"
Thị Trường, Nhà Nước Và Người Dân: Kinh Tế Học Về Chính Sách Công
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thị Trường, Nhà Nước Và Người Dân: Kinh Tế Học Về Chính Sách Công
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm n i dung
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH TRẦN THỊ THANH PHIỆT HOÀNG NGỌC ĐIỆP
NGUYỄN VIỆT HÀ
ĐƯỜNG HỒNG MAI NGUYỄN THU THẢO TRẦN THỊ THANH PHIỆT HOÀNG NGỌC ĐIỆP
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU
_______________________________________________
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2650-2022/CXBIPH/23-106/CTQG. Số quyết định xuất bản: 1553-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/8/2022. Nộp lưu chiểu: tháng 8 năm 2022.
Mã ISBN: 978-604-57-7951-4.
4 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Markets, State, and People: Economics for Public Policy Copyright ©2020 by Princeton University Press
All rights reserved. No part of this book may be reproduced or transmitted in any form or by any means, electronic or mechanical, including photocopying, recording or by any information storage and retrieval system, without permission in writing from the Publisher
Thị trường, Nhà nước và người dân: Kinh tế học về chính sách công
Cuốn sách được xuất bản theo hợp đồng bản quyền giữa
Princeton University Press và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Bản quyền tiếng Việt © Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
Đã đăng ký bản quyền. Không phần nào trong cuốn sách này được sao chép hoặc chuyển sang bất cứ dạng thức hoặc phương tiện nào, dù là điện tử hay cơ học, bao gồm sao chép, ghi âm hay bất cứ hệ thống phục hồi và lưu trữ thông tin nào nếu không có sự cho phép bằng văn bản của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Nhà nước, thị trường và xã hội là một trong các mối quan hệ lớn, cơ bản ở nước ta, đòi hỏi phải giải quyết hài hòa trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Việc nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ này có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh, bền vững. Trong quá trình ấy, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay, cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cần nghiên cứu một cách có hệ thống, nhận diện rõ mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, tạo cơ sở khoa học cho những giải pháp xử lý hài hòa, đồng bộ, phát huy được những mặt tích cực của mối quan hệ này và phòng, tránh được những hệ lụy tiêu cực phái sinh.
Để giúp bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo về những vấn đề trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Thị trường, nhà nước và người dân: Kinh tế học về chính sách công của tác giả Diane Coyle. Cuốn sách được dịch từ nguyên bản tiếng Anh có tựa đề Markets, State, and People: Economics for Public Policy do Princeton University Press ấn hành năm 2020.
Nội dung cuốn sách đề cập đến các vấn đề: nhà nước và thị trường, xem xét vai trò tương đối của chính phủ, khu vực tư nhân và thị trường trong nền kinh tế; cách thức mà các chính sách làm cho thị trường hoạt động hiệu quả; vai trò của chính phủ trong sản xuất; nghiên cứu các loại hình khác của thể chế kinh tế để tổ chức hành động tập thể; các chính sách hành vi với lập luận là con người không phải lúc nào cũng hành động như những người
6 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
tối đa hóa tư lợi, tối đa hóa lý trí; mô tả những thách thức chính sách mà các chính phủ tự đặt ra: giảm nghèo và hạn chế bất bình đẳng; vai trò của nhà nước và thị trường trong trật tự của nền kinh tế từ góc độ thất bại của chính phủ; đưa ra bằng chứng và các chính sách kinh tế...
