"Thiên Chi Mê - tập 2: Thiên Văn 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thiên Chi Mê - tập 2: Thiên Văn Ebooks Nhóm Zalo Thiên Văn Thiên Văn Tác giả: Tang Thượng Người dịch: Phương Thảo – Minh Phượng Kích thước: 15.5 x 23 cm Số trang: 376 Ngày xuất bản: 15-09-2013 Nguồn sách: Chào Buổi Sáng Chụp pic: kararoxbee Type Hạnh Nga: 1-4 dauphuthoi: 5-8 silverysnow: 9-11 hoabanglang2812: 12-14 kararoxbee: 15-hết Beta: hoathanh Làm ebook: Dâu Lê Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com Giới thiệu Những bí ẩn chưa được tháo gỡ, những nhân vật kì lạ xuất hiện trong tập một seri Thiên Chi Mê sẽ tiếp tục đưa bạn đọc đến với chuyến phiêu lưu kì lạ hơn, mạo hiểm hơn với đường ranh giớisinh tử mong manh trong Thiên văn. Và một lần nữa, nhà văn Tang Thượng sẽ lại khiến độc giả phải tự mình giải đáp những bí ẩn nằm sâu dưới lòng đất qua từng trang sách. Cái chết đột ngột của họa sĩ tài ba Tôn Anh Thạch không chỉ khiến cô cháu gái Tiêu Vi hoang mang cùng cực mà còn đẩy cô vào một cuộc điều tra hết sức kì quái khi phát hiện ra mảnh da lưng của người cậu đã bị lóc ngay trong ngày hạ táng. Men theo những dấu vết mơ hồ mà người cậu để lại, Tiêu Vi dần phát hiện ra điều mà ông định nhắn nhủ nằm ngay trong bức họa Cổ Tháp Cẩm Châu cũ kĩ trong nhà. Cùng với cô bé nghệ nhân xăm hình Đường Nhã Kỳ và anh chàng đặc công ít nói Lão Mục; Tiêu Vi tìm đến ngôi Cổ Tháp, tiếp tục lần theo câu chuyện đầy ám ảnh của người cậu ruột. Từng chướng ngại được vượt qua đã đưa họ dần chạm vào cánh cửa của nền văn minh cổ đại bị cát bụi khoả lấp hàng nghìn năm, một thế giới thần bí tồn tạisong song với cuộc sống hiện đại dần hé lộ. Nếu những tầng khóa hiểm hóc trong Thiên tỏa đã quyến rũ được bạn đến với Thiên văn, thì chắc chắn những hình xăm đầy ma mị và những câu chuyện nửa hư nửa thực đằng sau đó sẽ khiến bạn phải bàng hoàng tự hỏi: Có phải lịch sử Trung Hoa là một cái đáy kép, mà những gì ta biết chỉ là một phần bề nổi mà thôi? Từ Cố Cung Thẩm Dương đến Cổ Tháp Cẩm Châu, những truyền nhân của Tứ đại kì môn đã dần bước ra từ bóng tối. Ai là bạn, ai là thù trong cuộc chiến cân não với đám người bí ẩn? Và, ẩn tàng dưới lòng đất sâu, kho báu nào có thể xoay chuyển được toàn bộ thế cờ? Những tình tiết li kì kết hợp nhuần nhuyễn với yếu tố thần bí trong văn hoá phương Đông đã đẩy kịch tính lên cao độ và cuốn hút người đọc bằng chính giọng văn đa màu sắc đầy mê hoặc của nữ cảnh sát kiêm nhà văn trinh thám tài năng. Tang Thượng quả thực luôn biết cách thử thách thần kinh của độc giả, khiến họ luôn trong trạng thái hồi hộp cao độ và bị cuốn vào nội dung câu chuyện lúc nào không hay. Tập hai của Thiên Chi Mê hứa hẹn sẽ đưa bạn đọc đi từ bất ngờ này sang kinh ngạc khác, khi mà những bí mật lịch sử của đất nước Trung Hoa huyền bí được hoà quyện cùng giọng văn đầy mê hoặc của Tang Thượng. Thông tin tác giả Nhà văn Tang Thượng tên đầy đủ là Tang Thượng Kì Ngải Giai Tuệ, thuộc dòng Mãn tộc Chính Lam kỳ (một nhánh dân sự trong chế độ Bát kỳ của nhà Thanh) và là một nữ cảnh sát xuất sắc ở vùng Đông Bắc, Trung Quốc. Thiên Văn được sáng tác dựa trên những tình tiết có thật trong quá trình phá án của Tang Thượng và là tác phẩm thứ hai trong loạt tiểu thuyết trinh thám giả tưởng Thiên Chi Mê (Bí ẩn từ trời xanh) đã và đang tạo nên cơn sốt trong cư dân mạng với hàng triệu lượt truy cập. Mời các bạn đón đọc bộ tiểu thuyết 4 tập của nhà văn Tang Thượng: - Thiên tỏa - Thiên văn - Thiên cốt - Thiên huyệt Xăm thân khắc hình – tấm thông hành bước vào thế giới cổ đại! Mục lục Phần 1: Nghi án mảnh da người Chương 1: Mảnh da người Chương 2: Mất tích Chương 3: Chết chóc Chương 4: Oan nghiệt Chương 5: Mèo vờn chuột Chương 6: Hồng mộc nghìn năm tuổi Chương 7: Truyền nhân của Mặc môn Chương 8: Cuốn nhật ký Chương 9: Lại một người nữa mất tích Chương 10: Manh mối trong giấc mơ Chương 11: Ký ức Phần 2: Chuyến thám hiểm dưới lòng cổ tháp Chương 12: Sinh Tức Mộc Chương 13: Sáu đường luân hồi Chương 14: Những sinh vật kỳ lạ Chương 15: Thân thế Chương 16: Xác chết nơi hốc tường Phần 1: Nghi án mảnh da người Chương 1: Mảnh da người Cậu tôi mình trần, nằm nghiêng trên bậc đặt quan tài, sau lưng là vết thương to chừng miệng bát đang rỉ máu đỏ sẫm, lộ rõ trên vùng da trắng bệch dị thường. Cậu tôi tên là Tôn Anh Thạch, hồi trẻ từng tốt nghiệp Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn ở Thẩm Dương, và là họa sĩ sơn dầu nổi tiếng vùng Đông Bắc. Cậu làm việc tại Học viện Hội họa thành phố Cẩm Châu tỉnh Liêu Ninh, và cũng là Ủy viên Chính hiệp thành phố Cẩm Châu. Cuối tháng Sáu năm 2009, khi tôi đang học bồi dưỡng để nâng lên cấp tá tại Học viện Cảnh sát Đại Liên, thì bỗng một hôm nhận được điện thoại của mẹ nói cậu bị tai biến mạch máu não. Cậu cháu tôi xưa nay vốn rất thân thiết, vì thế sau khi nhận được tin báo, tôi lập tức xin nghỉ phép và lái xe về thăm cậu. Cậu tôi cả đời chưa từng kết hôn, tuy về già thường hay ốm yếu bệnh tật nhưng vẫn một mực ở vậy, chỉ thuê một bà ô-sin về chăm sóc dọn dẹp nhà cửa. Nghe mẹ tôi nói, cậu đổ bệnh đột ngột, khi mọi người đưa đến bệnh viện thì đã muộn, bác sĩ đã thông báo với người nhà cần chuẩn bị lo hậu sự cho cậu. Khi tôi cuống cuồng xông vào phòng bệnh thì cũng là giây phút cuối cùng cậu tỉnh táo trước lúc ra đi. Cậu nằm duỗi thẳng trên giường bệnh, mở to mắt nhìn xung quanh, nói năng bỗng trở nên lưu loát lạ thường, nhưng điều cậu trăng trối khiến mọi người ai nấy đều vô cùng ngạc nhiên. Cậu nói nhỏ nhưng rành mạch từng chữ: - Mọi người hãy nhớ, khi ta chết không được báo cho bất kì ai, phải hỏa táng ngay, tất cả tranh vẽ trong nhà cũng phải đốt hết. Cậu vừa dứt lời, mọi người liền quay sang nhìn nhau, không ai hiểu nổi tại sao cậu lại không muốn cho người khác biết. Còn những bức tranh nữa chứ, chúng có tới mười mấy bức, trong số đó có cả những bức thư họa của các danh nhân mà cậu sưu tập được, chúng đều rất đáng giá, chí ít cũng không dưới năm triệu tệ. Nay một mồi lửa đốt sạch, chẳng khác nào ném đi vé số độc đắc. Thấy chúng tôi chẳng nói chẳng rằng, cậu bỗng như bị kích động, hai tay túm chặt ga giường, cố gượng chút sức lực cuối cùng ngóc đầu lên, đau khổ kêu gào: - Mọi… mọi người… thiêu ta, thiêu… thiêu luôn… những bức tranh đó. Cậu thở hổn hển, lồng ngực phập phồng liên hồi, miệng không ngừng van nài: - Cầu… cầu xin mọi người… đốt hết… đốt hết… Hãy nhận lời với tôi… nhận lời tôi… Nói xong, dường như do quá gắng sức, cổ họng cậu rung lên, mặt mày tím tái, mắt hằn những tia máu, trông hết sức đáng sợ. Mọi người có mặt trong phòng bệnh lúc đó đều cảm thấy có điều gì đó vô cùng kỳ dị và khó hiểu, như thể nếu không làm theo lời trăng trối ấy, cậu sẽ chết mà không nhắm mắt vậy. Mẹ tôi là người đầu tiên đưa ra phản ứng, bà lao đến ôm lấy cậu, vừa rấm rứt khóc vừa nghẹn ngào đáp lời: - Thạch ơi, em yên tâm, chị nhận lời em, sẽ đốt… đốt hết! Nghe mẹ tôi nói vậy, cậu dần bình tĩnh trở lại, hai bên mép giật giật mấy cái, thở dài một hơi rồi từ từ nhắm mắt. Cậu tôi đã ra đi. Cả căn phòng chìm trong tiếng khóc, mẹ tôi quỳ sụp xuống bên cạnh giường bệnh, nước mắt giàn giụa. Bà không ngừng vuốt vuốt mái tóc em trai mình, nghẹn ngào nói: - Thạch ơi, em… em yên tâm ra đi nhé, chị và mọi người nhất định sẽ không cho ai biết, nhất định sẽ đốt hết những bức tranh đó đi. Thấy mẹ quá xúc động, toàn thân run rẩy như sắp ngất đi, tôi cố kìm nước mắt, dặn bố và La Viễn Chinh đưa mẹ về nhà nghỉ ngơi. Đợi mọi người ra khỏi phòng bệnh, tôi và mấy người anh em bắt đầu lo việc hậu sự cho cậu. Lòng đau như cắt, tôi cố giấu nước mắt, đặt di hài cậu nằm ngay ngắn, sau đó với tay định kéo khăn trùm lên đầu cậu. Nhưng lạ thay, đúng khoảnh khắc ấy, hình như tôi nhìn thấy khóe cười trên gương mặt cậu. Tôi ngẩn người, tưởng mình bị hoa mắt, vội giật chăn ra, cúi sát đầu nhìn – quả đúng là cậu cười. Tuy hai mắt nhắm nghiền, nhưng môi cậu lại hơi nhếch về bên phải, dường như cậu rất hài lòng vì trước khi chết, chúng tôi đã đồng ý làm theo di nguyện của cậu. Không nén nổi tò mò, tôi đưa tay ra vuốt nhẹ lên mặt cậu, các thớ thịt vẫn ấm và mềm. Nụ cười ấy của cậu vẫn không hề biến mất, mà trái lại, càng trở nên rõ hơn, đọng nguyên trên khuôn mặt cậu. Rõ ràng trước khi rời khỏi cõi trần gian, cậu tôi đã phải cố hết sức mình mới để lại nụ cười cuối cùng này. Lúc đó hẳn cậu thực sự thấy rất vui. Tôi khẽ lắc đầu, nhẹ nhàng thu tay lại, mắt vẫn không ngừng nhìn chăm chăm vào mặt cậu. Dù đau đớn tột cùng nhưng trong đầu tôi vẫn hiện ra một câu hỏi lớn, tại sao cậu tôi lại để lại lời trăng trối kỳ lạ đến thế? Tuy mẹ tôi nhận lời với cậu, nhưng khi lo chuyện hậu sự cả nhà vẫn nảy sinh ý kiến bất đồng nghiêmtrọng. Rất nhiều người trong họ nghe xong chuyện này đều kịch liệt phản đối. Họ cho rằng cậu là niềm tự hào của dòng họ, nếu tiễn đưa trong yên lặng như thế, nhỡ khi có người hỏi đến sẽ chẳng biết ăn nói ra sao, vì thế họ muốn phải tổ chức tang lễ thật hoành tráng. Còn mẹ tôi do đã hứa với người đã khuất nên nhất định yêu cầu phải làm theo di nguyện, nếu không cậu sẽ không yên lòng nhắm mắt. Mọi người tranh cãi rất lâu, không ai chịu nhường ai. Cuối cùng đôi bên thỏa hiệp như sau: Chỉ báo cho bạn bè và học trò thân cận nhất của cậu khi còn sống, cố gắng không làm rùm beng mọi việc. Như vậy cũng coi như đã dung hòa được sở kiến hai bên. Ngay tối hôm cậu mất, chúng tôi thuê một căn nhà mái bằng có cái sân nhỏ ngay sát bệnh viện để tạmthời làm linh đường, lại nhờ vào các mối quen biết để mượn một chiếc quan tài bằng kính trong suốt, phía dưới lót băng tảng, như vậy có thể đảm bảo thi thể cậu tạm thời không bị thối rữa, lại tiện cho người thân họ hàng đến phúng viếng. Ngày hôm sau, bạn bè và học trò thân thiết của cậu hay tin đều lần lượt đến tiễn đưa. Mặc dù chúng tôi đã dặn đi dặn lại bọn họ đừng báo tin cho ai, nhưng một truyền mười, mười truyền trăm, người đến viếng càng lúc càng đông, mọi người trong dòng họ chỉ còn biết tất cả cùng xung trận, quay cuồng với chuyện tiếp đón và nhập liệm. Tiễn bố lên xe taxi, tôi quay trở lại sân tìm La Viễn Chinh, định bàn với chồng việc hỏa táng cậu vào ngày mai. Bỗng nhiên, có tiếng va chạm chát chúa phía ngoài cửa, tiếp đó là tiếng người hét thất thanh: - Đâm xe rồi! Đâm xe rồi! Nghe thấy tiếng hét, mọi người đổ xô ra ngoài để xem, tôi cũng vội vàng lao theo. Trước mắt tôi là chiếc xe bán tải hiệu Great Wall và chiếc xe cá mập hiệu Jinbei đấu đầu nhau ngay phía bên kia đường. Chiếc xe cá mập bẹp dúm, đầu bị lõm sâu vào trong, rụng cả ba-đờ-sốc. Tài xế người bê bết máu, gục đầu trên vô-lăng bất tỉnh. Với bản năng của một cảnh sát hình sự, tôi lập tức lách qua đám người đi về phía đầu xe, thò tay vào trong cầm cổ tay của nạn nhân bắt mạch. Mạch tuy yếu ớt nhưng chắc chắn vẫn có thể cứu được. Do cửa xe bị biến dạng nghiêm trọng sau vụ va chạm, nạn nhân không thể tự chui ra được, tôi liền bấmsố 120 gọi cảnh sát cơ động. Chỗ này rất gần bệnh viện trung tâm thành phố Cẩm Châu, hi vọng xe cấp cứu sẽ nhanh chóng có mặt. Tôi cất điện thoại, đưa mắt nhìn lại hiện trường, phát hiện thấy chiếc xe cá mập đi đúng chiều, còn chiếc bán tải kia không hiểu sao lại lấn đường sâu như thế. Trên mặt đường vương vãi đầy những mảnh đèn xe vỡ, đủ thấy hai xe va chạm mạnh cỡ nào. Lúc này, tài xế của chiếc bán tải gắng sức đẩy cửa xe, lảo đảo bước xuống, liếc quanh rồi tranh thủ lúc đám đông nhốn nháo định chuồn đi. Tôi bực quá, vội bước nhanh lên phía trước, túm lấy tay hắn quát lớn: - Chạy đi đâu, không biết mình vừa gây tai nạn sao? Gã tài xế bán tải quay lại liếc xéo tôi một cái. Đó là một người đàn ông trung niên trạc bốn mươi tuổi, trông rất bình thường, tuy trán bị bầm tím nhưng hắn không hề tỏ ra chút gì là hoảng sợ về việc gây tai nạn. Hắn khẽ rít bên tai tôi: - Mẹ kiếp, đừng xía vô chuyện người khác. Nói rồi hắn vung mạnh tay định xô tôi. Tôi một tay túm chặt lấy hắn, một tay rút thẻ cảnh sát ra chìa trước mặt hắn: - Thấy gì không? Cảnh sát đây! Trước khi cảnh sát giao thông đến, anh hãy ngoan ngoãn đợi ở đây cho tôi. Nghe tôi nói vậy, hắn ta không dám ho he gì nữa, chỉ đứng yên một chỗ, lạnh lùng nhìn tôi. Đúng lúc này, đám đông xung quanh bỗng nhao lên, có tiếng hét lớn: - Cẩn thận! Có xe… Tôi quay đầu lại, chỉ kịp thấy hai chùm sáng chói mắt đang chiếu thẳng về phía tôi. Thấy đám đông ầm ĩ hò nhau tránh xa, theo phản xạ tôi cũng vội buông tay, nhảy lùi vài bước về phía bên mép đường, gã tài xế xe bán tải nhân cơ hội ấy vùng chạy mất về hướng đối diện. “Ke… e… ét!”. Sau tiếng phanh xe rợn người, một chiếc Honda Accord dừng ngay giữa đường, đầu xe suýt chút nữa đâm sầm vào đuôi xe cá mập. Tiếp đó cửa xe bật mở, một nam thanh niên mặt đỏ phừng phừng, người đầy mùi rượu lảo đảo chui ra. Anh ta tái mặt nhìn mọi người, hai tay cứ thế vò xoắn lấy nhau, lắp bắp nói: - Tôi… tôi… việc này… việc này… - Anh ta nói mãi không được một câu hoàn chỉnh, đúng là tên bợmrượu. Sau vụ tai nạn, những người còn chưa hoàn hồn lại vây lại, tranh nhau mắng mỏ, chỉ trích anh chàng nọ. Anh ta chỉ biết cúi đầu xin lỗi mọi người, sau đó vội vàng lái xe đi mất. Lúc này tôi mới định thần lại, vội nhìn quanh quất một vòng, tay lái xe bán tải đã chạy mất tăm mất tích từ lúc nào. Tuy nhiên chiếc xe vẫn còn ở lại hiện trường, chắc chắn tra biển số là có thể bắt được hắn. Ít phút sau, xe cứu thương của bệnh viện trung tâm thành phố và đội cảnh sát tuần tra đã tới, bắt đầu công tác cứu hộ và khám nghiệm hiện trường. Tôi khoanh tay đứng bên cạnh quan sát một lúc, nhận thấy tài xế chỉ bị thương nhẹ, không nguy hiểm đến tính mạng, liền quay trở về chỗ sân đặt linh cữu cậu. Trong những ngày tổ chức tang lễ, người nhà phải ngày đêm bên cạnh thi thể để thắp hương tưởng nhớ người đã khuất, bởi theo quan niệm truyền thống làm như vậy người đã khuất sẽ yên lòng ra đi trong mùi hương ấm áp. Tôi cúi nhìn đồng hồ, đoán chừng cũng sắp đến giờ liền bước vào gian đặt linh cữu, chuẩn bị thắp nén hương mới cho cậu. Gian đặt linh cữu cậu ở góc cuối sân, nhỏ bé tồi tàn, chỉ khoảng tám chín mét vuông, bốn bức tường đã có chỗ ố vàng, trên trần treo một bóng đèn tiết kiệm điện bên ngoài đầy mảng bám, ánh sáng mù mờ ảmđạm. Do lót băng phía dưới nên không khí hết sức lạnh lẽo, vừa có tiếng u u của máy nén khí, lại nồng nặc một mùi gì đó thật khó tả. Tôi nhổ chân hương cũ, châm nén hương mới cẩn thận cắm vào bát hương, sau đó ngồi lên chiếc trường kỷ bên cạnh, lặng nhìn tấm rèm trắng treo chính giữa bậc đặt linh cữu, lòng xót xa vô hạn. Ngồi một lúc lâu, tôi nhướn người lên phía trước để thay đổi tư thế ngồi cho dễ chịu, bất chợt nhìn xuống phía dưới chân, phát hiện thấy phía dưới tấm rèm trắng nhô nhô ra cái gì đó. Thấy lạ, tôi liền khom lưng kéo lấy tấm rèm, cảnh tượng trước mắt khiến tôi giật thót mình – chiếc nắp quan tài bằng kính rất lớn đã bị cậy ra chỏng chơ dưới đất, tấm vải liệm trắng bọc thi hài bị giật ra vứt sang một bên. Cậu tôi mình trần, nằm nghiêng trên bậc đặt quan tài, sau lưng có vết thương to chừng miệng bát đang rỉ máu đỏ sẫm, lộ rõ trên vùng da trắng bệch dị thường. Đầu tôi “u” lên một tiếng, trước mắt tối sầm, suýt chút nữa ngã xuống đất. Theo phản xạ tự nhiên, tôi vừa định thét gọi mọi người, nhưng rồi lại ngay lập tức lấy tay bịt chặt lấy miệng. Tôi tự dặn mình không được kêu lên, tuyệt đối không được kêu lên. Nếu để mọi người biết thi thể cậu còn bị hành hạ ra nông nỗi này, các ông bà trong họ, nhất là mẹ tôi chắc sẽ không chịu nổi cú sốc này mất. Nhỡ đâu lại thêm một đám tang khác nữa, thì coi như họ Tiêu chúng tôi gặp đại nạn. Tôi cắn chặt răng, nuốt đau buồn và căm phẫn vào lòng, hít sâu vài hơi rồi lập tức quay người đóng cửa phòng. Sau khi đã định thần lại được đôi chút, hai tay vịn vào bậc đặt linh cữu, tôi cúi xuống quan sát vết thương sau lưng cậu. Vết thương khá tròn trịa, đường kính khoảng chừng bảy tám cen-ti-mét, nằm chính giữa hai bả vai. Nhìn hình dáng của vết thương có thể đoán định được đó là một vết cắt khá ngọt, xung quanh miệng vết thương là những mảnh da bị gập vào trong, chắc chắn là do vật gì đó sắc nhọn gây ra. Tuy nhiên, vết thương không sâu, chỉ lóc đi lớp da mỏng phía ngoài. Tôi chau mày, lấy tay chấm vào vết máu, vân vê đầu ngón tay. Theo lý thuyết, con người sau khi chết tim sẽ lập tức ngừng đập, lượng ô-xi trong máu nhanh chóng giảm, tiểu cầu kết lại với nhau thành những hạt dấp dính màu đỏ sẫm. Nhìn vào trạng thái của vết máu và cảm giác khi tiếp xúc, theo kinh nghiệm của tôi, có lẽ vết cắt này được thực hiện vào thời điểm chúng tôi chạy ra xem tai nạn vừa nãy. Tôi quay đầu nhìn chiếc quan tài bằng kính bên cạnh, rút chiếc khăn mùi xoa phủ lên rồi đẩy mạnh, không hề nhúc nhích, chắc nó cũng phải nặng cỡ một trăm ki-lô-gam, một nam thanh niên khỏe mạnh cũng khó mà dịch chuyển được, ít nhất phải cần đến hai người hợp sức lại. Nghĩ đến đây, tôi chợt giật mình lùi lại một bước, tránh làm xáo trộn hiện trường. Kéo nhẹ tấm rèm trắng lại vị trí cũ, lau những giọt nước mắt lăn dài trên má, tôi tự trấn an bản thân, làmra vẻ không có chuyện gì xảy ra, cúi đầu lẳng lặng bước ra khỏi phòng. Tôi đi tìm La Viễn Chinh, kiếm cớ kéo chồng đến một chỗ không người, ghé sát tai anh thuật lại chuyện thi hài cậu bị tổn thương. La Viễn Chinh nghe xong toàn thân run lên, kinh hãi nhìn tôi hỏi: - Cái gì… cậu bị… Tôi vội huých chồng một cái để anh nói nhỏ đi, chuyện này tuyệt đối không được để người khác nghe thấy, nhất là những ông bà già trong họ. Nếu chuyện này lọt ra ngoài, chắc chắn sẽ khiến mọi người vô cùng đau khổ và căm phẫn, lúc đó hậu quả sẽ khó lường. La Viễn Chinh hiểu ý ngậm miệng lại, nhìn quanh quất sang hai bên, rồi quay lại hỏi nhỏ tôi: -Vậy bây giờ phải làm sao? Với những việc hết sức nghiêm trọng như thế này, nhất thiết cần tìm người điều tra mới được, vì thế tôi nói với anh: - Chỗ này cũng gần đồn công an Cổ Tháp, em sẽ đến đó mời mấy anh trong đội cảnh sát hình sự đến xem thế nào, anh giấu được chừng nào thì cố giấu mọi người nhé. La Viễn Chinh rối rít gật đầu: - Được, được, em mau đi liên hệ đi, anh sẽ trông coi mọi việc. Tiếp đó, tôi dặn La Viễn Chinh ngồi trong phòng trông coi quan tài, tuyệt đối không được rời nửa bước, không cho bất cứ ai kéo tấm rèm trắng ra vì bất cứ lý do gì, mọi việc đợi tôi về tính tiếp. Tôi bước nhanh ra khỏi sân, tìm một góc yên tĩnh gọi điện cho đội trưởng đội hình sự công an Cổ Tháp – Phùng Siêu, nhờ anh ta nhanh chóng phái người đến, nhưng phải mặc thường phục và đem theo một số dụng cụ khám nghiệm cơ bản. Nghĩ một lúc, tôi thấy hơi ngần ngại vì lần này tìm anh lại là vì việc riêng chứ không phải việc công. Phùng Siêu là bạn cùng trường cảnh sát với tôi, hồi còn học từng theo đuổi tôi, chúng tôi yêu nhau một thời gian, tuy sau đó vì rất nhiều lý do mà đã chia tay nhau nhưng quan hệ vẫn rất tốt. Nhất là vì chúng tôi đều là cảnh sát hình sự, nhiều lúc sẽ phải gặp gỡ nhau vì công việc. Hôm đó vừa đúng ca Phùng Siêu trực đêm, anh vui vẻ nhận lời, lại còn hỏi tôi rốt cuộc xảy ra chuyện gì mà thần bí như vậy, không giống tác phong nói thẳng nói thật hàng ngày của tôi. Tôi gượng cười đau khổ, nói: - Anh đừng hỏi nữa, cứ đến rồi sẽ biết ngay. Nhớ là trước khi đến phải gọi điện cho em. Chương 2: Mất tích Một cảm giác hoàn toàn khác biệt với cảm giác thường gặp trên chất liệu sơn dầu thông thường, không thô ráp, trái lại vô cùng mềm mịn, nhẵn bóng, thậm chí còn có cảm giác mềm mềm, có cái gì đó vô cùng quen thuộc… Đồn công an Cổ Tháp cách nơi tổ chức tang lễ của cậu chỉ hai con phố, mấy phút sau, Phùng Siêu đã đem theo ba người đến, đều là những người thường ngày rất thân thiết với tôi, trong đó có một sư phụ pháp y họ Lưu vốn là thầy của tôi trong thời gian thực tập ở đồn công an Cổ Tháp. Thấy toàn là người thân tín, nên tôi cũng không cần khách sáo nữa, nhanh chóng kể lại cho mọi người chuyện xảy ra. Bọn họ nghe xong đều hết sức kinh ngạc, lập tức đòi đến khám nghiệm hiện trường ngay. Pháp y Lưu còn nói: - Này nhỏ, việc đó chính là làm nhục thi thể, thừa sức cấu thành án hình sự rồi. Tôi gật gật đầu, giơ tay lên xem đồng hồ, đã gần 1 giờ sáng, thời gian không còn sớm nữa: - Được rồi, mọi người phải làm nhanh một chút, tuyệt đối không được để người khác nhìn thấy. Tôi tìmđến các anh cũng là vì không muốn làm lớn chuyện. Phùng Siêu vỗ vỗ vai tôi đầy thông cảm, gật đầu nói: - Anh hiểu mà. Ông cụ là họa sĩ nổi tiếng, chết rồi mà còn bị người khác tính sổ, chắc chắn phải có chuyện gì mờ ám ở đây. Huống hồ ông cụ lại là người nhà chúng ta, anh hứa sẽ phá vụ án này cho em. Bàn bạc xong, chúng tôi lần lượt từng người vào sân, bạn bè họ hàng đều tưởng là bạn tôi đến viếng nên không nghi ngờ gì hết. Tôi dẫn Phùng Siêu và mấy người kia vào phòng đặt linh cữu, nói qua tình hình với La Viễn Chinh rồi bảo anh ra ngoài canh chừng, bất cứ ai đến viếng đều cố viện lý do để thoái thác. Khi bắt tay vào phá án, đầu óc chúng tôi cần tuyệt đối tỉnh táo, tránh để cảm xúc chủ quan lấn át, vì thế khi vén tấm màn trắng lên, mặc dù mặt ai nấy đều vô cùng kinh hãi nhưng không ai nói gì, chỉ tuần tự tiến hành quan sát hiện trường theo nhiệm vụ được phân công. Do sẩm tối có mưa nhỏ nên dấu vết trên mặt đất chằng chịt những hình dạng khác nhau, lại bị dẫm qua dẫm lại đến biến dạng, gần như không giúp được gì cho công tác khám nghiệm. Trên bề mặt chiếc quan tài bằng kính chúng tôi thu được nhiều dấu vân tay, nhưng do có nhiều người đến phúng viếng đã chạm tay vào, nên tạm thời chưa thể phán đoán được dấu vân tay nào là của kẻ gây án để lại. Pháp y Lưu mở hòm công cụ khám nghiệm lấy ra một chiếc nhíp, nhẹ nhàng gắp lấy một mô thịt ở chỗ vết thương, nheo mắt lại ngắm nghía một lúc lâu, cặp mày dần chau lại, tỏ vẻ rất kì lạ, nói nhỏ: - Người chết khá gầy, lớp thịt ở lưng rất mỏng, lại dính sát vào xương, khi cắt khó tránh để lại tổn thương, mọi người xem… Ông ta dùng chiếc nhíp kẹp một mẩu da ở rìa xung quanh, chỉ tay giải thích: - Miệng vết cắt rất tròn trịa, giống như hình bán nguyệt, giữa các mô thịt không có nhiều màng gân bámnổi, chứng tỏ kẻ gây án thực hiện động tác rất thuần thục, chỉ lấy đi đúng một phần da. – Ngừng một lát, ông ngẩng đầu nhìn tôi – Nha đầu, ta đoán hung thủ đã sử dụng một vật gì đó giống như ống giác để hút phần da chỗ này lên, sau đó dùng dao sắc cắt theo hình tròn. Nghe sư phụ nói vậy, tôi thấy thực sự ngạc nhiên và nực cười, theo như kết quả khám nghiệm thì hung thủ không hề có ý hủy hoại thi thể mà chỉ muốn lấy đi một phần da người. Nhưng điều khó hiểu là chúng làm như vậy với mục đích gì, lẽ nào trên lưng cậu tôi lại ẩn chứa bí mật gì sao? Sau khi khám nghiệm hiện trường xong, tôi xin pháp y Lưu mấy chiếc khăn để lau sạch vết thương sau lưng cậu, vừa khóc vừa thề bằng mọi giá tôi nhất định sẽ tìm ra tên súc sinh thất đức kia để đền tội trước vong linh cậu. Chúng tôi lấy vải trắng quấn lại thi thể cậu, đặt ngay ngắn rồi cùng nhau đậy nắp quan tài kính. Nhìn khuôn mặt trắng bệch an lành của cậu dưới nắp quan tài, vẫn còn đó nụ cười mãn nguyện nơi khóe môi, lòng tôi chợt đau nhói, bao nhiêu ý nghĩ đua nhau ùa về, tôi thoáng thấy có điều gì đó bất ổn, nhưng không tài nào hiểu được nguồn cơn, nhất thời không biết mình nên làm gì. Phùng Siêu và mọi người thay nhau an ủi tôi rồi hỏi bước tiếp theo định làm gì. Tôi định thần lại, lần lượt cảm ơn họ: - Bây giờ nửa đêm rồi, mọi người hãy về nghỉ ngơi đi. Đợi đến sáng tôi sẽ hỏi thầy cúng đã lau rửa hóa trang cho cậu, không biết chừng ông ta lại cung cấp được manh mối gì đó. Phùng Siêu do dự đôi giây rồi gật đầu đồng ý, hỏi tôi một số câu như: Lúc đưa thi hài cậu nhập quan có những người nào chạm vào quan tài để anh gọi người đến đối chiếu vân tay; khi xảy ra vụ án, những ai có mặt tại hiện trường; khi còn sống cậu có mâu thuẫn với ai… Nếu thực sự không tìm ra được manh mối khác, chúng tôi sẽ sàng lọc từng người một. Tôi nhăn trán, thấy chuyện này quả thực không khả thi. Lúc đó người đến viếng rất đông, đa số là bạn bè và học trò của cậu, còn có cả người từ nơi khác đến, trừ họ hàng ra, tôi gần như không quen biết ai, nếu gọi từng người đến đối chiếu vân tay, chắc chắn sẽ khiến mọi người cảm thấy khó chịu và nghi ngờ. Tuy nhiên, tôi vẫn cố nhớ ra vài cái tên, đều là những người đã giúp nhập liệm. Phùng Siêu vừa lắng nghe vừa rút bút máy ra ghi lại từng cái tên một vào sổ công tác, rồi lại hỏi cặn kẽ phương thức liên hệ của họ. Lúc tiễn Phùng Siêu và mọi người ra ngoài, một viên cảnh sát họ Lâm trong đội đột nhiên hỏi tôi: - Tiêu Vi, trước khi mất ông cụ có biểu hiện gì bất thường không, tôi cứ cảm thấy chuyện vô duyên vô cớ bị lóc mất một miếng da lưng có gì đó rất kì quặc. Câu hỏi của cậu ấy như một tia chớp khiến đầu óc tôi lập tức bừng tỉnh, liên tưởng đến điều tôi dự đoán trên lưng cậu có bí mật gì đó. Lời di nguyện nhất định phải hỏa táng của cậu có phải cũng có ý muốn hủy bỏ hết những bí mật ghi dấu trên cơ thể? Dù trong thoáng chốc nghĩ ra rất nhiều điều, nhưng không hiểu sao xuất phát từ tâm lý cẩn trọng tôi lại không hề biểu lộ ra mặt, chỉ nhẹ nhàng lắc đầu, nói mọi biểu hiện của cậu đều hết sức bình thường. Chúng tôi bàn bạc thêm mấy câu, sau đó Phùng Siêu và mọi người cáo từ ra về. Nhìn bóng họ khuất nơi đầu phố, tôi nghĩ ngợi lung tung một lúc, lòng đầy tâm trạng. Quay người định về, bỗng nhiên chân phải tôi đá trúng một vật gì đó kêu lóc cóc. Tôi cúi đầu nhìn xuống, thì ra là mảnh gương chiếu hậu, chắc đây là mảnh gương bị vỡ trong vụ va chạm xe lúc nãy. Tôi tiện chân đá đi chỗ khác rồi chầm chậm bước về. Bên kia đường có một quán cơm, bên ngoài là dãy cửa sổ kéo khắc hoa, điểm xuyết những mảnh thủy tinh màu xanh lục và kim loại vàng với đủ loại hình thù khác nhau. Lúc này vừa vặn có chiếc mô-tô chạy qua, ánh đèn xe quét nhanh qua những mảnh kim loại phản chiếu tia sáng chói đến nỗi tôi thấy đau cả mắt. Tôi nheo mắt, giơ tay định dụi nhưng ngay lập tức dừng lại. Hình như tôi vừa nghĩ đến điều gì đó, có điều những ý nghĩ đó cứ lơ lửng, tản mát khiến người ta không thể nắm bắt được bản chất của nó. Tôi đưa tay lên xoa trán, vừa bước chầm chậm về phía trước, vừa nhấm nháp lại cái cảm giác chợt hiện ra trong thoáng chốc vừa rồi. Đột nhiên, tim tôi đập mạnh, quay người chạy nhanh đến hiện trường vụ tai nạn hồi nãy. Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com Sáng sớm tinh mơ, trên phố vắng tanh, chỉ có tiếng còi xe ô-tô thỉnh thoảng vọng lại và ánh sáng vàng vọt lờ mờ của những ngọn đèn đường. Vết tích của vụ va chạm xe còn sót lại là những mảnh vỡ của đầu xe và bốn vết phanh xe cháy đen đối nhau từng đôi một nằm cô đơn trên mặt đường. Tôi ngồi xuống, dán mắt nhìn vào bốn vết phanh xe, những chi tiết của vụ tai nạn lướt qua rất nhanh trong đầu tôi. Tôi mù mờ nhận ra đây chính là màn kịch đã được dàn dựng công phu từ trước. Nhưng điều khiến tôi không thể lý giải được là vụ tai nạn ấy và cái chết của cậu tôi có liên quan gì với nhau, chẳng lẽ cậu yêu cầu đốt hết tranh cũng là… Nghĩ đến đây, tôi bất giác rùng mình, văng một câu chửi thề “mẹ kiếp”. Tôi lập tức rút điện thoại ra, ấn số 110 gọi công an thành phố, không chờ đầu dây bên kia kịp lên tiếng, tôi liền đi thẳng vào vấn đề: -Khoảng tầm 11 giờ rưỡi tối, vụ tai nạn giao thông gần bệnh viện trung tâm do đội tuần tra giao thông nào phụ trách xử lý? Tiếp điện thoại là một cô gái trẻ, cứ một mực hỏi tôi là ai, thăm dò chuyện này làm gì. Tôi đang rối cả ruột, chẳng thèm đôi co với cô ta, bèn lạnh lùng nói: - Cô nghe rõ đây, tôi là đội phó đội trinh sát hình sự công an thành phố, Tiêu Vi. Có lẽ đã nghe qua tên tôi, lại thấy hiển thị đầu số công an của tôi qua điện thoại, cô gái liền trở nên căng thẳng, chuyển ngay giọng điệu và liên mồm xin lỗi. Cùng lúc, phía đầu dây nghe rõ tiếng bàn phím gõ lách cách, chắc cô ta đang tra thông tin. Rất nhanh, cô gái cho tôi biết, vụ tai nạn đó do trung đội cảnh sát tuần tra số 7 và đội tuần tra giao thông số 3 phụ trách. Theo thông tin được biết, tài xế chiếc xe cá mập đã được đưa đến bệnh viện trung tâmthành phố, hiện vẫn đang hôn mê, còn tay lái xe bán tải gây tai nạn đã bỏ trốn. Sau khi hỏi được số điện thoại của đồng chí trung đội trưởng đội cảnh sát tuần tra số 7, tôi liền gọi cho anh ta, trực tiếp giới thiệu chức danh của mình. Đối phương vừa nghe thấy tên tôi đã giật mình, có lẽ do đây là lần đầu tiên nhận được điện thoại do đích thân đội phó đội trinh sát hình sự gọi đến nên anh ta nghi ngờ đã xảy ra vụ án hình sự nghiêm trọng nào đó. Trung đội trưởng cho tôi biết, theo kết quả khám nghiệm hiện trường, vụ tai nạn hoàn toàn là do tài xế xe bán tải gây ra, không những lái xe ngược chiều, vượt quá tốc độ, mà khi đâm cũng không hề có động tác phanh hãm tốc độ… Tôi vội ngắt lời anh ta, hỏi xem đã tìm thấy tài xế gây tai nạn chưa, biển số xe là ở đâu? Trung đội trưởng cho biết tên tài xế đã chạy trốn từ lâu, biển số cho thấy xe thuộc khu Hoàng Cô, Thẩm Dương, hiện đang nằm tại bãi xe của đội. Họ đã kiểm tra xe một lượt, không hề có tem kiểm định, số đăng kí hay bất kì đầu mối nào có giá trị. Trước khi cúp máy, tôi nhẹ nhàng cảm ơn anh ta và đề nghị: - Vụ án này được đội trinh sát hình sự tiếp quản, phiền anh ngay bây giờ hãy chỉnh lý hết toàn bộ hồ sơ, sáng sớm mai tôi sẽ cho người đến lấy. Đứng giữa lòng đường, nhìn hiện trường vụ tai nạn xe trước mắt, tôi cố vắt óc nghĩ, trong đầu như đang phát lại toàn cảnh lúc đó. Chúng tôi đang trông coi linh cữu trong sân, bỗng nghe bên ngoài có tiếng kêu thất thanh rồi mọi người chạy hết ra ngoài xem, tay lái xe bán tải định tẩu thoát bị tôi kéo lại, tiếp sau đó một chiếc Honda màu đen lao đến, lái xe bán tải nhân lúc nhốn nháo đã chạy mất… Tôi hít sâu một hơi. Khá thật, đúng là các chi tiết đều rất chặt chẽ, kế hoạch thực sự rất công phu. Nếu nói thời điểm hung thủ lóc mảnh da lưng cậu là trước khi vụ tai nạn xảy ra thì e là khó có khả năng ấy, vì khi đó trong sân rất đông người, bọn chúng gần như không có cơ hội ra tay, do đó ắt phải tìm cớ để chuyển hướng tập trung của tất cả mọi người thì mới thực hiện được. Trong hoàn cảnh như vậy, cách tốt nhất chính là tạo ra một vụ tai nạn xe tưởng chừng như hết sức tự nhiên. Gã tài xế xe bán tải cậy thế thân xe kiên cố, cố tình đâm vào chiếc xe cá mập đi chiều ngược. Chiếc xe cá mập đang đi bình thường, theo phản xạ tự nhiên sẽ phanh gấp, vì thế trên lòng đường còn in hằn dấu vết hai hàng phanh xe. Lúc tay lái xe bán tải định chuồn đi nhưng lại bị tôi phát hiện ngăn lại, tên đồng bọn ở gần đấy lập tức lái chiếc xe Accord lao đến, gây hỗn loạn hiện trường, tạo cơ hội cho hắn tẩu thoát. Tuy chiếc Accord cuối cùng đã phanh lại, nhưng từ hai vết phanh xe đã để lại hiện trường thì chiếc xe cũng lái ngược chiều, tốc độ rất nhanh, không giống với cách lái xe thông thường vào ban đêm, như vậy động cơ của chúng đã bị bại lộ. Bốn vết phanh xe rõ mồn một chính là một sơ hở lớn, chỉ có điều sự việc xảy ra quá đột ngột, hiện trường lại hỗn loạn, trong lúc vội vã tôi đã bỏ qua chúng. Nghĩ đến đây tôi bất giác lắc đầu, cảm thấy thực sự khó hiểu, đám người này rắp tâm như vậy, sẵn sàng gây nguy hại đến tính mạng người vô tội chỉ để lấy đi một mảng da lưng cậu tôi, quả là không thể hiểu nổi. Giả thiết trên đúng là ẩn chứa bí mật, vậy rốt cuộc đó là bí mật gì? Tuy nhiên rất may là chiếc xe bán tải đã bị lôi về cảnh sát giao thông, tôi cũng nhớ rõ biển số xe Accord, ngày mai lần theo dấu vết để điều tra, chắc chắn sẽ rõ ngay thôi. Nghĩ thông được tình tiết quan trọng này, tôi cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều, đứng lên trở bước quay về. Lúc đó đúng vào giữa hè, tuy đã nửa đêm nhưng không khí vẫn hết sức ngột ngạt, người thân bạn bè sau một ngày bận rộn đều cảm thấy khá mệt mỏi, họ ngồi chật cứng trên mấy chiếc trường kỷ ngủ gà ngủ gật. Tôi bước vào gian đặt linh cữu, không đợi tôi mở miệng, La Viễn Chinh lập tức lao đến hỏi tôi công việc giải quyết đến đâu rồi. Tôi khẽ nói không có chuyện gì, ngày mai vẫn tiến hành hỏa thiêu bình thường, đoạn hỏi anh đã liên hệ được với bên đài hóa thân chưa. La Viễn Chinh cho biết đài hóa thân hồi chiều đã liên hệ ổn rồi, vừa nãy bố gọi điện đến cũng bảo mẹ cứ nhắc mãi là phải lo liệu chu đáo cho cậu. Nói đoạn, anh cúi nhìn đồng hồ, tỏ vẻ buồn chán, khẽ lẩmbẩm: - Còn mấy tiếng đồng hồ nữa là sáng rồi, cậu ơi… ôi… đến sáng mai lại để thầy liệm trang… - Thầy liệm trang… - Tôi run bắn người, bất giác kêu lên. Thôi chết, thôi chết, tôi đã bỏ sót việc quan trọng nhất, chưa cần biết hung thủ là ai, chúng đã rắp tâm muốn đoạt được bí mật trên da cậu, vậy thì thầy liệm trang tối qua lúc tắm rửa hóa trang cho cậu chắc chắn đã nhìn thấy gì đó, và nhất định đã bị chúng giết người diệt khẩu. Mà nếu muốn làm rõ chân tướng toàn bộ sự việc thì thầy liệm trang chính là mấu chốt duy nhất để phá án. Tôi đột nhiên hét toáng lên, tiếp đó ra sức dậm chân thình thịch khiến La Viễn Chinh ngơ ngác, anh giữ lấy tay tôi luôn mồm hỏi xem tôi bị làm sao. Lúc này làm gì còn thời gian để giải thích chứ, tôi gạt La Viễn Chinh ra, chạy ra ngoài, tìm cậu em họ đã thuê thầy liệm trang, hỏi cậu ta địa chỉ của thầy. Cậu ta tuy không hiểu đầu cua tai nheo ra sao nhưng vẫn cho tôi biết ông thầy liệm trang tên Mã Trấn Quốc ở ngay trong một khu chung cư nhỏ gần đây. Là vợ chồng đã nhiều năm, La Viễn Chinh đã quá quen với tính tình nóng vội của tôi, anh vội nói để anh đưa đi tìm thầy Mã Trấn Quốc. Tôi lắc đầu từ chối, vì tôi biết hung thủ nếu muốn ra tay với Mã Trấn Quốc thì chắc gì chỉ có một tên. La Viễn Chinh vốn chỉ là anh thư sinh trói gà không chặt, vật tay còn chẳng thắng nổi tôi, đến lúc đó nhỡ xảy ra chuyện, không những không giúp được gì mà ngược lại còn khiến tôi mất tập trung. Thấy thái độ kiên quyết của tôi, La Viễn Chinh tỏ vẻ giận dỗi, hằm hằm chất vấn tôi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, kỳ kỳ quặc quặc, đầu tiên là cậu bị lóc trộm da, giờ thì đến tôi cuống quýt đi tìm thầy liệm trang. Tôi kéo tay anh lại cười đau khổ: - Nói thật là hiện giờ em cũng không hiểu gì hết, nhưng chắc chắn là có chuyện rồi. Ông xã, anh cứ yên tâm ở đây, sáng mai tiễn đưa cậu còn cần đến anh lo liệu. Nghe tôi nói vậy, La Viễn Chinh chau mày nghĩ ngợi, miệng lẩm bẩm vài câu rồi cũng miễn cưỡng gật đầu. Tôi vừa chạy ra ngoài,vừa gọi điện cho đồng chí trực ban trong đội nói rõ địa chỉ cụ thể của Mã Trấn Quốc bảo anh ta cho người đến gấp. Nhà thầy liệm trang Mã Trấn Quốc nằm trên đường Nghi Xương song song với đường Thượng Hải, ở giữa là chợ đầu mối hoa quả phố Tây An, không có đường xuyên qua mà phải đi vòng một vòng. Để tiết kiệm thời gian, tôi nhảy qua mấy hàng rào chắn, băng qua khu vực chợ đầy rau cỏ úa nát, cắm đầu chạy một mạch đến dưới chân cầu thang. Đó là một tòa nhà tái định cư mới xây mười mấy tầng, sừng sững giữa những tòa nhà thấp tịt xung quanh. Lúc này vầng trăng tròn đang treo lơ lửng giữa trời, ánh trăng lạnh lẽo chiếu chênh chếch xuống, mờ mờ tỏ tỏ. Mã Trấn Quốc ở phòng số 302 tầng ba, cửa sổ phòng khách buông tấm rèm màu xanh da trời đậm, vẫn thấy thấp thoáng ánh đèn lọt ra. Tôi thở phào nhẹ nhõm, thấy may mắn là mình không đến muộn, liền với tay nhấn chuông. Thế nhưng đợi một lúc vẫn không có ai trả lời. Tôi chau mày, tay nhấn chuông liên tục. Tiếng chuông vọng liên hồi, giữa đêm yên tĩnh nghe vô cùng chói tai. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, linh cảm thấy có gì đó chẳng lành, lẽ nào tôi đến muộn rồi sao, Mã Trấn Quốc bị hại rồi sao? Đang nghĩ ngợi lung tung, chợt phía sau có tiếng xe ô-tô, tôi quay đầu lại nhìn, hóa ra là các đồng chí trong đội cảnh sát đã đến. Họ xuống xe, chụm lại hỏi tôi đã xảy ra vụ án gì. Sự tình lúc đó chưa rõ, tôi cũng không tiện giải thích gì nhiều, chỉ nói rằng nghi ngờ xảy ra án mạng trong một hộ dân tại tòa nhà này, nãy giờ gọi cửa không thấy mở, đoán có lẽ hung thủ vẫn còn ở hiện trường. Nghe tôi nói vậy, một đồng chí lập tức rút súng trong người ra, lên đạn. Nhìn thấy súng, tôi thấy vững dạ hơn. Là cảnh sát hình sự, suốt ngày bắt người thẩm vấn có vẻ oai phong, nhưng kỳ thực gặp phải tình huống như thế này, trong tay không súng không đạn cứ cảm thấy thiếu thiếu. Tôi đỡ lấy súng, quay lại tiếp tục nhấn chuông, vẫn không có phản ứng gì, tình hình cấp bách, tôi bắt đầu lấy chân đạp cửa. Cuối cùng, gia đình tầng một bên trái cũng bị đánh thức, sau khi đèn bếp bật sáng, một bà lão đứng bên cửa sổ quát ỏm tỏi: - Hết chịu nổi rồi, chúng bay bị thần kinh à, nửa đêm nửa hôm rồi đấy! Tôi thầm trách mình ngu ngốc, tại sao không sớm gọi nhà khác mở cửa chứ. Tôi đến bên cửa sổ, rút thẻ cảnh sát ra, soi đèn pin, nói là có án, phiền bà mở cửa giúp. Nghe vậy, bà lão liền mở cửa ra, nhưng tôi không vội vào trong mà dặn đi dặn lại đồng chí canh cửa không cho bất cứ ai chạm vào tay nắm phía trong cửa. Vừa nãy do sơ ý, có thể tôi đã xóa hỏng dấu vân tay trên chuông cửa phòng 302, nhưng rất có thể dấu vết đó vẫn còn in trên tay nắm phía trong này. Sắp xếp xong xuôi, tôi cùng mấy đồng chí nữa xông lên tầng 3. Cửa sắt chống trộm của nhà Mã Trấn Quốc mở toang, còn cửa gỗ ra vào thì khép hờ, từ khe cửa lọt ra vệt sáng màu trắng. Tôi chột dạ, toàn thân lạnh toát, xem ra tôi đã đến muộn thật rồi. Tôi nín thở, từ từ bước đến gần, hai tay giơ súng lên ngang tai, đưa mũi chân trái ra, nhẹ nhàng đẩy cửa. Cửa phòng vừa bật mở, ánh sáng bỗng ùa ra, đèn nê-ông trong phòng khách sáng trưng. Cùng lúc đó, đề phòng có người tấn công bất ngờ, tôi nhanh như chớp lùi một bước, ngón trỏ giữ chặt cò súng, chĩa thẳng súng cảnh giác. Một lúc sau, thấy trong phòng không có động tĩnh gì, tôi rón rén bước lên trước, tay bám vào khung cửa ngoài, thò nửa đầu quan sát nhanh tình hình trong phòng. Diện tích phòng khách không lớn, bài trí hết sức đơn giản, không có vật dụng gì đáng tiền, sàn nhà lát gỗ màu đỏ đã cũ còn hằn rõ vài dấu giày lấm bùn, một cây ba-toong bằng tre dựng bên giá giầy chỗ cửa ra vào. Lúc sáng sớm tôi đã nói chuyện qua với Mã Trấn Quốc, được biết vợ ông mất sớm, con cái đều ở xa, bản thân tay chân yếu ớt nên không lúc nào rời tay khỏi chiếc ba-toong này. Tôi bất giác thở dài, đoán chắc tám chín phần đã xảy ra điều chẳng lành. Mặc dù vậy, tôi vẫn chưa muốn bỏ cuộc, khẽ hắng giọng gọi vài tiếng: - Ông Mã Trấn Quốc, ông Mã Trấn Quốc… Bóng đèn cảm ứng âm thanh dọc hành lang bật sáng phía sau lưng tôi, nhưng trong phòng vẫn lặng yên như tờ. Tôi lập tức đổi giọng, vẫy tay trái ra hiệu cho mọi người tiến vào trong. Chúng tôi bước qua vết giày chỗ cửa ra vào, nhón chân tiến về phía phòng ngủ. Cánh cửa phòng ngủ mở toang, trong phòng không có một ai, một chiếc khăn lông màu vàng nhạt vứt bừa dưới chân giường, trên gối vẫn còn hằn nếp nhăn. Xem ra Mã Trấn Quốc đã bị dựng dậy khi đang ngủ say, vừa mở cửa thì bị bắt đi. Kết hợp với dấu giày lấm bùn vẫn còn chưa khô ở cửa ra vào, chắc chắn sự việc vừa mới xảy ra thôi. Nhìn chằm chằm hiện trường trước mắt, tôi giơ tay đấm thẳng vào cửa, vừa tức giận nguyền rủa lũ khốn khiếp vừa tự trách mình không sớm nghĩ đến tình huống này, khiến cho một ông già gặp phải tai bay vạ gió. Hơn nữa, một khi Mã Trấn Quốc mất tích thì cũng rất đồng nghĩa với việc tôi không còn cơ hội để tìm hiểu phía sau lưng cậu tôi rốt cuộc ẩn giấu bí mật gì. Thấy thần thái bất thường của tôi, các đồng chí trong đội cũng không tiện hỏi nhiều, tất cả lùi ra ngoài, để lại một mình tôi với cơn bực tức âm ỉ trong lòng. Mấy phút sau, đồng chí cảnh sát phụ trách kỹ thuật đến nơi, tôi cố lấy lại tinh thần, ra lệnh cho mọi người tiến hành thu thập dấu vân tay và dấu giày ở những vị trí liên quan. Kết quả khám nghiệm sơ bộ cho thấy: Dấu giày trên nền nhà là của hai người, dựa vào hình dáng, kích thước có thể phán đoán chúng đều là nam giới. Còn tay nắm cửa dưới cầu thang dó có kết cấu xoắn trôn ốc nên dấu vân tay thu thập được bị khuyết, về cơ bản không có giá trị điều tra. Với suy nghĩ còn nước còn tát, tôi tiếp tục dò hỏi hai gia đình hàng xóm cùng tầng. Giữa đêm hôm khuya khoắt có cảnh sát đến tìm tra vấn, họ chỉ ậm ờ nói không nhìn thấy gì rồi đóng sầm cửa lại. Kết thúc việc điều tra cũng đã gần năm giờ sáng, trời đã hưng hửng sáng. Tôi sực nhớ ra việc thi thể cậu cần phải được ngụy trang lại trước khi đưa đến nhà hóa thân, mà Mã Trấn Quốc giờ này sống không thấy người chết không thấy xác, vậy phải ăn nói thế nào với mọi người đây. Tôi lo lắng cuống quít, nhất thời chẳng thể nghĩ tiếp được gì, bất đắc dĩ đành để các đồng chí trong đội quay về làm án trước rồi sau này sẽ điều tra tiếp. Lòng nặng trĩu, tôi quay bước trở về cái sân nhỏ, tìm cậu em họ, cố dùng những lời lẽ khéo léo nhất thông báo cho cậu ta về vụ mất tích của Mã Trấn Quốc. Mới nghe được một nửa chuyện, cậu ta đã giậmchân thình thịch, liên mồm oán thán: - Hỏng rồi hỏng rồi, chị họ ơi chị hại chết em rồi! Mã Trấn Quốc là thầy liệm trang nổi tiếng nhất CẩmChâu, đã nghỉ hưu bao năm rồi, nể tình em là bạn học với con trai nên ông ta mới đến giúp không công, giờ thì lớn chuyện rồi. Tôi thấy có lỗi quá, tất cả đều do mình sơ ý mà để xảy ra chuyện, chỉ biết đành lựa lời an ủi cậu ta, nói rằng vụ án đang gấp rút điều tra, trước mắt cố gắng không tiết lộ chuyện này ra ngoài, và phải nhanh chóng tìm thầy liệm trang khác đến giúp. Cậu ta nhăn nhó nghĩ ngợi hồi lâu, cuối cùng thở dài, nói: - Thì cũng đành vậy thôi. Tôi tìm đến chỗ La Viễn Chinh, thuật lại chuyện vừa xảy ra, đồng thời cũng nói hết những suy đoán của tôi. La Viễn Chinh trợn tròn mắt, ngớ người một lúc lâu rồi mới hỏi xem tiếp theo tôi định làm gì. Tôi thực sự cũng chưa nghĩ ra được gì, nên lắc đầu, nói mình cũng chưa biết tính thế nào, đành đi một bước tính một bước vậy. Cả đêm không ngủ khiến tôi thấy quá đỗi mệt mỏi, đầu đau như búa bổ. Tạm gác một bên mớ suy nghĩ bòng bong trong đầu, tôi ngồi xuống chiếc trường kỷ chợp mắt một lúc, loáng một cái đã đến giờ làm lễ tiễn đưa cậu. Vì đã kịp mời thầy liệm trang khác đến sửa soạn cho cậu nên buổi lễ diễn ra khá suôn sẻ. Dưới sự chứng kiến của người thân bạn bè, theo phong tục đưa ma, cậu mặc chiếc áo thọ, thanh thản nằm bên trong chiếc quan tài do mười sáu thanh niên trai tráng trong họ khiêng. Đám phu khiêng quan tài bước nhanh trên con phố lớn, con cháu họ hàng thắt khăn tang trắng xóa ngang lưng theo sát phía sau, liên tục vái lạy, gào khóc lạc cả giọng, thể hiện nỗi tiếc thương tiễn đưa người thân đi xa mãi. Khi đoàn người đưa tang đến gần trạm xăng trên đường Cẩm Triều – vùng giúp ranh với ngoại ô, theo kế hoạch đã định sẵn, chúng tôi đưa chiếc quan tài lên ô-tô chở đến đài hóa thân Mạo Sơn. Nhìn thi hài cậu bị đẩy vào lò thiêu, lòng tôi đau đớn tột cùng, nước mắt cứ thế lăn dài trên gò má, hình ảnh trước mắt nhòa đi, đầu óc rối bời. Rồi đây trong tích tắc nữa cậu tôi sẽ chỉ là nắm tro, thế nhưng bí mật mà cậu đến chết cũng phải cất giấu đó rốt cuộc là gì chứ? Tôi thoáng có linh cảm chẳng lành, chiếc xe bán tải và chiếc xe Accord ở hiện trường vụ tai nạn chưa chắc đã cung cấp được đầu mối gì, bởi với sự tinh vi của hung thủ, rất có thể biển số xe đều là giả. Từ đài hóa thân bước ra, tôi không kịp nói với người nhà câu nào đã vội vàng đến đồn cảnh sát để tiếp tục triển khai vụ án. Phùng Siêu và mấy anh em trong đội cảnh sát giao thông cũng đã giúp rất nhiều. Thực tình, lợi dụng nhân lực của công an để điều tra chuyện riêng khiến tôi thấy ngài ngại. Sau hơn một tuần lễ theo sát cuộc điều tra, mọi biện pháp có thể áp dụng hầu như đã áp dụng hết, quả nhiên không ngoài dự đoán của tôi, biển số xe bán tải và xe Accord đều là giả, số máy và số khung đều đã bị làm mòn, gần như không thể điều tra ra nguồn gốc xe. Tôi đã nhờ một số bạn học ở sở Công an ThẩmDương giúp điều tra thêm nhưng cuối cùng vẫn không tìm ra manh mối gì. Việc Mã Trấn Quốc đột ngột bị bắt đi trong đêm cùng việc cậu tôi bị lóc trộm mảng da chắc chắn rất khó để tìm ra. Thấy kết quả điều tra như vậy, tôi thực sự nản chí, lẽ nào mọi việc sẽ kết thúc như thế này sao? Ngoài La Viễn Chinh, những người thân trong gia đình đều không hề biết chuyện này, tôi cũng không định nói cho mọi người biết. Nếu thực sự không điều tra được gì hơn thì thà để bí mật này chôn chặt trong lòng tôi còn hơn là để những người thân khác phải đau khổ như tôi bây giờ. Tối hôm đó, tan làm về đến nhà, tôi chưa kịp cởi giầy thì La Viễn Chinh lao từ trong bếp ra, trên người vẫn còn đeo tạp dề, hỏi dồn một câu: - Em còn nhớ lời trăng trối của cậu trước lúc nhắm mắt không, không những cậu yêu cầu chúng ta không được nói với bất kỳ ai, mà còn bắt đốt hết tất cả tranh trong nhà. Em nói xem, những bức tranh đó liệu có liên quan gì đến chuyện này không? Tôi ậm ừ trong miệng, day day huyệt thái dương rồi mới trả lời chồng: - Điểm này em đã nghĩ đến từ lâu rồi, nếu cậu thực sự muốn giấu bí mật gì đó, thì ngoài việc giấu một phần trên chính cơ thể mình, phần còn lại chắc sẽ nằm ở trong những bức tranh, chúng ta nên sắp xếp thời gian xem sao. La Viễn Chinh chăm chăm nhìn tôi, do dự hồi lâu mới chậm rãi nói: - Vậy tốt nhất em nên nhanh chóng điều tra, mẹ cứ nhất định đòi đốt hết những bức tranh đó đấy. Do ông bà ngoại mất sớm, cậu tôi lại không có vợ con gì, nên người duy nhất có quyền thừa kế trong gia đình chính là mẹ tôi, quyền cất giữ những bức tranh đó đương nhiên cũng thuộc về bà. Tuy rất nhiều người tỏ ý tiếc nuối, khuyên nhủ không nên đốt chúng đi, hoặc ít nhất cũng nên hiến tặng cho nhà nước, nhưng mẹ tôi vẫn quyết giữ chính kiến của mình, không nghe lời bất cứ ai, còn giấu luôn cả chìa khóa nhà cậu. Vì việc này tôi đã nhiều lần tranh cãi với bà, có lần hai mẹ con còn cãi nhau to, nhưng kết quả nhận được vẫn chỉ là một chữ: Đốt! Không còn cách nào khác, đành phải đốt hết vậy! Tôi buông xuôi, trong lòng thầm xin lỗi cậu, có thể bí mật đó mãi mãi không có cách nào để giải mã. Tôi còn nhớ hôm đốt các bức tranh là ngày Chủ nhật, mây đen vần vũ, gió thổi ầm ào, dự báo thời tiết nói có mưa, nhưng mãi vẫn chưa có giọt mưa nào. Hơn bảy giờ sáng, tôi và La Viễn Chinh ăn sáng xong, lái xe đón bố mẹ đi đến ngôi nhà cũ của cậu. Mọi người im lặng gỡ những bức tranh mà cậu sáng tác và sưu tầm khi còn sống, xếp đầy chặt mấy bao tải dứa. Có ba bức sơn dầu kích thước lớn, không vừa với bao tải nên chúng tôi bọc qua một lớp báo rồi dùng dây chằng lại. Chúng tôi bỏ tất cả tranh vào cốp rồi lái xe đến một bãi đất trống thuộc ngoại ô thành phố. Tôi và La Viễn Chinh quây vài viên gạch vỡ thành vòng tròn rồi xếp cành khô, rơm rạ vào giữa, sau đó tưới xăng lên. Chính tay mẹ tôi bật diêm, ngọn lửa gặp những chất dễ cháy nhanh chóng bùng lên. Ngọn lửa cứ thế cháy bùng trong vòng gạch quây, hơi nóng tỏa ra rát cả người cùng những tiếng nổ lách tách khi mẹ tôi vừa khóc vừa ném từng bức tranh vào vòng gạch. Chúng tôi thẫn thờ nhìn những tập tranh oằn mình trong ngọn lửa, từ từ cuộn tròn lại, tàn giấy lả tả bay lên không trung, lượn vài vòng rồi cuốn đi theo gió. La Viễn Chinh nhích lại gần tôi, khẽ than thở tiếc nuối: - Đốt một bức là mất mấy triệu bạc đấy! Tôi khoanh tay, khẽ gật đầu, trong lòng dâng lên một cảm giác khó tả, cứ thế nhìn chăm chăm vào đống lửa, lặng thinh không nói. Ngọn lửa cháy mải miết hơn một tiếng đồng hồ, giữa vòng gạch quây đã chất một lớp tro khá dày, tranh của cậu đã vơi gần hết, chỉ còn lại ba bức sơn dầu khá to. Tôi và La Viễn Chinh khênh chúng ra, chuẩn bị ném vào đống lửa. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy góc báo bọc bức tranh sơn dầu bị toạc một đường khá dài, chắc là do bị dây thép trong cốp xe cào rách, để lộ ra mảng tranh hết sức sặc sỡ. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ, mọi việc trên thế giới này thật kỳ diệu. Chỉ một chút sai lệch ban đầu cũng đủ để sự việc sau này thay đổi theo chiều hướng hoàn toàn khác. Có thể nói như vậy, vì số phận của tôi đã hoàn toàn thay đổi bởi khe rách trên tờ báo ngày hôm đó. Lúc đó, khi nhìn thấy khe rách, tôi bất giác dừng bước, theo phản xạ tự nhiên, tôi xé tờ báo ra, ngắmnghía thật kỹ bức tranh, khi hiểu được hết bức tranh tôi thấy thực sự chua xót. Sinh thời cậu tôi có hai việc đắc ý: Việc thứ nhất là năm lớp Mười hai, bất chấp ông bà ngoại phản đối, cậu kiên quyết thi vào Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn, rồi bằng sự phấn đấu nỗ lực của bản thân, cậu gặt hái được nhiều thành công về sau. Việc thứ hai là năm 1986, cậu trở thành họa sĩ trẻ tuổi nhất tham gia cuộc thi sáng tác tranh panorama với bức Cuộc tiến công Cẩm Châu hiện đang trưng bày tại nhà tưởng niệmchiến dịch Liêu Thẩm – Cẩm Châu. Nhất là chuyện tham gia sáng tác tranh panorama, cậu tôi vô cùng tự hào, coi đó là niềm vinh dự cả đời, về sau cậu đã sao chép bức tranh theo tỉ lệ thu nhỏ, thành một tác phẩm sơn dầu, treo chính giữa phòng khách, hàng ngày vuốt ve lau chùi như vật báu. Vừa nhìn thấy bức tranh này, nụ cười của cậu lập tức chợt hiện về trong tâm trí tôi. Còn nhớ hồi nhỏ mỗi lần đến nhà cậu chơi, cậu rất thích bế tôi đứng trước bức tranh sơn dầu ấy ngắm nghía thật lâu. Nghĩ đến đây, tôi bỗng bừng tỉnh, đưa mắt ra hiệu cho La Viễn Chinh đem bức tranh đến trước mặt mẹ với hi vọng sẽ làm bà động lòng. Mẹ tôi thẫn thờ ngắm bức tranh, nước mắt lăn dài, khóc không thành tiếng nhưng vẫn cắn chặt môi, kiên quyết nói: - Đốt! Đốt hết! Tôi thở dài, xem ra cơ hội cuối cùng cũng chẳng còn, đành cùng La Viễn Chinh khiêng bức tranh vứt vào đống lửa. “Bịch!” bức tranh khổng lồ bị ném vào đống lửa, tàn lửa và bụi tro bay tung tóe khắp nơi, chúng tôi đều giật lùi lại theo phản xạ, nhưng không ngờ mẹ tôi chợt lao vào như người điên, bất chấp ngọn lửa đang bùng cháy dữ dội, bà vội lôi bức tranh ra khỏi đống lửa. Chúng tôi sững người, vội chạy lại, bố tôi giật lấy bức tranh vứt xuống đất, xoa tay mẹ, hỏi dồn bà làmnhư vậy là có ý gì. Mẹ tôi chẳng nói chẳng rằng, chỉ từ từ quỳ xuống, lấy tay áo dập tàn lửa trên bức tranh, mân mê từng mảng màu trên đó, nước mắt rơi lã chã, mãi lâu sau mới nói: - Thôi, hãy để lại bức này đi, dù sao nó cũng là tâm huyết của cậu con, cũng là để chúng ta giữ lại chút kỉ niệm về cậu. Nói đoạn, bà đứng dậy, khẽ dựa vào vai bố khóc thút thít. Thấy thái độ của mẹ đột ngột thay đổi, tôi thấy rất vui, liền nhanh chóng đem bức tranh đó cất trở lại vào trong xe, sau đó cùng La Viễn Chinh khênh hai bức tranh còn lại ném vào đống lửa. Tôi và La Viễn Chinh lái xe đưa bố mẹ về rồi cả nhà cùng nhau ăn bữa tối. Mẹ tôi gà gật trong suốt chiều về, vì thế bà chỉ ăn qua loa nửa bát rồi đòi về phòng nghỉ ngơi, xem ra mấy ngày nay mẹ thực sự quá mệt mỏi rồi. Sau khi hỏi han bố vài câu, tôi và La Viễn Chinh liền đem theo bức tranh sơn dầu đó tạm biệt bố ra về. Trên đường về, La Viễn Chinh vô cùng phấn khích, luôn miệng nói rằng sống chết phải giữ lại bức tranh này, nếu khám phá ra bí mật thì tốt, còn nếu không thì cũng coi như báu vật gia truyền, đợi khi có con, chưa biết chừng có thể bán được mớ tiền, đủ mua một căn nhà to. Tôi mỉm cười trêu chồng đúng là kẻ mê tiền, nhưng trong bụng lại cứ đoán già đoán non, liệu cậu có thực sự lưu giữ bí mật trên bức tranh này không? Vừa bước vào nhà, chưa kịp cởi giày, tôi liền vội vàng đặt bức tranh lên ghế sô-pha, dựng ngay ngắn. Bức tranh dài khoảng 150 cen-ti-met, rộng 70 cen-ti-met, đóng trong khung gỗ màu nâu sẫm, do được bảo quản cẩn thận nên vẫn giữ được màu sắc tươi sáng, cũng không hề bị sứt mẻ gì. Bức tranh mô tả cuộc tấn công của chiến quân Đông Bắc vào trung tâm thành phố Cẩm Châu trong chiến dịch Liêu Thẩm. Phần nền là những căn nhà dân thấp bé tồi tàn, xa xa là tháp cổ Cẩm Châu nguy nga sừng sững, khói cuộn đen kịt khắp nơi; các chiến sĩ tay cầm súng, vượt qua mưa bom bão đạn luồn lách qua những con phố, quang cảnh vô cùng hùng tráng. Mặc dù có rất nhiều nhân vật với những tư thế khác nhau trong bức tranh, nhưng khuôn mặt họ đều hết sức sinh động, hệt như người thật; nhìn cảnh họ gào thét giận dữ, cảm giác như có thể nghe thấy từng đợt hô vang “Giết!” Ngắm nhìn hồi lâu cũng không biết tại sao tôi lại có cảm giác bức tranh này còn đẹp hơn cả cảnh thật, có thể là do tôi quan sát ở cự ly gần chăng? Tôi và La Viễn Chinh mở to mắt ngắm đi ngắm lại hồi lâu, ngoài việc càng nhìn càng thấy kĩ thuật vẽ tranh của cậu cao siêu tuyệt đỉnh thì chẳng nhận ra thêm được điều gì. Hai vợ chồng liền quay ra bàn nhau xem nên treo bức tranh ở đâu. La Viễn Chinh vò đầu, ngắm nhìn xung quanh rồi đề nghị treo trên bức tường đằng sau ghế sô-pha. Tôi nhìn ra, thấy treo ở vị trí đó cũng khá đẹp. Hai vợ chồng hạ bức ảnh cưới trên tường xuống, tìm vị trí thích hợp, treo bức tranh lên, sau đó còn cẩn thận đóng thêm mấy chiếc đinh nữa ở phía dưới để đỡ bức tranh cho chắc chắn. Treo xong bức tranh, La Viễn Chinh lùi lại phía sau chỉ đạo, còn tôi đứng trên ghế sô-pha chỉnh cho bức tranh thật cân đối. Lúc ghé sát bức tranh, tôi không những quan sát rõ hơn mà còn ngửi thấy cả mùi sơn dầu hăng hắc trên bức tranh nữa. Đột nhiên, tôi phát hiện ra một điều kì lạ! Lúc trước tôi đã nói, bức tranh diễn tả cảnh các chiến sĩ vượt qua các con phố để chiến đấu với kẻ thù. Nhưng lúc này khi ghé sát vào bức tranh, tôi chú ý đến góc trên cùng bên trái bức tranh có bốn chiến sĩ đơn độc tách khỏi đội quân, tay nắm chặt khẩu súng, đứng trước cửa ngôi nhà mái bằng phía ngoài Cổ Tháp, trông giống như đang định đẩy cửa bước vào. Trong đó có một chiến sĩ quay đầu lại, nhìn thẳng về phía ngoài bức tranh. Ánh mắt đó hết sức lạ lùng, tôi không biết cậu tôi đã dùng kỹ xảo hội họa nào để lột tả chi tiết đấy, chỉ biết rằng dù di chuyển ở góc nào thì ánh mắt của người chiến sĩ đó vẫn hướng về phía tôi, cứ như đang chăm chăm nhìn vậy. Đặc biệt, vẻ mặt của anh ta rất lạ, miệng hơi há ra, lông mày nhíu chặt lại, vừa như kinh ngạc vừa như mơ hồ. Tôi bật kêu lên một tiếng, tay trái xoa xoa cằm, cảm thấy thực sự hiếu kì, tôi từ từ đứng thẳng người lên, lùi ra phía sau, ngắm nghía kỹ hơn nữa. Càng ngắm tôi càng thấy thú vị, sao cậu có thể vẽ giống đến thế, trông hệt như người thật vậy. Thấy tôi đứng nghệt mãi, La Viễn Chinh lại gần, nhẹ nhàng vòng tay ôm lấy eo tôi hỏi có chuyện gì. Tôi chỉ tay về phía chiến sĩ trong tranh nói: - Ông xã à, anh thử nhìn người chiến sĩ kia xem, sao mà vẽ… vẽ… Nói đến đây, tự nhiên tôi ấp úng mãi không tìm ra từ ngữ nào diễn tả cho thích hợp. La Viễn Chinh tiến tới gần, nhoài đầu lên phía trước ngắm nghía. Bỗng nhiên người anh lảo đảo, hai tay bám chặt thành sô-pha, run rẩy lắp bắp: - Này, người… người này… sao… sao mà giống… giống cậu em thế? Nghe anh nói vậy, tôi sững người, nhưng rồi ngay lập tức tỉnh táo lại, trong lòng lúc bấy giờ dấy lên một cảm giác kinh ngạc đến khó tả. Chẳng trách tôi cứ cảm thấy nó thật đến thế, hóa ra người chiến sĩ ấy chính là hình ảnh của cậu tôi hồi trẻ. Giống từ mắt mũi mồm miệng đến vóc dáng, gần như không có gì khác biệt. Nhất là nét biểu cảm lạ lùng trên mặt cậu, rất giống hình ảnh cậu tôi lúc chăm chú ngắm những bức tranh sơn dầu hồi nhỏ. Tôi vội tiến lên trước, cố vươn cổ ra nhìn, tim đập thình thịch. Thường ngày cậu tôi luôn nghiêm túc với tất cả mọi người, càng không bao giờ xuề xòa qua loa với những sáng tác nghệ thuật, vậy tại sao cậu lại nghĩ ra trò đùa này, vẽ chính mình vào tranh chứ? La Viễn Chinh chợt “á” lên một tiếng, sau đó vỗ mạnh vào vai tôi, chỉ vào chiến sĩ đó nói với vẻ phấn khích: - Này, anh biết rồi, cậu em cứ một mực đòi đốt hết tất cả tranh đi, nhất định là vì điều này, ông đã tự vẽ mình vào tranh, như vậy bức tranh mà chúng ta cần tìm chính là bức này đây. Tôi nghĩ một lúc, khẽ gật đầu, dự đoán của anh hoàn toàn trùng với suy nghĩ của tôi. Ngẫm nghĩ một lúc, tôi khoanh chân ngồi xuống đất, nghiêng đầu, dùng tay bóp bóp cái cổ mỏi nhừ của mình, nghi ngờ nói: - Lẽ nào… lẽ nào một phần bí mật… chính là nằm trong bức tranh này… - Đúng! – La Viễn Chinh ngắt lời tôi, giọng đầy chắc chắn – Đúng vậy, nhất định là như vậy. Nói rồi, anh quay người đi, giơ tay ra sờ vuốt bức tranh. Lúc đó, do lưng của La Viễn Chinh che khuất hoàn toàn tầm nhìn, nên tôi không nhìn rõ động tác tay của anh. Bỗng nhiên, vai anh chợt rung rung, sau đó thét lên kinh hãi: - Trời ơi… Chưa kịp để tôi phản ứng, La Viễn Chinh cứng đờ người quay lại nhìn, mặt tái nhợt vì kinh hãi, giọng nói cũng lạc cả đi, lắp ba lắp bắp mãi: - Này, em… em… sờ… sờ vào người… người chiến sĩ này… Thấy bộ dạng hồn siêu phách lạc của anh, tôi không nén nổi tò mò, tiến lại gần bức tranh, rồi đưa tay phải ra sờ hình ảnh người chiến sĩ giống hệt cậu tôi. Một cảm giác hoàn toàn khác biệt với cảm giác thường gặp trên chất liệu sơn dầu thông thường, không thô ráp, trái lại vô cùng mềm mịn, nhẵn bóng, thậmchí còn có cảm giác mềm mềm, có cái gì đó vô cùng quen thuộc, giống như… Trong thoáng chốc, tim tôi thắt lại, và một cảm giác gì đó vô cùng kì lạ đang chiếm hữu tâm hồn tôi. Tôi run run đưa tay trái lên vuốt nhẹ má mình. Vừa chạm vào da thịt, đầu ngón tay tôi chợt tê dại. Trời ơi! Sao lại giống nhau đến vậy, chỉ có nhiệt độ là khác biệt. Hình như tôi vừa chạm phải mảnh da người! Phát hiện này quá hãi hùng, khiến tôi trở nên u mê, choáng váng, người mềm nhũn đến độ gần như không đứng vững được nữa. Tôi lùi sau mấy bước, vịn vào giá sách bên cạnh, nghẹn nuốt nước bọt, quay đầu nhìn La Viễn Chinh. Lúc đó anh cũng đang mở to mắt nhìn tôi chằm chằm. Mất một hồi lâu, cả hai chúng tôi chẳng nói chẳng rằng, cũng không động đậy gì, chỉ chăm chú nhìn về phía người chiến sĩ, trên mặt cả hai đều hiện rõ vẻ khó hiểu và ngờ vực. Cũng chẳng biết sau bao lâu, tôi mới định thần lại được, quay sang vừa thở hổn hển vừa gượng cười với La Viễn Chinh, líu ríu thốt ra một câu qua kẽ răng: - Chúng… chúng mình có phải đã sờ nhầm rồi không? La Viễn Chinh vội gật đầu như một cái máy, nói: - Đúng, đúng, em… em sờ lại… sờ lại xem, nhất định là sờ nhầm rồi. Thấy cách anh nói rõ ràng là dối lòng, tôi có thể khẳng định chắc chắn đó chính là một mảnh da người. Chúng tôi người này giục người kia cùng đưa tay ra chạm vào anh chiến sĩ một lần nữa, quả đúng là da người thật. Sau đó tôi và La Viễn Chinh chạm tay vào ba chiến sĩ còn lại thì thấy bề mặt thô ráp sần sùi, một cảm giác điển hình của những hạt sơn kết lại trên chất liệu linen[1]. [1] Chất liệu dùng để vẽ tranh sơn dầu. Chướng ngại tâm lý cuối cùng đã được đẩy lùi, tôi và La Viễn Chinh ngồi ngây dại trên ghế sô-pha. Tôi gõ mạnh vào trán, nhìn chồng thất thần, khẽ nói: - Là da người, xem ra cậu… La Viễn Chinh đột nhiên nhảy chồm chồm, hai tay khua khoắng lung tung, trông vô cùng kích động. Anh gập người xuống, túm chặt lấy vai tôi, mắt sáng bừng, reo to: - Này, chúng ta không sờ nhầm đâu, cũng không đoán nhầm đâu. Bí mật của cậu đúng là nằm trong bức tranh này rồi. Tôi thở dài, lắc đầu quầy quậy, không thể dễ dàng khẳng định như vậy, điều này quá hoang đường, chả khác gì như trong tiểu thuyết. Nghĩ một lúc, tôi đứng bật dậy xông vào nhà bếp, lục tìm chiếc kính lúp trong thùng đồ rồi quay lại chỗ bức tranh, cắm mặt soi kỹ từng cen-ti-met. Dần dần tôi lại phát hiện thêm những điểm hết sức khó hiểu. Người chiến sĩ đó được vẽ ở khoảng giữa bức tranh, cao chừng 5-6 cen-ti-met, trông hết sức hài hòa với cảnh vật xung quanh. Nhưng nhìn kỹ lại, thì phát hiện có một khe nối nhỏ khó nhận ra ở rìa xung quanh. Tôi lấy đầu ngón tay nhấm ít nước bọt, xoa đi xoa lại lên đường rìa. Tuyệt nhiên không bị phai màu. Xem ra màu sắc của người chiến sĩ trong bức tranh không phải được sơn vẽ sau đó mà chính là mảnh da có màu sắc tự nhiên. Tôi lau ngón tay vào áo, sau đó kéo La Viễn Chinh ngồi xuống đất, ngắm nhìn bức tranh, rồi từ từ nói: - Sau lưng cậu… La Viễn Chinh bất ngờ ngắt lời tôi và nói: - Sau lưng cậu có hình xăm, cậu đã lóc lấy mảnh da đó để ghép thành hình người chiến sĩ này. Còn về di chúc, cái mà cậu muốn tiêu hủy chính là mảnh da người cất giấu trong bức tranh này. Tôi day trán suy nghĩ một hồi rồi khẽ gật đầu. Hiện tại chỉ có suy luận như thế là hợp lý nhất. Có thể do sợ người khác phát hiện ra bí mật gắn kết giữa mảnh da trên cơ thể và bức tranh nên lúc hấp hối cậu mới kịch liệt yêu cầu phải được hỏa táng và đốt hết các tác phẩm của mình. Tuy nhiên có một điều tôi vẫn không thể hiểu nổi, đó là tại sao cậu tôi lại lấy da người chèn vào tranh như vậy. Hơn nữa ngoài ánh mắt và biểu cảm khác lạ của người chiến sĩ ra thì tôi chẳng tìm thấy điểm gì đặc biệt trong mảnh da người nho nhỏ đó nữa. Sao cậu tôi lại coi trọng nó đến thế? Nếu cậu tôi tự lóc mảnh da của mình thì sau lưng chỉ còn lại vết sẹo, vậy tên hung thủ giấu mặt kia sao lại nhất định phải ra tay hủy hoại thi thể của cậu chứ, điều này hoàn toàn không cần thiết. Và cả việc bắt cóc thầy liệm trang Mã Trấn Quốc cũng lại là một động tác thừa. Với những điểm nghi vấn đó, tôi và La Viễn Chinh đã suy luận cả nửa ngày trời, liệt kê một loạt những khả năng có thể xảy ra, nhưng sau khi phân tích kĩ càng thì tất cả các khả năng đều lần lượt bị loại bỏ, rốt cuộc vẫn chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng cho việc này. Loáng một cái đã hơn ba giờ sáng, cả hai vợ chồng đều ngáp ngắn ngáp dài, mắt díu chặt lại, đành đemmột bụng nghi ngờ chìm vào giấc ngủ. Trong giấc ngủ, những hình ảnh chập chờn xuất hiện trong đầu như bật slide trình chiếu trước mắt, toàn những cảnh máu me đủ kiểu, lúc thì là vết thương kinh dị, lúc lại là mảnh da người bê bết máu, cuối cùng hình ảnh cậu hiện lên, mặt mày tím tái, hai mắt đỏ ngầu, hoa chân múa tay, kêu gào thảm thiết: “Đốt hết…đốt hết… đốt hết…” Tôi hét lên kinh hãi, mắt mở trừng trừng, tim đập dồn dập, toàn thân vã mồ hôi, tiếng kêu gào thảm thiết cứ văng vẳng bên tai. Quay ra nhìn mặt trời đã chiếu qua cửa sổ, trời đã sáng hẳn. La Viễn Chinh nằm bên cạnh ngoẹo đầu sang nhìn tôi, mắt đỏ vằn, xem ra cả đêm qua chắc anh ngủ cũng không ngon giấc. Đáng răng rửa mặt xong, ăn vội vài miếng bánh mì chấm sữa, tôi lại quay ra ngắm nghía nghiên cứu bức tranh. Để nhanh chóng tìm ra bí mật trong bức tranh, tôi lấy tuốc-nơ-vít tháo rời khung tranh và tấm chắn sau bức tranh thì phát hiện ra vị trí người chiến sĩ quả nhiên bị khoét rỗng, thay vào đó là miếng da có màu vàng sẫm, chắc chắn đã qua xử lý, rìa xung quanh giống như dùng loại keo trong suốt để gắn chặt với bức tranh. Tôi do dự hồi lâu, cuối cùng cũng quyết định lấy kéo lách theo khe hở để cắt hình người ra, vò nhè nhẹ trong lòng bàn tay. Nhìn khuôn mặt người chiến sĩ biến dạng, mồm cũng lệch theo, tự nhiên tôi thấy rất sợ hãi nhưng vẫn có linh cảm như cậu đang muốn nói chuyện gì đó với mình. Tôi và La Viễn Chinh lại tiếp tục ngồi nghiên cứu miếng da người đầy nghi vấn này, và rồi hai vấn đề chợt lóe lên: Trước đây cậu từng nói, bức tranh này được sao chép lại từ nguyên bản trong phòng tranh panorama, vậy bức tranh panorama kia liệu có tồn tại nhân vật giống như cậu không? Một vấn đề nữa là đến hiện tại, chúng tôi vẫn chưa thể khẳng định được đây có thực là mảnh da được lấy từ cơ thể cậu không, do đó cần tiến hành giám định thêm. Vốn tính nóng vội, tôi bắt La Viễn Chinh lấy máy ảnh kỹ thuật số chụp lại toàn bộ bức tranh và mảnh da nhỏ rồi lập tức đến nhà tưởng niệm chiến dịch Liêu Thẩm để điều tra kiểm chứng; còn tôi thì đến căn nhà cũ của cậu, tìm kiếm một vài thứ còn sót lại như sợi tóc, móng tay… đem đến phòng thí nghiệm của sở cảnh sát để đối chiếu với mẫu da đang lưu trữ. Lúc chia tay ở cổng khu chung cư, La Viễn Chinh cứ chần chừ không muốn lên xe, anh kéo tay tôi, ấp a ấp úng nói: - Này, thực ra tối qua… anh trằn trọc suốt cả đêm, anh cứ cảm thấy chuyện này… chuyện này quá ư…giống như… giống như… Anh liên tục nhấn mạnh mấy từ “giống như” mà mãi vẫn không nói ra được giống như cái gì, cuối cùng anh dậm mạnh chân, thở dài một tiếng rồi quay người lên xe. Tôi hiểu ý chồng, chắc chắn anh định nói chuyện này quá ư kỳ lạ, hình như đang rình rập mối nguy hiểmgì đó; nhưng lại hiểu rõ tính cách của tôi, chưa làm rõ chuyện thì chưa bỏ cuộc nên anh mới có thái độ ngập ngừng như vậy. Nhìn chiếc xe lao vút đi, mất hút trong dòng xe đông đúc, tôi bỗng thấy lòng trĩu nặng điều gì đó thật khó diễn tả, cảm giác đó giống như dải lụa mềm giăng giăng trước mắt, tựa có tựa không, giăng mãi trong đầu tôi, cảm giác với tay có thể chạm tới nhưng lại không thể nào bắt được. Mãi đến tận sau này, tôi mới hiểu rõ cảm giác lúc đó là gì, tiếc rằng mọi thứ đã quá muộn, số phận của nhiều người cũng vì thế mà có những thay đổi không thể khác. Chương 3: Chết chóc Tôi như con ruồi mất đầu, cứ thế lao ra tứ phía, húc đổ bao nhiêu đồ đạc trong phòng nhưng lại không hề cảm thấy đau đớn. Lúc đó thì gần như phát điên, trong đầu chỉ quanh quẩn một ý nghĩ: Viễn Chinh chưa chết, Viễn Chinh chưa chết, nhất định phải tìm được anh. Tôi đến gặp bố mẹ, lấy cớ đem bức ảnh cũ qua nhà để mượn mẹ tôi chìa khóa nhà cậu, rồi ngồi xe buýt đến đó. Tôi tìm thấy vài sợi tóc bạc còn cả chân tóc trên ga giường phòng ngủ của cậu, bọc cẩn thận trong gói giấy, nhét vào khe thẻ cảnh sát chuẩn bị đi làm xét nghiệm ADN. Trước khi ra khỏi cửa, tôi bất ngờ dừng bước, quay người lại ngắm kĩ một lượt căn nhà, nhìn thấy chỗ bức tranh bị tháo để lại miếng sứt lớn trên tường phòng khách, lòng tôi bỗng xót xa vô cùng. Còn nhớ hồi nhỏ tôi nghịch ngợm có tiếng, hệt như một thằng con trai, mỗi lần đến nhà cậu chơi, tôi đều nhảy nhót khắp nơi, cào cấu lung tung vào bức tranh nên không ít lần bị cậu đánh đít. Nhưng khi thấy tôi gào khóc, cậu lại nựng nịu dỗ dành, bế bổng tôi lên rồi cả hai cậu cháu lặng lẽ ngắm nhìn bức tranh trên tường. Đến nay đã hai mươi năm trôi qua, có ai ngờ rằng, bức tranh ấy lại cất giấu một phần da thịt của chính cậu. Nghĩ đến đây, tôi chợt nhớ lại kí ức, ánh mắt cậu lúc ngắm nhìn bức tranh rất chăm chú, giống y hệt người chiến sĩ trong bức họa. Tôi day nhẹ trán, vô số câu hỏi bủa vây trong đầu, tại sao cậu lại vẽ mình với dáng vẻ như vậy chứ? Ngày nghỉ đối với cảnh sát hình sự mà nói chẳng khác gì nằm mơ giữa ban ngày, mặc dù hôm đó là chủ nhật. Tòa nhà làm việc của đội trinh sát hình sự vẫn đông đúc như mọi ngày. Vì trong lòng đang mắc chuyện riêng nên tôi chẳng để ý mấy đến mọi người xung quanh, cắm đầu đi thẳng vào phòng xét nghiệmvật chứng ở tầng hai, đưa mấy sợi tóc và mảnh da người cho các đồng chí kỹ thuật viên, nhờ họ nhanh chóng làm xét nghiệm đối chiếu ADN. Mặc dù là tăng ca làm thêm và áp dụng những kỹ thuật tiên tiến nhất nhưng kết quả xét nghiệm cũng phải sau ba tiếng mới có được. Nhìn bọn họ bận rộn, chăm chú với các bước xét nghiệm, tôi thấy sốt ruột cũng chẳng ích gì đành trở về phòng làm việc của mình. Ngồi trên ghế, tôi dặn mình phải bình tĩnh. Tay lật giở những tập hồ sơ vụ án bị ứ lại, nhưng đầu óc cứ quay cuồng mông lung chẳng đọc được gì vào đầu, đành ngồi nhắm mắt thư giãn. Một lúc lâu sau, tôi bừng mở mắt ra, đứng phắt dậy, quyết định đi tìm La Viễn Chinh. Tôi muốn tận mắt nhìn xem bức tranh toàn cảnh rốt cuộc ra sao. ©STENT: http://www.luv-ebook.com Sở Công an thành phố cách nhà tưởng niệm chiến dịch Liêu Thẩm không xa, chỉ mất mấy phút ngồi xe. Vừa xuống taxi, tôi bỗng cảm thấy không khí có gì đó bất thường, trước cổng nhà tưởng niệm đỗ bảy támchiếc xe Jetta của cảnh sát, đèn chớp liên hồi, nhìn biển số xe thì hóa ra là xe của công an Linh Hà. Đoàn khách du lịch lập cập từ bên trong đi ra, ai nấy mặt mũi đều căng thẳng, bàn tán sôi nổi. Nhìn cảnh tượng đó, tôi bỗng thấy tim thắt lại, đoán chắc vừa xảy ra chuyện chẳng lành, liền kéo tay một cô bé trông có vẻ giống học sinh cấp hai, hỏi đã xảy ra chuyện gì. Cô bé đó nhìn tôi ngập ngừng nói: - Cháu nghe nói trong phòng tranh panorama xảy ra án mạng, một người đàn ông bị đâm chết, rất nhiều cảnh sát đến điều tra, bây giờ họ không cho ai vào xem nữa… Tai tôi ù đi như sấm đánh bên tai, cũng không hiểu tại sao linh cảm đầu tiên của tôi là La Viễn Chinh đã xảy ra chuyện. Tôi hoảng hốt, vội vàng gạt cô bé ra rồi xông thẳng vào trong. Tôi chạy thục mạng, vượt qua khoảng sân rộng lớn, lúc đến cửa ra vào nhà tưởng niệm, tôi rút vội tấmthẻ cảnh sát ra trước con mắt ngỡ ngàng của mấy nhân viên ở đó, rồi cứ thế chạy thẳng đến phòng tranh panorama ở tòa nhà phía sau. Trước cửa phòng tranh panorama có căng dây bảo vệ, hai cảnh sát mặc đồng phục đứng gác bên cạnh, chính xác là người trong đội trinh sát hình sự Linh Hà. Nhìn thấy tôi đến, họ gật đầu rồi hạ dây bảo vệ xuống để tôi bước qua. Tôi chạy theo cầu thang xoắn ốc hẹp lên đến tầng trên cùng. Nơi đây được thiết kể theo kiểu nóc nhà, vô cùng yên tĩnh, vòng xung quanh là bức tranh panorama khổng lồ. Lúc này còi cảnh sát đã im bặt, hơn mười điều tra viên người đứng người ngồi vây tròn lại, không ngừng bấm máy ảnh lia lịa. Qua ánh đèn flash nhấp nháy, tôi nhận ra có một người nằm sõng soài trên mặt đất. Do tầm nhìn bị che khuất, tôi chỉ nhìn thấy hai chân của người đó. Vừa nhận ra đôi giầy Kangnai màu nâu quen thuộc, tôi liền đứng khựng lại, toàn thân bủn rủn không còn chút sức lực nào, tim tôi như có bàn tay khổng lồ nào đó bóp nghẹt, không còn đập được nữa. Tôi ôm chặt lấy ngực, cố chen lên mấy bước, môi run lẩy bẩy, tôi, muốn mở miệng ra kêu lên nhưng không sao thành tiếng, chỉ cảm thấy trời đất quay cuồng, trước mắt là một màu đen kịt… Cũng không rõ bao lâu sau, chỉ biết khi tỉnh lại, tôi lờ mờ nhận ra mình đang nằm trên giường, đầu óc nặng trịch, hai bên thái dương đau nhói. Tôi không nhớ nổi đã xảy ra chuyện gì. Vùng giữa trán và xung quanh mắt rất mỏi, tôi từ từ mở mắt ra, vẫn là một màu đen kịt. Màu đen kịt đó hoàn toàn không giống như lúc mình ở trong bóng tối mà là một cảm giác vô cùng lạ, chưa từng có từ trước tới nay. Tôi cố gắng lắc đầu dụi mắt liên tục, vẫn không có gì thay đổi. Mãi lâu sau, tôi mới hiểu ra vấn đề, tôi đã không còn nhìn thấy gì nữa. Tôi đã bị mù! Trước biến cố bất ngờ, tôi hoảng hốt gào thét ầm ĩ. Tôi không nhớ lúc đó mình đã làm những gì, chỉ biết rằng tôi kêu gào như một người điên, như thể chỉ có gào thét như vậy mới giúp tôi bớt đi cảm giác sợ hãi. Tôi vừa gào thét điên cuồng vừa chống tay để ngồi thẳng người dậy. Chợt có bàn tay ấn vai tôi xuống. Tôi càng ra sức giãy giụa, bàn tay đó lại càng ấn mạnh hơn. Cùng lúc đó, tôi nghe thấy giọng nói của bố: - Vi Vi, con bình tĩnh, bình tĩnh lại đi! Tôi thở hắt ra, nắm chặt lấy tay bố, hỏi dồn: - Bố, bố, có đúng là bố không, đúng là bố không? Con… con làm sao thế hả bố, con không nhìn thấy gì, không thấy gì hết, tại sao con không nhìn thấy gì hết… Bố vẫn giữ chặt lấy vai tôi chưa vội trả lời ngay, chỉ đến khi tôi giục giã thêm vài tiếng, tinh thần đã tương đối ổn định, ông mới nói: - Vi Vi à, đừng sốt ruột, con đừng sốt ruột, bây giờ con đang ở bệnh viện. Bác sĩ dự đoán con có thể sẽ không nhìn thấy gì trong một thời gian, do bị sốc bất ngờ nên ảnh hưởng đến thần kinh thị giác. Nhưng con đừng sợ, đó chỉ là tạm thời không nhìn thấy thôi, điều trị một thời gian thị giác con sẽ hồi phục trở lại. Nghe bố nói vậy, tôi thấy yên tâm hơn, thở phào nhẹ nhõm và bắt đầu bình tĩnh trở lại. Nhưng ngay lập tức một cảm giác sợ hãi ghê gớm lại ùa đến, cảm giác sợ hãi đó không phải do không nhìn thấy ánh sáng, mà là đột nhiên tôi nhớ đến đôi giày mình nhìn thấy trước khi ngất lịm đi. Cảm giác lạnh thấu xương, tôi túm chặt lấy tay bố, run rẩy hỏi ông: - Bố, Viễn… Viễn Chinh… Bố tôi lặng im, nhẹ nhàng ấn tôi nằm xuống, thở dài một tiếng rồi mới kể lại cho tôi toàn bộ quá trình sự việc xảy ra. Nội dung dưới đây là tất cả những gì tổng hợp lại theo lời kể của nhân chứng, hình ảnh từ camera giámsát và kết luận điều tra của cảnh sát. Phòng tranh panorama trong nhà tưởng niệm chiến dịch Liêu Thẩm mang kiến trúc hình trụ tròn dựng đứng, hình dáng giống như lô cốt, cao to hùng vĩ, bức tranh panorama khổng lồ được treo vòng quanh tường, xung quanh sử dụng hiệu ứng âm thanh ánh sáng kỹ thuật cao, tái hiện sinh động cuộc tiến công thành Cẩm Châu vĩ đại hơn nửa thế kỷ trước. Để tạo thuận lợi cho du khách tham quan, ở chính giữa phòng tranh có xây một đài ngắm tranh hình tròn, xung quanh lắp lan can bảo vệ bằng inox cao hơn một mét. Hôm xảy ra vụ án là cuối tuần, lại gần đến ngày Thành lập Quân đội mùng 1 tháng 8, vì thế du khách tham quan rất đông, đứng chật kín cả đài ngắm tranh. La Viễn Chinh từ cầu thang bước lên, cố lách người len vào trong, tay phải cầm máy ảnh kỹ thuật số, loay hoay tìm kiếm. Rất nhanh, anh tìm được cho mình một vị trí lý tưởng, mở máy ảnh ra ngắm một lúc rồi bắt đầu chụp lại khu vực đó. Chụp được khoảng hai ba tấm, anh chợt bỏ máy ảnh xuống, hai tay bám chặt lan can bảo vệ, cố nhoài người ra nhìn chằm chằm vào phía trước. Được một lúc, anh bỗng quay ngoắt người lại, sắc mặt hoảng hốt, rút điện thoại ra vừa bấm số vừa bước nhanh về phía cầu thang. Đúng lúc này, có một đoàn khách du lịch rất đông từ cầu thang đang ào lên, ngay lập tức hình ảnh La Viễn Chinh bị che khuất, tiếp theo trong đoàn khách có tiếng kêu thất thanh sợ hãi, du khách hoảng hốt lùi ra bốn phía, tạo thành một vòng tròn ở giữa. Camera còn kịp ghi lại hình ảnh La Viễn Chinh nằm trên mặt đất, ngực trái bị con dao hoa quả đâm khá sâu, lút đến tận chuôi, máu chảy ra lênh láng từ vết đâm. Hai mắt anh mở trừng trừng, mặt mày cứng đờ, nhưng tứ chi vẫn không ngừng giật giật. Thấy xảy ra án mạng, đám du khách hét lên