đổi, đó là anh chàng Vương Nhị đó lại là chính bạn. Nếu thế thì mọi thứ lại khác.
2
Hồi nhỏ tôi muốn là họa sĩ, nhưng không thành vì tôi mù màu. Tôi thường nghi ngờ tôi có đủ thứ tật, nhưng không có, thí dụ tôi nghi mình bị bệnh thần kinh, mộng du… đều không phải. Do đó cách hoài nghi cho đúng là: muốn làm họa sĩ thì nghi mình mù màu, muốn làm nhạc sĩ thì nghi mình điếc, muốn làm nhà tư tưởng thì nghi mình đần độn. Nếu không có tật ấy thì bạn sẽ không trở thành được người như thế. Tất nhiên nguyên nhân tôi muốn làm họa sĩ, ngoài mù màu còn nguyên nhân khác nữa tôi sẽ dần dà nói sau.
Mấy năm trước, vào mùa hè, tôi đi châu Âu chơi cùng với vợ, cả hai chúng tôi đều là sinh viên, đi nhân dịp nghỉ hè. Tôi đã từng làm công nhân, dạy học, nhưng lâu nhất là sinh viên. Chúng tôi đi nhiều nơi, cuối cùng đến Bỉ, ở Brussels có một phòng trưng bày tranh nghệ thuật hiện đại, mặc dù chúng tôi không hiểu gì về tranh hiện đại nhưng cứ đi xem để tỏ ra mình là người có văn hóa. Phòng trưng bày ở dưới lòng đất như một cái giếng to, có cầu thang xoắn ốc đi xuống tận đáy giếng. Tôi đi xuống, bên trái là tường kính trong suốt, bên phải là tường xây trắng muốt, treo một số tranh hiện đại. Tôi đến trước bức tranh của Dali([1])thấy những cái tháp lơ lửng trên không, người ngựa chân thon dài vươn tới trời. Lúc đó tay phải tôi bị chuột rút, ngón trỏ vẹo vọ, không biết bị bệnh gì. Mãi sau mới biết thì ra nó ngọ
nguậy muốn viết chữ vi , phồn thể. Cái tật này trước đây cũng có, hơn nữa khi nằm mê thường thấy chữ vi như cái đầu trâu to tướng trên bức tường đỏ. Tôi ngồi trong phòng trưng bày khá lâu, nhớ lại một chuyện thời nhỏ. Hồi đó tôi sống trong một trường đại học, một hôm tôi chạy ra khỏi nhà thấy khắp nơi đều căng những biểu ngữ chữ lớn viết bằng phấn trắng, “vì 1070” (nghĩa là vì 1070- ND), tôi nhớ rất kỹ dáng chữ, kể cả các hạt phấn xung quanh, nhưng tôi chưa biết chữ vi như đầu trâu, số 1 như đuôi trâu. Tôi đến sân vận động thấy rất nhiều người cao lớn, đội mũ sắt tay cầm gậy sắt dài đang đi tới đi lui. Trời màu tím, có tiếng gì inh tai từ trên cao dội xuống, tôi phải đứng lại bịt lấy tai. Có mấy lần người ta bảo, trẻ con đi về nhà, ở đây nguy hiểm, nhưng tôi cứ đi.
Đó là năm 1958, tôi đến sân vận động, đi giữa nhưng kiến trúc kỳ dị, trên đỉnh những kiến trúc đó bốc ra khói tím cuồn cuộn lên không trung, xung quanh có tiếng ì ầm thần bí, tôi như đi giữa hàng ngàn hàng vạn con bọ hung đang bay.
Lần sau tôi lại đến đó, tôi cùng mọi người ào đến trước những kiến trúc kỳ dị đó, họ cầm thanh sắt thúc vào tường và moi ra những cục gì đỏ rực hình thù như cứt trâu. Tôi đứng xa mà thấy mặt nóng rát. Bây giờ tôi mới hiểu đó là gang đang ra lò trong khâu luyện thép. Anh tôi lúc đó đang học tiểu học thường cùng bọn trẻ con đồng trang lứa đến nhà những người nông dân gần đó miệng gào: “luyện gang thép” rồi xông vào xách nồi chảo bằng gang, bằng sắt của họ đi, đem đến quảng trường đập vỡ nát, sau khi cho vào lò luyện thì chúng dính lại với nhau. Lúc đó tôi như đang mơ và sướng như điên – tuy rằng ở đó rất đông người nhưng hình như chỉ mình tôi là sướng, đã là mê thì mọi người đều là giả, chỉ có tôi là thật. Sau này xem tranh siêu thực của Dali tôi thấy như ông vẽ quang cảnh đó. Khi phong trào luyện thép qua đi, tôi thấy thất vọng vô cùng.
Hồi ở Brussels, tôi thấy trên bức tranh của Dali có một người bé nhỏ cởi truồng nhảy nhót vui sướng, chắc đó là chính ông. Tôi chưa đến Tây Ban Nha nhưng biết ở đó có những cái tháp lạ mắt, có những ngày hội phát cuồng tập thể, mọi người hóa trang kỳ dị. Mặc dù không biết hồi ba tuổi ông đã thấy cảnh tượng kỳ quái gì để tưởng rằng mình có giấc mơ lạ lùng thế rồi vui sướng một cách điên cuồng như vậy. Khái niệm ngày hội cuồng hoan không khó lắm, đến bốn, năm tuổi thì hiểu được.
Còn phong trào luyện gang thép là gì thì đến mười mấy tuổi vẫn chưa hiểu. Tôi sinh 1952, đến 1958 mới 6 tuổi sống trong trường đại học, không hiểu cái loa kêu quàng quạc, cái máy thổi gió ù ù, 1070 là số tấn thép phải sản xuất trong một năm, những cây gậy sắt trong tay những anh sinh viên to con là thanh chọc lò, còn những cái lò ta, lò tây là cái gì thì tôi chẳng hiểu gì. Huống hồ ngày đó toàn những việc đầu voi đuôi chuột, rồi cũng bị quên lãng, lại càng giống một giấc mơ. Cho đến năm tôi hai mươi tuổi nhìn vết sẹo trên tay mới nhớ lại tất cả. Hôm đó tôi xem ra gang xong thì đi về, vấp ngã bên cạnh đống gang suýt gãy tay. Câu chuyện thảm quá không nằm lại được trong ký ức, theo cách nói của Freud([2]), đó là kìm nén. Kìm nén mười mấy năm mới nhớ lại, hôm đó không những tôi chảy rất nhiều máu mà cha tôi còn xách tai đến bệnh viện. Tôi không trách ông. Nhà tôi đông con, đứa nào cũng gãy tay thì nhịn đói. Sau này tôi nghĩ luyện đến mấy giờ đồng hồ, miếng gang còn có thể cứa đứt tay tôi, xét theo góc độ công nghệ luyện kim thì lò lạnh quá. Tôi đem chuyện này hỏi một vị giáo sư luyện kim, năm 1958 dùng lò đất đáy bằng có thể luyện ra thép không? Ông nói, nếu đừng thổi không khí mà thổi oxy thì sẽ không ra xỉ than mà ra than cốc chất lượng cao và đạt được nhiệt độ luyện thép, sau ông nói thêm là không được vì ở nhiệt độ như thế thì lò đất đáy bằng cũng tiêu rồi. Lò đất đáy bằng, có dính chữ “đất” không phải đất chịu lửa mà là gạch xây, ống khói dị dạng trên nóc là ống sành tạp nham thường dùng làm ống thoát nước ngầm, phong trào luyện gang thép đưa nó lên trời. Con người ta cũng biết nhục, phong trào qua đi thì họ phá dỡ hết, san đất phẳng phiu như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng vẫn có thể tìm thấy tàn tích, ở nơi khuất nẻo trong sân trong cỏ dại vẫn còn thấy những đống gạch sùi bọt sành, sạm đen – cho thấy lò lạnh cũng có thể đốt cháy thứ gạch người ta dùng để xây lò thép nhiệt độ cao. Những viên gạch méo mó ấy để lại ấn tượng cực kỳ sâu sắc. Những thứ ấy tôi có thể tìm thấy trong phòng trưng bày tranh siêu thực. Chúng ta ai cũng còn những ký ức ấy, có điều không ai nhắc và cũng không ai vẽ cho nên nó bị lãng quên. Nhắc lại những việc đó, cho thấy rằng tôi đủ sức làm một họa sĩ. Hơn nữa có một thời thơ ấu quái đản như tôi thì còn có thể trở thành cái gì thích hợp hơn là thành họa sĩ. Nhưng tôi không là họa sĩ vì tôi mù màu. Trước khi tôi hăm sáu tuổi không ai biết điều này, kể cả tôi. Điều đó cho thấy tôi không mù màu, cùng lắm chỉ là mờ màu thôi. Nhưng bác sĩ đã kiểm tra ra. Tôi không làm nghệ thuật nữa mà chuyên tâm học toán.
3
Nhà máy có một cái tháp cao, Vương Nhị xay đậu trên đỉnh tháp. Sau này không làm ở nhà máy đậu phụ nữa vẫn mơ thấy cái tháp. Nếu nói theo cách của Freud, thì có nghĩa là không nói cũng biết, huống chi sữa đậu trắng trên tháp cứ tuôn xuống, chảy đến các phân xưởng. Đối với nhà máy đậu thì sữa đậu quan trọng như nước máy đối với thành phố. Chẳng cần đến Freud, người ta cũng biết cái tháp đó giống cái gì, có người nói cái tháp của nhà máy mình giống denjiu , có nghĩa là nên mặc cho cái tháp chiếc xi líp. Leo lên tháp bằng cả tay cả chân như leo cầu thang ống khói, do đó chỉ có đàn ông làm việc ở đó, ống dẫn sữa đậu đặt trên giá cao hoặc trên mái nhà, người và sữa đậu theo đó đi đến khắp nơi, nhưng họ rất ngại xuống, điều này làm người ta nhớ đến cuốn tiểu thuyết “ Ngài bá tước leo cây ” của nhà văn Italia, Carvino – tác phẩm của ông đọc trăm lần không chán. Mụ Lỗ đứng dưới gào lên, bắt Vương Nhị xuống. Vương Nhị mặc kệ mụ vì mùa lạnh ống đóng băng, bị tắc, anh ta đang thông. Khi thấy Vương Nhị đi trên đường ống gác ngang qua sân mụ chỉ mong anh ta ngã xuống cho mụ tóm. Nhưng anh ta đi trên đó đã mấy năm nay chưa bao giờ trượt chân. Nếu có mất thăng bằng thì cũng chỉ loạng choạng như ném bowling chứ còn lâu mới ngã. Nếu có thể được thì mụ sẽ nhặt than để ném, nhưng mụ đàn bà béo tròn, mặc áo bông dày ném được tới đâu? Điều mụ ta có thể làm là lấy chổi cán dài quét mái nhà để chọc chân anh ta, Vương Nhị đành lui trở lại mái nhà, nhưng có người đập ống quát: sữa đậu không thấy chảy xuống. Thế là mụ Lỗ đành để anh ta đi – nói gì thì nói, mụ ta là chủ nhiệm ủy ban cách mạng của nhà máy, không thể làm quá, đến nỗi không ra được sản phẩm, mà có ra được hay không là tùy thuộc Vương Nhị có thông được ống hay không. Anh nói với mọi người, trừ mụ Lỗ, là anh không vẽ cái hình đó. Lẽ ra anh có thể nói với mụ như thế nhưng anh không có gan đứng trước mặt mụ. Anh nghĩ, mụ không bắt được thì cứ để cho mụ gào lên.
Phải nói thêm rằng cái gã Vương Nhị này nhỏ con và mới ngoài hai mươi mà mọc râu quai nón, mặt đầy nếp nhăn nhưng không một vết ngang, toàn vết dọc, tóc quăn tự nhiên, mặt đen và sần sùi, trông rất dữ tợn, muốn cười mà không cười được, lại còn cặp lông mày rậm rì. Mùa đông anh ta mặc bộ quần áo da của người đi mô tô chở thư báo vẫn mặc để đi trên đường ống, thong dong như đi trên đất bằng.
Vương Nhị thoăn thoắt đi một vòng rồi xuống, chẳng dính tí bẩn nào, người ta có cảm giác anh ta là động vật họ mèo. Hình hài quái dị của anh ta làm cho mọi người nghĩ anh ta là kẻ xấu xa và ở mức độ nào đó anh ta cũng chấp nhận định kiến ấy.
