🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thoái Thực Ký Văn Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : THỐI THỰC KÝ VĂN Tác giả : TRƯƠNG QUỐC DỤNG Dịch và chú thích : NGUYỄN LỢI và NGUYỄN ĐỔNG CHI Nhà xuất bản : TÂN VIỆT Năm xuất bản : 1944 ------------------------ Nguồn sách : scmn-vietnam.blogspot.com Đánh máy : green@ Kiểm tra chính tả : Tào Thanh Huyền, Vũ Minh Anh, Nguyễn Huy Hoàng, Vũ Minh Anh Biên tập chữ Hán – Nôm : Trương Vĩnh Tiến Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 29/12/2019 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn tác giả NGUYỄN LỢI, NGUYỄN ĐỔNG CHI và nhà xuất bản TÂN VIỆT đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC TIỂU SỬ TRƯƠNG-QUỐC-DỤNG (1801-1064) CHƯƠNG I : TRƯNG KỲ CHƯƠNG II : TẠP SỰ CHƯƠNG III : VẬT LOẠI TRƯƠNG QUỐC DỤNG THỐI THỰC KÝ VĂN NGUYỄN LỢI và NGUYỄN ĐỔNG CHI dịch và chú thích Trong Tủ sách dịch TÂN VIỆT 1944 CÙNG BẠN ĐỌC Trương-Quốc-Dụng là một đại biểu cho cái khí-tiết của nhà nho về cận-đại. Một bộ sách của một người như thế viết ra, đứng về mặt văn học, tự nó có cái giá-trị đáng bảo tồn. Huống chi, « Thoái-thực ký-văn » còn chứa bao nhiêu tài liệu có thể giúp người sau trong việc nghiên-cứu về thời cổ. Thế nhưng… Thế nhưng thầy Mạnh có dặn : « Tin hết sách không bằng không sách ! » Chúng tôi mong các bạn cũng nên nhớ kỹ lời dặn đó, khi đọc đến những chuyện mà theo ý chúng tôi chỉ là những chuyện hoang đường. Chúng tôi sẽ được cảm ơn… Vì như vậy trong lòng chúng tôi sẽ hết băn-khoăn khi cho ra mắt các bạn tập tùy bút của Trương-Quốc-Dụng. Nhà xuất bản Tân Việt TIỂU SỬ TRƯƠNG-QUỐC-DỤNG (1801- 1064) Từ tỉnh lỵ Hà-tĩnh đi về phía đông nam ước 5 cây số đi qua đò Đồng-Môn là đến phần đất tổng Hạ-Nhi thuộc phủ Thạch-Hà. Đây chỉ là một bãi đất bồi tự lâu đời dính vào chân núi Nam-Giới. Đồng chua nước mặn dân sự nghèo túng. Giúp vào sức đất, phần nhiều thôn dân ngoài công việc nông phố còn phải đi góp phân người 1 một nghề bị lắm kẻ khinh bỉ. Chỗ ấy là nơi chôn rau cắt rốn của Trương Quốc-Dụng 張國⽤. Trương ra đời ở làng Phong-Phú năm 1801, tên chữ là Nhu-Trung 柔 中 . Sinh trưởng trong một gia đình vào bậc trung lưu, chuộng Hán học 2Trương lên 4 tuổi đã bắt đầu theo đòi nghiên bút. Nhờ có trí thông minh và có cha rèn cặp nên năm 25 tuổi đã giật giải hương cống (1825) đến năm 1829 đậu luôn cả tiến-sĩ số 4 dưới triều vua Minh Mệnh. Bước hoạn đồ của Trương cũng thăng trầm nhiều nỗi. Bắt đầu đi Tri-phủ Tân-Bình (Gia-Định) năm 1830. Năm sau vừa về làm Lang Trung bộ Hình được ít lâu thì bị lỗi cách tuột chức và phải hiệu lực ở bộ Lại (1832). Tháng 6 năm 1833 lại phải tòng quân đi đánh đảng Lê-Văn-Khôi, dưới quyền Tam tán Trương-Minh-Giảng. Sau khi bình định, Trương được thăng dần từ chức Chủ sự lên đến Án sát Quảng-Ngãi (1837) rồi đổi ra Hưng-Yên (1840) tiện đường ghé thăm nhà. Tự lúc làm quan đến nay mới về quê lần này là một. Vua Thiệu-Trị nối ngôi cha (1841), Trương được về kinh giữ chức Tả thị lang bộ Lễ. Rồi như con chong chóng, được hai năm, đổi qua bộ Lại (1843) kế bộ Hình. Năm sau vừa cải sang bộ Công. Thăng đến Tả tham tri (1846). Bắt đầu triều Tự-Đức (1848) Trương được giữ nhiều việc quan trọng : kiêm cả giảng sách hầu vua, coi việc Khâm thiên-giám và viện Hàn-Lâm. Năm sau từ bộ Công lại thiên sang bộ Binh. Nhân ông cụ ở nhà 80 tuổi (1851), được phép về ăn mừng thọ. Từ đây Trương thỉnh thoảng được đi chấm trường thi Hội và các trường thi Hương ngoài Bắc. Ông cụ nhà chết năm 1854, Trương về đinh ưu, sau ba năm được thăng Thượng thư bộ Hình kiêm cả chức Phó tổng tài Quốc sử quán. Năm 1862 đảng Tạ-Văn-Phụng hoạt động ở Quảng-Yên có cả Cai tổng Vàng và giặc Tàu giúp sức, Trương vâng lịnh đưa lính Thanh Nghệ, với chức Hiệp thống đi đánh ở Quảng-Yên. Không may đến năm 1864 thì bị tử trận, được triều đình ban tên thụy là Văn-Nghị ⽂誼 với hàm Đông-Các Đại học sĩ. 3 Trương tính liêm khiết ngay thẳng, lúc ở bộ Hình có nhiều án được ông giải oan. Lại là một nhà nho có nghị lực. Đọc tác phẩm của Trương ta thấy một điều hai điều thường nhắc đến Trương-minh-Giảng Nguyễn-Xuân, v.v… tỏ ý khâm phục cái nhân cách của các người đó. Nhưng cái gì cũng hay tự quyết. Theo Đặng-Xuân-Bảng là người chứng kiến trận Quảng-Yên thì cái chết của Trương cũng tự mình gây ra vì trước đó Đặng đã can : - Đóng đồn đây ba mặt kề sông, nước thủy triều lên lỡ ra thuyền giặc thừa cơ kéo vào đánh tập hậu thời mình thua, nên dời quân chỗ khác. Trương đáp : - Ta đóng đồn ở đây nghĩa là bội thủy trận, quyết đánh thù tử, ngươi không có can đảm cho ngươi về đóng quân giữ sông Bạch Đằng. 4 Trương ưa rượu, hiếu học, ở trong quân thứ vẫn không sao nhãng việc đọc sách. Trong thời làm quan, được đi khắp Trung Nam, Bắc và Cao-Mên nên kiến văn lịch duyệt khá nhiều. Theo « Đại-Nam nhất thống chí » thì Trương còn tinh về thuật số như chiêm tinh học. Về môn này có lẽ Trương được chân truyền ở ông nội mình 5. Và cái học thần bí ấy ngay ở vùng phủ Thạch Hà còn thấy một đôi nhà như họ Vũ Tá là một. 6 Tác phẩm của Trương có bộ « Thối Thực Ký Văn », 4 quyển gồm có những bài bút ký giá trị về mặt sử liệu xã hội Việt-Nam ở thế kỷ thứ XVIII, XIX. Thể tài như một quyển bách khoa nhỏ, chia ra các mục : - Trưng-Kỳ : kể những việc lạ điềm kỳ. - Tạp Sự : các kiến văn vặt. - Vật Loại : những thường thức về động, thực vật. - Chế Độ : khảo chế đồ cũ. - Nhân Phẩm : các danh nhân nước nhà. - Phong Vực : tức địa dư phong tục. - Cổ tích phụ Sơn xuyên : tức đền chùa thành trì núi sông. Nói tóm lại cũng tương tự như một vài loại sách bút ký của Tàu mà tác giả đã được đọc. Sách soạn xong khoảng năm 1849-50 chưa xuất bản lần nào chỉ lưu truyền bằng cách chép tay. Bởi vậy các mục trên sắp đặt có khác, tùy từng bản chép. 7 Ngoài ra, còn có quyển « Trương Nhu Trung Thi Tập » là một tập thơ chữ Hán. 8 CHƯƠNG I : TRƯNG KỲ 9 Đời truyền : khi sinh vua Lê-Thánh-Tông, bà mẹ là Thái hậu họ Ngô chiêm bao thấy đến chỗ ở của Ngọc hoàng, người sau nầy chỉ vào một tiên đồng mà bảo : - Cho mầy làm con người này. Tiên đồng dùng dằng không chịu đi, bị Ngọc hoàng trong cơn giận lấy hốt đánh vào trán. Đến khi tỉnh dậy, sinh ra vua Lê Thánh, trên trán tựa như có vết ; đêm ngày khóc không thôi. Có một đạo sĩ tự xưng có phép làm cho trẻ khỏi khóc. Mới mời vào xem. Đến nơi đạo sĩ vỗ trẻ mà bảo : - Thượng đế sau có truyền cho thêm nước Chàm nữa. Đứa trẻ nín, không khóc nữa. Năm quý mão (1783), Tây Sơn đánh đảo Côn Lôn, thuyền đội của vua Thế-Tổ Gia-Long phải chạy ra biển, trong thuyền thiếu nước uống đã bảy ngày. Tướng sĩ đang lo khát bỗng thấy đầu thuyền, nước trên mặt biển đen trắng phân rõ, bên nước trắng có suối vọt ra, nếm thử thấy ngọt, bèn múc vào để dùng. Từ đó lòng quân thêm hăng, các kiệt nghe tin đều hưởng ứng, mới biết có trời giúp. Việc ấy cũng một loại như việc Hán-Cao-Tổ gặp trận gió ở Tuy-Thủy và Hán-Quang-Vũ gặp nước băng ở sông Hồ-Đà. 10 Tiên hiền đã bảo : - Quỉ thần là dấu của tạo hóa, là lượng năng của hai khí âm dương. Bởi vì có khí ấy thì có lý ấy nên Quỷ thần cũng là một cái lý mà những dâm tư của dân quê mùa đều không có. Xem hai việc đền Tản-Viên và đền Hưng-Đạo dưới nầy thì biết quỷ thần không ra ngoài chính lý. Núi Tản-Viên ở vào đất hai huyện Bất-Bạt, Minh-Nghĩa thuộc Sơn-Tây hình tròn như cây tán, cao ngút, trấn ngự một phương. Từ đỉnh đến chân núi đều có đền thờ. Đền ở đỉnh núi, ít người tới. Những khi kỳ đảo tế tự đều làm lễ ở đền chân núi. Các tỉnh ở Bắc Kỳ gần núi đều thờ thần ấy. Tỉnh Ninh-Bình có một làng, lúc trước thờ Liễu-Thăng, trước đền có một cái hồ, không ai dám tới đó tắm giặt, nếu lầm mà phạm đến thì bị bệnh chết. Có một người học trò đi qua nhân nóng nực xuống tắm ở đó. Đến khi về nhà trọ y bị chứng nóng rất nguy, chủ quán hỏi thì y đáp là có tắm ở hồ ấy. Chủ quán nói : - Thế thì thầy lầm rồi, thật khó chữa. Người ấy nói : - Ông Liễu-Thăng nếu có thiêng há vì sự lầm lạc mà làm chết người ư ? Nếu tôi có chết xin để bút giấy ở đầu giường để tôi kiện họ. Sau ba ngày mà không sống lại thì sẽ chôn. Người học trò quả chết. Chủ quán làm y theo lời. Sau một đêm, người ấy sống lại thuật chuyện rằng : - Đầu tiên tôi tới kêu ở đền Đinh-Tiên-Hoàng, thì thần truyền qua kêu ở đền thần Tản-Viên. Tôi đến nơi, nạp đơn vào, thấy thần sau nầy cho người đòi Liễu-Thăng đến, quở rằng : Tướng thua trận như anh được hưởng hương hỏa là may, lại dám giết những người vô tội à ? Bèn sai truất miếu thờ mà tha cho tôi về. Từ ấy đền Liễu-Thăng mất thiêng, rồi người ta cũng bỏ không thờ tự nữa. Quân nhà Trần phá giặc Nguyên, bắt được bọn Ô-Mã Nhi, trong đó có một tỳ tướng tên là Phạm-Nhan có yêu thuật, dao búa không thể làm chết được. Kịp khi thấy mặt Hưng-Đạo Đại-Vương mới chịu chết. Tục truyền quỷ Phạm Nhan hay quấy hại đàn bà con gái. Nay đền Hưng-Đạo ở xã Vạn-An thuộc huyện Phượng-Nhãn (Bắc-Ninh) vốn là phủ đệ của ông, rất là linh dị, hễ đàn bà mắc bệnh tà đi qua đó thì tránh đi, chứ không dám lại gần. Có kẻ mắc bệnh tà đem đến ông xin chữa. Người bệnh đến nơi liền ngã xuống đất, một chốc sống lại mà bệnh thì lành. Ở Hà-Nội có làng Kinh-Khê, khi trước thờ thần Tam Lang. Triều Thiệu-Trị năm nhâm dần (1842) người làng ấy tới trình quan rằng thần làng ấy là một vị thần tà dâm, hay làm đàn bà con gái mắc quỷ thai, xin bỏ đi mà thờ một vị thần khác. Quan truyền cho thờ Đại Vương Hưng-Đạo… Hơn một tháng người làng mới tới đến làm lễ, có một người ứng đồng lên nói : - Bảo ta dâm quỷ là vô lý, đã lấy tội mà phế bỏ lại dám tới đây tranh với ta. Hôm nay có điều lạ bảo với người làng chớ có thột. Đêm ấy quả nghe ở ngoài đồng có tiếng kêu rằng : - Hương hỏa trăm năm có tội gì mà đuổi. Bỗng có trận gió lớn từ đền ra, cây cỏ đều ào ào, dần dần ra đến ngoài đồng, dường như cách xua đuổi. Tiếng ấy rồi cũng mất. Từ đó người làng mới yên. Đền Lý Ông-Trọng ở xã Thụy-Hương thuộc Từ-Liêm Hà Đông rất linh dị. Đời nhà Lê có Nguyễn-Mại 11 làm Đốc trấn Sơn Tây. Trong làng ấy có một người mất trộm, khi tới đền cầu khấn thì thấy những đồ vật của mình mất ở trong đền. Người ấy sợ hãi đem việc đó trình với ông. Người sau này bắt làm đơn rồi sai lính cầm trát về đòi thần tới xét hỏi. Lính đến nơi thì thấy kẻ trộm đã chấp tay phủ phục dưới đền. Dân xã lấy lọng và hương án rước lư hương tới công đường. Ông Mại cứ án cật hỏi, nói phô có điều bất tôn với thần, ai nấy phải lạy và khuyên giải mới thôi. Rồi đem tên trộm khép án. Về sau, ông Mại bị Trịnh-Cương giết, cháu là Cử, Tuyển bị diệt tộc, người ta cho là vì khinh dể thần thiêng nên bị báo thù. Nguyễn-Mại lại có lần bổ Hiến-sát Nghệ-An. Mới đến, trước hết đi yết đền thần Tam-Tòa 12, sau mới yết đến Mai Hắc-Đế. Tuần sau ứng đồng lên trách rằng : - Yết thần Tam-Tòa trước ta, sao bản quan dám khinh ta thế ? Ông trả lời : - Vì Mại thấy trong sách cúng liệt thần Tam-Tòa ở trên ngài, chứ tôi đâu dám khinh. Vả lại ngài quật khởi xưng vua chưa được mấy lâu đã bị diệt, có oai linh gì đủ làm cho người ta sợ. Thần nói : - Bản quan không kính ta, ta làm chết cho coi ! - Nếu ngài đang sống mà làm tôi chết sợ cũng là phải, nay ngài chết rồi lại làm tôi chết nữa thì ngài trước tôi sau, có sợ gì. Thần bèn lặng. Ông Mại không tin quỷ thần, đại loại như thế. Không nên siểm nịnh mà cũng không nên lờn dễ quỷ thần. Làng Thần-Dầu ở phía Bắc Hoành-Sơn có đền thờ ông Bảng Nhãn họ Lê 13. Buổi quốc sơ có người xã Cao-Lao (Quảng-Bình) làm Tri bộ, có lần cưỡi ngựa đi qua trước đền. Người tùy tòng ngăn lại : - Nghe rằng đền nay rất thiêng, xin ông xuống ngựa. Người kia đáp : - Biết đâu ta lại không bằng ông Bảng ấy, xuống làm gì. Bèn cứ đi qua, liền bị ngã ngựa, khi về tới nhà nằm ốm không dậy được, người ta kêu ông là Tri bộ Lăn vì tục gọi vấp ngã là « lăn ». Ôi ! Những thần linh mà người thờ là danh