sợ hãi, chạy như ong vỡ tổ xuống cầu thang khiến hiện trường càng thêm hỗn loạn. Một vài nhân viên phòng tranh vội vàng chạy đến xem tình hình, rồi ngay lập tức gọi điện báo cảnh sát. Ít phút sau, đội cảnh sát hình sự Linh Hà đã có mặt để làm nhiệm vụ giải tán đám đông, phong tỏa hiện trường. Lúc này La Viễn Chinh đã chính thức tắt thở, qua khám nghiệm sơ bộ tử thi, ngực trái bị một nhát dao đâm sâu vào tim, khiến anh chết ngay lập tức. Khoảng mười phút sau thì tôi đến hiện trường, do bị sốc nặng nên bất tỉnh tại chỗ. Tuy lúc nhìn thấy La Viễn Chinh, tôi đã thoáng đoán được kết cục sẽ là như vậy, nhưng vẫn nhất quyết không muốn tin đó là sự thật, nay những lời nói của bố đã đâm toạc vết thương trong lòng, khiến tôi như đứt từng khúc ruột, đau đớn tột cùng. Tôi gào khóc thảm thiết: -Không, không… bố lừa con, bố lừa con… Viễn Chinh chưa chết, Viễn Chinh chưa chết… Không đợi bố kịp nói gì, tôi vung chăn ngồi bật dậy, nhảy xuống giường, hai tay khua loạn xạ như muốn chạy ra ngoài. Tôi như con ruồi mất đầu, cứ thế lao ra tứ phía, húc đổ bao nhiêu đồ đạc trong phòng nhưng lại không hề cảm thấy đau đớn. Lúc đó tôi gần như phát điên, trong đầu chỉ quanh quẩn một ý nghĩ: Viễn Chinh chưa chết, Viễn Chinh chưa chết, tôi nhất định phải tìm được anh. Bố tôi đuổi theo phía sau, ôm chặt lấy tôi, van vỉ: - Vi Vi, con bình tĩnh lại… bình tĩnh lại đi… được không… Tôi cố dùng toàn bộ sức lực của bản thân để thoát khỏi bàn tay của bố, vừa khóc vừa gào: - Không… không… Viễn Chinh chưa chết, Viễn Chinh vẫn chưa chết… Đúng lúc này, tôi nghe có tiếng mở cửa, tiếp đó là tiếng bước chân dồn dập, có vẻ như rất nhiều người từ ngoài chạy vào, bọn họ chân năm tay mười giữ chặt lấy tôi khiêng lên giường. Giọng một cô gái vang lên bên tai tôi: - Bệnh nhân tinh thần bất ổn, phải tiêm thuốc an thần ngay! Tiếp ngay sau đó, tôi cảm giác như bị ai đó vén tay áo, rồi mũi kim tiêm lạnh ngắt đâm ngay vào cổ tay. Tôi hét tướng lên, ra sức giãy giụa nhưng vô ích, vô số bàn tay giữ chặt lấy tôi, không thể động đậy được gì. Vào đúng khoảnh khắc tinh thần hoảng loạn sắp bị khống chế, chẳng hiểu sao tôi đột nhiên nhớ đến một chuyện: Sau khi chia tay La Viễn Chinh, đầu tiên tôi đến nhà bố mẹ để lấy chìa khóa, sau đó đến nhà cậu để lấy vật mẫu, cuối cùng gửi mẫu đến đơn vị để làm xét nghiệm, tôi còn ngồi ở đó một lúc, tất cả mất khoảng hai tiếng đồng hồ. Lúc tôi đến phòng tranh panorama là lúc La Viễn Chinh vừa bị giết hại khoảng mười phút. Nhưng anh và tôi ra khỏi nhà cùng lúc, nhà lại cách phòng tranh không xa, tại sao anh chỉ đến trước tôi vài phút như vậy? Rốt cuộc anh đã nhìn thấy gì, có phải anh định gọi điện cho tôi… Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy vô cùng choáng váng, mọi nghi ngờ và đau khổ tự nhiên biến mất hoàn toàn, mắt tôi nhắm lại, cứ thế chẳng còn biết gì nữa. Tôi ngủ mê mệt, giấc ngủ như kéo dài hàng mấy thế kỉ. Khi mở mắt, tôi cảm thấy thị lực đã hồi phục khá nhiều, tôi nhìn thấy bố và hai người bạn thân nhất ngồi bên cạnh giường, nhìn tôi đầy lo lắng. Tôi mừng quá, chớp chớp mắt, vừa định mở miệng ra gọi thì chợt nhớ lại những nghi ngờ trong đầu trước khi chìm vào giấc ngủ. Tại sao hung thủ lại biết rõ hành động của chúng tôi như trong lòng bàn tay như thế, liệu tôi có phải là đối tượng bị hại tiếp theo không? Rồi một ý nghĩ xoẹt qua đầu, liệu có phải bên cạnh tôi vẫn luôn có một đôi mắt theo dõi và từng giờ từng phút chờ đợi… Ý nghĩ đó không thể phán đoán bằng lý trí, nhưng nó lại thật đến mức đáng sợ, xuất phát từ ý thức bảo vệ bản thân, tôi liền tiện mồm chuyển chủ đề: - Tôi, tại sao tôi… tại sao vẫn không nhìn thấy, bố ơi… bố ơi… bố đâu rồi… Tôi hoang mang nhìn lên trần nhà, đưa hai tay ra khua khoắng kiếm tìm. Mãi đến hôm nay, nghĩ lại quyết định đó, tôi thấy hoàn toàn chính xác. Nếu không giả vờ bị mù, rất có thể cả đời này tôi cũng không biết được chân tướng của sự việc. Thế nhưng, để tìm ra chân tướng của sự việc, tôi cũng đã phải hi sinh rất nhiều, rất nhiều… Tôi nằm viện ba ngày, đến sáng ngày thứ tư, sau khi kiểm tra tổng thể xong, tôi được xuất viện chuyển về ở nhà bố mẹ. Đóng kịch phải đóng từ đầu đến cuối, lúc này mọi hành động của tôi đều phải có người trợ giúp. Sợ mẹ không chịu nổi cú sốc, tôi và bố quyết định không nói thật với bà, chỉ nói rằng La Viễn Chinh được cơ quan cử đi học bồi dưỡng ở Bắc Kinh, nửa năm mới về. Còn về đôi mắt của tôi, máu chèn vào thần kinh thị giác gây chứng mù tạm thời, cần tĩnh dưỡng thời gian dài. Mẹ tôi không nhận ra điều gì bất thường, chỉ luôn miệng trách mắng tôi làm việc không cẩn thận, coi thường mạng sống, mỗi ngày chỉ biết lao đầu ra ngoài đường, sớm muộn gì cũng xảy ra chuyện, nên sớmchuyển về công tác tại văn phòng, nếu không chẳng biết đến bao giờ bà mới được bế cháu ngoại. Nghe mẹ cằn nhằn như vậy, lòng tôi quặn đau mà không dám biểu lộ ra mặt, chỉ biết âm thầm chịu đựng trong lòng, cảm giác đó thực sự không dễ chịu chút nào. Người xưa vẫn nói “vô cảm nhìn đời”, tình hình của tôi lúc này đúng là như vậy. Sau khi hay tin, rất đông anh em trong đơn vị đến thăm hỏi tôi, mặc dù tôi nhìn thấy rất rõ, nhưng họ lại tưởng tôi không nhìn thấy gì hết. Những người bạn tốt thì băn khoăn lo lắng, những đồng nghiệp bình thường thì phụ họa thêm vài ba câu, những người xấu bụng thì khẩu phật tâm xà, nhìn biểu cảm của họ kẻ giả người thật, nếu không phải trong lòng tôi đang chịu một áp lực lớn thì đây chắc hẳn là một màn kịch rất hay ho. Lúc đội trưởng Mã Vân Vĩ đến thăm, tôi đã do dự rất lâu, cân nhắc mặt lợi và mặt hại, cuối cùng thành thật báo cáo toàn bộ quá trình sự việc. Tuy nhiên, tôi cố tình không nhắc đến những phán đoán cá nhân, nhất là việc nghi ngờ có nội gián. Bởi vì tôi nhận ra mình bây giờ đã rơi vào một vòng tròn lớn, mỗi bước đi đều là những chiếc bẫy giăng sẵn, bất cứ lúc nào cũng có thể đe dọa tính mạng, thực sự tôi không thể tùy tiện tin tưởng bất cứ ai. Nghe tôi thuật lại, Mã Vân Vĩ hết sức kinh ngạc, ngay lúc đó quyết định khi về sẽ lập tức trình báo lên lãnh đạo Sở công an, vụ án này nhất định phải điều tra đến cùng. Trước khi về, ông vỗ vai tôi, dặn dò đừng quá đau buồn, phải giữ gìn sức khỏe, không được nghĩ ngợi lung tung, mọi việc cứ giao cho tổ chức. Tôi khẽ gật đầu, tỏ vẻ tuân lệnh, nhưng trong lòng rất không phục tổ chức… tổ chức thực sự có tác dụng không? Mấy ngày sau, Phùng Siêu làm nhiệm vụ từ Hohhot[1]trở về, nghe mọi người kể tôi xảy ra chuyện liền đem theo rất nhiều đồ ăn dinh dưỡng đến thăm. Tuy không có quá nhiều lời hỏi thăm thân mật nhưng nhìn thái độ của anh tôi nhận ra rằng anh thực sự rất quan tâm đến tôi, nếu không muốn nói đây chính là lý do mà đến tận bây giờ anh vẫn chưa kết hôn. [1] Tức là Hòa Hạo Đặc, một thành phố thuộc Nội Mông, Trung Quốc. Nhìn ánh mắt quan tâm ân cần của Phùng Siêu, giây phút đó tôi thấy lòng mình thực sự ấm áp, thực sự rất cảm động, suýt chút nữa thì tiết lộ chuyện tôi không bị mù. Nhưng ngay lập tức tôi lại cố kìm chế bản thân bởi không muốn cuốn anh vào chuyện này, tôi không biết vụ án này lớn đến đâu và còn bao nhiêu người phải chết vì nó. Do tôi cứ nằn nì yêu cầu, Phùng Siêu đành lái xe đưa tôi đến đội cảnh sát, các anh em trong đội thấy tôi xuất hiện thì vô cùng ngạc nhiên, để tránh bị mọi người nghi ngờ, tôi chỉ nói muốn đến tìm hiểu vụ án tiến triển đến đâu thôi. Kỹ thuật viên phụ trách xét nghiệm cho tôi biết qua so sánh đối chiếu mẫu ADN, kết cấu ADN của mẫu da và mẫu chân nang tóc là đồng nhất, đều là tổ chức tế bào trong cơ thể cậu. Mã Vân Vĩ luôn miệng an ủi tôi, nói rằng đảng ủy công an thành phố rất coi trọng vụ án này, các lãnh đạo đã ra lệnh thành lập tổ chuyên án đặc biệt, mọi người đang dốc toàn lực tiến hành điều tra, nhưng do tình tiết vụ án khá phức tạp lại thiếu những chứng cứ cần thiết nên trước mắt vẫn chưa thu được kết quả gì. Đồng thời, tôi cũng được biết La Viễn Chinh định gọi điện cho tôi lúc ở phòng tranh panorama, điện thoại anh còn lưu số 1350 - chính là bốn số đầu trong dãy số điện thoại của tôi. Nghe được những thông tin này, tôi khẽ gật đầu, tuyệt nhiên không tỏ thái độ gì, sau đó yêu cầu họ bật lại đoạn băng ghi hình của camera giám sát phòng tranh panorama, và lý do tôi đưa ra điều này là: - Ở đó có chồng tôi, dù không nhìn thấy gì nhưng tôi vẫn muốn nghe những âm thanh cuối cùng của anh ấy. Mã Vân Vĩ đồng ý. Một đồng chí ôm chiếc laptop tới, hình ảnh trong đoạn băng ghi hình dần hiện ra trên màn hình, và ngay lập tức vang lên tiếng người tiếng súng ầm ĩ náo loạn hiện trường. Tôi hít một hơi dài, ôm chặt lấy vai, làm ra vẻ hoang mang hoảng sợ, giả bộ nghiêng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ như đang chú ý lắng nghe, nhưng tia mắt thì không rời khỏi hình ảnh trên màn hình. Tôi nhìn thấy La Viễn Chinh bước lên từ phía cầu thang… Tôi thấy anh tìm kiếm khắp nơi… Tôi thấy anh chụp ảnh lia lịa… Tôi thấy anh rút điện thoại ra… Tôi thấy anh bị một đoàn khách che lấp… Tôi thấy anh đau khổ nằm trên mặt đất… Tôi cắn chặt môi, khóc không thành tiếng, trái tim như bị cào xé từng mảnh, đau đớn tột cùng. Đó là những hình ảnh cuối cùng mà người chồng yêu dấu của tôi còn lưu lại trên cõi đời, từ nay về sau tôi sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy anh nữa… Đột nhiên, tôi thấy một gương mặt quen quen… Trong đoạn băng ghi hình, một người đàn ông lướt qua chỗ La Viễn Chinh ngã xuống, trong một khoảnh khắc đầu hắn vừa vặn hướng về phía camera, do thẳng hướng đèn nên khuôn mặt của hắn rõ mồn một. Chính là gã tài xế xe bán tải gây tai nạn rồi bỏ trốn tối hôm đó. Trong phòng panorama, hệ thống đèn chiếu sáng đều được bố trí đằng sau góc tranh, vòm nóc chỉ có mười mấy chiếc đèn lead nhỏ, ánh đèn ở vị trí trung tâm được điều chỉnh có màu vàng sẫm, từa tựa giống với thứ ánh sáng nhập nhoạng ở hiện trường xảy ra vụ tai nạn xe, do đó tôi dám khẳng định chắc chắn rằng mình không nhìn nhầm. Người tôi run lẩy bẩy, kích động đến nỗi suýt chút nữa ôm chầm lấy chiếc laptop mà hét to lên rằng: “Là hắn, là hắn, hắn chính là hung thủ, chính hắn đã giết chồng tôi!”. Nhưng giây phút đó tôi đang đóng giả một người mù, làm sao có thể hét lên như vậy chứ. Tôi cắn răng nuốt hàng nước mắt chực trào ra, tay nắm chặt lại, móng tay cắm chặt vào lòng bàn tay đau buốt. Mẹ kiếp, tên khốn! Rồi ngươi sẽ phải trả giá! Tôi trở về nhà, lòng đầy oán hận, sau khi đuổi được Phùng Siêu về, tôi khóa chặt cửa phòng ngủ, lao lên giường nằm khóc thầm. Vừa khóc được một lúc, tôi chợt giật mình, nếu bên ngoài có kẻ theo dõi thì hành động này của tôi liệu có khiến hắn nghi ngờ? Để tránh điều này, tôi lập tức lau khô nước mắt, đứng dậy bước xuống giường, mò mẫm đi đến bên cửa sổ, vặn người mệt mỏi, uể oải ngáp vài cái ra vẻ vô cùng buồn ngủ, hai tay khua khoắng vờ ngu ngơ kéo rèm cửa lại. Trong phòng lập tức tối om, tôi nhanh chóng ngồi vào bàn, mở ngăn kéo ra tìm giấy bút, nhân lúc đầu óc còn tỉnh táo, tôi liệt kê từng diễn tiến sự việc và những điểm nghi vấn. Đã đến lúc cần phải tranh thủ thời gian để suy nghĩ. Ý tưởng trong đầu cứ thể tuôn ra không ngừng, tôi viết liền một mạch: 1. Hành động của cậu trước lúc chết hết sức bất thường, nhất quyết không cho người ngoài biết tin, còn yêu cầu hỏa thiêu và đốt hết tất cả các bức tranh, chứng tỏ trên cơ thể và trong các bức tranh chắc chắn chứa bí mật gì đó; hơn nữa lúc đó thái độ của cậu rất quyết liệt chứng tỏ bí mật đó vô cùng quan trọng. 2. Tối hôm làm ma cậu, có người cố tình tạo vụ tai nạn xe thu hút sự chú ý của bạn bè người thân, nhân cơ hội đó lóc đi mảnh da lưng của cậu, sau đó bắt trói ông Mã Trấn Quốc là người đã liệm trang cho cậu, chứng tỏ chúng đã luôn theo dõi nhất cử nhất động của chúng tôi, hơn nữa chúng còn không muốn cho người khác biết chân tướng bí mật. 3. Tôi và La Viễn Chinh vô tình phát hiện ra trong bức tranh panorama thu nhỏ có một mảnh da người. Khi tôi đem mảnh da đó đến đội cảnh sát để làm xét nghiệm, La Viễn Chinh đã đi đến phòng tranh kiểm tra, sau đó thì bị giết hại, hung thủ chính là gã tài xế xe bán tải trong vụ tai nạn tối hôm đó. Tôi giơ tờ giấy lên, đọc lại một lượt từ đầu đến cuối, đây chính là toàn bộ quá trình sự việc, không bỏ sót điều gì, nhưng bên trong sự việc tưởng chừng như rõ rành rành này lại ẩn chứa quá nhiều điều khó lý giải. Tôi ngả người ra dựa vào thành ghế, nhắm nghiền mắt lại, dùng ngón tay trỏ ấn mạnh huyệt thái dương, cảm giác đau nhè nhẹ đã kích thích đầu óc đang rối bời trở nên tỉnh táo, giúp tôi phân tích rõ từng vấn đề. Một là, trên cơ thể cậu và trong những bức tranh rốt cuộc ẩn chứa bí mật gì? Theo các ký ức của tôi, bức tranh da người đó được cậu vẽ lại năm 1989 sau khi hoàn thành bức tranh panorama toàn cảnh, cũng có nghĩa là cùng năm đó cậu đã quyết định lóc da mình. Theo quan sát, trước mắt chỉ có thể nhận ra hình ảnh người chiến sĩ ấy được xăm bằng kỹ thuật hết sức tinh xảo. Tại sao cậu lại xăm hình người chiến sĩ giải phóng quân giống hệt mình trên người, và sau đó lại chèn nó vào trong bức tranh sao chép của mình, có phải cậu muốn ám chỉ điều gì không? Hai là, hung thủ giấu mặt kia muốn gì? Tuy lúc đầu tôi nghĩ chúng không muốn để lọt bí mật này ra ngoài, nhưng nghĩ kỹ lại, hình như không phải vậy. Một là, bức tranh này đã ở bên cạnh cậu tôi hơn hai mươi năm, tại sao chúng không hành động từ sớm, khó có chuyện sau khi cậu mất chúng mới biết chuyện này. Hai là, trước lúc ra đi cậu có trăng trối, nhất định bắt chúng tôi phải hỏa thiêu và đốt toàn bộ các bức tranh, chứng tỏ cậu đã quyết định hủy hết bí mật đó đi. Đúng lúc này bọn người đó lại tiến hành lóc da cậu, đây không những là hành động thừa, mà còn khiến người ta nghi ngờ. Ba là, thầy liệm trang Mã Trấn Quốc từng tắm rửa hóa trang cho cậu, nếu phát hiện thấy điều gì bất thường, tại sao ông ấy không nói với người nhà chúng tôi, điều này chứng tỏ cơ thể cậu nhìn vẫn hoàn toàn bình thường, chắc không có gì đặc biệt, nhưng nếu vậy thì bọn người đó tại sao phải bắt trói ông ấy? Bốn là, sau khi phát hiện ra cậu bị lóc da, tôi cùng Phùng Siêu và mấy người đã lấy vải trắng quấn lại, lúc đó tôi vẫn nhớ rõ ràng ngoài vết thương sau lưng, trên người cậu không còn bết kì vết thương hay vết sẹo nào khác. Cứ coi như mảnh da đó ẩn giấu bí mật, nhưng cậu đã lấy nó để chèn vào bức tranh rồi, vậy thì bọn người kia tại sao lại lóc da ở vị trí cũ, có phải hành động đó có mục đích gì không? Ba là, hôm La Viễn Chinh bị sát hại đã xảy ra chuyện gì? Vốn dĩ La Viễn Chinh phải đi thẳng đến phòng tranh, tại sao giữa đường lại bị gián đoạn một thời gian khá dài như thế, khoảng thời gian đó anh đã đi đâu, tại sao phải giấu tôi? Trong camera giám sát ghi lại toàn bộ quá trình La Viễn Chinh bị hại, tôi phát hiện ra đã có phút giây anh ngập ngừng, có lẽ do phát hiện ra một vài điều bất thường trong bức tranh, sau đó anh rút điện thoại định gọi cho tôi, lúc đó rốt cuộc anh đã nhìn thấy gì và muốn nói gì với tôi? Xoay quanh những nghi vấn kỳ lạ này, tôi suy nghĩ mãi, muốn đi sâu lý giải từng điều một, nhưng dù có nghĩ nát óc vẫn không ra được điều gì. Quanh đi quanh lại thì trời đã tối om, ánh sáng trong phòng vô cùng yếu ớt, tôi thò tay vào túi móc điện thoại ra, mở khóa bàn phím, xem giờ. Màn hình bật sáng, hình nền là ảnh cưới của tôi và La Viễn Chinh. Nhìn đôi mắt sáng rực, nụ cười hạnh phúc của anh; nước mắt tôi chợt ứa ra, tim thắt lại. Không đúng, không đúng! Tôi chợt nắm chặt lấy điện thoại, nhìn chăm chăm vào màn hình, bấm nhanh vài nút trên bàn phím và chợt bừng tỉnh. Tôi đã bỏ sót một chi tiết vô cùng quan trọng. La Viễn Chinh là giảng viên toán cao cấp, anh vốn có những năng khiếu bẩm sinh với các con số, thậmchí có thể nhìn qua là nhớ. Hơn nữa, tính cách anh hướng nội nên rất ít bạn bè, điện thoại không bao giờ lưu số của ai mà chỉ nhớ trong đầu; duy chỉ có tôi là ngoại lệ, đứng đầu tiên và cũng là cuối cùng trong danh bạ của anh. Vậy thì hôm đó trong phòng tranh panorama, nếu thực sự định gọi điện cho tôi tại sao anh không trực tiếp bấm nút gọi mà lại bấm số? Trong khi cả tôi và anh đều dùng điện thoại Nokia E71, nút quay số nhanh nằm trên bàn phím, giữa bấm nút gọi và tra tìm danh bạ, cái nào nhanh cái nào chậm không cần nói cũng biết. Thử nghĩ xem, một người trong tình trạng cấp bách, thao tác phản xạ tự nhiên chắc chắn phải chọn giải pháp nhanh và tiện lợi chứ không thể có hành động thừa. Tôi chợt đứng thẳng người, đẩy ghế ra, hai tay túm chặt lấy điện thoại, bắt đầu đi đi lại lại quanh phòng, những suy đoán quay mòng mòng trong đầu. Bấm số… bấm số… bấm số… tại sao lại là bấm số? Động tác thừa này chỉ có một cách lý giải duy nhất, số điện thoại anh định gọi chưa chắc là số của tôi, mà là của một người khác, có điều trùng hợp là số của điện thoại đó cũng bắt đầu bằng số 1350 giống tôi. Số điện thoại có tất cả mười một chữ số, ba số đầu là mã số nhà cung cấp, bốn số giữa là mã vùng, bốn số cuối là số phân biệt khách hàng. Vì La Viễn Chinh chưa bấm hết số nên hiện tại tôi chỉ có thể xác định rằng người được gọi sử dụng dịch vụ mạng Di Động[2], ngoài ra không có thêm thông tin gì khác, điều đó cũng có nghĩa là người được gọi có thể là người ở bất kỳ tỉnh thành nào. [2] Trung Quốc có hai mạng lớn là mạng Di Động và mạng Liên Thông. Người này là ai, là nam hay nữ, tại sao khi phát hiện có điều bất thường, La Viễn Chinh lại gọi cho người đó? Nghĩ đến đây, tôi bỗng nhớ đến chiếc xe bán tải nội địa và chiếc Accord màu đen, biển số xe chúng dùng đều của tỉnh Thẩm Dương, mặc dù bên điều tra phát hiện đó là biển giả nhưng tại sao chúng phải lấy biển ở tỉnh xa mà không lấy ngay biển số của Cẩm Châu? Bọn người đó rốt cuộc đến từ Thẩm Dương hay chúng cố ý tung hỏa mù để đánh lạc hướng cảnh sát? Tiếp tục đi sâu phân tích thủ đoạn gây án của chúng, đúng như đã suy đoán trước đó, bên cạnh tôi phải luôn có đôi mắt theo sát nhất cử nhất động, như vậy mới có thể đạt đến độ chính xác đến từng chi tiết như vậy. Thế nhưng từ lúc cậu mất đến lúc làm ma chay cùng lắm cũng chỉ cách nhau một ngày, nếu kế hoạch của chúng thực sự đã được lên một cách chu đáo, hơn nữa còn nắm chắc trước toàn bộ tình hình thì đáng lẽ chúng nên làm biển số Cẩm Châu giả, nhưng ngược lại chúng lại sử dụng biển số Thẩm Dương, dùng biển số tỉnh xa thay cho tỉnh gần, như vậy có thể chứng tỏ một điều: Bọn chúng không có âm mưu từ trước mà cũng mới biết không lâu, do thời gian gấp gáp nên đành tranh thủ những thuận lợi nhất định có được, trực tiếp dùng biển số giả Thẩm Dương, như vậy ở mức độ nào đó đã chứng tỏ được rằng bọn chúng chắc chắn đến từ Thẩm Dương. Nhưng một vấn đề nữa lại xuất hiện, cậu tôi là người Cẩm Châu chính gốc, trừ mấy năm học tại Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn, thì hầu như cả đời đều sinh sống tại Cẩm Châu. Cho dù bình thường có đi các tỉnh khác tổ chức triển lãm, diễn thuyết giảng bài thì cũng không ở lại lâu. Đám hung thủ Thẩm Dương sao phải nhằm vào cậu chứ? Muôn vàn những thắc mắc như hàng nghìn hàng vạn con thiêu thân bay qua bay lại trong đầu tôi, mặc dù đã có thể nghĩ thông được một số điều, nhưng đa phần tôi lại không nghĩ thêm được gì. Đau khổ suy nghĩ hồi lâu, tôi đột nhiên véo mạnh vào đùi tự rủa thầm: Đồ ngốc, tại sao mi lại quên mất một việc quan trọng nhất chứ! Tôi lập tức nhấc điện thoại lên, định bấm số gọi lại, nhưng đã kịp dừng tay. Không được, chuyện này tôi không thể giải quyết một mình, nhất định phải tìm một người cùng phối hợp. Nhưng tìm ai bây giờ, bên cạnh tôi ai có thể tin tưởng được, nói chính xác là người này không những phải đáng tin cậy mà còn phải có năng lực làm việc. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi quyết định gọi vào số máy của Phùng Siêu. Tôi cố gắng giữ giọng điệu bình thường mời Phùng Siêu đến nhà ăn cơm, nói rằng có một số chuyện muốn tâm sự với anh. Nghe tôi nói vậy, Phùng Siêu rất lấy làm lạ, nhưng anh vẫn nhận lời, nói là sẽ đến ngay. Lúc Phùng Siêu đến, trời đã tối hẳn. Sau khi ăn xong bữa tối vô vị, tôi dẫn anh vào phòng mình rồi khép nhẹ cửa. Quay lại thấy Phùng Siêu mặt đỏ ửng, dáng vẻ lúng túng, tôi thầm thấy buồn cười, bèn nói với Phùng Siêu nếu thấy trong phòng tối quá thì có thể bật điện. Phùng Siêu gật đầu lia lịa, vội với tay bật công tắc đèn, ngồi nép một bên nhìn tôi. Tôi ngồi đối diện Phùng Siêu, sắp lại mọi ý trong đầu rồi đi thẳng vào vấn đề, nói lần này tìm anh là muốn nhờ làm giúp ba việc: Một là điều tra xem có những ai đến viếng đám tang cậu tôi, đặc biệt là khách Thẩm Dương, càng chi tiết càng tốt; hai là đến nhà tôi lấy bức tranh sơn dầu mô phỏng cùng với hình chiến sĩ bằng da người đang để ở sở cảnh sát, đối chiếu kỹ với vị trí tương ứng trong bức tranh nguyên bản tại phòng tranh panorama, tốt nhất nên chụp lại ảnh để tiện bề đối chiếu; ba là dựa vào đặc điểm hình xămtrên mảnh da, tìm hiểu xem nó được xăm bởi bàn tay của nghệ nhân nào. Nói xong, tôi mở ngăn kéo tủ đầu giường, lần tìm danh sách đến viếng đám ma cậu hôm đó, rồi móc chùm chìa khóa nhà đưa cho Phùng Siêu, nói: - Bây giờ mắt em không nhìn thấy gì, cho nên rất nhiều việc không thể làm được, anh là bạn tốt nhất của em, mọi chuyện đành phiền anh giúp. Nên nhớ rằng, phải hết sức cẩn thận, giữ kín bí mật, chưa thực sự cần thiết thì không được cho người thứ ba ngoài anh và em biết. Phùng Siêu ngồi phía sau, ánh mắt lấp lánh ngắm tôi hồi lâu. Nhìn nét mặt, tôi có thể nhận ra anh đang nghi ngờ và hi vọng tôi sẽ đưa ra lời giải thích hợp lý. Nhưng tôi vẫn vờ như không thấy gì, vô cảm nhìn về phía trước, lặng yên đợi câu trả lời của anh. Thấy tôi mãi không lên tiếng, Phùng Siêu đành thở dài, nhận lời với tôi, sau đó nhận lấy tập danh sách rồi quay người đi. Vài phút sau, có tiếng anh chào bố mẹ tôi dưới phòng khách, tiếp đó là tiếng đóng cửa. Tôi thở dài, nói thầm trong lòng: Xin lỗi anh! Tôi nhanh chóng đứng dậy tắt đèn, khóa cửa phòng, nói vọng ra ngoài: “Con ngủ đây!” rồi tìm sợi dây chun vấn tóc lên như bà già, thay bộ quần áo của mẹ đã chuẩn bị sẵn, đi đôi giày du lịch gọn nhẹ, cuối cùng cẩn thận giắt khẩu súng vào sau lưng. Ngắm lại mình một lượt trong gương, thấy không có sơ suất gì, tôi liền đến bên cửa sổ, vén rèm đẩy cửa chống muỗi lên, nhẹ nhàng nhảy ra ngoài, lẩn vào bóng đêm. Nhà bố mẹ tôi ở ngay tầng một của khu chung cư, bên ngoài là hàng cây cao to rậm rạp, rất phù hợp để ẩn nấp. Tôi nghĩ chắc sẽ không bị ai phát hiện ra, mà cho dù có người theo dõi ở bên ngoài thì sự xuất hiện của Phùng Siêu cũng dư sức thu hút bọn chúng, nhất là với cuốn sổ danh sách những người đến phúng viếng dày cộp trên tay. Tôi khom lưng, bước thêm vài bước rồi nhảy xuống gần gốc đào, đứng nép sát vào thân cây, thò đầu ra quan sát tình hình xung quanh. Ánh trăng xuyên qua kẽ lá lọt xuống, những giọt sương đêm trên đám cỏ được ánh trăng phản chiếu sáng lấp lánh, mùi cỏ mới cắt xộc vào mũi ngai ngái, ngoài tiếng côn trùng kêu rin rít, bốn bề đều vô cùng yên ắng. Sau khi chắc chắn xung quanh không có người, tôi lần theo bóng tối tòa nhà, chạy nhanh đến rìa ngoài khu chung cư, ở đó có một bờ tường gạch đỏ thấp. Tôi giẫm vào một hốc rỗng, lấy sức đu người lên, lách qua hàng rào sắt dựng phía trên, nhảy xuống vỉa hè bên ngoài. Chân vừa chạm đất, tôi liền ngồi thụp xuống chân tường, quay đầu nhìn về phía cổng chính khu chung cư. Chiếc Polo màu xanh lam của Phùng Siêu vừa từ cổng phóng ra, rẽ trái rồi từ từ tăng tốc, lao đi trên con đường sáng rực đèn. Tôi đứng ngay dậy chạy ra bên đường, giơ tay vẫy chiếc taxi Hạ Lợi, chui vào hàng ghế sau, hổn hển bảo tài xế bám theo nhưng không được quá gần. Sau đó kéo rèm cửa xe lên nhìn ra ngoài quan sát. Thực ra kế hoạch của tôi rất đơn giản, tức là dựa vào tình hình trước mắt, cố tình đánh lạc hướng cảnh sát để tiến hành điều tra cá nhân, mà mắt xích hết sức quan trọng lúc này chính là Phùng Siêu. Tôi muốn Phùng Siêu làm con mồi, ở vị trí tiền tuyến trong vụ án. Còn tôi sẽ luôn bí mật theo sát anh ta, xem ai là kẻ theo dõi nhất cử nhất động của tôi. Mặc dù lúc này địch ở trong tối tôi ở ngoài sáng, nhưng có một điều kiện hết sức thuật lợi hiện giờ. Tôi là một “người mù”. Hơn nữa, tôi có niềm tin tuyệt đối vào Phùng Siêu, với kinh nghiệm và năng lực của bản thân, anh thừa sức đối phó với mọi nguy hiểm có thể xảy ra, chưa kể đến việc luôn có một người ở trong bóng tối là tôi nữa! Nếu nói Phùng Siêu là ve sầu thì bọn người đó là bọ ngựa, còn tôi sẽ là chim