Mặc dù các dịch giả, người hiệu đính và biên tập viên đã hết sức cố gắng để truyền tải ý nghĩa của các thuật ngữ chuyên ngành và nội dung của cuốn sách sao cho sát với bản gốc nhưng khó tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót trong quá trình biên dịch và biên tập. Nhà xuất bản mong nhận được ý kiến đóng góp của độc giả để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản sau.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 11 năm 2021
NHj XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
MỤC LỤC
Lời nói đầu 10 Chương 1. Nhà nước và thị trường 13 Chương 2. Làm cho thị trường hoạt động: điều tiết và
cạnh tranh 72 Chương 3. Vai trò của chính phủ trong sản xuất 144 Chương 4. Lựa chọn tập thể 198 Chương 5. Các chính sách hành vi 249 Chương 6. Nghèo đói, bất bình đẳng và vai trò của nhà nước 290 Chương 7. Sự thất bại của chính phủ 362 Chương 8. Bằng chứng và các chính sách kinh tế 418 Lời cảm ơn 471 Phụ lục: Thặng dư của người tiêu dùng và sẵn sàng chi
trả/ Sẵn sàng chấp nhận 473 Các thuật ngữ chuyên ngành 477
8 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế học có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của chúng ta, phần lớn là vì nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc định hình các quyết định của chính phủ, và những quyết định này ảnh hưởng đến mọi hoạt động của con người. Sức mạnh ngày càng tăng của tư duy kinh tế phản ánh sự gia tăng số lượng các nhà kinh tế học được các chính phủ và các cơ quan công quyền sử
dụng trong những năm gần đây. Nhiều, mà có lẽ là hầu hết các quyết định chính sách hợp lý dựa trên các điều kiện kinh tế. Liệu có nên để nhiều tác động của chính phủ đến cuộc sống của chúng ta hay không là một vấn đề tranh luận, và chia ra nhiều trường phái chưa từng thấy. Tuy nhiên, một trong những điểm tôi đưa ra trong cuốn sách này là bất kỳ quyết định nào của các cá nhân đều ảnh hưởng đến người khác vì chúng ta sống trong cộng đồng và xã hội. Vì vậy, ngay cả những người ủng hộ trường phái “Ít” chính phủ hơn cần phải xem xét các quyết định lựa chọn được đưa ra như thế nào. Theo truyền thống, thị trường thể hiện như một phương án thay thế: nhà nước hoặc thị trường chứng minh cách tốt nhất tổ chức các hoạt động kinh tế hoặc một tập hợp các lựa chọn. Nhưng đây là một suy nghĩ sai lầm về cách xã hội sử dụng tổ hợp các nguồn lực có sẵn để đạt được kết quả tốt nhất có thể cho các thành viên. Ở mỗi quốc gia và cộng đồng, sự kết hợp của thị trường tư nhân, hoạt động của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ quyết định đến kết quả kinh tế. Các chính sách công tốt nhận ra rằng,
10 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
đôi khi các mô hình thay thế và hỗ trợ lẫn nhau. Các quy định là cơ sở cần thiết cho các thị trường hoạt động. Các chuẩn mực xã hội mạnh mẽ có thể làm cho các quy định trở nên không cần thiết và thị trường hoạt động tốt hơn. Tương tự, các quy định có thể làm cho chính sách hiệu quả hơn - ví dụ, một khoản thuế nhỏ đánh vào túi nilon và một quy định về hạn chế hút thuốc ở
nơi công cộng đã chứng tỏ những biện pháp can thiệp chính sách mạnh mẽ vì chúng hoạt động trong bối cảnh các chuẩn mực xã hội thay đổi. Hơn nữa, thị trường và chính phủ thường “thất bại” trong những hoàn cảnh giống hệt nhau, vì những lựa chọn cơ bản là khó khăn. Thị trường, chính phủ và các chuẩn mực hoặc sở thích xã hội là các yếu tố chúng ta lựa chọn cho các mô hình tổ chức xã hội khác nhau.