sơn đại xuyên giúp lợi thi trạch cho người và các chư hầu, khanh sĩ vốn có công đức với dân. Thần vẫn không lấy sự người lờn dễ mình mà tác họa, chỉ vì những kẻ tiểu nhân không biết kiêng sợ làm trái lẽ đi, để mang nhục rồi bị người cười. Đời truyền Tô-Hiến-Thành nhà Lý khi đang làm một chức quan nhỏ, ở trong một xóm, nóc nhà liền lu với nhau. Một hôm, thấy người hàng xóm phía đông cách bờ giậu phơi áo, nhà phía tây lấy trộm đi. Tô trước vẫn tưởng là áo của nhà ấy, sau đó một chốc, nhà phía đông thấy mất áo ra kêu van chửi bới. Tô hiểu, nhưng chưa muốn nói ra vội. Rồi thấy người mất áo tới đền trong xóm để nộp với thần. Đền ấy vốn có tiếng linh ứng. Tô định bụng để xem thử ra làm sao. Được một tuần nhật14 không thấy có hiệu quả gì cả. Ông bèn bảo người trong xóm hủy đền không tế tự nữa và nói : - Gọi rằng thần, sở dĩ ngăn hoạn nạn cho dân, bây giờ nhà kia mất của kêu van với thần mà không được thì còn thờ làm gì. Cả xóm còn ngờ, ông sai quăng lư hương mà khóa cửa đền lại, bảo nếu có lỗi gì thì một mình ông chịu trách nhiệm. Đêm đến, người vợ thấy thần báo mộng : - Sao lại bỏ ta không thờ, ta sẽ làm chết đứa con nhỏ cho coi. Người vợ tỉnh dậy nói với ông, ông không nghe. Năm ngày sau, đứa nhỏ quả chết. Tuy vợ khẩn cầu mà ông cũng không nghe. Hôm khác, người con đầu ông lại chiêm bao thấy thần giận dữ nói rằng : - Mau mau nói với cha mày thờ ta lại, không thì ta làm chết thêm đứa em thứ của mày. Con trưởng tỉnh dậy, xin cha và người trong xóm cũng tới xin mãi mà ông nhất thiết không nghe. Được ba ngày đứa con thứ lại chết. Thần mới ngự đồng lên bảo Tô rằng : - Nếu biết sớm mà thờ ta lại thì đâu đến nỗi thế. Tô đáp : - Chết sống có mệnh, kia như đứa có tội thần còn không bắt nó, huống chi làm tôi người thường ru. Chỉ quen dọa đàn bà vô tri chớ dọa ta sao được. - Ngươi chưa tin ta, không chịu trả sự thờ cúng cho ta chết rồi mới biết. - Thờ cúng thì không thể được, còn muốn làm chết ta thì làm, nhưng hẹn kỳ cho biết. - Năm ngày tự khắc biết. Năm ngày qua mà không có việc gì cả, ông Tô bèn đốc xuất xóm ra triệt hạ đền. Thần lại ứng đồng ra từ tạ : - Thần vốn không giết được ai, chỉ biết được mệnh người sống hay chết. Hôm trước hai đứa con của ngươi là mệnh đã đến ngày chết, ta có được biết, nhân đó mà dối ngươi vậy thôi ! Ngươi thiệt là một kẻ chân chính ngày sau sẽ gánh được việc lớn. Nhưng ngươi chưa nghĩ đến nơi, đại phạm việc gì cũng cốt ở kiên nhẫn. Đứa trộm áo ngươi, cũng có biết, ngươi còn… níu câu nói của mình thế sao lại không nên nín cái chết cho nó. Trộm một cái áo, ngươi khép nó vào tội gì ? Mà đứa mất áo tới cầu ta xin bắt cho chết, ngươi có nỡ nghe theo chăng ? Nhưng đã lấy việc ấy trách ta thì ta sẽ bắt tên trộm áo phải đau chừng nhẹ vài ngày là đủ. Ông Tô mới nói : - Như lời ngài nói bây giờ rất có lý, sao chẳng thờ ngài, nhưng ngài dọa tôi thì không được. Bèn thờ phụng lại như xưa. Tên trộm cũng đau đầu vài ngày rồi khỏi. Ông Tô sau làm quan đến chức Thái úy là một bậc danh thần. Vua Trần-Thái-Tông có lần cầu tự. Đạo sĩ đốt tấu xong, dậy nói rằng : - Đã xin được với Thượng đế rồi, ngài sai đồng tử là Chiêu-văn giáng sinh. Kịp khi sinh ra bên cánh tay Trần-Nhật-Duật có chữ « Chiêu Văn ». Nhân đó phong Nhật-Duật làm Chiêu-Văn Vương, sau thành một danh tướng. Vua Lê-Thái-Tổ có lần chiêm bao thấy đang tế ở dưới núi, trên núi có cắm cờ vàng. Hôm sau có Hoàng-Sát tới yết và người này sau thành danh tướng. Bùi-Cầm-Hổ 15 (bắt cọp). Đô ngự sử đời Lê khi sắp ra đời, người cha mộng thấy một con hổ gầm ở sân. Giật mình tỉnh dậy thì vừa bà vợ ở cữ, mới đặt cho tên ấy. Làng Tỉnh-Thạch (đá làm tỉnh ngộ) thuộc huyện Thiên Lộc 16 Hà-Tĩnh thuở xưa là làng Đồng Tỉnh, có Hà-Công Trinh khi hàn vi, có lần say rượu nằm ngủ trên hòn đá bên đường, mộng thấy có người tới khuyên rằng : « Sao không về đi học bỏ uống mất cái tài lỗi lạc ». Ông ta tỉnh dậy, trở về theo đòi nghiên bút thi đậu đến tiến sĩ 17 Sau khi quy hiển mới đổi tên làng. Triều Lê-Hồng-Đức có Đỗ Nhân đi thi hương cùng với bạn đi thi trọ một quán, đêm đến nghe ngoài cửa có tiếng kêu « hử », ra xem thì không thấy gì cả, vào nói với bạn rằng : « Bất tri kỷ mà hử » 18. Kịp khi vào thi, đầu đề bài phú là Ngư phủ nhập đào nguyên (bác chài vào cõi đào nguyên) vần thứ hai có câu : 宅浮⽔⾯⽅恣意其所為 ; 路失塵寰 忽不知其何許. « Trạch phù thủy diện, phương tứ ý kỳ sở vi ; Lộ thất trần hoàn, hốt bất tri kỷ hà hử ». Nghĩa là : « Nhà trên mặt nước muốn đi đâu thì đi ; đường quên cõi trần chẳng biết thế nào đây ». Quan trường chấm đến câu ấy cho rằng có thần giúp. Câu này cũng giống như câu của Tiền khi 19: 曲終⼈不⾒ ; 江 上數峯⻘. « Khúc chung nhân bất kiến ; Giang thượng sổ phong thanh ». Nghĩa là : « Khúc hát hết rồi người đâu chả thấy, chỉ thấy trên sông mấy ngọn núi xanh ». 20 Giáp-Hải người xã Sính-Kế, huyện Phượng-Nhãn, lúc trẻ có lần chết đuối ở sông mà không biết là mình chết. Thấy dinh phủ quân quan không khác gì dương gian, hỏi người gác cửa rằng : - Quan lớn ngồi trong đó là ngài nào ? Đáp : - Ông trạng họ Lương đó. Giáp nói là học trò của ngài xin vào yết kiến. Người ấy đưa vào Lương trông thấy bảo rằng : - Con tới đây làm gì, phải trở về. Giáp lạy mà rằng : - May gặp quan thầy ở chỗ nầy, xin ngài thu nạp dạy dỗ cho. Lương đáp : - Con không biết, đây là nơi thủy phủ không ở được. Ta lúc sinh tiền thường soạn khoa giáo cho nhà chiền, bị quở phải ở đây đến ba trăm năm mới hết hạn đày. Công danh con sau đây theo một lối khác, nên về mau mà học, đừng ở đây lâu. Giáp lạy tạ, Lương sai người đưa về. Giáp lên khỏi mặt nước thì sống lại về nhà. Sau thi với nhà Mạc (1538) đậu Trạng nguyên, làm quan đến Thượng thư cho đến hưu trí. Nguyễn-Văn-Giai người xã Thu-Hoạch 21 huyện Thiên Lộc. Bà mẹ lúc có mang, một hôm đi gánh nước ban đêm, có ngôi sao sa vào ấm nước rồi sinh ra ông. Ông ăn khỏe gấp mười người thường. Có lần đi đường, nghỉ đêm ở đền thần núi Đồng-Cổ vừa gặp kỳ tế thần. Cả đêm người làng làm thịt trâu, xong đặt vào trước bàn thờ rồi để tâm vào việc hát xướng, đến sáng ngày sắp sửa tế thì thấy thịt đã bị ăn vào bậy bạ, họ lấy làm lạ, kịp khi thấy Nguyễn-Văn-Giai đang ngủ say trên chỗ thần tọa, họ toan trói lại thì thần ứng đồng lên nói rằng : - Chúng mày chớ có lễ, người nầy là bạn của ta mới tới, ta lấy đồ lễ đó để thiết đãi ngài và những người đầy tớ. Người làng khi ấy đối với ông hết sức kính trọng. Nguyễn sau đi thi đậu đầu Tiến-sĩ, làm quan đến Thượng thư kiêm nắm quyền cả 6 bộ, phong Lễ-Quân-Công. Có một sứ Tàu sang ta thấy ông, rồi bảo : - Ông nầy là tinh khí ngôi sao « Tất », ở nước nhỏ lấy gì ăn cho đủ. Khi ông còn tại chức có lần Trịnh-Tùng bị bệnh chết đã một đêm rồi sống lại, thuật chuyện lại rằng : - Ta thấy đi đến một chỗ cung điện rất nghiêm trang, chính giữa có một cái giường bỏ trống như để thờ Đế thần, phía đông phía tây đều có giường cả, giường phía tây cũng để trống « chỉ có Nguyễn-Văn-Giai ngồi giường phía đông ». Người nầy dắt ta đi đến dưới thềm sẽ bảo : - Tôi đã xin với (Thượng) đế rồi, giặc Mạc chưa trừ xong, hãy cho Tùng ở lại làm việc cho nước Nam. Vì đó mới được trở về.22 Nay dân huyện Thiên-Lộc có thờ thần Hồng-Lĩnh đại tướng (?) là Nguyễn-Văn-Giai vậy. 23 Ở duyên hải thường có thờ Tử-Dương-Hầu Thành-Quốc công. Đó là hai người đều làm tướng nhà Mạc mà đền thờ thì chung một chỗ. Xét ở sử truyện thì không thấy tên Thành-Quốc công. Có thuyết bảo là Nguyễn-như-Khuê. Còn Tử-Dương-Hầu họ Phạm tên Tử-Nghi quán làng Thiên-Lôi xã Vĩnh-Niệm, tổng An-Dương thuộc Hải-Dương. Người sau nầy vốn sức khỏe dân xứ đông bắc đều qui phục. Khi Mạc-Phúc Hải chết, Phúc-Nguyên còn trẻ, Tử-Nghi muốn lập Hoằng Vương là Mạc-Chính-Trung mà không được, bèn cùng Thành-Quốc-công làm loạn, bắt hiếp Chính-Trung đuổi Phúc-Nguyên. Bắt đầu mới lấy được thành Thăng-Long thì đã bị Lê-Bá-Ly đánh đuổi, bèn đưa Chính-Trung ra giữ đất Ngự-Thiên tức là Hưng-Nhân 24 bây giờ, nhưng lại bị thua với Mạc-Kinh Điển phải chạy ra chiếm cứ An-Quảng. Bấy giờ nhà Mạc phía nam đang chống cự với quân Thanh Hóa nên không có sức, Tử-Nghi bèn hùng cứ các hải đảo đánh cướp châu Khâm của Tàu, người nhà Minh đánh không nổi, đưa thư sang trách Phúc-Nguyên. Kinh-Điển mới cho người lừa Tử-Nghi rằng : Phúc-Nguyên đã chết, rước Chính Trung về thay, rồi thừa cơ giết được Tử-Nghi, đưa thủ cấp sang cho nhà Minh, đi đến đâu thì dịch tễ nổi lên, người và súc vật chết hết nhiều, người nhà Minh phải trả lại. Nay cửa biển Phú-Tài 25 ở Bình-Định có đền thờ rất là linh nghiệm. Cửa biển ấy thường bị cát bồi cạn, khi nào có thuyền nhà nước ra vào thì quan địa phương phải tới đền cầu nguyện, cách một đêm thì khai thông, thuyền đi rồi lại cạn như cũ Mới đây, bộ Lễ nghi định các thần đều bỏ tước hiệu công hầu, mới phong sắc là « Tử Dương Thành Phủ Quân ». Thì tựa hồ một người chứ không phân biệt. Đời Lê, ở làng Đông-Ngạc 26 có Đỗ-Thế-Giai lúc còn trẻ theo học với thầy trong làng. Một hôm rủ bạn học đi đánh bạc, khi qua đền thần ở xóm lân cận có vào cầu (cho được bạc). Nào ngờ bị thua trở về trách thần rằng : - Đã cầu khấn mà không giúp thì hưởng khói hương của người đời mà làm gì ? Nói rồi lật úp lư hương xuống mà đi. Về sau người và súc vật ở xóm ấy không yên. Thầy bói đoán là thổ thần xuất ngoại. Họ bèn mời đạo sĩ về phụ thành hoàng. Thần ứng đồng lên bảo : - Ta bị ông Đỗ-Thế-Giai đuổi đi, mà ông ấy thì học với thầy ở làng kia, nên vì ta tới xin với thầy ấy. Họ theo lời. Thầy học hỏi thì Đỗ kể hết đầu đuôi. Thầy lấy làm lạ nhưng cũng trách quở. Đỗ nói : - Đã thế thì cho về đền ? Từ ấy trong xóm mới yên. Đỗ sau làm đến chức Thư phủ, thế vị lừng lẫy. Hiệp biện Đại học sĩ là Đặng-văn-Hòa 27 có kể chuyện rằng : Hồi ông làm Hiệp biện ở Thanh-Hóa, trong bộ phát sắc thần ra, có một làng thờ Liễu-Hạnh công chúa tới rước sắc, ông nhân bảo : - Nghe tiếng bà linh ứng lắm, vậy có phép gì cho tôi thấy chăng ? Nói đoạn thì giữa sân bỗng chốc có chớp rạch, trời đang trưa, nắng to mà gió máy ùn nổi, một chốc rồi tan. Liễu Hạnh công chúa là con gái họ Trần ở huyện Thiên-Bản 28 thuộc Nam-định, mới về nhà chồng được vài năm thì chết, rồi giáng làm thần ở núi Tam-Điệp và núi Vân-Cát, có khi lại hiện ra người. Nay đền núi Sùng ở xã Cổ-Đam thuộc Thanh Hóa là chỗ bà giáng làm thần ở đó. Tỉnh Quảng-Ngãi có đền ở Thụ Phổ thờ Trấn Quận công nhà Lê là Bùi-Tá-Hán 29 Lê-văn-Duyệt có lần tới đó bắt cọp, vây ba mặt còn một mặt gần đền để trống, nói rằng : - Mặt ấy thì gửi cho thần. Đến khi đuổi cọp thì thấy cọp nép ở cạnh đền không động đậy gì cả. Lại xã Ngoại-Thiên-Lộc 30 thuộc huyện Thiên-Lộc có đền Ông-Sóc thờ vị thần là Ô-Trà-Sơn. Đền ấy không biết bắt đầu từ buổi nào, từ trước lại nay cũng chẳng có sự gì lạ. Gần đây hai năm dậu và tuất núi Hồng-Lĩnh có con cọp dữ. Huyện Thiên-Lộc và Thạch-Hà bị nó hại đến vài trăm người. Một hôm giữa ban ngày cọp lội sông Nghèn qua phía nam, chưa được nửa sông thì dân bờ bên kia hò hét đuổi cọp, cọp phải trở lại, đến xã ấy (Ngoại-Thiên-Lộc) giết mất hai người đi đường, rồi vào trong làng. Người làng hoảng hốt không biết làm thế nào vội vàng chạy vào đền cầu khẩn hồi lâu mới ra, thì thấy cọp nép dưới gốc cây ở bên cửa đền mà đã chết rồi. Dân xã Dương-Luật phủ Thạch-Hà (Hà-Tĩnh, thờ thần Chiêu-Trưng 31 ở núi Nam-giới. Đầu mùa thu năm canh thìn (1820) người trong xã có kẻ chiêm bao thấy thần bảo dịch khí sắp nổi, răn người làng đi ra ngoài, tự giữ gìn với nhau, cũng đừng dung người ngoài đến ở. Đến cuối thu dịch nổi bốn bên mà làng ấy vô sự. Năm gần đây, trong làng ấy có con đồng xưng là bộ hạ thần Chiêu-Trưng đi chữa bệnh cho người ta, cũng có kẻ ngẫu nhiên mà lành nên được người ta tin theo. Người ấy về đến dưới đền, tự nhiên miệng mũi máu tươi vọt ra mà chết. Đền Chiêu-Trưng ở Triều khâu 32 cũng rất thiêng. Miệt Vân-Tán có