vàng anh ở sau cùng. Chương 4: Oan nghiệt Trong bóng đêm, tôi và hắn giằng co quyết liệt, cả hai đều ra sức tấn công vào những chỗ hiểm của nhau, một bên là tiếng nước sông chảy siết, một bên lại là tiếng thở hổn hển của đối phương. Lúc này mới hơn tám giờ tối, khắp nơi trên phố đèn điện sáng rực, xe của Phùng Siêu chầm chậm hòa cùng dòng xe nườm nượp như mắc cửi. Điều này tuy có lợi cho tôi chủ động theo dõi, nhưng lại cũng dễ bị phát hiện. Tôi liên tục trở mình hết bên trái rồi bên phải, mở to mắt quan sát thật kỹ, cả quãng đường không có gì bất thường, cũng không phát hiện thấy có ai theo dõi. Xe của Phùng Siêu đi với tốc độ ổn định theo con đường Sĩ Anh hướng về phía nam, cuối cùng tiến vào sân Sở Công an thành phố. Nhìn anh cắp cuốn sổ danh sách người phúng viếng, vội vã bước lên cầu thang, một sự ấm áp lan tỏa tâm hồn tôi. Phùng Siêu quả là nhiệt tình, chưa gì anh đã muốn bắt tay vào điều tra ngay. Tôi dặn tài xế dừng xe tại điểm đón trả khách gần đó, kéo cửa kính trước lên để cách âm rồi rút điện thoại ra gọi cho Phùng Siêu. Sau khi anh bắt máy, tôi cố tình ngáp vài cái, hỏi anh với vẻ ngái ngủ: - Anh về đến nhà chưa? Phùng Siêu vui vẻ trả lời: - Chưa, anh vừa về đến đơn vị, đang định nghiên cứu qua để nắm rõ tình tiết vụ án. – Rồi anh hỏi tôi đang làm gì. Tôi vội che điện thoại, trả lời: - Em vừa tắm xong, đang nằm trên giường, sắp ngủ rồi. Em biết anh rất quan tâm đến chuyện này nhưng cũng đừng làm quá sức, chẳng nhanh chậm gì một hai ngày, anh mau về nhà đi. Trong ống nghe vang lên tiếng cười sảng khoái của Phùng Siêu: - Ha ha, lần đầu tiên thấy em dịu dàng như vậy. Được, anh biết rồi, anh sẽ về ngay, cúp máy đây nhé. Vì gần đó không có chỗ đậu xe thích hợp, mà taxi lại không thể dừng quá lâu ở điểm đón trả khách nên tôi đành xuống xe. Lúc trả tiền, tôi thấy tài xế nhìn tôi đầy nghi hoặc, chắc tại anh ta không hiểu nổi kiểu trang điểm và ăn mặc chẳng giống ai của tôi, lại còn đi theo dõi một cảnh sát nữa chứ. Đứng tại chỗ quan sát xung quanh, không phát hiện thấy điều gì bất thường, tôi liền nhanh chóng băng qua đường, đi đến công viên Cổ Tháp đối diện với Sở Công an. Công viên Cổ Tháp với siêu thị Đại Nhuận Phát, diện tích rất rộng, bao gồm cả quần thể kiến trúc chùa Đại Quảng Tế đời nhà Liêu, thông với bảo tàng Cẩm Châu ở phía bắc, tạo thành một quần thể vui chơi giải trí ngoài trời quy mô lớn. Cổ tháp chùa Đại Quảng Tế nằm sừng sững giữa công viên, được những ngọn đèn cao áp xung quanh hắt bóng sáng rực, càng tăng thêm vẻ linh thiêng huyền bí trong màn đêm bí ẩn. Lúc này, công viên đông nghịt người đến hóng mát, ai cũng nói nói cười cười rộn rã, đối lập hẳn với cảnh tĩnh mịch của cổ tháp. Tôi không vào trong mà chỉ đứng ở ngoài, lặng lẽ ngắm nhìn ngôi tháp. Bức tranh của cậu mô tả khu thành cổ Cẩm Châu với hình ảnh cổ tháp nằm ở chính giữa, căn nhà nơi bốn chiến sĩ vây quanh nằm một bên, theo như kiến trúc bên ngoài có lẽ đó chính là chùa Đại Quảng Tế. Trong đầu tôi thoáng hiện ra một liên tưởng kỳ lạ, tại sao bốn chiến sĩ ấy lại tách đoàn đến mai phục ngoài cổng chùa, lẽ nào bên trong có đội quân của Quốc Dân đảng ẩn nấp, có phải họ đang thám thính tình hình quân địch không? Tôi ngồi trên ghế đá trước cổng công viên, phẩy tay nhè nhẹ giả vờ như đang hóng mát, rồi vừa nghĩ ngợi lung tung vừa chú ý quan sát mọi động tĩnh trong sân Sở Công an. Hơn chục phút sau, Phùng Siêu bước ra khỏi tòa nhà làm việc, khởi động xe và bắt đầu chuyển bánh. Tôi vội đứng dậy bắt chiếc taxi đang chờ khách ở gần đó, tiếp tục bám theo. Suốt quãng đường không có gì bất thường. Mãi đến lúc nhìn thấy xe của Phùng Siêu tiến vào khu chung cư, tôi mới ý thức được rằng anh sắp về đến nhà. Phùng Siêu là người đàn ông độc thân, bố mẹ ở ngoại ô thành phố, một mình anh sống trong khu chung cư Lục Uyển bên hồ Linh Hà. Khu chung cư Lục Uyển là công trình góp vốn xây dựng của Sở công an, được hoàn thành hồi tháng ba, hầu như chưa có người ở, phía dưới tòa nhà chất đầy rác thải xây dựng, gần như không còn chỗ đỗ xe, đèn đường xung quanh cũng chưa lắp xong, nằm chất đống ngổn ngang. Tôi xuống xe trước một đoạn ngắn, men theo chỗ bóng tối được hắt ra từ những bức tường và tòa nhà cao tầng, cố không gây ra tiếng động, chầm chậm bám theo Phùng Siêu. Tôi thấy anh dừng xe ở cửa ngân hàng Cẩm Châu gần đó, vai khoác túi xách, kẹp cuốn sổ danh sách người phúng viếng dưới nách, sải bước về nhà. Tôi khẽ gật đầu, chắc công việc tối nay đến đây là đủ rồi. Nhưng khi tôi đang định quay về thì bỗng khựng lại. Hình như ở phía xa xa vừa lóe lên một đốm sáng rồi đột ngột tắt ngấm, trả lại bóng tối cho màn đêm. Nhiều năm rèn luyện trong nghề cảnh sát hình sự giúp tôi có sự nhạy bén tuyệt vời với ánh sáng, âmthanh và những vật chứng nhỏ. Dựa vào kinh nghiệm, đại não tôi bắt đầu phân tích rất nhanh, đốm sáng đó phát ra mà không hề có tiếng động, lại xuất hiện giữa màn đêm nên nhìn rất rõ, hơn nữa lại nằm ở vị trí tương đối thấp, vừa lóe lên đã vụt tắt, giống như ánh sáng từ bật lửa. Lẽ nào là bọn chúng, những hung thủ chưa biết mặt? Tôi vừa mừng vừa lo, vội núp sau một đống rác cao như núi, định thần lại, sau đó khom lưng, hai tay nâng tấm ván lên, từ từ thò đầu nhìn về phía đốm sáng vừa phát ra. Phía bên trái cách chừng 30 mét là một dãy ki-ốt chợ mới xây giáp mặt đường, với tấm kính chắn lớn có những vệt sơn trắng dọc ngang đủ kiểu. Phía trước mặt là vỉa hè đang xây dở, gạch lát đường chất đống hai bên, chắc là chẳng có gì. Tôi chợt nghĩ có lẽ đó là ánh sáng phản chiếu qua tấm kính chắn, nên nhẩm tính góc độ phản xạ ánh sáng, đồng thời cẩn thận xoay người nhìn về phía góc phải đối diện. Đó là quảng trường công viên nằmtrong khu chung cư, có sân bóng rổ lớn, chính giữa dựng bốn bức tượng khổng lồ, trong bóng tối không nhìn rõ chúng có hình gì. Đợi một lúc cho đôi mắt dần thích nghi với bóng tối, tôi nhận ra có một bóng đen đang nấp sau một trong số bốn bức tượng, thò nửa người ra ngoài, đầu vẫn không ngừng ngó quanh quất. Trên tấm kính chắn đối diện, thỉnh thoảng lại lóe lên đốm sáng mờ mờ, rung rung, lúc ẩn lúc hiện. Lúc này, Phùng Siêu đã sắp bước đến chân cầu thang tòa nhà, hoàn toàn không phát hiện ra điều gì bất thường phía sau lưng. Thời cơ không thể bỏ lỡ, tôi quyết định ra tay trước, nhẹ nhàng nhón chân chạy nhanh về phía quảng trường công viên. Mới chạy được nửa chừng, tôi đã thấy bóng đen đó động đậy, sau đó chạy rất nhanh về phía ngược lại, cũng không gây tiếng động gì, chắc chắn đối phương đã phát hiện ra tôi. Tôi chửi thầm: “Thằng khốn, định bỏ chạy sao, đúng là mày rồi!” rồi tăng tốc đuổi theo, bám sát đến tận cổng sau khu chung cư. Khu chung cư Lục Uyển được xây dựng sát bờ sông, phía sau là con sông Linh Hà chạy dọc thành phố Cẩm Châu. Tôi nhìn thấy bóng đen lao qua bụi cây thấp, rồi bất ngờ nhảy xuống từ bờ đê cao chừng 2 mét, tiếp đó vọng lại một tiếng chửi “mẹ kiếp”, có vẻ như hắn bị thương ở chân. Nghe giọng nói rõ ràng là đàn ông, nhưng tạm thời chưa thể đoán được ở độ tuổi nào. Tôi tiếp tục đuổi theo. Mặc dù đã chuẩn bị tâm lý trước, nhưng khi nhảy từ độ cao như vậy xuống, gót chân tôi vẫn bị va đập khá đau, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo trong bụng. Dưới bờ đê là con đường bê tông hẹp, men sát bờ sông. Con sông Linh Hà đang cuồn cuộn chảy, những con sóng ồ ạt vỗ bờ, lấp loáng ánh trăng. Tôi nghiến răng day gót chân, nhìn sang hai bên, thấy bóng đen đang tập tễnh bỏ chạy, tốc độ vẫn không hề giảm, hắn đã vượt qua đình hóng mát cách đó không xa, nhanh chóng chạy về hướng bắc. Tôi nhịn đau đứng thẳng người lên, cố hết sức rượt theo. Đuổi được hơn một trăm mét, khoảng cách hai bên dần thu hẹp lại, từ đây tôi có thể nhận rõ hắn. Qua vóc dáng có thể đoán hắn là một gã đàn ông gầy gò, thấp bé. Tôi tăng tốc áp sát đối phương rồi đưa tay phải ra tóm lấy cổ áo hắn giật mạnh về phía sau. “Soạt!” một tiếng, cổ áo đã bị xé rách, hắn vẫn lao mạnh về phía trước khiến tôi loạng choạng suýt ngã, nhưng rốt cuộc hắn cũng không thể chạy thêm được nữa. Gã đàn ông đó gầm lên một tiếng rồi đột ngột quay người lại, giơ nắm đấm đấm thẳng vào mặt tôi. Tôi vội buông tay, cúi người tránh cú đấm, tiếp đó vung hai tay kẹp chặt cổ tay, lấy đà quật hắn sang một bên. Trong khi vật lộn, nhờ ánh trăng mà tôi nhìn rõ được mắt đối phương – hắn khoảng chừng 30 tuổi, tóc cua ngắn, mũi quặp, mặt dài. Hắn ta lảo đảo mấy bước mới đứng vững, quay người lại nhìn tôi đầy hầm hè, sau đó thở hắt ra, lẩmbẩm chửi một câu: “Mày muốn chết à?” rồi lại tiếp tục xông lên. Tôi không chịu thua, đỡ đòn rồi quật hắn thêm lần nữa. Cảnh sát hình sự trông thì có vẻ oai phong lắm, nhưng thực tế trừ lúc bất đắc dĩ ra, bình thường rất ít khi một đối một với tội phạm, dù là đi tuần hay bắt tội phạm cũng đều có đồng đội, lại còn được trang bị đầy đủ vũ khí như súng, dùi cui… Mặc dù trong bụng rất run sợ, nhưng cũng may võ nghệ của tôi không đến nỗi nào, hơn nữa gã đàn ông này cao khoảng 1m68, người cũng tầm tầm, dù hắn có khỏe hơn thì cũng đang bị trẹo chân nên tôi không hề yếu thế. Trong bóng đêm, tôi và hắn giằng co quyết liệt, cả hai đều ra sức tấn công vào những chỗ hiểm của nhau; một bên là tiếng nước sông chảy xiết, một bên lại là tiếng thở hổn hển của đối phương. Đúng lúc này, lợi dụng sơ hở của tôi, hắn liền hất mạnh tay, lùi lại phía sau lấy đà vài bước rồi nhảy tùn xuống sông Linh hà, sải tay bơi nhanh về phái bờ bên kia. Tôi chửi với theo một câu “Đồ khốn!” rồi vội chạy về phái bở sông. Theo phản xạ tôi cũng vung hai tay ra trước, nhưng cuối cùng cũng kịp ngăn mình không vì kích động mà nhảy theo hắn xuống sông. Điên quá đi mất, tôi không biết bơi! ©STENT: http://www.luv-ebook.com Nhìn hắn bơi mỗi lúc một xa, tôi tức đỏ mắt, mấy lần định rút súng ra bắn. Nhưng không được! Bây giờ chính phủ đang quản chặt việc cảnh sát sử dụng vũ khí, nếu chẳng may bắn chết người thì không những mất đầu mối mà tôi chắc chắn cũng sẽ bị xử lý. Mà cho dù chỉ bắn bị thương, nhưng nhỡ may hắn yếu quá mà bị chết đuối thì tôi cũng khó tránh khỏi liên lụy. Tôi bực tức dậm chân lắc đầu, trong bụng thầm trách mình đúng là đồ con vịt! Lại còn Năm Quân Lệnh Cấm chết tiệt kia nữa, cảnh sát mang súng chỉ để giương oai sao? Nghĩ đến đây, tôi lại tự trách móc mình hồ đồ, sao không sớm rút súng khống chế hắn chứ. Tôi chỉ biết đứng nhìn gã đàn ông lùn tịt đó trèo lên bờ đối diện, hắn còn quay đầu làm động tác ra chiều đắc ý, sau đó nhanh chóng trèo lên đê, chui vào lùm cây rồi mất dạng. Không biết làm thế nào, tôi đành thở dài bất lực, miệng lẩm bẩm chửi thầm, lết đôi chân sưng phồng quay về khu chung cư Lục Uyển. Sau một hồi tìm kiếm, tôi nhặt được mẩu thuốc lá mà gã đàn ông khi nãy vứt bên cạnh bức tượng. Tôi kẹp chặt điếu thuốc giữa hai đầu ngón tay quan sát, đầu lọc màu trắng, là loại thuốc Trung Nam Hải. Tôi cố gắng không chạm vào đầu lọc, cẩn thận nhét vào túi áo. Có thể kết quả kiểm tra dấu vân tay sẽ giúp tôi tìm ra được đối tượng đó là ai. Do tâm trạng hết sức buồn chán, tôi không bắt xe mà đi bộ về, dù sao chỗ này cách nhà tôi không xa, tôi có thể tranh thủ vừa đi bộ vừa sắp xếp lại những chi tiết đang chằng chịt trong đầu. Suốt cả quãng đường, tôi cứ suy nghĩ mãi, gã đàn ông đó chắc chắn là đang theo dõi Phùng Siêu, xem ra phán đoán của tôi hoàn toàn chính xác, luôn có đối tượng nào đó đi theo tôi. Nhưng tại sao lúc trên đường lại không thấy xe bám theo chứ, lẽ nào đã sơ ý bỏ sót? Về đến khu chung cư, tôi vẫn trèo vào từ đằng cửa sổ, tránh để bố mẹ nghi ngờ. Sau khi làm vệ sinh cá nhân xong, tôi lên giường nằm vật vã mãi, gót chân vẫn nhức buốt, không thể ngủ được. Tôi thầm tính, kế hoạch của mình cũng coi như là thành công, hung thủ giấu mặt đã chuyển hướng sang theo dõi người bên cạnh tôi. Còn về trận giao tranh hoàn toàn nằm ngoài dự đoán lúc nãy, có thể với cách ăn mặc của tôi hắn sẽ không nhận ra, tuy nhiên từ nay về sau cần làm việc thận trọng hơn nữa. Trận đuổi bắt và vật lộn với hung thủ lúc nãy làm tôi tiêu hao khá nhiều sức lực, nghĩ mãi… nghĩ mãi…hai mắt bắt đầu sụp xuống, đầu óc mụ dần đi rồi từ từ chìm vào giấc ngủ. Nhưng giấc ngủ hết sức chập chờn, trước mắt tôi cứ liên tục hiện ra các khuôn mặt, lúc thì là cậu tôi, lúc thì là La Viễn Chinh, lúc lại là gã tài xế xe bán tải, rồi có lúc còn cả gã đàn ông thấp lùn. Tất cả đều nhìn tôi với ánh mắt vô cảm, mồmmấp máy như đang nói điều gì đó, nhưng tôi lại không thể nào nghe thấy tiếng của họ được. Trong giấc mơ cuối cùng, tôi chợt thấy gã đàn ông thấp lùn đi đến trước mặt tôi, thắp một nén nhang, cứ thế nhìn tôi cười và ra dấu một động tác kỳ quặc, nét mặt lộ rõ vẻ coi thường. Trong giấc mơ, tôi điên cuồng chửi rủa hắn, còn hắn thì cứ thế đứng cười. Tôi mơ hồ cảm thấy điều gì đó bất ổn, chẳng lẽ… Chưa kịp phân tích thêm điều gì thì hồi chuông cửa dồn dập đã kéo tôi trở về với hiện thực. Tôi giật mình mở mắt, thở hồng hộc, toàn thân vã mồ hôi, cực kỳ khó chịu. Tiếng mẹ tôi từ phòng khách vọng lại: - Ai đấy… à à… cửa mở rồi đấy! Tôi đưa tay quệt mồ hôi trên trán, nghiêng đầu nhìn ra cửa sổ, mặt trời đã ló rạng, những tia nắng nhẹ hắt vào trong phòng, trời đã sáng. Một lúc sau, tôi nghe thấy phía dưới có tiếng của đội trưởng Mã Vân Vĩ: - Thưa bác, Tiêu Vi có nhà không ạ? Tôi sững người, thấy hơi lạ, nhưng cũng không kịp nghĩ gì nhiều, vội ngồi dậy mặc bộ quần áo ngủ, vuốt vuốt mái tóc, mở cửa phòng bước ra. Mã Vân Vĩ mặc thường phục, đi giầy da, đứng trong phòng khách; vẻ mặt anh ta hết sức nghiêm túc, phía sau là rất đông các đồng chí khác. Tôi không thấy bố đâu, chắc có lẽ ông ra ngoài tập thể dục rồi, còn mẹ thì đang bận rót trà mời khách. Mới sáng sớm, bọn họ đã tề tựu đông đủ ở nhà tôi chẳng biết để làm gì chứ, lại còn không kịp thay cả giày, chẳng lẽ vụ án đã có tiến triển? Mặc dù trong lòng đầy thắc mắc, tôi vẫn loạng choạng dò dẫm từng bước về phía trước, hỏi bằng một giọng bình tĩnh nhưng cũng mang ý dò la: - Đội trưởng Mã đến đấy ạ? Mã Vân Vĩ không nói gì, chỉ nheo mắt lại, chăm chú nhìn tôi. Hai nữ đồng chí trong đội rất tự nhiên đến bên cạnh, đỡ tay, dìu tôi ngồi xuống ghế sô-pha, sau đó đứng sang bên cạnh, hai tay đặt lên vai tôi cũng hết sức tự nhiên. Tôi lắc lắc đầu, cảm thấy không được thoải mái lắm, liền hỏi một câu: - Đội trưởng Mã, là… là anh đến phải không ạ? Mã Vân Vĩ từ từ tiến đến trước mặt tôi, ôm lấy vai tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi lạnh lùng hỏi: -Tiêu Vi, tối qua cô ở đâu? Câu hỏi bất ngờ kiến tôi sững người lại, không nghĩ gì, tôi buột miệng nói luôn: - Tất nhiên là tôi ở nhà rồi. Đúng lúc này, chợt tôi nhận thấy có ba đồng chí trong đội đang nhẹ nhàng áp sát phía sau, trong khi một số khác lại lao vào phòng ngủ của tôi. Ánh mắt Mã Vân Vĩ ánh lên vẻ lạ lẫm, đoạn anh cười mỉm, kéo dài giọng, nói: - Ở nhà… ở nhà… vậy thì tốt, vậy thì tốt… - Nói xong, anh ta đưa tay phải lên che miệng ho vài tiếng. Như nhận được thông báo, ba đồng chí phía sau lập tức xông lên, sáu cánh tay cùng lúc vặn chặt hai bả vai và tay ấn tôi xuống ghế sô-pha, hai nữ cảnh sát bên cạnh dùng chân ấn đùi tôi xuống, rồi lục soát quanh người tôi. Tôi vừa ngỡ ngàng vừa bực tức, liền kêu ầm lên: - Người… các người làm gì đấy? – Tôi cố sức giãy giụa, nhưng bị nhiều người giữ như vậy, sao có thể thoát ra được. Lúc này mẹ tôi vừa từ trong bếp bước ra, trên tay đang bưng ấm trà, thấy cảnh tượng đó thì đứng ngây ra không biết phải làm gì. Một đồng chí từ phòng tôi xuống, ôm bộ quần áo của mẹ mà tối qua tôi mặc, lại đem cả súng ra nộp cho Mã Vân Vĩ. Mã Vân Vĩ đưa tay đỡ lấy, nhanh chóng gỡ băng đạn ra, quay đầu nhìn tôi, khẽ nói: - Tiêu Vi, tối qua đã xảy ra vụ án mạng ở một khu chung cư trong thành phố, chúng tôi có đủ bằng chứng nghi ngờ cô có liên quan đến vụ án. Sau khi xin ý kiến chỉ đạo của Đảng ủy Sở Công an, chúng tôi quyết định tạm đình chỉ mọi chức vụ của cô, đề nghị cô hợp tác cùng cơ quan công an tiến hành điều tra. Tôi ngớ người, không kịp đoán ra điều gì, vội vàng thanh minh: - Đội trưởng Mã, anh… anh đùa gì thế, anh nghi ngờ tôi giết… giết người á? Tôi thực sự… Mã Vân Vĩ giơ tay ra hiệu cho tôi ngưng lại, sau đó cúi người xuống nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nói rõ ràng từng tiếng một: - Tiêu Vi, có thật cô không nhìn thấy gì không? Nghe đội trưởng hỏi thẳng thừng như vậy, tôi cứng lưỡi không biết nói gì, chỉ ngồi như trời phỗng trên ghế, nhưng trong đầu tôi đang tổng hợp phân tích mọi dữ kiện hết sức nhanh chóng: Bọn họ làm sao biết được mắt tôi đã hồi phục, rốt cuộc tối qua đã xảy ra vụ án mạng gì, tại sao lại liên quan đến tôi? Liên tưởng đến những sự việc kỳ lạ chết người liên tiếp xảy ra gần đây, tôi bỗng có linh cảm chẳng lành, lẽ nào lại liên quan đến mảnh da người của cậu? Nghĩ đến đây, tôi hiểu sự việc đã bị lộ, không nên tiếp tục giấu giếm mà cũng không thể giấu giếm được nữa, chắc chắn phải nói thật cho Mã Vân Vĩ biết, nhưng bây giờ thời gian và địa điểm đều không thích hợp, phải tìm cơ hội nào đó chỉ có mình đội trưởng thì mới ổn. Xem ra, bí mật của tôi lại phải chia sẻ với một người nữa. Quyết định xong, tôi dần bình tĩnh trở lại, không giãy giụa nữa, tiếp tục đóng giả là một người mù, ánh mắt nhìn xa xa, lắc đầu, nói: - Đội trưởng Mã, tôi nghĩ trong chuyện này nhất định có sự hiểu lầm, bây giờ tôi sẽ đi cùng mọi người, tôi sẽ giải thích rõ ràng với anh sau. Nghe tôi nói vậy, Mã Vân Vĩ nhìn tôi thăm dò một lúc, khẽ gật đầu, giơ tay ra hiệu cho những người khác buông tôi ra. Sau đó, dưới sự giám sát của hai nữ cảnh sát, tôi thay quần áo, động viên người mẹ đang hoang mang hoảng hốt, sau đó cùng Mã Vân Vĩ và mọi người xuống lầu rồi lên xe cảnh sát. Mặc dù tay không bị còng, nhưng hai bên là hai cảnh sát cao to lực lưỡng, áp tải tôi với tinh thần cảnh giác cao độ, cứ như thể sợ tôi mọc cánh bay đi mất vậy. Trên đường đến Sở Công an, tôi chống một tay bên thái dương, mắt dõi ra ngoài cửa sổ xa nhìn quang cảnh đường phố lướt nhanh qua, trong đầu cứ nghĩ mãi rốt cuộc đã xảy ra biến cố gì. Đồng thời, tôi cũng chuẩn bị sẵn tinh thần lát nữa phải mở miệng như thế nào. Trong xe vô cùng im ắng, chỉ có tiếng điều hòa chạy ro ro, những người khác đều không nói gì, chỉ liên tục quay sang nhìn tôi với ánh mắt rất lạ. Rất nhanh, xe đã đến Sở Công an, tôi bị bọn họ xốc vai bước vào trong tòa nhà. Trong hành lang đông người đi lại, ai nhìn thấy tôi đều đứng sững lại, thái độ rất lạ, rồi sau đó lại chụm đầu vào nhau bàn tán. Tôi cắn răng, vờ như không thấy gì, hai mắt nhìn thẳng, miệng nhoẻn cười, bước từng bước về phía trước. Mã Vân Vĩ không trực tiếp hỏi cung, mà dẫn tôi đến văn phòng của anh ta, sau đó yêu cầu những người khác ra ngoài. Tôi đứng như khúc gỗ, cũng không nhìn anh ta, chỉ chăm chú cúi nhìn ngón chân mình. Mã Vân Vĩ ngồi xuống bên bàn làm việc, châm điếu thuốc, rít mạnh hai hơi rồi nhả ra từng cuộn khói, sau đó búng tàn thuốc, chỉ sang chiếc ghế đối diện, lạnh lùng nói: - Ngồi đi, bây giờ thì thoải mái rồi. Tôi nghĩ, cô chắc chắn có điều muốn nói riêng với tôi. Là đồng nghiệp lâu năm khiến cho chúng tôi quá hiểu nhau, tôi lập tức ngẩng mặt lên, cảm kích gật đầu, nói: - Đội trưởng Mã, việc này… việc này rốt cuộc là như thế nào? Tại sao các anh… Mã Vân Vĩ giơ tay ngắt lời tôi: - Tiêu Vi, tôi nói cho cô biết, lúc này tốt nhất cô không nên hỏi gì. Cô chỉ cần cho tôi biết, tại sao cô phải giả vờ không nhìn thấy, tối qua rốt cuộc cô đã đi đâu? Tôi biết hoàn cảnh lúc này rất khó xử, không thể tự quyết định được, đành cười gượng, ngồi xuống ghế sô-pha, thành khẩn nói: - Đội trưởng Mã, tôi… tôi bây giờ đang rất rối trí, anh để tôi nghĩ một lát được không? Mã Vân Vĩ khẽ nhếch mép cười, nói: - Được! – Anh ta lại châm tiếp điếu thuốc thứ hai, - nhưng tôi không muốn cô tiếp tục nói dối. Tôi sắp xếp rất nhanh câu trả lời trong đầu, thành thật thuật lại những suy đoán của bản thân về kết quả điều tra, đặc biệt tôi nhấn mạnh đến kế hoạch của mình và tình huống gặp phải tối qua. Nghe tôi nói xong, Mã Vân Vĩ di mạnh đầu thuốc, sắc mặt sầm lại, trông rất đáng sợ. Anh ta đứng dậy, chắp hai tay sau lưng đi đi lại lại mấy vòng, sau đó ngập ngừng tiến đến trước mặt tôi, nhìn thẳng vào hai mắt tôi, chậm rãi buông từng tiếng một: - Tiêu Vi, tôi phải nói cho cô biết, hoàn cảnh của cô lúc này rất bất lợi, bởi vì người bị hại là Phùng Siêu. Phùng Siêu?! Tôi lặng cả người. Các dây thần kinh trên đầu như bị bóp nghẹt, không đau, nhưng lại hoàn toàn tê dại, giống như cảm giác của người say, trong thoáng chốc không có phản ứng gì. Phùng Siêu chết rồi?! Không đúng, không đúng, không đúng… đội trưởng đang gạt tôi! Tôi cố định thần trở lại. Tối qua rõ ràng tôi đã nhìn thấy Phùng Siêu về đến nhà, thậm chí còn nhận ra có kẻ theo dõi và truy đuổi vật lộn với hắn, sau đó chính mắt tôi còn nhìn thấy hắn nhảy xuống sông trốn thoát, Phùng Siêu sao có thể bị hại được chứ? Nghĩ đến đây, tôi giật mình nhảy dựng lên, hai tay chống lên bàn, nhoài người về phía trước, dí sát mặt Mã Vân Vĩ, hét to: - Không, không thể nào, không thể nào… Do quá kích động, ngón tay tôi miết chặt xuống mặt bàn phát ra tiếng kêu kin kít. Mã Vân Vĩ nhìn tôi lặng thinh, rồi vỗ vỗ vai nói tôi đừng quá kích động. Thấy tôi bình tĩnh trở lại, anh ta châm điếu thuốc nữa rồi từ từ kể lại cho tôi toàn bộ sự việc. Khoảng 21 giờ 50 phút tối qua, một người dân trong khu chung cư Lục Uyển về muộn, nhìn thấy có một người đàn ông nằm sấp bất động trước cửa cầu thang tòa nhà, phía sau gáy dập nát, óc bắn ra ngoài, đoán chắc là đã chết. Sau khi cảnh sát Cổ Tháp đến hiện trường, họ phát hiện ngay ra người bị hại chính là đại đội trưởng Phùng Siêu, chẳng trách trước đó họ gọi điện thoại chẳng thấy cậu ấy nghe máy. Lúc đó, chìa khóa cửa nhà Phùng Siêu vẫn đang cắm trong ổ, nhận định sơ bộ cho thấy hung thủ ra tay từ phía sau. Cảnh sát đương nhiệm bị giết hại, súng tùy thân cũng không cánh mà bay, đây quả là một vụ án động trời; chính vì thế các đồng chí trong đội trinh sát hình sự, ban kiểm tra kỷ luật, ban thanh tra Sở Công an thành phố đều lần lượt có mặt. Mọi người đều vô cùng căm phẫn và việc đầu tiên nghĩ đến là phải tìm ra kể sát nhân bắt hắn đền tội; ai cũng cho rằng đây là hành vi trả thù của bọn tội phạm trong những vụ án bị phanh phui trước đó, bởi lẽ tất cả tài sản có giá trị trên người Phùng Siêu vẫn còn nguyên. Kết quả khám nghiệm tử thi sơ bộ cho thấy, sau gáy Phùng Siêu bị hai cú đập cực mạnh đẫn đến vỡ hộp sọ, tạo thành hố sâu độ hai, quanh rìa vết thương còn dính một ít mảnh đá dăm chứng tỏ hung khí chính là đá xây dựng vứt ở gần đó. Theo phân tích kiểm tra nhiệt độ thi thể và trạng thái đông máu, nạn nhân chết chưa đầy bốn mươi phút. Do khu chung cư xảy ra án mạng vừa đi vào sử dụng, cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện lại không có camera giám sát, nên trước mắt chỉ có thể điều tra từ những mối quan hệ công việc của Phùng Siêu trước khi chết. Sau khi kiểm tra nhật ký cuộc gọi trong điện thoại của Phùng Siêu, phát hiện thấy hai cuộc gọi sau cùng đều là của tôi gọi đến. Đồng chí trực ban phòng kỹ thuật còn cho biết, khoảng 21 giờ Phùng Siêu có đến đơn vị, hỏi thăm về tình hình vụ án mạng La Viễn Chinh và vụ án mảnh da của cậu tôi, rồi lấy một số bức ảnh chụp vật chứng, lúc rời khỏi văn phòng là khoảng 21 giờ 17 phút. Thế là có người suy luận, có thể do tôi quá quan tâm đến tiến triển vụ án nên đã nhờ Phùng Siêu đến hỏi thăm. Vì thế, họ nhanh chóng đến khu chung cư bố mẹ tôi sinh sống, thu thập băng ghi hình của camera giám sát. Đoạn băng ghi hình cho thấy khi Phùng Siêu vừa lái xe ra khỏi thì một bóng đen mờ mờ giống dáng vẻ của một phụ nữ cũng nhảy từ bức tường rào xuống, hành tung bí ẩn, lại còn bắt taxi bám theo xe Phùng Siêu. Bóng đen này đã gây chú ý cho phía cảnh sát, sau khi thu thập tất cả các đoạn băng ghi hình từ camera trên đường Sĩ Anh, họ phát hiện thấy chiếc taxi chở người phụ nữ bí ẩn này liên tục bám theo sau xe Phùng Siêu, lúc áp sát lúc lại lùi xa xa, cuối cùng dừng lại một lúc tại điểm đón trả khách trước cổng Sở Công an. Ít phút sau, người phụ nữ xuống xe, dừng lại một lát rồi băng qua đường, tiến tới công viên Cổ Tháp phía đối diện. Đứng yên một lúc, người này nhìn ngó xung quanh rồi ngồi xuống trước cổng công viên, mắt luôn hướng về phía Sở Công an. Bằng kỹ thuật phân tích băng ghi hình tiên tiến nhất, các kỹ thuật viên đã phóng to từng góc ảnh trong