Người bảo mụ Lỗ công tác ở một cơ quan cấp trên, ở đó mụ quấy đảo không để người ta yên cho nên người ta đẩy mụ xuống đây làm giám đốc nhà máy. Mụ muốn bắt cho nên từ sáng đã đón lõng ở cổng, nhưng trời rét cho nên mụ chui vào phòng thường trực ngồi. Vương Nhị cưỡi xe đạp đi làm, bao giờ đến cổng cũng phóng thật nhanh, đến cổng thì tay bóp chuông miệng hét: tránh ra, tránh ra! Mụ nhảy lên, hét đứng lại, gọi người chặn lại thì anh ta đã lủi vào trong, khi mụ đến được chân tháp thì anh ta đã đang leo lên. Tháp này chỉ có mỗi đường rất khó lên này. Đậu thì được đưa lên bằng máy nâng xoắn ốc, nếu mụ lên bằng đường đó thì mụ sẽ bị kéo dài và xoắn lại như cây nến Noel. Cho nên Vương Nhị lên thoát, dù mụ hét toáng lên cũng không nghe thấy.
Có lần mụ tóm được yên xe đạp giữ rịt lấy, anh ta bèn đứng lên, một chân trên yên, một chân trên ghi đông như làm xiếc rồi đu lên đường ống, quay xuống bảo một công nhân: Bác Từ ơi, bác trông giúp cháu cái xe.
Ai cũng bảo mụ chuyên gây sự vì tính mụ thế, chẳng ai bảo mụ là đồ trứng thối, vì một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi thì trong bụng đâu có trứng thối.
4
Năm 1958 tôi bị ngã gãy tay ở đống “thép”, lúc bò được dậy thấy tay rách một mảng to tướng, bên trong lộ ta cái gì trắng trắng, lát sau mới có máu tràn lấp ra. Mới sáu tuổi chẳng biết đó là cái gì, tưởng là trong người toàn một thứ trắng nhầy như thế, đến khi mười mấy tuổi, bị di tinh lần đầu vẫn tưởng là cái ấy chảy ra. Mãi cho đến khi lớn, học vẽ xem sách giải phẫu cơ thể người mới hiểu đó là gân và không phải chỗ nào cũng có. Khi bị bố xách đi trạm xá của trường và bác sĩ dùng cái kim to tướng khâu lại chỗ rách, tôi vẫn nghĩ cả người mình là một cái chăn ướt, thắc mắc quên cả khóc. Bác sĩ thấy vậy quan tâm hỏi: Thằng bé này đầu óc bình thường chứ ông? Bố tôi nói không, nó cứ lơ nga lơ ngơ thế thôi, rồi bị ông cốc một cái lên đầu, tôi khóc òa. Bố tôi sung sướng xoa tay nói: Thấy chưa, biết khóc là tốt. Sau đó
tôi thấy chiếc kim cong cứ chui vào chui ra trên thịt mình, tôi khóc mỗi lúc một to. Ông thấy điếc tai quá lại cốc cho tôi cái nữa, tiếng khóc nhỏ dần, tôi lại tiếp tục ý nghĩ về cái chăn ướt. Bố tôi liên tiếp tạo ra sáu đứa con, chẳng thì giờ đâu mà chăm bẵm, chỉ cần cốc vào đầu thấy con biết khóc là hài lòng rồi. Từ đó có thể thấy, bề ngoài ngờ nghệch, trông như chất phác, nhưng nội tâm thì đa sầu đa cảm, bi quan chán đời – đó là bản tính của tôi. Chán đời nhưng tôi không nghĩ mình đến nỗi mù màu.
Hồi nhỏ trong trường và sau này trong phòng trưng bày tranh ở Brussels là hai nơi hoàn toàn khác nhau. Một nơi là cái sân khổng lồ vuông vắn, bên trong là những khối nhà xi măng cũng vuông vắn, đường đi trong khu trường như kẻ ô vuông, không chút thi vị. Một nơi là một cái giếng sâu, tranh được trưng bày theo vòng trong xoáy ốc xuống. Đáy giếng có vòi phun nước, có cả bãi cỏ rất đáng yêu. Khác nhau thế nhưng vì có Dali và luyện thép, cho nên trong đầu tôi hai thứ cứ dính lại với nhau.
Năm 1958 tôi còn thấy nhiều chuyện khác nữa, như ruộng lúa trên sân bóng, chiếu điện sáng trưng suốt đêm, nghe nói làm thế mùa màng mới tốt, nhưng gọi muỗi và nắc nẻ cả thế giới này đến, tạo thành mười mấy cái cột ánh sáng, trông rất hoành tráng. Lại còn những cái loa ra rả đưa những lời lẽ hùng hồn đến dựng tóc gáy. Nhưng những cái đó không quan trọng, điều quan trọng là luyện thép trên sân trường và tôi thì ngã gãy tay. Mọi thứ của tôi đều bắt đầu từ vết rách trên cẳng tay. Tôi bắt đầu học vẽ, muốn trở thành họa sĩ, bởi vì nếu không thì tôi không thể diễn đạt những điều quái đản trong tôi – tôi không biết có phải Dali cũng vì thế mà trở thành họa sĩ không. Còn chuyện mù màu thì tôi chưa biết. Không những thế tôi tự cho là mình phân biệt màu sắc giỏi hơn mọi người. Thí dụ một củ cà rốt, người ta bảo với tôi, nó như một thỏi màu vàng cam. Nhưng tôi thấy không phải thế, tôi thấy nó trong suốt, bên ngoài phủ ánh sáng màu tím nhạt, bên trong có một lớp màu vàng nhạt và giữa ruột là màu xanh lành lạnh. Theo tôi thế là đúng vì cà rốt lạnh. Nếu vẽ ra củ cà rốt như thế thì người ta có đủ kiểu nói bảo nó là cái gì, có người nói đó là phái ấn tượng, có người nói đó là thời kỳ xanh của Picasso, lại có người nói đó là thời kỳ tan rã của chủ nghĩa tư sản và chẳng ai bảo nó là củ cà rốt cả. Năm 1977 tôi thi vào học viện Mỹ thuật, các thầy cũng tranh luận sôi nổi như thế. Nếu tôi làm ra
vẻ hiểu sâu biết rộng, ngồi im không nói thì chắc đã đỗ rồi. Tai hại là tôi nói với họ là trong mắt tôi củ cà rốt nó thế. Thế rồi không biết thiên tài nào đưa ra ý tưởng đưa tôi vào bệnh viện kiểm tra mắt. Kiểm tra xong, các vị đó cười lăn lộn rồi đuổi tôi ra. Thực ra là có mấy cái thẻ phân biệt màu tôi không nhận ra. Tôi cũng có thể vẽ mấy cái thẻ để không ai nhận ra được.
Khả năng phân biệt màu của tôi thế này: tôi nhìn củ cà rốt thấy tia cực tím bên ngoài và tia hồng ngoại bên trong. Chỉ có màu vàng cam là thuộc dải ánh sáng nhìn thấy. Nói bằng thuật ngữ truyền thông là dải tần số mắt tôi rất rộng. Chính vì tôi nhìn thấy hết, cho nên lại không rõ nét, cũng theo thuật ngữ thì là trong dải ánh sáng nhìn thấy, tăng ích không đủ lớn – nếu đôi mắt như một ăng ten nhận tín hiệu thì mắt tôi không thích hợp đối với một họa sĩ: họa sĩ vẽ tia cực tím và tia hồng ngoại cũng như nhạc sĩ siêu âm, chẳng để làm gì. Nhưng nó có ích, vì nhìn được tia cực tím cho nên một số loại vải đối với tôi là trong suốt, mặc quần áo cũng như không. Mùa hè đến là tôi nhìn no nê, hơn nữa lim dim mắt thì nhìn càng rõ. Điều này không thể cho vợ biết, nếu không cô ấy lấy keo dán tịt mắt tôi lại và cho tôi cái gậy để khua. Thế là nghiệp vẽ của tôi chấm hết, nhưng không phải vì tôi mù màu mà vì tôi không thích vẽ nữa, cũng do người ta không cho tôi cơ hội vẽ ra cái mình nhìn thấy, nếu không thì qua tôi họ có thể nhìn thấy tia cực tím và tia hồng ngoại.
5
Mụ Lỗ vẫn muốn tóm Vương Nhị nhưng không được. Thành tích lớn nhất của mụ là tóm được chiếc giày ba ta. Hôm đó thật nguy hiểm, mụ nấp ở chân tháp tôi đến sát mới nhìn thấy vội tóm lấy bậc thang bên trên leo vội lên mặc cho xe đạp đổ kềnh, mụ lôi tuột được giày tôi, may mà không tóm được cổ chân. Mụ treo lên lưng chừng cột cờ trước phòng làm việc để khoe thắng lợi, tuyên bố không cho ai lấy, phải để Vương Nhị đến lấy. Lúc tan ca Vương Nhị một tay cầm ghi đông một tay cầm gậy khều một cái là lấy được chiếc giày. Nhưng anh ta có điều lo là không khéo có bữa đập mồm vào thang sắt và lo phóng xe đâm vào mấy bà bụng to. Thế là anh ta đi xe đến nhà máy rượu bên cạnh trèo qua bên này.
Cuối cùng thấy phiền quá, không chạy nữa, thong dong dắt xe vào cổng, nghĩ mày cắn tao sẽ nện cho. Nhưng định như thế rồi thì mụ Lỗ lại không đuổi bắt Vương
Nhị nữa, thậm chí gặp ngay giữa cổng lại quay mặt đi nói chuyện với người khác, lạ thật. Trước kia anh ta nghĩ gặp “vận may”: may mà có tài leo trèo, may mà hồi trung học anh ta ở đội thể dục, cho nên nhiều lần thoát hiểm. Về sau nghĩ chẳng may tí nào: nếu anh ta không giỏi những trò ấy thì đành phải đứng dưới sân, nếu mụ Lỗ túm áo thì anh ta tống một quả đấm cho vỡ mặt lợn đi, nếu xảy ra như thế thì vấn đề xong lâu rồi, cũng chẳng phải đấm thật. Thế là may hay không may, cộng thêm bao nhiêu điều nhân quả làm anh ta điên cả đầu.
Chuyện truy đuổi ấy xảy ra với tôi. Đó là năm 1974, mùa đông không khí ô nhiễm, ngoài bức tranh dâm ô và các phong trào chính trị ra chẳng có gì đáng kể lại. Phong trào chính trị lại nghe thời tiết trên trời, nói mãi cũng nhàm. Hồi đó tường thành Bắc Kinh bị đập bỏ, tòa thành cổ trơ ra trần trụi, trong thành vắng bóng lớp trẻ, cuộc sống chán ngắt. Năm đó tôi hăm hai tuổi, mặt đầy râu. Có thể vì thế mà mụ Lỗ đuổi bắt tôi. Hồi đó tôi ru rú trong chỗ làm, nhưng một tháng cũng phải đôi lần xuống, thí dụ để lĩnh lương, đến công đoàn lấy vé xem phim… Chui tọt vào phòng kế toán chốt cửa lại là an toàn, nguy hiểm là trên đường đi, nhất định sẽ gặp mụ. Đến ngày lĩnh lương, mọi người tụ tập đông trước cửa phòng kế toán chờ xem xảy ra trò gì. Đến ngày đó mặt mụ Lỗ đỏ gấp mấy lần ngày thường, phải biết mụ sẽ tấn công vào chỗ nào, túm cổ hay ôm chân. Cái cảnh mụ Lỗ tóm Vương Nhị mỗi tháng lại xảy ra vài lần. Nhưng đó là chuyện qua lâu rồi.
Về chuyện tôi ở nhà máy đậu, cần nói thêm là, nhà máy nằm trong một ngõ nhỏ phía nam thành phố, tuy nó đã được mở rộng và rải nhựa, nhưng hai bên đường vẫn là những căn nhà lụp xụp, cửa mở thẳng ra đường, cửa sổ lắp kính nhưng chỗ quan trọng phải dán giấy bảo vệ. Nền nhà thấp hơn đường, cho nên càng thấy thấp, cỏ khô trên mái nhà như nằm ngay ngang mắt. Cổng nhà máy trồng hai cột xi măng, xấu xí hết chỗ nói. Bên trong có mụ Lỗ nanh ác đang rình bắt tôi. Tất cả những điều đó gây cho tôi cảm giác đầu thai nhầm vào một thế giới chẳng ra gì. Có thể so với người khác thì chưa đến nỗi tệ lắm, nhưng có thể nói tôi không chuẩn bị tinh thần cho những việc xảy ra sau này. Hồi nhỏ tôi không biết có những đống sắt trên sân, hồi làm ở nhà máy đậu không biết có mụ Lỗ rình cắn tôi.