người nhà giàu vợ chết đã chôn rồi. quỷ cứ hiện hình về giữa ban ngày đến cửa thì biến mất. Sau thường về quấy nhà ấy, cầu cúng mà không yên. Người chồng bèn trai giới đến đền mà làm lễ ba ngày mộng thấy thần hứa sẽ trừ đi cho. Mới mất. Tiên Phạm-Viên là con Phạm-Chất ở huyện Đông-Thành (Nghệ-An) làm Thị lang đời Lê, sinh được vài năm mà không biết nói. Lên 8 tuổi đi chơi rong, người ta có khi gặp ở trên núi phía tây huyện, có khi gặp ở trong núi Hồng-Lĩnh. Khi Phạm Chất chết, có về chôn cất tế lễ đủ bổn phận làm con, xong rồi lại đi. Đoạn tang rồi thì đi biệt không biết nơi nào. Tương truyền Viên có làm bài phú Tịch cư ninh thể bằng quốc âm, câu nào câu nấy đều có khi cốt xuất trần 33 Sau có Nguyễn-Quỳnh 34người làng Bột-Thượng phủ Hoằng-Hóa (Thanh-Hóa) tự phụ tài giỏi khinh dễ người đương thời. Một hôm ở Thăng Long về đến chợ Mía ở ngoài trấn Thanh Hóa gặp một sĩ nhân cùng đi hỏi rằng : - Ngài có phải là Nguyễn Quỳnh tiên sinh chăng ? Quỳnh đáp : - Phải ! Lại hỏi : - Nghe tiếng ngài đã lâu, làm ơn cho tôi xin một bài thơ. Quỳnh thấy nói đường đột lấy làm lạ mới hỏi : - Con cũng có biết làm thơ à ? - Tôi khi bé có học làm thơ, dầu không hay nhưng thấy người đời làm ít có bài vừa ý, (bây giờ) muốn biết mực thước của tay thợ cả. Quỳnh giận và ngạo mạn mới rằng : - Đã như thế thì ta cùng làm thi. - Nhưng xin tiên sinh cho biết cách thức kỳ hạn. Nhân trước mặt có cầu gỗ lim (từ chỗ đang đi đến cầu) không đầy mười dặm, Quỳnh hẹn : - Vừa đi vừa làm đủ 100 vần, ai nấy cũng phải lấy vật gì để nhớ số vần, tới cầu thì phải xong. - Nếu không xong thì thế nào ? - Đạp ngã xuống bên cầu. Kịp khi tới cầu, người kia làm đủ trăm vần mà Quỳnh mới được có 60, chưa kịp tạ thì đối thủ đã đạp ngã lăn xuống bên cầu mà bảo : - Từ nay chớ lừa người nhé ! Quỳnh mới biết là dị nhân, vội vàng chắp tay tạ rằng : - Kẻ mắt thịt không biết thần tiên xin ngài chỉ giáo. Người nọ nói : - Ta không giấu với ngươi, ngươi có biết giữa trần có Phạm-Viên chăng ? Quỳnh lạy xin đi theo. Người nọ lại bảo : - Ngươi tục duyên chưa hết không tiện đi, hãy về cố tu luyện, có ngày hội ngộ. Quỳnh từ đấy đi chơi tùy thích, không màng đến danh lợi nữa. Lại huyện Thanh-Chương (Nghệ-An) có Nguyễn-Trọng Mỗ 35 và huyện Đông-Thành có Nguyễn-Hưng-Hàn hai người kết bạn, cùng nhau luyện khí, tịch cốc vào núi cầu đạo, gặp Phạm-Viên, người nầy bảo : - Các anh không có tiên cốt. Anh Mỗ nên về học lối làm quan, còn anh Hàn thì kiếm một nghề nuôi miệng cũng đủ. Sau ông mỗ thi đậu Tiến sĩ làm quan đến Thị lang bộ Lại mà Hàn thì giỏi phong thủy, song cũng ít lấy đất cho người, ưa đi vơ vẩn một mình như người điên. Trong huyện Đông Thành có chợ Gò, (Khư thị) ở cạnh làn núi Di-Lặc, một hôm đang sớm, chợ mới có mươi người. Hàn đã hơn 70 tuổi cầm gậy đuổi đánh người đi chợ và rằng : - Chúng bay chạy mau không thì chết. Người đi chợ chạy tan rồi lại họp. (Ông ta đuổi đi) như thế đã vài lần. (Cuối cùng) Ông bảo : - Ta mệt quá ! Bay không đi đi, cái chết đã sắp đến rồi đó. Người ta chẳng hiểu ý tứ thế nào lại đổ ông ta say rượu. Được một chốc chợ họp được vài mươi người thì hòn lèn rơi đè chết hết. Chợ ấy sau mới dời đi chỗ khác. Hàn ở trong làng, một hôm, làng tế thần ở đình, ông cũng đi dự hội rồi lên vào bàn thờ xách bài vị thần ra đi, đến khi người làng biết, đuổi theo được vài dặm gần kịp thì ông ta bảo rằng : - Chúng bay sao không ngảnh lại ? Bây giờ đuổi đến chỗ nào rồi ? Chưa dứt câu nói, họ đã nghe tiếng lao xao ở sau, ngảnh lại thấy đình đã cháy, chữa không nổi, lại cháy lan đến vài mươi nóc. Đình rồi cũng dời đi chỗ khác. Lại một ngày, Hàn đi làm địa lý, sai đầy tớ mang một quan tiền đi theo. Dọc đường có đứa ăn mày khúm núm van xin. Ông ta giơ gậy bảo : - Mầy há miệng ra để tao đâm một cái, nếu chịu được thì tao cho quan tiền nầy. Đứa ăn mày ngỡ nói chơi cũng há miệng, bị Hàn làm thiệt, đâm một cái chảy máu ra, nằm lăn rên rỉ. Ông ta bảo : - Nguyên tao làm chơi, không ngờ già yếu, tay không giữ nổi cái gậy, trúng phải mầy đau. Nhưng mầy đói đến thế được một quan tiền chẳng ăn thua gì. Chỗ mầy ngã xuống đó có người đời xưa chôn vài chĩnh tiền ở dưới đất, mầy đào lên mà lấy. Đứa ăn mày theo lời đào lên, quả được. Đời Lê, có Bùi-Sĩ-Tiêm, lúc bé bồ côi, nhà nghèo mà tính lại hào dật. Khoảng 17, 18 tuổi đi cày cho người chị, một hôm gà mới gáy đầu, ông vác cày ra đồng, thấy giữa đồng có gian nhà cỏ rộng rãi có mấy nữ kỹ đang hòa nhạc, người xem có đến vài trăm người. Trên giường có một cô gái dung sắc đoan lệ và áo quần rất đẹp. Bùi biết là quỷ, nhưng không sợ, đặt cày xuống lẻn vào lên giường cùng ngồi xem nhạc. Cô gái vẫn ngồi đoan trang không nói. Một chốc mới bảo : - Quý thầy sau có khoa hoạn đến đây làm gì. Nói đoạn biến mất cả, chỉ còn một mình Bùi ngồi trên đất. Bèn trở về theo học, sau đậu Hoàng Giáp đầu bảng, làm quan đến Thị lang. 36 Đời Lê có Phạm-Đình-Trọng 37 làm Thượng thư ở trấn Nghệ-An, khi đi hành hạt, có bọn Tàu hơn 100 người đến lạy. Ông ta hỏi việc gì ? Thưa rằng : - Chúng tôi không có việc gì, chỉ thấy trạng mạo ngài giống như tượng thần Ngũ-Hồ 38, thiệt là dị nhân, nên tới bái yết ngài đó thôi. Phạm có lần đau mụn ở vai hơn một năm không khỏi, trong bụng lấy làm nghi, vừa có người đi sứ Tàu, ông cậy vào xem tượng thần Ngũ-Hồ. Người ấy quả thấy chỗ vai tượng thần có tróc một miếng sơn bèn tu bổ lại, đến khi trở về thì mụn ông đã khỏi, khấn ra ngày lành tức là ngày sửa tượng đã xong vậy. Phạm ở Dinh Cần (Hà-Tĩnh) một đêm mộng thấy có người mời tới nhà uống rượu mà nhà ấy có người đàn bà góa gần 70 tuổi, nhà cũng tầm thường, khách khứa thì chỉ một mình ông, người đàn bà ân cần mời mọc rất cảm tình. Đến khi tỉnh dậy thì đồ ăn còn dính ở miệng, nhớ cả lối đi ngõ vào và trạng mạo người đàn bà nọ. Ông lấy làm lạ liền thay lốt ra đi, hỏi những làng ở bốn bên dinh quả gặp được người đàn bà trong mộng. Hỏi thì nói rằng (bà ta được) một đứa con trai 13 tuổi thì chết, chính hôm qua là ngày giỗ của nó. Tính năm nó chết lại là năm Phạm sinh. Ông bèn mời người đàn bà về nhà phụng dưỡng rất hậu. Vài ngày trước khi chết, Phạm đang ngồi giữa nhà, có con rắn bằng cánh tay đủ năm sắc bò lên giường kê trên đầu gối ông. Ông vẫn nói cười với khách như thường, một chốc rắn mới bò đi. Đời Lê có Nguyễn-Huy-Oánh 39 đậu thám hoa làm quan Thị Lang. Người cha của ông đậu Hương cống ở làng Tràng Lưu, tổng Lai-Thạch (Hà-Tĩnh). Xóm giềng có người thợ cưa cũng chung một ngõ. Một hôm người thợ ở xã Phù-Thạch 40 về làng, đến đám đồng đầu làng thì trời đã tối, thấy hai người học trò, một người độ 17, 18 ; một người độ 14, 15 cùng nhau vừa đi vừa nói chuyện, người thợ theo sau nghe nhiều chuyện không hiểu, chỉ nhớ được tên người lớn là Xưởng, bé là Vịnh. Khi đã đến ngõ (nhà, người thợ) thấy người lớn bảo người bé rằng : - Anh đây đã đến nhà anh ở, còn em ưa tiêu dao thì đi. Đáp rằng : - Hãy tạm biệt ít lâu, mươi hai năm ta sẽ tái ngộ. Nói xong đều không thấy đâu nữa. Người thợ về tới nhà, vừa người vợ sinh được đứa con trai. Và rất mừng muốn đặt tên là Xưởng nhưng chưa quyết. Sớm mai tới nhà ông Hương cống toan nói chuyện thì vừa biết vợ ông Cống cũng đêm ấy sinh được đứa con trai. Người thợ ngạc nhiên, ban đầu còn nghi, một chốc gặp ông Cống bèn xin ông đặt tên cho con và hỏi ông mới sinh con trai đã đặt tên chưa ? Ông Cống trả lời : - Tôi chưa rảnh việc nhưng vừa mơ, nghĩ đặt cho nó tên Xưởng. Người thợ thất sắc chào về. Xưởng là tiểu danh của Huy Oánh. Phạm-Vĩ-Khiêm 41 ở xã Đặng-Điền (Nghệ-An). Xã ấy có núi Lập-Thạch. Dân ở đó đến đêm thường nghe tiếng đọc sách. Kịp khi Phạm sinh ra, tiếng đọc bèn mất. Phạm từ bé thông minh hơn người, đời bấy giờ cho là thần đồng. Đời Lê có Phan-Phái-Hầu Nguyễn-Phan 42 Nhà mẹ ở làng Bột-Thượng, thuộc Hoằng-Hòa. Thuở bé học với cậu, ông hay rong chơi thường bị cậu răn bẻ, bèn bỏ đi. Trong xóm có đền Chân-Vũ, Phạm tới, vào đền lấy mấy đồng tiền ở trong lưng ra chỉ vào vàng giấy ở trên hương án rồi đánh bạc với thần, hẹn rằng thần được thì thần lấy tiền, tôi được thì tôi lấy vàng giấy. Ông ta đánh được, mới nói rằng : - Hãy để đó vài ngày nữa tôi sẽ lại lấy. Rồi đi. Hôm sau tới thì vàng giấy ấy đã bị người thủ từ đốt mất rồi. Phan trách thần rằng : - Ông đã thua tôi sao lại sai hẹn, tiêu mất bạc thua với tôi rồi ? Liền cầm viên gạch đánh vào đầu gối tượng thần ít cái lại hẹn trong ba ngày phải đền đủ không thì lại đánh nữa. Rồi lại đi. Đêm hôm ấy người thủ từ mộng thấy thần bảo : - Ta bị đứa con trẻ làm rối mà nó cũng là quý nhân ta phải nhịn cho rồi. Mầy có đốt vàng giấy nhớ biện đủ số để nó khỏi quấy nữa. Người ấy theo lời. Hôm sau Phan tới thấy có vàng giấy cười mà rằng : - Đã chịu thua thì thôi, tôi cũng không dùng thứ ấy làm gì. Sau ông làm quan có phép trị quỷ. Mỗi lần nằm ngủ, có khi đến năm bảy ngày, trong nhà đóng cửa lại, giữa sân có trồng cây đa, người nhà rình nghe trên cây gió thổi thành tiếng tức là chừng ông giậy, mở cửa mới dám vào. Người ta có bệnh hoạn hay việc gì thì đem tiền giấy hương rượu tới cửa cầu khẩn rồi dò khi ông ra vào mà xin, ông gật đầu cho thì được việc, nếu không thì thôi, chứ không phải dùng bùa thuốc gì. Án-sát Khánh Hòa là Nguyễn-Hữu-Đô có kể chuyện một làng gần làng ông, đất làng ở bên sông thường bị lở, họ tới xin với ông Phan, ông ta cho một cái thẻ gỗ đem về cắm ở trên bờ, cát mới bồi lại không lở nữa. Huyện Kỳ-Anh (Hà-Tĩnh) có Phạm-Hoành cũng thông thần, ông ta làm chức Thư vệ thờ Điện-Quân công đời Lê. Ai có tật bệnh tới xin với ông, ông hứa cho thì khỏi. Ông chết rồi người ta lập đền thờ nay ở làng Sơn-Triều. Miền đó khi có thủy hạn cầu đàn (ở đền ấy) nhiều phen ứng nghiệm. Người miền Kỳ-Anh là Nguyễn-Quyên biết được việc kiếp trước. Ông tự kể chuyện kiếp trước là người Bắc-Ninh, khi bé khá thông dĩnh, 14 tuổi thì bị chứng nóng rồi hôn mê đi. Một đêm thấy ra cửa đi tựa như vô bệnh, được vài dặm thì tối đen như mực, gió lạnh thấu xương, mới biết là chết, trong chỗ tối đi được nửa giờ dần dần lại sáng như ban ngày, chỉ không thấy mặt trăng, mặt trời mà cỏ cây cũng khác với nhân gian. Thấy trước đường có một người ở cách bờ sông, có vài nóc nhà tranh cắm cờ như là đồn ải, bên cạnh có chợ họp chừng vài trăm người. Ông sực nhớ khi sinh tiền có nghe người kể chuyện luân hồi rằng người ta chết tất có người làm chủ bắt ăn « cháo mê hồn », cho nên đến khi sinh kiếp khác thì không biết việc trước nữa. Y giả đây là chỗ làm cháo mê hồn chăng ? Thuở bé ông từng biết bơi nên mới đi lánh theo bờ sông, trông sang cờ đồn không thấy nữa mới lội sang bến đò rồi bị lính tuần bắt được giải vào trước ông quan âm. Nơi này giống như phủ nha trên dương gian nhưng binh vệ cũng thưa thớt. Đến nơi không dám ngửa mặt lên nhìn, nghe người ngồi trên công đường quở rằng : « Đứa gian dân này phải phạt làm súc vật ». Rồi sai dắt đi. Cái thân bấy giờ phải làm con nghé ở nơi dơ bẩn rất khổ. Khi mới mọc sừng thì hay báng người nên bị làm thịt. Lại đến chỗ cũ, quan âm lại quở : - Nó còn gian giảo không chừa, cho tái sinh lại thế gian trả lại bản thân cho nó. Rồi ngảnh bảo tả hữu soát cung lộc, cung thọ thế nào thì một viên lại thưa rằng : - Đậu tiến sĩ làm quan Thừa chính, thọ 72 tuổi. Quan âm truyền dắt đi, đến một nhà vào bậc thường, vợ chồng đâu độ 40 tuổi, sinh vài bận mà không nuôi được, người vợ chuyển sinh đã có vài ngày, vừa sinh con trai ông đầu thai vào, mừng mà cười lên. Người vợ kinh hãi mà rằng : - Quỷ quái gì còn lại đây quấy nhiễu. Chồng đang bửa củi vội chạy lại cầm dao chém đi. Lại bị dẫn đến chỗ trước. Quan âm quở rằng : - Phải giữ thân làm trọng chứ, đã khinh xuất như vậy thì giảm quan lộc cho đậu tiến khoa và bớt tuổi đi một kỷ. Rồi giục dắt đi mau không được trễ. Tức thì thấy hai tên lính dắt đi, chui rừng vượt hiểm, đến