băng, tiến hành tăng âm sóng V-band, giảm ồn sóng điện từ, rồi tái dựng khuôn mặt nghi phạm. Điều mà họ vô cùng ngạc nhiên là bóng đen đó lại chính là tôi. Lúc đó mọi người đều tỏ ra nghi ngờ, vì rõ ràng mắt tôi không nhìn thấy và đang phải dưỡng thương tại nhà, tại sao đột nhiên có thể khôi phục thị lực, hóa trang rồi theo dõi Phùng Siêu một cách vô cớ như vậy? Và điều khiến mọi người càng không thể giải thích nổi đó là Phùng Siêu chính là người trước đó được tôi mời đến nhà. Ít phút sau, trên băng ghi hình hiện lên cảnh Phùng Siêu đánh xe rời Sở Công an, tôi tiếp tục bắt xe bámphía sau, rồi một trước một sau, lén lén lút lút tiến vào khu chung cư Lục Uyển. Camera bị che khuất nên chỉ có thể theo dõi đến đó. Hơn hai mươi phút sau, trong đoạn băng ghi hình lại xuất hiện hình ảnh của tôi trước cổng khu chung cư, mặt mày ủ rũ, chầm chậm bước về nhà, rồi sau đó không thấy ra ngoài nữa. Xem toàn bộ băng ghi hình, mọi người quay sang nhìn nhau, chẳng nói chẳng rằng. Tất cả hình ảnh thu thập được chứng tỏ hung thủ sát hại Phùng Siêu rất có thể là tôi. Những chứng cứ trên quả thực quá bất lợi cho tôi, nhất là lúc gọi điện cho Phùng Siêu ở trên xe, tôi luôn miệng nói rằng mình chuẩn bị đi ngủ, rõ ràng là đang nói dối. Ngoài ra, bố tôi cũng cam đoan rằng cả đêm hôm đó tôi không ra ngoài. Mã Vân Vĩ quan sát tôi với con mắt cẩn trọng, cố gắng nhìn nhận sự việc một cách khách quan nhất, giống như mô tả hồ sơ vụ án, khiến tôi không có lý do gì không tin vào những lời anh ta nói, càng không thể phản bác lại điều gì. Thuật xong toàn bộ tình tiết vụ án, Mã Vân Vĩ cũng hút hết hơn nửa bao thuốc, khói thuốc mù mịt khắp phòng, không khí vô cùng ngột ngạt. Anh ta một lần nữa bước đến trước mặt tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi, nói: - Tiêu Vi, đứng từ góc độ cá nhân, tôi hoàn toàn tin tưởng cô không phải là hung thủ, đồng thời cũng có thể hiểu được phần nào những việc cô làm. Nhưng… nhưng vấn đề ở chỗ, Viện Kiểm sát có tin cô không? Tòa án có tin cô không? Cô giả vờ bị mù, hóa trang theo dõi người khác, thời gian trùng khớp, nhân chứng rõ ràng… những thứ này… - Nói đến đây, anh ta dừng lại một lúc, thở dài, gằn giọng – Tiêu Vi, lần này cô thực sự “chơi” hơi quá rồi đấy. Nghe câu nói của đội trưởng, tôi như bị rút hết gân xương, ngồi thẫn thờ trên sô-pha, đầu óc rối bời. Lúc này, tôi đã ý thức được rõ ràng rằng, mọi việc đều là kế hoạch đã được rắp tâm định sẵn theo kiểu tương kế tựu kế của tên hung thủ giấu mặt kia, tôi vẫn chưa thoát khỏi bàn tay của chúng, thậm chí con sơ ý rơi vào cái bẫy dựng sẵn của chúng. Gã đàn ông thấp lùn ấy thực ra chỉ là con mồi thu hút tôi, nếu hắn thực sự muốn nhằm vào Phùng Siêu, sao nửa đêm nửa hôm lại đi hút thuốc, chẳng phải là sẽ rất dễ bị phát hiện sao. Nghĩ thông điều này, tôi muốn khóc nhưng không sao khóc nổi, tôi hối hận quá, những tưởng kế hoạch không để lộ khe hở nào, lại còn khẳng định mình là con vàng anh, ai ngờ rằng sau lưng còn có một tay thợ săn cười trong trong chiến thắng cuối cùng chứ. Tự tin mù quáng, hành động võ đoán, đã khiến tôi bị xoáy sâu vào cuộc chơi. Điều khiến tôi càng không thể tha thứ cho bản thân là chỉ vì tôi hành động cẩu thả mà Phùng Siêu bị mất mạng oan uổng. Nghĩ đến câu xin lỗi từng nhủ thầm trong lòng, tim tôi như bị kim đâm, không nén nổi, nước mắt cứ thế trào ra, cả đời này tôi sẽ chẳng còn cơ hội để nói ra nữa. Nhìn bộ dạng của tôi, Mã Vân Vĩ thở dài một tiếng, an ủi vài câu rồi cho tôi biết, do tình tiết gây án nghiêm trọng, trong khi tôi và Phùng Siêu đều là cảnh sát đương nhiệm nên vụ án sẽ do Viện Kiểm sát trực tiếp bắt tay điều tra, chỉ e bên sở muốn giúp cũng không giúp được. Tuy nhiên trước khi Viện Kiểm sát đến, đội trưởng Mã sẽ nghĩ cách kéo dài thời gian, tôi cần phải nhanh chóng thuật lại toàn bộ chi tiết sự việc lúc đó để hỗ trợ đội trinh sát tìm ra chân tướng sự việc, biết đâu sẽ có cơ hội lật ngược tình thế. Đồng thời, thời điểm xảy ra án mạng không có nhân chứng, hung khí lại là đá xây dựng sù sì, không thể lấy rõ dấu vân tay, trước mắt tôi chính là nghi phạm số một, nhưng chỉ cần không tìm được chứng cứ thuyết phục thì vụ án sẽ tạm thời được gác lại không kỳ hạn. Một khi được tạm gác lại, mọi việc sẽ trở nên dễ giải quyết hơn. Thấy tôi không biểu lộ cảm xúc gì, Mã Vân Vĩ vỗ vỗ vai tôi, ngập ngừng nói: -Nhưng bộ quân phục của cô chắc chắn không giữ được nữa. Đảng ủy sau khi xem xét đã quyết định, do cô vi phạm kỷ luật, gây ra hậu quả nghiêm trọng nên phải bị khai trừ. Những văn bản liên quan đang được bàn thảo và trong mấy ngày tới sẽ công bố. Tôi mấp máy môi, ngẩng đầu nhìn anh ta một lúc rồi lại cúi đầu xuống, không nói nổi mà cũng không muốn nói điều gì, ở vào hoàn cảnh cấp bách như thế này tôi làm gì còn tâm trạng tiếc nuối bộ quân phục cơ chứ, giữ tính mạng mới là điều quan trọng nhất. Tôi cắn chặt răng, nhủ thầm trong bụng, chỉ cần có cơ hội thoát ra ngoài, cho dù có mất đi tính mạng tôi cũng nhất định phải tìm cho ra chân tướng sự việc, không chỉ vì bản thân, mà còn vì muốn tìm lại công bằng cho những người đã mất. Đồng thời, tôi cũng phải làm rõ rốt cuộc trên mảnh da của cậu ẩn chứa bí mật gì. Trong khi Mã Vân Vĩ kiên nhẫn hỏi cặn kẽ thì tôi ép mình phải nhanh chóng bình tĩnh trở lại, day day huyệt thái dương, nghĩ lại từng chi tiết buổi tối hôm qua. Mã Vân Vĩ ghi lại từng câu từng chữ, thỉnh thoảng lại ngắt lời tôi để hỏi lại những điểm còn nghi vấn. Thuật được một lúc, tôi chợt nhớ đến một chuyện, vội vàng thò tay vào túi áo, lôi ra một gói giấy. Mở gói giấy ra, bên trong là đầu mẩu thuốc lá mà gã đàn ông thấp lùn tối qua vứt lại. Tuy chứng cứ này không thể giúp tôi tránh khỏi bị tình nghi, nhưng có còn hơn không, ít nhất có thể tìm thấy dấu vân tay trên đó và mảng bong da môi chẳng hạn. Đó là loại thuốc Trung Nam Hải bao vàng, mới hút hết một phần ba. Cả tôi và Mã Vân Vĩ đều chú ý đến phần giữa đầu lọc có một vết lõm nhẹ hình tròn, nửa đoạn sau hơi tóp lại, không có vết răng, chắc có lẽ được lồng bằng tẩu thuốc. Tôi không hiểu lắm về thuốc lá, nhưng trước đây khi đi Bắc Kinh phá án, được biết người dân ở đó chỉ thích hút loại thuốc Trung Nam Hải, nghe nói loại thuốc này hút rất dịu, gần giống với thuốc Hàn Quốc, chẳng lẽ gã đàn ông thấp lùn đó là người Bắc Kinh? Không đúng! Tôi nhớ rất rõ ràng lúc tôi và hắn đấu với nhau bên bờ sông, hắn đã nói một câu “Mày muốn chết à?”, tuyệt nhiên không hề uốn lưỡi[1], nhưng chắc chắn là giọng Đông Bắc, gần giống với giọng gã tài xế xe bán tải. Như vậy có thể thấy hung thủ chỉ là thích vị thuốc này mà thôi. [1] Đặc điểm phát âm của người Bắc Kinh là luôn cuốn lưỡi. Mã Vân Vĩ lên mạng tra cứu một lúc rồi bảo tôi, loại thuốc Trung Nam Hải được sản xuất tại nhà máy Thuốc lá Bắc Kinh với rất nhiều loại, trong đó loại phổ biến trên thị trường Cẩm Châu là loại thuốc lá phổ thông 1,0 và 0,8. Loại 0,8 bao vàng này cực kỳ hiếm gặp, do vị của nó quá nhạt, rất ít người hút. Thế nhưng mỗi bao thuốc đều được phân phối qua Cục Thuốc lá[2] nên nếu kiểm tra giấy tờ xuất hàng chắc chắn có thể tìm ra cửa hàng bán lẻ loại thuốc này, dựa vào đó tìm ra khu vực sinh sống của gã đàn ông thấp lùn. [2] Đơn vị quản lý xuất nhập khẩu, phân phối thuốc lá ở Trung Quốc. Sau đó, Mã Vân Vĩ gọi một đồng chí công an đến, đem đầu mẩu thuốc lá – một vật chứng quan trọng gửi đến phòng kỹ thuật để giám định. Tuy hung thủ dùng tẩu hút nên không thể tìm được mẫu ADN từ những mảnh da bong, nhưng với dịch mồ hôi thấm vào giấy cuộn thuốc, có thể phân tích được một số đặc trưng sinh lý của người đó, ví dụ như bệnh tật, chế độ dinh dưỡng… Thấy những biện pháp điều tra trinh sát quen thuộc trước đây dùng để định tội tội phạm, nay lại phải dựa vào chúng để gột rửa tội danh nghi phạm cho mình, tôi bất giác lắc đầu gượng cười, cảm thấy hết sức hài hước. Tiếp đó, tôi và Mã Vân Vĩ lại nghiên cứu thêm những chi tiết khác. Tất cả những vật có giá trị trên người Phùng Siêu đều còn, duy chỉ có cuốn sổ ghi danh sách người phúng viếng tôi giao cho anh là không thấy đâu, đủ để chứng tỏ sau khi gây án, hung thủ còn lục soát cẩn thận hiện trường, ý thức được cuốn sổ danh sách sẽ gây bất lợi cho bản thân nên đã lấy đi. Từ đó cho thấy hung thủ hay nói cách khác đôi mắt luôn theo dõi tôi chắc chắn là người nào đó trong sổ khách đến phúng viếng cậu tôi. Còn về khẩu súng Phùng Siêu bị mất, có thể chỉ là hành động tiện tay lấy đi mà thôi. Rất nhanh, đồng chí công an đem kết quả giám định vật chứng đến. Mã Vân Vĩ chăm chú đọc một lúc, rồi đặt mạnh bản báo cáo xuống mặt bàn, quay đầu nhìn tôi, nói: - Mẹ kiếp, việc này bó tay rồi, bề mặt đầu mẩu thuốc có thu được một ít thành phần mồ hôi người, nhưng không hề tìm thấy dấu vân tay nào trên đó. Tôi sững người, đờ đẫn nhìn anh ta, trong đầu chợt hiện lên một suy nghĩ kỳ quặc: Gã đàn ông thấp lùn đó không có vân tay. Nghe tôi nói vậy, Mã Vân Vĩ lắc đầu quầy quậy, cho rằng không có vân tay là chuyện hết sức hoang đường, liền cho gọi bậc thầy pháp y giàu kinh nghiệm Từ Thụy Hồng đến để hỏi về chuyện đó. Từ Thụy Hồng hành nghề pháp y đã ba mươi năm, kinh nghiệm phong phú, nhiều lần tham gia phá những vụ án lớn, không chỉ là nhân vật quan trọng trong đội cảnh sát, mà còn là chuyên gia pháp y nổi tiếng toàn tỉnh. Từ Thụy Hồng sớm đã biết chuyện liên quan đến tôi, an ủi qua loa vài câu, nhìn vào kết quả giám định, khẳng định chắc chắn với tôi và Mã Vân Vĩ rằng trên thế giới đúng là có người không có vân tay, nguyên nhân là do đột biến gen. Nhưng những người như thế này vô cùng hiếm gặp, trong mấy triệu người không chắc đã có lấy nổi một người, thông thường do di truyền từ người mẹ, tên khoa học gọi là chứng không vân tay. Không vân tay khiến cơ thể người không thể toát mồ hôi, có nghĩa là thời tiết nóng nực hoặc hoạt động mạnh đều khiến người bệnh cảm thấy vô cùng nóng, nặng hơn có thể gây ra suy nhược ngũ tạng dẫn đến tử vong. Người bệnh ngoài việc không có vân tay và không thể toát mồ hôi ra, thì bình thường cũng có một số triệu chứng khác, như: ít tóc, không có răng, móng tay mềm, trên da có những đốm sắc tố đen lan rộng hoặc trắng bệch… Nghe thấy vậy, tôi chợt nhớ lại lúc giao tranh với gã đàn ông thấp lùn, người hắn đầm đìa mồ hôi. Nếu hắn không thuộc trường hợp bệnh lý không vân tay, thì chỉ có hai khả năng: Một là hắn đã từng bị thương ở tay dẫn đến việc bị mất hết vân tay; hai là đồng bọn của hắn đã lén đến hiện trường, xóa dấu vân tay trên đầu mẩu, nhưng mồ hôi thì vẫn còn ngấm vào điếu thuốc. Với sự cẩn trọng của chúng thì khả năng thứ hai có sức thuyết phục hơn. Lúc này, có người bước vào báo cáo với Mã Vân Vĩ, người của Viện Kiểm sát thành phố đã đến. Mã Vân Vĩ chau mày, tỏ vẻ ngạc nhiên, nói giọng nghiêm trọng: - Mẹ kiếp, sao nhanh thế, ai thông báo cho họ không biết? Đồng chí công an quay lại nhìn tôi, rồi mới nói với Mã Vân Vĩ: - Sếp căn dặn việc này phải ghìm lại đã, vì thế… chắc chắn không phải người của chúng ta. Mã Vân Vĩ nheo mắt nghĩ một lúc, rồi đột nhiên đấm mạnh lên mặt bàn, nói: - Bảo họ đợi ở phòng họp một lát, cứ nói tôi đang hỏi cung. À… đúng rồi, ông Từ à, ông cũng ra ngoài đi, tôi còn có chút chuyện muốn nói với Tiêu Vi. Đợi Từ Thụy Hồng đi khỏi, Mã Vân Vĩ vuốt cằm nghĩ ngợi hồi lâu mới nói với tôi: - Tiêu Vi, chuyện đã đến nước này, tôi cũng không giúp gì được cô nữa. Thế nhưng cô yên tâm, tôi sẽ tác động bằng mọi quan hệ, các anh em trong đội cũng không làm ngơ nhìn cô chịu oan ức đâu. Tôi nghĩ, chỉ cần họ không tìm thấy chứng cứ thuyết phục, cô… cô sẽ nhanh chóng được ra ngoài thôi. Tôi hoang mang nhìn anh ra, trong bụng thầm nghĩ: Ra ngoài? Tôi còn có cơ hội ra ngoài không? Mã Vân Vĩ trầm tư giây lát, lôi trong ngăn kéo ra một tập hồ sơ, rồi rút một bức ảnh từ trong đó ra. Tôi liếc nhìn, là bức ảnh chụp mảnh da cậu tôi. Mã Vân Vĩ đặt bức ảnh lên bàn, cúi đầu ngắm nhìn, vừa dùng ngón tay gõ gõ mặt bàn, vừa chậm rãi nói: - Tuy tôi không phải là người làm nghệ thuật nhưng cũng hiểu đôi chút, tác phẩm nghệ thuật nào cũng đều chứa đựng tình cảm trong đó. Văn thơ cũng vậy, âm nhạc cũng vậy, hội họa cũng vậy, tất cả đều thể hiện trạng thái tinh thần nào đó của tác giả lúc sáng tác. Biểu cảm của nhân vật trong bức tranh đặc biệt như thế này, trông hết sức hoang mang, ngờ vực, chắc chắn cũng thể hiện trạng thái tâm lý của cậu cô lúc đó. Tiêu Vi, cô nghĩ lại thử xem, năm đó ông cụ đã hoàn thành bức tranh này trong bối cảnh như thế nào? Lời nói của Mã Vân Vĩ đã tác động mạnh đến tôi, tôi đưa tay với lấy bức ảnh, nhìn vào mặt cậu (chiến sĩ), nét biểu cảm vừa hoang mang, vừa ngạc nhiên, có vẻ gì đó rất lạ mà không nói rõ được. Tôi tự hỏi bản thân, năm đó rốt cuộc cậu đang nghĩ gì chứ? Ít phút sau, có tiếng gõ cửa, ba đồng chí của Viện Kiểm sát và hai đồng chí của tòa án mặc đồng phục bước vào phòng. Mã Vân Vĩ lập tức đứng dậy tiến lên phía trước chào hỏi họ, rồi quay đầu nhìn tôi, khẽ thở dài mà không nói gì. Tôi cố gượng cười, gật đầu với Mã Vân Vĩ, sau đó đứng thẳng, mặt vô cảm, từ từ chìa hai tay về phía mấy đồng chí Viện Kiểm sát… Những ngày Viện Kiểm sát tiếp nhận điều tra có lẽ là những tháng ngày đen tối nhất trong cuộc đời tôi. Từ trước đến giờ tôi là một cảnh sát hình sự, là người nắm luật pháp trong tay, bình thường tôi có thể nói đứng ở vị trí cao, nhất là khi đối diện với tội phạm, luôn có cảm giác hơn người. Vậy mà khi rơi vào hoàn cảnh hôm nay với vị thế thay đổi hẳn, phải đối diện với cơ quan chuyên trách nhà nước, tôi mới phát hiện mình nhỏ bé cỡ nào và cảm nhận sâu sắc nỗi khổ trong tù ra sao. Tôi bị nhốt trong trại tạm giam của thành phố Cẩm Châu, canh chừng cẩn mật, mỗi ngày bị thẩm vấn không biết bao nhiêu lần, trả lời hết câu hỏi này đến câu hỏi khác. Những câu hỏi đến cùng đó khiến cuộc sống của tôi không còn chút bí mật nào nữa. Trước những câu hỏi của các điều tra viên, tôi không hề giấu giếm hay phản biện mà thuật lại chân thực toàn bộ sự việc xảy ra tối hôm đó, cuối cùng vẫn một mực khẳng định: Tôi không giết người. Do đây là một vụ trọng án, tôi lại nhất quyết không nhận tội nên thời hạn tạm giam cứ gia hạn hết lần này đến lần khác. Viện Kiểm sát cũng dần tăng thêm số lần thẩm vấn tôi, chỉ riêng việc xác định và dựng lại hiện trường đã tiến hành không dưới hai mươi lần. Mỗi lần tìm ra manh mối mới là họ ngay lập tức lại thẩm vấn yêu cầu tôi đưa ra lời giải thích thỏa đáng. Quả thực, nhiều lúc tôi cảm thấy mình giống hệt như con chuột bạch trong phòng thí nghiệm, không đủ sức phản kháng, mệt mỏi rã rời cả về thể xác lẫn tinh thần. Những lần thẩm vấn gắt gao với mật độ cao như vậy là nhằm đánh vào tâm lý, người bình thường khó có thể chịu đựng được. Mặc dù tôi là cảnh sát khá giàu kinh nghiệm, hiểu rõ các bước điều tra, nhưng cũng không thể kháng cự nổi. Cầm cự đến giai đoạn cuối, thần kinh của tôi gần như nổ tung, hoàn toàn mất đi khả năng phán đoán lý tính, thậm chí còn sinh ra ảo giác: Có thể gã lùn hôm đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của tôi, và vì lý do mơ hồ nào đó, tôi đã giết chết Phùng Siêu mà không hay. Nhưng sau khi trấn tĩnh lại, tôi lại tự dặn mình: Tiêu Vi, mày nhất định phải tiếp tục chịu đựng, mày không có tội, mày không giết người, còn rất nhiều việc quan trọng đang đợi mày xử lý. Những ngày tháng đau khổ ấy kéo dài gần một tháng, cuối cùng cơ hội cũng đã đến. Buổi sáng hôm đó, khi đang đánh răng, tôi đột nhiên cảm thấy khó chịu và buồn nôn dữ dội, sau khi được bác sĩ trong trại giam kiểm tra, tôi được thông báo đã có thai hai tháng. Thảo nào gần đây không thấy kỳ, lúc đầu tôi cứ tưởng do áp lực tâm lý gây ra. Do không điều tra được động cơ giết hại Phùng Siêu, hiện trường lại không có nhân chứng và chứng cứ đủ sức thuyết phục, lại được Mã Vân Vĩ tích cực tác động, thêm vào đó hiện tại đang có thai nên tôi được ký lệnh tạm tha, cho tại ngoại để chăm sóc sức khỏe. Khi rời trại tạm giam, Viện Kiểm sát lấy cung lần cuối, đích thân viện phó Viện Kiểm sát dặn đi dặn lại rằng, trước khi vụ án được làm sáng tỏ, mọi hành động của tôi mặc dù không bị hạn chế nhưng tuyệt đối không được rời Cẩm Châu, phải luôn chuẩn bị tinh thần bị triệu tập điều tra. Tôi cười nhạt, trong lòng biết rõ, cho dù được tự do, nhưng quanh tôi sẽ có thêm vô vàn con mắt ngày đêm quan sát nhất cử nhất động. Nếu cộng thêm cả tên hung thủ giấu mặt trước đó, thì tôi hoàn toàn không còn chỗ để ẩn trốn. Giấy không bọc được lửa, trong thời gian tôi bị tạm giam, mẹ đã biết mọi việc, thậm chí là cả cái chết của La Viễn Chinh. Do quá sốc, mẹ đã bị tai biến mạch máu não, nằm liệt giường, rồi thành ngơ ngơ ngẩn ngẩn, chẳng nhận ra ai cả. Hàng ngày, bố đều ở bên cạnh chăm sóc mẹ, không rời nửa bước, trông ông già đi thấy rõ. Mã Vân Vĩ cũng đến thăm tôi vài lần, lén thông báo cho tôi biết việc điều tra đầu lọc thuốc lá không có tác dụng gì, vụ án vẫn dậm chân tại chỗ, hiện vụ án đã được trình lên Viện Kiểm sát tối cao và họ đã toàn quyền tiếp nhận điều tra. Thấy thái độ lạnh lùng của tôi, Mã Vân Vĩ thở dài một tiếng, cố sức an ủi: - Cô đang có thai, đừng nghĩ ngợi gì nhiều, cũng đừng làm những chuyện vô nghĩa. Trước mắt cần phải chăm sóc tốt bản thân, đợi sinh con xong rồi tính tiếp. Tôi cười cười, không đáp lời, quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, xoa xoa cái bụng vẫn còn phẳng lỳ. Kỳ thực, từ hôm biết tin có thai, tôi đã quyết định sẽ không giữ đứa con này, tuyệt đối không thể giữ, mọi thứ tôi mất đi nhất định sẽ phải lấy lại, mà còn phải lấy lại nhiều hơn thế nữa. Tôi nhất định phải điều tra ra được chân tướng sự việc, trừ phi bọn chúng quyết tâm ra tay thủ tiêu tôi! Chương 5: Mèo vờn chuột Phù! Mũi tua-vít vừa đâm sâu vào vài mi-li-mét, bức tường rêu xanh liền nứt thành từng vệt, sau những tiếng lách tách liên tục, những vệt nứt bao trùm toàn bộ diện tích khu vực chữ “Cốt”, giống như mạng nhện chằng chịt. Sau khi trở về nhà bố mẹ, tôi nhốt mình trong phòng, thức trắng hai đêm đau khổ suy nghĩ, một lần nữa sắp xếp lại trong đầu toàn bộ tình tiết sự việc thành hệ thống, lập kế hoạch chu đáo cho hành động tiếp theo của tôi. Tuy hoàn cảnh trước mắt rất khó khăn, Viện Kiểm sát thành phố và tên hung thủ giấu mặt đều đang dõi theo tôi, khiến hành động của tôi gặp nhiều hạn chế. Thế nhưng suy nghĩ một cách biện chứng thì đây có thể lại là ưu thế lớn nhất của tôi lúc này. Nếu biết tận dụng thời gian tại ngoại, khiến hai thế lực sáng tối tự khống chế nhau thì tôi hoàn toàn có thể tạo ra khe hở an toàn trong hoàn cảnh phức tạp và nguy hiểm hiện nay. Việc cần kíp bây giờ là tôi cần chọn đúng thời cơ để phá vòng vây, chui ra từ khe hở an toàn đó. Hạ quyết tâm xong, tôi thấy mình cứng rắn hơn, lập tức bắt tay vào hành động. Trước hết cần làm rõ xem quanh tôi có tất cả bao nhiêu đôi mắt theo dõi. Bắt đầu từ ngày thứ ba, mỗi ngày ngoài việc đến bệnh viện thăm mẹ vào giờ cố định, toàn bộ thời gian còn lại tôi đi lang thang, len lỏi khắp các ngóc ngách trong thành phố. Tôi từng tốt nghiệp trường Đại học Công an Nhân dân Trung Quốc, chuyên ngành trinh sát hình sự và khám nghiệm hiện trường; cộng thêm sau nhiều năm thực tiễn công tác, đã kinh qua rất nhiều vụ trọng án, tiếp xúc với vô số loại tội phạm, có thể được coi là chuyên gia chống phát hiện. Tôi sẽ phải tận dụng ưu thế trời cho này, chơi một ván mèo vờn chuột với những kẻ đang theo dõi tôi. Nhiệm vụ đầu tiên của chống phát hiện chính là chống theo dõi, đây là kĩ năng vô cùng khó khăn và phức tạp, không những phải rèn luyện lâu dài mà còn phải kết hợp với môt loạt các môn tự nhiên và xã hội khác như tâm lý học, hành vi học, lý luận học và đạo đức học. Người bị theo dõi cần tận dụng triệt để những điều kiện ngoại cảnh có sẵn như địa hình tự nhiên, kiến trúc xây dựng, đặc điểm con người, điều kiện khí hậu… kết hợp với khả năng quan sát tinh tế và óc phân tích tỉ mỉ để từ đó tìm được ra quy luật hành vi và trạng thái tâm lý của kẻ theo dõi. Một khi đã nắm rõ tình hình thì sẽ dễ dàng phát hiện ra sơ hở để chờ thời cơ trốn thoát. Bước trên đường phố nhộn nhịp, tôi lợi dụng hình ảnh phản chiếu từ những tấm kính lấp lánh của các cửa hàng bên đường, tập trung phân tích đặc trưng hình dáng của tất cả những người trong phạm vi có thể quan sát được, sau đó chủ động điều chỉnh tốc độ và hướng đi của mình, đi hay dừng, nhanh hay chậm, thẳng hay rẽ, để quan sát phản ứng của họ. Vào không gian thời gian, điều kiện khí hậu và vị trí địa lý khác nhau, dựa vào trang phục, thần thái, đồ vật mang theo và bạn đồng hành của người theo dõi để phân tích động cơ xuất hành, cử chỉ, hành động của họ. Sau khoảng một tuần, tôi đã cơ bản tìm hiểu được tình hình quanh mình, đối tượng theo dõi tôi gồm nămnhóm, mỗi nhóm không dưới ba người. Trong đó bốn nhóm có cả nam và nữ, thường xuyên đổi người thay thế nhau, nhóm còn lại toàn nam, từ đầu đến cuối đều là những gương mặt quen thuộc. Hơn nữa, tôi ngày càng cảm nhận thấy rõ ràng hai nhóm đối tượng này cũng dần dần nhận ra sự tồn tại của đối phương, và cố tình tránh né nhau; nhờ vậy sự chú ý của chúng bị phân tán một phần, và cũng giảm bớt độ tập trung trong việc theo dõi tôi. Thấy mục tiêu trước mắt đã cơ bản đạt được, tôi mừng thầm trong bụng, quyết định thực hiện ngay bước thứ hai. Tôi biết rõ đây là lúc phải tiến hành chiêu độc, biến ám phỏng thành minh sát, lợi dụng tâm lý phản nghịch thường thấy trong mỗi người để ra tay làm một mẻ lớn. Việc thầy liệm trang Mã Trấn Quốc mất tích, cái chết oan nghiệt của La Viễn Chinh và Phùng Siêu, và cả chuyện hãm hại tôi, tất cả đều không nằm ngoài mục đích ngăn cản tôi tìm hiểu chân tướng sự việc. Nhưng chưa có lần nào bọn chúng trực tiếp giáp mặt với tôi, điều này khiến tôi khó hiểu. Đã có lần tôi đoán chúng không dám ra mặt vị sợ tôi là cảnh sát, nhưng Phùng Siêu cũng là cảnh sát, vì thế tôi ngay lập tức phủ nhận suy đoán này. Có thể do giác quan thứ sáu nhạy cảm của phụ nữ, tôi luôn có cảm giác vì một lý do bí ẩn nào đó mà bọn chúng sẽ không ra tay mà chỉ liên tục gây trở ngại cho công việc điều tra của tôi mà thôi. Còn cảm giác này đúng hay sai thì tôi không thể đưa ra nhận định chính xác được. Nếu phán đoán này là chính xác, cộng thêm quan hệ ràng buộc giữa bọn chúng và Viện Kiểm sát rất có thể sẽ đem lại cho tôi những kết quả không thể ngờ tới. Còn nếu phán đoán sai, bọn chúng muốn ra tay với tôi, vậy thì tất cả sẽ cùng quyết chiến một mẻ, nếu có chết tôi cũng phải kéo thêm vài kẻ đi cùng. Hơn nữa, tôi không nghĩ bọn chúng có thể giải quyết tôi một cách êm thấm trước vô số cặp mắt quan sát như vậy. Tôi trở về nhà riêng, nhìn tổ ấm ngày trước giờ đây phủ đầy bụi, trống rỗng lạnh lẽo, nghĩ đến người đàn ông yêu thương tôi hết mực sẽ không bao giờ quay về nữa, âm dương cách biệt, tất cả niềm vui niềmhạnh phúc đều biến thành bọt bong bóng, lòng tôi đau như muốn phát điên. Ngồi bên chiếc giường ngủ, tôi lặng nhìn bức ảnh cưới treo ở đầu giường, nước mắt lăn dài, khóc không thành tiếng. Sau khi khóc vơi nỗi lòng, tôi lau khô nước mắt, nhẹ nhàng vuốt ve sinh linh bé nhỏ trong bụng, cố gắng cảm nhận từng cử động nhỏ của con. Tôi thở dài, cắn răng thầm thì: Con à, không phải mẹ nhẫn tâm, mà vì mẹ phải báo thù cho cha, báo thù cho chú Phùng Siêu của con. Con đừng trách mẹ, con nhé! Tôi chụp lại bức tranh đã bị tháo tung, lái xe đến phòng tranh panorama tiến hành điều tra thực địa. Hôm đó là buổi sáng thứ Bảy, người trong phòng tranh rất đông, rất giống với khung cảnh hôm La Viễn Chinh bị giết hại. Tôi len vào đám đông, tay cầm máy ảnh, đi vòng quanh lan can bảo vệ tìm kiếm khu vực tranh sáng tác của cậu tôi. Sau khi quan sát tỉ mỉ, tôi phát hiện thấy nội dung hai bức tranh hoàn toàn giống nhau, chỉ có duy nhất một chi tiết khác biệt, đó là dưới chân Cổ Tháp, trước cổng chùa Đại Quảng Tế chỉ có ba chiến sĩ. Điều đó có nghĩa “cậu” là chiến sĩ dư. Mặc dù xung quanh ồn ào náo nhiệt, nhưng trong đầu tôi lại rất tĩnh, trực giác mách bảo, La Viễn Chinh đã phát hiện thấy khác biệt này nên định gọi điện cho tôi chăng? Và có thể do sự kích động nhất thời nên anh chọn phương án bấm số một cách vô thức. Nhưng sau khi phân tích kỹ hơn, tôi liền phủ nhận ngay suy đoán đó. Dáng vẻ của La Viễn Chinh rất hoảng hốt, theo những gì tôi biết về tính cách của chồng, một chút khác biệt này tuy đáng ngạc nhiên nhưng vẫn không đủ để anh biến đổi cảm xúc đột ngột như vậy. Vậy thì, rốt cuộc anh đã nhìn thấy gì cơ chứ? Tôi cố