"
Thiên Chi Mê - tập 1: Thiên Tỏa
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thiên Chi Mê - tập 1: Thiên Tỏa
Ebooks
Nhóm Zalo
Thiên Tỏa
Thiên Tỏa
Tác giả: Tang Thượng
Dịch giả: Bùi Phương Thảo
Kích thước: 15.5 x 23.2 cm
Số trang: 424
Ngày xuất bản: 15-01-2013
Giá bìa: 105.000 ₫
Công ty phát hành: Phụ Nữ
Nhà xuất bản: NXB Phụ Nữ
Chụp pic: Thanh Levy
Type
Hoathanh Nguyễn: 1-4
aprilsnow_167: 5-7
remylittle (evangelica): 8-10
Linh Max (p3lov3emem): 11-13
Phương Trang: 14-hết
Làm ebook: Dâu Lê
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Giới thiệu
Thiên Tỏa: Chìa khóa của những chìa khóa - Cuộc phiêu lưu số một của những cao thủ mở khóa Trung Quốc.
Thiên Tỏa - cuốn tiểu thuyết trinh thám giả tưởng đầu tay của nữ nhà văn trẻ người Trung Quốc Tang Thượng. Dựa trên những tình tiết có thật trong quá trình phá án, Tang Thượng không chỉ biến Thiên Tỏa trở thành chuyến phiêu lưu đầy mạo hiểm mà còn phủ lên đó một màu sắc kì bí đầy mê hoặc từ những lớp trầm tích của lịch sử dân tộc.
Cố Cung Thẩm Dương, mười năm về trước.
Hàng loạt cái chết của các chuyên gia khảo cổ cùng sự mất tích bí ẩn của Lão Sở - trưởng môn nhân phái Kiện môn (Mở khóa) vô tình làm hé mở một bí ẩn dưới lòng Cố Cung đã được che giấu hàng trăm năm qua.
Vượt qua cánh cửa Song Long Hút Máu ngay dưới ngai vàng điện kim loan, Sở Khinh Lan - cháu gái Lão Sở đồng thời cũng là người kế nhiệm của Kiện môn phái cùng vua trộm Hắc Lão Ngũ và nữ cảnh sát Tang Giai Tuệ đã dấn thân vào mê cung dưới lòng đất để lần ra những manh mối đầu tiên. Từ đây, một cuộc truy tìm nghẹt thở bắt đầu, dẫn họ đến những điều không ai có thể ngờ đến...
Rốt cuộc đằng sau cánh cửa Thất Hận, thân phận người đàn ông bị sợi dây da lừa thít cổ là như thế nào?
Bên trong chiếc hộp Hoa Hạp cất giấu bí mật gì?
Người thứ tư đạt cấp độ Thiên giới sẽ là ai?
Tác giả
Nhà văn Tang Thượng tên đầy đủ là Tang Thượng Kì Ngải Giai Tuệ, thuộc dòng Mãn tộc Chính Lam kỳ (một nhánh dân sự trong chế độ Bát kỳ của nhà Thanh) và là một nữ cảnh sát xuất sắc ở vùng Đông Bắc, Trung Quốc.
Thiên Tỏa được sáng tác dựa trên những tình tiết có thật trong quá trình phá án của Tang Thượng, và là tác phẩm mở đầu trong loạt tiểu thuyết trinh thám giả tưởng Thiên chi mê (Bí ẩn từ trời xanh) đã và đang tạo nên cơn sốt trong cư dân mạng với hàng triệu lượt truy cập.
Thiên Tỏa đã đưa độc giả đi từ bất ngờ này đến sửng sốt khác trong suốt quá trình truy tìm sự thật của cô gái trẻ Khinh Lan, những tình tiết li kì đan xen với nhau một cách chặt chẽ đã đẩy sự kịch tính lên đến cao độ và cuốn hút người đọc bằng chính giọng văn đa màu sắc đầy mê hoặc của nữ cảnh sát kiêm nhà văn trinh thám tài năng.
Mục lục
Phần một: Người mở khóa ẩn dật
Chương 1: Khóa uyên ương bọc tâm giao ức
Chương 2: Cặp tỳ hưu bằng ngọc lưu ly
Chương 3: Vua trộm khét tiếng vùng Đông Bắc - Hắc Lão Ngũ Chương 4: Chiếc khóa Song Long hút máu
Phần hai: Cuộc du ngoạn kì thú dưới lòng Cố cung Chương 5: Khóa tơ ba mươisáu vòng
Chương 6: Khóa quy tàng khảm ngọc trai bạc khổng Chương 7: Khóa Bá Vương nốisợi tơ tằm bất tử Chương 8: Hắc cẩu linh môn và hắc xà linh môn Chương 9: Địa kiện cốt đoạn phá xà môn
Chương 10: Đất bay cát chuyển và lũ hắc ưng
Chương 11: Thiên Cung Cách sát trận
Chương 12: Thất hận môn và cái xác khô
Chương 13: Lối thoát khỏi địa cung
Phần ba: Thanh Nham Thánh Cảnh
Chương 14: Bí ẩn đĩa sứ Mặc Văn đường
Chương 15: Thanh Nham Thánh cảnh
Chương 16: Ánh trăng đêm Luận Đạo
Phần một: Người mở khóa ẩn dật
Đôi rồng đang quấn quýt vờn nhau, kỹ thuật điêu khắc tinh xảo đã khiến chúng trở nên vô cùng sống động và có hồn lạ thường. Mỗi con rồng đều nhô đầu lên khỏi bề mặt chừng vài phân, đối mặt với nhau, miệng rồng há rộng, để lộ ra những chiếc răng nanh hung dữ, ở chính giữa hai đầu rồng là một viên ngọc trân châu rất lớn màu xanh biếc.
Chương 1: Khóa uyên ương bọc tâm giao ức
Tôi là Sở Khinh Lan, nữ, chưa kết hôn, sinh ngày 26 tháng 3 năm 1989, là người Trường Xuân tỉnh Cát Lâm.
Từ nhỏ đến lớn, tôi sống cùng ông nội, chưa một lần biết mặt mũi bố mẹ mình ngang dọc thế nào. Chỉ biết ông tôi kể rằng, tôi vừa ra đời thì bố mẹ tôi bị cuốn theo cơn khát đào vàng ở Nga, và từ đó đến nay cứ biền biệt chẳng chút tin tức gì. Ấn tượng duy nhất của tôi về họ là một tấm hình đã cũ bị ố vàng trong quyển album ảnh, đôi vợ chồng trẻ tuổi mà đáng lẽ ra tôi phải gọi là bố mẹ có lẽ còn trẻ hơn cả tôi hiện giờ.
Ông nội đã rất yêu thương chiều chuộng tôi từ khi tôi còn nhỏ, không nỡ để tôi phải chịu khổ, dù chỉ là một chút. Ông không đi làm và cũng rất ít khi ra khỏi nhà, nhưng trong nhà không bao giờ thiếu tiền tiêu, những đòi hỏi của tôi thông thường đều được ông đáp ứng nhanh chóng. Khi đó, tôi không hề cảm thấy lạ, và tuổi thơ của tôi cứ thế bình dị trôi qua như những đứa trẻ khác.
Điều duy nhất khiến tôi cảm thấy hơi thắc mắc là, tuy bình thường ông tôi không mấy khi ra khỏi nhà nhưng trong nhà lúc nào cũng tấp nập người ra kẻ vào. Có rất nhiều loại người, họ ôm túi to, túi nhỏ, thậm chí có cả những người mang quân hàm cảnh sát, hay những tên lưu manh xăm trổ đầy mình. Tất cả bọn họ đều nhất loạt kính cẩn trước mặt ông tôi, nhưng thần sắc lại mang vẻ lo âu, sợ sệt.
Mỗi khi có khách, ông lại bảo tôi ra ngoài chơi rồi dẫn những người khách đó vào trong phòng, đóng chặt cửa lại. Tôi không biết họ đang thì thầm to nhỏ điều gì, đành tha thẩn ngồi một mình trong vườn chơi xếp hình. Tôi quên kể một chuyện, hồi đó, ông cháu tôi có một ngôi nhà với khuôn viên khá rộng ở ngoại ô thành phố.
Thông thường sẽ không mất quá lâu, những vị khách lạ mặt lại vui vẻ khoác túi ra về.
Cũng có đôi lần ông đi cùng với họ, trước khi đi ông còn dặn dò tôi: - Trông nhà cẩn thận, ta phải đi vài ngày có việc.
Tôi không rõ ông đi đâu, làm gì nhưng cũng không hỏi, bởi đó là thói quen của ông cháu tôi.
Vài ngày sau, thậm chí là mười mấy ngày sau, ông bất ngờ trở về, người đầy bụi đường xám xịt, sau đó tôi lại được ăn món thịt kho - món tủ của ông. Bình thường tôi đoán là ông đi kiếm tiền, chứ không hề nghĩ ông đang làm việc xấu, bởi vì ông là ông nội của tôi, người hết mức yêu thương đứa trẻ côi cút này.
Mọi chuyện cứ như thế trôi qua cho đến năm tôi tròn mười sáu tuổi và vừa tốt nghiệp cấp Hai. Do học lực không tốt nên tôi trượt kì thi cấp Ba, và bắt đầu chuỗi ngày nằm dài ở nhà, tụ tập chơi bời cùng bạn bè. Ông tôi tuyệt nhiên không mắng mỏ lấy một câu nhưng nhìn nếp nhăn xô nhau trên khuôn mặt già nua của ông, tôi biết ông đang rất lo cho tương lai của tôi.
Tết Nguyên Đán năm 2005. Một trận bão tuyết lớn đổ xuống thành phố, trời rét căm căm, tuyết phủ kín trời, chưa năm nào Trường Xuân lạnh giá như năm đấy cả. Tối hôm đó, ông nội tự tay chuẩn bị rất nhiều món ngon, lại còn hâm nóng một bình rượu trắng. Tôi ăn uống no nê còn ông thì hầu như chẳng ăn gì, chỉ nhấm nháp cốc rượu trắng, rồi thi thoảng quay sang nhìn tôi đầy trầm ngâm. Tôi cầm chiếc đùi gà ngon lành cắn một miếng thật to, rồi quay sang hỏi vì sao ông không ăn.
Ông thở dài rồi nói:
- Con bé ngốc này, ta không thể nuôi con cả đời được, giờ không biết làm gì cả thì sau khi không có ta, con sẽ sống như thế nào đây?
Lúc đó, mặc dù tôi còn nhỏ nhưng vẫn hiểu những điều ông nói. Mà cũng đúng thôi, nếu như một ngày ông thực sự ra đi, tôi biết phải làm sao đây? Tôi lập tức nắm lấy bàn tay nhăn nheo của ông, thề thốt:
- Ông à, ông nhất định phải sống lâu trăm tuổi đấy. Nếu như ông ốm, con nhất định sẽ nấu cơm, bón cháo, tắm rửa, đổ bô hầu hạ ông.
Ông cười khà khà, trìu mến vỗ đầu tôi:
- Cái con nhỏ này, không phải đang ăn cơm hay sao, toàn nói những điều vớ vẩn.
Tôi vui vẻ nói tiếp:
- Ông à, hay là con thử ra ngoài tìm việc gì đó để làm, coi như dốc sức học một cái nghề nào đó để kiếm tiền nuôi thân vậy.
Ông nghe xong liền đặt cốc rượu xuống, đặt hai tay lên vai tôi, rồi nghiêm nghị nhìn thẳng vào mắt tôi như đang dò tìm điều gì đó rồi lên tiếng:
- Bé con, ta sẽ truyền cho con một nghề, để sau này khi ta không còn nữa, thì con cũng không phải chịu cảnh đói rét.
- Nghề gì hả ông? - Tôi đột nhiên rất hào hứng.
Ông mỉm cười không nói gì, chỉ bảo tôi ra ngoài mang cái ổ khóa sắt vào đây. Cái ổ khóa đó rất to, nặng tầm hai ba cân, do dùng đã lâu nên bên trên bám đầy gỉ sét.
Ông tôi thận trọng đưa tay ra đỡ lấy cái ổ khóa, tỉ mẩn dùng vạt áo lau qua, lật qua lật lại quan sát cái cục sắt vô tri vô giác ấy rồi bấm chốt khóa lại, rút chìa khóa để lên trên mặt bàn. Sau đó, ông rút một que tăm trong lọ ra, quay đầu lại nói với tôi.
- Con nhìn đây!
Nói rồi ông mỉm cười, nheo mắt như đang xâu chỉ qua lỗ kim, cẩn trọng đút đầu tăm vào lỗ khóa khổng lồ kia, ngón cái và ngón trỏ giữ chặt que tăm rồi nhẹ nhàng xoay đều. “Cạch!” chỉ trong nháy mắt, cả ổ khóa bật tung trước mắt tôi.
Tôi kêu lên đầy kinh ngạc, vội vàng cầm lấy ổ khóa nhìn kĩ càng từng bộ phận. Không có gì đặc biệt! Tôi thử uốn cong que tăm xem điều bí ẩn có nằm trong đấy không. Rắc! Que tăm gẫy làm đôi.
Trong khi tôi đang săm soi từng li từng tí xem có phát hiện ra được gì không thì ông tôi điềm nhiên nhấp một hớp rượu rồi chậm rãi giải thích:
- Mở khóa là biệt tài được lưu truyền trong dòng họ Sở chúng ta, bao đời nay chỉ truyền cho con trai chứ không truyền cho con gái, nhưng tiếc rằng bố con…
Nói đến đây, giọng ông bỗng trầm xuống, tay nắm chặt cốc rượu, một nỗi phiền muộn thấp thoáng trên gương mặt già nua.
Tôi chui đầu vào vòng tay ông nũng nịu:
- Ông nội, ông mau dạy cho con đi, cái này hay quá.
Lúc đó, tôi hoàn toàn bị tài nghệ của ông cuốn hút đến nỗi không hề để ý đến những lời ông nói, cơ hội hiếm có để được nghe kể về bố mẹ tôi cũng vì thế đã vuột mất.
Ông nội khẽ gật đầu, nói tiếp:
- Ta còn có cái này muốn cho con xem.
Nói rồi ông dắt tay tôi, chầm chậm bước ra khỏi phòng.
Bên ngoài trời rất lạnh, gió bấc quất rin rít bên song cửa, cả mảnh vườn im lìm trong màn mưa tuyết mù mịt của trời đông, ánh trăng bàng bạc phản chiếu dìu dịu trên nền tuyết trắng xóa. Chiếc xe đạp màu đỏ hãng Giant mang số hiệu 24 của tôi đang dựng ở sát góc tường, cả thân xe phủ đầy những bông tuyết trắng phau còn đằng sau xe đã được khóa cẩn thận bằng chiếc khóa hình móng ngựa rất to.
Chúng tôi chật vật bước từng bước trên lớp tuyết dày, khi đứng trước chiếc xe đạp, ông nội đưa tay tháo một chiếc cặp ghim trên đầu tôi xuống, nhẹ nhàng bẻ thẳng chiếc cặp ghim ra. Ông ngồi sụp xuống, tay trái cầm chiếc khóa hình chữ U, tay phải phủi nhẹ lớp tuyết trên chiếc khóa, nói:
- Con nhìn cho kỹ này! - Rồi nhẹ nhàng nhét chiếc cặp tóc vào lỗ khóa. Điều thần kỳ lại một lần nữa xảy ra. Cạch! Chiếc khóa lại được bật tung.
Trời ạ, sao lại có thể thần diệu đến thế cơ chứ! Tôi hoàn toàn bị thôi miên, từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nghĩ rằng, ông nội lại có biệt tài thần kỳ đến vậy, không thể tin được, thậm chí còn điêu luyện hơn cả những nhà ảo thuật hay biểu diễn trên tivi.
Ông nội chắp tay sau lưng đi về phòng, tôi bước theo sau, vừa đi vừa ngoái đầu lại. Sau khi ngồi xuống ghế, không đợi tôi nói gì, ông đã hỏi luôn:
- Thế nào, có muốn học không?
- Muốn ạ! - Tôi vui sướng nhảy cẫng lên, ôm chặt lấy cổ ông. - Ông nội, mau dạy cho con đi. Lan Lan học xong, nhất định sau này sẽ không lo chết đói nữa.
Ông nội mỉm cười, ấn vai tôi ngồi xuống ghế, sau đó ông nhìn thẳng vào mắt tôi, chậm rãi hỏi:
- Để học được tài nghệ này con sẽ phải khổ luyện, vậy có còn muốn học nữa không? Tôi lập tức đứng bật dậy, nghiêm túc trả lời ông:
- Con không sợ khó, không sợ khổ. Con là con cháu của nhà họ Sở, tuy không có anh em, nhưng con nhất định sẽ không làm tài nghệ của dòng họ mình bị thất truyền đâu.
Ông nội chăm chú nhìn tôi mỉm cười, cùng lúc đó, hai cổ tay của ông vặn xoắn lại với nhau, sau một cú giật mạnh, lớp da tay đã bị lột bỏ tựa như ông vừa tháo chiếc găng ra khỏi tay mình vậy.
Tôi há hốc mồm khi chứng kiến cảnh tượng trước mắt, đang định mở lời thì ông lắc đầu và bình thản nói:
- Không có chuyện gì đâu, đây chỉ là lớp da giả thôi, con hãy nhìn kỹ hai bàn tay của ta đi.
Nói rồi ông vứt miếng da giả lên mặt bàn, xòe hai bàn tay ra trước mặt tôi. Tôi cúi đầu nhìn xuống lòng bàn tay ông, lập tức đờ đẫn cả người.
Chắc do thường xuyên đeo lớp da giả nên lòng bàn tay của ông tôi có màu trắng rất lạ và cũng không hề thô ráp. Nhưng điều làm tôi cảm thấy đáng sợ nhất là lòng bàn tay và mười ngón tay ông chằng chịt những sẹo. Có những vết sẹo chỉ là một vệt dài, có vết lại mang hình tròn, hình tam giác, hình móng ngựa, thậm chí có cả những đường rãnh lõm sâu, to có, nhỏ có. Một vài vết sẹo có màu như màu da, viền sẹo trơn và mịn, phân bổ theo quy luật, còn những vết sẹo khác trong hai lòng bàn tay thì lại có vị trí không hề giống nhau, cứ như là nó được khắc một cách có chủ ý vậy.
Tôi há hốc mồm, kinh ngạc nhìn trân trân vào những vết sẹo. Cảm giác tò mò, hồi hộp dâng lên đến cực độ. Tôi thực lòng không thể hiểu nổi những vết sẹo đó nói lên điều gì, và tại sao ông tôi lại phải khắc chúng vào lòng bàn tay như thế.
Ông xoa xoa hai bàn tay, đôi mắt mở to bình thản, hỏi tôi với chất giọng trầm đục khác thường:
- Đã nhìn thấy chưa, đây chính là cái giá phải trả để học được tài nghệ lưu truyền của
dòng họ chúng ta.
Thật là khủng khiếp! Bỗng dưng tôi thấy lạnh sống lưng, đây đâu phải là học tài nghệ gì, mà là tự hành xác thì đúng hơn! Nhưng tôi chợt nhận ra rằng, đã phải chịu đau đớn để khắc lên bàn tay, thì chắc chắn nó phải có một công dụng đặc biệt gì đó. Nghĩ đến đây, tôi lại ngồi yên lặng, đợi ông nói tiếp.
Ông nội chầm chậm xoa hai bàn tay vào nhau, thư thả nói tiếp:
- Người xưa có câu “chìa nào ổ ấy”, điều này cho thấy bất cứ chiếc khóa nào được chế tạo ra cũng có chìa khóa để mở. Đặc biệt là những chiếc khóa nổi tiếng từ ngày xưa chuyên sử dụng để chống trộm tại lăng mộ của vua chúa hay những căn phòng bí mật chuyên cất giữ vàng bạc châu báu. Những chiếc khóa kỳ quái này đều có một kết cấu vô cùng phức tạp.
Nói đến đây, ông nhặt chiếc khóa sắt trên mặt bàn lên, lật qua lật lại rồi nói:
- Vạn vật trên đời này đều có tính tương sinh tương khắc, đã có người tạo ra chiếc khóa thì đương nhiên sẽ phải có người mở được chiếc khóa đó. Và nghề của chúng ta là đi mở khóa. Tuy nhiên, đối với người khác thì chúng ta lại là những tên trộm, khó nghe hơn chút nữa thì là những tên ăn cắp.
Tôi nhìn ông, gật gật đầu như đã thấu tỏ mọi chuyện nhưng trong lòng lại thầm nghĩ rằng: Chẳng trách, hóa ra ông nội là người bẻ khóa, nhưng cái từ “ăn cắp” nghe cũng không được hay ho cho lắm.
Ông lại nhấp một ngụm rượu, tiếp tục nói:
- Thật ra, kỹ nghệ mở khóa không cần chìa đã có từ vài nghìn năm trước rồi, khởi nguồn sớm nhất là từ Đạo môn, một trong mười tám tuyệt nghệ của phái đạo tặc. Đó chính là “trộm không để lại dấu vết, thó không để lại dấu chân”, nói một cách dễ hiểu là trộm đồ của người khác mà không để họ phát hiện. Trong phái đạo tặc, bẻ khóa chính là kỹ năng quan trọng nhất. Kỹ thuật bẻ khóa sau này được Hầu Thất - một thần trộm đời Đường mở rộng và phát huy, dần dần tách khỏi Đạo môn và tự mình lập thành một phái môn khác là Kiện môn.
Tôi tò mò hỏi ông:
- Kiếm môn? Tại sao lại lấy cái tên lạ như thế? Lẽ nào mở khóa còn phải dùng đến kiếm sao?
Ông nội cười ha hả một tràng rồi cốc đầu tôi đau điếng:
- Nói năng linh tinh cái gì thế, chỉ giỏi lanh chanh ngắt lời người khác thôi. Là Kiện môn chứ không phải Kiếm môn. Chữ “Kiện” trong tiếng Hán cổ có nghĩa là khóa.
Tôi ngại ngùng vỡ lẽ, nhưng trong lòng vẫn không ngừng thắc mắc, sao không gọi là ổ khóa mà cứ phải là “kiện” cơ chứ? Các cụ ngày xưa cũng rõ thật lắm chuyện.
Ông tôi không để tâm đến cái vẻ mặt ngờ nghệch của tôi, vẫn tiếp tục thao thao bất tuyệt:
- Công việc của người mở khóa là phải giải mã được những chiếc khóa trấn giữ nơi hiểm yếu, chính là phải “lấy cái tâm sáng suốt để hóa giải những điều huyền diệu”. Để làm được điều này, người mở khóa phải có trí tuệ, tài năng và lòng gan dạ, đồng nghĩa với đó là phải chấp nhận khổ luyện. Muốn trở thành một người mở khóa xuất chúng thì từ đôi mắt cho tới tâm hồn đều phải tập trung một cách cao độ. Một người mở khóa tài ba cần phải hợp nhất được ánh mắt, đôi bàn tay và tâm hồn. Phải dùng tất cả nội lực tập trung vào chiếc khóa, tuyệt đối không được coi nó là một vật vô tri vô giác lạnh ngắt, mà phải coi nó như một sinh mệnh, đối xử với nó bằng cả tâm hồn và lý trí của mình. Trong mắt ta, chiếc khóa không phải là một cục sắt mà là một sinh mệnh sống, ta phải tôn trọng và nâng niu nó, phải tìm mọi cách để khiến nó phục tùng ta, tuân lệnh ta.
Thấy tôi nghe có vẻ nhập tâm, ông khẽ gật đầu nói tiếp:
- Trong thiên hạ có rất nhiều người mở khóa, mỗi người đều được học theo một phương thức khác nhau và đa số là theo phái Kiện môn. Nhưng sau này phái Kiện môn đã gặp phải một biến cố lớn, dần dần đã bị chia làm hai phái môn. Tuy đều là mở khóa nhưng mỗi phái lại có nét đặc thù riêng, điểm khác nhau chủ yếu là ở phương thức mở khóa. Một trong hai phái gọi là phái Võ giải, tức là dùng ngoại lực tác động mạnh lên khóa, nói thẳng ra là một cách phá khóa, làm vỡ lõi khóa để đạt được mục đích của mình. Phái còn lại là phái Văn giải, tức là dùng kỹ thuật và công cụ để mở khóa, nhưng không làm hỏng lõi khóa và ổ khóa để chiếc khóa vẫn có thể tiếp tục sử dụng, sau khi bị khuất phục.
Nghe ông nội kể đến đây, tôi thấy vô cùng hứng thú, sao kĩ nghệ mở khóa mà lại giống truyện kiếm hiệp vậy, liệu có còn những bí mật nào nữa không?
- Phái Võ giải sau khi phá khóa xong, mặc dù đầu khóa trông khá nguyên vẹn nhưng vẫn để lại dấu vết, chính vì thế nên sau này phái Võ giải cũng bị lụi dần. Lưu truyền đến
bay giờ, theo như ta biết chỉ có Tôn gia ở Hàng Châu là còn theo nghề. Còn ông nội con… - Ông dừng lại một lúc, rồi chầm chậm nói tiếp. - Ông nội con là truyền nhân của phái Văn giải, ở vùng Đông Bắc này cũng được coi là có chút danh tiếng.
Nói đến đây, ông nội ngẩng cao đầu, nét mặt tỏ rõ vẻ tự hào, ông nghiêng đầu ra phía ngoài cửa sổ nhìn xa xăm, trầm tư tựa như đang ôn lại những ngày xưa huy hoàng.
Thấy ông nội trầm tư suy nghĩ, tôi cũng không nỡ gặng hỏi, chỉ âm thầm hồi tưởng lại từng câu từng chữ mà ông vừa kể, thì ra gia đình chúng tôi từ lâu đã lưu truyền kĩ nghệ mở khóa, thậm chí còn rất nổi tiếng, vậy tại sao từ trước đến nay, ông không hề cho tôi biết?