thì thai vừa lọt lòng, hai tên lính nhét ông ta vào miệng đứa trẻ. Ông ngảnh lại thấy hai chân đi đường bị gai gốc đâm cho rách toạc. Một chốc thì thấy tai điếc mắt mờ, tay chân mềm nhũn, miệng cũng cứng đơ. Quyên 19 tuổi đậu Hương cống cuối đời Lê. Ông còn nhớ được cha mẹ, làng ở và thầy học ở kiếp trước. Khoảng năm Gia Long mới chết. Khoa Nhâm thìn (1772) niên hiệu Cảnh-Hưng nhà Lê sắp sửa thì Hội, có Tham tụng Nguyễn-Nghiễm 43 đáng được mệnh (vua cho) nghỉ, chiêm bao thấy có sứ giả mời đến một sở công chấm bài, đồng sự có hai ông quan. Viên lại trình lên hai quyển trong đều viết ba hàng chữ mực, hàng thứ nhất chữ « phúc đức », hàng thứ hai chữ « phụ mẫu », hàng thứ ba chữ « bản thân ». Một quyển thì hai hàng « phúc đức » « phụ mẫu » đề khuyên son mà hàng « bản thân » thì sổ toẹt cả. Còn quyền kia thì ba hàng đều điểm son cả. Hai ông quan kia đều nói : một khuyên với một sổ, khấu đi hai điểm, còn dư một khuyên nữa muốn đặt nó lên trên. Nguyễn nói : - Triều đình lấy nhân tài, chính để ngày sau ra sắp đặt thi hành, quyển nầy bản thân đã bị sổ mà lại lấy, dùng cách gì cho điểm cho hợp, sao lại để lên trên. Hai ông ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói : - Ông nói cũng phải, song thiên tào có cho những nhà có phúc đức cha ông trước, phải lục đến con cháu họ, bất đắc dĩ cho nó xuống cuối cũng được. Khoa ấy Hồ-Sĩ Đống 44 đậu đầu mà Lưu-Tiệp 45 đậu cuối. Sau hành trạng của hai người không giống nhau như trong mộng. Bùi-Tồn-Trai 46 có kể ngày ông ta đi thi hội đến trường đệ tử có một người mặc đồ lính đi chung quanh chỗ ông làm bài từ sớm đến tôi, đưa đồ ăn cho cũng không ăn, đến tối lại thu xếp giùm những đồ nghiên chiếu đưa ra khỏi cửa trường rồi mới đi. Hỏi họ tên chỗ ở thì không trả lời, chỉ nói rằng lính đội Trung-Hùng ở Nghệ-An. Có Tú tài là Trương-Xuân-Dục kể chuyện ông ta có người bạn tên là Hổ quán ở Hưng-Nguyên (Nghệ-An) làm Tham luận. Đầu đời Nguyễn, Hổ theo làm bề tôi Đặng-Trần- Thường bấy giờ người nầy làm Bình tào Thượng thư ở Bắc thành. Một đêm, Hổ mộng thấy đi giữa trời nắng, mệt quá vào nghỉ trong quán, chủ quán là một ông lão tóc râu lốm đốm, dựa ghế ngồi, sau vách có treo bức tranh con cọp trên bàn có trái dưa đỏ. Ông thấy ông lão không phải dạng nhà quê bèn mở ấm nước và nói đi đường khát nước vào xin uống. Ông lão hỏi : - Anh có phải đang cầu làm quan chăng ? Đáp rằng phải. Mới mời ngồi gọi tiểu đồng cắt dưa mời ăn. Ông mới nuốt miếng dưa thì thấy đau bụng không chịu nổi, lăn lộn rên rỉ. Ông lão sai tiểu đồng lấy vài viên thuốc cho ăn liền mửa ra miếng dưa và lành. Nhân bảo : - Trong bụng anh không chứa nổi một miếng dưa còn muốn cầu làm quan rư. Hổ không bằng lòng về câu nói ấy, trả lời : - Tôi quả là đứa bất tài, may cậy vào quan trường để mong được chút phẩm cấp đó thôi. Ông lão nói : - Quan trưởng của anh có phải Đặng Trần Thường không ? Người ấy cũng như bức tranh con hổ trên vách. Ta mới làm bài thơ đọc cho anh nghe nhé : 可憐孤鳳向南⾶ 纔到天中翅已離 三島⽯⼈眠未起 將軍猶在發聲期 « Khả liên cô phụng hướng nam phi. Tài đáo thiên trung kỵ dĩ ly. Tam-Đảo thạch nhân miên vị khỉ Tướng quân do tại phát thanh kỳ ». Nghĩa là : « Khá thương chim phụng bồ côi bay vào Nam. Mới đến giữa trời thì cánh đã lìa. Người đá ở núi Tam Đảo ngủ chưa dậy. Tướng quân còn đang thời kỳ nổi tiếng ». Hồ không giải ra được, xin chỉ bảo. Ông lão rằng : - Người đá ấy rồi có quan hệ với họa phúc quan trưởng của anh. Hồ cả sợ, xin chỉ chỗ người đá. Ông lão cũng vạch ra giữa đất mà bày cho. Đến khi tỉnh dậy, nhớ hết những điều trong mộng, nói lại với ông Thường ; người nầy sai ông ta đến núi Tam-Đảo theo như trong mộng tìm đào quả được người đá rồi đốt yểm đi. Sau không Thường bị họa. Cha Phan-Khiêm-Hanh 47 gặp việc gì cũng hay biết trước. Ông ấy bị bệnh được một ngày rồi bảo vợ con làm cơm rượu mời họ hàng làng xóm đến, ông ngồi giữa nhà bảo con cháu sắp hàng vào lạy. Bảo con rằng : - Mầy phải chăm học chớ bỏ hư nghiệp nhà, nhưng có trọc đầu mới đậu được. Sau Hanh sắp đến kỳ thi, bị đau nặng mới khỏi, người nhà phải cạo trọc cho. Khoa ấy ông đậu Tiến sĩ. Ông nội tôi là Trãi-Hiên tiên sinh 48 không ưa đạo Phật và thuật số, cuối đời Lê đậu Hương cống, thường làm thơ có câu : 彭祖若⽣還⼀⽼, 孔明不死亦三分. « Bành-Tổ nhược sinh hoàn nhất lão ; Khổng-Minh bất tử diệc tam phân ». Nghĩa là : « Bành Tổ nếu sống đến nay cũng làm một ông lão ; Khổng Minh không chết thì nước cũng chia ba ». Ấy là câu thơ thương đời vậy. Tiên-sinh không chịu luồn kẻ quyền quý, bị Đoàn Nam (Vương Trịnh Khải) bắt giam. Thơ gởi cho bạn thân có câu : 何當⿓福改, 此是我歸期. « Hà đương « Long Phúc » cải ; Thử thị ngã qui kỳ ». Nghĩa là : « Khi nào phúc lớn hay là làng Long Phúc đổi thay là kỳ tôi được về ». Người ta nghĩ là danh sĩ chưa nỡ hại. Đến khi họ Trịnh bị diệt, tiên sinh mới được về. Xã tôi xưa gọi là xã Long Phúc (Nguyễn-Huệ) có tên giả là Phúc, nhân đổi là Long Phú, nay mới đổi làm Phong-phú. Tiên sinh ở nhà, có một đêm người nhà nghe ngoài ngõ có tiếng xe ngựa ra thì không thấy gì cả. Lúc ấy tiên sinh ngủ mê chưa dậy, người nhà nghi và lạ, sớm mai hỏi thì đáp : - Bạn của ta là Thái thú họ Hứa tới hỏi thăm ta đó. Tả-Ao giỏi địa lý, đời truyền rằng : Lúc đầu người ta chưa tin. Ở Thanh-Hóa có làng kia có tiếng là làng văn học, một hôm đang họp làng, ông ta mặc áo rách mang đãy vào tự xưng là thầy địa có chôn được một huyệt khoa giáp, có ai dùng thì để cho. Người làng đều khinh, nhân nói : - Chúng tôi không dám mong mỏi, chỉ có ông Cống Nguyễn-Điều đang muốn kiếm cát địa, thầy tới đó hỏi. - Điền là một người thô lậu bị người làng khinh lại vừa hôm nay không có mặt ở đấy, nên họ nói bỡn như thế. Ông ta giả làm cách không biết, hỏi ngõ vào nhà ông Điều. Người ta cũng chỉ cho. Ông đi tới nơi hỏi : - Đây có phải nhà ông Điều chăng ? Điều ra hỏi : - Thầy hỏi tôi việc gì ? Ông rằng : - Tôi có được nghe các ông làng mách ông muốn tìm cát địa nên lại đây làm cho ông một huyệt đất. Ông kia cười mà rằng : - Người làng lấy tôi mà đùa bỡn thầy đó thôi, chứ tôi được như thế này là đủ rồi có dám cần đến đất tốt đâu ? - Ông nghĩ như vậy vẫn tốt song người làng ai cũng muốn cho ông được khá, vả đất tốt cũng không phải tìm ở đâu xa, bần đạo xin vì ông đi xem mấy ngôi mộ tiền đại, có ngôi nào chưa hợp phép địa lý thì thay đi, phí tổn chẳng qua hết chừng 500 tiền mà tương lai sẽ phát phúc không mất lễ tạ gì nữa, ông sợ gì mà không làm. Điều lấy làm lạ về câu nói ấy mới lưu thầy lại để đi xem mộ tổ, chỉ cải táng một ngôi. Xong ông ta đi có dặn riêng với Điều rằng : - Đất nầy rồi có hiệu nghiệm ngay. Chờ xem khi nào trên mộ có máu chảy tức là kỳ phát phúc. Ông nầy tuy không tin cho lắm nhưng cũng lạ về lời dặn của thầy nên sớm nào cũng đi thăm mộ. Một người trong làng nghe thủng câu chuyện ấy, đêm đến lấy huyết lợn rưới lên mộ. Rạng ngày Điều tới thấy vậy trong lòng nghi hoặc, trở về thì thầy địa đã tới nhà bèn mừng rỡ mời mọc nói chuyện ; khoa ấy quả Điều đỗ tiến sĩ. 49 Từ ấy ai cũng trọng Tả-Ao như thần mà ông ta cũng chẳng khinh thường để đất cho người ta. Nhưng đó là ông cũng dùng thuật để lừa người thôi. Khi tôi lên 16, 17 tuổi có một người ở lối xóm, nhà, cũng đủ ăn, vợ chết vào lúc cuối năm, chỗ chôn thì đầu mộ có thửa ruộng đã cấy lúa mà ruộng có nước chừng vài tấc ; sau khi táng rồi ba ngày, tôi với Hiệu sinh nhà Lê là Trần mỗ, và Tú tài (mỗ), cả đêm đều nằm nghỉ ở nhà ấy. Sáng dậy chủ nhà với con trai đi thăm mộ về nói ở đầu mộ đến giữa ruộng nước không đầy năm thước có ba hòn máu tròn lớn bằng cái bát, sắc máu tia tía. Ai cũng lấy làm lạ. Hai ngày sau tôi tình cờ đi ngang chỗ ấy, thấy máu đã tan lẫn với bùn hãy còn có vết đen. Tháng ba năm sau nhà ấy chết mất một đứa con, sáu bảy người trong nhà lần lượt đau ốm, nghiệp nhà sa sút, đến khi hết tang, mới cải táng đi chỗ khác. Việc ấy lại là một lý thế nào không thể hiểu được. Vũ-khắc-Kiệm 50 lúc đầu du học Bắc Thành có thuê một cái nhà để trọ, nhà ấy thường có ma, bấy lâu vẫn đóng cửa, Kiệm không biết. Mới ở được vài ngày, ông ta đang ngồi một mình đọc sách bên đèn bỗng nghe có tiếng rên ở trên rường nhà, ngửa mặt lên nhìn thì thấy có một người bận vũ phục ngồi ở trên giường tay cầm cây dao tự cắt bắp vế của mình máu chảy xuống đất. Kiệm nói : - Anh làm gì thế, có oan uổng điều gì thì nói, chứ ta đây những loài ma quỷ không thể dọa được. Người nọ mới nhảy xuống đặt cây dao tự kể rằng : - Tôi là lính nhà Thanh theo Tổng đốc Tôn Sĩ-Nghị sang đây chết ở chỗ này, bị người ta làm nhà lên trên dày dậm luôn luôn, di hài không yên, không biết nói với ai nên phải thường làm sự quái gở. Bây giờ ngài đã biết nỗi oan uổng của tôi, nhờ ngài giúp cho tôi với. Kiệm hỏi : - Di hài ở đâu ? để ta nói với chủ nhà cất đi cho. Con quỷ nọ chỉ chỗ mộ lạy tạ rồi biến mất. Ngày hôm sau Kiệm nói với chủ nhà, đào lên được một bộ xương và cây dao, liệm lại chôn đi chỗ khác, nhà ấy mới yên. Kiệm sau làm đến Tri huyện. Đang buổi dịch tễ rất khốc hại, có khi một nhà chết đến vài người, ai cũng cho là truyền nhiễm song cũng do số mệnh cả. Hiệp Biện đại học sĩ họ Hà 51 ở bộ Hộ có kể chuyện rằng : Năm canh thìn (1820 (?) bệnh dịch cả phát, ông Hà đang ở Kinh, trọ ở nhà hàng Đông-Gia có ông Cống là một người cùng xóm, trọ ở Sử quán. Một hôm ông ta bị bệnh dịch mê man đi không biết gì nữa. Bỗng thấy mình đi ở phố chính đông ở trong thành, dọc đường gặp một bậc quý nhân có quân gia vài mươi người. Thấy ông, người nọ bảo : - Người nầy tương lai làm đến Đại học sĩ sao lại đi đây ? Rồi bảo một người vừa gập ở bên đường rằng : - Đi bắt tên Mỗ người cùng xóm với người này, chớ chúng mày lầm rồi ! Ông Hà được trở về, mới tỉnh dậy thì đầy tớ nói rằng chết đã được nửa đêm rồi. Ông bệnh bớt dần rạng mai sai người đi hỏi thăm ông Cống mỗ thì người này chết lúc nửa đêm. Năm Kỷ sửu (1829) tôi và bạn là Trần 52 đi thi Hội. Cùng đi còn có Cử nhân Nguyễn-Khắc-Khoan 53 ở xã Tỉnh-Thạch, Hồ-Vĩnh-Trinh 54 ở xã Chi-Châu và Phó-bảng Nguyễn-Hữu Thường 55. Đến quán Thanh-Lương vừa trời tối chia nhau trọ ở các quán. Sáng mai dậy đi, thấy ông Trần kể chuyện khi đêm chiêm bao thấy ngồi giữa nhà, ngoài sân có ba con vịt có một người ở ngoài đi vào bắt một con đưa cho ông ta mà con vịt ấy thì què một chân. Ai cũng cho là điềm tốt. Tôi cũng đoán : « vịt » (鴨) què một chân thì giống chữ « giáp » (甲), ba vịt tức là « tam giáp » Khoa ấy ông Trần quả đậu « đệ tam giáp ». Đến ngày vinh quy, tôi cùng ông Trần và ông Phó hiến sát họ Bùi 56 đi với nhau. Bấy giờ vào tháng bảy, dọc đường miệt Hoằng-Lễ gặp trận mưa dông. Gần đường có miếu thần, ba người ghé vào, tôi và người đầy tớ ông Bùi đều vào đó, chỉ có vài người đầy tớ của ông Trần chậm lại sau, không biết chủ mình ghé vào đây, cứ một mạch đi thẳng. Chúng tôi ở trong miếu trông ra thấy họ cởi cả khăn áo, chạy loăng quăng hình như đuổi cái gì, rồi lại cứ đi như trước. Chỗ ấy là đường núi, làng ruộng cày cấy thì xa. Đến khi tạnh mưa, chúng tôi mới ra đi, đến quán Hỏa-Hiệu thấy họ đang nghỉ ở đó mà hành lý có ba con vịt. Tôi sực nhớ lại câu chuyện trước, nhân nói rằng : « Chắc có một con què ». Xem lại thì quả nhiên. Năm quý tỵ triều minh-Mệnh (1833) tôi đang hiệu lực 57 ở bộ, trọ tại quan Đông-Gia, một hôm mộng thấy mình ở trạm Biên-Long quan quân canh đóng rất nghiêm. Tuần vũ tỉnh Biên-Hòa là Vũ-Quỳnh 58và Án sát Lê-Văn-Lễ 59 cũng tại đây cả. Phía nam nhà trạm có chợ Gò (Khư thị) ông Vũ đang ngồi ở hàng cơm bên chợ, tôi tới hỏi thăm rồi cùng uống rượu, một chốc thấy có viên lại cầm phong bì giấy vàng tới, trong có bản sớ viết tính, ông ta cầm lấy sai viên lại mượn ấn quan Án rồi ngảnh lại hỏi tôi : - Tôi để mất cái ấn quân phòng đã có tâu trong sớ nầy để chịu tội, nay mượn cái ấn quan Án để đóng, có hợp phép chăng ? Tôi đáp : - Gần đây hễ quan