Một yếu tố quan trọng khác về sự khôn ngoan của chính sách công là nhận ra rằng, chính sách “tốt nhất” không hoàn toàn là các quyết định mang tính kỹ thuật, vì chúng liên quan đến các giá trị và các cân nhắc về đạo đức. Điều này bao gồm sự lựa chọn xã hội về phương tiện lựa chọn “tốt nhất”, vì sự
xung đột lợi ích là không thể tránh khỏi trong tất cả nền kinh tế. Các nhà kinh tế học cố gắng đưa ra lời khuyên dựa trên bằng chứng và khách quan nhất có thể nhưng không nên tuyên bố quá mức. Một phần lý do của những cuộc đối đầu chính trị mà chúng ta đang thấy ở nhiều nước phương Tây là sự tức giận dồn nén về những khẳng định lặp đi lặp lại rằng phán quyết của “các chuyên gia” phải lấn át mọi thứ khác. Các chuyên gia hiểu rõ hơn về nhiều thứ so với một công dân bình thường, hoặc thậm chí là một chính trị gia bình thường, nhưng có những đánh đổi về giá trị cũng như lợi ích kinh tế. Có một truyền thống lâu đời trong kinh tế học là tranh luận về “phúc lợi xã hội” và các lựa chọn xã hội, có vẻ như lắng dần trong thời gian gần đây lại đang có dấu hiệu hồi sinh.
Lūi nói đĵu • 11
Điểm thứ ba tôi nhấn mạnh ở đây là vấn đề lịch sử và địa lý. Ý tưởng cũng vậy. Ngay cả khi các chính sách hoặc phương pháp tiếp cận đồng thuận phải đúng đắn hoặc có thể xác định rõ ràng; thực trạng thay đổi. Nền kinh tế thay đổi đặc tính của nó theo thời gian, thị hiếu và sở thích thay đổi, khủng hoảng xảy ra, - tất cả điều đó có nghĩa là có những sự khác biệt lớn giữa lựa chọn chính sách khác nhau ở các nước khác nhau và tại các thời điểm khác nhau. Có một sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự kiện, ý tưởng kinh tế, và cách tiếp cận chính sách, đặc biệt khi có những thay đổi quan trọng. Cuộc đại suy thoái là một ví dụ về cuộc khủng hoảng đã làm thay đổi sâu sắc tư duy kinh tế và kết quả chính trị, và cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 cũng có ý nghĩa quyết định tương tự. Sự thay đổi công nghệ có ảnh hưởng tương tự, và ảnh hưởng liên tục của công nghệ số cũng sẽ chứng minh sự thay đổi cách ra quyết định đã và sẽ thực hiện trong tương lai.
Một cuốn sách kinh tế học về chính sách công bao phủ nhiều vùng rộng lớn. Cuốn sách này có thể bỏ sót nhiều, gồm một vài chính sách mà các sách truyền thống đã đề cập, như các chính sách vĩ mô hay cơ sở lý luận lớn về thuế. Cuốn sách này tập trung vào kinh tế vi mô ứng dụng. Đây không phải là sách kỹ thuật cho nên mọi người không học về kinh tế đều có thể sử dụng, họ có thể bỏ qua các phương trình, nhưng cuốn sách cũng mang lại cho những người đang hoặc đã từng là sinh viên kinh tế với một góc nhìn rộng hơn là những gì họ đã được học về các vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách đối mặt. Mỗi chương đều có những gợi ý để bạn đọc có thể đọc thêm, gồm cả các tài liệu chuyên môn khác. Các ví dụ rút ra từ nhiều quốc gia khác nhau, mặc dù chủ yếu là từ các nền kinh tế phát triển, vì các nền kinh tế đang phát triển có những đặc điểm và thách thức riêng. Tôi là một nhà kinh tế
12 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
học người Anh và nhà hoạch định chính sách, nên những thảo luận về sự suy thoái lịch sử và phương pháp tiếp cận chính sách tập trung vào Vương quốc Anh.
Bốn chương đầu tiên trình bày về cách xã hội tổ chức sử dụng nguồn lực. Chương 1 trình bày về kinh tế học cơ bản, gồm cách tiếp cận của các nhà kinh tế học đối với phúc lợi xã hội, hoặc có nghĩa là cách để đạt được kết quả kinh tế tốt hơn. Chương 2, 3 và 4 xem xét hoạt động của thị trường; sự lựa chọn về thời điểm để nhà nước tham gia trực tiếp vào sản xuất kinh tế hoặc điều tiết thị trường, nơi mà khó xảy ra cạnh tranh; và các trường hợp khi tổ chức hoạt động kinh tế phi thị trường và phi nhà nước.