Một hồi lâu sau, ông nội bỗng chốc quay đầu lại phía tôi, thở dài:
- Nhưng mà để làm một người thợ mở khóa không để lại dấu vết thì sẽ phải chịu rất nhiều gian khổ. Nhìn đôi bàn tay của ta đây, những vết sẹo này được… được… khắc lên tay từ khi còn nhỏ, mục đích chỉ là để cố định dụng cụ mở khóa, phải giữ sao cho chúng kết hợp ăn ý với nhau.
Ông cầm nửa que tăm trên mặt bàn lên.
- Con nhìn đây!
Nói rồi ông nhẹ nhàng đặt chiếc tăm vào giữa đường rãnh trên ngón tay trở bàn tay phải, chiếc tăm nằm vừa vặn trong kẽ rãnh đó, dù ông có lúc lắc ngón tay thì chiếc tăm vẫn nằm im bên trong mà không hề rơi ra.
Ông lại đưa bàn tay trái ra trước mặt tôi, nói:
- Lan Lan, con thử đặt chiếc cặp tóc của con vào trong khe nhỏ xem sao, thử cảm giác thế nào.
Tôi rút chiếc cặp tóc mà vừa nãy ông đã dùng để mở khóa, chọn một lỗ nhỏ trong lòng bàn tay ông, thận trọng nhét từng chút từng chút một vì sợ ông bị đau. Khi chiếc cặp được đẩy vào tầm nửa phân tôi chợt có cảm giác chiếc cặp ghim chạm phải một vật cưng cứng, một âm thanh xào xạo phát ra khi tôi cào cào chiếc cặp ghim vào vật đó.
Ông nội cười cười, nhịp nhịp ngón tay xuống mặt bàn gỗ:
- Không phải cào nữa, đây là xương khớp tay đấy, khe rãnh này khắc sâu tới tận xương
tủy đấy. Một vài dụng cụ mở khóa cần phải có sự cảm nhận hết sức tinh tế mà phần cơ thịt trên tay ta không thể có được, vì vậy người mở khóa phải cần đến xương cốt để cảm nhận những rung động nhỏ nhất.
Tôi sợ đến rụng rời chân tay, nhìn chằm chặp vào chiếc cặp ghim nằm gọn trong cái rãnh nhỏ trong lòng bàn tay ông, như một phần cơ thể tồn tại ở đó. Năm ngón tay ông vẩy vẩy vài cái, chiếc cặp ghim giống như một mũi tên bắn ra khỏi lòng bàn tay rơi xuống mặt bàn.
Nhìn đôi bàn tay kỳ quặc của ông nội, tôi nuốt nước bọt đánh ực, thực tình không thể tưởng tượng được rằng, chỉ vì tài nghệ này mà ông đã phải chịu bao đau đớn, bao khổ cực đến vậy. Nhìn lại hai bàn tay vừa trắng vừa mũm mĩm của mình, nếu như phải khắc lên đấy những đường rãnh sâu như của ông thì sẽ đau đớn thế nào. Hay là không học nữa? Cảm giác háo hức và say mê ban đầu giờ đã bị nỗi sợ hãi của tôi nuốt trọn.
Nhìn bộ dạng của tôi, ông nội cũng đoán ra được tôi đang lo lắng điều gì, ông cười to, như cố tình đưa tôi trở lại với thực tế:
- Ta không muốn làm khó con, con học hay không đấy là quyền quyết định của con. Thực ra, nếu chỉ muốn học để làm cần câu cơm thôi, thì chỉ cần học vài đường cơ bản là có thể đảm bảo cho cuộc sống của con sau này rồi. Hiện nay các loại khóa hầu hết đều do máy móc chế tạo hàng loạt nên lõi khóa có cấu tạo hết sức đơn giản, để mở những loại khóa này không có gì là khó khăn cả. Chỉ có những chiếc khóa từ ngày xưa mới thực sự khó, ví dụ như chiếc khóa vân da của Từ Hi Thái hậu hay chiếc khóa xương thú tại lăng mộ Hán Dương, nếu không có đôi bàn tay như thế này thì coi như vĩnh viễn không có ngày mở được.
Mấy cái tên khóa kỳ quái này khiến tôi cứ lùng bùng như vịt nghe sấm, nên đành ngắt lời ông:
- Chúng là loại khóa như thế nào ạ? Có phải ông đã mở được chúng rồi không? Ông nội chau mày, tỏ vẻ thiếu kiên nhẫn trước câu hỏi ấu trĩ của tôi, lắc đầu:
- Đều đã là quá khứ, giờ nhắc lại cũng có ý nghĩa gì đâu. Nhưng mà, con phải suy nghĩ cho rõ ràng, rốt cuộc là có học hay không?
Tôi cúi đầu lưỡng lự một lúc, tuy những vết sẹo trên tay ông vô cùng đáng sợ, nhưng ông nội cũng đã nói rồi, chỉ cần học vài kĩ thuật đơn giản thôi cũng đã đủ để nuôi sống bản thân, hơn nữa kĩ nghệ này cũng thật thần kỳ, nếu quyết tâm học được thì cũng rất
hay.
Nghĩ đến đây, tôi lập tức quỳ xuống trước mặt ông, hai tay chắp trước mặt như những ảo thuật gia thường thấy trên tivi, rồi trịnh trọng nói:
- Ông nội, con thực lòng muốn học, ông nội hãy nhận dạy cho Lan Lan đi. - Nói rồi tôi liền cúi lạy ông.
Hành động của tôi khiến ông nội rất bất ngờ, ông cười lớn rồi đỡ tôi đứng dậy:
- Môn phái của chúng ta không áp dụng những lễ nghi này. Đứng dậy đi, sàn nhà lạnh lắm đấy. - Ông nắn nhẹ đầu gối tôi, nắm chặt đôi tay tôi, rồi nhìn thẳng vào mắt tôi mà nói với vẻ trầm ngâm. - Từ ngày hôm nay, ta chính thức nhận con là đệ tử thứ hai mươi chín của Kiện môn Bắc phái. Còn học được đến cấp độ nào thì phải xem khả năng của bản thân con nữa.
Tôi gật đầu, bừng bừng quyết tâm hứa hẹn:
- Ông nội, ông hãy yên tâm, con sẽ không làm ông thất vọng đâu.
Từ ngày hôm sau, ông nội bắt đầu truyền dạy cho tôi hàng loạt những kỹ năng và môn pháp của kĩ nghệ mở khóa, ông còn giới thiệu cho tôi về tính năng, nguyên lí, phương pháp khai mở, những điển tích về các loại khóa cổ quái trong lịch sử hàng nghìn năm của Trung Quốc. Không biết ông nội lấy ở đâu ra rất nhiều loại khóa khác nhau, ông bắt tôi tiếp xúc và thực hành với từng loại một, tận tay hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi từng li từng tí.
Vậy mà cũng đã bốn năm trôi qua, những điều được học cũng không ít, điều đó ít nhiều giúp tôi cảm thấy những loại khóa ở thành phố này đều không còn là rào cản đối với mình nữa.
Vào một buổi chiều, khi vừa đi chợ mua thức ăn về, ông nội liền gọi tôi vào trong phòng bảo muốn kiểm tra thành quả học tập của tôi, rồi đưa một chiếc ổ khóa có hình thù rất kì lạ để tôi thử mở nó trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Chiếc ổ khóa được làm bằng đồng thau, to gần bằng bàn tay của một người trưởng thành, mang hình một đôi chim uyên ương đang chụm ức vào nhau, đôi mắt khảm ngọc lưu ly và chiếc mỏ mạ vàng óng ánh; từng chi tiết trên ổ khóa được khắc rất sinh động, giống hệt một đôi chim uyên ương thật. Nơi hai con chim uyên ương chạm ức vào nhau có một cái móc khóa bằng đồng, có thể lật qua lật lại, nhưng khi có bất kỳ sự tác động
nào từ bên ngoài vào thì lập tức từ mắt khóa trên đầu của con chim uyên ương bên trái sẽ có một thanh sắt dài tự động bật ra, cắm thẳng vào mắt khóa trên đầu con chim uyên ương bên phải. Trên bề mặt của thanh sắt này được phủ kín bởi những khe rãnh xoắn ốc có tác dụng ăn khớp với những đường vân nổi nằm trong mắt khóa, điều này sẽ khiến cho ổ khóa bị khóa lại hoàn toàn.
Ông nội nói rằng đây là loại khóa rất hay được sử dụng trong những căn phòng cất giữ vàng bạc châu báu của các gia đình khá giả thời Minh Thanh, tên nguyên gốc của nó là khóa Uyên Ương bọc tâm giao ức. Khe xoắn ốc trên thanh sắt và những đường vân nổi trong mắt khóa có tính đối xứng lẫn nhau, tượng trưng cho sự kết hợp của hai trái tim, tương truyền rằng nó do một cặp vợ chồng nhà Thanh chế tạo ra. Ngày xưa các bậc tiền bối trong dòng họ cũng dùng thử thách này để kiểm tra kỹ năng của ông nội, lúc đó ông chỉ cần thời gian cháy nửa thẻ hương là đã có thể mở thành công ổ khóa này. Mặc dù là cổ vật của thời xưa nhưng kết cấu của chiếc khóa này khá đơn giản, không phải là loại khó lắm, với khả năng hiện tại của tôi, chắc sẽ không cần hết ba thẻ hương cháy để mở nó.
Nghe ông nội nói thế, tôi thấy không còn lo lắng nữa, lập tức bắt tay vào việc mở khóa.
Mở khóa cũng có những điểm tương tự như việc bắt mạch trong đông y, cũng gồm có những công đoạn như: Nhìn, nghe, bắt mạch.
Nhìn, là dùng mắt để quan sát. Bắt đầu từ bên ngoài ổ khóa, độ to nhỏ của mắt khóa, chất liệu sử dụng sau đó dùng một chiếc kính lúp chuyên dụng mà chỉ người phái Kiện môn mới có để quán sát hình thái bố cục, cấu tạo chủ chốt ở bên trong lõi khóa như: trục khóa, bánh răng… rồi từ đó mới lựa chọn công cụ phù hợp và kỹ thuật cần áp dụng để mở khóa.
Nghe, là sử dụng một chiếc kim dài hoặc kim móc, chọc sâu vào trong mắt khóa, sau đó xoay chiều và dịch chuyển chiếc kim, dựa vào âm thanh phát ra để phán đoán chất liệu, cấu tạo và phương thức khắc ở bên trong lõi khóa. Từ đó, có phương cách sử dụng dụng cụ trong tay một cách hiệu quả.
Bắt mạch, đây được coi là bước quan trọng nhất trong cả quá trình chuẩn bị. Sau khi thực hiện xong hai bước Nhìn và Nghe, người mở khóa phải đặt cả hai bàn tay mình lên chiếc khóa, dùng sự tiếp xúc qua da thịt hay thậm chí là tận xương cốt để cảm nhận nó, nhất định phải dùng tấm lòng của mình để nhận biết sinh khí cũng như tâm hồn của chiếc khóa thì mới có thể chọn ra công cụ và phương thức tốt nhất. Khi dùng tay để thực hiện công đoạn này thì những vết sẹo trong lòng bàn tay là công cụ tuyệt vời do những người mở khóa lão luyện khắc lên qua những kinh nghiệm được đúc rút từ hàng nghìn năm nay. Tổng cộng có bốn kiểu với hai mươi tám loại sẹo phân bổ tại các vị trí khác nhau trong lòng bàn tay. Vị trí vết sẹo phải dựa vào sự kết hợp giữa tính năng đặc thù của công cụ và chức năng khác nhau tại các vị trí trong lòng bàn tay. Thậm chí một vài điểm giao cắt của các đường chỉ tay cũng đều có mục đích riêng của nó. Đặc biệt loại hình này cần phải có
sự chính xác tuyệt đối, chỉ cần một sai sót nhỏ cũng khiến cho đường sẹo bị lệch hướng, ngay cả khi vết sẹo liền lại thì cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả mở khóa về sau.
Qua ba bước cơ bản trên, tôi nhận ra Uyên Ương bọc tâm giao ức này là chiếc khóa điển hình về sự kết hợp của hai loại kim loại khác biệt, lớp ngoài cùng được bọc bằng một lớp đồng thau dày chừng nửa phân, còn lõi khóa được đúc bằng thép.
Tôi vẫn nhớ ông đã từng dạy rằng, đối với những loại khóa được đúc từ hai kim loại trở lên, độ khó thường sẽ tăng lên, chủ yếu là do mỗi loại kim loại đều có thuộc tính đặc thù riêng biệt, nên trong quá trình mở khóa cần phải kết hợp sử dụng rất nhiều loại công cụ và phương thức tương ứng. Khóa đúc bằng nhiều loại kim loại vẫn chưa được coi là loại khóa kỳ quái nhất, tôi còn nhớ có lần ông nội kể, loại khóa kỳ lạ nhất mà ông từng gặp phải là khóa ngũ hành, nó là sự kết hợp tương sinh tương khắc của năm hành trong phong thủy là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, do năm loại kim loại đúc thành, các bộ phận trong ổ khóa biến hóa khôn lường, vô cùng khó mở.
Tôi còn phát hiện ra rằng, để tránh cho lõi khóa lâu ngày bị oxy hóa thì bên dưới cùng lõi khóa còn có một khoang nhỏ chứa dầu cá, bên trong được nén đầy tơ tằm hảo hạng theo nguyên lý khi bị tác động sẽ làm cho dầu cá sánh ra bôi trơn cho lõi khóa.
Nhược điểm của loại khóa này là phải thay dầu, thay lụa và lắc đều khóa theo định kỳ, nhưng cũng vì những lý do này mà khiến cho những thao tác của kỹ thuật câu móc, quay, trượt trong quá trình tháo lắp bị chệch đi do lõi khóa quá trơn và bánh răng xoay lệch vị trí do bị lắc. Do đó, yêu cầu đối với những người mở khóa là phải có đôi bàn tay vô cùng vững chắc và lòng kiên nhẫn phi thường.
Những bước chuẩn bị đều đã hoàn tất, tôi liền lập tức bắt tay vào quy trình mở khóa.
Đầu tiên, tôi lấy ra một chiếc kẹp nhíp gắp lõi đồng mảnh và dài cắm vào mắt khóa, giữ cố định hai mặt phía trong của rãnh khóa sao cho dầu tự động bôi trơn và tránh cho bánh răng chuyển động, sau đó dùng một cây kim mảnh bằng bạc luồn vào lõi khóa, vừa lúc lắc chiếc kim thì bên trong chợt phát ra một âm thanh rất nhỏ, tôi nhanh chóng tìm ra vị trí của trục khóa, nhẹ nhàng ấn trục khóa trượt xuống dưới khe của bánh răng, từ từ tách bánh răng ra khỏi trục khóa.
Trong khi thao tác, tôi phát hiện ra bên trong lõi khóa có một bánh răng gồm tám múi răng có hình dạng không đồng nhất với nhau, sau khi ổ khóa được khóa lại thì mỗi múi răng sẽ ăn khớp với một khe rãnh tương ứng nằm trên trục khóa, điều này khó hơn so với dự đoán ban đầu của tôi.
Tôi hết sức thận trọng để tháo ba múi răng trong khoảng thời gian cháy một thẻ hương, với tốc độ này chắc chưa đầy ba thẻ hương là sẽ hoàn tất.
Thấy thời gian còn dư dả, tôi có phần tự tin thái quá, cho rằng những chiếc khóa cổ chẳng qua cũng chỉ tầm như thế này là cùng. Cho đến khi tháo xong múi răng số bốn, tay tôi bỗng cảm nhận thấy lõi khóa bỗng rùng nhẹ rồi múi răng vừa tháo quay trở lại vị trí cũ ăn khớp với rãnh trên trục, năm múi răng còn lại di chuyển theo chiều ngang về hai phía, khiến trục khóa và các múi răng tự động hoán đổi vị trí ban đầu.
“Haizzzz!”… Tôi mất kiên nhẫn thốt lên, mồ hôi trên đầu cứ thế túa ra.
Tôi chợt nhớ lại những lời ông nội đã từng dạy, đây chính là hiện tượng trật bánh răng. Các thợ làm khóa cao tay trong quá trình chế tạo sẽ luồn một sợi dây móc bằng kim loại cực mảnh dưới mỗi múi răng nhằm chống kẻ trộm. Nếu không dùng đến chìa khóa của nó để mở, thì trong một khoảng thời gian nhất định, khi không tháo được trục khóa ra khỏi bánh răng thì sợi dây này sẽ tự động thít chặt lại, ảnh hưởng đến cả trục của lõi khóa, khiến cho kết cấu bên trong lõi khóa thay đổi hoàn toàn. Lúc đó, bắt buộc người mở khóa phải cắt đứt sợi dây móc để mở lại từ đầu.
Điều này khiến tôi thêm rối trí, dùng tay áo lau mồ hôi, tôi ngẩng đầu nhìn ông đầy vẻ chờ đợi. Ông nheo mắt nhìn tôi, miệng hơi cười cười.
Tôi lập tức đoán ra được ý đồ của ông, thực ra ông nội có tình không nói trước để thử khả năng ứng biến của tôi mà thôi. Tôi vội ngẩng đầu nhìn lên thẻ hương đang cháy dở trên mặt bàn, thẻ hương thứ hai cũng đã cháy được hơn một nửa. Vậy là thời gian còn lại không còn nhiều nữa.
Tôi cắn răng, trong lòng thầm nghĩ nhất định không thể để cho ông nội thất vọng, nên quyết định mở lại từ đầu. Tôi lấy từ trong túi đồ nghề ra một sợi dây da lừa. Đây là một công cụ bắt buộc phải có của người mở khóa, nó được thuộc từ phần da tốt nhất của giống lừa ở vùng Sơn Đông, sau đó tẩm bột chì theo tỷ lệ nhất định, rồi lại được thuộc thêm vài lần nữa, vì vậy nó có độ cứng khác thường nhưng cũng vô cùng dẻo dai.
Tôi nút sợi dây da vào đoạn giữa, cẩn thận vòng sợi dây qua chiếc kim móc chuyên dụng, rồi chầm chậm đưa vào mắt khóa, nhẹ nhàng khều lấy sợi dây cuốn quanh bánh răng lúc nãy, tay trái nắm chặt một đầu sợi dây da, đầu còn lại dùng răng cắn chặt, kéo thật mạnh để giữ cố định sợi dây, không cho nó chuyển động. Rồi tôi nhanh chóng thực hiện tháo các múi răng lại từ đầu, từng múi răng dần dần được tháo ra. Sợi dây móc bị các múi răng giật với một lực rất mạnh, khiến cho sợi dây da cứa mạnh làm môi và ngón tay của tôi bật máu. Nhưng tôi không hề để ý mà chỉ tập trung cao độ vào ổ khóa.
Cuối cùng, thẻ hương thứ ba cũng sắp lụi, tôi đã tháo được múi răng thứ tám. Cảm thấy lực kéo của chiếc kim móc yếu dần, tôi biết mình đã thành công. Giờ mới cảm nhận được toàn thân ướt sũng mồ hôi, không còn một chút sức lực nào, tôi thả người ngồi phịch xuống ghế.
Ông nội vẫn đứng bên cạnh, khuôn mặt lộ vẻ kinh ngạc, nhìn tôi lắp bắp:
- Lan Lan… con… con… - Bỗng nhiên, ông lắc mạnh đầu lấy lại vẻ bình tĩnh, với lấy chiếc khăn mặt đưa cho tôi rồi nhẹ nhàng nói. - Rất tốt, con đã tiến bộ rất nhanh, vượt qua cả dự đoán của ta. Một chiếc khóa trật bánh răng mà chỉ trong khoảng thời gian ngắn con đã mở được. Với khả năng như hiện tại của con thì coi như đã đạt cấp độ Ba của phái Kiện môn rồi đấy.
Nhìn dáng vẻ của ông nội, tôi thấy hơi tò mò, vừa lấy khăn lau mồ hôi vừa hỏi ông cấp độ Ba là như thế nào, có phải là đã rất điêu luyện rồi không.
Ông nội cười khoái chí, đưa tay cầm chiếc ổ khóa để trên mặt bàn lên, qua vài thao tác đơn gỉan chiếc ổ khóa lại bị khóa lại, sau đó ông quay sang nói:
- Giờ để ta chỉ cho con biết thế nào là lão luyện cấp độ Hai.
Nói rồi ông nội rút sợi dây da lừa ra, cắm chiếc kim móc vào, dùng một trong những khe rãnh khắc trong lòng bàn tay phải kẹp chặt phần đuôi của chiếc kim rồi điều khiển hướng di chuyển của nó. Chiếc kim di chuyển dưới sự điều khiển của những đường rãnh trong lòng bàn tay, lúc thì ngoằn ngoèo lúc thì đi thẳng, trông nó chuyển động mềm mại y hệt như sợi mì. Cùng lúc ấy, bên trong lõi khóa phát ra những âm thanh lách cách nhẹ nhàng, đó chính là tín hiệu của việc những bánh răng bị tháo ra khỏi trục khóa.
Chỉ một lúc sau, ông nội rút chiếc kim móc ra, ổ khóa liền tách làm đôi. Ổ khóa đã được mở ra!
Tài nghệ của ông nội khiến tôi không thể không phục sát đất, một chiếc ổ khóa khó mở như thế, vậy mà vào tay ông chỉ trong nháy mắt đã được mở bung, xem ra so với tài năng của ông, tôi vẫn còn kém xa.
Tôi nắm lấy bàn tay của ông, ngắm nhìn thật kỹ những vết sẹo, qua ánh sáng của đèn điện, tôi lờ mờ nhìn thấy màu trắng đục của xương bàn tay nằm dưới những đường rãnh sâu hoắm. Thật khó tưởng tượng nổi, chỉ nhờ vào những vết rãnh sâu này mà có thể mở
được ổ khóa có cấu tạo phức tạp như thế.
Ông nội vỗ vỗ lên mu bàn tay tôi, khoan thai nói:
- Phái Kiện môn có câu cổ ngữ “Thiên Kiện quỷ thủ, Địa Kiện cốt đoạn, Nhân Kiện nhục khai”, đây chính là ba cấp bậc trong kỹ thuật mở khóa, nó được phân thành ba thuyết khác nhau. Con hiện tại đang dùng cơ thịt trên lòng bàn tay kết hợp với dụng cụ để mở khóa, như vậy là ứng với câu Nhân Kiện nhục khai. Còn cách ta vừa mới làm chính là sử dụng đường đi của xương cốt để mở khóa, đó chính là Địa Kiện cốt đoạn. Trong hai cách này tuy chỉ hơn kém nhau một cấp bậc, nhưng thực chất thì cách xa nhau hàng vạn dặm.
Tôi nắm chặt tay gặng hỏi ông:
- Ông ơi, Thiên Kiện có phải là cấp độ ông đã từng nói là phải toàn tâm toàn ý đối xử với chiếc khóa như một sinh mệnh sống không ạ?
Ông nội khẽ gật đầu, sau đó trầm ngâm nói tiếp:
- Kiện môn lập phái cũng đã gần một nghìn năm nay, đệ tử tuy có không ít nhưng đạt được đến cấp độ Thiên Kiện thì từ trước đến nay mới chỉ có ba người thôi. Con à, thực sự là khó lắm, khó lắm.
Chỉ mới có ba người? Ít như vậy sao? Tôi vội hỏi lại, liệu ông có phải một trong ba người đó không? Ông nội trầm tư không đáp rồi chợt thở dài lầm rầm như tự nói với mình:
- Không dám, không dám. Thiên cơ tuyệt mật, thiên cơ tuyệt mật!
Câu nói này của ông nội càng khiến tôi băn khoăn hơn, nhưng khi tôi gặng hỏi thì ông nhắm chặt mắt với vẻ thư thái hiện rõ trên mặt, mặc cho tôi có hỏi gì ông cũng không trả lời.
Lần thử sức này tôi coi như đã vượt qua, tuy có chút lúng túng, nhưng cũng đã mở được chiếc ổ khóa một cách tương đối thuận lợi. Đã có người mất tới hàng chục năm sức lực mà vẫn không thể mở được nó. Nhưng trong lòng tôi rất hiểu, nếu muốn học lên cấp độ cao hơn thì nhất định phải khắc lên hai bàn tay mình những vết sẹo rùng rợn đó. Vậy có nên tiếp tục học nữa không? Câu hỏi này đã khiến tôi phải trăn trở suy nghĩ trong một thời gian rất dài.
Chương 2: Cặp tỳ hưu bằng ngọc lưu ly
Thời gian cứ thế trôi qua, vào một buổi sáng khoảng nửa năm sau đó, bỗng một vị khách lạ xuất hiện trước cửa nhà tôi, người đàn ông trung niên ấy có vẻ ngoài lịch thiệp và sang trọng của những kẻ có quyền thế, lái một chiếc siêu xe Audi màu đen đến.
Người đàn ông ấy nói chuyện với ông nội tôi ở trong phòng rất lâu, vài lần tôi vào thay nước trà đều nhận thấy vẻ nghiêm nghị bất thường của hai người, thậm chí người đàn ông còn đứng lên đi lại quanh phòng đầy vẻ lo âu.
Đến đầu giờ chiều, hai người bước ra khỏi phòng với vẻ mặt trầm tư, người đàn ông mời ông nội và tôi đi ăn trưa. Tôi vui vẻ nhận lời vì vốn rất thích đi ăn tiệm, hơn nữa hiện giờ tôi đang rất đói. Nhưng ông nội thì nhất định không đồng ý, nói rằng ăn uống bên ngoài không thoải mái, không bằng dùng cơm ở nhà. Người đàn ông lạ mặt cố nài lần nhưng thấy thái độ dứt khoát của ông nên cũng đành thuận theo.