viên chưa cấp ấn có thể mượn ấn của quan đồng liêu để áp vào giấy má, bên cạnh phải kể rõ việc ấy. Ông nói : - Phải, tôi cũng có kể rõ sau tập. Nhân cầm bản sớ đưa cho xem, tôi thấy trong sớ chữ viết đầy đến vài tờ mà không nhớ nói việc gì. Xem xong, vừa viên lại đưa ấn đến, ông Vũ tự áp lấy rồi giao phong sớ cho viên nọ và dặn rằng : - Đưa cho quan Án nhờ ngài phát đệ cho ta. Một chốc nghe tin ông Vũ bị giáng nhị cấp lưu 60. Đến khi tỉnh dậy không đoán ra thế nào. Hạ tuần tháng 5 năm ấy, bắt đầu nghe nghịch Khôi (Lê-Văn-Khôi) làm ngụy, tôi phải đi tùng quân, mồng 4 tháng 6 lên đường khoảng giữa Khánh-Hòa và Bình-Thuận. nghe tin Biên-Hòa đã thất thủ các quan tỉnh phải lui về giữ Hưng-Phúc (nay là Biên-Long). Được vài ngày nghe tin ông Tuần Vũ đã lấy lại được Biên Hòa mà ông Lê-Văn-Lễ hãy còn ở Hưng Phúc. Ngày 27 tôi tới trạm Thuận-Biên, ông Lễ cũng vừa bỏ Hưng-Phúc chạy đến đó. Ngày 28, quan quân phá giặc ở Biên-Long nhân lưu lại đó để chỉnh đốn công việc. Tôi cũng ở trong trạm. Ông Vũ đang đóng ở Biên-Hòa, tin tức quân lính qua lại chưa thông. Ngày 30, mới nghe Biên-Hòa lại bị thất thủ. Mồng 1 tháng 7, ông Vũ trở về đến đây (Biên-Long) quả nhiên ngồi trong hàng cơm bên chợ, hôm sau tôi tới hỏi thăm, hết thảy theo như mộng thấy lúc trước. Mà ông Vũ cũng bị giáng nhị cấp lưu. Khoa canh tý (1840) triều Minh-Mệnh, tôi làm Giám khảo 61 trường Hà-Nội, Phó Đô-ngự-sử là Nguyễn-Công-Trứ thì làm Điển thí.62 Đến trường nhằm ngày nhập trường, ông ta bảo tôi rằng : - Đêm trước tôi nghe trong vi có tiếng ngâm vịnh không biết là thế nào. Khoa nầy trường Hà được 14 Cử nhân. Đến khoa thi Hội năm tân sửu (1841) triều Thiệu-Trị có các ông : Bùi Tuấn (giải nguyên trường Hà khoa canh tý) 63, Trần-Vỹ 64 Ngô Điền 65 và Vũ-Văn-Lý 66 đều đậu. Đến khoa thi Hội năm nhâm dần (1842), các ông Hoàng-Đinh-Tá 67, Phan-Đinh-Dương 68 lại đậu. Trong số 14 người (đậu Cử nhân) mà có đến 6 người đậu Tiến sĩ. Các trường thi hương hồi gần đây ít được như thế. Khoa nhâm dần triều Triệu-Trị, tôi đi Điển thí trường (thi Hương) Hà-Nội, kỳ hạn của trường ngặt quá, chấm quyển cả đêm ngày không được nghỉ. Có một hôm, kỳ trường ba, chấm quyển đã được hơn một nửa, tôi bị nhức đầu và mắt, lui vào phòng công để nghỉ, lưu Phó khảo họ Vương 69 lại thí viện, mờ sáng tôi tới thí viện thì rèm chưa mở. Vương đang ngủ say, nghe tôi đến vội dậy bận áo, chưa kịp nói chuyện, ông ta đã ngảnh lại hỏi người Thể sát đứng bên cạnh rằng : - Con chim quốc tử quy ấy đã thả ra chưa ? Người ấy chưa kịp trả lời, tôi thấy ông ta nói thế, nhân hỏi ngang : - Chim quốc ở đâu mà được ? Ông ta nói : - Ban đêm nó chạy vô trong viện bị chúng bắt được, tôi không nỡ giết nên bảo thả ra. Tôi cười rằng : - Không của ông cũng được như tử sản 70 đó ! Đã có lòng nhân từ, sao không tự mình thả lấy, lại để cho chúng làm thịt, còn hỏi làm gì ? Người Thể sát khi ấy cũng mỉm cười tạ rằng : - Tên lính không biết, nó đã làm thịt mất rồi. Nét mặt ông Vương khí giận. Tôi nhân nói bỡn để giải hòa rằng : - Ban đêm trong viện đèn đuốc sáng choang, lính và lại đông đúc, chim quốc vô cố vào càn, vậy là nó tự làm nó chết. Hay là ông Nguyễn Đinh-Vũ có con em đi thi, đã bị trường ta sổ toẹt rồi chăng ? Nguyên ông Nguyễn là người Hà-Nội, trước làm Án-sát Thái-Nguyên, mình hơi gầy, người ta gọi ông là « Đỗ-Vũ » 71. Lúc chấm quyển trường ba xong rồi, khoa này trường Hà-Nội ngạch cử nhân 23 người lặt lấy chỉ được 18 quyển đến khi phê trên dưới, tôi phê đến quyển thứ 17, còn một quyển nữa chưa hạ bút, tình cờ mắc ngảnh đi việc khác, ông Phó khảo cầm lấy dở ra xem, tôi ngảnh lại hỏi thế nào ? ông ta không nói gì, chỉ lấy mặt quyển mà bày lên trước án tôi ngồi. Nhân đó tôi dở ra xem lại, trong bài có vài câu rất không vừa ý, mới phê xuống đầu hạng Tú tài, khi đã dán phách tên họ quyển này vào thì ra quyển của Đỗ-Độ vậy. 72 Khoa bính ngọ triều Triệu-Trị (1846) tôi lại đi Điển thí trường Hà. Một hôm Giám sát là Nguyễn-Kim-Thuận nói với tôi đêm trước ông ta mộng thấy một vị quý nhân với lính hầu chừng vài mươi tên tới thi viện, tôi (Trương-quốc-Dụng) mời ngồi, lính hầu nghiêm túc. Ông Thuận có nhìn trộm người ấy thì bình nhật chưa từng quen biết. Ông có hỏi riêng người lính hầu thì bảo là Tích-Quang. Ông Thuận cũng không biết Tích-quang là người nào. Xét sử thì đời nhà Đông-Hán có Tích-quang làm Thứ sử Giao-Chỉ đem lễ nghĩa ra dạy dân. Từ Hán đến nay có hơi vài ngàn năm. Ý giả ông ta thuở xưa làm quan ở đây, có công dạy dân, nên khí thiêng hãy còn ở trong hơi tiếng chăng ? Tỉnh Gia-Định có Tổng đốc là Nguyễn-Đức-Hoạt 73 và Bố-Chánh Nguyễn-cư-Sĩ 74, chỉ trong một tháng lần lượt bị bệnh chết. Mới đây có Phó Lĩnh binh Đoan-Quang-Mật tới chơi, tôi hỏi về bệnh tình của Tổng đốc Nguyễn thì ông ta kể rằng : Việc ấy cũng chẳng biết là thế nào ? Nguyên quan Tổng đốc, một hôm đi hành hạt, khi về, cưỡi voi qua trước mộ ông Lê-Văn-Duyệt có một viên hiệu bẩm rằng : - Trước các quan sĩ đi tới đây cũng phải xuống ngựa, xếp cờ im trống. Ông đáp : - Ta từ khi làm Tổng đốc thì cưỡi voi và cờ trống là sự thường. Rồi dục cứ đi. Đến khi về dinh, đêm ấy cảm bệnh, hoảng hốt không thường, cách hai hôm sau, lính nha dậy sớm thấy trong dinh có cây mộc côn cắm ở giữa sân không biết từ đâu lại. Có người tới thưa với ông Nguyễn-Cư-Sĩ, ông Nguyễn nói : - Nó là một kẻ có tội, làm gì được người ta nên bệnh ? Rồi ông này cũng đổ bệnh như quan Tổng-đốc. Lại có viên ngoại lang bộ Binh là Vũ-văn-Trung kể chuyện : Có làng Thạch-Bi mua cái nhà cũ của ông Lê-văn-Duyệt, đưa về làm miếu thần, làm xong, ngày yên vị, thần ứng đồng lên rằng : - Miếu này là nhà của bậc quý nhân trước, ta không ở được gian giữa, nhưng đã làm xong thì thờ ta ở gian phía tây cũng được. Những câu chuyện ấy sai ngoa không đủ tin, song Lê văn-Duyệt mới đây đã được ân xá và lục dung đến con cái, hoặc giả ở trong u minh có khí thiêng hiện ra, cũng chưa biết được. Sách Phong tục Thông 75 có nói : - Thấy quái mà không lấy làm quái, thì quái tự mất. Đầu đời Gia-Long có Trấn thủ Hải-Dương là Nguyễn Văn-Án 76 phá tháp ở Đồ-Sơn để lấy gạch đá làm dinh (tự nhiên) có một vật hình như tấm lụa trắng từ trong tháp bay ra. Được hơn một tháng, Nguyễn cảm bệnh, trong dinh thường hiện quái, có khi ban đêm ở trên nóc nhà thấy phảng phất có ánh sáng. Bọn liêu tá cũng sợ, muốn cầu đảo, có người đem việc đó nói với ông, ông không nghe. Một đêm, ông đang đắp chăn nằm nghe đàng góc nhà có tiếng dế dần dần đi tới giường, ông lặng rinh thì bỗng chốc có một vật hình như người đè trên mình ông, vội cuốn chăn bọc lấy được, vật ấy dần dần rút lại bằng cánh tay, ông đánh chết ngay, dở ra xem thì là một con chuột bạch, lấy lửa đốt đi, quái mới tuyệt. Bệnh rồi cũng khỏi. Đầu đời Minh-Mệnh, tỉnh Hanoi có Cử nhân là Trương Mạn 77 đi thi Hội qua huyện Quỳnh-Lưu Nghệ An thấy giữa đường có sáu bảy bô lão cầm hương sáp lại đón rước. Ông ta lấy làm lạ, hỏi việc gì thì họ đáp rằng : Làng chúng tôi cách đây có hơn 10 dặm, đêm qua có vài người trưởng lão trong làng cùng mộng thấy : người làng đang hội họp, cả kẻ chết lẫn người sống. Họ rủ nhau đi rước thần Thành hoàng, hỏi thần ở đâu tới thì họ đáp là : sớm mai có ông Cử Trương Mạn đi thi Hội có qua đây ; ấy là vị thần Thành Hoàng của làng ta, và kể cả hình dáng dáng nên chúng tôi tới đây đón rước ngài. Nhân mời về làng. Ông không nghe. Họ bèn làm xôi gà mời ông rất thành kính. Ông chối không được phải thọ hưởng mà đi. Việc ấy cũng chẳng biết được cớ gì. CHƯƠNG II : TẠP SỰ Con Trịnh-Kiểm là Cối chính thị trưởng nam, đã nắm binh quyền của cha, sau bị em là Tùng cướp lấy. Đó là cũng có ý trời vì mẹ Tùng là con gái của Triệu-Tổ-Tĩnh Hoàng đế (Nguyễn-Kim). Buổi Thái-Tổ Gia-Dụ Hoàng đế (Nguyễn Hoàng) khai cơ ở Thuận-Hóa, Tùng tuy có lòng ghen ghét mà còn có ý sợ, kịp khi vương nghiệp đã định, họ Trịnh không thể thả mưu kế gì được nữa : - Cái gì ra tự mầy sẽ trở lại với mầy. Nhà Trần nhờ đàn bà mà được thiên hạ sau cũng vì đàn bà mà mất thiên hạ. Vua Lê-Thái-Tổ lúc đầu mượn danh hiệu Trần-Cao, đến buổi nhà Lê trung suy, giặc cỏ tên là Trần-Cao gây mối họa. Người đời Nguyên có câu : - Được thiên hạ ở đứa con trẻ, đến khi mất cũng ở đứa con trẻ, còn phàn nàn gì. Tuy là lời nói chơi, nhưng tóm lại thì đạo trời vay trả có như thế. Nước Nam ta từ khi có vua chúa đến nay chỉ có Bản triều (Nguyễn) được nước là rất chính đáng. Đang hồi nhà Lê trung tuy, Triệu-Tổ rước vua Trang-Tông về làm vua. Đến khi đức Thái-Tổ Gia-Dụ dựng nước ở Thuận-Hóa, dành công chứa nhân được hai trăm năm, họ Trịnh tuy liếm mép ở cái vạc Lê mà không dám động. Nếu không thế thì tôi Lê mà đời không đợi đến anh em Nguyễn-Huệ. Kịp khi họ Lê đã bị Tây-Sơn diệt, Thế-Tổ-Cao-Hoàng đế (Gia-Long) bèn dẹp loạn lấy lại chính thống, trời cho, người theo, chẳng những nước Nam ta từ Lê về trước không được như vậy mà nước Tầu từ Hán về sau cũng không ai kịp. Đứa tiểu nhân không biết mệnh trời nên nó không sợ. Trịnh-Sâm giết Thái tử nhà Lê là Duy-Vỹ, bấy giờ giữa ban ngày mà tối đen. Gương trời không xa như thế, loạn thần tặc tử sao chẳng sợ thay ! (Người ta nói rằng con Sâm là Cán, trạng mạo giống Duy-Vỹ). Ngược chính của Tây-Sơn bị Quốc triều ta khu trừ đi được, nhưng nó sở dĩ buông cái độc ra là vì Nguyễn-Chỉnh bày đường. Anh em Nhạc Huệ tuy kiệt hiệt, nhưng chưa biết hư thực phía bắc thế nào cả. Chỉnh tự nghĩ tài của mình không được thi thố ở cố quốc nên bỏ vào theo Tây-Sơn khuyên đánh Trịnh. Họ bảo Chỉnh : - Nhân tài của đại quốc có nhiều người, dễ khinh động đâu được. Chỉnh đáp : - Phía Bắc chỉ có một mình Chỉnh tôi thì đã tới đây rồi, ngoài ra đều không đủ sợ. Họ rằng : - Không sợ ai cả, chỉ sợ ông, thì sao ? Chỉnh nghe nói thì thất sắc nhưng sau cũng vì họ đem sức ra trừ nhà Trịnh. Chỉnh đã không biết chọn chỗ đậu, chịu dưới cánh họ ôm ấp, sau tuy gia tiếng phù Lê để tự lập, làm cừu địch với họ mà có thể được ru. Mới biết cuộc đời khi sắp trị thì trời sinh ra vua thánh tôi hiền để mở vận thái cho thiên hạ ; khi sắp loạn thì lại sinh bọn hung tợn giảo hoạt để un khói biển trong nước. Dầu là việc người mà cũng là khí hóa của trời nữa. Huệ ra đánh bắc, giả xưng quốc tính (Nguyễn) mượn tiếng phù Lê. Bấy giờ người ta đang chán họ Trịnh tiếm bức. Khi tờ biên thư 78 đến dân Nghệ-An ngày đêm trông mong rằng : « Chúa cũ của ta đã tới ». Quân lịnh của họ cũng nghiêm chỉnh, của dân tơ hào không phạm, ai cũng tin theo. (Chúa Trịnh) phát binh chống cự thì dân nói : - Sao mà chống với chúa cũ ta. Rồi họ trì hồi không đi. Đến khi mộ lính, ai không về phe đảng họ Trịnh thì không đi, nên Huệ, Chỉnh đánh một tiếng trống như vào chỗ không người. Đến khi Nhạc ra, quốc dân mới biết họ lừa dối. « Trong nước có đánh nhau rồi sau người ngoài mới đánh ». Chính là thế đó. Huệ xin được vào triều cống ở Tầu rồi, bèn sai Chấn 79 thay mặt cho mình, đó là do Phúc-Khang-An bày đường. Khi đã đến Yên-Kinh vào yết vua, vua cho một bài thơ để tỏ lòng yêu. Khi Huệ chết, vua Thanh sai sứ sang điếu tế, con Huệ là Trát 80 lại sai đầy tớ giả làm tang chủ đem sứ giả đến trước mộ một cung phi họ Trịnh tuyên đọc và tế. Những việc làm cũng khá buồn cười, nhưng xem như Đại thần nhà Thanh đã nói : biết dối mà cũng để chịu. Thì không những một anh Phúc-Khang-An bày ra. Huệ giết Vũ-văn-Nhâm. Nhâm tự nói vô tội. Huệ bảo : - Không cần tội trạng, chỉ vì tài mày hơn ta, không thể cho sống được. Nhâm bèn than rằng : - Ta diệt nước người, phá nhà người, chết có thừa tội, dám oán gì nữa. Xưa Ngụy-Hác-Chiêu bảo con rằng : - Ta từng làm tướng mới biết tướng không nên làm. Ta mấy lần bới mả người để lấy gỗ làm quân khí. Sau khi ta chết, nên táng lạo thảo cho mau tiêu, chớ dùng quan quách. Đại loại cũng như việc trên. Nhưng mà Tào Tháo làm 70 cái mồ mả mà thây của… sau