6
Bây giờ tôi đã bốn mươi tuổi, không phải họa sĩ cũng chẳng phải nhà toán học, không phải công nhân làm đậu phụ mà là kỹ sư. Điều này không ai ngờ tới (kể cả người trong gia đình và những người trước kia quen biết tôi), nhưng tôi không cảm thấy có gì lạ. Nhớ lại hồi nhỏ, có thời gian trước cửa nhà tôi dày đặc những chuồng gà là chuồng gà, lúc ấy vết thương của tôi đã lành. Từ ban công tầng hai tôi nhìn thấy bạt ngàn những cái chuồng gà làm trên bãi đất bỏ không bằng đủ loại vật liệu, gỗ dán, tôn sắt, cây que. Nhưng gà không ở trong chuồng, chúng đi nghênh ngang, đâu đâu cũng sặc sụa mùi phân gà lẫn mùi thuốc lá nhãn lạc đà không đầu lọc. Không chỉ trên bãi đất trước nhà mà trên ban công cũng nuôi gà. Có một con gà trống cất cánh bay từ dưới đất lên tận tầng bốn trên đầu tôi. Tôi nhìn dáng đi của nó là biết nó sắp bay cho nên không bao giờ bỏ qua cảnh nó bay. Thường là nó chùng chân xuống rồi nhảy lên đập cánh như điên là rời khỏi mặt đất. Tôi quan sát thấy nó chỉ khắc phục trọng lực trong khoảnh khắc, rồi cất cánh thẳng lên, không biết bay lượn. Do đó thường không nhằm trúng ban công lại phành phạch rơi xuống. Lúc đó tôi say sưa nhìn cảnh nó bay lên mà không biết việc đó báo trước điều gì. Ba mươi năm sau đến thành phố Saint Louis ở Mỹ, chụp ảnh trước chiếc máy bay chiến đấu lên thẳng hình diều hâu dưới chiếc cổng thép không rỉ nổi tiếng, tôi sực nhớ lại chuyện này mà thấy hơi buồn. Bởi vì hình dáng bên ngoài chiếc máy bay giống như con gà trống, khi cất cánh lại càng giống. Tôi buồn vì lẽ ra chính tôi phải phát minh ra chiếc máy bay đó. Điều đó cho thấy cuộc đời tôi còn một chí hướng nữa, đó là phát minh. Đó cũng là tính cách bẩm sinh của tôi, tuy rằng cho đến nay tôi chưa phát minh cái gì cho ra hồn cả.
Hồi nhỏ tôi bị đói, khi trước nhà đầy những chuồng gà. Nhưng nếu bạn nghĩ trong trường đại học Trung Quốc đầy những chuồng gà là nghĩ sai – chuyện đó không kéo dài, hơn nữa không chỉ nuôi gà mà còn nuôi cả thỏ vì thỏ cũng giết thịt được. Không chỉ bị đói mà còn thiếu đủ thứ. Nhưng tiền không thiếu, có tiền mà không có phiếu thì chẳng mua được gì, ngoài chiếc kem chỉ có nước đá và cái que bên trong. Không mua được gì thì tiền cũng vô dụng, chùi đít thì cứng mà lại còn phạm pháp. Mua rau cũng phải có phiếu, ngay cả bố tôi luôn ủng hộ chủ nghĩa xã hội cũng thấy điều này thật quá đáng. Một hôm thấy bên dưới có người rao: bán rau cải không cần phiếu, mẹ tôi sai tôi xuống mua. Tôi mua một mớ về, dựng lên mớ
rau còn cao hơn tôi. Mớ rau chỉ để nuôi thỏ, không nuôi gà được, vì sẽ làm gà chết nghẹn. Bà tôi là bà già nhà quê, bó chân, bà cắn ngón tay nói, từ bé chưa bao giờ thấy rau cải già thế, sau này bà định lấy xơ rau để độn đế giày nhưng không được. Thế là bà tôi cũng có phẩm chất phát minh. Khi bụng đói thì tâm hồn người ta bay bổng lắm.
Hồi nhỏ tôi không có giấy, bố tôi đem tài liệu tuyên truyền vứt vào nhà xí để dùng. Trong đó có khá nhiều bài liên quan đến phát minh sáng tạo, tôi ngồi trong nhà xí đọc dần dần đâm ra mê. Nhiều khi anh chị đứng ngoài đấm cửa mà tôi không biết. Có những phát minh tầm thường như dùng gỗ gì để tiện bi làm ổ trục, dùng lò luyện thép để ủ phân bón ruộng, không hề có trí tưởng tượng. Nhưng có cái thật xuất sắc. Thí dụ: Nếu như một con lợn nuôi bình thường mỗi ngày tăng tám lạng thì phát minh này cho cân rưỡi([3]), cách làm là cho ăn một cân dầu lạc, thêm vào đó là tiêm hai lòng đỏ trứng gà vào bắp, nghe nói lợn béo và thịt rất ngon. Lúc đó tôi nghĩ phát minh này tuy hay nhưng chưa thật hoàn hảo. Nên thêm vào đó ít xì dầu và rượu vang nữa để cho nó chưa cần mổ thịt đã thành ngay lạp xưởng Quảng Đông. Nói thực lòng lấy phát minh như thế mà chùi đít cũng thấy chua xót. Tất nhiên bị đem chùi đít không chỉ có phát minh mà còn những thứ khác nữa. Thí dụ các tuyển tập thơ. Năm 1958 không chỉ tất cả mọi người đều phát minh mà tất cả mọi người đều làm thơ, tham gia các cuộc thi thơ. Năm 1958 anh tôi học tiểu học năm thứ ba, đêm đói quá không ngủ được, anh đọc thơ anh làm cho tôi nghe:
chủ nghĩa cộng sản
muốn xây thật khó
để mau đạt được
mọi người phải cố.
Anh còn bảo tôi rằng, đến chủ nghĩa cộng sản, cái núm trên bánh bao nhỏ đi (núm to ăn không hết đói). Bài thơ ấy tôi còn thấy ở bản in rô-nê-ô, còn ghi rõ do học sinh tiểu học Vương làm. Tôi không ngần ngại dùng nó làm giấy lau, tôi mới chín tuổi cũng biết đó là thơ con cóc. Tôi chỉ thích phát minh. Anh tôi cũng biết
vậy, anh ấy còn đoan chắc tôi sẽ có một tài năng xuất chúng trong lĩnh vực này. Nhưng cho đến nay, tài năng ấy chưa được nảy nở.
Nói xong chuyện bánh bao cộng sản chủ nghĩa thì anh ấy đói quá không chịu nổi, hai anh em lủi ra khỏi nhà đi nhổ trộm cà rốt để ăn. Cà rốt non nhạt phèo. Từ nhỏ đến lớn tôi chỉ một lần làm việc xấu xa đó. Hơn nữa việc đó tôi đã kiểm điểm nhiều lần. Điều đó cho thấy tôi rất trong sạch.
Về những phát minh và thi thơ năm 1958 tôi cần nói thêm rằng, nó không đến nỗi lãng mạn như hồi bé tôi nghĩ, thí dụ hồi đó phát minh là có chỉ tiêu, trường đại học của chúng tôi mỗi tháng phải có ba nghìn phát minh, làm được ba vạn bài thơ. Chỉ tiêu là kẻ tử thù của cảm hứng lãng mạn. Nếu lãnh đạo giao chỉ tiêu cho tôi một tuần phải làm tình với vợ ba lần thì tôi tự thiến ngay lập tức. Bỏ chỉ tiêu đi thì phát minh và thơ đều đẹp. Chỉ tiếc là nó làm cho mọi người đói gần chết. Có một thời kỳ mọi người gấp rút phát minh ra cách chặn cái đói, tôi cũng nghĩ đến vỡ óc.
Lúc đói thì mắt tôi xanh, hạnh phúc nhất là trước bữa cơm vì sắp được ăn, bất hạnh nhất là sau bữa cơm vì chẳng còn gì mà ăn. Hồi tôi 12 tuổi, có một hôm chân tay tôi bỗng bủn rủn, người như ốm, lại như là người khác. Nghĩ mãi thì ra tại tôi không đói. Ăn no rồi sự khát khao phát minh giảm sút, nhưng tôi đã phát minh ra rất nhiều thứ, bao gồm súng lục nhồi thuốc bằng đầu diêm, bắn được con gì ăn con ấy, có lần bắn được con nhím thui chín ăn rồi nổi mụn đầy người, bị bố cho ăn đòn.
7
Lúc nhỏ tôi cảm thấy mình sinh ra không đúng lúc, sau này sẽ gặp nhiều tai bay vạ gió. Mặc dù đó có vẻ như không phải suy nghĩ của một đứa trẻ, nhưng sự thực là như vậy. Về điểm này tôi có thể bổ sung nhiều chỗ. Phần đầu tiểu thuyết này, tôi gọi mình là Vương Nhị và chậm rãi kể, đến một chỗ lại phải đổi giọng thành đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất. Có một việc làm tôi bắt buộc phải như vậy. Hồi bé đến sân vận động nhìn thấy bầu trời màu tím, việc này tôi có thể dùng ngôi thứ ba, cho đến lúc ngã gãy tay thì thôi. Bởi vì ngôi thứ ba có yếu tố hư cấu mà vết sẹo vẫn còn trên tay tôi. Đến chỗ ngã gãy tay thì không còn hư cấu nữa.
Sáu tuổi bị ngã, vừa kêu khóc vừa nghĩ không biết còn tai họa gì nữa đang chờ mình. Bây giờ tôi chơi bài cũng vậy, trước khi nhìn bài, đều lẩm bẩm một câu: không biết bài xấu đến đâu đây, điều đó cho thấy tôi là người bi quan hết thuốc chữa. Năm hăm hai tuổi, làm ở nhà máy đậu, bị mụ Lỗ đuổi khắp nơi cũng nghĩ thế. Cậu Chiên Ba cùng ca với tôi có thể làm chứng, hồi đó tôi thường bảo với cậu ta: Tớ còn gặp nhiều tai họa, bởi vì phúc bất trùng lai họa vô đơn chí – may chẳng đến hai lần, rủi thì theo nhau đến. Quả nhiên mấy hôm sau tôi nện cho Chiên Ba một trận gãy xương.
Cậu này trắng trẻo, cao hơn tôi nửa cái đầu nhưng rất yếu, mắt to như mắt chuồn chuồn, vai xuôi ngực lõm, giọng nói tuy trầm nhưng ẽo uột như đàn bà. Con người cậu này tôi thuộc như lòng bàn tay vì hai đứa đều tắm nhờ bên nhà máy rượu, tôi đánh cậu ta cũng liên quan đến chuyện tắm. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng lại có ngày đánh cậu ta nhưng năm đó là năm hạn của tôi, điều không được xảy ra đã xảy ra.
Đầu đuôi chuyện Vương Nhị đánh Chiên Ba như sau: Chiều hôm trước, người đến nhận ca bảo Chiên Ba rằng, ta sang nhà máy rượu tắm, cậu đem xà phòng đi. Chiên Ba không nói gì, chỉ cầm xà phòng đi theo. Người kia nghĩ thằng này hôm nay lầm lì không nói, đáng ngờ lắm. Đến phòng thay quần áo, hai người cởi hết quần áo ra, Chiên Ba nhường người kia đi trước. Người kia vào lập tức quay ra thì thấy Chiên Ba đang lục cả hai túi áo của mình, còn lôi ra một điếu thuốc gãy. Lập tức anh ta nghĩ ngay Chiên Ba tìm cục than. Nói đến đây tôi không còn có thể gọi mình là Vương Nhị nữa, vì cảm giác của tôi lúc đó khiến tôi phải dùng ngôi thứ nhất. Theo tôi biết, một vạn người nhiều lắm có một người bị ngã khi lên sáu tuổi, một vạn người mới có một người bị nghi là vẽ bậy, bị lục túi, cái cảm giác một vạn chọn một này như một dòng nước lạnh buốt từ đỉnh đầu xói xuống óc.
Tất nhiên việc lục túi tôi là do lãnh đạo bố trí – lục túi kẻ bị tình nghi, tìm cục than đã vẽ tranh phản cách mạng – nhưng phải là ai lục chứ không phải là thằng Chiên Ba. Tôi điên tiết lắm nhưng không nghĩ sẽ đánh nó. Về sau trong buồng tắm lại thấy không đánh không được. Hôm sau hắn lại lặp lại cái trò đó, lẽ ra tôi có thể đánh đòn ngầm không ai biết nhưng đánh trượt, làm hắn gãy xương đòn.