Lúc đó, trong nhà không còn thức ăn gì, nên tôi bảo ông đưa tiền để đi chợ. Anh ta lập tức cầm ví rút ra vài tờ một trăm tệ nhét vào tay tôi, bảo tôi muốn mua gì tùy thích.
Trong lúc anh ta mở ví lấy tiền, tôi vô tình nhìn thấy một tấm thẻ ép plastic trong ngăn để giấy tờ tùy thân. Với con mắt quan sát tinh tường của người mở khóa, tôi liền nhận ngay ra đó chính là tấm thẻ công an với dòng chữ bên dưới là: Công an tỉnh Liêu Ninh.
Tôi thấy thực sự bất ngờ, một vị quan chức trong ngành công an sao lại tìm đến ông nội tôi, lẽ nào ông nội tôi đã phạm tội gì? Ý nghĩ này vừa nảy ra đã lập tức bị tôi phủ nhận, bởi qua thái độ của anh ta với ông tôi, hình như là vì lý do khác.
Nhìn thấy vẻ thất thần của tôi, rõ ràng là anh ta đã hiểu nhầm, liền vội vàng xua tay nói:
- Em gái ơi, hay là để anh lấy xe đưa em đi vậy, để em đi bộ thì xa quá!
Tôi lưỡng lự quay sang hỏi ý kiến ông, ông đang ngồi trầm tư trên ghế, nghe thấy tôi hỏi thì không nói gì chỉ gật đầu ra hiệu đồng ý. Trong lòng tôi phấn chấn hẳn lên, đi chợ mua thức ăn mà cũng có cả xe đưa xe đón thì sướng thật.
Lần đầu tiên được ngồi trong một chiếc xe sang trọng như thế, tôi mân mê ngắm nhìn
từng bộ phận trong xe, cảm giác thật thoải mái. Anh ta vừa lái xe vừa trò chuyện vui vẻ với tôi, rồi nói, lần này tìm đến ông nội của tôi là để nhờ ông mở một chiếc khóa, nhưng cho dù van nài thế nào ông cũng không đồng ý.
Tôi không cảm thấy bất ngờ với chuyện của người đàn ông này, vì đã chứng kiến những vị khách lạ mặt tìm đến nhà từ khi tôi còn nhỏ, họ đều có chung một mục đích. Thế nhưng, thấy anh ta than thở hồi lâu, tôi không thể không cảm thương. Tôi cũng tự thấy tài nghệ của bản thân mình không đến nỗi tồi, tại sao họ lại chỉ đến nhờ vả ông nội thôi. Nghĩ vậy, tôi liền hào hứng lên tiếng:
- Em cũng biết mở khóa đấy!
Người đàn ông quay sang nhìn tôi với vẻ bất ngờ, rồi bắt đầu hỏi dồn, chỉ qua vài câu hỏi anh đã hiểu ra được phần nào vấn đề. Sau khi biết tôi từng mở thành công chiếc khóa Uyên ương bọc tâm giao ức, anh chằm chằm nhìn tôi một hồi lâu khiến suýt chút nữa lao xe lên vỉa hè, sau đó tỉ mỉ gặng hỏi tôi chi tiết lần mở khóa đó.
Thấy những lời tôi kể đầy sức thuyết phục, anh ta chăm chú lắng nghe và không ngừng gật đầu tỏ vẻ ngưỡng mộ:
- Đúng là con nhà nòi, con nhà nòi!
Nghe những lời khen của anh, tôi càng thêm hào hứng, nói thêm:
- Cái đấy đã là gì, trong thành phố này không còn cái khóa nào mà em không mở được, giờ em đang nghiên cứu để mở những chiếc khóa cổ.
Những lời khoác lác không biết trời đất của tôi khiến người đàn ông tỏ vẻ hoài nghi, anh ta hỏi lại những lời nói đó là thật hay giả.
Vẻ hoài nghi của người đàn ông đó khiến tôi thấy hơi cụt hứng, liền thách thức:
-Anh xem thường người khác quá đấy, nếu không tin thì giờ em sẽ cho anh thấy tận mắt.
Người đàn ông tỏ ra hào hứng khác thường, liền nói:
- Được! Coi như hôm nay anh được tận mắt thưởng thức tài nghệ của em. Do không đem theo ổ khóa nào nên anh ta đành đỗ xe lại ven đường, sau khi khóa xe,
rút chìa khóa ra, anh ta quay sang chìa tay mời tôi đến mở khóa xe ô tô.
Nhất thời bực bội vì anh ta có vẻ xem thường mình, tôi liền lừ lừ bước tới, nhất định lần này tôi phải thực hiện thật điêu luyện để cho anh ta biết tay.
Tôi còn nhớ lúc đó là đầu tháng Tư, mùa xuân tiết trời ấm áp, trăm hoa đua nở, hai hàng liễu bên đường đều đã khoác lên mình lớp lá non xanh mơn mởn. Tôi đi vòng xung quanh xem xét, lập tức nảy ra một ý tưởng tuyệt diệu. Ngắt lấy một cành liễu vừa phải, tuốt hết phần lá xanh và lớp vỏ nâu nhám bên ngoài, chỉ giữ lại phần lõi màu vàng nhạt, tôi dùng tay uốn cong cành liễu để thử độ cứng và dẻo dai của nó, sau đó bước đến bên cạnh cửa xe ôtô.
Đây là chiếc Audi đời cũ, nên mở nó cũng không khó lắm. Tôi nheo mắt nhìn vào trong lỗ khóa, chỉ cần xem qua là tôi đã có thể nắm được cấu trúc vận hành của nó. Nói thực lòng, độ khó của những chiếc khóa hiện nay so với những loại khóa tôi đã từng thực hành thì còn kém xa.
Tôi rút chiếc kim trong túi ra, dùng đầu kim rạch một đường chừng nửa phân trên thân liễu, bóc lấy một đoạn rồi xỏ qua lỗ kim, buộc thắt nút tại một đầu, sau đó từ từ chọc vào trong lỗ khóa. Khi cảm thấy sợi liễu đã chạm đến điểm cuối cùng, tôi khéo léo móc đầu buộc sợi liễu vòng qua lõi khóa và thắt nút, kéo nhẹ ra phía ngoài, khóa chống trộm của chiếc xe bỗng rú lên ầm ĩ. Ngó sang tay cầm của cánh cửa xe, nó đã được mở ra từ lúc nào.
- Giỏi lắm! - Người đàn ông vỗ đùi, tỏ vẻ vô cùng phấn khích. - Một cô gái tài năng, thật sự có tài năng, vậy là đã có thêm một người của phái Văn giải xuất hiện, xem ra dòng họ Sở đã có người kế thừa, người thứ tư của Thiên Giới[1] chắc chắn sẽ là em chứ không phải ai khác.
[1] Chỉ người đạt đến cấp Thiên Kiện.
Thấy anh ta thật sự nể phục mình, tôi cảm thấy hết sức hào hứng, nhưng có một điều khiến tôi phải hoài nghi, tại sao đến Văn giải và Thiên Giới anh ta đều biết đến?
Nhận thấy vẻ hoài nghi của tôi, anh ta mỉm cười, nói:
- Anh đoán Sở thúc cũng đã giảng qua cho em về Võ giải và Văn giải trong phái Kiện môn rồi đúng không? Không giấu gì em, anh chính là người truyền thừa của Nam phái Võ giải tại Hàng Châu. Anh họ Tôn, tên là Ngọc Dương. Dựa vào vai vế, thì em nên gọi anh là sư huynh đấy.
Ông nội đúng là đã từng giải thích với tôi, Kiện môn dựa vào phương thức mở khóa khác nhau mà phân thành hai trường phái đối lập, gia đình họ Sở là đại diện cho một chi của Bắc phái Văn giải, gia đình họ Tôn là đại diện cho một chi lớn của Nam phái Võ giải. Hai phái tuy hoạt động trong những lĩnh vực và có chuyên môn khác nhau, nhưng bản chất vẫn cùng chung một nguồn gốc, và có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời. Ngoại trừ ông nội ra, đây là lần đầu tiên tôi được diện kiến một người mở khóa khác, không ngăn được cảm xúc thân quen như người cùng nhà, tôi liền chiếu theo quy tắc trong nghi thức xã giao của phái Kiện môn mà cung kính chào người đồng môn Tôn Ngọc Dương.
Nghi thức chào hỏi này cũng hết sức đặc biệt, đầu tiên là dùng bàn tay phải nắm chặt ngón tay cái của bàn tay trái đặt trước ngực, bốn ngón còn lại của bàn tay trái đặt lên phía trên mu và ôm trọn lấy bàn tay phải. Tạo thành một thế mang ý nghĩa: liên kết mở khóa, hợp nhất tâm tư. Đặc biệt trong khi chào hỏi, vị trí của hai bàn tay nhất định không được đảo ngược, bởi nghi lễ của người Trung Hoa hết sức tinh tế, tay trái đặt trên tay phải là biểu lộ sự cát tường, còn nếu đảo tay thì lại biểu lộ điềm xấu. Người mở khóa luôn tôn kính nghề nghiệp của mình, nên rất khắt khe trong các lễ nghi, đi ngược lại những quy tắc này là một điều hết sức cấm kỵ.
Thấy tôi thành kính hành lễ, Tôn Ngọc Dương gật gật đầu tỏ vẻ hài lòng rồi cũng thành tâm đáp lễ. Sau đó hai chúng tôi bắt tay nhau, ánh mắt và nụ cười đều lộ rõ sự thân thiết vui vẻ.
Tôi và Tôn Ngọc Dương ngồi xuống chiếc ghế đá ven đường, tôi hết sức tò mò muốn biết tại sao anh lại là công an và lần này tìm đến ông nội để nhờ mở loại khóa gì?
Tôn Ngọc Dương nghe vậy liền thở dài, từ khi đất nước được giải phóng, Nam phái Võ giải đã đi vào giai đoạn thoái trào, tính đến thế hệ anh thì cả phái Võ giải chỉ còn lại ba đến năm người chủ chốt. Nhưng kỹ thuật tuyệt mật đều đã bị lọt ra ngoài, còn những người nắm giữ bí truyền thì đến nay hầu hết đã trở thành thợ khóa. Vì vậy khi cha anh truyền thụ lại cho anh bí quyết của dòng họ thì cũng là lúc ông yêu cầu anh phải học đại học, để có thể tìm cho mình một hướng phát triển khác, và cũng là để gột rửa tai tiếng trộm cắp cho quá khứ của dòng họ mình. Anh cũng được coi là người có tương lai khi thi đỗ vào học viện Cảnh sát Thẩm Dương, sau khi tốt nghiệp được phân về công tác tại phòng cảnh sát hình sự thuộc Cục Công an tỉnh Liêu Ninh. Người của phái Kiện môn lại là công an, đến chính bản thân anh cũng thấy thật kỳ quặc. Lần này anh đến tìm ông nội tôi tuy là nhờ ông mở khóa, nhưng bởi có liên quan đến bí mật quốc gia, nên không thể cho tôi biết tường tận được.
Nghe đến đây, tôi thấy không được thoải mái cho lắm, rõ ràng anh có ý coi tôi là người ngoài cuộc. Thấy tôi chu mỏ tỏ vẻ hờn giận, anh vội vàng rút một vật màu xanh biếc từ trong ngực áo ra, lúc lắc trước mặt tôi, cười nói:
- Giờ anh chẳng có món đồ nào để tặng em cả, chỉ có con tỳ hưu bằng ngọc lưu ly mà anh đã đeo từ khi còn nhỏ, hôm nay anh tặng nó cho em coi như là quà ra mắt vậy.
Vì nghe không rõ nên tôi càng thấy tức hơn, vùng vằng toan cãi lại:
- Bóng cao su[2] gì chứ. Em đã hai mươi tuổi rồi, hết tuổi chơi bóng cao su rồi. [2] “Bóng cao su” đồng âm với “tỳ hưu” trong tiếng Trung.
Tôn Ngọc Dương vỡ lẽ ra là do tôi nghe nhầm nên vừa cười vừa giải thích lại:
- Lan Lan à, không phải là bóng cao su mà là tỳ hưu đấy. Tỳ hưu là một linh vật thuộc họ rồng, tỳ hưu ngọc cũng chính là rồng ngọc đấy.
Tôi vỡ lẽ ồ lên một tiếng, đưa tay đón lấy món quà mà trong lòng vẫn thầm nghĩ: Rồng thì cứ gọi là rồng đi, cái gì mà bóng cao su chứ, thật là kỳ quặc.
Con tỳ hưu ngọc to gần bằng hộp diêm, tròn và nhẵn bóng, toàn thân phủ màu xanh lam thẫm, những chiếc vảy trên mình tỳ hưu cũng được kì công tinh khắc, ngũ quan rất có hồn và sinh động, người con tỳ hưu tỏa ra một mùi hương nhè nhẹ, khiến tôi thoạt nhìn đã rất thích thú. Thế nhưng tôi vẫn có cảm giác con tỳ hưu ngọc này có vẻ giống con sư tử con hơn, chứ chẳng có chi tiết nào giống với những con rồng mà tôi đã từng nhìn thấy trước đây.
Thấy tôi có vẻ thích thú ngắm nghía vưu vật trên, Tôn Ngọc Dương liền giảng giải thêm:
- Em đừng coi thường linh vật bé nhỏ này, nó chính là bảo bối gia truyền của dòng họ anh đấy, đây cũng chính là linh vật mà cụ tổ Tôn Diệu Điền từ thời nhà Minh đã luôn đem theo bên người. Nó được làm từ ba loại ngọc với màu sắc khác nhau, nhưng được ghép tinh vi đến độ không thể nhìn thấy khe ghép bằng mắt thường. Khi ấn nhẹ vào hai chiếc nanh, từ bụng của con tỳ hưu sẽ bật ra mùi hương dịu nhẹ khắp cơ thể, ngoài ra mùi hương đó còn có tác dụng phòng và trị bệnh…
Tôn Ngọc Dương cứ thế miên man một tràng về con vật kỳ lạ này, khiến tôi càng lúc càng mông lung, nhưng thực tình hình dạng của con tỳ hưu này khiến tôi vô cùng thích thú, vân vê nó một hồi, tôi liền vòng sợi dây đeo nó vào cổ.
Con người tôi suy nghĩ đơn giản thế nhưng cũng không phải là kẻ ngốc. Mặc dù tôi và Tôn Ngọc Dương đã nhận nhau làm anh em, thế nhưng việc anh ấy tặng tôi một món quà quý giá như vậy trong lần đầu gặp mặt, chắc chắn cũng là có lí do riêng, có thể là anh muốn nhờ tôi khuyên ông nội giúp anh mở chiếc khóa mà theo như lời anh là bí mật
quốc gia không thể nói ra kia. Tôi vốn không biết vòng vo, nên liền nghiêm nghị nhìn thẳng và hỏi anh có phải vì chuyện này không?
Tôn Ngọc Dương liền cười lớn, rồi thật thà thú nhận với tôi:
- Lan Lan à, nếu như em giúp được anh việc này thì anh nhất định sẽ hậu tạ. Tôi cũng lắc đầu thành thật với anh:
- Không cần anh phải hậu tạ, quả bóng cao su này… à quên, con tỳ hưu ngọc này thật sự rất đẹp.
Khi nhận lời với ai thì nhất định phải hết lòng giúp đỡ, đó chính là nguyên tắc mà ông nội đã dạy tôi từ khi còn rất nhỏ. Vì vậy, khi nhận lời giúp Tôn Ngọc Dương thuyết phục ông nội, thậm chí còn không màng đến chuyện hậu tạ, trong đầu tôi đã nghĩ nhất định phải giúp anh lần này.
Tôn Ngọc Dương tỏ ra thực sự cảm động, không ngừng vỗ vai khen ngợi: - Đúng là cô em gái tốt bụng, cô em gái tốt bụng!
Anh còn vồn vã hứa nhất định sẽ đón tiếp tôi nồng hậu nếu như tôi có dịp tới Thẩm Dương. Sau khi đã thương lượng ổn thỏa, thời gian cũng không còn sớm nữa, sợ ông nội ở nhà đợi lâu sẽ sốt ruột nên anh vội vàng lái xe đưa tôi tôi tới chợ mua một ít rau xanh và cá, đều là những món khoái khẩu thường ngày tôi và ông nội vẫn ăn.
Tôn Ngọc Dương đúng là một người chu đáo, anh còn mua biếu ông nội một chai rượu Ngũ Lương những hơn năm trăm tệ. Trong lòng tôi không khỏi suy nghĩ, xem ra người làm quan đúng là có nhiều tiền thật.
Đợi khi chúng tôi về đến nhà, ông nội cũng không hề hỏi vì sao lại đi lâu như vậy, mà chỉ giục tôi mau vào bếp nấu ăn, còn ông và Tôn Ngọc Dương cùng ngồi thưởng trà trong phòng khách. Vì nhà tôi không thiết kế theo kiểu chia ô chia ngăn mà liên thông một dãy với nhau, nên tôi vừa đứng trong bếp nấu ăn vừa dỏng tai lắng nghe cuộc đối thoại của hai người. Do đã cam kết với nhau từ trước, nên Tôn Ngọc Dương không hề đả động gì đến việc tôi nhận lời giúp anh, mà chỉ tiếp tục ra sức nài nỉ ông nội, chỉ còn thiếu nước quỳ lạy trước mặt ông để van xin.
Bất kể Tôn Ngọc Dương có van nài thế nào thì ông nội cũng không phản ứng gì nhiều, chỉ khẽ lẩm bẩm trong miệng “Để ta suy nghĩ… việc này phải suy nghĩ…”. Ông nội tỏ
thái độ lúc thế này lúc thế kia, rõ ràng là đang muốn tìm cớ thoái thác đây mà. Tôi đứng bên trong mà thấy sốt ruột thay, chỉ trực chạy vào hỏi ông tại sao không nghĩ đến tình đồng môn mà giúp đỡ người ta lấy một lần.
Sau khi thức ăn được bày biện lên bàn, chúng tôi cùng ngồi vào bàn ăn, do mỗi người đều đang theo đuổi suy nghĩ riêng của mình nên chẳng ai nói với ai câu nào, mà chỉ yên lặng ngồi ăn trong suy tư. Một lúc sau, Tôn Ngọc Dương đánh mắt ra hiệu về phía tôi, ý bảo tôi mở lời với ông. Tôi đã sớm chuẩn bị trước những lời cần nói với ông, thế nên liền đứng dậy rót đầy một cốc rượu, đặt vào tay ông rồi chậm rãi dò hỏi:
- Ông nội, trong lúc đi mua thức ăn, anh Tôn cũng đã kể qua chuyện với Lan Lan rồi.
Ngừng lại một lúc, thấy thần sắc của ông nội không có nét gì chuyển biến mà chỉ từ từ nhấp một ngụm rượu, tôi nghĩ rằng chắc không có chuyện gì, liền tiếp tục đi vào vấn đề:
- Mặc dù không biết đó là nhiệm vụ gì nhưng con nghĩ rằng đều là đệ tử của phái Kiện môn thì hãy coi như là người một nhà, với lại anh Tôn đến đây cũng là vì việc công, chúng ta nên giúp đỡ người ta một tay.
Sau khi lấy hết dũng khí nói những lời này xong, tôi len lén liếc trộm ông. Ông nội vẫn ngồi trầm ngâm, sắc mặt vẫn bình thản như chưa nghe thấy những lời tôi vừa nói, đôi mắt vẫn nhìn thẳng vào cốc rượu trên tay tôi. Thái độ lạnh lùng của ông càng khiến lòng tôi như lửa đốt, không biết có phải những lời nói đó đã khiến cho ông tức giận hay không?
- Ha ha ha… - Ông nội bỗng dưng bật cười, giọng sắc lạnh như đao kiếm, ngửa cổ uống một hơi cạn cốc rượu, rồi từ tốn đặt chiếc cốc lên mặt bàn.
Tôi cảm thấy trống ngực đánh liên hồi, vội rót đầy một cốc rượu khác, thỏ thẻ nói với ông.
- Ông ơi…
Chưa đợi tôi nói hết câu, ông đã ra hiệu bảo tôi dừng lại, rồi quay sang lạnh lùng nói với Tôn Ngọc Dương:
- Đến cả tỳ hưu vật báu gia truyền của dòng họ mà anh còn sẵn sàng tặng cho người khác, coi như chức vị trưởng môn nhân trong Nam phái anh cũng không cần nữa, xem ra việc này thật sự là hết sức quan trọng.
Nghe xong những lời ông nói, mặt tôi bỗng nóng ran, vô thức đưa tay lên con tỳ hưu đang đeo trước ngực, rồi thầm trách mình sao mà ngu ngốc đến vậy, thì ra ông nội đã sớm nhận ra điều này, chỉ có điều ông không muốn nói ra thôi. Nhưng nghĩ kĩ lại tôi thấy thật kỳ lạ, món đồ nhỏ xinh này liên quan gì đến chức vị trưởng môn của Nam phái chứ? Lẽ nào nó chính là vật tín của trưởng môn?
Mặt của Tôn Ngọc Dương cũng đỏ ửng lên, anh ngại ngùng trả lời:
- Sở thúc… cái này…
Bị ông tôi nói trúng tim đen nên Tôn Ngọc Dương không thể giải thích thêm được lời nào nữa.
Ông nội uống cạn cốc rượu rồi nhìn sang Tôn Ngọc Dương nói:
- Anh có biết không, vật tín của trưởng môn nhân Nam phái một khi đã trao tay thì coi như nó đã được sát nhập lại với Bắc phái qua bao nhiêu năm bị phân cách… Ha ha… lão gia nhà anh khi trao tín vật cho anh mà biết một ngày kia, anh sẽ trao nó cho một con bé ngốc, thì ta e rằng ông ta sẽ chết vì uất mất.
Tôn Ngọc Dương lắc đầu, nặng nề cười khan một tiếng đáp lời:
- Sở thúc, thực ra đó là do việc này quá quan trọng, nếu không thì thế hệ sau như cháu đây làm sao dám bán đứng dòng họ mình như thế. - Anh bỗng ngừng lại một lúc, cắn răng quyết tâm chốt lại câu thề độc. - Cháu xin thề từ nay nguyện để số phận của Nam phái cho Sở thúc quyết định, chỉ mong Sở thúc rủ lòng mà ra tay lần này.
Nghe đến đây, tôi dần hiểu ra, thì ra con tỳ hưu ngọc này chính là tín vật của trưởng môn nhân Nam phái, có được vật này thì coi như Nam phái và Bắc phái sẽ hợp nhất thành một. Nhưng một vật quý giá đến như thế, tại sao Tôn Ngọc Dương lại dễ dàng đưa cho tôi như vậy? Cũng có thể là anh ta tặng miếng ngọc này cho ông nội với lí do hợp nhất hai phái để khiến ông nội khó lòng từ chối. Nhưng bản thân anh ta là trưởng môn nhân của Nam phái, nếu như trực tiếp làm như vậy có khác gì là tự hạ thấp mình, cho nên anh ta đã thông qua tôi, gián tiếp nhờ tôi thuyết phục ông nội. Chỉ cần nghĩ đến đây, tôi không thể nào không cảm thấy có phần coi thường Tôn Ngọc Dương, cảm giác con người này không hề thoải mái và trượng nghĩa giống như khi mới tiếp xúc, mà trong đầu luôn đầy những toan tính mưa mô.
Nghe xong, đôi mắt ông sáng bừng nhìn thẳng Tôn Ngọc Dương mà nói:
- Được, ta đồng ý với anh, hi vọng từ nay về sau đừng hối hận là được. Tôn Ngọc Dương dường như vẫn chưa tin vào tai mình, run rẩy hỏi lại: - Ông… ông đồng ý với cháu rồi?
- Quà thì cũng đã nhận rồi, giờ ta có thể không nhận lời sao?
Ông nội dửng dưng trả lời, rồi cởi hai chiếc cúc ngực trên áo, thò tay vào bên trong rút ta một vật nho nhỏ. Đó là một con tỳ hưu bằng ngọc khác, giống y hệt với con tỳ hưu ngọc của Tôn Ngọc Dương, chỉ có khác là màu hồng, hẳn đây chính là tín vật của Bắc phái.
Ông nội bảo tôi tháo con tỳ hưu đang đeo trên cổ ra, cầm trên tay hai tín vật, ngắm kỹ càng một hồi rồi nói với vẻ mãn nguyện:
- Vật tín hợp thể, Kiện môn hợp nhất.
“Gắn bó đoàn kết như anh em một nhà”, ông cúi đầu lẩm bẩm một câu trong miệng rồi đặt hai con tỳ hưu đối đầu với nhau trên mặt bàn, để lại một khoảng giữa rộng chừng ba ngón tay. Hai con tỳ hưu giống như hai đầu cực của nam châm, tự động dịch chuyển dần về phía nhau, “cách”, hai mảnh ngọc dính liền lấy nhau, rồi từ miệng của chúng tự động thè ra hai chiếc lưỡi nhỏ màu vàng kim quấn lấy nhau. Quan sát sự thắm thiết đó khiến người ta cảm nhận được sự gắn bó không thể tách rời của chúng. Cảnh tượng cặp tỳ hưu ngọc một màu hồng nhạt một màu xanh thẫm đang quấn lấy nhau, giống như đang trao nhau nụ hôn khiến cho người ta cảm thấy mê mẩn.
Cảnh tượng trên khiến cả tôi và Tôn Ngọc Dương đều tần ngần ngắm nhìn, lúc đó tôi cũng đoán rằng, trong bụng của con tỳ hưu chắc chắn phải có một thứ gì đó giống như nam châm, nếu không thì tại sao chúng lại có thể tự động hút về phía nhau như thế.
Ông nội ngả người ra sau ghế, nhắm mắt thư giãn một hồi lâu, rồi bất chợt mở to mắt, cầm lấy cặp tỳ hưu đưa ra trước mặt tôi:
- Sở Khinh Lan, trưởng môn đời thứ hai mươi chín phái Kiện môn, nhận lấy tín vật.