cùng bị người ta phá tan, có trốn đâu được ! Lê-Chất nhậm chức tổng trấn Bắc thành tới từ biệt Lê văn-Duyệt và rằng : - Bộ hạ ngài có ai hiểu việc, cho tôi xin một người. Duyệt sai Bạch-Xuân-Nguyên đi và nói với Chất rằng : - Nó là người rất biết việc, nhưng sai bảo được thì dùng không được thì giết đi, chớ tiếc. Như Bạch-Xuân-Nguyên khi ở Phiên-An (Gia-định) bọn giặc Khôi vốn làm tôi tớ Lê-văn-Duyệt, Bạch xử với họ nóng nảy quá mới chọc lòng giận của họ ra, không những thân của Bạch bị chết mà còn làm phiền binh lực của triều đình đến mấy năm mới yên. Cho nên có câu : « Loạn là do lời nói gây nên ». Trước vài ngày, Khôi làm loạn có Cai đội Đỗ-văn-Thanh biết chuyện bèn trình với Tổng đốc Nguyễn-văn-Quế. Quế nói lại với bố chánh Bạch-xuân-Nguyên. Bạch rằng : - Chẳng qua loài chuột nói phét thôi, chớ làm gì được. Đã không để ý phòng bị, lại nói với người ta rằng : - Đỗ-văn-Thanh nói Khôi muốn giết ta, hãy để mặc nó, xem có làm gì được ta. Đến khi giặc đã vào thành tìm bắt Đỗ-văn-Thanh giết trước. Năm Quý tị triều Minh-Mệnh (1833) trung tuần tháng năm trong thành tỉnh Định-Tường 81 một đêm trông thấy ở phía đông bắc tự nhiên trên trời sứt ra một lỗ, trong có ánh sáng như lửa bốc lên, một chốc rồi mất. Đến ngày 18, tỉnh Phiên-An xẩy ra loạn Lê-văn-Khôi. Tháng 10 năm quý tị, tôi đang tại quân thứ tỉnh Gia định mỗi đêm vào khoảng giữa canh hai và canh ba nghe bốn tiếng đại bác, đến canh tư mới thôi. Thường trong quân đội ban đêm không bắn đại bác bao giờ, nên lấy làm nghi. Như vậy đã đến bốn năm đêm. Sau cùng cho là đại bác của quân đội bắn để thị uy không để ý nữa. Một hôm tôi từ Saigon đi đêm về qua góc tây nam ngoài thành, là chỗ quân tấn của Thái-Công-Triều 82, đóng, ông mời tôi vào nghỉ tạm, đang ngồi nói chuyện nghe tiếng điểu thương hơn 100 phát bắn đều một loạt. Tôi nhân hỏi : - Đêm khuya có việc gì mà trong quân cũng bắn như thế ? Thái đáp : - Đó là ma ở ngoài đồng tập trận, bốn năm đêm nay, cả đại bác và tập hỏa trận nữa nay đến kỳ của nó. Đồng ấy là nơi đồn quân của Thái, tôi với các người khác ra xem quả thấy lửa sáng ở trên đồng. Có lẽ là chỗ chiến trường xưa vậy. Truyền (Luận Ngữ) có câu : - Làm việc mà sợ, hay nghe người ta bày mưu mà thành. Ở sách Nam Sử, Trầm-Khánh-Chi có nói : - Nghề cày nên hỏi đứa ở trai, nghề dệt nên hỏi đứa ở gái. Bình-Thành-Bá 83với Tân-Long-Hầu 84 đem binh đi hạn ngữ giặc Tiêm. Bấy giờ ý kiến các tướng không đồng, chia quân ra thì không đầy ngàn người. Bình-Thành-Bá bèn mời Thái-Công-Triều tới hỏi kế. Thái nói : - Quân giặc tới đây gấp, quân cứu viện của ta đang còn hoãn, không đầy vài ba ngày đây những tỉnh Nam-Vang, Hà-Tiên, Châu-Đốc phải thất thủ, như vậy tiến quân lên cũng không kịp nữa. Nay phải đi, gấp giữ lấy Thuận-Cảng cho mau, giặc dần đông cũng không dám thẳng tới Tiền- Giang 85, phải theo Hậu-Giang 86 do Thuận-Cảng 87 mà lại. Ta chiếm trước chỗ hiểm ấy thì nó không thể tung hoành được, cũng là một chước kỳ để thắng trận. Nếu không thì hãy đợi đại binh, hợp lại mà đánh mới được vạn toàn, nếu để họ vượt Thuận-Cảng mà qua chiến sà của mình thì dân Vĩnh-Long, Định-Tường chưa quen đánh trận, lòng người dao động khó thể cậy nhờ. Ngày 28 tháng 11, hai ông Tham tán phát quân đi, qua Định-Tường đã nghe Nam-Vang, Hà-Tiên kế tiếp thất thủ. Nguyễn-Xuân muốn đợi mộ lính Vĩnh-Long thêm vào, nhưng Bình-Thành-Bá không nghe, dục đi gấp đến Tân-Thành 88, nghe Châu-Đốc cũng thất thủ. Bọn ông Đặng-Văn-Minh 89 chạy đến quân thứ, Bình-Thành-Bá cấm không được nói sự trạng của giặc cho nên quân ta đều không biết giặc khó hay dễ. Sớm mồng bốn tháng chạp đi đến tấn Chưởng-Lễ, sai người dò thám cửa Thuận-Cảng thì hai bên bờ đều là lũy không, mới biết ban đêm giặc tới đắp lũy đến gần sáng lại về. Bèn tiến quân lên. Khoảng giờ thân giờ vị đến cửa (Thuận-Cảng), thuyền giặc đã chặn trong cửa, quân ta với họ tranh nhau lấy thượng lưu. Thuận-Cảng là đường sông nhánh Tiền-Giang chảy vào Hậu-Giang, chính giữa ngã sông, cát bồi cạn, thuyền không tới được, quan quân theo bờ phía bắc, thuyền giặc theo bờ phía nam cùng đi ngược lên, quân ta đã hẹn, nghe hiệu trống mới được giáp trận. Vừa gặp gió đông thổi mạnh quân ta có chiếc thuyền đi biển, bị tạt vào bãi cát, chống cạy không ra, giặc đưa thuyền con xúm lại toan cướp, người trong thuyền gấp quá không đợi hiệu trống liền mở đại bác bắn trúng tướng Tiền phong là Liêm-Cầm-Hen. Giặc có ý nùng, quân ta thừa thế mới thắng được, giặc phải lui vào trong cửa. Đêm đến khoảng canh tư, ta ngầm đem quân đánh úp, đạn bắn vào dinh, giặc mới biết. Trận ấy cả phá được, bắt đầu nhức tiếng. Cho nên trận sau kỳ tháng chạp, quân ta tuy thua vỡ mà giặc cũng không dám tiến vội. Tháng chạp, Vĩnh-Thuận-Hầu Tống-Phúc-Lương 90 đã đến, lại cùng với giặc đánh nhau ở Thuận-Cảng, quan Tả tướng hẹn đến canh ba bầy trận hết thảy, đến nửa canh tư nghe hiệu thì tiến lên. Gần sáng chưa nghe hiệu, quan quân bày trận ở phía đông, giặc bày phía tây, bỗng chốc có sao sa hiện ra ở phía giặc, to bằng nón dấu, sắc đỏ chói, bay qua phía quân ta rồi mất. Rạng ngày các tướng giáp chiến đến trưa thì quân ta tan vỡ. Hôm ấy sắc mặt trời có ánh tía, buổi chiều đến sông Cổ-Hộ, ông Tống đã đem lính của mình và đội lính Trung-Bảo đi trước. Các toán quân tan vỡ không thống thuộc vào đâu cũng đều theo ông. Dân hai bên bờ sông chạy giặc van khóc như ri. Bình-Thành-Bá sai người đuổi theo ngăn Tân-Long-Hầu và Thống chế Trần-văn-Trí lại. Khi ấy các toán mới trở về, sắp xếp đội ngũ lại, đến canh năm mới xong. Quan quân đã giữ được con sông Cổ-Hộ đến 16 giặc lại tới, 18 và 19 họ hội lại đông, thách đánh, trước sau được vài mươi Lợp, quân ta không được nghỉ. Ngày 20, thấy giặc im lặng đến chiều. Lính tuần tiễu có bắt được một cây chuối nổi giữa sông, quân ta bèn thâu góp hết thảy các thuyền đóng lại ở bờ sông. Đến canh năm thấy giặc phóng một bè lửa lên ngất trời, bên ta đem thuyền chiến nối nhau thành thử giữa sông không có lấy một mái chèo giặc đành chịu phép, bị quan quân giáp trận lại đánh thua to. Nhưng họ còn cậy quân đông cầm cự, khi đánh khi nghỉ. Đến ngày 24 đầu canh một, ở giữa trời từ hướng tí ngọ về tây, thì mây đen sì, từ hướng tí ngọ về đông thì sao sáng quắc, giữa chia một đường thẳng như giây. Thái-công-Triều nói : « Đêm nay giặc trốn ». Rồi mà quả như thế. Quan quân đuổi giặc đến Phủ-Lật (Pursat) đánh liên tiếp vài ngày, quân lính bị đau nhiều, sự vận tải lại không tiếp tế, lửa bếp lạnh tanh, số lương chỉ còn vài ngày, lính và lại đều muốn về. Tân-Long Hầu cũng cho là phải. Trái lại Bình Thành Hầu và Trương-Phúc-Dĩnh 91 không cho. Ngày hôm sau vừa quân vận tải tới mới có số lương ăn ba ngày. Lại sáng hôm sau nữa, trong dinh bỗng có trận gió thổi vụt lên, những đồ cờ sí đều bị gió cuốn ra ngoài dinh hơn một trượng, mà cỏ cây thì không động. Một chốc lính tuần tiễu vào báo có giặc. Bình-Thành-Hầu sai trong dinh xếp những đồ cờ quạt nghi trượng lại, và sai hơn một trăm người giả làm lính Mọi vừa đánh vừa lui để lừa giặc. Khi đã vào dinh, giặc bọc bốn mặt. Đợi họ tới gần quan quân xổ ra đánh, trong dinh hò reo giặc bèn thua vỡ trốn mất, không dám lại nữa. Họ Hồ mất nước, người Minh thu sổ đinh của ta được số dân 320 vạn. Quốc-triều ta mở bờ cõi rất rộng, sau khi đại định rồi, dân được nghỉ ngơi sinh nở đã hơn 30 năm, đến năm Minh-Mệnh thứ 13 (1832) chia đặt tỉnh hạt : sổ đinh được 81 vạn người. Lấy thổ địa cuối đời Trần so với đời nay mới được hơn một nửa mà số đinh thì gấp ba, khả kiến đời bấy giờ chính trị hà khắc, thuế má nặng nề lắm. Nhưng cái tệ tăng láo số đinh từ đời Tây-Hán đã có, Khảo Tùy-Sử sau khi nam bắc phân tranh, gươm dao đâm chém xong mà khoảng năm Khai-Hoang 92, Đại-Nghiệp 93 số đinh 870 vạn. Đến đời Đường khoảng năm Vũ-Đức 94, Trinh-Quán 95 rất thịnh. Hai vua hết sức thi hành nhân nghĩa hơn 30 năm đến đầu niên hiệu Vĩnh Huy 96 số đinh có 380 vạn. Thế mà nói đến sự thịnh-trị, không ai khen nhà Tùy mà chê nhà Đường cả. Mới biết đời xưa gọi rằng dân đông không phải là gọi cái hư số do bọn tục lại viết láo vậy. Năm bính-thân triều Minh-Mệnh (1836) có thuyền của sứ giả nước Ma-Ly-Căn (Malacca) đến Phú-Yên xin thông khoản 97. Các đình thần đang ngồi ở tả vu nói với nhau rằng : - Nó là một miếng thịt thừa ở ngoại quốc điều nó xin không nên nhận. Một chốc có chỉ vua đòi hỏi có nên nhận hay không, thì có một người tâu trước rằng : - Nó có lòng thành muôn dặm tới đây, há nỡ cự tuyệt. Ông Hoàng Quỳnh bèn đem câu chuyện khi nãy tâu với vua. Đời Trần có Đào-Sư-Tích ở huyện Nam Chân (Nam-định) đi thi Hội, khi mới ra khỏi cửa gặp một người con gái. Tục nước ta cho là khi bắt đầu ra đi mà gặp gái là sự không lợi. Ông Đào nhổ nước miếng. Người con gái rằng : - Việc ông đi thi với tôi không can hệ gì, nhưng nữ và tử là chữ hảo là tốt, ông rồi chắc đậu Tiến sĩ. Ông Đào rằng : - Tiến-sĩ đã lấy chi làm vừa ý. Người con gái rằng : - Không vừa ý thì Trạng nguyên vậy. Ông Đào rằng : - Được. Khoa ấy quả đậu Trạng. Trời bấy giờ văn học thịnh hành, đàn bà con gái cũng biết giải đoán như thế. (Ông Đào từ thi Hương đến thi Đình đều đứng thứ nhất). Vua Lê-Thánh-Tông ham chuộng văn-học, tự làm Đô nguyên súy Tao Đàn, lựa 28 quan văn để phòng khi cố vấn và họa thơ. Có : - Thân-Nhân-Trung 98 làm Thừa chỉ viện Hàn-Lâm. Đại học sĩ tòa Đông-Các, kiêm Tế tửu. - Đỗ-Nhuận 99 làm thị độc Hàn-Lâm, Đại học sĩ Đông Các cùng làm Phó nguyên-súy (Hai người ấy đều đậu Tiến-sĩ sau trải làm Thượng-thư. Thân sung chức Nhập nội phụ chính). - Ngô-Luân 100, Hiệu thư Đông-Các (đậu Tiến sĩ sau làm quan đến Thượng thư kiêm Đại học sĩ Đông-Các). - Ngô-Hoán 101 (đậu Bảng nhãn, sau làm quan đến Thượng thư). - Nguyễn Trọng-Ý 102, Thị-độc coi cả viện Hàn-Lâm (Tiến sĩ, sau kiêm Thị lang bộ Lễ). - Lưu-Hương-Hiếu 103, Thị độc tham coi cả viện Hàn Lâm (Bảng Nhãn, sau làm quan đến Thượng thư ; kiêm Đại học sĩ Đông-Các, coi cả viện Hàn Lâm). - Nguyễn-Quang-Bật 104 Thị thư Hàn-Lâm (Trạng nguyên, sau làm đến Đô ngự sử vì không theo (Lê) Uy-Mục mà bị giết). - Nguyễn-Đức-Huấn 105 (Bảng nhãn, sau làm quan đến Thượng-thư). - Vũ-Dương 106 (Trạng nguyên sau làm đến Thượng thư). - Ngô-Thầm 107 (em Ngô Luân, đậu Bảng nhãn). - Ngô-văn-Cảnh 108, Thị chế Hàn-Lâm (Hoàng giáp, sau làm đến Hiến sát sứ). - Phạm-trí Khiêm 109 (Hoàng giáp, sau làm đến Hiệu thư Đông Các). - Lưu-Thư-Ngạn 110 (Thám hoa). - Nguyễn Nhân-Bị 111, Hiệu Lý Hàn-Lâm (anh Nguyễn Trọng-Ý, Tiến sĩ sau làm đến Thượng thư). - Nguyễn-Tôn-Miệt 112 (Tiến sĩ, sau làm đến Thị thư Hàn-Lâm). - Ngô-Hoan 113 (Hoàng giáp, sau làm đến Đô ngự sử). - Nguyễn-Bảo-Khuê 114 (Hoàng giáp, sau làm đến Thị lang, Đô đình úy). - Bùi-Phổ 115 (Hoàng-giáp). - Dương-Trực-Nguyên 116 (Hoàng giáp, sau làm đến Đô ngự sử). - Nguyễn-Hoãn 117 (Hoàng giáp). - Phạm-Cẩn-Trực 118 Hiệu thảo viện Hàn-Lâm (Tiến sĩ). - Nguyễn-Ích-Tốn 119 (Tiến sĩ, sau làm đến Thị lang). - Đỗ-Thuần-Thứ và Đoàn-Huệ Nhu 120 (đều đậu Tiến sĩ, sau làm đến Thừa chính sứ). - Lưu-Dịch 121 (Tiến-sĩ). - Đàm-Thận-Huy 122 (Tiến sĩ, trải làm đến Thượng thư bộ Lễ, coi Tú-Lâm cục ở Chiên-Văn-Quán kiêm Thị đốc coi cả viện Hàn-Lâm, hầu vua giảng sách tước Lâm-Xuyên-Bá. Họ Mạc tiếm ngôi, khởi binh đánh không nổi, uống thuốc độc chết). - Phạm Đạo-Phù 123 Tiến sĩ, sau làm đến Thị-lang. - Chu-Huân 124 (Tiến sĩ, sau làm đến Thừa chính sứ) gọi là 28 ngôi sao ở Tao-Đàn. - Lại có hai người phu quét dọn (sái phu) ở Tao-Đàn là Lương-Thế-Vinh 125 và Thái Thuận. 