Các Chương còn lại của cuốn sách đánh giá các thách thức chính hiện tại khi hoạch định chính sách. Một là, Chương 5 thảo luận thách thức, khám phá về kinh tế học hành vi đặt ra đối với cách mà các nhà kinh tế học cần suy nghĩ khi phân tích chính sách. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu sôi nổi với nhiều câu hỏi chưa được giải đáp. Hai là, Chương 6 phân tích vấn đề cấp bách về thực trạng nghèo đói ở các nước giàu, mối đe dọa đối với việc làm của tầng lớp trung lưu và sự bất mãn do bất bình đẳng ngày càng tăng. Những vấn đề này là kết quả của thay đổi công nghệ, toàn cầu hóa và các lựa chọn chính sách; giúp giải thích cho thời kỳ hỗn loạn chính trị hiện nay ở
phương Tây. Chương 7 chỉ ra một thách thức lâu dài là sự thất bại phổ biến của chính quyền - các quyết định ban đầu với những hiệu quả không có chủ đích hoặc phản tác dụng là một điều không đổi trong chính sách công. Chương cuối cùng xem xét vai trò của bằng chứng trong việc định hướng các chính sách kinh tế: cách sử dụng trong thực tiễn, cách nên được sử dụng và những hạn chế.
CHƯƠNG 1
Nhà nước và thị trường
Chương này đặt trong bối cảnh xem xét một trong những vấn đề cơ bản trong kinh tế học về chính sách công: vai trò tương đối của chính phủ và khu vực tư nhân, hoặc thị trường, trong nền kinh tế là gì? Lý thuyết kinh tế cung cấp một số công cụ
để phân tích câu hỏi trên, vì vậy Chương này đưa ra khái niệm cơ bản về kinh tế học phúc lợi - nói cách khác, phân tích hiệu quả kinh tế và các tiêu chí để đánh giá rằng liệu có phải cái gì đó làm cho xã hội tốt hơn hay không (Những độc giả đã tham gia các khóa học về kinh tế học vi mô trước đây sẽ quen thuộc với điều này). Lý thuyết này, hiểu theo nghĩa đen, ngụ ý rằng thị trường cạnh tranh sẽ mang lại phúc lợi xã hội cao nhất; nhưng có hai cạm bẫy khi có một quan điểm quá đơn giản về lý thuyết kinh tế, vì nó dựa trên một số giả định mạnh mẽ. Một cạm bẫy kết luận rằng, có càng nhiều thị
trường thì càng tốt, trên thực tế, có rất nhiều “thất bại thị trường”. Ngược lại, có kết luận rằng, chính phủ có thể tìm cách sửa chữa mọi thất bại của thị trường; vì sự thất bại của chính phủ đang lan rộng. Trên thực tế, các nhà kinh tế thực hành sử dụng lý thuyết này như một cơ sở lý luận để phân tích các vấn đề chính sách hơn là một sự hướng dẫn để giải quyết chúng. Bên cạnh đó, khi đưa ra sự lựa chọn chính
14 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
sách, nếu chỉ phân tích khía cạnh kinh tế thôi thì chưa đủ cũng như sẽ là thiếu sót nếu không có một cuộc tranh luận chính sách thường gặp về vai trò thích hợp của nhà nước và thị trường. Vì vậy, Chương này cũng thảo luận về cách mà các sự kiện lịch sử hay chính trị và tư duy kinh tế ảnh hưởng lẫn nhau, giúp giải thích sự khác nhau trong các biện pháp can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế theo thời gian và giữa các quốc gia. Chương này kết luận bằng cách xem xét ví dụ về dạng thất bại cụ thể của thị trường: ngoại tác và hàng hóa công cộng.
%
Hình 1.1. Tổng chi tiêu của chính phủ,
bao gồm lãi suất tính theo phần trăm GDP
Nguồn: Dữ liệu Ban tài chính IMF, dựa trên biểu đồ tại https://ourworldindata.org/public-spending.
Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế bằng nhiều cách. Ví dụ, chi tiêu chính phủ chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 15
quốc dân ở tất cả các nền kinh tế phát triển, từ 28,7% (Ireland) đến 57% (Phần Lan) vào năm 2015, và quy mô chi tiêu này so với nền kinh tế đã có xu hướng tăng lên theo thời gian, cũng như tăng và giảm theo chu kỳ kinh doanh (Hình 1.1). Chi tiêu dành cho nhiều dịch vụ: quốc phòng, hệ
thống luật pháp, cảnh sát, giáo dục, y tế, hưu trí, dịch vụ chính quyền địa phương, đường sá và kết cấu hạ tầng, lương hưu, phúc lợi an sinh xã hội, trợ cấp cho các hoạt động hoặc ngành nghề nhất định, và những thứ khác nữa. Hầu hết các nguồn thu được tăng lên (mặc dù đôi khi ít hơn, vì thâm hụt ngân sách là vấn đề bình thường) thông qua một loạt các loại thuế, giấy phép và lệ phí. Tất cả những cách này đều ảnh hưởng đến sự lựa chọn của các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp vì chúng ảnh hưởng đến động lực của người dân. Một số phương pháp đánh thuế và chi tiêu nhằm mục đích phân phối lại tiền từ người giàu sang người nghèo. Sự
vượt chi so với thu được trả bằng tiền đi vay trên thị trường tài chính, và khoản vay này của chính phủ có thể ảnh hưởng đến lãi suất mà khu vực tư nhân đi vay phải trả cho các khoản vay của họ.
Tuy nhiên nếu chỉ tập trung vào việc đánh thuế và chi tiêu của chính phủ sẽ bỏ lỡ một phần rất lớn sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Chính phủ ban hành và thực thi các luật và chi phối cách vận hành các công ty kinh doanh và cách bảo vệ người tiêu dùng. Chính sách cạnh tranh nhằm ngăn chặn các doanh nghiệp phát triển quá mạnh gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc các cơ
quan quản lý. Luật lao động nhằm bảo vệ người lao động khỏi bị bóc lột hoặc phân biệt đối xử. Các cơ quan chính phủ
16 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn. Các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau phải có giấy phép hoạt động, vì lợi ích của việc bảo vệ người tiêu dùng. Do đó chính phủ tác động đến thời gian và cách thức làm việc của mọi người, cách doanh nghiệp tuyển dụng, những thứ
chúng ta có thể mua, giá chúng ta phải trả, cách sản xuất hàng hóa, những thông tin nào phải được các cơ quan chức năng giải quyết, và hơn thế nữa. Hộp 1.1 liệt kê nhiều cách chính phủ tác động đến nền kinh tế. Không dễ dàng để đo lường phạm vi của tất cả các cách can thiệp này, hoặc so sánh giữa các quốc gia, ví dụ như độ dài của cuốn các quy tắc về các dịch vụ tài chính hay mã số thuế ở nhiều quốc gia đang tăng đều đặn. Trong mọi trường hợp, chính phủ
đều can thiệp sâu vào nền kinh tế.
Đôi khi các chính sách kinh tế dường như là khó lường, và người dân thường phản ứng theo cách không lường trước được hành động cụ thể của chính phủ. Thuế cao chưa bao giờ là phổ biến và trong quá khứ đã cao hơn nhiều so với bây giờ. Năm 1966, mức thuế thu nhập cao nhất (cận biên) là 91% ở Hoa Kỳ và 98% ở Vương quốc Anh. Không có gì ngạc nhiên khi ban nhạc The Beatles viết bài hát “Taxman” (trong album Re-volver) phàn nàn về gánh nặng thuế. Björn Ulvaeus, ngôi sao nhạc pop của nhóm nhạc Thụy Điển ABBA đã tiết lộ (trong cuốn sách năm 2014) rằng, họ mặc trang phục biểu diễn thái quá như thế vì chi phí quần áo của họ là trang phục không thể mặc trong cuộc sống hàng ngày bị áp thuế. “Theo quan điểm của tôi, chúng tôi trông giống như những kẻ dở hơi trong những năm đó. Không ai có thể ăn mặc xấu trên sân khấu như thế”.