- Dạ? - Tôi bỗng chốc ngẩn người ra, vô thức lùi ra phía sau, tôi không ngờ tới chuyện ông nội lại trao nó cho tôi, liền kinh ngạc lắp bắp. - Ông nội, ông…
- Nhận lấy! - Ông nội nhìn thẳng vào mắt tôi rồi bỗng nhiên chuyển sang giọng
nghiêm nghị khác thường. - Đưa hai tay!
Tôi quay người nhìn sang phía Tôn Ngọc Dương, khuôn mặt anh lộ rõ vẻ ngưỡng mộ xen lẫn ghen tị, nhìn tôi một hồi rồi qua ánh mắt ra hiệu cho tôi nhận lấy. Bàn tay tôi run run đưa ra đón lấy cặp tỳ hưu, cũng không biết được cảm giác lúc này là xúc động hay ảo tưởng, duy chỉ có một cảm giác chân thực nhất đó là cặp tỳ hưu trên tay đang khẽ chuyển động, và màu sắc của chúng dần hòa vào nhau, màu hồng nhạt dần chuyển sang đậm hơn, còn màu xanh thẫm dần dần nhạt đi.
Ông nội không rời mắt khỏi cặp tỳ hưu trong tay tôi, giọng ông bỗng trầm xuống, không quay sang mà nói với Tôn Ngọc Dương:
- Giờ anh về đi, mai đến đón ta.
Tôn Ngọc Dương lập tức đứng dậy, đi tới bắt tay ông nội thật chặt rồi nói:
- Sở thúc, ơn này của ông cháu không biết lấy gì đền đáp, chỉ biết rằng cháu sẽ không bao giờ quên công ơn này. Ông hãy thu xếp đồ đạc, sáng sớm mai cháu sẽ đến đón ông.
Nói rồi anh quay đầu chầm chậm đi về phía cửa chính, đi một đoạn bỗng đột ngột ngoái nhìn tôi. Tôi nhận ra ánh mắt anh rất phức tạp, miệng mấp máy một câu gì đó nhưng rồi cuối cùng anh dã đi thẳng ra ngoài cửa mà không nói điều gì. Sau khi Tôn Ngọc Dương khuất bóng, tôi vội chạy đến bên ông nội để hỏi cho rõ ngọn ngành mọi chuyện, tại sao Tôn Ngọc Dương lại tặng tín vật cho chúng tôi, và cái nhiệm vụ quan trọng kia là gì?
Ông nội liền bảo tôi đeo cặp tỳ hưu lên cổ, hít một hơi thật dài, rồi nói:
- Hai miếng ngọc tỳ hưu này là bảo bối do một đạo sư của Kiện môn chế tác ra từ cuối thời nhà Tống, trước khi mất, ông đã truyền lại cho hai đệ tử giỏi nhất của mình. Nhưng mâu thuẫn nảy sinh cũng chính từ đấy, vì tài nghệ của hai người đệ tử này đều cực kỳ cao siêu, không ai chịu nhường ai và cả hai đều muốn giành ngôi vị trưởng môn, dưới quyền họ cũng có không ít đệ tử, mâu thuẫn ngày một lớn, thậm chí sau đó còn xảy ra những trận đối đầu tranh giành quyết liệt khiến không ít người phải bỏ mạng. Cuối cùng Kiện môn đã bị phân chia thành hai là Bắc phái và Nam phái.
Sau khi Kiện môn phân thành hai phái, cặp tỳ hưu từ đó cũng bị phân ly, mỗi mảnh ngọc được coi là tín vật của một phái, và được chính vị trưởng môn của phái đó cất giữ cẩn thận như sinh mạng mình. Hàng trăm năm đã trôi qua, cả hai môn phái luôn ấp ủ tâm nguyện hợp nhất hai phái thành một để trở thành người đứng đầu của Kiện môn. Thế
nhưng, gần sáu trăm năm đã trôi qua mà không có người nào đủ tâm sức thực hiện ý nguyện đó. Nay Tôn Ngọc Dương tự nguyện mang tín vật đến tặng lại cho chúng ta, xem ra tầm quan trọng của những yêu cầu anh ta đưa ra không hề đơn giản, nếu không anh ta sẽ không bao giờ dám lấy tín vật vốn được coi là linh hồn của Nam phái ra đánh đổi.
Nghe xong những lời giải thích của ông nội, tôi bỗng thấy rùng mình, lập tức mường tượng ra những nguy hiểm đang rình rập phía trước, tôi vội vàng hỏi ông:
- Rốt cuộc Tôn Ngọc Dương muốn nhờ ông mở khóa gì ạ? Nếu như nguy hiểm như vậy, hay là chúng ta trả tín vật lại cho anh ta?
Ông nội liền lắc đầu, ánh mắt ông cũng đột nhiên trở nên xa xăm:
- Việc này có những mối liên quan cực kì phức tạp, tốt hơn hết là con không nên biết. - Nói rồi ông nheo nheo mắt nhìn thẳng vào cặp tỳ hưu rồi tiếp lời. - Cặp tỳ hưu giờ đã hợp thể, Kiện môn giờ đã quy về một mối, đây cũng là tâm nguyện của không biết bao trưởng môn hai phái. Đây là niềm vinh dự và cũng là địa vị mới của Bắc phái, ta vừa mới có được nó thì làm sao có thể bỏ qua dễ dàng như thế được. Dù là phúc hay họa thì ta vẫn phải tiếp tục bước tiếp thôi.
Nói rồi ông nội vỗ vỗ lên vai tôi ra chiều vỗ về những hoang mang trong lòng:
- Lan Lan, giả sử như ta không về nữa, con nhất định phải cất giữ cẩn thận đôi tín vật này nhé, sau này sẽ có lúc cần dùng đến đấy. Con nhất định phải nhớ rằng không được để lộ danh tính thật của mình, tốt nhất là nên rời khỏi Trường Xuân, tìm một nơi thật xa để sinh sống. Với năng lực hiện tại của con, ta tin con sẽ sống tốt.
Những lời dặn dò của ông nội khiến tôi cảm thấy nỗi buồn chia ly đang kề cận trước mắt, nước mắt cứ vậy trào ra. Tôi vội vàng ôm chặt lấy tay ông:
- Ông ơi, ông đừng nói như vậy mà, ông nhất định sẽ bình an trở về để Lan Lan còn phụng dưỡng tuổi già nữa chứ.
Nghe những lời nói chân thành của tôi, ông chầm chậm xoa tóc tôi, nở nụ cười mãn nguyện:
- Con biết bản lĩnh của ta mà, cả những việc mà Tôn gia không làm được thì ta vẫn giải quyết được, nhất định sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu, con cứ yên tâm đi. - Ngừng lại một lát, ông như nhớ ra điều gì đó liền nói tiếp. - À, giờ ta có thứ này muốn trao cho con, hãy đi theo ta vào trong phòng.
Trong phòng ông đồ đạc hết sức đơn sơ, ngoài chiếc bàn gỗ cổ và chiếc ghế mây mục nát ra thì chỉ có một chiếc kháng[3]. Bao nhiêu năm rồi, ông vẫn không quen ngủ giường, mà chỉ thấy thoải mái khi ngủ trên chiếc kháng cũ kĩ đó.
[3] Một loại giường của người phương Bắc Trung Quốc được xây bằng gạch hoặc đất, ở dưới có bếp lửa dùng để sưởi ấm vào mùa đông.
Ngay sát bức tường phía bắc có một pho tượng Quan Thế Âm bằng vàng, phía trước đặt một lư hương ba chân bằng đồng đen và một que hương cháy dở đang tỏa ra làn khói màu xanh xám mơ màng. Ông nội bảo tôi đứng yên ở cửa, rồi ông rảo bước đi vào trong phòng tới trước pho tượng Quan Âm, vái một lạy, lẩm nhẩm câu “Con có tội”, rồi rút que hương đang cháy dở thả vào cái khay bên dưới gậm bàn, sau cùng ông bê lư hương đến trước mặt tôi.
Trong căn phòng được lát lớp gạch đỏ au mát lạnh, ông nội chắp tay ra phía sau, chân phải đặt lên một viên gạch đỏ rồi từ từ bước vào căn phòng. Tôi nhận ra mỗi bước chân ông bước đều rất khác thường, dường như có một quy luật nhất định nào đó, chân trái đều tiếp đất bằng đầu mũi chân, còn chân phải lại tiếp đất bằng gót chân, mỗi viên gạch ông chỉ giẫm lên một lần, sau khi từng viên gạch trong phòng đều đã được bước hết, ông bắt đầu bước chậm lại, tôi cứ tưởng rằng ông sắp dừng, nhưng rồi ông lại tiếp tục bước theo hướng ngược lại, cứ thế lặp đi lặp lại vài vòng ông mới bước ra phía cửa đứng cạnh tôi.
Tôi thấy hơi nhàm chán nhưng không dám hỏi, nhưng chỉ mười mấy giây sau, bỗng vang lên một tiếng động nhẹ, một viên gạch ở chính giữa phòng từ từ nhô lên. Ông liền nắm tay tôi đi về phía viên gạch ở giữa phòng rồi quỳ xuống, từ từ nhấc viên gạch lên, phía dưới là một tấm đồng đen đã xỉn màu, trên mặt có khoan ba lỗ hình tròn, mài nhẵn xếp thành hình tam giác, trông như ba con mắt đang trừng trừng nhìn lên.
Ông nội quay sang tôi nhận lại lư hương, nhẹ nhàng đặt ba chân của lư hương đúng vào vị trí của ba “con mắt”, cho đến khi chúng khít lại với nhau rồi mới nhẹ nhàng xoay ba chiếc tai trên thân lư hương, ấn nhẹ xuống phía dưới. Sau ba tiếng “cạch” lần lượt vang lên, các chân lư hương dần dần tự động chìm sâu xuống ba cái lỗ trên tấm đồng. Đợi một lúc, ông cầm lư hương nhấc bổng lên kéo theo cả tấm đồng phía dưới lên.
Thì ra trong căn phòng đơn sơ này lại có một bộ máy đang hoạt động ngầm, chắc chắn là để cất giấu vật gì đó tối quan trọng, khiến cho tôi không thể dời mắt. Bên dưới tấm đồng gắn một que sắt tròn màu đen, dài khoảng ba centimet, ở phía đuôi có một lỗ nhỏ, nhìn qua rất giống viên phấn màu đen.
Ông nội lấy que sắt ra, từ từ bước lên trên chiếc kháng ở góc phòng, nhấc chiếc ga trải giường lên để lộ tấm phản bằng kim loại bên dưới. Tôi vô cùng kinh ngạc phát hiện ra mặt trên chiếc kháng được đúc bằng gang, trên bề mặt còn xuất hiện vài vết hoen gỉ màu đỏ sẫm. Quan sát kỹ hơn thì thấy ở giữa tấm kháng có một đường rãnh nhỏ, có tác dụng ngăn mặt kháng ra làm đôi. Tại điểm giữa của đường rãnh này có một lỗ nhỏ hình hoa mai sâu chừng nửa phân, tôi không biết nó là cái gì.
Ông nội đặt tay lên mặt tấm kháng, từ từ cúi người xuống thổi vào cái lỗ hoa mai cho sạch bụi, rồi vừa chọc que sắt đen vào lỗ vừa thở dài:
- Nó nằm dưới này hơn ba mươi năm rồi, giờ cũng phải đổi chủ cho nó thôi.
Nói rồi ông nội dùng một vết sẹo lõm trong lòng bàn tay trái cắm lên phần đuôi que sắt, ngón giữa của tay phải liên tục gõ nhẹ lên thân que sắt, phần que sắt cắm vào lỗ bỗng dưng nở ra năm cánh hoa sắt vừa khít với hình hoa mai trên mặt tấm phản.
Ông nội xoay xoay bàn tay trái khoảng mười tám lần, bên trong phản gang phát ra âm thanh của sợi xích đang chuyển động, một lúc sau đường rãnh dần dần chuyển động tách rời nhau, để lộ ra một chiếc hộp gỗ màu đỏ.
Mọi việc diễn ra khiến tôi vô cùng ngạc nhiên, thì ra dưới tấm phản của ông lại có một cỗ máy phi thường đến vậy, chẳng trách mỗi khi máy sưởi dưới kháng bị hỏng ông đều tự mình sửa chữa. Tôi tì tay lên thành kháng ngó xuống bên dưới thật kỹ.
Đó là một chiếc hộp gỗ màu đỏ như bao chiếc hộp khác, hình vuông to gần bằng chiếc hộp đựng giầy, có vẻ cũng đã cũ rồi, màu đỏ của gỗ dần biến sang màu đen, bốn góc hộp được thiếp cẩn thận bằng bốn miếng đồng. Nắp và thân hộp được móc lại bằng một cái móc tròn giống như quân cờ vậy, xem ra đó chính là khóa của chiếc hộp.
Ông nội đưa thanh sắt cho tôi rồi nhẹ nhàng ôm chiếc hộp lên, sau khi hạ nắp kháng ông đặt chiếc hộp lên mặt bàn. Tôi không nén được hiếu kỳ chạy tới sờ thử chiếc hộp, không thể diễn tả nổi cảm giác tò mò của tôi lúc này, không biết ông cất giữ báu vật gì ở trong chiếc hộp?
Ông nội ngồi xuống chiếc ghế mây, dựa lưng xuống thành ghế vừa chậm rãi xoa xoa chiếc hộp vừa nhắm nghiềm đôi mắt vẻ như đang suy tư hồi tưởng lại ký ức một thời. Một lúc lâu sau, ông mới lên tiếng:
- Đây là chiếc hộp cất giữ bảo bối được lưu truyền của dòng họ chúng ta, thế nhưng chỉ những người đạt đến trình độ Thiên Giới mới có thể sử dụng được nó. Con giờ đã là
trưởng môn của Bắc phái rồi, ông trao lại nó cho con. Phải nhớ cho kỹ, con nhất định phải cất giữ nó cẩn thận và không được phép cho bất kỳ ai nhìn thấy nó.
Những lời dặn dò của ông khiến trong lòng tôi cảm thấy nặng trĩu, chỉ biết gật đầu đồng ý.
Dừng lại một hồi lâu, ông tiếp tục dặn dò:
- Để đạt được đến trình độ Thiên giới thực sự phải hết sức gian khổ, không chỉ đôi bàn tay bị tàn phá, mà thậm chí… - Chưa kịp nói hết câu, ông bỗng dừng lại, thở dài não nề, còn khuôn mặt thì lộ rõ vẻ đau khổ.
Tôi không nén nổi tò mò, liền gặng hỏi ông:
- Thậm chí là phải làm sao ông nội?
Ông nội thở dài:
- Không nói nữa. Cách thức mở chiếc hộp này ta sẽ không dạy cho con, thực tình ta không muốn con tiếp tục theo con đừng này. Nếu một ngày con quyết tâm tu luyện, đến lúc đó hãy thuận theo tạo hóa và mối cơ duyên của con vậy. Kiện môn… ha ha, dầu sao cũng được hợp nhất dưới quyền của ta, như vậy là cũng đáng rồi. - Nói rồi khuôn mặt ông bỗng bừng sáng, tôi chắc chắn một điều rằng ông nội đang rất hạnh phúc và tự hào.
Sau đó, ông nội hướng dẫn tôi cách đóng mở mặt kháng, rồi đưa cho tôi thanh sắt đen, ông không nói gì nhiều chỉ dặn dò tôi đó là bảo bối của Kiện môn, nhất định phải cất giữ cẩn thận.
Lúc đó, tôi chưa ý thức được rằng, chiếc hộp gỗ đỏ và thanh sắt màu đen kia lại chứa đựng những bí mật vô cùng quan trọng, có mối quan hệ mật thiết với cuộc sống của tôi trong tương lai, gây ra những thay đổi không thể đảo ngược.
Tôi và ông nội nói chuyện say sưa tới tận đêm khuya, chúng tôi cùng nhau nhắc về những chuyện đã qua trong quá khứ, tôi vẫn như một đứa trẻ nũng nịu ông, lúc thì khóc hu hu, lúc thì lại cười giòn giã. Cứ như thế cho đến lúc mắt tôi cay xè và mí mắt nặng trĩu thì mới quyết định đi ngủ. Trăn trở một hồi lâu, nghe tiếng ngáy đều đều phát ra từ phía phòng ngủ của ông, lòng tôi như thắt lại, thật lòng tôi không nỡ để ông ra đi.
Tôi mệt mỏi chìm vào giấc ngủ, những cơn ác mộng liên tục làm tôi tỉnh giấc giữa đêm, phải đến gần sáng tôi mới chợp mắt được một lúc.
Sáng hôm sau, Tôn Ngọc Dương đến nhà tôi từ rất sớm, thấy ông nội vẫn còn đang ngủ, anh ta liền kéo tôi vào phòng khách, rút từ trong túi ra vài xấp tiền dúi vào tay tôi, tầm đó cũng khoảng năm đến sáu vạn tệ.
Tôi ngỡ ngàng vì chưa hiểu thực hư thế nào, lạnh lùng hỏi anh ta:
- Điều này có nghĩa gì đây, có phải là tiền đánh đổi sinh mạng của ông tôi? Nghe thấy những lời khó nghe này, Tôn Ngọc Dương vội phân trần:
- Lan Lan, em hiểu lầm ý anh rồi. Đây chỉ coi như một chút lòng thành của anh thôi, chỗ tiền này để em dùng tạm trong những ngày ông nội đi vắng, chuyện lần này dù có thành công hay không, sau này không những bản thân anh mà cả Cục Cảnh sát sẽ phải hậu tạ gia đình em.
Ban đầu tôi không định nhận số tiền đó, nhưng nghĩ đến lần anh ta nịnh nọt tôi để tìm cách thuyết phục ông nội lại khiến tôi tức giận, không thèm nói gì, tôi cầm tiền đi thẳng vào trong phòng ngủ đặt xuống dưới gối. Mãi một lúc sau, ông nội mới dậy, sau khi vệ sinh cá nhân xong, ông ra ăn sáng cùng tôi rồi mới thong thả xách chiếc vali chuẩn bị từ đêm qua để vào trong cốp xe.
Trước lúc lên xe, ông còn quay sang vuốt tóc tôi, ngắm nhìn tôi từ đầu đến chân, ánh mắt ông lộ rõ sự lưu luyến, nhưng ông vẫn chu đáo dặn dò tôi ở nhà cẩn thận, tốt nhất là không nên ra khỏi nhà.
Tôi ôm chầm lấy ông, nước mắt chực trào ra, không thốt lên được lời nào mà chỉ ngoan ngoãn gật đầu, chỉ mong ông được bình an, đi sớm về sớm, tôi hứa với ông sẽ ngoan ngoãn ở nhà đợi ông trở về. Ông mỉm cười, véo má tôi rồi quay người bước lên xe.
Tôn Ngọc Dương sau khi tạm biệt, liền thắng ga lao xe đi, chiếc xe dần mất hút ở phía cuối đường.
Tôi vẫn ngóng theo bóng dáng chiếc xe xa dần, trong lòng bỗng dâng lên một cảm giác hoang mang khó tả. Tôi biết sự việc lần này không hề đơn giản, thậm chí còn rất nguy hiểm, không dám chắc đây có phải là lần cuối tôi được gặp ông nội không nữa.
Lam man nghĩ đến đó, tôi giật mình quay ra thầm chửi mình: Mình đúng là đồ ngu ngốc, làm sao có thể có chuyện gì cơ chứ, tài nghệ của ông nội xuất sắc như vậy, nhất định sẽ không thể có chuyện gì xảy ra được. Mình đúng là bị điên mất rồi, ông nội sẽ sớm
quay trở về như những lần trước thôi, rồi ông sẽ lại nấu món thịt kho cho tôi ăn, hai ông cháu lại quây quần bên mâm cơm, tất cả, tất cả sẽ lại như bình thường.
Tôi vội lau nước mắt, rồi nắm chặt cặp tỳ hưu đeo trước ngực, thầm cầu nguyện:
- Xin ông trời phù hộ độ trì cho chuyến đi Thẩm Dương lần này của ông nội được bình an vô sự, Lan Lan sẽ ngoan ngoãn ở nhà đợi ông.
Trưa ngày hôm đó, ông nội gọi điện trên chuyến bay đến Thẩm Dương cho tôi thông báo mọi sự vẫn bình an. Trong lúc nói chuyện, giọng nói của ông vẫn bình thường, ông đã tới phòng cảnh sát hình sự thuộc Cục Công an tỉnh Liêu Ninh một cách an toàn, và bảo tôi không phải lo lắng nữa. Ông còn dặn dò tôi ở nhà phải ăn ngủ điều độ, ngoan ngoãn trông nhà và đặc biệt là phải cất giữ chiếc hộp gỗ cẩn thận.
Tôi trả lời để ông được yên tâm, rồi hỏi ông đã bắt tay vào công việc chưa. Ông nói cũng chuẩn bị tiến hành rồi, sau này có thể sẽ rất bận không thể thường xuyên gọi điện về nhà nữa. Nói ngắn gọn vài câu, đầu dây bên kia bỗng tắt ngóm, chỉ còn lại hồi chuông “tút, tút” dài vô tận.
Từ lần nói chuyện đó, ông nội không gọi về nhà lần nào. Gần như một tuần lễ trôi qua, tôi bắt đầu thấy nhớ và lo lắng cho ông, trong lòng sốt ruột không yên, linh cảm đã có chuyện không lành xảy ra khiến tôi không thể không gọi điện thoại để hỏi thăm sự tình.
Lần này thì Tôn Ngọc Dương nghe máy, anh ta nói ông nội đã bắt tay vào công việc, hiện tại không thể liên lạc với bên ngoài, bảo tôi cứ yên tâm. Nghe vậy, tôi càng thêm lo lắng, nhưng chẳng biết hỏi gì thêm đành cầu xin anh ta chăm sóc ông tôi cẩn thận. Tôn Ngọc Dương ậm ờ vài tiếng rồi cúp điện thoại.
Những lúc rảnh rỗi ở nhà, tôi thường lấy chiếc hộp gỗ ra quan sát và nghiên cứu. Mặc dù khả năng có hạn, nhưng sau khi xem xét kỹ càng, tôi cũng đã nhận ra một vài điểm quan trọng.
Thứ nhất, chiếc hộp gỗ chính là hộp càn khôn mà ông nội đã từng nói với tôi. Theo như tên gọi, có tên càn khôn là bởi vì nó thuộc dòng khóa được khảm đồng bộ.
Thứ hai, vỏ hộp được làm bằng loại gỗ hồng mộc bình thường, mặc dù trông vẻ bề ngoài không có gì đặc biệt thế nhưng bên trong là cả một chiếc hộp bằng kim loại có kích thước nhỏ hơn, ở giữa là một khoảng trống nhất định. Hộp gỗ và hộp kim loại được gắn chặt với nhau nhờ một chiếc lẫy đồng với hai trăm mười sáu chiếc đinh ngắn, mỗi cặp
bản lề trên chiếc lẫy đều gắn ba mươi sáu chiếc đinh được phân bố dày đặc như những vì sao trên trời. Nếu như những người không hiểu về cơ cấu vận hành mà cố tình dùng ngoại lực tác động vào thì chiếc hộp gỗ bên ngoài sẽ tự động bị phá vỡ, tạo một lực mạnh lên bản lề, lúc đó bộ máy hoạt động của chiếc hộp kim loại bên trong sẽ tự động khóa lại.
Rốt cuộc bộ máy hoạt động trong chiếc hộp sắt đó là như thế nào thì tôi không rõ. Có thể là dung dịch axit sẽ tự động ăn mòn chiếc hộp kim loại, hoặc có thể là một lưỡi dao cực kỳ sắc bén, nhưng kinh khủng nhất là thuốc nổ. Những chiếc hộp kiểu này được chế tạo bởi một thợ cao tay thời Minh, chuyên dùng để cất giữ những vật vô cùng quan trọng. Bên ngoài dùng một chiếc hộp bằng gỗ bình thường để bọc, với ý đồ khiến cho những tên mở trộm chủ quan, chỉ khi có một sai sót nhỏ, cũng đủ khiến cho những vật được cất giữ bên trong không còn cơ hội nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Dĩ nhiên, nếu trong đó chứa thuốc nổ thì người mở khóa chắc chắn cũng không giữ được tính mạng của mình.
Phần nhô lên bằng đồng đỏ phía bên ngoài chính là trục khóa của chiếc hộp càn khôn này, nó có tên khoa học là Định tâm cầu, và cũng là khớp nối đối vị có đường ốc xoắn nối với chiếc hộp bằng kim loại, bên trong nó còn có một lõi khóa mang cấu trúc vô cùng phức tạp, được coi là bước then chốt trong quá trình mở khóa. Không những thế khi không dùng khóa để mở hộp, mà chỉ dựa vào số chu kỳ để xoay vặn thì chỉ cần chệch một chút là lập tức ảnh hưởng đến cả cỗ máy đang hoạt động bên trong chiếc hộp. Xem ra, với năng lực hiện tại của bản thân, đến thử mở một lần tôi cũng không dám mạo hiểm.
Chương 3: Vua trộm khét tiếng vùng Đông Bắc - Hắc Lão Ngũ
Ngày ngày vẫn cứ thế trôi qua, chỉ trong nháy mắt, ông nội đã đi Thẩm Dương gần nửa tháng trời, sau cú điện thoại cuối cùng đó, tôi không nhận được bất kỳ tin tức gì từ Cục Công an tỉnh Liêu Ninh. Trong lòng nóng như lửa đốt, nên tôi không thể không gọi điện hỏi han tình hình. Đầu dây bên kia hoặc là không ai nghe máy hoặc có thì sẽ là một người lạ trả lời, hỏi xem có phải là Sở Khinh Lan, rồi bảo tôi hãy yên tâm ở nhà đợi, mọi việc vẫn ổn, ông nội sẽ về trong thời gian sớm nhất, rồi lập tức tắt máy. Nghe giọng, tôi có cảm giác người ta cũng không mặn mà gì trả lời tôi thực lòng.