126 Nhà Lê mở khoa Tiến sĩ có 400 năm, từ thi Hương đến thi Đình đều đứng thứ nhất, có 4 người : - Phạm-Đôn-Lễ 127 đậu khoa tân sửu năm Hồng-Đức thứ 12 (1481). - Vũ-Dương 128 đậu khoa quý sửu năm Hồng-Đức thứ 24 (1493) đều đậu Trạng nguyên. - Nguyễn-Đăng 129 đậu Hoàng-giáp khoa nhâm dần năm Hoằng-Định thứ 3 (1693). - Lê-Quý Đôn đậu Bảng nhãn khoa nhâm thân năm Cảnh-Hưng thứ 13 (1752). Quý-Đôn là con Thượng thư Lê Trọng-Thứ 130 đậu Tiến sĩ khoa giáp thìn năm Bảo-Thái (1724). Dương làm quan đến Thượng thư, Đôn-Lễ-Đăng và Quý-Đôn đều làm đến Thị lang. Thi ở điện không đậu cập đệ 131 từ về, rồi sau lại đậu, có ba người : - Trịnh-Thiết-Trường 132 và Nguyễn-Nguyên-Chẩn 133 đều đậu Đồng tiến sĩ khoa nhâm tuất năm Đại-bảo thứ 3 (1443) chối từ không nhận, đến khoa Mậu thìn năm Đại Hòa thứ 6 (1448) lại đều đậu. - Nguyễn-Nhân-Bị đậu Đồng tiến sĩ khoa bính-tuất năm Quang-thuận thứ 7 (1466), chối từ không nhận, sau lại đậu khoa tân sửu năm Hồng-Đức thứ 12 (1481). Thiết-Trường (thi lại, đậu) Bảng nhãn quan, đến Thị lang, còn hai người kia đều lại đậu Đồng tiến sĩ : Nguyên-Chẩn quan đến Trực học sĩ viện Khu-Mật, còn Nhân Bị quan đến Thượng-thư. Cha con đậu đồng khoa có bốn người : Ngô-Trí-Tri 134 và con là Trí-Hòa đều đậu khoa nhâm thìn năm Quang- Hưng thứ 15 (1592). Cha làm đến Giám sát ngự sử, con đến Thượng-thư, tặng tước quận công. Nhà ấy cha con ông cháu nối nhau đỗ-đạt đến 5 người ; Nguyễn-Bình 135và con là Tài-Toán đều đậu khoa mậu thìn năm Vĩnh-Tộ thứ 10 (1628). Cha làm đến Thượng thư, con đến Thị lang. Anh em ruột đậu đồng khoa có 28 người : - Nguyễn-Trinh và em là Tư-Phúc (người Lập-Thạch (Sơn-Tây) ; Nguyễn-Dương-Hiến và em là Tịnh (người Kim Anh 136 (Bắc-Ninh). Cả 4 người đều đậu khoa tân vị năm Hồng-Đức thứ 6 (1475). Nguyễn-Trinh làm đến Thượng-thư, Tư-Phúc thì Tham-chính, Tịnh làm Đô-cấp sư trung. - Đặng-Minh-Khiêm 137 và em là Minh-Tán đều đậu khoa đinh vị năm Hồng-Đức thứ 18 (1487), anh sau làm đến Thượng-thư, em Thị-Lang. Họ là dòng dõi Đặng-Tất. Các ông Công Thiếp, Tòng-Củ, Thận, Điềm, Đôn-Phục 138 đều là người họ ấy cả. - Nguyễn-Huân 139 và em là Kính đều đậu khoa bính thìn năm Hồng-Đức thứ 27 (1496) ; Lê-Tán-Tương 140 và em là Tán-Thiện đều đậu khoa kỷ tỵ năm Cảnh-Thống thứ 2 (1499). Riêng Huân đậu Bảng nhãn. Anh em hai nhà ấy đều làm đến Thượng thư. - Lê-Khắc Nhượng và em là Đinh-Vệ (người Nông-Cống Thanh-Hóa) ; Lê-Bá-Giác và em là Trọng-Bích (người Thụy Nguyên Thanh-Hóa) cả bốn người đều đậu khoa mậu thìn năm Đoan-Khánh thứ 4 (1508). Khắc-Nhượng làm đến Thị Lang, em làm Đại học sĩ tòa Đông Các. - Nguyễn-Tào 141 và em là Hòa-Trung đều đậu khoa mậu dần năm Quang-Thiệu thứ 3 (1518). Người sau làm đến Thị-lang. - Ngô-Ước 142 và em là Hoành đều đậu khoa binh tuất năm Thống-Nguyên thứ 5 (1526). Người sau làm đến Hiến sát sứ. - Nguyễn-Đăng Kiêu 143 và em là Đặng-Minh đều đậu khoa bính tuất năm Phúc Thái thứ 4 (1647) anh đậu Thám hoa quan đến Đại học sĩ tòa Đông-Các, còn em đến Tế tửu. Nhà nầy cha con anh em nối nhau đậu đạt đến 4 người. - Nguyễn-Quê 144 và em là Sĩ đều đậu khoa canh tuất năm Cảnh-Trị thứ 8, anh làm đến Thị lang, em đến Giám sát ngự sử là chắt Thượng thư Tham tụng Nguyễn-Thực đậu Tiến sĩ khoa ất vị năm Quang-Hưng (1595) và là cháu Thượng thư Tham tụng Nguyễn-Nghi đậu Tiến sĩ khoa kỷ vị năm Hoằng-Định (1619). Nhà nầy nối nhau đậu đạt đến 6 người. - Trần-Danh Ninh 145 và em là Lâm đều đậu khoa tân hợi năm Vĩnh-Khánh thứ 3 (1731), cả hai đều làm quan đến Thượng thư và là con Tham chính Trần-Phụ-Dực đậu Tiến sĩ khoa quý hợi năm Chính-Hòa (1683). Con Lâm là (Trần Danh) Án, cũng đậu Tiến sĩ khoa đinh vị năm Chiêu-Thông (1787) nổi tiếng tiết nghĩa. - Lê-Đăng-Sĩ 146 và em là Bang đều đậu khoa bính thìn năm Vĩnh-Hữu thứ 2 (1736) cả hai đều làm đến học sĩ. - Dương-Ưởng 147 và em là Trọng Khiêm đều đậu khoa giáp tuất năm Cảnh-Hưng thứ 15 (1754). Người anh làm đến Thị lang. Chú cháu đậu đồng khoa có 6 người : - Nguyễn-Lệ 148 và cháu là Thù đều đậu khoa đinh sửu năm Hồng-Đức (1487). Sau chú làm đến Thị lang, cháu thì Tham chính. - Vũ-Cầu-Hối 149 và cháu là Bật-Hài đều đậu khoa kỷ hợi năm Vĩnh-Thọ thứ 2 (1959). Chú làm đến Tham chính, cháu thì Thượng thư. Nhà nầy nối nhau đậu đạt có 6 người. - Vũ-Huyên 150 và cháu là Huy đều đậu khoa nhâm thìn năm Vĩnh-Thịnh thứ 8 (1712). Chú làm đếu Hiệu thư, cháu thì Thị lang. Một điều kỳ tuyệt hơn cả là trong tất cả các khoa thi, chỉ có khoa nhâm thìn năm Quang-Hưng (1592) số người đậu có 3 mà cha con (Ngô) Trí-Tri đã chiếm đi hai rồi. 151 Lại có một nhà 10 người gồm cả cha con anh em, chú cháu kế tiếp thi đậu, là Họ Nguyễn xã Kim-Đôi : 5 anh em là Nhân-Bị, Trọng-Ý, Nhân-Thiếp, Nhân-Dư, Nhân-Dịch. - Nhân-Thiếp đậu khoa bính tuất năm Quang-Thuận thứ 7 (1465). - Trọng Ý đậu khóa kỷ sửu năm Quang Thuận thứ 10 (1469). - Nhân-Dư đậu khoa nhâm thìn năm Hồng-Đức thứ 3 (1472). - Nhân-Dịch đậu khoa ất vị năm Hồng-Đức thứ 6 (1475). (Hai người sau này đều Đồng tiến sĩ). - Nhân-Bị đã cùng em là Nhân-Thiếp đều đậu Đồng tiến sĩ khoa bính tuất, nhưng Bị từ không chịu nhận, đến khoa tân sửu năm Hồng-Đức thứ 12 (1481) lại đậu. - Đến khoa canh tuất năm Hồng-Đức thứ 21, con Nhân Thiếp là Hoành-Khoản đậu Đồng tiến sĩ (1490). - Khoa bính thìn năm Hồng-Đức thứ 21 (1496) con Trọng-Ý là Đạo-Diễn, cháu gọi bằng chú là Củng-Thuận lại cùng với con Nhân-Thiếp là Huân, Kính đều đậu đồng tiến sĩ, riêng Huân đậu Bảng-nhãn. - Dịch sau rồi làm quan đến Hiệu thảo viện Hàn-Lâm. - Nhân-Dự, Đạo-Diễn đều làm Án sát ; Trọng-Ý, Củng Thuận làm Thị lang. - Nhân-Bị, Nhân-Thiếp, Huân, Kính đều làm Thượng thư. - Nhân-Bị và Trọng-Ý thì được dự vào Tao-Đàn. Một nhà 4 người gồm cả cha con anh em ông cháu kế thế thi đậu là : Thân-Nhân Trung đậu Đồng tiến sĩ khoa kỷ sửu năm Quang-Thuận thứ 10 (1469) quan đến Thượng thư Đại học sĩ, Phu-chính, Phó Nguyên súy Tao-Đàn là danh thần một một đời. Con là Nhân-Vũ đậu Đồng tiến sĩ khoa tân sửu năm Hồng Đức 12 (1481) (Vua Thánh-Tông có câu thơ rằng : 兩申⽗⼦佩恩榮 nghĩa là : Họ Thân vinh hiển cả cha con) ; Cháu là Cảnh-Vân đậu Thám hoa khoa đinh vị năm Hồng-Đức thứ 21 (1487) ; Cha Cảnh-Vân là Nhân-Tín đậu Đồng tiến sĩ năm Hồng-Đức thứ 21 (1490). Gặp được vua Lê-Thánh-Tông, thời bình chúa thánh, hai nhà ấy cha con, anh em, chú cháu, ông cháu liên tiếp thi đậu, quý hiển ở triều đình, trên đời cũng ít có. (Từ đời Hồng-Đức về trước, ban áo mão Tiến sĩ : nhất nhị giáp thì mũ « phốc đầu lương cân » hai bên có hai cái tai, tam giáp cũng mũ ấy mà không có tai chỉ phía sau có dải bỏ xuống. Học trò bấy giờ chê nhau, có câu « Dốt có đuôi » cho nên người đậu Tam giáp hay từ chối. Vua Thánh Tông biết được chuyện ấy, mới cho bỏ cái dải sau. Nay ở Bắc-Kỳ còn có câu ấy. Lại lúc trước, khi các ông « Tiến sĩ mới » đi du nhai, có lịnh bắt người đậu cuối bảng phải dắt ngựa cho Trạng nguyên. Sau có người đập đầu vào cửa điện mà chết, mới bỏ lịnh ấy). Cách thức phép thi triều Lý nay không thể khảo được. Sử chép phép thi đời Trần năm Hưng-Long khoa giáp thìn (1304) thì đầu tiên viết ám tả sách thư truyện, rồi đến hỏi kinh nghi, kinh nghĩa ; trường nhị ra đề một bài thơ, một bài phú ; trường ba một bài tứ lục ; trường tư bài sách vấn thể lệ rất nghiêm mật. Phép thi đầu đời Lê cũng chia làm bốn trường, hai kinh nghĩa thì trước hết phải chỉ chính văn của đầu bài ra ở sách nào, kế phải dẫn bài chú, sau mới dùng lời nói của mình phô diễn ra để cho đủ ý, đại lược cũng như thể chú luận, lời nói phải binh hòa không đẽo gọt quá. Buổi Trung hưng (Hậu-Lê) về sau, kinh nghĩa dần dần biến ra những câu sáo giản lược ; thơ dùng luật Đường, phú dùng 8 vần, ban đầu hay trau chuốt hoa lệ như các bài phú Ngư phủ nhập đào nguyên 漁夫⼊桃源Nghiện trí ngưu 硯池⽜, v.v… Về sau chỉ dùng điển tích các sách thường, nhưng không phải những người thông thuộc nghĩa sách thì không làm được, như bài phú Trượng trung tín, Yên nghĩa mệnh 仗 中信安義命 có câu : ⾂之忠⽇照⽉臨,卓爾險夷⼀致, 君之命朝⼣赴 坦然聞讒謗⽩端. « Thần chí trung nhật chiếu nguyệt lâm, trác nhĩ hiểm di nhất trí ; Quân chỉ mệnh triêu văn tịch phó, thản nhiên sàm báng bách đoan ». Dịch là : « Tôi có lòng ngay, bóng dương tỏ, bóng nguyệt lại soi, bằng hẻm một đường đều thẳng bước ; Vua có mệnh lệnh, buổi mai nghe buổi hôm phải tới, dèm pha trăm miệng cũng ngoài tai ». Bài phú Thần-tiên Hoàng-Bạch có câu : 使天下可無常道吐納屈伸丹 藥符籙聖⼈豈肯怠於修爲 即衆⼈皆可以仙飲⾷⾐服 室⾈⾞從古亦何勞於創造 « Sử thiên hạ khả vô thường đạo, thổ nạp khuất thân đan dược phù lục, thánh nhân khỉ khẳng đọa ư tu vi ; Tức chúng nhân giai khả dĩ tiên ẩm thực y phục cung thất chu xa, tông cổ diệc hà lao ư sáng tạo ». Dịch là : « Vi thiên hạ không có thường đạo, thì nhổ, nuốt, duỗi, co, thuốc men bùa phép, thánh nhân cũng tu lấy không lười ; Nếu chúng nhân ai cũng làm tiên, thì ăn, uống, áo mặc, nhà cửa xe thuyền, xưa nay phải làm chi cho mệt ». Lời lẽ sâu kín, nghị luận thuần chính làm gương hay cho nhà làm phú. Quốc triều ta ban đầu cũng nhân theo thể ấy chỉ có kinh nghĩa đổi dùng học qui của vua nghị định ra : (ngũ) kinh 5 bài, (tứ) truyện một bài, mỗi thứ cho học trò chọn lấy một. Bài làm cũng sơ lược mà học trò trong trường đã có kẻ làm thể văn tám vế (bát cổ) mới đổi học qui thông dụng văn tám vế cả. (Buổi quốc sơ, trường Nghệ An làm thể tám vế trước hết). Đến đời Minh-Mệnh thứ 13 (1832) cải định lối làm văn ; chế và kinh nghĩa đều dùng tám vế ; thơ dùng luật Đường ; phú theo như lối nhà Minh, Thanh. Nhưng có bọn học trò ít học, không nhớ chỗ xuất xứ các đề thơ phú, bèn góp lặt những văn tư mẫu mực để làm bài kim văn tả đủ lời nịnh hót, không nói đến ý nghĩa trong sách. Xét buổi đầu nhà Tống về trước, gọi rằng kinh nghĩa là chỉ hỏi danh mục việc cũ, cùng với bài viết trầm tương tự nhau. Như đầu bài : Đức Khổng bảo thầy Tử-Sản đạo của người quân tử có bốn điều : (⼦謂產⼦有君⼦之道四焉) Bốn điều ấy là những gì ? Lại đầu bài : « Kẻ làm việc có bảy người (作者七⼈矣). Bảy người là những ai ? » Học trò trả lời chỉ kể người hay là việc mà thôi, chứ không có lời gì trau chuốt phụ hội cả. Danh thần như Lữ Thân-Công 152cũng theo lối bài ấy mà đậu. Nhưng học trò từ hoa lo rằng không có văn vẻ, chê làm thế là nghĩa đen, mới đổi ra lối tám vế do Vương-An-Thạch 153 bày ra đầu. Nói tóm lại lối văn tám vế vẫn cũng có lệ, kẻ học giỏi thì nói ra xuyên tạc cắt xé, người học kém thì lượm lặt những câu cũ, ý nghĩa không sát với đầu bài, cho nên ông Tô-Tử-Thiêm 154 ví với sáng vàng lau trắng. (Như đầu bài : « Đạo của bậc đại học » (⼤學之道) làm bài có đến vài tờ giấy, cầm chữ « đạo » làm lời bàn suông, há phải cái ý cổ-nhân dạy người đâu). Dụ vua Khang-Hi 155 cũng chê là phù phiếm, đã bắt cấm chỉ mà các Bộ thần cứ nhân tuần lối cũ, rồi lại phục hồi. Các quan chấm trường có ý châm chước không chú ý, cho nên Khưu Toàn 156nói : « Ngạch lấy đậu đã định số, không thể không lấy cho đủ ». Đời Minh cũng đã có tệ ấy. Ôi ! Dùng văn để lấy kẻ sĩ, từ nhà Đường lại nay vẫn được nhiều người, nhưng nhà Tống về trước, kinh nghĩa còn có chất thiệt, nếu bắt chước như thế thì người thông kẻ dốt, dở quyển biết ngay. Như lời bàn của Khảo-Đinh 157 bắt phải dẫn nhưng chú thuyết của các nhà và đem ý mình bàn bạc. Ấy là tinh tường lắm. Lại sợ những học giả hiếu kỳ mà quan trường thì lại ý kiến riêng nên mới không định chuẩn được. Đại loại như Mao-kỳ-Linh, hay bài phú bác bài chú của thầy Chu thiệt gây thêm sự bạc. Nếu không thế thì cứ nghĩa trong truyện chú, bắt chước theo thể luận mà mà làm cũng có thể bỏ cái tệ xuyên tạc được chút đỉnh. Lại như quốc triều ta từ buổi định cho các học quan khảo hạch học trò, lúc đầu số học trò ứng thí có hạn, gần đây lại càng ngày càng đông, hoặc có khoa số lại gấp hai. Vị tất sĩ số (giỏi) nhiều hơn trước nhưng sĩ số nhiều thí ngạch đậu phải thêm mà chức học quan cũng theo số ứng thí và số đậu nhiều mà tăng lên, quan tràng nhân thế không khỏi nhù nhừ để tránh cái tiếng ác nghiệt, ra bài lựa những đoạn dễ, chấm bài thì rộng ngòi bút, lâu nay thường như thế. Nay ngạch đậu đã phụng chỉ cải định lại. Ngày trước ở chỗ Kinh Diên, Hoàng-thượng đã nói đến việc Âu-Dương-Tu sung chức Cống cử mà đổi được tập lục