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 17
Các doanh nghiệp liên tục phàn nàn về gánh nặng quy định, cũng không ngừng kêu gọi chính phủ đầu tư nhiều hơn vào nghiên cứu hoặc đầu tư kết cấu hạ tầng như cầu đường hoặc hỗ trợ các sản phẩm sáng chế. Đôi khi chính sách hoàn toàn phản tác dụng trong khi các chính sách khác lại có hiệu quả đáng kinh ngạc, xem Hộp 1.2.
Hộp 1.1. Ví dụ về phạm vi can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế
Chi tiêu cho các dịch vụ như sức khỏe, giáo dục, nhà cửa, quân đội, cảnh sát, xử lý rác thải, chiếu sáng công cộng, công viên, dịch vụ xã hội, đường sá, tư pháp, nhà tù và hơn thế nữa; Đánh thuế/cấp phép - nhiều loại thuế, phí, đấu giá;
Trợ cấp và ưu đãi thuế cho các hoạt động cụ thể;
“Phúc lợi nhà nước” - phúc lợi, trợ cấp tuổi già, phân phối lại thu nhập;
Quy định - về nhiều hoạt động;
Chính sách cạnh tranh - kiểm soát sáp nhập, điều tra thị trường, chống độc quyền;
Sở hữu công và tư nhân hóa các tập đoàn nhà nước, ký hợp đồng bên ngoài về các hoạt động công, các sáng kiến tài chính tư nhân;
Định hướng thị trường - khung pháp lý, quy tắc tiếp quản, luật sở hữu trí tuệ;
Cấp bằng sáng chế, bản quyền;
Thiết lập tiêu chuẩn kỹ thuật;
Thuyết phục và “kiến trúc lựa chọn” - chiến lược thông tin sức khỏe y tế công;
Đầu tư (kết cấu hạ tầng, nghiên cứu).
18 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Hộp 1.2. Những thất bại và thành công của chính sách
Chương trình “Cash for Clunkers” được giới thiệu ở Hoa Kỳ vào năm 2008, nhằm mục đích tăng doanh thu của các nhà sản xuất ôtô đang gặp khó khăn bằng cách khuyến khích người Mỹ kinh doanh ôtô cũ của họ để lấy những mẫu xe ít tác động đến môi trường hơn. 3 tỷ USD đã được chi để trợ cấp với hạn mức tối đa là 4.500 USD cho những người đổi “chiếc xe” của họ để lấy một chiếc ôtô mới tiết kiệm nhiên liệu. Về lý thuyết, chương trình sẽ đạt hai mục tiêu: tăng doanh thu cho các hãng sản xuất ôtô và đóng góp vào việc chống lại biến đổi khí hậu và ô nhiễm bằng cách loại bỏ
dùng xe cũ.
Tuy nhiên, chương trình dẫn đến việc mọi người chuyển sang mua ôtô mới và chuyển sang mua xe rẻ hơn, do tình hình kinh tế yếu kém vào thời điểm đó. Chương trình này đã làm giảm doanh thu của ngành, ước tính vài tỷ đôla so với những gì họ đã có thể có nếu không có chương trình này. Những chiếc xe mới ít gây hại cho môi trường hơn, nhưng vì một chính sách “xanh” Cash for Clunkers đã không hiệu quả về mặt chi phí. Không nghi ngờ gì nữa, đó là một thất bại về chính sách*.