Tôi cũng không phải con ngốc để tin những lời nhảm nhí ấy, chắc chắn là mọi người đang cố tình che giấu tôi việc gì đó. Nhưng cũng không còn cách nào khác, tôi không thể tự mọc cánh để bay đến nơi đó, chỉ biết ngày ngày âm thầm cầu nguyện cho ông được bình an.
Đến ngày thứ hai mươi, tôi vẫn còn nhớ rõ lúc đó là buổi chiều muộn tầm sáu giờ hơn, tôi đang nấu ăn trong bếp thì bỗng nhiên nghe thấy tiếng chuông cửa.
Có phải ông nội đã về không? Tôi vừa hồi hộp lại vừa vui sướng, trên tay cầm củ hành tây đang cắt dở và con dao thái lao thẳng ra sân. Nhưng hóa ra người vừa bấm chuông cửa đang đứng trước mặt tôi không phải ông nội mà lại chính là Tôn Ngọc Dương.
- Anh Tôn!
Tôi chào hỏi qua quýt rồi vội vàng ngó ra phía sau anh ta, nhưng tôi chỉ thấy ba người đàn ông khác đứng đó, già có trẻ có, họ đều là những người tôi không hề quen biết. Cách đó không xa, vài ba chiếc xe jeep cỡ lớn màu đen đang đỗ thành hàng, những chiếc xe này đều mang biển trắng chữ đỏ, đó là xe của cảnh sát vũ trang. Đứng bên cạnh còn có tám chín thanh niên dáng vóc cao to, mặc thường phục, đeo kính đen, hai tay đút túi quần, đứng lặng im chăm chú theo dõi tình hình đang diễn ra xung quanh.
- Anh Tôn, ông nội em đâu? - Tôi buông rơi củ hành tây và chiếc dao xuống đất, hai tay níu chặt lấy Tôn Ngọc Dương mà hỏi đầy hoài nghi.
- Ừm… cái này… Lan Lan, chúng ta vào trong rồi hãy nói được không? - Tôn Ngọc Dương ngắc ngứ đáp, ánh mắt do dự không dám nhìn thẳng vào mắt tôi, mà chỉ kéo tay tôi đi thẳng vào trong nhà.
Qua giọng nói lấp lửng lẫn cử chỉ dè dặt của anh ta, tôi phần nào đã có những dự cảm không lành, ông nội chắc chắn gặp chuyện rồi.
- Ông nội em đâu, ông nội em đâu, ông em đang ở đâu rồi, tại sao ông không về cùng mọi người? Anh hãy nói đi, ông nội em đang ở đâu… - Tôi càng lúc càng thấy lo sợ, cứ thế vừa lắc tay Tôn Ngọc Dương vừa hỏi dồn dập, nước mắt chỉ trực trào ra.
Thấy tôi bị kích động, Tôn Ngọc Dương cũng không giữ được bình tĩnh, tay chân lóng ngóng vụng về, lắp bắp mãi không nói được một câu:
- Cái này… cái này… Lan Lan…
Tôi không kìm được bèn khóc òa lên:
- Anh đã giấu ông nội em ở đâu rồi? - Tôi càng lúc càng kích động, gặng hỏi cho đến cùng.
Lần này không đợi cho Tôn Ngọc Dương lên tiếng, người đàn ông ở phía sau đã tiến lên trước, giữ chặt lấy vai tôi và ôn tồn nói:
- Cháu là Sở Khinh Lan đúng không, chúng ta vào trong nhà rồi hãy nói chuyện tiếp, bên ngoài này không tiện lắm.
Người đàn ông này có đôi bàn tay rất rắn chắc, ông ghì chặt lấy vai tôi, chỉ trong chốc lát đã khiến tôi đứng im bất động, ngước đôi mắt nhòa lệ lên nhìn ông. Người đàn ông này chừng hơn năm mươi tuổi, thân hình cao lớn, bề ngoài nom có vẻ dữ dằn nhưng giọng nói lại hết sức ân cần và nhẹ nhàng, nghe rất giống giọng ông nội, nên đột nhiên đem lại cho tôi một cảm giác an tâm và tin tưởng.
Cảm thấy vừa rồi mình đã quá mất bình tĩnh, nên khi định thần lại tôi bèn mời mọi người đi vào trong phòng khách. Sau khi chờ họ yên vị, tôi đứng trước mặt Tôn Ngọc Dương, nhìn thẳng vào mắt anh ta đợi một lời giải thích. Tôn Ngọc Dương vẫn không dám nhìn thẳng vào mắt tôi, đành hướng mắt sang phía người đàn ông trung niên lúc nãy, như chờ đợi chỉ thị từ người này.
Người đàn ông đó đứng dậy, bước tới phía tôi, mỉm cười rồi nhẹ nhàng nói:
- Lan Lan, chú tự giới thiệu, chú họ Tư, tên đầy đủ là Tư Mã Cường, Trưởng phòng cảnh sát điều tra thuộc Cục Công an tỉnh Liêu Ninh. Còn đây là… - Nói rồi ông chỉ tay sang người đàn ông tóc đã bạc tầm hơn sáu mươi tuổi, - Bác này là La Hoán Văn, Viện trưởng Viện bảo tàng Cố Cung tại Thẩm Dương. - Còn đây là người chịu trách nhiệm vấn đề an ninh quốc gia khu Đông Bắc, tên là Trần Đường.
Cả hai người vừa được giới thiệu đều gật đầu chào lại tôi, trên mặt lộ rõ sự căng thẳng.
Một người là trưởng phòng cảnh sát điều tra, một người là Viện trưởng Viện bảo tàng Cố Cung tại Thẩm Dương, một người là chịu trách nhiệm vấn đề an ninh quốc gia khu Đông Bắc, nghe chức danh của họ tôi cũng không hiểu lắm, nhưng cũng có thể đoán được họ đều là những người có quyền có chức. Họ cùng lúc đến nhà tôi, khiến tôi có cảm giác vừa lo lắng vừa tò mò. Chắc chắn có liên quan đến chuyện của ông nội tôi, nhưng ông nội tôi… giờ ra sao rồi?
Tôi liền quay sang hỏi chú Tư Mã Cường:
- Chú Tư, ông nội cháu đâu, tại sao không về cùng với mọi người?
Nghe thấy câu hỏi của tôi, bọn họ đều quay sang nhìn nhau, ánh mắt lộ vẻ khác thường. Chú Tư Mã Cường lên tiếng:
- Lan Lan, cháu hãy bình tĩnh lại, nghe chú giải thích đã.
Vì họ đều là những người có chức vụ nên tôi không dám có thái độ vô lễ, đành miễn cưỡng ngồi xuống nghe chú Tư kể lại sự tình…
Hai tháng rưỡi trước, Cố Cung Thẩm Dương sau mười năm hoạt động đã được Cục Khảo cổ học Quốc gia và Ủy ban nhân dân tỉnh Liêu Ninh phê chuẩn và cấp phép tu sửa trong thời gian một tháng. Quy mô tu sửa lần này rất lớn, vì hầu như tất cả mọi ngóc ngách từ nhỏ nhất cũng được trùng tu làm mới, trong đó không thể không nói đến công trình chủ thể là điện Sùng Chính.
Điện Sùng Chính còn có tên cũ là Kim Loan điện, là phần kiến trúc quan trọng nhất của Cố Cung. Do điện làm hoàn toàn bằng gỗ, người xưa không sử dụng đinh để ghép các khuôn gỗ lại với nhau mà tất cả đều dùng bằng mộng gỗ, vậy nên khi trùng tu cần phải dùng những chuyên gia hết sức khéo léo và tỉ mỉ, mà nhất định phải là những thợ thực sự có tay nghề mới có thể làm được. Cho nên từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập đến nay, Cố Cung mới chỉ được tu sửa một lần. Tính từ lần tu sửa đó đến nay cũng đã hơn chục năm, qua thời gian, mưa nắng đã làm cho điện bị hư hại nhiều.
Qua nghiên cứu, Viện bảo tàng Cố Cung đã tuyển được một đội ngũ những người thợ mộc thực sự xuất sắc đến từ khắp cả nước, dưới sự làm việc nghiêm túc của họ, một phần của Cố Cung đã được tu sửa.
Sau khi hoàn thiện phần kết cấu bên ngoài, người ta mới tiến hành tu sửa đến phần bên trong. Bao gồm cả lớp sàn gỗ phía dưới ngai vàng, đó là một khu vực hình vuông được ghép từ tám miếng gỗ bách có hơn hai trăm năm tuổi. Phần chính giữa để lại một khoảng trống, khảm thay vào đó là một chiếc bục màu vàng, ngai vàng của hoàng đế được đặt ở phía trên chiếc bục này. Tám miếng gỗ bách đều có độ dài một mét rưỡi, dày nửa mét, sau khi được ghép lại với nhau phải dùng loại sơn thượng hạng màu vàng sơn kỹ lên bề mặt. Trên mỗi miếng gỗ đều được khắc một con rồng đang uốn lượn rất tinh tế, đầu rồng được khắc nổi so với bề mặt gỗ, từ bốn phương tám hướng chầu về phía ngai vàng. Hoàng thượng ngồi trên ngai vàng, mặt hướng về phía Nam, lưng dựa vào hướng Bắc, với dụng ý bao quát cả thiên hạ, đúng theo câu “Bát long củng vệ, Chân long trị thiên”.
Trong quá trình trùng tu, một chuyên gia sau khi nghiên cứu đã nói rằng, chiếc bục bằng gỗ bách này khi bước lên có phần hơi bị lún xuống, có thể là do phần gỗ bên trong
đã bị mục, giờ nên tách chúng ra để xử lí phần bị mục rồi ghép lại như cũ. Dựa vào những hình ảnh được ghi chép lại trong văn tự, những thợ mộc đã tách từng mảnh gỗ bách ra, cho đến mảnh gỗ cuối cùng là chiếc bệ màu vàng kim ở chính giữa. Do cũng đã quá lâu, nên cả những khe xung quanh đều bị bụi phủ đầy, vì vậy mọi người quyết định gỡ cả chiếc bệ ra để tiện lau chùi. Nhưng không ai ngờ được, sau khi dỡ được chiếc bệ đó ra, bên dưới bệ để lộ ra một bề mặt được đúc bằng kim loại, trông nó không hề ăn nhập với kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ của ngai vàng.
Điều đáng ngạc nhiên hơn cả là, trên bề mặt kim loại còn khắc một đôi rồng đang quấn quýt vờn nhau, kỹ thuật điêu khắc tinh xảo đã khiến chúng trở nên vô cùng sống động và có hồn lạ thường. Mỗi con rồng đều nhô đầu lên khỏi bề mặt chừng vài phân, đối mặt với nhau, miệng rồng há rộng để lộ những chiếc răng nanh hung dữ, ở chính giữa hai đầu rồng là một viên ngọc trân châu rất lớn màu xanh biếc. Quan sát tổng thể, thì đây chính là bức tranh Lưỡng long tranh ngọc vô cùng sinh động.
Những chuyên gia trùng tu Cố Cung chứng kiến cảnh tượng đó đều thấy rất kì lạ, họ không ngờ dưới ngai vàng lại cất giữ một bảo bối như vậy, nên lập tức cho mời những chuyên gia khảo cổ học đến để nghiên cứu.
Các chuyên gia khảo cổ sau khi nghiên cứu đã kết luận, tấm khắc đôi rồng vờn ngọc trân châu này có ít nhất hai trăm năm lịch sử, được đúc bằng thép không gỉ, kỹ thuật đúc hết sức tinh xảo, cho thấy sự phát triển vượt bậc trong nghề đúc thời bấy giờ, nó có ý nghĩa nghiên cứu vượt thời gian.
Điều thực sự khiến cho họ sửng sốt là khi tiến hành nghiên cứu sâu hơn, họ mới phát hiện ra, có một khoảng trống rất rộng bên dưới tấm kim loại đó, diện tích thực của nó không thể đo được. Các chuyên gia nhận định, đây có thể là một phòng chứa kho báu bí mật và tấm kim loại đúc đôi rồng vờn ngọc trân châu này chính là một trong những cánh cửa thông xuống dưới, nên cử người xuống đó khai quật và nghiên cứu.
Thế nhưng, khi đoàn khảo cổ tới, họ không thể nào mở được tấm kim loại đó lên dù đã thử rất nhiều cách khác nhau. Sau đó, họ mới phát hiện ra rằng, thì ra cả lớp sàn bên dưới của điện Sùng Chính đều được đúc từ khối kim loại trên, và cũng có thể là chạy khắp cả Cố Cung. Tấm kim loại khắc đôi rồng vờn ngọc trân châu này thực ra chỉ là một góc rất nhỏ được hiển lộ.
Đoàn khảo cổ đã mất rất nhiều thời gian để mở tấm kim loại được coi là cánh cửa dẫn xuống phía dưới nhưng tất cả đều vô ích, nó vẫn nằm im lìm không hề xê dịch.
Mọi người đều tỏ ra rất hào hứng, cảm thấy lần trùng tu này nhất định sẽ thu được
nhiều kết quả. Thế nhưng, một điều hết sức kì quái đã xảy ra, những chuyên gia khảo cổ tham gia vào việc khai quật đều lần lượt gặp tai nạn và tử vong một cách bí ẩn.
Trường hợp đầu tiên xảy ra khi việc khai quật được tiến hành đến ngày thứ năm. Vào buổi tối hôm đó, một chuyên gia đang lái xe về nhà thì gặp tai nạn, xe bị nạn là chiếc xe bốn chỗ Elantra của Hyundai, bị một chiếc xe tải chạy ẩu tông vào từ phía sau, văng lên vỉa hè. Chiếc xe hầu như không bị hư hỏng nhiều, nhưng người lái thì chết ngay tại chỗ, còn kẻ gây tai nạn đã bỏ trốn.
Qua điều tra của cảnh sát giao thông, trên mặt đường không hề có dấu vết phanh xe, điều này có thể cho thấy chiếc xe tải đã cố ý đâm thẳng vào xe đằng trước. Dựa vào manh mối là biển số chiếc xe tải để lại hiện trường, điều tra ra đó là chiếc xe của mỏ than đã bị ăn cắp đêm hôm trước, cơ quan công an cũng đã lập hồ sơ vụ án để điều tra.
Hồ sơ vụ án được chuyển từ bên cảnh sát giao thông sang cơ quan công an điều tra, thế nhưng vẫn chưa tìm ra manh mối nào. Cho đến nay, những nhà khảo cổ tham gia vào quá trình khai quật đã chết gần hết, người bị trúng độc, người bị mất tích, người thì bị bắn, họ đều chết bất thường và có một điểm chung là không tìm thấy hung thủ.
Sự việc này xảy ra khiến cho Cục Công an tỉnh Liêu Ninh và ban quản lí viện bảo tàng hết sức quan tâm và lo lắng, thông qua tin tức điều tra của bên công an, các vụ án chỉ có một điểm chung duy nhất là nạn nhân đều là những người tham gia vào công việc tu sửa Cố Cung, đặc biệt là quá trình khai quật nghiên cứu tấm sàn kim loại có khắc đôi rồng vờn ngọc trân châu. Dường như có một thế lực vô hình nào đó đang cố ngăn cản công việc khai quật.
Do đây là một việc hệ trọng, có liên quan trực tiếp đến bảo vật mà cả quốc gia giữ gìn, nên cả văn phòng an ninh quốc gia cũng tiến hành điều tra.
Là một cán bộ thuộc phòng cảnh sát hình sự, Tôn Ngọc Dương dĩ nhiên cũng tham gia điều tra. Sau khi nghiên cứu kĩ về tấm kim loại khắc đôi rồng, bản thân là một người kế thừa Nam phái Võ giải nên anh ta cũng rất muốn thử sức mình. Thế nhưng loay hoay với rất nhiều phương pháp khác nhau, Tôn Ngọc Dương vẫn không làm nhúc nhích nó. Trong lúc mọi việc đang đi vào ngõ cụt, anh ta đã nghĩ đến ông nội tôi, bèn báo cáo cấp trên xin đến tìm ông nhờ ra tay giúp đỡ.
Phòng cảnh sát hình sự lẫn ban quản lí viện bảo tàng sau khi nghe báo cáo đều cho rằng, những người mở khóa nổi danh trong thiên hạ rất có thể sẽ mở được những chiếc khóa cổ quái này thì vô cùng hào hứng. Vì vậy, Tôn Ngọc Dương đã được cử đến Trường Xuân thuyết phục ông nội chịu xuất đầu lộ diện. Đẻ tránh việc những thông tin mật này
sẽ bị lộ ra ngoài, nên chỉ có những vị lãnh đạo cấp cao mới được biết.
Ngày hôm đó, Tôn Ngọc Dương mặc thường phục, lái xe biển dân sự, từ Thẩm Dương đến Trường Xuân tìm ông nội. Sau khi nghe Tôn Ngọc Dương nói rõ đầu đuôi, ông tôi đã nghĩ ngợi rất lâu mới nhớ ra đã có lần được nghe một vị tiền bối nhắc đến chiếc khóa này. Đây là một dạng khóa tường, được chế tạo từ thời Nam Tống, do kết cấu vô cùng phức tạp và khó mở nên hay được dùng để cất giữ báu vật. Thông thường nó được thiết kế ở trên tường, nhưng cũng có thể đặt ở dưới mặt đất. Ông nội thực ra cũng mới chỉ được nghe tên chứ chưa thực sự được nhìn thấy. Thế nhưng Cố Cung được xây từ thời Hậu Kim, vậy thì người Mãn làm thế nào mà tìm được người chế tạo ra chiếc khóa cổ này để đặt tại điện Sùng Chính? Thế nhưng chắc chắn một điều, vật được cất giữ bên dưới chắc chắn là thứ không hề tầm thường.
Ông nội khi nghe Tôn Ngọc Dương mời đến Cố Cung giúp mở khóa đã từ chối bởi vì cho rằng bản thân đã sống ẩn quá lâu rồi, nên giờ không còn muốn dính dáng đến giới giang hồ, đặc biệt là những việc liên quan đến bí mật quốc gia. Thêm nữa, những người tham gia khảo cổ đều có chung một kết cục là những cái chết bất thường, điều đó có nghĩa là đang có một thế lực nào đó vô cùng đáng sợ đứng đằng sau, mà ông còn muốn hưởng tuổi già thêm vài năm nữa.
Tôn Ngọc Dương lúc đó cũng đã nghĩ, nếu như có thể nhờ ông nội giải quyết được những sự vụ mờ ám trong thời gian này, bản thân anh ta cũng coi như lập công, tương lai sẽ rộng mở hơn. Cho nên, anh ta đã quyết định dùng đến miếng ngọc tỳ hưu để ông nội chịu giúp, thế nhưng, bản thân lại là trưởng môn của Nam phái, làm như vậy có phải sẽ bị coi thường không? May mắn thay, lúc đó lại có tôi xuất hiện, nên anh ta đã gián tiếp qua tôi tặng vật tín của trưởng môn Nam phái cho ông nội, hi vọng sẽ khiến ông nội động lòng mà ra tay lần này.
Tâm nguyện hợp nhất Nam phái và Bắc phái của ông nội vậy là được toại nguyện, cho nên ông nội đã đồng ý với Tôn Ngọc Dương. Nhưng ông cũng ý thức được mối nguy hiểm thực sự trong chuyến đi Thẩm Dương lần này, thậm chí là có thể bỏ mạng, cho nên ông mới truyền lại ngôi vị trưởng môn cho tôi trước khi đi, coi như ngôi trưởng môn không bị thất vị dưới quyền ông.
Nghe chú Tư Mã Cương nói đến đây, tôi cảm thấy mất mát đau thương vô hạn. Nhớ lại cảnh ông nội chào tôi lúc trước khi lên xe vào buổi sáng hôm ấy, đó chính là lúc ông phải thực hiện một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời, ông đã ngoái lại ngắm nhìn tôi rất lâu với tình thương yêu vô bờ bến.
Quay lại buổi trưa hôm đó, sau khi đến văn phòng Cục Công an tỉnh Liêu Ninh, ông
nội tôi đã được Trưởng phòng Tư, Viện trưởng La và Trần Đường tiếp đón trọng thể. Sau khi báo cáo lại sự việc hết sức kỳ quặc trong thời gian qua, bàn xong một số công việc khác, họ thực lòng mong muốn ông nội có thể mở được chiếc khóa đôi rồng vờn ngọc trân châu kia.
Trưởng phòng Tư còn nói:
- Việc này cho dù có thành công hay không, chúng tôi đều đền đáp xứng đáng. Nghe Tôn Ngọc Dương nói, Sở thúc còn có một cô cháu gái cũng tài năng không kém nên chúng tôi sẽ thu xếp để cháu được tuyển thẳng vào công tác tại phòng cảnh sát.
Ông nội đã nghĩ tới tương lai của tôi nên mới đồng ý, ông còn vui vẻ nói thêm:
- Lan Lan mà làm cảnh sát là có thể rũ bỏ cái tiếng dân ăn trộm, như vậy gia đình tôi thật có phúc, được tổ tiên phù hộ độ trì.
Sáng ngày hôm sau, ông nội đã đi cùng họ đến điện Sùng Chính, sau khi nhìn thấy chiếc bục khóa đôi rồng vờn ngọc trân châu, ông nội đã đi quanh nó nhiều vòng, nhìn thật kỹ, quỳ xuống bên cạnh và chăm chú quan sát. Sau cùng mới quyết định bắt tay vào mở thử, thế nhưng những kĩ thuật của Kiện môn không thể để người ngoài nhìn thấy vì vậy ông có yêu cầu không cho bất cứ ai đi vào trong điện. Không những thế ông còn yêu cầu chuẩn bị thêm những vật dụng như cồn, bông, gạc, băng vải. Mọi người đều rất tò mò về những thứ ông nội yêu cầu, nhưng vẫn đáp ứng đầy đủ.
Buổi chiều hôm đó, việc mở khóa mới chính thức được bắt đầu, ông nội đeo trên mình chiếc túi da để dụng cụ đã dùng mấy chục năm, thêm cả những vật dụng y tế vừa lấy, một mình đi vào trong điện, rồi đóng chặt cửa lại.
Bên ngoài điện Sùng Chính có đến hơn năm chục cảnh sát cầm súng đứng ngoài bảo vệ, Trưởng phòng Tư cũng đứng chờ cạnh đó.
Tới tận chiều muộn, phía trong điện vẫn không hề có động tĩnh gì, La Hoán Văn sốt ruột, liên tục nói rằng:
- Không hay rồi, không hay rồi, đã hơn nửa ngày trôi qua. - Rồi vài lần muốn tự mình vào trong điện xem thực hư ra sao, nhưng đều bị cản lại.
Cố chờ thêm vài tiếng nữa, mọi người đều nghĩ thời gian lâu quá sợ do có chuyện không hay xảy ra nên đã cho người đứng ngoài cửa gọi vọng vào. Nhưng gọi thế nào đi chăng nữa cũng không thấy ông nội trả lời. Cuối cùng mọi người mới quyết định mở cửa
điện vào xem.
Cửa điện được mở ra, mọi người đều ngơ ngác, không thấy bóng dáng ông nội đâu, bên trong điện trống không, không biết ông đã rời khỏi đó từ bao giờ.
Tình huống này khiến cho mọi người lo lắng hoảng loạn, không thấy bóng dáng ông nội đâu. Cả bên trong điện không phát hiện thấy con đường hầm bí mật nào, phía ngoài lại được hơn năm mươi cặp mắt theo dõi canh gác, vậy lẽ nào ông nội đã bốc hơi?
Bên trong khu điện còn phát hiện ra một điêu kỳ lạ, cạnh bục kim loại là những cục bông đỏ ối, vỏ chai cồn và gạc đều vứt ngổn ngang trên nền sàn. Qua kiểm tra thì dung dịch màu đỏ thắm trên bông chính là máu, trước khi đến Thẩm Dương ông nội đã được khám sức khỏe và xét nghiệm máu, kết luận cho biết máu thấm trên bông chính là của ông nội.
Mọi người tập trung vào tìm kiếm mấy ngày trời, không bỏ sót một ngóc ngách nào trong Cố Cung, thế nhưng cũng không thu lại kết quả gì, mọi việc càng ngày càng diễn ra một cách phức tạp và thần bí. Đang trong lúc tuyệt vọng, họ đã nghĩ đến tôi, thứ nhất do tôi là cháu nội của ông, mọi việc đã diễn ra trong nhiều ngày trời, cũng nên thông báo và giải thích cho tôi; thứ hai, họ được biết tôi chính là trưởng môn kế nhiệm ông, nên cũng rất hi vọng khả năng hiện tại của tôi có thể giải được những bí ẩn bên dưới chiếc khóa đôi rồng vờn ngọc trân châu kia.
Nói đến đây, Trưởng phòng Tư Mã Cường thở dài, nắm chặt lấy tay tôi, rồi nói với giọng hết sức nặng nề:
- Lan Lan, chú xin lỗi vì đã không bảo vệ được ông nội cháu.
Ông nội không còn nữa! Đầu óc tôi nặng nề và hoang mang, trong lòng thì rối như tơ vò, tôi muốn khóc lên thật to nhưng lại không khóc nổi thành tiếng, chỉ biết ngồi chết lặng một chỗ.
Thấy tâm trạng bất ổn của tôi, Trưởng phòng Tư lập tức nắm lấy hai vai tôi, nhẹ nhàng xoa đầu tôi an ủi:
- Ông nội cháu chỉ là mất tích tạm thời thôi, chưa chắc tính mạng đã bị đe dọa. Lan Lan, cháu đừng đau buồn quá, mọi người nhất định sẽ tìm được ông nội về cho cháu.