Khi xảy ra chuyện bức tranh, mụ Lỗ làm ầm ĩ lên, gọi điện yêu cầu công an đến phá án. Sở đùn cho đồn, đồn cử người đến xem rồi bảo đơn vị tự giải quyết. Cuối cùng lão Lưu ở ban bảo vệ của công ty xuống, lão này quần áo đầy dầu mỡ, mặt đỏ gay, hơi thở nồng nặc mùi rượu, cầm chiếc máy ảnh sản xuất đại trà những năm bốn mươi, vào nhà xí chụp ảnh, tiêu một bóng đèn flash to bằng nắm tay thằng bé con, nhưng cuối cùng chẳng có ảnh vì khi chụp quên lắp phim. Không chụp lại được vì đã xài chiếc bóng đèn cuối cùng rồi, muốn mua cũng chẳng có. Rõ ràng là gã coi việc của mụ Lỗ là trò đùa. Lão Lưu này tôi cũng quen, theo tôi lão này hoàn toàn là một gã đểu giả nhưng khác tôi ở chỗ không bao giờ xảy ra chuyện gì cả. Mụ Lỗ điên lắm, bèn tự mình phá án. Mụ tập hợp tất cả những người tốt trong nhà máy (đảng viên, phần tử tích cực) lại họp. Tôi nghĩ bước đầu của họ là tìm ra bằng chứng Vương Nhị phạm tội. Thằng Chiên Ba có dự hội nghị.
Nhưng có thể nói thêm một chút. Bạn cũng hiểu cho mụ Lỗ, sống trong một thời đại vô vị như vậy, chẳng có gì mặc, ngoài cái áo bông cũ, chẳng có việc gì làm, ngoài việc xách cặp đi họp. Bây giờ tự nhiên xuất hiện hình vẽ bậy trong nhà xí, trong đầu có cái để mà suy nghĩ, tất nhiên mụ rất phấn chấn, muốn làm đến nơi đến chốn. Điều này tôi cũng hiểu được. Chỉ có điều tại sao mụ lại chọn tôi làm vật hy sinh. Đến bây giờ tôi nghĩ, có thể là tại tôi mặc áo choàng đen, hoặc là tôi muốn thành họa sĩ. Dù sao chăng nữa trông tôi không giống một người tử tế, đó là điều không còn nghi ngờ gì nữa.
8
Chuyện sau đây chứng minh tôi không giống một người tử tế: Sau này tôi du học tại Mỹ, làm thêm chân hầu bàn. Có mấy người khách kỳ dị đến ăn, cho khá nhiều tiền bo và nói những gì tôi không hiểu, mấy hôm sau ông chủ không cho tôi làm hầu bàn nữa mà xuống bếp rửa bát. Ông ta còn bảo, ông ta thì không sao nhưng khách hàng bảo người như tôi làm mất thẩm mỹ, thực ra tướng mạo tôi dữ dằn, thích mặc đồ đen chứ chẳng có tật xấu nào. Mặc đồ đen là thói quen từ nhỏ của tôi, chỉ vì nó bền và đỡ bẩn chứ chẳng muốn trêu chọc ai. Nhưng nếu tôi là người tử tế thì sẽ không mặc nó, cho dù nó bền và đỡ bẩn.
Trước khi đánh Chiên Ba tôi túm cổ hắn và hét lên “có trộm” làm mọi người
trong phòng tắm náo loạn. Lúc đó tôi đang trần như nhộng, trên người đầy bọt xà phòng. Chiên Ba vừa xấu hổ vừa tức, giãy giụa không thoát, mất tự chủ tát tôi mấy cái. Tôi đã tính đến điều này vì trong chuyện đánh nhau thì ai đánh trước người ấy có lỗi. Đến khi mọi người đều nhìn thấy hắn đánh tôi thì tôi mới đánh. Lúc đó hắn đang cởi quần áo, trên người còn cái áo len, tôi đấm một cú vào mắt trái, nó sưng tím, thấy không cân xứng tôi thoi một quả vào mắt phải. Được mọi người cổ vũ, tôi đánh rất hăng mất cả trí khôn, quên mất rằng đánh người ta gây thương tích là đuối lý. Sau trận bị tôi đánh, hắn mang trên lưng cái tên xấu xa là ăn cắp – cho dù móc túi tôi là nhiệm vụ lãnh đạo giao, nhưng đây là công tác bí mật ( under cover ) không bao giờ lãnh đạo thừa nhận rằng đã cho người đi móc túi nhân viên của mình. Tôi cũng được cái tên là thằng côn đồ hung hãn. Theo tôi thế là công bằng, hai người có thể xí xóa với nhau, nhưng hắn thì cứ ngồi trên thùng dụng cụ giương mắt nhìn tôi, chẳng làm gì cả. Tôi khó chịu mới bảo hắn: Đừng nghĩ chỉ mình có lý, mày nghĩ hộ tao đi, tao là người vô tâm, chẳng may có hôm bỏ cục than vào túi, mày mò được thì có toi đời không? Không đánh mày tao có chịu được không? Câu nói đó lôi lưỡi hắn ra, hắn trách, tôi hành xử như thằng côn đồ, toàn đòn độc. Vậy có nghĩa là hắn thừa nhận tôi đánh hắn là có lý, có điều là đánh dữ quá mà thôi. Tôi cũng có lý của tôi: Một, nếu hắn tìm thấy than trong túi tôi thì hậu quả ra sao ai mà lường hết được, vậy hắn ra đòn độc trước. Hai, nếu hắn có sức chiến đấu thì tôi không thể đánh hắn đến như thế, vậy hắn cũng nên tự trách mình. Hai chúng tôi cãi nhau. Cãi lý và đánh nhau, hắn đều không phải đối thủ của tôi. Sau cùng hắn ôm mặt khóc hu hu.
Chiên Ba hết đau nhưng vết thâm tím trên mắt rất lâu mới tan hết. Hắn rất ham học, tôi cố gắng giảng giải khi đề hình khi đề toán. Một hôm hắn hỏi tôi: “Một cái chiên ba đâm thẳng lên” là cái gì. Tôi bí quá. Tôi hỏi câu ấy ở đâu ra, hắn ta không nói. Về sau tôi nhớ ra, đúng là trong “ Hồng lâu mộng ” rồi! Trong cuốn “ Hồng lâu mộng ” chữ chi ba ( nghĩa là cái chim của đàn ông ) có bộ mao (tôi chắc Tào Tuyết Cần bịa ra), hắn lại đọc thành chiên ba , từ đó tôi gọi hắn là Chiên Ba, anh Chiên, thằng cu Chiên. Mọi người nghe tôi gọi thế cũng gọi theo. Mới đầu nghe ai gọi mình như thế cậu ta tức điên người, về sau cũng quen, chẳng biết tên nào khác, ai gọi thế cậu ta cũng đành phải thưa. Không ngờ vì chuyện này mà cậu ta thù tôi, tham gia vào âm mưu hại tôi. Một thằng rất bần tiện bỉ ổi.
Tôi đánh Chiên Ba bị thương, mụ Lỗ gọi điện cho cảnh sát đến bắt tôi. Nhưng giọng mụ ta chao chát, người ngợm thì kỳ dị, làm cho cảnh sát mất thiện cảm, họ không bắt tôi mà đến bệnh viện thăm Chiên Ba. Cậu ta lại tỏ ra rất đàn ông, bảo hai chúng tôi đùa nhau, tôi lỡ quá tay. Cậu ta còn bảo chúng tôi thân nhau, nếu bắt tôi thì cậu ta rất buồn. Cảnh sát bỏ về, sau này gọi thế nào cũng không đến nữa. Nhưng tôi chỉ được tạm yên thôi vì mụ Lỗ vẫn sa sả trong các cuộc họp: một thằng lưu manh, hung thủ đánh người, đê tiện như Vương Nhị tại sao chúng ta còn bao che. Cứ thế hội nghị chẳng nói gì đến đậu phụ cả, mọi người rất chán ngán. Mặt khác, vì mụ cầm đầu cho nên mọi người quay ra ghét tôi. Nghe nói lãnh đạo chờ dịp tống tôi đi cải tạo, không được quay về nữa. Trước đây tôi buộc dây thả vé và hộp cơm xuống, họ tranh nhau lấy cơm cho tôi, bây giờ họ bảo xuống mà ăn, họ còn nói, trốn được mùng một không trốn được ngày rằm. May mà có Chiên Ba lấy hộ không thì đói. Việc này có nghĩa tôi là tội phạm. Cho dù có xấu xa đến đâu nhưng không phạm tội vẫn sướng, phạm tội rồi thì như nhiễm ết, chẳng bao lâu thì chết toi. Mọi người ghét tôi nhưng tôi không ghét mọi người, nếu ghét là chống loài người. Tôi cũng không được ghét mụ Lỗ vì thế là ghét lãnh đạo. Tôi đành ghét cái hình vẽ trong nhà xí, nó làm tôi khổ sở, tôi thề rằng bắt được đứa vẽ, tôi sẽ nện cho một trận. Nhưng tôi chẳng biết hắn là ai. Chiên Ba bảo tôi, thôi đi đừng giả vờ nữa.
Câu đố này kéo dài ba năm mới có lời giải, có nghĩa là đến năm 1977 tấm màn bí mật mới được mở toang: Năm đó có thằng cha tên là Bánh hấp đỗ vào học viện mỹ thuật. Người ta bảo thằng này có ba điều không rõ ràng: Trai hay gái, câm hay không, có con ngươi không (vì hắn hay trợn tròng trắng ra). Làm sao có thể tưởng tượng trong cái nhà máy đậu con con này, ngoài tôi ra còn có thằng biết vẽ, mà lại không mù màu, tôi lạ quá quên cả việc cho nó một trận.
9
Tôi nói thêm về Chiên Ba. Tôi rất quý cậu ta, tôi hoàn toàn không phải người đồng tính. Tôi rậm râu sâu mắt lại nói giọng khàn vịt đực. Chiên Ba cao gầy, nói giọng mũi. Tôi muốn mãi mãi sống với cậu ấy nhưng không được. Về sau đi đến đâu tôi cũng gửi bưu thiếp cho Chiên Ba. Thí dụ bưu thiếp viết trước nhà thờ thánh Pierre tại Roma:
Chiên thân mến
Mình đã đến Roma. Chặng sau là Áo.
Vương Nhị
Tôi làm thế vì cậu ấy sưu tập tem. Viết thư cho cậu ta rất khó: Tôi không nhớ họ bây giờ cũng quên, không biết bao giờ thì nhớ ra. Cậu ta lục tìm than trong túi tôi không phải để mật báo cho mụ Lỗ mà do người khác sai khiến. Cậu ta có một động cơ có thể tha thứ được. Nhưng cậu ấy thật sự đáng yêu quá, không đánh không được.
Sau này về nước, vừa trông thấy tôi, Chiên Ba đã kêu lên và chạy lại muốn bóp cổ tôi vì qua bưu thiếp mọi người đều biết cậu ta là Chiên Ba. Cậu ta sống chết phải thi vào đại học y để đi khỏi nhà máy đậu, thoát khỏi cái tên Chiên Ba. Vậy mà khi đã là bác sĩ rồi thì lại nhận được bưu thiếp của tôi với cái tên ấy, thế là công cốc, cả đến hộ lý cũng gọi bác sĩ Chiên Ba, cậu ta điên lắm.
Nếu bảo tôi vẽ Chiên Ba tôi sẽ vẽ một cái thai thiếu tháng, cái trán ông Thọ, đôi mắt lươn, nhắm không được, mở không xong, cổ có một cục thịt, chân tay con nhái nhưng duỗi không hết, toàn thân cậu ta bọc dưới một lớp màng trong suốt. Nếu bây giờ không thế thì ít nhất khi chưa ra khỏi bụng mẹ là như thế. Cậu ta đã ra hay chưa ra khỏi bụng mẹ, lúc nào tôi cũng thích, thích cho đến chết.