Mặt khác, đánh thuế thấp đối với túi nhựa dường như là một chính sách có hiệu quả cao. Ngay cả khi thuế ở mức thấp, chính sách đã làm giảm đi số lượng túi sử dụng một lần mà người mua sắm sử dụng. Các loại thuế này làm tăng nguồn thu cho chính phủ
theo cách không thể gây tranh cãi. Tại Washington, DC, mức thuế 5 xu đã làm giảm 60% việc sử dụng túi nhựa mang đi mua sắm. Ireland đã áp dụng mức thuế 22 xu (euro) vào năm 2002, gần như loại bỏ việc sử dụng túi nhựa. Phí 5 xu ở Anh làm giảm 85% việc sử dụng túi nhựa và khuyến khích Chính phủ đề xuất tăng mức phí lên 10 xu. Mục đích của các loại phí này là để giảm nguồn chất thải không thể phân hủy này, thường gây hại cho động vật hoang dã và
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 19
chính sách này có hiệu quả cao về vấn đề này. Tuy nhiên, vải bạt thay thế và các loại túi khác cũng có tác động đến môi trường trong quá trình sản xuất và tiêu hủy chúng; có thể có sự đánh đổi giữa các mục tiêu môi trường**.
* Mark Hoekstra, Steven L., Puller, và Jeremy West (2017) “Cash for Corollar: When stimulus Reduces Spending”, American Economic Journal: Applied Economics, no. 3: 1-35.
** The UK’s experience (https://www.gov.uk/government/news/plastic bag-sales-in-big-seven-supermarkets-down-86-since-5p-charge) is similar to Ireland’s (https://dccae.gov.ie/en-ie/environment /topics/waste/litter/plastic bags/Pages/default.aspx) and to us cities such us Washington, DC (https://doee.dc.gov/sites/default/files/dc/sites/ddoe/documents/0%20BL%20 Survey%20Overview%20Fact%20Sheet.pdf).
Trong các khóa học kinh tế công truyền thống, các hoạt động của chính phủ được chia thành ba “nhánh”: ổn định, phân phối và phân bổ. Điều đầu tiên trong số này liên quan đến chính sách kinh tế vĩ mô, hướng tới mức độ việc làm cao và ổn định, tăng trưởng ổn định và lạm phát. Cuốn sách này không đề cập đến sự ổn định kinh tế vĩ mô. Nó cũng không bao gồm nhiều vấn đề quan trọng khác của các khóa học truyền thống, cơ cấu thuế và các nguồn thu thuế, vốn là trọng tâm của phân tích chính sách tài khóa. Thay vào đó, trọng tâm là phân phối và phân bổ: Cái gì được sản xuất, bằng cách nào và bởi ai? Và làm thế nào với những gì được sản xuất ra, phân phối giữa các thành viên khác nhau của xã hội? Do đó, vấn đề cơ bản ở đây là việc sử dụng tập thể và sử dụng tài nguyên của một số lượng lớn các cá nhân trong xã hội - nền kinh tế được tổ chức như thế nào? Kinh tế học đặt ra những câu hỏi về hiệu quả và bình đẳng (hay nói cách khác là công bằng). Các nhà kinh tế thường tập trung vào các
20 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
câu hỏi về hiệu quả, hành động như thể chúng có thể được tách biệt khỏi các phán đoán về phân bổ và công bằng, nhưng trên thực tế không thể đưa ra bất kỳ kết luận chính sách nào mà không đưa ra các đánh giá về giá trị. Hầu như bất kỳ sự
thay đổi chính sách nào cũng tạo ra người thắng và kẻ thua. Do đó, đầu tiên là đặt câu hỏi làm thế nào một xã hội có thể hoặc điều hành sản xuất và tiêu dùng - nền kinh tế - theo cách tốt nhất. Đây có vẻ là một loại câu hỏi thực tế, nhưng ở nhiều quốc gia, là tranh cãi về mặt chính trị. Mọi người có những quan điểm trái ngược nhau tại bất kỳ thời điểm nào và các phương thức tổ chức kinh tế mà xã hội lựa chọn khác nhau theo các tiêu chí khác nhau trong lịch sử và ở các quốc gia khác nhau.