Thế nhưng, nghe xong những lời này, tôi lại càng thấy đau lòng hơn, ông nội không còn nữa rồi, cả một lực lượng cảnh sát đông đảo tìm kiếm trong mấy ngày trời đều không
tìm thấy, thì có nghĩa là ông nội đã mất thật rồi… Tôi cuối cùng không kìm được, gục mặt vào lòng Trưởng phòng Tư khóc nức nở, mọi đau khổ và buồn phiền cũng được giảm bớt phần nào.
Cảnh tượng này không khỏi khiến La Hoán Văn, Trần Đường và Tôn Ngọc Dương tỏ ra thương cảm, nhưng họ cũng chỉ biết đứng bên thở dài buồn bã.
Khóc lóc một hồi lâu, tôi đã bình tĩnh lại và quyết định phải tìm ông nội bằng được, tôi không tin là ông nội lại dễ dàng mất tích như thế. Lau sạch nước mắt, tôi nhìn sang mấy người bọn họ đang đứng bên cạnh mình, quả quyết:
- Cháu sẽ đi cùng với mọi người, chúng ta đi luôn bây giờ được không, cháu nhất định phải tìm bằng được ông cháu.
Trưởng phòng Tư nghe thấy tôi quả quyết như vậy cũng tỏ ra vui vẻ, nên sau một hồi bàn bạc, chúng tôi đã quyết định lên đường ngay lập tức.
Do vậy, tôi chuẩn bị vài bộ quần áo, không quên ôm theo mình chiếc hộp gỗ càn khôn, rồi lên xe ôtô đi thẳng đến Thẩm Dương ngay trong đêm.
Trong khi bước ra khỏi cửa, tôi lưu luyến ngoái lại ngắm sân nhà nơi tôi đã gắn bó hai mươi năm nay, trong lòng thấy sao mà bịn rịn, không biết tôi có được bình an trở về không, nhưng nghĩ đến ông nội, lòng tôi lại cứng rắn hơn, quyết tâm ra đi.
Đoàn xe tới Trường Xuân lần này gồm có bốn chiếc xe jeep, chín cảnh sát mặc thường phục được trang bị súng ngắn và súng giảm thanh đầy đủ. Sau khi đoàn xe đi vào đường cao tốc thuộc địa phận tỉnh Liêu Ninh, có lúc xe còn bật đèn và nháy còi inh ỏi để được ưu tiên chạy trước, Tôn Ngọc Dương có giải thích với tôi, cả đoàn xe được trang bị đầy đủ như vậy là để bảo vệ sự an toàn của tôi.
Khoảng mười giờ đêm ngày hôm đó, đoàn của chúng tôi đã đến được Thẩm Dương. Trưởng phòng Tư đã thu xếp cho tôi nghỉ tại một nhà khách ở khu vực Hoàng Cô, nghe Tôn Ngọc Dương nói đó là một đơn vị trực thuộc sự quản lý của Cục Công an, nên tuyệt đối an toàn; còn phái thêm một vài nữ cảnh sát tới ở cùng tôi. Ngoài cửa và phía dưới sảnh đều được hơn chục cảnh sát có vũ khí canh gác suốt đêm.
Sáng ngày hôm sau, ngay sau khi tôi vừa ăn sáng xong, Tôn Ngọc Dương cùng một vài người khác đã vội đến đón tôi đưa tới trụ sở văn phòng công an tỉnh tại số 2 đường Kỳ Sơn, khu Hoàng Cô, thành phố Thẩm Dương.
Là một đứa con gái quen sống ở vùng quê yên bình và nhỏ bé, thế nên khi lần đầu tiên được nhìn thấy một chiếc cổng ra vào lớn đến thế, bên trong được xây dựng hoành tráng, lại thêm rất nhiều cảnh sát mặc cảnh phục đi lại khiến tôi không khỏi có cảm giác hồi hộp và bỡ ngỡ, cứ ngó nghiêng ngắm nhìn xung quanh.
Tôn Ngọc Dương dẫn tôi vào thang máy lên tầng năm. Cách bài trí ở đây lại khác với bên dưới, tường hành lang được dán giấy màu vàng nhạt, bên trên có treo rất nhiều bức thư pháp, cửa sổ đặt những chậu hoa tươi, cảm giác rất trang nhã, sàn được trải thảm đỏ, bước trên đó thật êm ái và mềm mại.
Chúng tôi cùng bước vào căn phòng cuối dãy hành lang bên tay phải. Đó là một căn phòng không to lắm, thiết kế vô cùng đơn giản. Bên trong phòng, Trưởng phòng Tư mặc cảnh phục đang ngồi chính giữa chiếc bàn họp lớn bằng gỗ, xung quanh là tám, chín người khác đang ngồi trên những chiếc ghế xoay bọc da, người thì mặc cảnh phục, người thì mặc thường phục, trong đó có hai người tôi biết là La Hoán Văn và Trần Đường, những người còn lại tôi đều không biết mặt.
Nhìn thấy tôi bước vào, những người này đều đứng dậy, nhìn tôi mỉm cười. Trông thấy một cô gái ôm khư khư chiếc hộp gỗ màu đỏ, mọi người cảm thấy có phần thú vị xen lẫn tò mò.
Trưởng phòng Tư đi ngang qua phòng họp, tiến tới trước mặt tôi, xoa xoa đầu tôi rồi ân cần hỏi thăm:
- Lan Lan, tối qua cháu ngủ có ngon không?
Tôi gật đầu, rồi ngại ngùng nhìn quanh, nói:
- Cháu ngủ ngon ạ, chỉ có điều mấy chị cảnh sát cứ nhìn cháu chằm chằm cả đêm, nên thấy không được thoải mái lắm ạ. - Câu trả lời thật thà của tôi khiến mọi người trong phòng họp đều bật cười.
Trưởng phòng Tư mỉm cười trìu mến, rồi kéo tôi giới thiệu với mọi người, trừ chú La Hoán Văn và Trần Đường ra, những người còn lại đều là người phụ trách các phòng ban của Cục Công an Liêu Ninh và các chuyên gia khảo cổ học. Trong đó có một người là lãnh đạo văn phòng chính phủ, hình như là cũng đứng đầu một ngành nào đó.
Tôi đi chào hỏi mọi người một lượt, vừa ngồi xuống ghế thì bên ngoài có tiếng gõ cửa. Khi cánh cửa được mở ra, một nữ cảnh sát trông còn rất trẻ, dong dỏng cao bước vào.
Trưởng phòng Tư vẫy tay ra hiệu cho người nữ cảnh sát đó bước vào, rồi quay sang nói với tôi:
- Lan Lan, vì sự an toàn của một cô gái trẻ như cháu, nên chú đã thu xếp một nữ cảnh sát giám sát và bảo vệ cho cháu, cô ấy sẽ là người phụ trách sự an toàn của cháu trong suốt thời gian cháu ở Thẩm Dương đồng thời cũng là người chia sẻ và bầu bạn với cháu trong cuộc sống thường nhật.
Dừng lại một lúc, chú Tư nói tiếp:
- Từ bây giờ, tất cả mọi hành động của cháu đều nằm trong tầm kiểm soát của cô ấy, thậm chí là cả khi cháu mở chiếc khóa đôi rồng vờn ngọc trân châu cũng phải có cô ấy đi cùng, đây là yêu cầu bắt buộc mong cháu đồng ý. Đây là nữ cảnh sát hình sự xuất sắc nhất của Cục Công an tỉnh Liêu Ninh, đã phá được rất nhiều vụ án phức tạp, tuy tuổi còn trẻ nhưng cháu đừng xem thường, giờ cô ấy đã là phó đối trưởng phòng cảnh sát hình sự rồi đấy.
Nghe Trưởng phòng Tư nói rất nhiều về cô ấy, tôi cũng không mở lời nói một câu nào, trong lòng nghĩ rằng đi cùng thì đi cùng chứ sao, nhưng những kỹ thuật mở khóa của Kiện môn không thể để người ngoài nhìn thấy, đến nước này thì tôi cũng đành phải đồng ý với họ, vì mục tiêu quan trọng nhất đối với tôi là phải tìm ra ông nội. Mặc dù nghĩ như thế, nhưng tôi vẫn cảm thấy khá tò mò về nữ cảnh sát nay, nên quan sát cô ấy rất kỹ.
Cô ấy khoảng hai mươi chín tuổi, mái tóc đen dài được buộc vổng phía sau. Khuôn mặt thanh tú, nước da trắng trẻo, bộ đồ cảnh phục vừa vặn và chỉnh tề càng tôn lên vẻ đẹp và sự tự tin, đem lại cho người đối diện một cảm giác thoải mái khi giao tiếp.
Người nữ cảnh sát đó tiến đến trước mặt tôi, mỉm cười, bắt tay và giới thiệu:
- Chào em, em là Sở Khinh Lan đúng không? Chị rất vui được làm quen với em, chị tên là Tang Giai Tuệ. - Giọng chị dịu dàng và ấm áp, không giống với kiểu yểu điệu thục nữ giả tạo của những cô gái khác.
Sau khi bắt tay làm quen, chúng tôi cùng nhau ngồi trên ghế sofa sau bàn họp. Tang Giai Tuệ luôn nắm chặt tay tôi không rời. Bàn tay của chị ấm áp và mềm mại khiến cho tôi có cảm giác an toàn và bình yên, nhìn nghiêng khuôn mặt của chị thật đẹp, khiến tôi cũng phải thích thú ngắm nhìn.
Những người trong phòng họp đang bàn bạc về những bước tiến hành. Một sĩ quan cảnh sát khác là Triệu Kiện Dân cho rằng, những vụ tử vong một cách kỳ quái của các
nhà khảo cổ học đều đang trong quá trình điều tra, trước mắt vẫn chưa tìm ra manh mối nào đáng giá, xem ra thế lực đứng sau trong vụ án này phức tạp hơn rất nhiều so với những gì họ tưởng tượng. Những người còn lại trong phòng đều chú ý lắng nghe và đóng góp ý kiến kèm những kết luận điều tra từ những nơi khác. Tôi ngồi cạnh nghe nhưng không hiểu hết được những vấn đề họ đang thảo luận.
Đang trong lúc bàn tán sôi nổi, giám đốc viện bảo tàng La Hoán Văn đứng dậy, sốt ruột ngắt lời:
- Theo tôi, hiện giờ chúng ta phải cố gắng hết sức để mở chiếc khóa đôi rồng vờn ngọc trân châu và tìm ra bí mật đang được cất giấu. Cho đến nay, viện bảo tàng đã đóng cửa ngừng phục vụ một thời gian dài rồi, nếu cứ kéo dài hơn nữa tôi e rằng sẽ có những ảnh hưởng trái chiều trong xã hội.
Nghe La Hoán Văn nói vậy, mọi người đều tỏ ra đồng tình và đổ dồn ánh mắt về phía tôi.
Thấy mọi người đều đang nhìn về phía mình, tôi cảm thấy ngại ngùng, nhưng lập tức đứng lên và quả quyết nói:
- Cháu cũng đang rất muốn tới Cố Cung, với khả năng hiện tại, cháu nghĩ mình có thể ứng phó được với chiếc khóa này, quan trọng hơn cháu muốn sớm tìm ra ông nội cháu.
Tôn Ngọc Dương sau một hồi suy nghĩ đã lên tiếng:
- Mặc dù tài nghệ của Lan Lan đã rất siêu đẳng và cũng được đào tạo bài bản, thế nhưng do tuổi vẫn còn khá nhỏ, nên kinh nghiệm vẫn còn có phần non nớt. Kể cả có sự trợ giúp của Tang Giai Tuệ, thế nhưng đối phó với chiếc khóa kì quái này không giống như việc truy bắt tội phạm, tôi sợ rằng nếu chỉ để hai người đi sẽ gặp rát nhiều khó khăn. Tôi cho rằng chúng ta nên tìm thêm một người nữa có năng lực thật sự đi cùng để trợ giúp, như vậy sẽ an toàn hơn.
Trưởng phòng Tư Mã Cường nghe thấy hợp lí nên đã gật đầu đồng ý, nhưng lại trầm ngâm suy xét, rồi hỏi lại người đó sẽ là ai. Tôn Ngọc Dương lập tức thốt ra một cái tên:
- Hắc Lão Ngũ!
Tôi sững người, vì trước đây tôi cũng có nghe ông nội kể qua đó là một trong những cao thủ mở khóa ở vùng Đông Bắc, hình như là người đứng đầu một băng nhóm đã vẫy vùng ngang dọc một thời, nhưng sau đó thì đột nhiên mất tích.
Nghe Tôn Ngọc Dương tiếp tục giới thiệu: Trong số các bậc tiền bối khu vực ba tỉnh Đông Bắc, Hắc Lão Ngũ chính là người nổi tiếng nhất. Nghe nói rằng người này sinh ra tại Thẩm Dương, theo nghề đạo chích, với bản lĩnh và tài năng lão đã rất nổi danh, hơn nữa nhờ vào biệt tài lắp đặt và mở những bộ khóa cực kì hóc búa nên giới giang hồ vẫn thường gọi lão là vua trộm vùng Đông Bắc, cũng có người lại gọi lão là Hắc Lão Ngũ, nhưng tên thật của lão là gì thì không ai biết. Người này đã bị bắt hơn mười năm trước, giờ vẫn đang bị giam trong tù. Là một người như vậy mà giờ thất vận chịu sống trong tù, thật khiến người ngoài cảm thấy hết sức khó hiểu, đã dấy lên một làn sóng bàn tán đa chiều lúc bấy giờ. Thế nhưng thực hư ra sao, mọi người cũng không tìm được lời giải đáp.
Trong lòng tôi chợt nghĩ, thì ra Hắc Lão Ngũ bị bắt, chẳng trách bao nhiêu năm nay không nghe thấy tin tức gì, lão bị bắt chắc chắn không phải do ăn trộm rồi. Nghĩ vậy, tôi bèn lên tiếng:
- Cháu cũng biết Hắc Lão Ngũ, ngày trước cháu có nghe ông nội kể nhiều về người này.
Tôn Ngọc Dương quay sang ngìn tôi, nói:
- Như vậy thì càng tốt, đến lúc đó hai người sẽ dễ nói chuyện hơn.
Sau đó, anh ta tiếp tục nói về những kì tích của Hắc Lão Ngũ, khiến mọi người nghe xong đều hết sức kinh ngạc, trầm trồ về tài nghệ của người trong giới giang hồ. Tôn Ngọc Dương tiếp tục:
- Theo thông tin bên công an cũng cấp, án tù của Hắc Lão Ngũ vẫn còn ba năm nữa, ta nên áp dụng lệnh ân xá đặc biệt để sớm thả ông ta, như vậy có thể dùng tài nghệ của ông ấy giúp đỡ chúng ta trong vụ này.
Sau khi bàn bạc một lúc, mọi người đều đồng ý với ý kiến của Tôn Ngọc Dương. Đặc biệt là một người được xưng là trưởng phòng của một bộ phận nào đó phát biểu với giọng chắc nịch:
- Phải biết nắm lấy thời cơ, cấp trên đã đưa ra chỉ thị, để tìm ra chân tướng cất giấu trong Cố Cung Thẩm Dương, cấp trên sẽ ủng hộ chúng ta vô điều kiện.
Trưởng phòng Tư gật gật đầu rồi quay sang nói với Tôn Ngọc Dương: - Nếu đã như vậy thì chúng ta có thể xem xét việc thả người này ra, nhưng phải hết sức
cẩn trọng, không được để xảy ra một sai sót nào dù là nhỏ nhất, tránh những phiền phức sau này, đồng thời việc này phải hết sức bí mật.
Bàn đến vấn đề này, Trần Đường cho rằng hoàn toàn có thể thực hiện, chỉ cần ra chỉ thị khi nào cần, ông ta sẽ làm việc với Bộ Tư pháp, để họ trực tiếp thả người ra.
Cuối cùng mọi người bàn đến việc Tang Giai Tuệ thu xếp đưa tôi tới gặp Hắc Lão Ngũ, để chúng tôi có thể tìm hiểu và thuyết phục Hắc Lão Ngũ đồng ý giúp đỡ. Nếu như lão đồng ý, thì sẽ lập tức thả lão sớm hơn dự kiến. Trần Đường đã bắt đầu bắt tay vào việc đàm phán với Bộ Tư pháp. Mọi người đều không có ý kiến phản đối, mà theo sự phân công triển khai thực hiện công việc.
Sau khi mọi người lục tục rời khỏi phòng họp, Trưởng phòng Tư kéo tay tôi lại và nói:
- Lan Lan, để cảm ơn sự cống hiến của ông nội cháu và cháu với ngành Công an, Giám đốc công an tỉnh cũng đã ra chỉ thị với phòng nhân sự, sau khi mọi việc hoàn thành, cháu sẽ được nhận vào công tác tại Cục Công an tỉnh Liêu Ninh.
Mặc dù lúc đó tôi chưa có dự định gì về công việc của mình trong tương lai, nhưng nghe chú Tư nói vậy, trong lòng có một cảm giác hào hứng khó tả, có ai không thích làm cảnh sát chứ, không những được mặc cảnh phục, cầm súng oai phong, mà còn là một công chức nhà nước. Đặc biệt là ông nội tôi, nếu biết tôi được làm cảnh sát, thì ông sẽ hạnh phúc và vui sướng biết nhường nào!
Rời khỏi văn phòng của Trưởng phòng Tư, chị Giai Tuệ đưa tôi tới văn phòng của chị để cất chiếc hộp càn khôn, để tôi mang theo người mãi cũng không tiện.
Tôi đi một vòng quanh phòng làm việc của chị vẫn ôm khư khư chiếc hộp gỗ trong lòng, thực lòng không muốn gửi nó đi, tôi liền lắc đầu với chị và nói:
- Vẫn không được chị ạ, đây là chiếc hộp ông nội giao cho em đích thân cất giữ, bên trong là bảo bối gia truyền phái Kiện môn của cả dòng họ em. Em để ở đây nhỡ đâu bị người khác đánh cắp mất thì em phải làm sao. Em thấy không yên tâm chút nào.
Nghe những lời nói chân thành của tôi, chị Giai Tuệ cũng có chút ngỡ ngàng nhưng chị nhanh chóng mỉm cười và nói:
- Em gái cũng là người cẩn thận đấy chứ. Thôi được rôi, để chút nữa, chị sẽ đưa em tới một nơi cất giữ an toàn hơn.
Đến buổi trưa, chị Giai Tuệ dẫn tôi tới nhà ăn để ăn trưa. Có rất nhiều cảnh sát cũng đang ở đó và họ đều dồn ánh mắt tò mò về phía tôi, chỉ trỏ chiếc hộp gỗ màu đỏ tôi đang ôm chặt trước ngực. Vài người bước tới chào chị Giai Tuệ:
- Tang cách cách, cô bé này là ai thế, có phải là em gái chị không? - Nghe thấy mọi người hỏi như vậy, chị Giai Tuệ chỉ mỉm cười mà không trả lời, chị tìm chỗ để tôi ngồi xong xuôi mới đi lấy cơm.
Tôi đặt chiếc hộp xuống dưới ghế rồi ngồi lên trên, thấy mình nhỉnh hơn mọi người một cái đầu, tôi nhìn ngó sang bốn phía xung quanh.
Đúng lúc đó, một bác lớn tuổi, tóc điểm bạc, mặc áo sơ mi trắng, trên tay bê chiếc khay cơm bước qua chỗ tôi ngồi, mỉm cười và thân thiện hỏi tôi:
- Cháu gái, cháu là ai thế?
Tôi có hơi hồi hộp, nên ngập ngừng trả lời bác:
- Cháu… cháu là Sở Khinh Lan, cháu… cháu là cảnh sát ở đây.
Nghe thấy câu trả lời, người đó ngỡ ngàng một lúc rồi bỗng cười lớn:
- Vậy à, rất hoan nghênh đồng nghiệp mới đến. - Nói rồi người này quay sang phía chị Giai Tuệ đang đi tới, gật đầu tỏ vẻ hài lòng, rồi họ thì thầm với nhau vài câu gì đó trước khi người này rời đi.
Tôi rất tò mò liền hỏi chị Giai Tuệ:
- Người đó là ai thế chị?
Chị Giai Tuệ khẽ trả lời tôi:
- Đấy là giám đốc.
Tôi bèn nói:
- Ồ, vậy chính là người đầu ngành đúng không chị?
Trước sự thật thà đến ngây thơ của tôi, chị không nhịn được cười, chút nữa là phì cơm ra ngoài, rồi lặp lại câu nói của tôi coi như là câu trả lời:
- Đúng, đúng, ông ấy chính là người đầu ngành của bọn chị.
Đồ ăn ở nhà ăn cũng khá phong phú, nhưng tôi vẫn có cảm giác không ngon bằng ông nội nấu. Tôi cố nuốt vội vài miếng, rồi quay sang tò mò hỏi:
- Chị Giai Tuệ, tại sao mọi người lại gọi chị là cách cách?
Chị mỉm cười rồi lắc đầu nói:
- Người ta gọi trêu thế, nó thực ra chỉ là một biệt danh khác của chị mà thôi.
Ăn trưa xong, chị Giai Tuệ thay thường phục rồi xuống nhà để xe lấy một chiếc ôtô trông rất hầm hố, hình như nó là xe bọc thép, với bốn chiếc bánh rất lớn, cả trước và sau đều treo biển cảnh sát. Lúc đó, tôi cảm thấy hết sức tò mò về chiếc xe, sau này tôi mới biết nó được gọi là Hummer.
Chị lái xe đưa tôi đến ngân hàng Kiến Thiết gần đó, rồi mua một ngăn bảo hiểm để tôi an tâm gửi chiếc hộp càn khôn.
Tôi ôm chặt chiếc hộp gỗ phân vân đứng trước ngăn cất giữ đặc biệt, xoa tay lên chiếc ổ khóa, cảm thấy làm như thế này vẫn không hợp lí chút nào. Chỉ cần một cao thủ của Kiện môn ra tay thì chỉ trong nháy mắt không phải đã mở được nó hay sao?
Thấy tôi vẫn còn đang lưỡng lự, chị Giai Tuệ đến bên vỗ vai tôi khuyên nhủ:
- Em gái à, lần này thì em yên tâm đi, ngân hàng luôn có bảo vệ túc trực ngày đêm, mà họ lại được trang bị súng đầy đủ, đảm bảo là không thể mất được.
Nghe thấy vậy, tôi cũng đỡ lo phần nào, hơn nữa trong thời gian vào Cố Cung, nếu cứ mang theo chiếc hộp thì thật sự không tiện chút nào, nên tôi đành miễn cưỡng nhét chiếc hộp vào ngăn cất giữ, rồi rút chìa khóa cẩn thận nhét nó vào một ngăn nhỏ trong túi sách.
Ra khỏi ngân hàng, chị Giai Tuệ đưa tôi đi mua quần áo mới, tôi đã chọn một bộ quần áo thể thao Nike mà mình rất thích nhưng vì tiếc tiền nên không dám mua, những vài trăm tệ một bộ, mặc lên người cảm giác thật thoải mái, không những thế, trông tôi xinh đẹp lên rất nhiều.
Chị Giai Tuệ đưa tay vén tóc mái tôi sang một bên, ngắm kĩ một hồi rồi khen tôi có khuôn mặt dễ thương, sau này nếu đi ép tóc thì sẽ hợp với mặt và xinh hơn. Vì nghe chưa rõ, nên tôi tò mò hỏi lại chị:
- Hạt dẻ nóng[1]là món gì ạ? Bây giờ chị đưa em đi ăn hạt dẻ á?
[1] “Hạt dẻ nóng” có âm đọc tựa từ “ép tóc”.
Chị Giai Tuệ ngẩn người một lúc rồi bỗng cười phá lên, ôm lấy tôi mà nói: - Cô bé này thật đáng yêu!
Đi cùng nhau một lúc đã khiến tôi và chị Giai Tuệ trở nên rất thân thiết. Chúng tôi nói nói cười cười, chẳng mấy chốc mà đã đến trại giam chuyên giam giữ những phạm nhân trọng tội nằm ở khu vực ngoại ô thành phố Thẩm Dương.
Do được Trần Đường thu xếp từ trước nên sau khi trình báo, chúng tôi nhanh chóng được đưa đến một căn phòng đặc biệt không có lính gác, để gặp và nói chuyện với Hắc Lão Ngũ. Căn phòng đã được bố trí hệ thống cách âm và máy chống thu âm đặc biệt nhằm đảm bảo rằng cuộc đối thoại này sẽ không có người thứ tư biết đến. Mặc dù như vậy, chị Giai Tuệ vẫn chưa yên tâm, mà tự mình quan sát kỹ lưỡng bốn phía, cuối cùng mới chắc chắn rằng không có vấn đề gì.
Chúng tôi ngồi đợi trong phòng chừng hơn mười phút, thì nghe thấy từ bên ngoài hành lang vọng lại tiếng dây xích sắt quệt dưới sàn kêu leng keng. Một lúc sau, chiếc cửa sắt mới lạch cạch và từ từ được mở ra. Cảnh tượng trước mắt chúng tôi là hai người cảnh sát cao to lực lưỡng áp giải mọt người đàn ông có vóc dáng thấp bé đi vào trong phòng.
Mặc dù chưa từng gặp Hắc Lão Ngũ trước đây, nhưng tiếng tăm mà tôi từng nghe về con người này - vua trộm khét tiếng vùng Đông Bắc, khiến tôi tưởng tượng đó hẳn phải là một nhân vật hết sứ tài giỏi và đạo mạo, thế nhưng người đang đứng trước mặt tôi lúc này khiến cho tôi thất vọng phần nào.