học trò. Ý Hoàng-Thượng như vậy, các nhà đương trách nên thể cái ý ấy. Đại phàm việc gì không nên để ý riêng vào. Đã dùng ý riêng thì trái với lẽ trời. Đời Lê, thi Hương, xong bốn trường, lúc xướng tên phúc hạch có hỏi vài ba câu nghĩa sách gọi là lược vấn. Trường Nghệ có Nguyễn-Đình-Tiến, quyển bài thì nhờ người cùng huyện là Trọng-Dung gà cho Đến khi xướng tên vào cửa, quan trường hỏi : « Bởi thầy được ấn là ai ? » 因師獲印爲誰 Ông Nguyễn sợ cuống lên nghĩ rằng các quan đã dò xét được việc của mình, bèn thú thiệt. (Án) cho rằng đã biết thú trước nên tội hai người chỉ bị tước ngạch, suốt đời không được đi thi. Năm xưa, trường Hà có một ông Phúc khảo, có người bạn đi thi, đến khi chấm quyển nhận biết được dạng chữ của người bạn, chưa kịp chấm phê, để lên trên các quyển khác, tình cờ ông mắc đi chỗ khác, người đày tớ biết lóm được thầy mình để ý vào quyển ấy, lấy trộm ra xem, trong quyển có chữ « thiên ngâu » 千 耦 không biết nghĩa, tưởng là viết sai, bèn lấy muội đèn viết thêm chữ « thảo » trên đầu chữ « ngâu ». Đến khi ông về lại quên mất, chấm bài thấy có chữ « thiên ngâu » 千藕, cả mắng rằng : « Đây là (anh nào) mượn người khác làm gà cho, dốt nát thế này mà cũng đi thi ». Rồi sổ toẹt mà đánh hỏng. Chấm xong nhớ lại quyển (của người bạn) trước thì tìm không được nữa. Người đầy tớ thú thiệt. Sau ông Phúc khảo ấy cũng đưa việc đó nói chuyện với người ta để răn. Đời gần đây, chính giáo chia ra làm hai chức Lại điển 158 vẫn phải lựa chọn cẩn thận mà chức học quan cũng không thể khinh cử được. Bởi vì có học rồi mới làm quan, người dạy mà không ra người thì cái lầm lạc cứ lưu truyền mãi. Vả đứa tiểu dân ở hương thôn, thường coi kẻ sĩ như kẻ đưa đường, cái thói của kẻ sĩ mà chính cũng có quan hệ tới phong tục của dân. Tà hay chính thiệt bởi ở học quan khá hay không. Thường thấy ông Bùi-Tồn-Trai 159 đang làm Đốc-học ở Nghệ-An, mỗi kỳ hạch học trò không, ai dám mạo lạm vì ông lựa những người có học lực hơn người cho nên được học trò tín phục. Ông đọc quyển mới vài hàng, xem văn đủ biện biệt được con người. Cử qua vài chuyện : Nguyễn-Bùi-Nhã 160 và Nguyễn-Hoằng-Nghĩa đều có học với ông nhân kỳ hạch ra biểu đầu đề là : « Biểu của bọn ông Lữ-Mông-Chính tạ ơn cho đậu cấp đệ » (呂蒙正等謝賜及第表). Một quyển có câu : 寒燈空費家修,義理乏⾣藏之奧, 尺⽇會逢昌 運,太平欣卯歲之徵. « Hàn đăng không phí gia tu, nghĩa lý pháp dân tàng chi áo ; Xích nhật hội phùng xương vận, thái bình hân mão tuế chi trưng ». Nghĩa là : « Đèn lu những phí công học nghĩa lý thiếu chỗ dâu tàng ; Ngày vắn may gặp vận hanh, thái bình mừng điềm mão tuế ». Chấm nhằm quyển ấy, ông sai gọi hai người đến. Nha đi vắng một mình Nghĩa tới. Ông đang chấm quyển không ngó tới Nghĩa vào lạy ở sân. Người này sợ mồ hôi ra ướt đầm. Đứng đợi đến vài giờ, ông chấm quyển xong, Nghĩa lại lạy. Ông mới quở rằng : « Một anh làm gà cho người ta cũng đủ rồi, lại cùng cả anh Nhã nữa ru ». Nghĩa chỉ lạy tạ xin lỗi ; hồi lâu ông mới nguôi. Lại một ký hạch có phú đầu đề là : « Cao quang tài phú ». Có một quyển có câu : 巍巍王迹伯圖,並峙之群雄北⾯, 赫赫 庿謨雄斷,⼀⾠之豪傑東⽅. « Nguy nguy vương tích bá đồ, tịnh trĩ chi quần hùng bắc diện ; Hách hách miếu mô hùng đoán, nhất thời chí hào kiệt đông phương ». Nghĩa là : « Cao lớn thay cơ nghiệp bá vương, đều sánh với kẻ quần hùng phía bắc ; Rỡ ràng vậy mưu mô nhà nước, thời bấy giờ người hào kiệt phương đông ». Ông bảo môn sinh rằng : « Bài này hẳn là của Nguyễn Sĩ-Giảng làm ». Nhưng cũng lấy cho đậu. (Thường) mỗi kỳ hạch, ông bắt ai đậu thì phải tới ra mắt hoặc để hỏi văn bài lại. Kịp khi tác giả bài phú trên tới yết kiến. Ông hỏi thì người ấy lạy tạ, thú thiệt rằng nhờ Nguyễn-Sĩ-Giảng gà cho. Năm mới đây, tôi làm Điển thi trường Nam-Định 161. Khi đầu lấy không đủ số đậu. Mọi người đều chê tôi là hà khắc, tiếng oán trách đầy tai, những người đồng sự cũng trái ý lộ ra ở tiếng nói, sắc mặt. Tôi không muốn thất hòa đành phải cưỡng lấy cho đủ số. Nhân nghĩ lại hồi mới đây trong trường đôi khi có ông Sơ khảo 162 không biết chấm câu. Đều là tội của Chủ khảo lúc trước lấy đỗ rộng. Trong lòng tôi thường không an là như thế. Lối văn trường ốc, học trò đi thi thường lấy nó làm mẫu mực. Gần đây học trò thường tập xem những loại thư biền ngữ, góp lặt những chữ có vẻ bí hiểm (tịch tự) không ai hiểu mối manh gì cả, rồi cho kinh truyện làm lời bàn suông (nhàn đàm), những lời huấn thích của tiên nho làm câu nói hủ (trần ngữ), không nghiên cứu nữa, thiệt là một bệnh lớn của học trò. Nói tóm lại thì họ toàn cho những Ngũ kinh, Luận ngữ, Mạnh tử làm văn vô dụng. Lại có một hạng tự phụ là uyên bác, tìm tòi trong những thuyết của các tiểu gia được một câu chê truyện chú của Trình Chu thì hớn hở lấy làm sướng. Lại (là những kẻ) không biết cân nhắc. Khoa thi Hội năm mậu thân (1848), có một quyển có câu « Bất tất cần đến kính Lễ xa xôi » (不必遠求禮記). Trong trường cho nói thế là bội kính, sổ toẹt mà đánh hỏng. Các trường thi Hương cũng nhiều quyển giống như thế. Trước khi tôi đi thi chưa từng thấy lối văn ấy, không biết ai bày đặt ra đầu. Gần đây bên nhà Thanh thi Đình thấy có quyển đậu thứ hai là Viên-Mậu-Tích, cả bài nói ra, không có câu nào có điển cố thật. Thậm chí thi Quán ra bài sớ : « Run sợ tu tỉnh để đón khí hòa ngọt » (恐懼修省以迓和⽢) Quyển đậu đầu có câu rằng : « Cầu nguyện vô sự ở Tang Lâm » (禱無事乎桑林) 163. Như thế chả phải gần như chê thánh nhân hay sao. Phù bạc sai lầm đến thế là cùng. Nên bài xích đi, đừng để cho hậu học lầm lạc. Người ta chớ phiền về sự không đọc được sách. Năm gần đây có tên dân tỉnh Biên-Hòa có người anh chết mà không con. Trong họ bàn lập con của người em để làm con nối. Người em có hai con, quan địa phương xử cho lập đứa con thứ. Vì nhà ấy của rất nhiều, mới sinh kiện cáo. Phái viên về khâm lại, xử cho lập đứa con đầu. Quan Hữu-tư 164 cũng y theo lời xử sau. Bởi vì có không từng khảo đến sách nghi lễ vậy. Thầy Chu có nói : - Sách nhiều mà không hiểu, chẳng khác gì có kẻ không bao giờ xem. Người trong xã (tôi) là Hoàng (mỗ) có lần đi theo hầu Lê-Quế-Đường 165 nói chuyện ông ấy xem sách một bận mười hàng, đã đọc qua thi chung thân không quên nữa mà tay không rời quyển sách chút nào. Có lần đi đường qua những chỗ hang cùng ngõ hẻm vào trọ một nhà người đàn bà góa có đứa con mới lên 10 tuổi, hỏi học sách gì ? Đáp rằng : - Học sử đầu 166 Hiến-Huệ. Ông bèn cầm lấy sách, bên ngọn đèn xem hết cả quyển. Rồi lại hỏi : - Trong nhà còn có sách vở giấy má gì nữa không ? Người đàn bà thưa rằng : - Không có sách gì nữa, chỉ có quyển khế mà thôi. Ông cũng bảo đưa ra xem, không tờ nào là không để mắt đến. Người hầu (họ Hoàng) nói : - Hà tất phải xem những đồ ấy. Ông đáp : - Người ta ai cũng làm việc của mình, há bỏ qua bóng quang âm sao ? Bậc tiền bối siêng năng tư lệ như thế. Năm quý dậu triều Gia-Long (1813), có Phạm-Quý Thích 167 hiệu là Lập Trai làm Giám thí trường Nghệ. Sau khi dỡ vi rồi, trú ở dinh Đốc-học, học trò tới hầu có vài mươi người. Vốn người đa bệnh, ông dựa gối nằm nghiêng, cùng với Đốc-học tên là Tráng bàn bạc văn chương. Người sau nay nhân đọc bài phú : « Đuốc (Quan) Vân-Trường » (雲⻑ 燭) 168 của trường học Lập-Trai vần thứ bảy, có câu rằng : 愧慾死平⽣曹操⻤, 凛如⽣萬古將軍神. « Quý dục tử bình sinh Tào-Tháo quỷ ; Lẫm như sinh vạn cổ tướng quân thần ». Nghĩa là : « Quỷ Tào-Tháo bình sinh thẹn muốn chết : Thần tướng quân muôn thuở giống như còn ». Có người học trò huyện Hương-Sơn là Cao-khắc-Kỷ ít tuổi hơn cả, đứng dậy thưa rằng : - Gần đây huyện thiên-Lộc (đều thuộc Hà-Tĩnh) có Lê Hàn 169 cũng làm bài phú ấy lại dùng điệu khác. Lập-Trai bảo đọc lên. Cao bèn đọc vần thứ bảy, có câu : 開千古之昏昏,明可對⼈,幽可對⻤, 炤⼀家之暗暗,⾏不愧影,寢 不愧衾. « Khai thiên cổ chi hôn hôn, minh khả đối nhân, u khả đối quỷ ; Chiếu nhất gia chi ám ám, hành bất quý ảnh, tẩm bất quý khâm ». Nghĩa là : Mở muôn thuở tối tăm, sáng đối với người, tối đối với quỷ ; soi một nhà mù mịt, đi chẳng thẹn bóng, nằm chẳng thẹn chăn. Lập-Trai hỏi : - Câu chính diện thế nào ? Người kia lại đọc : 燃激烈之丹⼼五更天地, 印丁零孤影四壁⾵ 霜. « Nhiên kích liệt chi đan tâm ngũ canh thiên địa ; An đi ninh chi có ảnh, tứ bích phong sương ». Nghĩa là : « Nhen lòng son rực rỡ, trời đất năm canh ; in chiếc bóng lênh đênh, gió sương bốn vách ». Lập trai bảo đọc lại, nhân đẩy gối ngồi dậy, nói : - Nó làm hơn ta nhiều. Bậc tiền bối biết phục thiện như thế. Đời Lê, Phạm-vĩ-Khiệm đi thi Hội (1779) Khảo quan vẫn ghét ông ta. Đến trường nhì, họ thấy một quyển giống như văn Phạm, bèn nói rằng : « Ta biết rồi » Rồi đánh hỏng. Đến khi phát quyển thì Phạm lại đậu thứ nhất 170. Việc này giống với chuyện Trịnh Giải trong Mộng Khê bút đàm 171. Cho hay đối với ai, ta cũng nên có lòng bằng phẳng rộng rãi, hơi dùng đến yêu hay ghét một chút là chỉ nhọc bụng mà thôi. Sách Mộng-Khê bút đàm chép Trịnh-Nghị-Phu tự phụ nổi tiếng thời bấy giờ, quan Đốc trường Quốc-Tử cho đậu đến thứ 5, ý rất bất bình. Bài khải tạ quan Chủ tư có câu : 李廣事業,⾃謂無雙, 杜牧⽂章,只得第五. « Lý-Quảng sự nghiệp, tự vị vô song ; Đỗ-Mục văn chương, chỉ đắc đệ ngũ ». Nghĩa là : « Sự nghiệp như Lý-Quảng, tự cho rằng không ai bằng ; Văn chương như Đỗ-Mục mà chỉ được đứng thứ năm ». Chủ tư giận lắm, ngày sau thi Đình, ông ta lại được đi chấm. Mới quyết ý đánh hỏng để trả thù họ Trịnh bất tốn. (Thành thử) có quyển thi giống như văn của Trịnh bị đánh hỏng oan, đến khi treo bảng thì Trịnh lại đậu đầu. Thế mà bài khải tạ của ông ta lần nầy cũng chưa bỏ cái khí kiêu căng. Xem sách Tị thứ lục thoại 172 (có chép chuyện) Hàn Ngụy-Công cùng Thượng thư họ Tống đều thi khoa Trung thư 173. Có người hỏi ông Hàn thì ông lấy làm thẹn mà tạ rằng : « Tôi đâu dám trông được như ông Tống, chắc có tin hỏng ». Khí lượng khác nhau nên chi sự nghiệp cũng không bằng nhau. Có dạy rồi mới biết khốn nạn. Năm đinh mão đời Gia Long (1807), trường Thanh ra đề : « Cho Thường-Hà lụa » (賜常何綢). Có Khảo quan họ Vũ cũng tự làm một bài có câu : « Trượng phu khí khái » (丈夫氣概) Có người làm thơ rằng : 渭上當⾠娘⼦軍 ⽊蘭本是⼥郎⼈ 藉⾮典考之衡筆 將謂常何亦婦⼈ « Vị thượng đương thời nương tử quân, Mộc-Lan 174 bản thị nữ lang thân. Tạ phi Điễn khảo văn hành bút, Tương vị Thường-Hà diệc phu nhân ». Nghĩa là : « Quan nương tử ở bên sông Vị buổi ấy. Mộc-Lan vốn là thân con gái. Nếu chẳng có ngòi bút quan Điển khảo, Toan bảo Thường-Hà cũng là đàn bà ». Người ta truyền tụng bài thơ ấy để chê cười. Gọi rằng làm nên tốt cho người là lấy điều thiện để khuyên nhau, chứ không phải lấy sự bao bọc cho người hay giấu giếm đi cho họ làm hơn. Như năm gần đây, trường Hà có Giám khảo mỗ thay quyển cho người. Người ấy văn hay vốn không cầu cạnh gì. Vì việc chưa phát nên sau người ấy không được vào trường sau. Như thế chẳng những mình tự hãm vào phép cấm mà còn làm lụy cho người ta, có làm nên cho người gì đâu ? Sách Quý tân tạp thức 175 chép chuyện Phùng-Kinh làm Tri cử, có Trương-Vân-Tấn làm bài phú « Công sinh minh » (公⽣明) bỏ vần trùng điệp mà sau đậu đến thứ tư, Trương nghĩ thầm rằng quan Chủ tư lỗ mỗ không biết gì. Đến năm Nguyên-Hựu 176 đi sứ, qua Bắc-Môn, Phùng đang làm Lưu thủ bèn làm tiệc rượu đãi môn sinh, Phùng nhân nói : - Ngày xưa tôi làm Tri cử, bài phú của ông trùng vận, vì bài luận sách hay, nên tôi thay vần cho ông. Trương đang uống rượu, tự nhiên chén rượu rơi không biết, lấy làm thẹn, từ tạ đến hai ba lần. Bởi vì từ đầu đời Tống về trước, phép thi cũng giản dị, không nệ hình tích chỉ lấy được nhân tài là mừng. Cho nên Lý-Trình đã hỏng rồi mà Lữ-Vị lại lấy lên đậu. Đầu đời nhà Đường, (người đậu) trình lên quan Hữu tư, nếu không biết tài phẩm thường ngày của họ thì không cho đậu cao. Về sau những điều xảo ngụy ngày càng thêm, ngăn cấm đã riết mà vẫn còn gian. Những việc ấy không nên làm, mình với người đều mang lụy cả. Học không phải để cầu lộc mà lộc cũng ở trong đó ra. Nhưng được với không đều có mệnh. Gần đây học trò hỏng