Chương 2
1
Ở Mỹ về, tôi đến làm việc tại phòng nghiên cứu chuyên về trí tuệ nhân tạo. Ở đây một nửa là từ khoa học xã hội chuyển sang, trung văn, triết v.v..., một nửa là từ khoa học tự nhiên chuyển sang như toán, lý. Ngoài chữ viết tắt “AI”, mỗi người hiểu một cách về trí tuệ nhân tạo, gặp nhau là tranh luận, tôi đứng bên im thin thít. Họ hỏi ý kiến tôi, tôi bảo các vị nói rất có lý, rất sâu sắc. Bây giờ họ đang bàn chuyện đổi tên, một số bảo đổi thành “Phòng nghiên cứu trí tuệ loài người”, một số khác thì là “Phòng nghiên cứu trí tuệ bậc cao”, chưa đổi tên được vì chưa nhất trí. Họ trưng
cầu ý kiến của tôi, tôi bảo, đều hay cả. Thực ra tôi chỉ hiểu tàm tạm AI là gì, còn chẳng hiểu tí gì về “trí tuệ loài người”, càng mù tịt về “trí tuệ bậc cao”. Theo tôi chắc phải là cái gì thần kỳ lắm, mà tôi đã sớm hiểu rằng điều thần kỳ không tồn tại. Nhưng điều đó không ngăn cản tôi ngày ngày đến phòng nghiên cứu trí tuệ hay trí tuệ bậc cao, lẳng lặng ngồi trước bàn làm việc ra vẻ thâm trầm. Nhưng mỗi khi nghĩ mình lẽ ra nên có trí tuệ hoặc trí tuệ bậc cao, thì lại rất khổ tâm. Một việc duy nhất làm tôi thích thú là mặc áo lao động để dọn phòng giúp cho ban tư liệu. Ban này dọn phòng liên miên, tầng một dọn lên tầng năm, rồi lại dọn xuống tầng một, mỗi lần mất hai tuần. Yên ổn lại dọn, vì vậy chưa mở cửa bao giờ. Khi dọn tôi hăng hái đi đầu, mồ hôi lã chã, mặc dù biết là phí công vô ích nhưng không cảm thấy bị xui dại tí nào.
Người ta giơ tay cho Vương Nhị, tay phải Vương Nhị nhanh như cắt tóm lấy cổ tay đối phương, không bao giờ trượt. Đó là vì hồi bé hay đánh nhau, khoái tóm cổ tay người ta, bây giờ lớn rồi chẳng ai đánh nhau với Vương Nhị nữa nhưng ai giơ tay là anh ta vẫn tóm lấy cổ tay, bất kể họ là ai. Anh ta biết nếu ở nước Cộng hòa Chad ở Châu Phi mà phạm tội này, mười phần thì đến tám chín phần là chặt tay, cho nên phải dè chừng. Lần xảy ra gần đây nhất đã ba năm, Vương Nhị du học tại Mỹ, cần tiền, đi rửa bát thuê, có một waitress người Thái đến lấy đĩa, lấy ngay chồng đĩa chưa rửa. Lúc ấy Vương Nhị nhanh như cắt giơ tay phải ra tóm lấy cổ tay cô ta. Mặc dù sau mười mấy giây buông ngay ra, bảo chỗ này chưa rửa, lấy chỗ khác, vậy mà cô gái Thái cứ õng ẹo đong đưa với Vương Nhị suốt tối hôm đó, tan ca lại muốn lên xe về nhà với Vương Nhị. Một bà người quen bảo Vương Nhị rằng, động tác nhanh đến nỗi không nhìn thấy nhưng như có điện giật, tim đập thình thình, toàn thân tê dại. Bọn trẻ hồi bé chơi với Vương Nhị đứa nào cũng có tật này tật khác, đứa thích bóp cổ, đứa thích đá dưới đũng quần, không biết chúng nó sửa được hay chưa.
Ở nhà máy đậu khi mọi người nghĩ Vương Nhị phạm tội thì anh ta cũng mất tự tin. Lại chính là Chiên Ba động viên, bảo xem còn cách gì không. Về sau chính cậu ta đề nghị cụ thể Vương Nhị đi gặp con Hải Ưng. Vương Nhị bảo không biết Hải Ưng x nào cả. Cậu ta bảo: Anh biết, người này đã đến đây. Lạ thật, tên như con gái mà ở tháp này không có con gái nào đến cả. Chiên Ba lại gợi thêm, Vương Nhị nhớ ra, một hôm, có một cô gái lên đây, cô ta mặc bộ quân phục cũ, đi giày cao su, bò vào
từ cái lỗ mà ở đây gọi là cái cửa. Mùa đông họ lấy rèm bông chắn lại. Buồng này còn mấy cái lỗ nữa gọi là cửa sổ, bên trên phủ vải nhựa. Giữa buồng có một cái thùng cao để ngâm đậu, ngoài ra còn cối xay đậu, môtơ… Hôm đó Vương Nhị đứng dựa tường, hai tay kẹp dưới nách, đang suy nghĩ. Người lạ đến, mắt nhìn thấy rồi nhưng đầu óc thì chưa thấy. Chiên Ba bảo Vương Nhị có cái tính ấy, mắt dại đờ, đứng ngây như con gà gỗ, hỏi một đằng nói một nẻo. Cô gái đi một vòng rồi đến bên Vương Nhị, ấn nút điện. May mà Vương Nhị chỉ lơ ngơ thế thôi chứ không ngủ, giữ tay cô ta lại. Nếu để cô ta ấn nút điện thì nguy to, máy nâng sẽ ầm ầm chuyển động và đậu hạt sẽ trút vào thùng trong khi Chiên Ba đang ở trong đó vét cặn. Cái thùng nhỏ mà sâu leo ra rất khó. Thực ra Vương Nhị đứng đó để canh nút điện, không được để ai đến gần, xảy ra chuyện này là anh ta có lỗi. Vương Nhị nghiêm mặt nói: vào phân xưởng không được đụng lung tung, sau đó bỏ tay cô ta ra. Chiên Ba nghe bên ngoài có tiếng nói bèn hét lên: Vương Nhị anh làm cái trò khỉ gì thế? Yên tâm gửi mạng cho một người như Vương Nhị là liều hết sức. Cô gái biết có chuyện vội lủi đi. Vậy là coi như Vương Nhị đã gặp nhưng mặt mũi ra sao thì không nhớ, chỉ nhớ là trông bình thường, nhưng dáng thì đẹp. Về sau Vương Nhị còn nói với Chiên Ba rằng, loại người này cứ tự cho mình là lãnh đạo cục cứt nào đó, đến đóng điện lung tung. Loại người như con này người ta bảo là “lấy dao rạch bụng để giả là có cái x thứ hai”. Cách ăn nói bình thường của Vương Nhị là thế, x là bộ phận sinh dục đàn bà. Chiên Ba bảo, đúng cô ấy đấy, mới về nhận công tác, là kỹ thuật viên, bí thư chi đoàn. Cậu ta bảo phạm tội như Vương Nhị phải gần gũi tổ chức mới có lối thoát. Năm đó Vương Nhị hăm hai, đang độ tuổi phải phấn đấu vào đoàn. Nếu được là đối tượng thì không thể bắt đi cải tạo được. Nếu nhà máy đưa đi cải tạo thì ít nhất phải tuyên bố xóa tên đối tượng. Cậu ta còn giúp Vương Nhị trong chuyện này vì cậu ta còn là ủy viên ban chấp hành chi đoàn. Vương Nhị nghĩ đây là cách cứu mạng mà chẳng mất gì bèn nhờ Chiên Ba hỏi xem. Tưởng chẳng hy vọng gì ai ngờ lập tức có hồi âm, cô Hải Ưng này lên tháp nói với Vương Nhị, hoan nghênh Vương Nhị muốn vào vòng tay của tổ chức. Từ hôm nay Vương Nhị thành thanh niên chậm tiến, mỗi chiều thứ ba thứ năm phải gặp cô để trình diện. Từ hôm nay anh có thể tự do xuống, cô đảm bảo an toàn tính mạng cho anh. Cô còn nói, nhà máy định đưa anh đi học tập nhưng cô kiên quyết phản đối. Cô bảo cô tin là cải tạo được Vương Nhị. Nghe cô nói vậy anh ta trút được gánh nặng, một là có một chút hy vọng sống, hai
là sau khi đánh Chiên Ba anh ta rất ân hận. Bây giờ anh ta nghĩ thằng này bị đánh là đáng đời. Nếu hắn không bán rẻ anh ta thì làm sao con Hải Ưng x biết được anh ta bị mụ Lỗ vây chặt trên tháp, phải đái vào xô.
Lần đầu gặp, con ranh Hải Ưng bảo: Từ nay anh không phải đái vào xô nữa. Tôi lập tức nghĩ ngay thằng Chiên Ba kể cho con ranh này tôi đái vào xô như thế nào mà không ai kể cho tôi con ranh đái như thế nào. Tôi có cảm giác như bị xỏ mũi. Thực ra biết tôi đái thế nào chưa đủ để xỏ mũi tôi nhưng con này biết tôi từ chân tơ kẽ tóc trong khi tôi chẳng biết gì về nó thì sớm muộn gì tôi cũng bị xỏ mũi.
Nếu bảo tôi vẽ con Hải Ưng x này, tôi sẽ vẽ như người ta vẽ trên tường trong mộ cổ Ai cập, dang tay, dạng chân như chiếc compa. Người Ai Cập cổ bao giờ cũng vẽ người nhìn ngang, toàn thân và như đang đi, nhưng giơ chân bên nào thì giơ tay bên nấy. Có thể người Ai Cập ngày xưa ở hai bờ sông Nil đi khệnh khạng như vậy.
2
Hồi bé tôi ra khỏi nhà thấy bầu trời đỏ tím và cảnh tượng quái dị, đùng một cái, không thấy nữa. Nó bay lên trời hay chìm xuống đất? Không còn cảnh đó nữa tôi rất buồn. Lớn lên chút nữa, tôi thích trèo lên cao như khỉ, thích đào khoét như chuột, phải chăng là muốn tìm lại cảnh xưa đã mất, tôi không biết, phải nhờ chuyên gia tâm lý thôi.
Hồi ấy góc sân trường có một cái lò luyện thép nhỏ, cao khoảng bảy tám mét, nó là một cái ống xây bằng gạch. Tôi nghĩ chắc bên trong còn có thiết bị gì nhưng không còn nữa. Đến năm tám chín tuổi thấy có dòng chữ: Lò thép nhất định khôi phục. Chắc là có anh sinh viên nào viết lên để bày tỏ quyết tâm kiểu Đông Kisốt của mình. Câu khẩu hiệu cho tôi hy vọng, nếu chui vào được sẽ thấy cái gì đó. Nhưng người ta đã lấy các thanh gỗ bịt lại, tôi không đủ sức phá ra. Tôi cố trèo lên cũng chỉ được ba bốn mét, về sau càng trèo càng thấp vì luôn luôn đói, sức lực không lớn lên theo tuổi.
Tôi thấy cái lò cao quá như không bao giờ lên tới đỉnh được, nó chỉ quây lại vài mét vuông nhưng chứa đựng một thế giới thần kỳ. Nếu tôi mở được sẽ giải được mọi
câu đố trong đầu mình. Kỹ năng tôi không thiếu, chỉ không dai sức, có khi bò cách miệng lò một tầm với rồi bị trượt xuống, xây xát hết người, đau muốn chết. Nhưng tôi vẫn muốn trèo lên. Một hôm anh tôi thấy vất vả như vậy, hỏi tôi làm gì. Tôi bảo muốn vào xem bên trong cái lò, anh cười phá lên rồi đạp một cái cho cửa lò bung ra để tôi vào. Bên trong ngổn ngang gạch vỡ và đầy cứt. Thì ra đã nhiều người vào trước tôi rồi.
Đến khi tôi bốn mươi tuổi, tôi nhận ra rằng tôi chưa làm việc gì hăng say đến thế, và cũng ngu xuẩn đến thế. Leo lên lò chẳng được gì cả, chỉ đem lại đau đớn cho mình, thế mà tôi vẫn leo. Điều này hình như cho thấy việc làm càng ngu ngốc thì quyết tâm lại càng lớn. Tôi thích xui dại chính mình chứ không muốn ai xui dại mình cả.
3
Về sau Vương Nhị hay đến ngồi trước bàn làm việc của Hải Ưng x. Anh ta thấy mình như con ruồi bị dính keo. Cô ta hỏi Vương Nhị đôi ba câu, lúc thì anh ta trả lời thành thật, lúc thì đầu óc để tận đâu đâu quên cả trả lời, một nguyên nhân là ngồi đó mài đũng quần – cái cảnh mài đũng quần thì chẳng ai lạ, đít mài thì đầu óc bay đi, đó là tính trời sinh ra. Nguyên nhân thứ hai là anh ta bị bệnh trĩ, ngồi là đau điếng. Ngày xưa Diderot([4]) bị viêm tai giữa, ông đã dùng cách suy nghĩ lung tung cho bớt đau. Tất nhiên cách đó đã lỗi thời rồi, bây giờ cách phổ biến là học một đoạn lời dạy của Mao chủ tịch, nhưng anh ta nghĩ chỗ đau là ở đít cho nên cảm thấy lấy lời dạy của Mao chủ tịch để giảm đau thì khinh nhờn quá, hơn nữa anh ta cũng không tin cách chữa trị này lắm. Khi ngồi ngây ra, đâu phải Vương Nhị cố ra vẻ cao đạo, cũng không phải là chống đối. Ngây là ngây thế thôi. Nhưng đối với con Hải Ưng x thì khó giải thích cho rõ ràng. Đã vào đây là Vương Nhị ngồi cả buổi chiều, cứ nhìn mặt nó, không nói không rằng. Loáng thoáng nghe nó bảo thành thật kể hết việc làm xấu xa của mình và dọa đưa đi học tập. Sau thấy Vương Nhị hoàn toàn không phản ứng gì mới hỏi trong đầu nghĩ cái gì. Câu trả lời là một hồi lùng bùng trong cổ họng. Nói thật, đây là vấn đề nan giải nhất của những người làm việc trên mặt trận tư tưởng. Bạn nói đến rách mép ra, đối phương chẳng mở miệng, làm sao biết nói có vào hay không? Cho nên tốt nhất là đặt trên đầu người ta cái tivi màu
rồi cắm dây vào óc người ta thì sẽ thấy ý nghĩ người ta hiện lên rõ mồn một. Da mặt con Hải Ưng x đen sì, Vương Nhị đang mải nghĩ, cái mặt này vẽ thế nào để người ta biết rằng không phải mình vẽ người da đen?