Hắc Lão Ngũ bề ngoài là một ông già tầm bảy mươi tuổi, cái đầu nhọn hoắt giống như hạt táo, da vừa đen vừa thô, hằn lên những nếp nhăn hằn sâu, thân người gầy gò, ốm yếu, dáng đi lại giống như một con khỉ già. Hai bàn tay bị còng trong chiếc còng số tám, người thì bị xích lại trên chiếc ghế, trông rất tội nghiệp. Thế nhưng lão lại có đôi mắt hết sức tinh nhanh, trên đôi mắt ấy tôi không hề nhận thấy dấu hiệu của tuổi già, có những lúc đôi mắt ấy lại sáng quắc lên như có thể nhìn xuyên thấu tận tim gan người khác, khiến cho ta cảm thấy lạnh xương sống.
Tôi giật giật gấu áo chị Giai Tuệ, dùng ánh mắt ra hiệu cho chị. Vẫn với thái độ thản nhiên, chị trấn an tôi, đứng lên rót một cốc nước đặt trước mặt Hắc Lão Ngũ, rồi trở về
ngồi đối diện và nở một nụ cười với lão.
Hắc Lão Ngũ cầm cốc nước uống ừng ực rồi dùng ánh mắt lạnh lùng quan sát chúng tôi, hai con ngươi không ngừng đảo qua đảo lại.
Cả căn phòng chìm trong yên lặng, sau một hồi quan sát lão bỗng quay sang nhìn chị Giai Tuệ cười khùng khục, để lộ hàm răng vàng ố, rồi chậm rãi nói từng chữ từng chữ một:
- Con nhỏ này, cảnh sát, chơi súng tay trái. Hay đấy, hay đấy. - Giọng của lão vừa cao vừa sắc, nó giống như âm thanh của thanh sắt đang cào xuống mặt tấm kim loại, cảm giác chói tai tới cực điểm.
Câu nói này khiến tôi có phần mông lung, chưa kịp phản ứng gì. Nhưng chị Giai Tuệ đã thốt lên đầy kinh ngạc, ngữ điệu đã có phần thay đổi.
- Ông quả thực có con mắt tinh tường, cháu đúng là thuận tay trái.
Hắc Lão Ngũ bỗng cười một tràng giòn giã, bĩu môi rồi lại nói:
- Vết chai trên đầu ngón cái của bàn tay trái hằn rõ lên, phần trũng giữa ngón cái và ngón trỏ bị phồng lên, không phải do nghịch súng thì còn do làm gì nữa. - Ngừng một lúc, lão mới than thở, khuôn mặt lộ rõ sự tiếc nuối. – Quá phí phạm, đôi bàn tay như vậy mà không làm trộm thì thật sự là quá phí phạm.
Tang Giai Tuệ mỉm cười, rồi chắp tay trước mặt, nói:
- Có cơ hội cháu nhất định sẽ theo ông để học vài chiêu, biệt danh của ông là vua…
- Đừng nói nữa! - Hắc Lão Ngũ bỗng dưng nghiêm mặt lại, chuyển giọng the thé. - Đừng vòng vo với Hắc Lão Ngũ này nữa, mẹ kiếp! Có chuyện gì thì cứ nói thẳng ra đi.
Thấy thái độ của Hắc Lão Ngũ thay đổi đột ngột, tôi cũng có phần ngỡ ngàng, nhưng chị Giai Tuệ vẫn không hề nao núng, mà chỉ mỉm cười và nhẹ nhàng nói:
- Ông thật là một người thẳng thắn, vậy cháu cũng không giấu gì ông nữa… - Rồi chị kể lại đầu đuôi câu chuyển cho Hắc Lão Ngũ, chỉ trừ có chi tiết liên quan đến ông nội tôi.
Trong khi chị Giai Tuệ kể lại tường tận câu chuyện, Hắc Lão Ngũ không hề lên tiếng, mà chỉ nheo nheo đôi mắt, lặng yên lắng nghe, hai tay thì không ngừng vò nát, xé nhỏ
chiếc cốc giấy đang cầm trên tay.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra, mặc dù chiếc cốc giấy đã bị bóp nát cho thay đổi hình dạng nhưng nước trong cốc không hề bị đổ ra ngoài đến một giọt, có thể là do nước đã theo cánh tay chảy vào trong áo. Thế nhưng tôi đã quan sát rất kỹ cánh tay áo của Hắc Lão Ngũ, không hề có đấu vết bị ướt, thậm chí là hai bàn tay cũng khô ráo.
Quan sát đến đây, tôi liếc trộm sang nhìn chị Giai Tuệ, trên khuôn mặt chị cũng có biểu hiện gì đó rất lạ, thế nhưng giọng nói vẫn đều đều không thay đổi.
Cho đến khi chiêc cốc giấy đã bị Hắc Lão Ngũ vò nát tươm, những mảnh giấy vụn rơi đầy mặt bàn, thì lão mới từ từ đưa tay trái của mình ra gạt qua chiếc bàn, những mảnh giấy vụn bỗng chốc đã biến mất mà không biết nó đã rơi đi đâu.
Chị Giai Tuệ quay sang trao tôi một ánh mắt mang đầy ý nghĩa, trong lòng chúng tôi đều ngầm hiểu rằng, xem ra Hắc Lão Ngũ thực sự là người lắm thủ đoạn, chẳng trách người ta gọi lão là vua trộm.
Khi chị Giai Tuệ đưa ra lời mời giúp đỡ, Hắc Lão Ngũ mới đột ngột cắt lời: - Các người không sợ ta tìm cớ để trốn thoát sao?
Chị Giai Tuệ nở nụ cười, vẫn với giọng chậm rãi đáp:
- Ông chỉ còn không đến ba năm nữa là được ra tù, nếu cháu là ông, cháu sẽ không làm cái việc ngu xuẩn đó. Nói thẳng ra, lần này cháu đến đây là thay mặt Cục Công an nhờ ông đồng ý giúp đỡ, dù sau này việc có thành công hay không, chúng cháu nhất định ông sẽ làm không cảm thấy phí công mất sức.
Hắc Lão Ngũ “hừ” một tiếng rồi lại khùng khục cười.
- Cũng đúng, cũng hay đấy, cũng hay đấy… - Nói rồi lão bỗng dưng quay ngoắt sang nhìn thẳng vào tôi, khiến tôi thót tim.
Hắc Lão Ngũ bỗng cất tiếng hỏi:
- Ngươi là hậu duệ của Kiện môn đúng không? Là con nhà Tôn gia hay cháu nhà Sở gia?
Từ lúc gặp mặt đến giờ, tôi không hé răng lấy nửa lời mà chỉ ngồi lặng lẽ bên cạnh chị
Giai Tuệ lắng nghe cuộc đối thoại của họ, thực tình tôi không ngờ được rằng lão lại nhận ra tôi là người kế nhiệm của Kiện môn. Vô cùng ngạc nhiên, tôi đã không giữ được bình tĩnh, khẽ kêu “á” lên một tiếng rồi vô thức gật đầu.
- Ồ, thì ra ngươi là người nhà Sở gia, nghe giọng nói không giống với giọng Hàng Châu nhà họ Tôn. - Nói rồi, Hắc Lão Ngũ quan sát tôi kỹ hơn, bỗng vừa cười vừa nói. - Trông đúng là gái vùng Đông Bắc, mặt tròn, tóc tết dày, rất nữ tính. Ha ha, hay lắm, hay lắm. Người là như thế nào với Sở Kiếm Minh?
Sở Kiếm Minh là tên của ông nội tôi, nhìn mặt lão lúc này sao mà gian tà, nhưng phải nói thật tôi không biết vì sao lão lại nhận ra.
Tôi vẫn kiềm chế và trả lời một cách lễ phép:
- Đó là ông nội cháu, cháu tên Sở Khinh Lan.
Hắc Lão Ngũ mới nhướn đôi lông mày, miệng tròn vành kéo dài một tiếng “ồ”, rồi không ngừng nhắc lại:
- Khinh Lan, Khinh Lan… cái tên nghe khá là dễ chịu. - Nói rồi, lão gật gật đầu nói. - Cô gái, đưa cho ta xem tín vật cô đang đeo trên cổ một chút đi. Vừa dứt lời lão liền đưa tay phải về phía tôi. Cánh tay đó vừa khô ráp vừa đen đúa lại vừa gầy gò, nổi lên những đường gân xanh lét, trông không khác gì chân gà.
Tôi hoàn toàn không tưởng tượng nổi, đến tín vật tôi giấu trong áo mà cũng bị nhìn thấy, con mắt của lão thực sự tinh tường, lẽ nào lão có khả năng nhìn xuyên thấu? Mặc dù tôi đang tò mò đến cực độ thế nhưng không một chút lưỡng lự lập tức tháo tín vật đang đeo trên cổ ra, tôi đứng dậy với tay qua bàn đưa cho lão.
Cầm được cặp ngọc tỳ hưu trong tay, Hắc Lão Ngũ mới thốt lên một tiếng trầm trồ, trên khuôn mặt biểu lộ một thái độ khác thường, đôi bàn tay run rẩy, có cảm giác lão đang rất hạnh phúc như cặp tỳ hưu đó đã thuộc về mình.
Lão quan sát thật kỹ cặp tỳ hưu, không ngừng gật gù, ánh mắt lộ lên sự ngạc nhiên:
- Mẹ kiếp, lão Sở này đúng là có cả cặp, đã hợp nhất được hai phái. Ha ha ha. Hay đấy, hay đấy! Cười một tràng dài, lão liền trả lại cặp ngọc tỳ hưu cho tôi, rồi không để ý gì đến tôi nữa.
Thì ra lão có quen với ông nội tôi thật, đến chuyện Kiện môn chia thành hai phái còn
biết rõ.
Hắc Lão Ngũ trầm ngâm xoa xoa nhúm râu trên cằm rồi hỏi Tang Giai Tuệ:
- Đã là chiếc khóa lạ, một chuyện lớn như thế, tại sao lão Sở không đích thân đến đây, mà lại phái con nha đầu này đến, lẽ nào ông ấy đã già yếu đến mức phải giao cả tín vật đi rồi?
Tang Giai Tuệ quay sang nhìn tôi, rồi hạ thấp giọng trả lời:
- Ông ấy cũng đã đến, thế nhưng… sau khi vào cung Sùng Chính giờ không tìm thấy nữa.
Sau khi nghe câu trả lời, Hắc Lão Ngũ lập tức trợn tròn mắt, lớn tiếng:
- Cái gì? Không tìm thấy nữa? - Nói rồi, cả người lão thả phịch xuống phía sau thành ghế. - Lão đang chơi trò gì với ta đây, sao lại không tìm thấy?
Tang Giai Tuệ thấy vậy liền tỉ mỉ kể lại đầu đuôi chuyện ông nội từ lúc đến Thẩm Dương, vào cung Sùng Chính như thế nào, rồi mất tích ra sao cho Hắc Lão Ngũ nghe. Cuối cùng chị mới đưa ra một lời đề nghị:
- Lần này cháu tới nhờ ông ra tay giúp đỡ còn với mục đích khác là giúp Lan Lan, cũng như giúp mọi người tìm ra được Sở lão gia.
Hắc Lão Ngũ nghe xong liền chau mày, thở dài rồi nói:
- Mẹ kiếp! Cuối cùng nó là cái khóa chết tiệt gì, mà đến Lão Sở cũng không làm gì được, chuyện này đúng là quá hoang đường. Hay đấy, hay đấy! - Ngữ điệu của Hắc Lão Ngũ khi nói hai từ “hay đấy” không còn vẻ bất cần ngang ngược thường thấy, mà trầm xuống tỏ vẻ nghiêm trọng một cách bất thường.
Thấy Hắc Lão Ngũ có vẻ xuôi xuôi, chị Giai Tuệ liền tiếp một câu:
- Thế nên mới hi vọng có được sự giúp đõ của ông. Nếu như ông đồng ý, cháu sẽ lập tức thu xếp để ông ra trại ngay bây giờ.
Hắc Lão Ngũ gật đầu đồng ý, rồi quay sang nhìn tôi, bàn tay vừa xoa cằm vẻ trầm tư vừa nói với giọng trầm hẳn xuống:
- Lão Sở và ta ngày xưa cũng có mối ân tình, rồi lại còn từng cùng nhau… cùng nhau… cũng có thể nói, ta và ông ấy coi nhau như anh em, giả sử hôm nay ngươi không đến tìm ta, thì một khi biết chuyện ta nhất định sẽ phải giúp đỡ rồi.
Nói xong lão liền quay sang nhìn chị Giai Tuệ nói với vẻ ngạo mạn:
- Thu xếp để ta ra tù? Ha ha ha, con nhỏ này, nhà ngươi nghĩ cái lồng chim này có thể giam giữ nổi Hắc Lão Ngũ này sao? - Chưa dứt lời, hai tay ông đã hành động ngay, lắc mạnh tay một cái, rồi chụm chúng lại với nhau, sau hai tiếng “lách cách” chiếc còng số tám đã tự tách ra rơi xuống bàn.
Tôi cũng quan sát được phần nào lúc Hắc Lão Ngũ thực hiện, trong lúc ngồi xé chiếc cốc giấy, ông đã dùng một mảnh giấy cứng vê thành một sợi dây dài và dai rồi kẹp vào giữa hai ngón tay. Khi lắc mạnh hai bàn tay, cũng là lúc ông nhanh chóng dùng sợi dây kia nhét vào lỗ khóa của chiếc còng số tám.
Nguyên lí mở khóa của chiếc còng số tám hết sức đơn giản, đến khả năng hiện tại của tôi cũng có thể mở được nó một cách nhẹ nhàng. Nhưng để làm được như ông, vừa nói cười vừa không cần quan sát mà cũng có thể mở một cách nhanh chóng và điêu luyện thì cũng coi là khó nhằn. Đặc biệt là thực hiện với đôi bàn tay nhanh thoăn thoắt, đây chính là điểm yếu nhất của tôi. Xem ra, Hắc Lão Ngũ hết sức nhuần nhuyễn những tuyệt kỹ của Kiện môn, thế nhưng lão ta là một vua trộm, thì những kỹ năng này đương nhiên chỉ là chuyện nhỏ. Tôi vẫn không khỏi suy nghĩ và thấy khó hiểu về những điều lão vừa nói là trại giam này không đủ sức giam lão, vậy lẽ nào lão cố tình ở lại đây?
Thấy tôi và Tang Giai Tuệ vẫn chưa hết ngỡ ngàng, lão liền cười xòa rồi nói:
- Xin lỗi, xin lỗi, do ta quen tay, chỉ là nghịch chơi chút thôi. Cái này hay đấy, hay đấy. Ta sẽ đi cùng hai người.
Nói rồi lão lại nhặt chiếc còng số tám lên, vòng vào tay rồi tự khóa lại, hai tay lão giờ lại nằm gọn trong chiếc còng.
Có một điều tôi cảm thấy trong lúc Hắc Lão Ngũ tự mở còng, lão đã vô tình hay cố ý đánh mắt nhìn qua tôi vài lần, ánh mắt với nhiều ý tứ, nó giống như đang hoài nghi hoặc tìm kiếm một điều gì đó.
Chương 4: Chiếc khóa Song Long hút máu
Thủ tục thả Hắc Lão Ngũ do đã được Trần Đường thu xếp ổn thỏa nên thực hiện vô cùng nhanh chóng. Lão thu xếp đồ đạc cá nhân rồi cùng chúng tôi rời khỏi trại.
Vừa đặt chân ra bên ngoài, Hắc Lão Ngũ bỗng dưng dừng bước, rồi mở to đôi mắt vốn nhỏ xíu của mình, quan sát bốn phía xung quanh một hồi lâu, lão vươn chiếc cổ gầy gò ra trước ra sức hít hà mùi vị của sự tự do, lão lắc lắc đầu rồi nói vẻ đầy cảm xúc:
- Mùi vị bên ngoài, vẫn thật là dễ chịu! Ta nên ra đây từ vài năm trước mới phải, ha ha ha ha… - Nói rồi, lão ngẩng mặt lên nhìn trời, vừa xoa cằm vừa cười một cách khoái chí.
Tôi và chị Giai Tuệ chỉ đứng im bên cạnh quan sát lão mà không nói một lời. Vì chúng tôi đều hiểu cảm giác của người bị giam trong tù gần hai mươi năm giờ được tự do hạnh phúc đến nhường nào. Thế nhưng vẫn có một điều khiến tôi rất băn khoăn, tại sao những lời nói lúc nãy của lão lại mâu thuẫn với hiện tại. Rõ ràng lão rất tự tin cho rằng đối với lão việc ra khỏi “cái lồng chim” này hết sức đơn giản, vậy tại sao lão lại chịu ở trong này lâu như thế?
Khi chúng tôi đứng trước chiếc Hummer đang đậu ở bãi đỗ xe, Hắc Lão Ngũ hùng hổ tiến tới sát chiếc xe, vỗ vỗ lên thân xe rồi thốt lên với vẻ lạ lẫm đầy hào hứng:
- Mẹ kiếp! Đây là loại xe gì thế, vỏ bọc thép hoành tráng thật. Hay đấy, hay đấy!
Chị Giai Tuệ nghe thấy vậy không trả lời mà chỉ đáp lại bằng nụ cười mỉm, rồi thò tay vào túi quần lấy chìa khóa xe. Bỗng chị khẽ kêu lên một tiếng, chau đôi lông mày rồi hai tay liên tục lục tìm các túi trên túi dưới của bộ quân phục.
Tôi hốt hoảng hỏi co chuyện gì. Chị Giai Tuệ vội sốt ruột trả lời:
- Không tìm thấy chìa khóa, chắc là rơi ở trong kia rồi.
Tôi liền nói:
- Không sao, để em mở cho.
Lúc đó, thực lòng tôi cũng muốn trổ tài trước mặt Hắc Lão Ngũ, cho nên tôi không muốn dùng những kỹ thuật thông thường như kim móc hay dây da lừa, mà tôi nhổ một sợi tóc, ngậm trong miệng để nước bọt ngấm đều sợi tóc, xoắn nó thành một vòng tròn nhỏ, rồi tạo vài nút thắt. Chị Giai Tuệ và Hắc Lão Ngũ đứng bên chăm chú quan sát tôi.
Ánh mắt của hai người đang chăm chú theo dõi khiến tôi có chút đắc ý, sau khi chầm chậm luồn sợi tóc vào trong mắt khóa, tôi nhẹ nhàng di chuyển sợi tóc cho tới khi đã móc chắc vào lõi khóa rồi mới khéo léo kéo nhẹ sợi tóc hướng ra ngoài. Cách! Cánh cửa ô tô đã được mở ra.
Lần đầu tiên được chứng kiến khả năng mở khóa của tôi, chị Giai Tuệ đã thốt lên vô cùng ngạc nhiên:
- Ôi! Lan Lan… em biểu diễn lại một lần nữa đi, thật là thần kỳ!
Tôi đang khom lưng định bước lên xe thì nghe tiếng Hắc Lão Ngũ vang lên bên cạnh: - Bắt lấy! - Nói rồi lão cười khoái chí, vung tay ném về phía chị Giai Tuệ vật gì đó.
Chị Giai Tuệ cũng phản ứng rất nhanh, đưa tay trái lên không trung bắt lấy, thì ra đó chính là chìa khóa của chiếc xe này.
Từ lúc nói chuyện trong phòng cho tới khi ra đây, tôi quan sát thấy Hắc Lão Ngũ không hề đứng gần chị Giai Tuệ, vậy thì từ lúc nào? Ở đâu? Và bằng cách gì lão đã lấy được chiếc chìa khóa đó.
Tôi và chị Giai Tuệ đều tỏ vẻ hoài nghi nhìn về phía Hắc Lão Ngũ, không hiểu rằng lão cố tình diễn trò này với mục đích gì, lẽ nào lão đang thể hiện với chúng tôi?
Hắc Lão Ngũ hướng ánh mắt sang phía tôi, gật gật đầu tỏ vẻ hài lòng rồi nói với giọng trìu mến:
- Tài nghệ của con nhỏ này cũng không tồi, cũng ngang ngửa với ông nội mi thời trẻ. Hay đấy! Hay đấy!
Nghe xong những lời này của lão, tôi bỗng chột dạ, thì ra những chiêu lão vừa thể hiện như mở còng số tám bằng mảnh giấy xé từ chiếc cốc lẫn việc ăn cắp chiếc chìa khóa của chị Giai Tuệ không phải là để thể hiện bản thân mà chỉ muốn thử khả năng của người kế nhiệm phái Kiện môn ra sao.
Khi đã hiểu được dụng ý này, trong lòng tôi bỗng thấy nhẹ nhõm hẳn đi, nở một nụ cười tươi rồi đáp:
- Tài nghệ của ông và ông nội cháu mới gọi là điêu luyện, khiến Lan Lan cháu thực sự bái phục.
Hắc Lão Ngũ nghe vậy liền bật cười một tràng giòn giã:
- Ông nội mi, còn có… có… và cả ta nữa, thế cũng được, cũng được! Ha ha ha…
Những lời nói đầy ẩn ý của lão khiến tôi càng mơ hồ, có cả ai nữa mà lại lấp lửng như thế chứ, nhưng lúc đó tôi không tiện hỏi lại lão mà chỉ cười trừ rồi gật gật đầu.
Hắc Lão Ngũ lại đưa tay lên xoa xoa cái cằm đầy râu, rồi quay sang nói với chị Giai Tuệ:
- Con nhỏ này, đồ của mình thì phải giữ cho cẩn thận, nhất là cái khẩu súng kia.
Chị Giai Tuệ nghe vậy không hề tỏ thái độ khó chịu mà chỉ chắp hai tay trước mặt, kính cẩn nói:
- Tài nghệ của Hắc Lão Ngũ thật siêu đẳng, không hổ danh là vua trộm lừng danh.
Hắc Lão Ngũ nghe thấy lời tán tụng thì khuôn mặt đắc ý trông thấy, huênh hoang đi tới mở cánh cửa sau xe ôtô rồi bước lên. Tôi và chị Giai Tuệ đều quay sang nhìn nhau mà không nhịn được cười trước vẻ đáng yêu của lão.
Chiếc xe dần dần rời khỏi trại giam, rẽ vào đường quốc lộ ở ngoại ô để tiến vào trung tâm thành phố, Hắc Lão Ngũ ngồi đằng sau không ngừng xuýt xoa trước những biến đổi nhanh chóng của thành phố khiến cho lão sắp không nhận ra.
Đi thêm một đoạn nữa, chúng tôi bỗng nghe giọng chị Giai Tuệ giật mạnh: - Hai người không được quay lại đằng sau, hãy nhìn vào gương chiếu hậu!
Tôi “ồ!” lên một tiếng như hiểu ra vấn đề rồi làm theo lời chị, vội vàng nhìn vào gương chiếu hậu. Phía đằng sau, không nhiều xe lắm, chỉ có thưa thớt bảy tám chiếc, tôi thấy không có gì đáng lo nên hỏi lại xem có chuyện gì.
- Hãy nhìn chiếc xe du lịch màu trắng mang biển A388 của Liêu Ninh. - Nói rồi chị Giai Tuệ đưa tay chỉnh lại góc của chiếc gương chiếu hậu.
Tôi nhìn lại kỹ hơn, phía sau xe cách chừng ba mươi mét, đúng là có một chiếc xe du lịch màu trắng đang chầm chậm theo sát chúng tôi. Trên kính dán lớp nilông màu cà phê, nên tôi không nhìn rõ người ngồi phía trong xe.
Hắc Lão Ngũ hai tay ôm chiếc gối, lưng tựa ra phía sau ghế, khoái chí trả lời:
- Ta nhìn thấy lâu rồi, họ theo sát chúng ta từ khi ta rời khỏi trại giam cơ, xem ra có hẳn một đội quân đến đưa đón ta. Hay đấy! Hay đấy!
Tôi hỏi lại có phải chiếc xe đó đang theo dõi mình không, chị Giai Tuệ lạnh lùng gật đầu rồi nói:
- Xem ra chúng ta đúng là đang bị bám đuôi, còn nhớ những nhà khảo cổ tham gia quá trình khai quật không? Vài người trong số họ đã chết vì tai nạn giao thông đấy.
Chị Giai Tuệ nói rồi quay sang một tay thắt chặt dây an toàn cho tôi, nói:
- Mọi người phải cẩn thận, thắt chặt dây an toàn, bám chặt vào vịn cửa, cháu chuẩn bị tăng tốc đấy. - Nói rồi chị lập tức nhấn ga, chiếc Hummer lập tức phóng vọt đi, bỏ chiếc xe du lịch ở lại phía xa.
Tôi nắm chặt dây an toàn, lo lắng nhìn vào gương chiếu hậu, chiếc xe đằng sau như phát hiện ra ý đồ của chị nên cũng tăng tốc bám theo sát chúng tôi.
Chị Giai Tuệ vừa ra sức nhấn ga, vừa lắc lắc đầu nói, giọng đầy vẻ khiêu khích: - Xe du lịch mà đòi đuổi Hummer, óc bọn này chắc chứa toàn đậu phụ…
Nói đến đây, một chiếc xe tải lớn đang đi với tốc độ bình thường phía trước bỗng dưng phanh gấp, cả chiếc xe đứng khựng lại, đỗ xéo trước mặt chúng tôi chiếm gần hết phần đường, chiếc Hummer đang lao với tốc độ chóng mặt, không kịp phanh lại mà cứ thế lao thẳng lên phía trước. Tôi còn kịp nhìn thấy đầu xe mình chỉ cách đuôi chiếc xe tải trong nháy mắt.
- Nắm chặt! - Chị Giai Tuệ bỗng hét lớn, rồi lấy hết sức đánh vôlăng sang bên phải. Đầu xe Hummer quệt mạnh vào thân chiếc xe tải rồi quẹo sang bên phải, phát ra một âm thanh chói tai, cả chiếc xe bị rung động mạnh nên lắc dữ dội trước khi lao ra khỏi đường, đâm thẳng xuống ruộng ngô ven đường. Những cây ngô cao hơn đầu người bị quần gẫy nát, trơ lại những cái gốc khẳng khiu cào cào lên thân xe.