gắng lục lọi trong trí nhớ hình ảnh đoạn bang gi hình, từ từ bước đến vị trí La Viễn Chinh đứng, thậm chí còn bắt chước theo tư thế của anh: Trước tiên đưa tay ra vịn lan can, sau đó lùi ra xa, nheo mắt lại, chăm chú ngắm nhìn. Du khách cứ liên tục đi qua đi lại trước mặt tôi, nhưng do tập trung cao độ, điểm nhìn lại ở phía xa, nên họ đều bị kéo thành từng bóng đen quét rất nhanh qua mắt tôi, mờ mờ ảo ảo rồi biến mất. Mặc dù tôi cố đứng yên, nhưng do phản xạ có tránh né, đầu tôi vẫn không tránh khỏi bị xoay chuyển, bức tranh phía xa bị những bóng người dài ngoằng cắt qua, giống như những hình ảnh slide lần lượt được trình chiếu, thể hiện rõ từng biến đổi ở mọi góc độ. Đột nhiên, toàn thân tôi toát mồ hôi, ánh mắt tập trung vào một điểm, hình ảnh chợt hiện lên rõ mồn một. Cuối cùng tôi cũng nhìn thấy “cậu”, và “cậu” cũng đang nhìn tôi! Theo bố cục không gian trong bức tranh thì chùa Đại Quảng Tế nằm sát một con phố, theo phỏng đoán thì chính là phố Sĩ Anh ngày nay; đối diện là một dãy nhà mái bằng giống như cửa hàng, trước cửa một ngôi nhà quả là có một chiến sĩ đang đứng, tay cầm súng, mặt nhìn ra ngoài bức tranh, ngũ quan rõ ràng, trông y hệt cậu. Lúc đó, tôi vừa vặn đứng đúng vị trí đối diện với “cậu”, ánh nhìn hai bên gặp nhau, ánh mắt “cậu” vẫn mang vẻ hoang mang kinh ngạc như thế. Tại sao? Tại sao? Tại sao? Quá đỗi ngạc nhiên, tôi bất giác lùi về phía sau, hơi dịch chuyển sang trái sang phải, bỗng nhiên lại phát hiện ra thêm một điểm khác biệt nữa. Khi tôi dịch chuyển, ánh mắt của “cậu” không hề đi theo tôi, mà nhìn thẳng về phía trước, chứng tỏ hình ảnh ở đây không hề sử dụng kỹ thuật vẽ ánh nhìn đa chiều. Tại sao lại như vậy? Trong lúc lui về phía sau, đột nhiên tôi cảm giác chân mình giẫm phải một thứ gì đấy, tiếp theo đó là tiếng hét của một phụ nữ lớn tuổi. Tôi quay ngoắt lại, vội vàng xin lỗi. Người phụ nữ lớn tuổi mặt đầy tức giận, chỉ thẳng vào mặt tôi mắng nhiếc một hồi lâu rồi mới từ bỏ đi, mồm vẫn liên tục lẩm bẩm: - Nhìn cái quái gì thế không biết, cứ dán mắt vào… “Nhìn cái quái gì thế…” câu nói này chợt làm tôi ngẩn cả người, trong đầu như có tia sáng xoẹt qua, những sự việc dồn ứ trong đầu, quẩn quẩn quanh quanh, đan xen lẫn lộn, gợi cho tôi chút khái niệm mơ hồ. Tôi như thể sáng tỏ được điều gì đó, nhưng lại không thể phân tích mổ xẻ vấn đề để hình thành những đầu mối mạch lạc. Tôi chợt nhớ đến La Viễn Chinh, mù mờ hiểu ra chắc cũng tại anh nhận ra một số điểm bất thường giữa hai bức tranh nên mới vội vàng gọi điện cho tôi. Nghĩ vậy, tôi lập tức đưa ra quyết định, tuyệt đối không thể để cho tên sát thủ giấu mặt kia đoán ra được ý nghĩ của mình. Thế là, tôi chụp lại hình người chiến sĩ đó, rồi làm ra vẻ tức cảnh sinh tình đưa tay dụi dụi mắt, đứng ngay ra một lúc, sau đó mới chậm rãi rời khỏi phòng tranh. Trên đường lái xe về, mắt tôi nhìn thẳng về phía trước, cố gắng giữ chắc vô-lăng nhưng trong đàu thì cứ mải miết suy nghĩ: Tại sao cậu lại vẽ bản thân thành người chiến sĩ? Tại sao phải thay đổi vị trí nhân vật? Tại sao phải sử dụng những kỹ thuật vẽ tranh khác nhau? La Viễn Chinh rốt cuộc đã phát hiện ra điều gì trong đó? Rốt cuộc anh định nói với tôi điều gì? ©STENT Mọi thắc mắc như những hạt đậu bị rang nóng, cứ nổ lách tách lách tách trong đầu, tôi nghĩ đến nát óc nhưng vẫn không giải thích được điều gì. Khi đi qua nhà ga, vừa đúng lúc gặp đèn đỏ. Trong lúc chờ đợi tôi tắt điều hoà, mở cửa kính xe, thò đầu ra hít bầu khôn khí trong lành bên ngoài, mong có thể giải toả được trạng thái não thiếu ô-xy do phải tập trung suy nghĩ cao độ. Phải thừa nhận rằng, mọi chuyện trên đời vô cùng thú vị, những hành động vô tình lại đem đến những phát hiện ngoài sức tưởng tượng cho con người ta. Có thể nói, số phận của tôi lại một lần nữa chuyển ngoặt tại đay. Khách sạn nằm đối diện nhà ga, ngăn cách nhau bởi con phố, cao tới hai mươi tấng, bên ngoài treo những bức pano quảng cáo cực lớn. Trong đó có bức pano quảng cáo máy tính Lenovo nổi bật nhất, cô người mẫu xinh đẹp với gương mặt tươi cười rạng rỡ, một tay ôm chiếc máy tính một tay chỉ về phía trước. Do khách sạn có kiến trúc hình bán nguyệt, rất giống với kết cấu bên trong phòng tranh panorama, nên tôi để ý khá kỹ. Đột nhiên tôi phát hiện, ngón tay cô người mẫu cũng dùng kỹ xảo đa chiều đó. Hoá ra kỹ thuật này cũng khá phổ biến trong thực tế, tôi liền quan sát hướng ngón tay rốt cuộc là chỉ hướng nào rồi quay đầu nhìn theo. Đối diện với bức pano cô người mẫu là toà nhà chính của nhà ga màu vàng nhạt. Không hiểu lúc đó tôi nghĩ gì mà quay sang hạ ngay kính ghế phụ xuống để ngắm thật kỹ, ngón tay cô người mẫu hình như chỉ về chiếc đòng hồ hình vuông rất to trên đỉnh toà nhà chính. Lúc đó vừa đúng mười một giờ trưa, chuông đồng hồ chậm rãi điểm từng tiếng từng tiếng, âm thanh vang xa kéo dài lấn át hoàn toàn tiếng ồn ào trên đường phố. Tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn, trong đầu không biết nghĩ gì mà quên cả đèn xanh đã bật sáng. Những chiếc xe phía sau bực tức bấm còi thúc giục ầm ĩ, nhưng tôi chẳng nghe thấy gì. Bỗng một đồng chí cảnh sát giao thông trên đường bước đến, gõ mạnh vào kính xe, lớn giọng nhắc nhở: - Chị nhìn gì thế, còn chưa chịu đi đi! Tôi giật mình, như chợt bừng tỉnh sau cơn mơ, giây phút đan xen giữa mơ hồ và tỉnh táo trong đầu khiến tôi chợt hiểu ra được một số điều. Tôi từ từ ngẩng mặt lên nhìn đồng chí cảnh sát, nhẹ nhàng nói: - Anh nhìn gì thế? Thấy anh cảnh sát nghệt mặt ra, tôi cũng chẳng buồn giải thích, chỉ cười cười rồi nhấn ga, lái xe thẳng một mạch về nhà. Dạo này liên tục xảy ra những chuyện không hay nên tôi chẳng buồn dọn dẹp nhà cửa, phòng ốc bừa bãi lộn xộn, bức tranh của cậu bị tháo rời, nằm yên trên sàn phòng khách. Tôi day mạnh hai bên huyệt thái dương, đợi đầu óc hoàn toàn minh mẫn rồi mới tỉ mỉ ngồi ghép lại bức tranh, dựng vào lưng ghế sô-pha. Tôi tìm đúng vị trí trong phòng tranh lúc đó, khuỵu gối xuống, nheo mắt lại quan sát. Trước cửa hàng bên đường quả đúng thiếu một người. Tôi mở máy ảnh ra, tìm bức ảnh chụp người chiến sĩ, đặt màn hình hướng ra ngoài rồi từ từ quay về vị trí cũ quan sát. Lúc này, người chiến sĩ nhìn thẳng vào tôi, hoàn toàn trùng khớp với khung cảnh trong phòng tranh panorama. Tôi lần tìm lại cảm giác kỳ lạ lúc trước đo, nín thở, từ từ nghiêng người, theo ánh mắt của người chiến sĩ quay đầu nhìn lại phía sau, chỗ đó chính là bức tường treo ti-vi trong phòng khách. Lúc La Viễn Chinh phát hiện ra điều bất thường của bức tranh trong phòng tranh panorama, đầu óc bỗng nhiên bị xáo trộn, hoàn toàn giống với trạng thái mà tôi vừa trải qua, đây chính là cảm xúc thông thường của con người cũng chính là mấu chốt vấn đề mà tôi đã nghĩ đến. Cậu vẽ mình thành người chién sĩ, chắc chắn có dụng ý sâu xa nào đó, có thể chính cậu đã dựa vào hiệu ứng cảm xúc thông thường này để sáng tác bức tranh chăng. Nếu người chiến sĩ này là cậu, vậy lúc này nếu ở nhà cậu ánh mắt người chiến sĩ sẽ chỉ đến đâu? Tôi cố gắng nhớ lại cách bài trí trong nhà cậu, vị trí này cũng đặt chiếc ti-vi, nhưng phía trên đó lại treo một bức thư pháp nằm ngang, có viết bảy chữ thảo lớn “Hoạ long hổ nan hoạ cốt”, nét chữ rồng bay phượng múa, thế nhưng bây giờ nó đã bị đốt mất. Bức thư pháp ấy không rõ được treo từ bao giờ, chỉ biết rằng khi tôi bắt đầu có trí nhớ thì đã thấy nó được treo ở đó, nghe nói là của một nhà thư pháp nổi tiếng tặng cho cậu. Còn nhớ hồi nhỏ tôi đã từng hỏi cậu, có phải bức thư pháp đó có nghĩa là xương khó vẽ nhất đúng không. Cậu xoa đầu tôi cười lớn, không trả lời câu hỏi mà chỉ nói cậu thích câu nói này, nó luôn nhắc nhở bản thân rằng nghệ thuật không có điểm dừng, đừng bao giờ kiêu căng tự mãn. Mãi đến sau này lớn lên, tôi mới hiểu được hàm ý của câu nói đó không hề đơn giản như mình nghĩ, và tôi cũng biết được sau nó còn có vế câu “Tri nhân tri diện bất tri tâm”. Thế nhưng tôi chưa bao giờ nghe thấy cậu kể tại sao lại chỉ chọn vế đầu mà không làm thành câu đối hoàn chỉnh. Tôi nhìn chăm chú, trong óc như có một cỗ xe đang phóng với tốc độ cao cùng đủ mọi âm thanh hỗn loạn, tôi cứ quỳ mãi cho đến khi hai đầu gối tê dại mới chuyển sang ngồi bệt xuống sàn. Tôi cố tĩnh tâm sắp xếp mớ suy nghĩ hỗn độn trong đầu. Không biết mất bao lâu, tôi mới từ từ ngẩng đầu lên, nhìn hình ảnh cậu trong máy ảnh, bất giác nhoẻn miệng cười. Tôi nghĩ mình đã tìm ra bí mật cậu để lại! (Để tiện phân biệt, tạm thời tôi sẽ gọi bức tranh trong phòng tranh panorama là tranh lớn, bức tranh cậu sao chép lại là tranh nhỏ). Thực ra cậu đã ra một câu đố vô cùng phức tạp cho chúng tôi. Người chiến sĩ trong bức tranh nhỏ sử dụng kỹ thuật vẽ tranh đặc biệt, ánh mắt di động, không rõ định hướng, khiến người ta khó bề nắm bắt. Còn chiến sĩ trong bức tranh lớn mắt cố định, khiến người xem nhìn thấy ngay. Hai nhân vật tuy đều là hình ảnh cậu, nhưng vị trí đứng không giống nhau, chính là để ám chỉ sự thay thế giữa không gian và nhân vật. Lấy người chiến sĩ trong bức tranh lớn thay vào bức tranh nhỏ ở nhà câu, thì ánh mắt sẽ nhìn thẳng vào bức thư pháp trên bức tường đối diện. Còn câu “Hoạ long hổ nan hoạ cốt” ngầm ám chỉ một điều, bí mật thực sự không nên thể hiện ra ngoài mà nên cất giấu phía trong. Khi đốt tranh, tôi đã ngắm khá kỹ bức thư pháp đó, nó được đóng khung cẩn thận, nhưng không có gì đặc biệt, điều đó chứng tỏ: Bí mật mà cậu muốn cất giấu, có lẽ đã được ẩn mình trong vách tường phía sau bức thư pháp. Lần này, tôi có thể khẳng định bí mật đó vẫn sẽ liên quan đến mảnh da người. Nghĩ vậy, tôi thở dài một tiếng, chợt cảm thấy nhẹ nhõm dễ chịu vô cùng. Với nhận định này, tuy trước khi nhắm mắt cậu đã trăn trối yêu cầu chúng tôi hoả thiêu cả thi thể và bộ sưu tập tranh, nhưng từ trong sâu thẳm trái tim, cậu vẫn hi vọng ai đó sẽ hiểu được ẩn ý của cậu và giải được bí mật đó. Thế nhưng, tại sao cậu phải dốc hết tâm can, sử dụng ám hiệu phức tạp như vậy chứ? Nếu không phải do cơ duyên trùng hợp, tôi sẽ không bao giờ phát hiện được ra. Còn nữa, La Viễn Chinh chắc chắn cũng đã nghĩ đến những điều này nên mới có phản ứng mạnh mẽ thế. Thế nhưng kỳ lạ ở chỗ, nếu nói La Viễn Chinh cũng đã giải được câu đố này, tại sao anh không gọi điện cho tôi trước mà lại gọi cho người khác, điều này vô cùng khó lý giải. Nghĩ rằng việc không thể chần chừ, tôi quyết định tạm thời gác những nghi vấn đó lại, lập tức đến nhà cậu để kiểm chứng những suy đoán của mình. Nhưng vừa định đứng dậy, tôi lại chợt băn khoăn không biết nên đánh lạc hướng những con mắt xung quanh như thế nào? Tôi ngồi trên sàn nhà, vắt óc suy nghĩ, cuối cùng cũng ra được một kế. Cậu tôi không vợ không con, quyền thừa kế tài sản nghiễm nhiên thuộc về mẹ tôi. Nhưng mẹ tôi hiện giờ đang bị tai biến, mỗi ngày riêng tiền thuốc đã mất hàng nghìn tệ, sắp tới còn phải làm phẫu thuật, tiền bạc trong nhà cũng đã gần cạn kiệt. Tôi thì còn trẻ chưa tích luỹ được gì, hiện giờ không những mất chồng lại còn mất việc, như vậy hoàn toàn có thể lợi dụng điểm này để tung hoả mù. Quyết định xong, tôi cảm thấy hơi có lỗi với cậu, nhưng nghĩ đi lại, chẳng phải cậu cũng hi vọng sẽ có người giải được bí mật đó hay sao, thế là tôi lại thấy nhẹ lòng. Ngày hôm sau, tôi đi đến nhà họ hàng thân thích, báo với họ rằng sẽ bán tài sản và căn nhà của cậu để gom tiền chữa bệnh cho mẹ, còn dặn mọi người tìm giúp người mua, giá cả không quan trọng, chỉ cần hợp lý là được. Hầu hết mọi người nghe vậy đều tỏ ra thông cảm, mấy tháng nay liên tục xảy ra những chuyện không hay, quả thực đã gây quá nhiều khó khăn cho gia đình tôi. Sau nhiều lần giao dịch, cuối cùng tôi cũng liên hệ được với một người mua, giá cả cũng được thoả thuận nhanh chóng. Buổi sáng hôm đó, tôi thuê mấy cửu vạn ở chợ người về, bắt đầu cho chuyển bàn ghế và đồ đạc trong nhà cậu. Nhà cậu rộng, phải tới hơn 170 mét vuông, là căn nhà do Uỷ ban Chính hiệp thành phố phân cho vào năm 1998. Đồ đạc trong nhà rất nhiều, chỉ riêng bộ bàn ghế đã tới hơn hai mươi món, rồi còn vô số các loại đồ cổ, đồ sưu tầm nữa. Đội cửu vạn phải mất trọn ba ngày vừa dỡ vừa đóng, chở đi chở về mới chuyển xong đồ đạc trong nhà cậu. Ba ngày này, tôi cũng không được thảnh thơi, liên tục phải giám sát bên cạnh, chỉ huy công việc, mắt không rời khỏi vị trí treo bức thư pháp. Tôi nhận thấy các bức tường được dán giấy in hoa vàng nhạt, đã quăn mép và phai màu, trong khi đó. Vị trí chỗ tường được bức thư pháp che phủ sạch sẽ hơn nhiều so với những vị trí xung quanh, để lộ một khoảnh hình chữ nhật nhàn nhạt. Trưa ngày thứ ba, tranh thủ lúc đội cửu vạn ra ngoài ăn cơm, tôi quyết định ra tay. Tuy ở trên tầng hai, nhưng phòng khách có một cửa sổ khá lớn, thoáng mát, nhìn được ra khoảng không phía xa. Ban ngày không tiện kéo rèm, để tránh có người nhòm ngó, tôi cố tình bảo cửu vạn chất đống vỏ thùng các-tông, sách vở và những đồ đạc linh tinh ở đó để che bớt tầm nhìn phía ngoài cửa sổ. Sau khi đóng cửa, căn phòng trở nên yên tĩnh lạ thường, tim tôi bắt đầu đập thình thịch, hai tay toát mồ hôi, một cảm giác hồi hộp chưa từng có xuất hiện tựa hồ như bí mật đó đã ở ngay trước mắt. Tôi đứng trước bức tường ngắm nghía một lúc, sau đó vào kho tìm búa và tua-vít rồi trở lại phòng khách, kéo chiếc ghế gấp cũ kỹ lại, trèo lên, bắt dùng tua-vít cạo lớp giấy dán tường phía ngoài khu vực treo thư pháp, bên trong lộ ra bức tường đá rêu xanh. Lo sợ có người nghe lén ngoài tường, tôi không dám gõ mạnh tay mà quay đầu búa, dùng cán gỗ gõ nhè nhẹ vào tường, vừa gõ vừa ghé sát tai lắng nghe, cố gắng phân biệt âm thanh ở từng chỗ khác nhau, Do đồ đạc trong phòng đã dọn gần hết, nên cứ mỗi nhát búa lại nghe thấy tiếng vọng từ tứ phía. Thấy không ổn, tôi lấy tay trái giữ chặt đầu búa, tránh trường hợp do quá run mà lực gõ không đều. Cuối cùng, khi cán búa chạm vào chỗ mà trước đó là vị trí của chữ “Cốt” trong bức thư pháp, người tôi chợt run bắn, suýt chút nữa kêu lên thành tiếng. Âm thanh chỗ này không còn trầm trầm chắc nịch nữa, mà là tiếng coong coong trống rỗng. Quả đúng như tôi dự đoán, sau bức thư pháp đúng là có bức tường kép. Tôi mừng thầm trong bụng, gõ tiếp vài nhát để định vị, tìm đúng khe nối ngoài rìa, cắm chặt mũi tua-vít vào rồi dùng búa gõ mạnh. Phù! Mũi tua-vít vừa đâm sâu vào vài mi-li-mét, bức tường rêu xanh liền nứt thành từng vệt, sau những tiếng lách tách liên tục, những vệt nứt bao trùm toàn bộ diện tích khu vực chữ “Cốt”, giống như mạng nhện chằng chịt. Tôi cắn chặt môi, nắm chặt tua-vít trong tay, vặn từ từ, từng mảnh vỡ to nhỏ thi nhau rơi lộp bộp xuống đất. Tôi cố dặn mình không được nôn nóng, rút tua-vít ra, nhẹ nhàng cạo những mảng tường nứt, phía trong dần lộ ra một lớp thạch cao màu xám nhạt, không hề nhìn thấy tường gạch. Tôi thò tay chạm thử, thấy phẳng và cứng giống bột bả tường, trên bề mặt chằng chịt những vết hoa văn, không biết nó đã được đặt ở đây bao nhiêu năm rồi. Tôi dắt chiếc búa vào sau lưng, hai tay nắm chặt tua-vít, bẩy mạnh đám bột bả lên. Lớp bột bả ăn sâu vào tường chừng năm sáu cen-tin-mét, do bị kết lại từ lâu nên rất khó cậy. Tôi lại không dám quá mạnh tay, sợ bị người khác nghe thấy. Sau khi cậy được hết đám bột bả, trên tường tro lại một cái hõm vuông vức, trên dưới trái phải đều là gạch đỏ. Tôi nhòm vào trong, dưới đáy hõm hình như có một tấm gỗ hồng mộc, xung quanh không thấy khe hở nào, có vẻ như nó là tấm gỗ chắn. Gỗ hồng mộc vừa cứng vừa chắc, khó bị mục ruỗng, lại được bảo quản khá nguyên vẹn, phản chiếu ánh sáng mờ mờ. Tôi hơi sốt ruột, nếu gõ mạnh hơn sẽ dễ gây tiếng vang, thế nhưng thời gian cấp bách, nếu tôi không nhanh chóng quay ra sẽ khiến người khác nghi ngờ. Tôi suy nghĩ thật nhanh, quyết định không quay ra ngay mà sẽ đục tấm gỗ ra. Nhưng khi vừa giơ chiếc búa lên tôi chợt dừng lại. Bề mặt tấm gỗ không hoàn toàn nhẵn bóng, có vẻ như nó được khắc hoa văn mờ mờ thì phải. Tôi vừa mừng vừa lo, vội đưa tay sờ thử, đồng thời rọi chiếc đèn pin mini rồi thò đầu vào bên trong. Những hình hoa văn đó hơi đậm so với màu gỗ, lấy đầu ngón tay miết thử thì thấy ram ráp những lỗ li ti dày đặc giống như được khắc bằng kim, tạo thành những đường uốn lượn theo phương nằm ngang ở vị trí trung tâm tấm gỗ, hai đầu kéo dài ẩn vào thân tường. Tôi gật gù, xem ra bí mật chính là đây rồi. Nếu ngu ngốc dùng búa phá hỏng nó thì có lẽ bây giờ tôi hối hận chết mất. Tôi thò cán búa vào trong, gõ nhẹ vài nhát, âm thanh phát ra thật lạ, cảm giác giống như tiếng kim loại. Mối nghi ngờ trỗi dậy, rõ ràng là gỗ sao lại gõ nghe có tiếng kim loại chứ? Quá đỗi tò mò, tôi tiếp tục dùng tua-vít cắm vào đầu không khắc hoa văn của tấm gỗ, vặn siết mấy vòng, phát ra tiếng cót ca cót két ghê tai. Nhưng quan sát tấm gỗ, tuyệt nhiên không thấy để lại vết tích gì. Khỉ thật! Đây là lại gỗ quỷ quái gì chứ, sao mà cứng thế không biết, tôi bực mình lẩm bẩm chửi thầm. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy không thể chần chừ được nữa, nếu bây giờ bỏ đi, căn nhà sau này sẽ thuộc quyền sở hữu của người khác, như vậy mọi công sức của tôi từ trước đến giờ đều đổ sông đổ biển hết. Tôi quyết định dùng tua-vít cắm vào khe nối giữa gỗ và tường, tay trái giữ cố định, lấy cán gỗ làm điểmtỳ, tay phải ấn xuống, dùng hết sức bình sinh bẩy mạnh lên, làm bật cả một viên gạch ở bên cạnh. Thấy viên gạch sắp rơi xuống, tôi vội đưa tay ra đỡ lấy rồi nhẹ nhàng đặt xuống đất. Thấy đã sắp thành công, tôi không dám để lỡ thời gian, liền cậy nốt ba viên gạch còn lại, cả tấm gỗ được chôn sâu vào trong. Tôi hít một hơi, từ từ thò hai tay vào nhẹ nhàng nhấc tấm gỗ ra. Tấm gỗ không nhỏ, dài khoảng 20 cen-ti-mét, rộng khoảng 3 cen-ti-mét, hình chữ nhật vuông vức, bề mặt không đánh véc-ni nên vẫn còn giữ những vân gỗ tự nhiên, các đầu góc tròn trịa, nhẵn bóng, nặng khoảng 3,5 - 4 ki-lô-gam. Tôi lật tấm gỗ lại, phát hiện những hoa văn đó quấn xung quanh thân gỗ, hai đầu gặp nhau ở mặt sau, chính là hai đầu rồng đối nhau. Mặc dù được tạo thành từ chuỗi lỗ nhỏ li ti nhìn có vẻ đơn giản nhưng lại cực kỳ tinh xảo, có thần thái. Đôi rồng nhe nanh giơ vuốt, vẩy rồng sắc nét, ở thế chuẩn bị gào thét bay lên. Nhưng kỳ lạ ở chỗ, đây lại là con rồng một thân hai đầu không có đuôi. Sợ ở trong phòng quá lâu, tôi không tiện ngắm kỹ, nhanh tay ghép những viên gạch vào chỗ cũ, lấy bột bả nhét đầy chỗ trống, rồi dùng loại keo cực dính dán lại tấm dán tường cẩn thận. Tôi đứng ngắm nghía cẩn thận, trông hoàn toàn nguyên vẹn, chắc sẽ không bị ai phát hiện ra, sau đó tôi gập chiếc ghế gấp lại, kéo ra xa. Nhìn tấm gỗ dưới nền nhà, tôi không biết tính thế nào, hôm nay quên không mang túi xách, lại mặc ít quần áo, làm thế nào mang ra ngoài bây giờ. Rất nhiều suy nghĩ ập đến, nhưng mãi vẫn không nghĩ ra cách gì ổn thoả, tôi sốt ruột đi lòng vòng trong phòng, toát cả mồ hôi trán. Lúc nghiêng đầu lau mồ hôi, tôi chợt nhìn thấy mấy thùng sách xếp trước cửa sổ, một ý nghĩ loé lên trong đầu. Đã có cách! Tôi vội chạy lại, chọn một cuốn to nhất, dày nhất, bìa màu xanh đậm, hình như là cuốn lý thuyết tranh sơn dầu gì gì đó. Đặt cuốn sách xuống sàn nhà, tôi lật trang bìa cứng ra, rồi sau đó bắt chước nhân vật chính trong phim Nhà tù Shawshank, cầm tua-vít đâm mạnh nhiều nhát vào những trang sách bên trong. Vụn giấy bay tả tơi, ruột sách bị khoét thành một hình chữ nhật. Tôi nhét tấm gỗ vào trong, gập bìa sách lại, vừa khít, không thấy gì bất thường. Tôi nhanh chóng vơ gọn chỗ vụn giấy bỏ vào bồn rửa mặt, bật lửa đốt sạch, sau đó vặn vò xả sạch tro tàn. Quay trở ra, cầm cuốn sách lên, suy nghĩ một lát, tôi liền đặt nó lên phía trên cùng đống sách. Nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất, điều này đương nhiên tôi hiểu. Tiếp đó, tôi khom người đi ra ban công, vơ lấy một nắm đất, quay lại cửa phòng khách, rắc đều quanh diện tích khoảng chừng một mét vuông. Khi khoá cửa, tôi còn dứt một sợi tóc nhét vào khe cửa rồi nhanh chóng bước xuống lầu. Nhà cậu tôi ở cạnh trường Đảng cũ Thạch Kiều Tử, ngay sát trường Đại học Công nghiệp Liêu Ninh, cũng rất gần với khu tập thể công ty Thạch Hoá, là khu đông dân cư, rất nhiều cửa hàng cửa hiệu lớn nhỏ được xây dựng dọc hai bên đường. Tôi đút hai tay vào túi quần, nhìn quanh quất xung quanh, rồi bước vào một quán ăn nhỏ ven đường, gọi món bánh cảo thịt bò và một đĩa dưa chuột dầm ăn lót dạ. Lúc đó vừa đúng giờ cơm trưa, trong quán chật kín chỗ, tiếng người cười nói ồn ào, hầu hết đều là sinh viên trường đại học quanh đó. Việc ăn trưa tại đây cũng đã được tôi tính toán trước. Những kẻ theo dõi chắc chắn không muốn bị tôi nghi ngờ, nên sẽ đợi ngoài cửa, tạo cơ hội để tôi có thời gian tính toán đemtấm gỗ ra bằng cách nào. Tôi nhai trệu trạo, trong đầu cứ nghĩ mãi tại sao cậu lại chôn tấm gỗ vào trong tường, tại sao chất gỗ lại cứng đến thế, lẽ nào cậu phát hiện ra loại vật chất mới? Tôi thầm nghĩ: Khỉ thật! Cứ như chuyện khoa học viễn tưởng vậy, chả khác gì Vệ Tư Lý[1]. Thế nhưng bây giờ đã tìm được tấm gỗ, đồng thời cũng đã nguỵ trang cẩn thận rồi, việc cần làm lúc này là tìm đưa nó ra ngoài một cách hợp tình hợp lý. Nhưng tấm gỗ quá lớn, không thể giấu bên người được, kể cả chờ đến chiều tối mới cắp cuốn sách đi ra cũng không phải là thượng sách. [1] Tên nhân vật trong seri truyện Hệ Tư Lý hệ liệt cuả nhà văn Hồng Kông nổi tiếng Nghê Khuông. Đang lúc suy nghĩ miên man, phía sau chợt vang lên tiếng cười nói của mấy nam sinh viên, có người còn gõ bàn đập ghế phụ hoạ nữa, chẳng biết có chuyện gì mà họ lại vui như vậy. Đang sẵn bực bội, tôi định quay lại nhắc nhở, nhưng mấy câu nói tiếp theo của các cậu sinh viên đã khiến tôi lập tức dừng ngay ý nghĩ đó. Tội dựng tai nghe ngóng thông tin, phân tích trong đầu, rồi ngay lập tức nghĩ ra một sáng kiến, có thể nói là vô cùng tuyệt vời. Tôi vội vàng ăn sạch cơm canh, đứng dậy đi sang bàn bên cạnh bắt chuyện. Khi biết các em đều là sinh viên khoa thiết kế nghệ thuật trường Đại học Công nghiệp Liêu Ninh, tôi liền nói dối là hôm nay chuyển nhà, hỏi họ có muốn mua một số sách lý luận giá rẻ không. Trí nhớ của tôi rất tốt, để gợi thêm sự tò mò của họ, tôi kể ra cài tên sách đã xem qua ở nhà cậu. Bọn họ quả nhiên rất hứng thú, nhất là khi nghe đến giá cả, liền lập tức tỏ ý muốn mua. Lúc này, trưởng nhóm cửu vạn gọi điện cho tôi, nói họ đã ăn cơm xong, buổi chiều khi nào có thể tiếp tục làm. Tôi vội vàng thanh toán, kéo theo mấy sinh viên đó về nhà cậu, bảo họ đợi dưới tầng. Lúc mở cửa, tôi che người chắn tầm nhìn của mấy tay cửu vạn đứng phía sau, cố tình thực hiện các động tác thật chậm, quan sát tỉ mỉ lỗ khoá thấy không phát hiện điều gì bất thường, nhưng sợi tóc ở khe cửa thì không thấy đâu nữa. Tôi cắn răng cười khẩy một tiếng, cũng khá nhanh đây, trong lúc tôi đi ăn cơm đã có kẻ chui vào rồi. Đây được coi là nghệ thuật mở khoá điển hình, sử dụng công cụ đặc biệt kết hợp thủ pháp điêu luyện để mở lõi khoá trong khi vẫn giữ nguyên bề ngoài khoá. Xem ra bọn chúng không những là hắc thủ mà còn là cao thủ. Bước vào phòng, tôi nhìn thấy lớp đất trên mặt sàn xuất hiện những vết chân mới, kích thước khá to, có lẽ là của đàn ông, hướng về cả trước và sau. Liếc nhìn cuốn sách, lạy trời lạy đất nó vẫn còn nguyên. Tôi mừng thầm trong bụng, biết chúng không phát hiện ra điều gì, liền yêu cầu đội cửu vạn khiêng mấy thùng sách đó xuống chỗ khô ráo dưới tầng, xếp chật kín một khoảng. Tôi nhấc quyển sách lên, thấy nặng tay biết là tấm gỗ vẫn còn đó, liền tiện tay kê xuống dưới mông, ngồi chào mời sinh viên đến xem sách. Do giá tôi đưa ra rất rẻ nên các bạn sinh viên mua khá nhiều, còn gọi thêm các bạn bè đến xem. Chỉ trong một buổi trưa, sách đã bán gần hết, chỉ còn lại hai quyển, tôi đem tặng nốt cho cô bé đeo kính. Nhìn cô bé ôm sách mừng rỡ bước đi, tôi bề ngoài vừa giả vờ như đang hóng mát đếm số tiền lẻ trong tay, nhưng trong lòng căng thẳng vô cùng. Nếu lúc này bọn chúng thừa cơ đến tấn công, chỉ cần lật giở bìa sách thì mọi chuyện sẽ bị lộ tẩy hết. Ít phút sau, mấy tay cửu vạn hò nhau khuân đồ cuối cùng xuống, tôi mới thở phào nhẹ nhõm, nhặt cuốn sách lên, rồi cùng họ lên chiếc xe chở hàng đã thuê từ trước đó. Sau khi vận chuyển đến tận nơi người nhận, thanh toán nốt số tiền còn lại, chúng tôi tiếp tục lái xe trở về. Đến cổng khu chung cư nơi tôi ở, trước khi xuống xe, tôi đem mấy món đồ thủ công mỹ nghệ đã chọn trước đó và cả cuốn sách xếp vào trong chiếc thùng các-tông khá to, nhẹ nhàng ôm trước ngực, thong thả bước