Phòng làm việc của con Hải Ưng bé tí tẹo, nền lát gạch vuông đã mòn. Ngồi đây có thể nhìn thấy cái cột vuông và góc của căn buồng khác và một phần hiên. Như vậy đây vốn không phải là cái buồng mà là một khúc của cái hè. Nhà máy đậu phụ có tàn tích hành lang dài và phòng khách, có cả đá Thái Hồ đã bị than vùi lấp một nửa. Đây là một hội quán khang trang bề thế. Vương Nhị biết đây là một hội quán nhưng không biết hội quán của tỉnh nào. Dưới đây là liệt kê của Vương Nhị: An Huy, ai cũng biết trước đây An Huy buôn muối, buôn muối giàu nhất. Sơn Tây, xây dựng cửa hàng, Tùng Giang lắm trạng nguyên, Vân Nam là đất thuốc lá, bán được nhiều tiền xây hội quán – tất nhiên đó là chuyện sau chiến tranh thuốc phiện. Trong khi nghe con Hải Ưng x giảng lý luận cách mạng thì những ý nghĩ không đầu không đuôi như thế cứ lướt qua trong đầu Vương Nhị. Sau này khi Vương Nhị đã là sinh viên, nghiên cứu sinh, gần đây lên giảng viên đại học, phó giáo sư vẫn thường xuyên bị ấn vào ghế để tiếp thu giáo dục bổ sung và khi ấy đầu óc cũng lộn tùng phèo thế này. Nếu trên đầu có cái tivi màu thì người uất đến nghẹt thở mà chết không chỉ là con Hải Ưng x mà còn là bí thư đảng ủy, viện trưởng, chủ nhiệm khoa…, bao gồm cả khá nhiều người nổi tiếng.
Về sau vị Hải Ưng này không giảng lý luận cách mạng nữa mà đổi giọng: anh cũng phải khai báo cái gì đi chứ, nếu không thì tôi làm sao viết tài liệu “giúp đỡ giáo dục” cho anh được. Câu ấy nghe được vì nó có vẻ hợp tình hợp lý. Thời đó muốn biểu dương tiên tiến hay giúp đỡ chậm tiến đều phải xây dựng điển hình, phải soạn ra câu chuyện. Trường hợp của Vương Nhị, cần một chuyện thế này: trước dây anh ta rất xấu xa, xấu đến mức chửi người câm, đâm người điếc, riếc cho ủng mả người tuyệt tự, được tổ chức đoàn giúp đỡ đã tiến bộ, từ con quạ đen biến thành bồ câu trắng, từ người xấu thành người tốt. Vương Nhị đã đánh Chiên Ba, rơi vào cảnh khó khăn, mọi người đang giúp đỡ – có nghĩa là anh ta phải giúp soạn câu chuyện đó, trước hết nói lúc đầu xấu xa ra sao. Nhưng anh ta nghĩ mãi không ra, bị ép ghê quá, khai ra hồi bé nhổ trộm cà rốt. Con Hải Ưng x như bắt được vàng, khi ghi biên bản còn nghêu ngao hát: hồi–nhỏ–ăn–cắp–đồ–của–hàng–xóm! Viết xong, lại hỏi
Vương Nhị, anh ta lại không mở miệng.
4
Hiển nhiên đó là chuyện của tôi. Con Hải Ưng x tất nhiên có họ có tên, nhưng tôi nghĩ tốt nhất nên giấu đi. Nó như mọi người đàn bà khác, không thể tin được, nói đảm bảo an toàn tính mạng cho tôi vậy mà mụ Lỗ vẫn cắn tôi. Khi tôi kêu với nó thì nó bảo, trời thì phải mưa, con gái phải đi lấy chồng, tôi làm sao biết được, lại còn bảo anh phải chú ý, nếu bị đuổi cùng đường thì vào nhà xí nam bà Lỗ chưa chắc dám vào (đó là ý kiến thối, nhà xí có một cửa, và rồi không lối ra, binh pháp gọi là tuyệt lộ). Nói xong con ranh ngả lưng ra ghế cười ha ha, chân đạp lung tung vào ngăn kéo.
Vợ tôi bảo cái tật xấu nhất của tôi là hay bất thần giơ tay chộp người ta, không phải mơ giữa ban ngày mà là đa nghi. Điều đó tôi thừa nhận, nếu không đa nghi làm sao tôi có thể nghi Chiên Ba lục túi tôi. Nhưng tôi nghi chưa đủ, vì tại sao tôi không nghi Chiên Ba lục túi tôi là do con Hải Ưng x sai khiến. Điều này rất dễ nghĩ ra vì hắn vai xuôi, nói giọng đàn bà, nhưng như người Tây nói: A man is a man , không đến nỗi về hùa với mụ Lỗ. Nhưng con Hải Ưng x lại khác, sau này nó lấy Chiên Ba, hoàn toàn có thể lấy một đứa bảy năm trước nó sai lục túi tôi. Không bán tôi cho mụ Lỗ thì hắn có thể bán tôi cho kẻ khác. Nhưng thằng nhóc này cũng có cái đáng yêu là nó bằng lòng làm chuyện ấy rồi vẫn thấy phân vân. Tôi nện cho một trận cũng hay cho nó vì sau này nó đỡ day dứt mỗi khi nghĩ lại, đối với con Hải Ưng x cũng có lợi vì nhắc con ranh bớt đưa ra sáng kiến thối. Chỉ với tôi là chẳng có lợi lộc gì. Tôi không thể ngờ bọn chó cái ấy ghi vào nhật ký rằng: thằng Vương Nhị này thật thà chịu đến nghe giáo dục. Chuyện này hay vô cùng, tôi biết nó tâu với mụ Lỗ rằng các hình ấy không phải Vương Nhị vẽ, Chiên Ba cũng làm chứng. Cho nên tôi cám ơn nó. Thực ra chuyện này ai có mắt đều nhìn ra: tôi bị vây trên tháp, có xuống đâu, trong khi các hình vẽ vẫn xuất hiện trong nhà xí. Nhưng mụ vẫn bắt tôi vì rỗi rãi chẳng có việc gì để làm.
Sau này có lần trên xe điện, một bà già hiền lành gọi tên tôi, bà ta chính là mụ Lỗ. Bà ta bảo tôi, có một thời gian nóng nảy quá, không kìm nén lại được, một số
việc làm không đúng, bảo tôi đừng để bụng. Tôi bảo bà ta, ở Mỹ tôi có đọc toàn tập Freud, đã hiểu được điều này lâu rồi. Bà bị ức chế tình dục, nếu làm tình với chồng nhiều nhiều một chút thì có thể kìm nén đựợc cơn nóng giận. Hành khách trên xe nghe thấy thế đều quay lại nhìn, bà ta cũng không xé xác tôi mà chỉ nói một câu: chỉ được cái nói lăng nhăng!
Con Hải Ưng x làm nhiều trò ma sau lưng tôi, nhưng nhà máy cho tôi đi học tập cải tạo thì không phải trò ma. Khi đó có một lớp học gì đó do cảnh sát tổ chức, các khu phố, nhà máy đều cho các phần tử bất hảo đi. Về lớp học này có nhiều chuyện lắm.
Một đêm trăng thanh gió mát, ở một thôn gần đó có tiếng chó kêu rồi im. Chủ nhà mang gậy cầm đèn đi soi, thấy mấy người buộc dây vào cổ chó lôi đi.
- Các người là ai?
- Lớp học đây.
- Lớp học nào?
- Lớp học lưu manh!
Chủ nhà ném cả gậy cả đèn, co cẳng chạy mất.
Lại chuyện khác. Lớp học chẳng học gì chỉ học coi dưa. Cảnh sát phụ trách bảo: coi thằng A, tất cả xông vào coi thằng A. Bảo coi thằng B, tất cả xông vào coi thằng B. Nói coi dưa có nghĩa là tụt quần người ta ra, kẹp đầu vào háng. Nếu bạn nghĩ cảnh sát đâu đến nỗi lếu láo thế, thì người kể chuyện xin thưa, cảnh sát tử tế ở lại trực ban, toàn cảnh sát phất phơ đi thôi. Nghĩ lại tôi sợ quá. Nếu tôi đi lớp học, bị người ta coi dưa thì nhất định tôi tự tử, chắc chắn không phải nói quá lời. Nếu không tự tử thì cho qua hay sao. Đối với tôi, lối thoát duy nhất là đừng đi, nhưng đi hay không lại do con Hải Ưng x quyết.
Tôi nói thêm chuyện đa nghi. Về sau con Hải Ưng x hay nói với tôi những câu lạ lùng, thí dụ, bụng tôi không có sẹo, hoặc anh có nghĩ bụng tôi có sẹo không, thậm chí còn nói, anh thử xem đi, bụng tôi có sẹo không. Nói xong cười ha hả, hai chân
đạp đạp, bất kể trước mặt có bàn hay không. Nghe nói những câu không đầu không đuôi như vậy tôi đâm nghi. Nhưng chưa bao giờ dám đả động tới, chỉ mong sao con ranh không có ý như vậy. Tôi không dám tin rằng Chiên Ba lại nói với nó những lời đê tiện thế.
5
Khi đã lớn, tôi nghĩ lại những chuyện như vậy cảm thấy rất khó chịu. Tôi đã trèo lò không biết mệt, đã có những phát minh kỳ quặc nhưng lại không hề cảnh giác với những gì xung quanh mình, xuýt nữa bị đưa đến chỗ coi dưa. Vậy thì rốt cuộc tôi thông minh hay tôi ngu? Đó vẫn còn là câu đố chưa có lời giải.
Tôi nói thêm về chuyện “giúp đỡ giáo dục”: hồi đó đang là thời kỳ cách mạng. Cách mạng có nghĩa là, có những người trở thành vật hy sinh mà chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, như Tây Vương mẫu đổ thùng cứt trên trời xuống, vào đầu ai nấy chịu, như mở xổ số biết ai trúng ai không. Chúng ta đều chịu được, người hy sinh rồi và người chưa hy sinh đều chịu được. Thời kỳ cách mạng là thế. Thời cách mạng gặp bà già trên xe buýt không dám nhường chỗ, sợ bà ta là vợ địa chủ, không dám làm mếch lòng đứa trẻ lên ba, sợ nó đi tố cáo. Thời cách mạng, trí tưởng tượng của tôi cực kỳ phong phú, cứ nghĩ đầu mụ Lỗ là cái bô để đái vào. Nhưng nói dông dài quá lạc đề. Ngoài cái vẻ lưu manh trời sinh, tôi còn phạm tội đánh Chiên Ba cho nên chịu giáo dục kể cũng không oan. Tuy rằng mụ Lỗ đổ riệt cho tôi vẽ mụ (tôi oan gấp đôi, một là không phải tôi mà là Bánh hấp vẽ, hai là Bánh hấp không vẽ mụ). Người ta nhìn hình vẽ rồi bảo: “Mụ Lỗ mà xinh thế à!” (có lẽ chỉ những nét tua tủa là giống) trong khi con Hải Ưng x cứu tôi. Có lần tôi nói:
“Cám ơn bí thư!”
Lẽ ra phải nói bí thư chi đoàn, nhưng tôi muốn nịnh, bỏ chữ chi đoàn đi. Con ranh cười bảo:
“Cám ơn gì, chính sách không cho lối thoát không phải là chính sách của giai cấp vô sản!”