Mặc dù đang ở dưới ruộng, nhưng chị Giai Tuệ không hề giảm tốc độ, mà vẫn tiếp tục lái chiếc Hummer vượt qua chiếc xe tải hướng về đường quốc lộ phía trước, bốn bánh xe của chiếc xe liên tục xéo trên ruộng ngô tạo nên những vết lún sâu, những chiếc lá ngô
xanh mướt vẫn còn dính vào tấm kính trước.
Tôi vội vàng quay lại nhìn ra phía sau, chiếc xe tải đang chậm chạp quay đầu, còn chiếc xe du lịch đang cố vượt qua một bên, chúng đều bị bỏ lại rất xa. Tôi vô cùng hào hứng hét lên:
- Chị Giai Tuệ, tuyệt quá! Chị cắt được đuôi rồi!
Chị Giai Tuệ thở dài.
- Cũng không nói trước được đâu, nếu chúng biết trước được ý đồ của ta lại nắm được thông tin chị sẽ là người phụ trách vụ này thì chắc chắn sẽ không đơn giản như thế đâu, chỉ sợ phía trước sẽ lại có trở ngại nữa. - Nói rồi, chị rút điện thoại đưa cho tôi. Lập tức gọi điện thoại cho Trưởng phòng Tư, nói họ cử người đến đây. Số điện thoại của chú ấy là số đầu tiên trong danh mục cuộc gọi đi.
Tôi nhận lấy chiếc điện thoại, đang định ấn nút gọi đi thì bỗng “pằng”, hình như đang có một vật gì đó lao mạnh vào thân chiếc e bọc thép, rồi sau đó là một tràng âm thanh “pằng, pằng, pằng…” dội đến liên tiếp.
Tôi ngẩng đầu ngó trước ngó sau, trên cánh cửa kính xe từ đâu xuất hiện những vết rạn nứt hình tròn màu trắng, không những thế những vết như vậy cứ thế hiện ra chi chít. Nhìn kỹ lại qua tấm kính, tôi giật mình sợ hãi, thì ra tất cả những chiếc xe đang di chuyển bình thường trên đường kia đều đang áp sát chúng tôi, tất cả các cửa xe đều hạ xuống, một vài người đàn ông ngồi trong xe đeo kính đen, tay cầm súng đang nã đạn xối xả về phía chúng tôi.
Hắc Lão Ngũ cũng bị kích động hét toáng lên:
- Á! Còn dùng cả súng nữa cơ à? Ta xem trên tivi, đất nước không phải đã hòa bình rồi sao? Mẹ kiếp! Thế này thì quá hay rồi!
- Không sao, đây là xe chống đạn. - Chị Giai Tuệ vẫn trả lơi hết sức bình tĩnh, nói rồi chị rút khẩu súng đang cài trong bao ở cạnh sườn ra, chân nhấn mạnh ga, chiếc Hummer gầm lên, lao về phía trước vượt qua hai chiếc xe con đang áp sát trước mặt, thoát khỏi vòng vây.
Chiếc Hummer lao đi với tốc độ chóng mặt, khiến những chiếc xe bám theo cũng rú ga đuổi theo, điên cuồng đâm vào thân xe của chúng tôi, phát ra những âm thanh chói tai như tiếng bom nổ. Đồng thời, những viên đạn cũng không ngừng xả tới, hai bên cửa kính
của chiếc xe dày đặc những vết rạn, dần biến thành một tấm kính đục ngầu, khiến cho tôi sợ hãi đến nỗi phải tụt người nấp xuống dưới gầm ghế, vì lo sợ lỡ tấm kính kia bị bắn vỡ. Chị Giai Tuệ vẫn giữ vẻ lạnh lùng, nét mặt không biểu lộ thái độ gì, càng không thấy vẻ sợ hãi hay nao núng, mà chỉ thấy tay chị liên tục gạt cần số sang trái rồi sang phải, điều khiển chiếc Hummer tránh khỏi những chiếc xe đang điên cuồng lao tới.
Hắc Lão Ngũ ngồi đằng sau hào hứng thêm vào:
- Hay quá! Hay quá! Bao nhiêu năm rồi không chứng kiến những cảnh này. Con nhỏ này, khá lắm, rất ra dáng. Á! Sang phải… không, sang trái…
Chúng tôi bị rượt đuổi như thế liên tục trong khoảng hơn chục phút, nhưng họ cũng không làm gì được chúng tôi. Đúng lúc đó, tôi bỗng nghe thấy tiếng còi cảnh sát vọng đến từ phía trước, chắc là cảnh sát cơ động đã tới. Chị Giai Tuệ lúc đó mới thở phào nhẹ nhõm mà nói:
- Lan Lan, ngồi dậy đi, mọi chuyện qua rồi.
Nghe thấy vậy tôi mới lò dò ngóc đầu dậy, qua tấm cửa kính ngó nhìn xung quanh, những chiếc xe rượt đuổi chúng tôi lần lượt quay đầu bỏ chạy. Tôi lại nhìn thấy, phía trước một dãy đèn nhấp nháy của cảnh sát đang tiến dần về phía chúng tôi.
Tôi sờ lấy búi tóc trên đầu, gõ gõ lên trán để biết mình còn sống:
- Nguy hiểm, nguy hiểm quá! Chị Giai Tuệ thật là anh dũng.
Chị Giai Tuệ chỉ mỉm cười rồi dần giảm tốc độ, đỗ chiếc xe vào lề đường, tay phải chị với sang giữ chặt bờ vai bên trái, nhăn mặt lại nói:
- Anh dũng gì chứ, chị bị trúng đạn rồi đây này.
Tôi sợ hãi quay sang định hỏi chị làm sao thì theo hướng tay chị chỉ, ô cửa kính bên trái đã bị đạn xuyên thủng tạo thành một lỗ nhỏ.
Sau đó, chúng tôi đã được đoàn cảnh sát cơ động hộ tống về trụ sở cảnh sát. Trưởng phòng Tư mở một cuộc họp khẩn cấp, mọi người cùng bàn bạc, phân tích để đưa ra kết quả, đoàn xe rượt đuổi theo chúng tôi nhất định đã có được thông tin, nên ngăn chặn chúng tôi bắt tay vào việc mở chiếc khóa Song Long kia. Mặc dù không biết chúng là tổ chức nào, hành động với mục đích gì, nhưng tất cả những việc đã diễn ra chứng tỏ bí mật được giấu dưới kia vô cùng quan trọng.
Trưởng phòng Tư, Trần Đường, La Hoán Văn và mọi người trong đoàn đều nhất trí với nhau, để tránh đêm dài lắm mộng, tốt nhất nên tiến hành càng sớm càng tốt việc mở chiếc khóa Song Long trong điện Sùng Chính tại Cố Cung Thẩm Dương. Vết thương của chị Giai Tuệ cũng không nặng lắm, là vết thương bên ngoài nên chỉ cần băng bó và dùng thuốc bôi là đỡ.
Cuộc họp bàn đến đây, Hắc Lão Ngũ bỗng đề nghị cho lão ra ngoài một chút, tiện thể đi lấy vật dụng cần thiết. Nghe vậy, mọi người đều im lặng, không ai dám đưa ra ý kiến gì. Thấy thái độ hoài nghi của mọi người, lão đang ngồi trên ghế liền thở dài, co hai chân lên, nói với vẻ lạnh lùng:
- Nếu các người không thấy an tâm, thì có thể đeo còng vào chân tôi, rồi dùng dây thừng dắt đi cũng được. - Vừa nói nét mặt lão vừa tỏ vẻ tức giận.
Trưởng phòng Tư mỉm cười, vỗ tay xuống mặt bàn nói:
- Hắc Lão Ngũ muốn đi đâu cũng được, chúng tôi sẽ ở đây đợi ông.
Sau khi Hắc Lão Ngũ rời khỏi phòng, mọi người đều đổ dồn ánh mắt nghi ngờ về phía Trưởng phòng Tư, nhưng ông vẫn bình thản mà nói:
- Nghi ngờ thì không dùng người, đã dùng rồi thì không nghi ngờ, tôi thấy Hắc Lão Ngũ là một đại trượng phu, yên tâm đi, không lâu nữa ông ấy sẽ quay trở lại thôi.
Quả thực không ngoài dự đoán, khoảng tám giờ tối ngày hôm đó, Hắc Lão Ngũ đã quay trở lại trụ sở cảnh sát, còn thay một bộ quần áo lụa màu đen, đi một đôi giầy vải đen, đúng phong cách của giới giang hồ.
Hắc Lão Ngũ nói riêng với tôi, vừa rồi lão đến thăm người em trai Hắc Lão Tam, họ đã không gặp nhau mấy chục năm nay, cả hai giờ đều đã già sắp không nhận ra nhau nữa rồi. Tôi có hơi thắc mắc, tại sao người em lại gọi là lão Tam, trong khi người anh gọi là lão Ngũ? Hắc Lão Ngũ nghe vậy chỉ lắc đầu mỉm cười khiến tôi hiểu rằng không nên tò mò điều này.
Cả đêm hôm đó, không ai nói với ai lời nào. Đến sáng ngày hôm sau, hơn ba trăm cảnh sát thuộc Cục Cảnh sát Liêu Ninh và cảnh sát Thẩm Dương đã cùng tập trung trước sân của Cục Cảnh sát, tôi, chị Giai Tuệ và Hắc Lão Ngũ đều mặc cảnh phục trà trộn vào đám đông, tôi còn nhìn thấy rất nhiều phóng viên cầm theo máy ảnh đứng bên ngoài đang chụp ảnh, ghi hình.
Trưởng phòng Tư đứng bên trên phát biểu một bài diễn văn rất dài, sau khi đã quan sát đám đông xung quanh cẩn thận, ông mới tiến đến chỗ chúng tôi, nói nhỏ:
- Đây chỉ là chiêu đánh lạc hướng bọn chúng. Tôi muốn qua giới truyền thông phát động chiến dịch quét sạch văn hóa phẩm đồi trụy. Chờ cho đến khi buổi phát động kết thúc, mọi người rời khỏi đây, thì lúc đó ba người sẽ đi thẳng tới Cố Cung, cả tuyến đường bí mật dẫn đến đó đều đã được kiểm tra nghiêm ngặt và bố trí đội ngũ cảnh sát bảo vệ, thế nên mọi người cứ yên tâm mà đi.
Tôi nghe xong, bất giác thấy lo lắng, nắm chặt lấy tay chị Giai Tuệ. Hắc Lão Ngũ thì thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra, ung dung vuốt ve chiếc biển cài trên áo, lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp! Cả đời làm trộm rồi, cho tới khi sắp vào quan tài thì lại đi làm cảnh sát. Tổ tiên tha tội cho con, tổ tiên tha tội cho con. Hay lắm! Hay lắm!
Đúng chín giờ sáng, sau khi Trưởng phòng Tư phát hiệu lệnh, hơn ba trăm con người lần lượt lên mấy chục chiếc xe cảnh sát đang đỗ sẵn trong sân, còi và đèn cảnh sát rú lên inh ỏi, nối đuôi nhau rời khỏi Cục Cảnh sát. Cảnh tượng lúc đó diễn ra vô cùng náo nhiệt, Những người đi đường đều hết sức tò mò, chắc họ cũng đang đoán già đoán non về một vụ án nào đó lớn lắm.
Xe của chúng tôi đi theo đoàn một chặng đường, sau đó tách ra theo lộ trình đã vạch sẵn, rẽ ngang rẽ dọc một hồi thì tiến thẳng tới Cố Cung.
Vào ngày hôm đó, quanh khu vực Cố Cung được canh gác rất nghiêm ngặt, bên trên những tấm biển cấm có đề dòng chữ bằng mực đỏ: Bên trong đang tu sửa, không được phép tham quan.
Phía ngoài điện Sùng Chính một đội ngũ cảnh sát được trang bị súng ống đầy đủ đang đứng gác, một vài người còn mang cả súng trường. Một anh cảnh sát dẫn chúng tôi tới căn phòng gần đó để thay đồ. Khi đeo túi đồ nghề bước ra, Trưởng phòng Tư, Trần Đường, La Hoán Văn và mọi người lập tức tiến tới phía chúng tôi, dặn dò chúng tôi phải hết sức thận trọng, nếu xảy ra bất cứ chuyện gì, nhất định không được ngoan cố mà phải quay ra ngay, an toàn là trên hết. Chị Giai Tuệ thì gật đầu đồng ý, còn Hắc Lão Ngũ thì nhăn mũi tỏ vẻ không quan tâm.
Thể theo yêu cầu của tôi và Hắc Lão Ngũ, chỉ mình chị Giai Tuệ được phép cùng chúng tôi vào trong điện. Do đó, sau khi tấm cửa điện dần dần đóng, mọi người đều ở lại
bên ngoài.
Phía trong điện Sùng Chính rất rộng, ở giữa điện được dựng bốn hàng cột gỗ lớn sơn đỏ, phải hai người lớn mới ôm trọn thân cột, hầu hết bề mặt của những cột gỗ trong này đều được khắc hoặc vẽ hình rồng bay phượng múa một cách tinh tế. Nhưng vì các cánh cửa đều đã bị đóng chặt thế nên bên trong điện lúc này chỉ còn là một màu tối đen, giống như chúng tôi đang lạc vào rừng lúc nửa đêm.
Chúng tôi phải dùng đến đèn pin chuyên dụng của cảnh sát, dần dần mò đến ngai vàng nơi đặt chiếc khóa Song Long, ở đấy chúng tôi có thể nhìn thấy trên miếng gỗ bách cổ thụ có rất nhiều vết tích trên bề mặt, để lộ ra chiếc khóa Song Long nằm phía dưới.
Đó là một miếng kim loại màu đen vuông vức, dày dặn, mỗi cạnh dài khoảng một mét rưỡi, trên bề mặt hầu như không tìm thấy vết tích hoen gỉ, trên đó có khắc một đôi rồng đang uốn vờn nhau, phần đầu rồng nhô lên khỏi bề mặt vài phân, miệng rồng há to, cùng tranh nhau một viên ngọc tròn màu xanh biếc đặt ở giữa. Qua ánh sáng phản chiếu của chiếc đèn pin, viên ngọc vừa tròn vừa sáng, ánh lên trong suốt như pha lê.
Hắc Lão Ngũ liền hạ túi đồ nghề, rồi quỳ xuống bên cạnh, hai bàn tay xoa xoa lên mặt khóa, dùng ngón trỏ gõ gõ xuống bề mặt kim loại, rồi nói:
- Mấy thằng chuyên gia khảo cổ có mắt như mù, nói năng nhảm nhí, rõ ràng đây là một hợp kim hiếm có mà lại đi bảo là gang với thép gì đó. Mẹ kiếp! Độ cứng của nó thì miễn bàn, lại liền thành một khối với bên dưới, thế này thì đến bom mìn cũng không thể làm gì được. - Lão lại xoa tay sang viên ngọc trân châu, đôi mắt sáng bừng lên, nở một nụ cười rồi nói. - Ha ha, không tồi, quả là không tồi, của quý này là ngọc Lam Điền hiếm có, nếu bán đi thì sẽ được không biết bao nhiêu là tiền.
Lão cứ thế mân mê một hồi lâu, rồi mới quay sang tôi gật gật đầu tỏ ý để tôi tới tìm hiểu nhưng vẫn tiếc rẻ không nỡ rời.
Chị Giai Tuệ đứng bên cầm đèn pin soi cho tôi quỳ xuống quan sát kỹ từng chi tiết của chiếc khóa, tôi phát hiện ra tấm hợp kim này thực chất được nối liền một khối với bên dưới, thế nhưng ngoài bốn đường biên ra, không tìm thấy bất kì vết nứt nào, có thể là nó được đúc theo khối, xem ra chìa khóa mở chiếc khóa này vẫn chính là cặp rồng vờn viên ngọc trân châu kia.
Tôi quỳ hẳn hai gối xuống, với chiếc kim móc ra, vừa không ngừng cào lên thân con rồng vừa áp sát tai xuống mặt sàn lắng nghe âm thanh phát ra, nhưng vẫn không phát hiện ra dấu hiệu gì, càng không nghe thấy âm thanh của bánh răng cưa hay cỗ máy nào
đang hoạt động bên dưới.
Tôi vẫn thấy nghi ngờ, nên lấy chiếc kim dài chọc mạnh để thăm dò. Xung quanh thân rồng không thấy dấu vết của một chiếc nút ấn nào, miệng rồng lại rỗng, hàm trên và hàm dưới chỉ có hai chiếc răng nanh, phía sâu trong họng liền thành một khối, tôi không tìm thấy bất cứ dấu hiệu của lỗ khóa ở đâu. Quay sang miết viên ngọc, nó cũng được khảm kín trong bề mặt kim loại, quan sát đường viền nối giữa viên ngọc và bề mặt tấm kim loại cũng không có dấu hiệu gì khác thường.
Thấy tôi nghiền ngẫm một hồi, chị Giai Tuệ cũng thò đầu tới, hỏi nhỏ tôi xem có phải đã tìm ra manh mối gì không.
Tôi lắc đầu:
- Giờ chưa nói lên điều gì, để em thử dùng kính chuyên dụng xem sao! - Nói rồi tôi lôi chiếc kính lúp chuyên dụng ra đeo vào mắt trái, tì hẳn người sát xuống bề mặt chiếc khóa Song Long, vừa dùng mũi kim cào lên bề mặt vừa thám thính âm thanh phát ra.
Dần dần, tôi cũng đã phát hiện ra vị trí của bộ phận then chốt. Thì ra, phần đầu nhọn của cả bốn chiếc răng nanh đều có một lỗ rất nhỏ, có thể nhét vừa một sợi tóc. Vị trí của bốn chiếc lỗ này cũng hết sức kỳ quặc, nếu như tôi đoán không lầm thì đây chính là mắt khóa.
Tôi ngồi dậy nói những phát hiện của mình với Hắc Lão Ngũ, lão hồ nghi bước tới xác minh rồi nói:
- Không khéo đấy chính là mắt khóa thật, Lan Lan, mi thử xem.
Tôi gật đầu, rồi vòng tay rút chiếc dây buộc tóc trên đầu xuống. Mượn chiếc bật lửa của chị Giai Tuệ, Tôi hơ qua sợi thun vài lần, khiến lớp cao su bọc ở bên ngoài chảy ra, để lộ một sợi dây kim loại mỏng màu bạc ở trong lõi.
Sợi dây thun này từ nhỏ ông nội đã đưa để tôi buộc tóc, còn dặn đi dặn lại không được làm mất nó. Lúc đó tôi còn cảm thấy không thoải mái, không biết vì sao mà ông nội lại coi sợi dây thun này quan trọng như thế. Về sau này, khi ông nội truyền lại bí quyết, mới nói cho tôi biết sự quan trọng của nó, lõi dây thun là một sợi kim loại đặc biệt, là một vật dụng, chuyên dùng để mở những mắt khóa vô cùng nhỏ.
Sợi kim loại này trông thì rất ngắn, thực ra nó được luyện từ một loại kim loại đặc biệt trên núi Phượng Hoàng kết hợp với những loại hợp kim khác, là kim loại nhưng nó lại có
thể kéo dài ra gấp chục lần, cộng thêm khả năng chịu nhiệt vô cùng tốt, luôn giữ được độ dẻo dai và độ cứng, nên được coi là một trong những bảo bối của tổ tiên dòng họ Sở thuộc Bắc phái.
Tôi đặt sợi kim loại vào giữa lòng bàn tay, vê hai lòng bàn tay vào nhau, rồi giữ chặt hai đầu sợi dây, kéo mạnh về hai phía, sợi dây bị kéo dài khoảng sáu mươi centimet. Mặc dù nó đã bị kéo dài ra rất nhiều, giờ trở nên mỏng và dai như sợi tơ nhện thế nhưng vẫn giữ được độ dẻo dai như cũ.
Tôi cẩn thận nhét sợi dây vào lỗ trên đầu một chiếc răng nanh, hai tay từ từ luồn sợi dây sâu vào trong, cho đến khi ngập sợi dây, nhưng tôi vẫn chưa có cảm giác chạm vào đáy, mà vẫn chỉ như một khoảng không, thật không thể tưởng tượng nổi cuối cùng cái lỗ này có độ dài là bao nhiêu.
- Thế nào rồi? - Hắc Lão Ngũ cũng thấy hơi sốt ruột quỳ xuống bên cạnh hỏi. Tôi lắc đầu:
- Không được rồi, sợi dây này ngắn quá, tới giờ vẫn chưa chạm tới đáy.
Tôi rút sợi dây ra, thử với ba lỗ còn lại, nhưng đều cho kết quả giống nhau, không tìm ra được bất kì cơ chế hoạt động nào.
Nhìn thấy tôi thẫn thờ ngồi xuống, Hắc Lão Ngũ mới tặc lưỡi, vô vỗ vào đầu tôi rồi nói:
- Con nhỏ này, mi không nhớ con nhỏ Giai Tuệ đã nói gì sao? Ông nội mi đã dùng bông và gạc để mở. Vậy thì hãy động não suy nghĩ chút đi, có phải khi Lão Sở tìm ra cánh cửa, có phải dùng đến những thứ đó không?
Câu nói gợi ý này của Hắc Lão Ngũ giống như tia lửa điện vụt qua đầu tôi khiến đầu óc đang mơ hồ của tôi lập tức nghĩ ra nguyên do của vấn đề.
Để kiểm nghiệm tính chính xác những suy đoán này, tôi đã thử dùng hai ngón tay trỏ và ngón giữa của bàn tay, lần lượt đưa vào miệng của hai con rồng, chầm chậm đưa vào tận cuống họng. Đầu ngón tay vừa chạm đến điểm cuối của cuống họng, tôi đã cảm thấy tám chiếc răng của hai con rồng sắc nhọn như cắn cắn chặt vào bốn ngón tay, chỉ cần mạnh thêm chút nữa là hoàn toàn có thể khiến ngón tay tôi bị chảy máu.
Trong lòng tôi bỗng hơi lo lắng vì cảm thấy chút nguy hiểm, từ từ rút ngón tay ra,
quay sang Hắc Lão Ngũ và chị Giai Tuệ:
- Xem ra cháu đoán không sai, đây có lẽ chính là chiếc khóa Song Long hút máu.
- Là cái trò gì? Là cái gì máu? - Hắc Lão Ngũ nghe chưa rõ câu nói của tôi, nên quay sang hỏi dồn dập. Chị Giai Tuệ vì cũng chưa hiểu vấn đề nên cũng ngẩn người nhìn tôi đầy lo lắng.
Tôi quay xuống nhìn tấm kim loại, rút bàn tay ra rồi xoa lên viên ngọc trân châu, lập tức một cảm giác trơn nhẵn và mát lạnh lạ thường ập đến. Tôi càng khẳng định những suy luận của mình là đúng, nên đã giải thích cho hai người về lịch sử chiếc khóa Song Long hút máu này.
Từ xưa đến nay, kẻ mở khóa và người chế tạo khóa luôn là kẻ thù không đợi trời chung với nhau, hàng nghìn năm nay họ luôn đối đầu nhau, tranh đấu với nhau và ra sức tìm cách hạ đối thủ của mình. Mỗi chiếc khóa dù kỳ quái hay hóc búa đến đâu, sau khi được chế tạo, đều bị những kẻ mở khóa mày mò tìm được cách mở chúng. Trong suốt quá trình đối đầu và tranh giành nhau, đã khiến cho kỹ thuật của mỗi bên càng ngày càng được nâng cao, tuy trong mỗi cuộc so tài đều có kẻ thắng người thua, thế nhưng tóm lại, họ đều ngang tài ngang sức.
Còn nhớ, ngày trước ông nội cũng có kể với tôi, vào cuối thời Nam triều có một người chế tạo khóa rất tài giỏi sau một lần bị thua, đã cay cú ôm hận quyết trả thù, sau nhiều năm nghiên cứu và thử nghiệm, cuối cùng ông đã chế tạo thành công một loại khóa hút máu rất kỳ quái, chuyên dùng để đối phó với những người mở khóa trong phái Kiện môn.
Điều đặc biệt của loại huyết khóa này là ở lõi khóa. Những loại khóa bình thường khác lõi khóa đều được chế tạo bằng kim loại, thế nhưng lõi khóa của loại khóa này được làm trực tiếp từ Mặc tinh[1] hoặc ngọc trân châu hút máu hiếm có trong tự nhiên. Hai thứ này cực kỳ đặc biệt, chúng không chỉ có độ cứng tuyệt đối mà còn có tính ham hút máu. Người chế tạo khóa đã lấy tính năng này để dùng chúng làm lõi khóa, lợi dụng lực sinh ra từ nguyên lí đòn bẩy, người mở khóa chỉ cần chạm tay vào phá khóa là sẽ lập tức bị cắn mạnh vào tay và bị hút máu.
[1] Một loài động vật chuyên sống dưới đáy biển, theo truyền thuyết nó có thể biến thành tinh.
Hồi đó, khi loại khóa này vừa ra đời, đã có rất nhiều người mở khóa không hiểu được nguyên lí này mà phải bỏ mạng, còn người chế tạo ra khóa này cũng nhờ nó mà nổi danh trong thiên hạ. Áp dụng nguyên lí của loại khóa này, những thợ chế tạo khóa sau này đã phát huy và sáng chế ra nhiều loại khóa với hình thù đa dạng và phong phú hơn, nhưng cho dù ứng dụng ở dạng khóa nào thì chúng đều được gọi là khóa hút máu.
Muốn mở được chiếc khóa này, người mở khóa phải hi sinh một lượng máu của bản
"""