về nhà. Mấy bước đường ngắn ngủi, nhưng trên quãng đường hơn năm mươi mét ấy, tôi tuy vẻ ngoài thong dong nhưng trong lòng hồi hộp căng thẳng tột cùng. Tôi đi rất chậm, nhìn dáo dác xung quanh, miệng lẩm nhẩm huýt sáo, thậm chí ngay cả lúc cúi xuống thắt dây giầy tôi còn cố tình đạt chiếc thùng xuống bên cạnh, mục đích là để cho những “con mắt” kia nhìn thấy ngay bên trong toàn những đồ linh tinh. Vừa bước qua cửa nhà, tôi lập tức quay người lại nín thở, áp sát tai vào cánh cửa, cố gắng nghe ngóng động tĩnh phía ngoài. Khoảng năm phút, xác định không có người theo dõi, tôi mới nhón chân bước vào phòng khách, đặt chiếc thùng xuống đất, lấy tấm gỗ ra, ngồi trên ghế sô-pha bắt đầu quan sát cẩn thận. Tôi lấy tay áo lau qua bụi trên bề mặt, tấm gỗ trở nên bóng đỏ, thậm chí còn có cảm giác trong suốt như pha lê, bốn cạnh được đánh ráp cẩn thận, ngoài hình chạm rồng ra, không chỗ nào có dấu hiệu bị sứt mẻ hay mục ruỗng. Hình rồng được chạm trổ hết sức kỳ quặc, không phải là chạm trổ thông thường mà được tạo thành bởi những lỗ nhỏ li ti nối liền với nhau, mỗi lỗ chỉ nhỏ bằng đầu tóc, đâm sâu vào thân gỗ, ngoài rìa được sơn bằng loại sơn dầu màu đỏ sẫm, thấm sâu vào thân gỗ, lan toả đều các lỗ, khiến ta có cảm giác như màu sắc tự nhiên. Đưa tấm gỗ lên mũi ngửi, thấy có mùi thơm nhẹ đặc trưng của gỗ. Tôi lật đi lật lại tấm gỗ, quan sát tới hơn chục phút, ngoài cảm giác nặng tay, tôi chẳng nhận ra thêmđiều gì. Cong tay gõ vài nhát, thấy có tiếng vang dứt khoát, giống y hệt âm thanh của kim loại. Mất cả một buổi chiều chẳng làm gì, chỉ ôm tấm gỗ hồng mộc xem xét, đến tối, tôi ăn vội mấy miếng mì gói, kéo rèm cửa sổ phòng ngủ lại, đặt tấm gỗ phía dưới đèn bàn quan sát, nhưng dù ở góc độ nào, nguồn sáng nào thì tầm gỗ vẫn chẳng có gì khác thường. Không hề nản chí, tôi tiếp tục bê chậu nước ra, nhẹ nhàng đặt tấm gỗ xuống, gợn nước từ từ lan ra, những lỗ li ti của hình chạm rồng tạo ra vô số bọt nước bé xíu trên mặt nước rồi lần lượt vỡ tan biến. Rất lâu, tôi vẫn chẳng thấy phản ứng gì. Tôi lấy khăn mặt lau khô tấm gỗ, đặt lên bàn, khoanh chân ngồi trên chiếc giường đối diện, tay chống cằm, lặng lẽ quan sát, tuyệt nhiên không thấy dấu vết gì. Cậu tôi đã mất công cất giấu kỹ như vậy, rốt cuộc tấm gỗ hồng mộc chết tiệt này ẩn chứa bí mật gì đây? Lúc này tôi không thể giao nó cho đơn vị để tiến hành giám định kỹ thuật, cũng không thể mạo hiểm dùng ngoại lực tháo rời, thế nhưng nếu chỉ ngồi suy luận lung tung cũng không phải cách hay. Nghĩ vậy, tôi quyết định tạm thời gác những thứ đó lại, tiếp tục lên kế hoạch các bước tiếp theo. Chương 6: Hồng mộc nghìn năm tuổi Tiểu Đường đưa tay phải ra, ngón tay thon dài trắng nõn, gạt nhanh giữa rừng kim giống như đánh đàn piano, thoáng chốc trên ngón tay đã xuất hiện cây kim dài chưa đến ba cen-ti-mét. Động tác dù không quá nhanh, nhưng tôi vẫn không thể nhìn rõ cách làm cụ thể của cô gái. Tiểu Đường khéo léo giữ chân kim, nhúng vào lọ sứ màu lục ngoáy tròn, khi rút cây kim ra, đầu kim đã chuyển màu xanh lam đậm sáng bóng. Sáng sớm hôm sau, sau khi ăn sáng qua loa, tôi nhét tấm gỗ vào túi xách rồi đi ra khỏi nhà. Vừa rời khỏi khu chung cư được vài bước, tôi bỗng thấy lợm giọng buồn nôn, liền ngồi sụp xuống bên cạnh bồn hoa ven đường và nôn thốc nôn tháo. Gần đây triệu chứng ốm nghén ngày càng xuất hiện rõ rệt, xem ra cần sớm đi giải quyết cái thai. Tôi cố kìm những đợt ợ chua đang cuộn lên trong dạ dày, bắt xe đến bệnh viện phụ sản thành phố, nhờ người quen tiến hành làm xét nghiệm chọc dò ối, kết quả xét nghiệm cho thấy cái thai trong bụng là con trai. Cầm tờ kết quả xét nghiệm trên tay, tim tôi đập loạn xạ, vừa buồn chán vừa đau khổ, tôi hỏi dò bác sĩ xem bao lâu thì uống được thuốc sổ thai. Bác sĩ vốn là chị dâu của cô bạn thân thời trung học của tôi, chị ta nhìn tôi dò xét hồi lâu mới ngập ngừng cho biết, trong ba tháng đầu có thể dùng thuốc, chỉ có điều rất nguy hiểm, sức khoẻ rất khó hồi phục, còn có khả năng dẫn đến vô sinh vĩnh viễn. Chị còn hỏi tôi thai nhi rõ ràng là con trai, sao lại muốn bỏ, tôi bây giờ đã ba mươi, đã thuộc trường hợp sản phụ cao tuổi, nếu không may bị vô sinh thì chữa trị sẽ không kịp nữa. Tôi ngây người, mãi lâu sau mới gật đầu, nói rằng tiện muốn hỏi cho biết, sau đó cảm ơn bác sĩ rồi chầm chậm rời khỏi bệnh viện. Bên ngoài mặt tròi gay gắt chiếu thẳng vào đầu vào mặt khiến tôi choáng váng, mắt mũi hoa lên. Tôi bước chậm rãi, sắc mặt vẫn thản nhiên như không, nhưng trong lòng thì đang dày vò ghê gớm. Tôi nắm chặt tay, gào lên không thành tiếng: Viễn Chinh, em xin lỗi! Con trai, mẹ xin lỗi… Việc làm tiếp theo quả là vô cùng đau khổ, tôi thực sự không muốn nhớ lại. Qua bạn bè, tôi âm thầmmua thuốc sổ thai để từ bỏ đứa con trai mà tôi chưa thấy mặt, cũng chính vì thế tôi đã phải chịu nỗi đau mà người khác thật khó có thể hình dung, và rồi cam chịu cả đời mất đi khả năng làm mẹ. Tôi chỉ nhớ rằng, giây phút nuốt thứ thuốc đó vào bụng, nước mắt tôi đầm đìa, tim như bị hàng ngàn hàng vạn mũi kim châm. Con yêu của tôi, con yêu của tôi… Sau đó, tôi cắn răng chịu đựng những phản ứng do thuốc sổ gây ra, hàng ngày vẫn xuất hiện bình thường trước mặt người thân bạn bè, cố không tỏ ra điều gì bất thường, nhưng trong bụng thì ngày đêm nhẩm tính ngày tính tháng, mỗi ngày lại phải quấn thêm một lượt khăn quanh bụng, còn phải cố làm ra dáng của bà bầu. Rất đơn giản, tôi cần tận dụng cơ hội là một bà bầu để làm tê liệt những đôi mắt vô hình kia. Tranh thủ thời gian khẩn trương kết thúc mọi hành động tại Cẩm Châu. Ngày tháng cứ thế trôi qua lặng lẽ như dòng nước, bụng tôi cũng càng ngày càng “to”. Mặc dù tôi hiểu rõ, mọi lúc mọi nơi đều bị giám sát, nhưng tôi cảm nhận được rõ rệt những đôi mắt đó đã không dính chặt theo nữa, có thể chúng nghĩ rằng tôi đã từ bỏ hoàn toàn ý định điều tra, chuyên tâm làm một bà mẹ đợi ngày sinh. Thầy liệm trang Mã Trấn Quốc vẫn không rõ sống chết ra sao, vụ sát hại La Viễn Chinh và Phùng Siêu vẫn chẳng có tiến triển gì; tay tài xế xe bán tải, tài xế xe Accord và gã lùn vẫn như bốc hơi khỏi trần gian… Có thể nói là hết cách. Lâu dần, tôi bắt đầu sinh nghi. Tôi không tin phía cảnh sát lại vô dụng như vậy, tình tiết vụ án sờ sờ trước mắt, tại sao lâu như vậy vẫn chưa điều tra ra manh mối gì. Nhưng nghĩ lại, có lẽ Mã Vân Vĩ cố ý giấu giếm vì không muốn tôi tiếp tục mạo hiểm nữa. Từ bỏ hết hi vọng nơi cảnh sát, tôi bắt đầu tự lên kế hoạch hành động. Bức tranh sao chép đó được vẽ sau khi hoàn thành bức tranh panorama vào tháng Mười năm 1989, vậy tấm gỗ hồng mộc chắc chắn phải có trước thời gian này. Và việc cậu lấy sáng tác tranh làm ám hiệu, chứng tỏ ý tưởng đó được nảy sinh trong thời gian tham gia sáng tác bức tranh panorama. Để khẳng định giả thiết này, tôi vùi đầu vào thư viện thành phố, tìm đọc một loạt những tài liệu lịch sử liên quan đến bức tranh panorama Cẩm Châu, lấy máy ảnh chụp lại, rồi lại lên mạng tìm tài liệu liên quan, in ra từng trang một. Tài liệu nhiều vô kể, tôi kiên trì bỏ ra ba ngày sắp xếp tổng hợp tài liệu, tìm ra những thứ thực sự giúp ích cho tôi. Bức tranh panorama Cuộc tiến công Cẩm Châu trong nhà tưởng niệm chiến dịch Liêu Thẩm được sáng tác sau khi nhận được sự phê chuẩn của Tổng cục Chính trị Quân uỷ Trung ương, đơn vị thực hiện là Quân khu Thẩm Dương và chính quyền thành phố Cẩm Châu. Đây được coi là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, mục đích là tái hiện hình ảnh chiến tranh khốc kiệt hồi đó, kết hợp hoàn hảo tính chân thực và tính nghệ thuật. Quân khu Thẩm Dương đã mời rất nhiều hoạ sĩ, học giả nổi tiếng của Học viện Mỹ thuật Trung ương, Học viện Nghệ thuật Giải phóng quân và Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn Thẩm Dương cùng hoạ sĩ Tôn Anh Thạch của Cẩm Châu lập thành tổ sáng tác, ngoài ra họ còn mời đến không ít những lãnh đạo, chiến sĩ đã từng tham gia chiến dịch Liêu Thẩm làm cố vấn lịch sử. Tổ sáng tác làm việc theo nguyên tắc khách quan cẩn trọng, đã nhiều lần tiến hành điều tra thực địa khắp thành phố Cẩm Châu. Quân khu Thẩm Dương còn cử hai máy bay chuyên dụng đưa các hoạ sĩ bay vòng quanh Cẩm Châu ở tầm thấp quan sát nhiều lần, chụp lại rất nhiều ảnh và ghi hình tư liệu. Sau đó, tổ sáng tác còn đến hai thành phó của Liên Xô là Matxcova và Volgograd, khảo sát tỉ mỉ về hội hoạ, kiến trúc của phòng tranh panorama, cố gắng để bức tranh đạt đến trình độ hoàn hảo. Về quá trình sáng tác cụ thể thì qua rất nhiều công đoạn vô cùng phức tạp, đầu tiên là vẽ phác thảo và phủ màu thủ công hàng vạn mảnh tranh; sau đó khi được Tổng cục Chính trị thẩm duyệt đồng ý mới bắt đầu sáng tác chính thức. Trong thời gian sáng tác, còn phải sửa lại nhiều lần, hao tốn tâm huyết biết bao người, huy động biết bao nhân lực vật lực, sau ba năm trời mới hoàn thành bức tranh. Bức tranh có tổng chiều dài 122,22 mét, cao 16,1 mét, treo quanh vòm tường phòng tranh, tổng diện tích lên đến 1968 mét vuông, trọng lượng 4 tấn. Giữa bức tranh và đài quan sát còn đặt những mô hình về địa hình, công việc, vũ khí… được thu nhỏ theo tỉ lệ nhất định; đồng thời còn phối hợp với các loại âm thanh, ánh sáng tiên tiến đem đến cho người xem cảm giác như được nhìn tận mắt. Theo thống kê, hiện nay trên thế giới mới chỉ có bốn mươi tám bức tranh panorama, tranh cỡ lớn thì càng hiếm. Bức tranh panorama Cuộc tiến công Cẩm Châu có thể coi là bức tranh số một không chỉ ở Trung Quốc mà còn trên thế giới. Sau khi nắm được những tài liệu này, tôi phân tích thêm những giả thiết trước đó: Giả sử tên hung thủ giấu mặt đúng là đến từ Thẩm Dương, vậy chắc chắn hắn phải là người biết rõ tình hình năm đó, rất có thể là một hoặc một số người nào đó trong nội bộ tổ sáng tác, hơn nữa thế lực cũng phải rất mạnh, tổ chức chặt chẽ, nếu không chúng không thể thực hiện vụ án lớn đến vậy. Cậu tôi là một thành viên trong tổ sáng tác, đã từng tham gia thực địa ở Cẩm Châu và đi khảo sát tại Liên Xô, nguồn gốc tấm gỗ hồng mộc chắc chỉ từ một trong hai nơi này. Thế nhưng, khả năng được lấy từ Liên Xô gần như bằng không, bởi vì Liên Xô không thể tạo ra một vật mang thần vận phương Đông như vậy. Nhất là hình chạm rồng, theo như quan sát và khảo chứng của tôi, đó chính là loại rồng vàng ba ngón bốn vuốt đặc trưng của Trung Quốc, rất thịnh vào thời Tống, Liêu, Kim, Nguyên. Liên tưởng đến việc chùa Đại Quảng Tế được khởi công xây dựng vào đời Liêu, nơi cậu đặt người chiến sĩ ở vị trí tương ứng trong bức tranh, tôi dám khẳng định rằng, cậu đã có được tấm gỗ hồng mộc nhờ một cơ duyên nào đó khi đang khảo sát tại đây. Tổng hợp hai điểm trên, tôi có thể đưa ra kết luận sơ bộ như thế này: Cậu và một số người nào đó trong tổ sáng tác đã có được tấm gỗ trong chùa Đại Quảng Tế hoặc trong Cổ Tháp. Không ai biết họ đã phát hiện ra bí mật gì trong đó, chỉ biết họ đã không hề báo cáo lên cấp trên mà âm thầm cất giấu. Theo lô-gic thông thường, trong tay những người kia chắc cũng phải có một thứ tương tự, hơn nữa đôi bên đã có thề ước nào đó nên tất cả đều giấu kín trong lòng, chưa bao giờ tiết lộ ra bên ngoài. Có thể đó là bí mật động trời mà cậu đã luôn cất giấu trong lòng, vì thế đầu tiên là giấu tấm gỗ vào trong vách tường nhà, sau đó để lại manh mối ở hai bức tranh lớn nhỏ, trước khi ra đi, trong lòng cậu vô cùng mâu thuẫn nên đã yêu cầu người nhà đốt hết tất cả. Lúc này, lời thề năm đó đã mất hiệu lực, đàmngười kia chắc do nóng lòng muốn có được tấm gỗ hồng mộc trong tay cậu nên đã ra tay bằng mọi giá. Sau khi đưa ra kết luận, tôi tiến hành chứng minh bằng các luận chứng, và thấy rằng đây là kết luận duy nhất hợp lý có được sau hàng loạt điều tra từ những dấu vết sót lại. Vậy tiếp theo tôi sẽ có hai lựa chọn: Một là tìm đến các hoạ sĩ cũng tham gia sáng tác tranh hồi đó để làm rõ chân tướng, tìm ra hung thủ; hai là đi dò la những nghệ nhân dân gian nhờ họ giải mã giúp bí ẩn giấu trong tấm gỗ hồng mộc. Nghĩ vậy, tôi nghĩ thầm, chịu đựng bao ngày, xem ra đã đến lúc rời khỏi Cẩm Châu rồi. Thời điểm đó đã gần cuối năm, thời tiết ngày một lạnh nên phải mặc nhiều áo đơn hơn, cơ thể trông nặng nề đồ sộ, có chút ra dáng bà bầu. Nghĩ đến thiên thời địa lợi nhân hoà, thời cơ đã chín muồi, tôi định sẵn ngày rời đi là vào dịp tết Nguyên đán, để đám người kia trở tay không kịp. Tôi không tin bọn chúng không muốn đoàn tụ với gia đình. Buổi tối trước hôm lên đường, tôi bắt chiếc xe taxi đến bệnh viện quân đội 205 thăm mẹ. Ba ngày trước mẹ tôi mới làm phẫu thuật mổ hộp sọ, lấy ra một lượng máu đông cực lớn trong não, hiện tại vẫn chưa ổn định, vẫn đang trong trạng thái hôn mê sâu. Tôi ngồi chếch bên giường, nắm đôi tay lạnh ngắt, nhìn thẳng vào khuôn mặt trắng bệch của mẹ, vừa đau lòng vừa lo lắng. Cứ nghĩ đến ngày mai sẽ lên đường đi xa, con đường phía trước nguy hiểm khó lường, nước mắt tôi cứ thế trào ra không ngăn nổi. Bố tôi kéo ghế ra ngồi sát bên tôi, liên tục thở dài. Bởi mãi chẳng có thông tin gì sáng sủa, bố ngày càng tiều tụy, lưng còng đi trông thấy, chỉ mấy ngày không gặp như già đi mấy chục tuổi. Nói chuyện với bố vài câu, tôi đưa cho ông cái tấm thẻ ngân hàng trong đó có số dư tiền bán nhà cậu, ấp a ấp úng nói: - Bố! Mẹ bệnh nặng, bố không thể rời mẹ lúc này được. Con đã liên hệ với một người bạn ở tỉnh ngoài, định đến đó sinh con, nhân tiện cũng muốn thư giãn một chút. Nghe tôi nói vậy, bố ngẩng đầu lên, ngạc nhiên nhìn tôi và nói: - Vi Vi, con…con… thế… thế làm sao được? Tôi không dám nói thêm điều gì, cố gượng cười, gật mạnh đầu thể hiện quyết tâm của bản thân. Bố nhìn tôi hồi lâu, trong mắt tràn đầy vẻ đau khổ. Ông khẽ thở dài, nhận lấy tấm thẻ ngân hàng, nhét vào trong túi áo ngực. Một lát sau, ông đột nhiên kéo tay tôi nói: - Thôi được, Vi Vi, nếu con đã quyết định như vậy, bố cũng không ngăn cản, nhưng… con nhất định phải chăm sóc tốt bản thân, tuyệt đối đừng làm điều gì dại dột. Người ta nói bố vẫn luôn hiểu con gái, bố tôi quả nhiên đoán được ý đồ của tôi, câu nói đó của ông càng khiến tôi thấy thêm tội lỗi, nếu không phải do phút bốc đồng thiếu suy nghĩ của tôi thì đâu đến nỗi rơi vào cảnh nhà tan cửa nát hôm nay. Càng nghĩ tôi càng thấy đau buồn, không thể kìm nén được lòng mình, tôi ôm chặt lấy bố khóc tức tưởi. Bố vỗ nhẹ lưng dịu dàng an ủi tôi. Đợi khi tôi nín khóc, bố khẽ đẩy tôi ra, lấy từ trong túi áo ngực ra một chiếc đồng hồ, nhét vào trong tay tôi và nói: - Cái này cho con. Mặt đồng hồ làm bằng thép trắng, dây đeo bằng da màu nâu, kiểu dáng đã cũ, vỏ ngoài chằng chịt vết xước,mặt kính còn bị nứt một đường, kim cũng ngừng quay; nhìn có vẻ quen quen nhưng nhất thời không nhớ ra được đã nhìn thấy nó ở đâu. Bố thở dài, trầm lạng nói tiếp: - Cậu con suốt thời gian đổ bệnh có tỉnh táo lại một lúc, đưa chiếc đồng hồ Enicar này cho mẹ con, còn dặn đi dặn lại nhất định phải để cho con. Sau đó bố nghe mẹ con nói, chiếc đồng hồ này do một vị thủ trưởng cũ trong quân đội tặng cho cậu năm cậu tham gia sáng tác bức tranh panorama, là loại đồng hồ Enicar Thuỵ Sĩ rất phổ biến thời đó. Con hãy nhận lấy, đừng phụ lòng kỳ vọng của cậu. Tôi chợt thấy nhói lòng, hoá ra cậu vẫn luôn nhớ đến tôi. Tôi liền tháo chiếc Longines ra cẩn thận đeo chiếc Enicar vào tay, nghẹn ngào nói: - Bố, con biết rồi, bố yên tâm đi. Bố mỉm cười, nhìn tôi âu yếm, mãi lâu sau mới lên tiếng: - Con đi đi, đừng lo nghĩ đến mẹ con, ở nhà đã có bố. Một mình con ở ngoài, phải hết sức cẩn thận, chăm sóc tốt cho bản thân con nhé! Tôi lau nước mắt, gật đầu lia lịa, chào tạm biệt bố, rồi vừa bước đi vừa ngoái đầu lại cho đến lúc ra khỏi phòng bệnh. Quay trở về nhà, tôi đặt báo thức trong điện thoại, cắm dây sạc pin, rồi chẳng buồn thay quần áo lao luôn lên giường, nắm chặt chiếc đồng hồ trên tay, nước mắt ướt nhoà, nhìn lên trần nhà khóc không thành tiếng. Cả đêm đó tôi mất ngủ, trong đầu rối như mớ bòng bong, cũng chẳng hiểu mình nghĩ gì, mãi đến khi trời tảng sáng, không chống cự lại được cơn buồn ngủ, tôi mới mơ màng chợp mắt được nửa tiếng. Buổi sáng, tôi lục lấy chiếc áo jacket ngắn bằng da màu đen mà bình thường ít khi mặc, bọc gọn tấm gỗ hồng mộc, nhét vào giữa đống vải quấn bụng, đem theo toàn bộ giấy tờ tuỳ thân và tiền bạc, bắt taxi đến bệnh viện phụ sản thành phố. Khi đẩy cánh cửa lớn ở sảnh bệnh viện, nhờ hình ảnh phản chiếu trong tấm kính, tôi nhìn thấy rất rõ trong sân có hai người đàn ông mặc áo bông màu xám đang vờ hút thuốc, mắt không ngừng liếc theo tôi. Tôi hắng giọng lạnh lùng, thầm nói bye bye rồi nặng nề bước vào sảnh lớn, xếp hàng lấy số, sau đó hai tay chống hông, từ từ bước vào nhà vệ sinh nữ tầng hai. Cho dù chúng có gan to cỡ nào thì cũng không dámtheo vào đến tận nhà vệ sinh nữ. Tôi vào một phòng, chốt cửa lại, áp tai vào cửa lắng nghe đọng tĩnh bên ngoài. Trong nhà vệ sinh imphăng phắc, chỉ có tiếng nước nhỏ tách tách từ bồn nước bị rò trên đầu. Khi xác định chắc chắn không có ai, tôi thở phào vội vàng cởi cúc áo, tháo những thứ buộc quấn quanh bụng ra, rồi chẳng quan tâm đến sạch bẩn, tôi vạch đám giấy trong thùng rác ra nhét hết vào, sau đó khoác chiếc áo jacket da, cài tấm gỗ vào sau lưng. Tôi rút điện thoại ra nhìn đồng hồ, 9 giờ rưỡi, vừa kịp lúc. Tôi chuyển điện thoại sang chế độ yên lặng, bỏ vào chiếc túi ni lông, buộc chặt miệng túi, mở nắp bồn nước rồi từ từ xối nước dìm xuống. Tối qua tôi đã sạc đầy pin, ít nhất có thể đủ dùng trong năm sáu ngày tới, đến khi cảnh sát phát hiện ra tôi bỏ trốn, muốn định vị bằng sóng điện thoại thì cứ tha hồ đến bệnh viện mà tìm. Thấy mọi việc đã sắp xếp ổn thoả, tôi lấy tay vỗ vỗ ngực để giữ bình tĩnh, bước ra khỏi phòng vệ sinh, mở cửa sổ, gác chân nhảy lên bệ cửa, lách người trèo ra ngoài, ôm lấy ống thoát nước dọc trên tường, từ từ tụt xuống bãi đỗ xe phía sau toà nhà. Liên tục mấy tháng trời ngụy trang và quan sát cẩn thận đã giúp tôi nhận ra những kẻ theo dõi đã buông lỏng hơn nhiều, không những giảm số người theo dõi mà chúng còn không nghĩ đến việc phái sẵn người theo dõi phía sau bệnh viện. Tôi đứng yên tại chỗ, nhìn ngó xung quanh, nhận thấy không có gì bất thường, liền chầm chậm rời khỏi bãi đỗ xe trước con mắt ngơ ngác của mấy người lấy xe, sau đó chui vào một chiếc taxi đang chờ khách ven đường, đi thẳng đến nhà ga. Trước đó, tôi đã lên mạng tra lịch trình chạy tàu, biết sắp có chuyến tàu K7341 chạy từ ga Sơn Hải Quan, đi qua Cẩm Châu đến Thẩm Dương. Sở dĩ tôi không lựa chọn bỏ trốn bằng ô-tô là do ô-tô đông người, nếu tôi vẫn bị bám theo, thậm chí có thể xảy ra ẩu đả thì sẽ không tiện thoát thân. Từ trên taxi bước xuống, chiếc đồng hồ lớn trên nóc toà nhà chính ở nhà ga vừa chỉ đúng 10 giờ 15 phút, loa phát thanh đang phát thông báo, nhắc nhở hành khách đi chuyến tàu K7341 bắt đầu vào ga soát vé, đoàn tàu cách giờ khởi hành chưa đến mười phút. Tôi băng qua đường, xong vào sảnh bán vé, mua một vé rồi vội vàng chạy vào phòng chờ tàu, hoà lẫn giữa đám đông hành khách, cố giữ bình tĩnh, chầm chậm bước vào sân ga, leo lên tàu. Ít phút sau, tiếng còi tàu hú vang, đoàn tàu rung mình lắc mạnh một cái rồi từ từ chuyển bánh. Trong lòng tôi dâng lên cảm giác xót xa, nhớ đến bố mẹ, nhớ đến cậu, nhớ đên La Viễn Chinh và Phùng Siêu, chẳng biết bao giờ tôi mới được về nhà, thậm chí còn có thể về nhà được nữa hay không. Tôi thở dài lắc đầu, nhìn ra ngoài cửa sổ, từng giọt nước mắt lăn dài trên gò má. Đoàn tàu lao nhanh khỏi sân ga, những tia nắng chiếu qua cửa sổ rọi thẳng vào mặt tôi, tuy ấm áp nhưng có cảm giác chói mắt. Tôi nheo mắt lại, nhìn thành phố Cẩm Châu mỗi lúc một xa, mờ dần trong những giọt nước mắt, nỗi đau dâng lên trong lòng. Do tâm trạng vô cùng buồn chán, tôi chỉ ngồi khoanh tay dựa lưng vào thân tàu, nhắm mắt tĩnh tâm. Dưới chân là tiếng bánh xe va vào đường sắt tạo ra nhịp lắc đều đều, bên tai là tiếng người ầm ĩ trong toa tàu, tôi cảm thấy trong đầu như có cây lim đâm vào từng dây thần kinh đau nhói. Sau hơn hai tiếng đòng hồ, đoàn tàu chạy chậm dần, cuối cùng tiến vào sân ga Thẩm Dương. Nghe theo thông báo, tôi mới bừng tỉnh, vội xuống tàu, theo dòng người đông đúc ra khỏi sân ga. Đứng một mình giữa quảng trường nhà ga Thẩm Dương, từng đoàn hành khách vội vã lướt qua tôi. Nhìn khung cảnh lạ lẫm xung quanh, tôi cắn chặt răng, nhủ thầm trong bụng: Ta đã đến, ta nhất định sẽ tìm ra các người! Sau đó, tôi gọi chiếc taxi đi thẳng đến chợ điện tử trên phố Tam Hảo khu Hoà Bình, mua một chiếc điện thoại mới và một thẻ sim Thần Châu trả trước. Thẩm Dương là thành phố trực thuộc tỉnh, phồn hoa hơn Cẩm Châu rất nhiều, khắp nơi đều thấy những toà nhà chọc trời, trên đường xe cộ nườm nượp, người người đi lại như mắc cửi. Ở đây tôi không thông thuộc địa hình, đường phố cũng không nhớ tên, nếu đơn độc chiến đấu chắc chắn sẽ thua thiệt, cần phải tìmmột người dân bản địa hướng dẫn, hỗ trợ mới được. Tôi có một vài bạn học hồi còn ở trường cảnh sát, quan hệ cũng rất tốt, nhưng lúc này tôi đang chịu án, lại đang bỏ trốn, sao dám đi tìm ai chứ? Tôi ngồi trên ghế đá ven đường, sàng lọc trong đầu từng người quen. Chợt tôi nhớ đến một người, nếu không có gì bất trắc thì đây chắc chắn là lựa chọn tốt nhất. ©STE.NT Tôi hào hứng rút điện thoại ra, thử gọi cho cô bạn học Tang Giai Tuệ, cũng là người bạn tốt nhất của tôi trên đời này, hiện đang công tác tại tổng đội trinh sát hình sự Sở Công an tỉnh. Thật đen đủi, điện thoại của Tang Giai Tuệ lại tắt máy. Tôi thấy thất vọng, bởi lẽ trong nghề cảnh sát hình sự của chúng tôi, sợ nhất là khi xảy ra án mà không liên lạc được, vì thế đã có một quy ước ngầm đó là phải mở máy 24/24 giờ. Nếu không có chuyện gì đặc biệt thì nhất thiết không được tắt máy, để đề phòng máy hết pin, bình thường còn phải đem theo pin dự phòng nữa. Tôi suy nghĩ hồi lâu, vẫn không can tâm chịu thua, lại gọi tiếp cho tổng đội trinh sát hình sự, nói dối là người nhà của Tang Giai Tuệ, bảo ở nhà có việc gấp nhưng không liên hệ được với cô ấy. Người nhận điện thoại thông báo cho tôi biết mấy ngày trước Tang Giai Tuệ đã đi ngoại tỉnh phá án, hiện vẫn chưa về, hẹn tôi hôm khác gọi lại. Cúp điện thoại xong, tôi thở dài thườn thượt, thầm trách phận đen đủi, tình hình này thì đành dựa vào chính mình thôi. Tôi đứng dậy, quay đầu nhìn quanh tứ phía, trên đường dòng người đi lại nườm nượp, tuy không ai nhìn tôi, nhưng hình như tất cả đều đang giám sát tôi. Tôi chột dạ, vòng tay ra sau chạm vào tấm gỗ hồng mộc dắt sau thắt lưng, quyết định trước tiên cần tìm một nơi an toàn để cất giấu đã, nếu lúc nào cũng đem theo bên người, cho dù không đánh mất thì cũng gây bất tiện cho hành động của tôi. Tôi nghĩ tốt nhất nên mua một ngăn bảo hiểm ở ngân hàng, bèn kéo tay một người đi đường hỏi thăm. Người đó cho biết gần đây có ngân hàng Kiến Thiết, ở chếch phía đối diện với Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn, sát ngay chợ đồ cổ Lỗ Viên. Nghe thấy Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn ở ngay gần đó, tôi ngẩn người, tim đập loạn xạ, cảm xúc dâng trào. Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn không chỉ là trường cũ của cậu tôi, mà hồi sáng tác tranh panorama, rất nhiều học giả và hoạ sĩ nội tiếng của ngôi trường này cũng tham gia. Một trong những mục đích chuyến đi lần này của tôi chính là tìm gặp họ để điều tra. Cảm ơn người đi đường xong, theo chỉ dẫn của anh ta, tôi băng qua các ngõ phố, đi đến học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn. Trông thấy có bảo vệ ở cổng, xuất phát từ tinh thần cảnh giác cao độ, tôi không dám xông vào trong, chỉ đứng dưới gốc cây đối diện, lặng lẽ quan sát, tính xem làm thế nào để trà trộn vào. Cổng trường liên tục có sinh viên ra ra vào vào, khuôn mặt các em đều rất trẻ trung tươi tắn, khiến tôi nhớ lại cậu tôi hồi trẻ. Mải nhìn, chợt tôi bất giác thấy hoảng hốt, ánh mắt mờ hẳn đi, hình như tôi vừa nhìn thấy một người con trai, cắp tấm ván vẽ dưới nách, mỉm cười bước nhanh về phía tôi. Dáng vẻ đó, cách ăn mặc đó giống hệt như cậu tôi thời trẻ, lại có vẻ giống như người chiến sĩ trong bức tranh. Tiến gần thêm, tấm ván vẽ dưới nách cậu ta như hoá thành tấm gỗ hồng mộc, phát ra ánh sáng mờ mờ dưới ánh nắng mặt trời. Tôi thấy hơi run, căng mắt nhìn kỹ, giữa ban ngày trời sáng, mọi thứ vẫn y nguyên. Nghĩ lung tung một hồi lâu, cuối cùng tôi cũng từ bỏ ý định vào trường, lắc đầu thở dài đi đến ngân hàng Kiến Thiết ở chỗ đầu lối rẽ. Vừa định đẩy cửa bước vào, tôi chợt nhìn thấy chợ đồ cổ Lỗ Viên ở bên cạnh, """