Câu nói này quan tòa hay dùng khi kết tội phạm nhân tử hình cho trễ vài năm. Tuy rằng khi nghe tôi vã mồ hôi, rút cuộc nó ngang tầm ai đây và không thấy phải oán trách gì: Dù sao nó là bí thư chi đoàn, tôi là thanh niên chậm tiến, quan hệ tuy gần gũi hơn là quan hệ giữa quan tòa với tử tội nhưng tính chất mối quan hệ là giống nhau. Tôi nói nhiều như thế để thấy rằng: chuyện xảy ra hồi đó trong nhà máy đậu bắt nguồn từ việc thằng Bánh hấp vẽ tranh khỏa thân, sau đó có người thêm lông tua tủa, rồi mụ Lỗ muốn cắn tôi, sau nữa là chuyện tôi đánh Chiên Ba, nhưng cuối cùng tôi rơi vào tay con Hải Ưng x . Chuyện con ranh lấy tôi làm trò đùa là thế này:
Tôi bị mụ Lỗ truy đuổi thở không ra hơi, lại bị con Hải Ưng x dọa. Vì tôi thích Chiên Ba nên hắn có nghĩa vụ nghe tôi kể lể. Chiên Ba nghe rồi nói giúp tôi với con Hải Ưng x để tìm cách tháo gỡ, hắn còn đi gặp bạn học trong công ty nhờ giúp Vương Nhị. Thực ra Chiên Ba ngán chuyện của tôi lắm rồi, nhưng không thể đứng ngoài vì hắn biết tôi thích hắn. Con Hải Ưng x thì lại chán ngấy vì có điều gì cần nói với nó thì tôi không gặp trực tiếp mà lại nhờ Chiên Ba nói hộ, nó ghét Chiên Ba nói năng dở hơi, có vài câu lắp bắp nhắc đi nhắc lại mãi, nhưng đành phải cười toe toét mà nghe vì nó biết hắn thích mình. Con Hải Ưng x cũng thích tôi, cho nên luôn luôn dọa tôi. Nhưng tôi lại không biết cứ sợ hết hồn.
6
Ngồi mài đũng quần trong phòng làm việc của con Hải Ưng x , cái trĩ làm đau quá chịu không nổi, tôi nghĩ ra vô khối phát minh kỳ quặc. Cứ nghĩ được một cái là tôi không nhịn được, lại mỉm cười. Về sau con Hải Ưng x bảo chỉ muốn lấy dây thép treo tôi lên, đốt nến dưới chân bắt tôi khai ra cười cái gì.
Nếu tôi cười nó thì cũng có cái để cười, thí dụ nó cứ cố mặc bộ quân phục cũ, có những mảng bóng loáng như đánh vécni. Chuyện buồn cười nhưng tôi không cười được vì nó là bí thư chi đoàn, tôi là thanh niên chậm tiến, không ngang hàng được với nó. Tôi đâu dám cười. Tôi cười cười chính tôi. Có treo lên mà đốt thì tôi cũng chỉ biết kêu la chứ chẳng có gì mà khai. Đầu óc tôi cứ đùn ra những ý nghĩ kỳ quặc, không kìm lại được và cũng không giải thích được.
Thời kỳ đói bụng tôi chẳng có phát minh nào làm cho khỏi đói, nhưng cũng chẳng ai phát minh ra. Khi ngồi mài đũng quần trước mặt Hải Ưng x , tôi có nhiều phát minh nhưng không có giấy bút ghi lại nên quên mất, chỉ nhớ vài cái nghiêm túc nhất, thí dụ đặt tuyếc-bin trong buồng đi tiểu dùng sức nước chảy để phát điện. Tôi mỉm cười và nếu con ranh ngẩng lên nhìn thấy lại quát: Cười gì? Nói mau!
Đều là đàn bà nhưng nghĩ khác nhau về cái cười. Khi tôi làm nghiên cứu sinh, vợ tôi làm bí thư đoàn, họp đại hội ngồi trên chủ tịch đoàn thấy anh chàng râu rậm ngồi hàng ghế thứ ba mỉm cười một cách bí hiểm, cô thấy lòng mình bâng khuâng. Xem bảng vị trí ghế ngồi thì đó là Vương Nhị khoa toán- biết họ tên là được rồi. Đó là năm 1984 rồi. Chúng tôi nghe nói chuyện chính trị đều ngồi theo số, ai bỏ trống vị trí thì bị cắt học phần. Nếu tìm được anh chàng bán kem tôi sẽ để anh ta ngồi thay còn tôi đi bán kem cho anh ta. Nhưng mùa lạnh thì anh ta không đến, cho nên cô ấy không những nhìn thấy tôi mà còn tra bảng ra tôi nữa, thế là bắt đầu cái romantic .
Vợ tôi nhỏ bé, nhanh nhẹn rất đáng yêu. Cô hay ngậm kẹo thơm, miệng đầy bọt, gặp ai cũng hỏi, có ăn kẹo không rồi đưa ra một nắm. Cô bảo người ta cười thì hai mép nhếch lên còn tôi thì từ trái sang phải như cửa quay ở khách sạn, nhìn rất kỳ quặc. Cô bảo chính vì kiểu cười như thế mà cô lấy tôi. Tôi hoài nghi, khi làm tình cô ấy kêu oai oái mà bảo chỉ vì cái duyên cười mỉm, câu nói đó không đáng tin lắm.
Tôi biết mình có tật hay cười vô cớ, nhưng không biết nó ra sao, cũng như người ta chẳng biết tiếng ngáy của mình thế nào. Cho đến một lần chúng tôi đi châu Âu chơi, đến cung điện Louvre. Đến tầng hai thấy rất nhiều người đang chen chúc. Có một bà béo người Pháp hét lên thất thanh: No flash! No flash! Nhưng không ăn thua, bao nhiêu máy ảnh ngu ngốc vẫn cứ lóe lên. Vợ tôi đưa túi xách và moi hết xu trong túi đưa cho tôi, bò xuống đất chui qua chân người ta vào trong. Lát sau cô gọi từ bên trong: Anh ơi! Vào đây mau lên, anh đây này! Cuối cùng tôi cũng vào được trước khi chết ngạt. Tôi thấy nàng Mona Lisa. Nàng cười đúng là khó hiểu, tôi không biết tả thế nào. Tóm lại nếu trên xe buýt Italia có người cười với bạn như vậy là họ đang mò ví tiền của bạn, còn trong giới xã giao nước Anh có người cười với bạn như thế là khóa quần bạn chưa kéo lên. Mặc dù chen vào tuột mấy cúc áo tôi vẫn
thấy đáng công vì nó giải cho tôi nhiều câu đố. Nụ cười ấy trên nét mặt tôi, khi thì làm cho người ta thích, khi thì làm người ta phật ý, nhất là khi mỉm cười mà nhìn thẳng vào họ. Thí dụ bạn là giáo viên tiểu học, lương tháng ba mươi sáu tệ, lại còn phải thêm giờ kể chuyện chú Lôi Phong cho học trò nghe. Lúc đó tôi ở trong đám trẻ con đó nhìn bạn cười kiểu nàng Mona Lisa thì bạn thấy mùi vị gì? Cho nên nàng nhất định bắt tôi phải thừa nhận mình là đồ lợn, tại sao vậy, tôi sẽ nói ngay bây giờ. Tôi giả danh bố tôi viết bức thư cho Sở giáo dục kể chuyện này, nói chú Lôi Phong một đời làm việc tốt cho mọi người vui, nếu chú biết vì chú mà đứa trẻ mười hai tuổi phải biến thành lợn thì linh hồn chú ở trên trời sẽ không yên. Thầy giáo của tôi bị Sở cạo cho một trận. Đó là tai họa do nụ cười gây ra.
Đến bây giờ đôi lúc cũng có chuyện tôi không nhịn được cười, kết quả là nhiều kẻ thù quá. Trong hội nghị bình chức danh mà cười như thế người ta bảo cười người ta trình độ kém, trong cuộc họp chia nhà mà cười như thế người ta bảo cười người ta không có nhà, thế là xâu xé nhau. Thế là tôi lại nghĩ ra một phát minh, cấy điện cực bạch kim vào mép, khi đo thấy điện sinh học của nụ cười thì lập tức phát một xung điện mạnh cho lăn đùng sùi bọt mép ra là hết chuyện. Nếu phát minh này thành công thì thế giới sẽ không còn ai cười kiểu dễ ghét nữa, tuy rằng có thêm vài người mắc chứng động kinh.
7
Hồi nhỏ có những lần tôi học xong sáu tiết rồi nhưng không được về, phải thêm hai tiết ngoại khóa nữa. Nhưng lại chẳng có hoạt động gì, chỉ mài đũng quần, may mà trẻ con máu lưu thông mạnh, không đến nỗi lòi trĩ ra. Hồi lớp năm có một cô giáo, người cao lớn, ngực như hai quả dưa hấu, mông như bí ngô, mắt trợn lên bằng quả cam, giọng nói như sấm – tôi có phản cảm với cô cho nên sau này tôi lấy cô vợ bé nhỏ, đã thế học xong còn không cho về, vì vậy cô nói gì tôi chẳng nghe, chỉ nghĩ lung tung. Bỗng cô gọi tên tôi, chê trách tôi, nói chính cô cũng muốn về nhưng Sở bắt phải giáo dục chính trị như thế thì biết làm thế nào – những lời đó quá adult đối với tôi. Kiểu nói người lớn ấy dễ làm cho người ta nghĩ đến cởi truồng, nhưng tôi muốn nói đến chính trị, đến thứ ngược lại – sau đó cô hỏi tôi: Chú Lôi phong nói, không phải sống để ăn mà là ăn để sống. Em thấy thế nào? Tôi trả lời: Sống hay
không sống chẳng nghĩa lý gì, nhất định là phải ăn. Cô giáo lập tức tuyên bố, lớp chúng ta có một người trông thì giống mọi người khác nhưng có nhân sinh quan của lợn. Lớp chúng tôi có hơn bốn mươi học sinh, chỉ mình tôi bị nói là lợn. Một việc như thế là một vết nhơ lớn nhất trong đời, không thể cho ai biết, nhưng con Hải Ưng x ép quá tôi phải thổ lộ ra. Con ranh vội bổ sung bản án: học tiểu học tư tưởng lạc hậu bị cô giáo phê bình. Nó còn bảo tôi kể một sự việc nữa xong thì cho anh về. Nhưng tôi chẳng nghĩ thêm được gì đành cùng con ranh mài đũng quần đến tối.
Trong thời gian được “giúp đỡ giáo dục”, tôi bảo nó: Thưa đồng chí bí thư, tôi muốn bàn về tư tưởng sống. Nụ cười trên mặt nó tắt ngấm, nó bảo nói đi. Tôi bảo, tôi muốn biết ngồi mài đũng quần ở đây có ích gì không. Nó nghiêm mặt bắt tôi giải thích việc dùng từ. Tôi giải thích, trước hết nói về vấn đề “có ích gì hay không”. Thí dụ: Hồi nhỏ cô giáo hỏi tôi về chú Lôi Phong, tôi đã trả lời theo kiểu lạc hậu. Thực ra tôi cũng biết trả lời theo kiểu tiến bộ, nhưng tôi biết không thể trả lời như thế. Giả sử tôi trả lời: Of course , người ta ăn để mà sống, lẽ nào còn trả lời khác được hay sao thì cô giáo sẽ bảo, cái đồ như mày, mười buổi học đi muộn đến chín, chửi cô sau lưng, kéo bím tóc con gái, thế mà tư tưởng còn tiến bộ hơn Lôi Phong ư? Bọ hung nghe cũng phải ngáp – sao lại dám mở cái mồm thối ra như vậy! Thà chịu một câu chửi như vậy còn hơn mang tiếng là lợn. Món nợ ấy tôi trả sòng phẳng bất kỳ lúc nào. Nói thật, tôi học được những thói xấu không phải ngày một ngày hai. Nói đến độ ấy rồi mà con ranh vẫn chưa hiểu. Nó bảo, phương pháp làm việc của cô giáo tiểu học của anh có phần giản đơn thô bạo. Nhưng thế thì có liên quan gì đến việc bây giờ? Kỳ thực điều tôi hỏi nó là: Tôi bộc bạch khai báo ở đây rút cuộc thì có ích gì? Nếu cuối cùng tôi vẫn phải đi học tập cải tạo thì thà tôi đi cho sớm, đi sớm về sớm. Nói cách khác câu hỏi của tôi là thế này: cái gọi là giúp đỡ học tập, có phải là catch 22 không. Nói đã rã họng ra nó mới hiểu, nó cười bí hiểm và nói: Được, điều anh nói tôi hiểu rồi. Còn gì không?
Tôi nói những điều đó có hàm ý sau: Trong thời kỳ cách mạng tôi chuẩn bị sẵn sàng thừa nhận mình là lợn để được yên thân. Thực ra con Hải Ưng x không hiểu những gì tôi nói, trả lời cũng lạc đề. Lúc đó tôi hiểu câu trả lời là “anh cứ yên tâm” và bắt đầu nói vấn đề thứ hai: mài đũng quần. Câu hỏi là thế này: Tôi vai rộng hông
hẹp, ngồi trên ghế băng cứng, ứng lực cục bộ khá lớn. Tôi chưa ngồi văn phòng, thiếu tập luyện về môn này lại thêm bệnh trĩ, cho nên bệnh càng nặng. Nếu ngồi đây mài đũng quần là có ích thì tôi xin nghỉ phép vài ngày để đi cắt trĩ rồi về mài đũng quần được lâu hơn. Con Hải Ưng x cười ha ha, nói: có bệnh tất nhiên phải đi chữa chứ, nhưng nếu tôi là anh thì tôi không đi chữa. Có bệnh vẫn kiên trì làm việc là một thành tích tiến bộ, có lợi cho anh để vượt qua cửa ải này. Tôi nghe con ranh nói sưu tầm các thành tích tiến bộ của tôi, cảm giác đây là một bằng chứng nó thực lòng muốn cứu tôi, thế là tôi hăng lên, quyết tâm tiếp tục mài đũng quần.
Rất lâu về sau, con Hải Ưng x bảo tôi rằng, khi tôi nói đến bệnh trĩ, cười nhăn nhó trông đáng yêu lạ, nhưng tôi chẳng thấy mình đáng yêu tý nào. Thế rồi tôi thoát được cái vị trí thanh niên chậm tiến nhưng nhà máy vẫn coi tôi là kẻ phá quấy, không để trong nhà máy. Họ bắt tôi đi đào công sự, đào xong thì cử đến tiểu đội dân phòng cùng một bọn nhóc hư hỏng. Nửa đêm đến các bãi cỏ bắt mèo mả gà đồng, gặp chúng nó thì ho một tiếng và nói: mặc quần áo vào đi theo tôi rồi đưa họ đến văn phòng viết kiểm điểm. Những lúc đó nét mặt họ cười cười trông rất tội và cũng hay hay. Nhưng họ thì chẳng thấy hay tí nào. Mùa thu năm 1976 bắt được một đôi, nam chừng bốn mươi, mặc áo khoác dạ mỏng, sắc mặt như xơ gan thời kỳ cuối. Nữ rất xinh, mặc com lê xanh, bên trong là áo len đỏ, sắc mặt trắng bệch. Đôi này không cười gượng, nhìn cũng chẳng thấy hay hay.
Hỏi: Làm gì?
Đáp: Làm việc xấu.
Lại hỏi: Bao nhiêu lần rồi?
Đáp: Từ khi Mao Chủ tịch qua đời đến nay chưa bao giờ ngừng.
Nói xong rùng mình như bị điện giật. Lúc đó đang có quốc tang, hành vi của đôi này biểu hiện đau thương quá mức. Chúng tôi nhìn nhau, ai cũng cười gượng gạo, rồi bảo: Thôi về đi đừng ra đó nữa. Từ đó cảm thấy cấp trên bắt chúng tôi đi làm một việc chán ngấy. Điều này cho thấy, trong thời kỳ cách mạng, bao giờ cũng có những người đem người khác ra làm trò đùa và có những người bị đem ra làm trò
đùa. Những bộ mặt xám ngoét vã mồ hôi lạnh, cười méo mó, phủ một lớp nhăn, đó là chiến lợi phẩm của kẻ chiến thắng. Tôi nhắc đến bộ dạng khi bị trĩ, bộ dạng của những người bị bắt ở công viên. Nếu không có cái cười méo mó thì thành man rợ trơ tráo, chẳng “hay hay” tí nào.
Tôi nói đến khi ngã gãy tay hồi bé, khi bị đói triền miên, khị bị “giúp đỡ giáo dục”, những lúc đó tôi đều cười méo mó. Kiểu cười đó giống hệt kiểu cười của những người bị bắt ở công viên. Làm tình ở công viên mười lần chỉ một lần bị bắt, cho nên coi như một kiểu xổ số. Cho dù kiểu chơi xổ số này so với “giúp đỡ giáo dục” khác nhau thế nào, nhưng có một điểm giống nhau, đó là khi không trúng xổ số và khi được “giúp đỡ giáo dục”, người ta đều có cái cười đáng yêu như nhau.
8
Tôi nói thêm về chuyện đáng yêu. Khi làm việc trên tháp, tôi hay nói với Chiên Ba: “Chiên Ba ơi, cậu thật đáng yêu!”, hắn bảo: Đ. mẹ, lại ghét tôi vì chuyện gì phải không? Lát sau tôi hát đoạn dân ca Albania đã đổi lời khác:
Chiên Ba thật đáng yêu
Nện cho sưng mắt càng yêu kiều.
Bài hát nào qua miệng tôi đều có thể mô tả bằng hai chữ buồn thảm. Chiên Ba im lặng nghe rồi bất thình lình vớ cái gì đó phang tôi. Nhưng bạn yên tâm, nếu tôi bị nó đánh trúng thì tôi không phải Vương Nhị, nó cũng không phải Chiên Ba – năm 1978 tôi thi đại học, vào ngày công bố kết quả, hắn ngồi lì ở phòng thường trực. Khi cầm được giấy báo trúng tuyển của tôi, hắn chạy như bay lên tháp bảo tôi: “Khoa toán Đại học Sư phạm! Mày coi như sắp cút rồi!”. Chẳng có ai may mắn đẻ ra đã được là Chiên Ba, lại có một Vương Nhị yêu hắn đến chết, cho nên coi như hắn trúng xổ số. Về chuyện đáng yêu là thế. Trước đây tôi biết Chiên Ba đáng yêu, đến khi con Hải Ưng x thấy tôi đáng yêu thì mới thấy đáng yêu là một tai họa lớn đến mức nào.
Khi chịu “giúp đỡ giáo dục”, tôi đến chỗ con Hải Ưng x , con ranh hay cười toe toét cúi đầu hạ giọng nói với tôi những câu kỳ quặc. Thí dụ tôi nói: Chào bí thư, tôi
đã đến. Nó nói: Hoan nghênh, ngồi đi. Nếu tôi nói: Tôi muốn bộc bạch về tư tưởng sống. Thì nó nói: Hoan nghênh tư tưởng sống. Bất kể nói gì nó cũng hoan nghênh. Nếu bảo nó muốn làm tôi vui lòng thì không phải, nó lặng lẽ như thường, tay mân mê chiếc bút bi. Nếu bảo nó nghiêm túc thì cũng không phải, mọi việc lộn tùng phèo cả. Bây giờ tôi mới biết, lúc ấy là lúc nó đang nhấm nháp cái đáng yêu của tôi. Việc này cứ nghĩ đến là tôi muốn phát điên.
Thời gian tôi chịu “giáo dục giúp đỡ” chỗ con Hải Ưng x , đã xảy ra một chuyện. Mùa đông năm đó cấp trên ra chỉ thị phải “đẩy mạnh phong trào trị an xã hội”, các cuộc họp tuyên án mở liên miên. Tất nhiên đó là giết gà để dọa khỉ. Tôi là con khỉ như thế, cho nên không được vắng mặt buổi nào. Trong hội nghị tuyên án cấp thành phố có mấy người đã bị lôi đi bắn bỏ. Hội nghị cấp khu phố cho mấy người đi cải tạo lao động. Đến hội nghị cấp công ty, tất cả học viên lớp học đều đứng trên sân khấu, sau hội nghị thì đi cải tạo. Sau đó đến hội nghị của nhà máy con Hải Ưng x đảm bảo với tôi trong cuộc họp phê phán, chỉ phê phán chuyện tôi đánh Chiên Ba, không có chuyện gì khác, không phải là hội nghị tuyên án, nhưng tôi không dám tin, cứ cho là không phải nhưng thế nào cũng sẽ biến thành hội nghị tuyên án. Tôi bảo tính tôi hay bi quan chưa biết chừng tôi khóc giữa hội nghị. Nó bảo nếu khóc được thì cứ khóc thoải mái, điều ấy chỉ chứng tỏ anh hối hận, rất có lợi cho anh. Thế là khi họp tôi khóc như mưa. Mấy bà cầm lòng không đậu cũng khóc theo, còn đưa khăn cho tôi, những người khác căm ghét nhìn Chiên Ba. Sau hội nghị Chiên Ba xông đến bảo tôi đóng kịch, dùng mẹo gian để hại ngầm hắn. Hắn muốn nện tôi một trận nhưng không có gan. Hình ảnh đáng yêu của hắn là hai tay nắm lại mà không dám xông đến.
Hội nghị diễn ra như thế, mụ Lỗ rất không thỏa chí, nói hội nghị chưa đánh gục cái xấu. Khi tan họp mụ xông đến tôi, người đông, không chạy kịp, tôi bị mụ ôm cứng, tôi đã tính trước bèn nhịn thở nhắm mắt gục xuống, họ lật ngửa tôi thấy hai hàm răng cắn chặt, hai mắt nhắm nghiền. Người ta gọi y tá đến chẳng hiểu sao đo chẳng thấy tim mạch đâu. Họ vội khiêng tôi lên xe ba bánh đi bệnh viện, lúc đó tôi cứng đờ như lôi trong tủ lạnh ra. Vừa ra khỏi cổng nhà máy, tôi khoái chí nhảy cẫng lên. Mụ Lỗ căm lắm bảo lần sau không đưa đi bệnh viện mà đưa thẳng đến lò hỏa táng!
Về hội nghị giúp đỡ này có thể tổng kết như sau. Đó là một sự kiện cũng như bao sự kiện khác trong thời kỳ cách mạng, kết quả là một số bị bắn, bị bỏ tù, bị quản chế, vẫn đi làm như thường nhưng mặt mũi nhăn nhó như bị rách. Người bị quản chế có thể bị lôi đi tù, người bị tù có thể bị lôi đi bắn, mọi chuyện đều có thể xảy ra, phải biết kiên nhẫn chờ đợi. Sai lầm của tôi chẳng chờ người ta cũng chết toi.
Sau khi xảy ra chuyện ấy, con Hải Ưng x bảo tôi: Anh sắp toi đời rồi. Còn giở trò nữa tôi không cứu nổi anh đâu, nhất định đi học tập cải tạo. Tôi cảm thấy không phải là nó dọa suông, tôi sợ lắm. Tôi bảo, cô... cố giúp tôi. Chúng mình với Chiên Ba rất thân thiết. Trước đó tôi không nói lắp, lại còn liến thoắng như người Nhật. Lần đó bị tiền nói lắp, đến giờ chưa khỏi. Bấy giờ tôi có hai cách chữa, một là trước khi nói đếm số lần mình nói lắp vậy là sinh ra bệnh thở dốc. Hai là trước khi nói vỗ trán một cái như người đánh muỗi, trông lại như người hay quên bỗng nhớ ra điều gì. Thế là tôi khi thì thở dốc khi thì hay quên, nhưng tồi tệ nhất là bây giờ đồng nghiệp bảo tôi chẳng thở dốc cũng chẳng hay quên. Họ bảo sao, tôi nói bạn không tin, nhưng thôi cứ nói ra thì hơn: họ bảo tâm địa bẩn thỉu, thâm độc nham hiểm, hay ton hót với lãnh đạo để hại những người trung thực. Nhưng tôi đâu có thế bao giờ. Tất cả là do con Hải Ưng x dọa mà sinh bệnh.
Con ranh này rất đắc chí, còn khoe Vương Nhị bị tôi dọa mà sinh bệnh thở dốc. Mọi người cười ầm lên. Nó công khai sỉ nhục tôi làm cho bệnh tôi càng nặng. Tất nhiên không thể đổ hết tội cho con Hải Ưng x , chiến dịch giết gà để dọa khỉ của lãnh đạo đã có tác động rất lớn. Nhìn những người bị đưa đi pháp trường, gông xích chằng chịt, những người đi cải tạo cũng có mấy thằng áp giải, đầu trọc mặt mũi cau có, bố mẹ chúng ăn gì mà đẻ ra những đứa như thế. Những chuyện như thế nếu tránh được thì tốt nhất là nên tránh. Cho nên tôi van xin con Hải Ưng x cứu cho. Nó bảo, tội của tôi là không nghe lời, thời buổi này không nghe lời, không chịu hình phạt là bắn liền. Tôi hỏi làm thế nào để thể hiện là nghe lời. Nó bảo trước hết là đi họp. Câu nói đó có nghĩa là đến hội trường mài đũng quần.
Con Hải Ưng x bảo Chiên Ba, thằng Vương Nhị rất buồn cười, biết đủ thứ, biết cả giả vờ chết. Nhưng tôi không biết nó nói tôi thế, nếu biết tôi bóp cổ nó chết tươi.