Những hoạt động nào nên được chính phủ điều hành, thị trường điều chỉnh, hoặc theo một số cách khác? (và, ngoài ra, “chính phủ” hoặc “thị trường” có nghĩa là gì, và có những cách khác nào? Những câu hỏi này sẽ được phân tích thêm). Nếu chính phủ can thiệp, cách tốt nhất là để cố gắng đạt được một số kết quả mong muốn về mặt xã hội như sở hữu công cộng, cung cấp dịch vụ công, quy định, thuế, trợ cấp, hoặc một số công cụ chính sách khác? (và liệu kết quả mong muốn có rõ ràng hay còn có những mục tiêu cạnh tranh, thậm chí mâu thuẫn với nhau không?). Cách các nhà kinh tế trả lời những câu hỏi này đã thay đổi đáng kể theo thời gian. Điều này là do xảy ra các sự kiện lớn, chẳng hạn như
khủng hoảng tài chính hoặc chiến tranh, và vì hoạt động chính trị phản ứng với sự kiện. Đó cũng là bởi vì tư duy kinh tế thay đổi, khi các ý tưởng phản ứng với các sự kiện và cũng như các xu hướng chính trị. Việc theo dõi những thay đổi trong tư duy kinh tế là quan trọng, vì lý do thay đổi
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 21
cho thấy một số vấn đề cơ bản trong việc xác định các chính sách công. Nó cũng quan trọng vì thông điệp chính trong cuốn sách này là có nhiều vấn đề chính sách mà kinh tế học không có câu trả lời phù hợp ở mọi thời đại. Câu trả lời đúng cuối cùng là tùy thuộc vào bối cảnh và các lựa chọn chính trị. Đồng thời, sự phân tích kinh tế có thể cung cấp những phân tích và thực nghiệm giúp cho những lựa chọn này phù hợp. Mục đích của kinh tế học về chính sách công là kết hợp tính chặt chẽ của kỹ thuật này với sự nhạy cảm trong bối cảnh cụ thể.
Mục tiêu xã hội
Đánh giá sự thành công và thất bại trong chính sách phải bắt đầu với những mục đích cuối cùng. Xã hội được thúc đẩy bởi các mục tiêu hoặc giá trị khác nhau tại các thời điểm khác nhau. Một số trong số đó, như lòng yêu nước, sức mạnh quốc gia hoặc danh dự, có rất ít liên quan đến kinh tế, và thậm chí có thể gây thiệt hại cho nền kinh tế. Mục đích mà các nhà kinh tế học đóng góp vào sự thảo luận là hiệu quả, bình đẳng hoặc công bằng, và bảo đảm hỗ trợ lẫn nhau trước những bất ổn trong cuộc sống; và có lẽ cả sự gắn kết xã hội hoặc sự tham gia của công dân, và sự tự do.
Những mục đích này có thể xung đột với nhau. Rõ ràng, một số trong số đó không chỉ là những câu hỏi kinh tế mà còn là những câu hỏi về đạo đức. Kinh tế học có xu hướng cho rằng các câu trả lời về các câu hỏi đạo đức hoặc chính trị, đòi hỏi các phán đoán giá trị, phần lớn có thể tách rời các câu trả
lời về các câu hỏi kinh tế kỹ thuật thuần túy. Giả định này không phải lúc nào cũng hợp lý, mặc dù chắc chắn chúng ta
22 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
mong muốn tiến hành phân tích chính sách kinh tế một cách khách quan nhất có thể.
Một sự đánh đổi tiềm năng quan trọng giữa các mục tiêu xã hội, một mục tiêu thường được thảo luận trong kinh tế học, là giữa hiệu quả và công bằng. Nếu chính phủ muốn phân phối lại thu nhập từ người giàu sang người nghèo bằng cách đánh thuế đối với những người giàu, điều này có thể
mang lại một xã hội bình đẳng hơn nhưng có lẽ với cái giá phải trả là không khuyến khích một số người làm việc chăm chỉ, hoặc không khuyến khích đầu tư, và do đó thu hẹp quy mô kinh tế, sản lượng và thu nhập so với những gì đã có. Thuế gây ra sự mất hiệu quả. Nhưng còn nhiều thứ khác ảnh hưởng đến nỗ lực và sản lượng. Vì vậy theo cách khác, có thể
là một xã hội rất bất bình đẳng không khuyến khích nỗ lực làm việc của những người nghèo - tại sao lại bận tâm đến việc làm hiệu quả nếu phần lớn lợi nhuận thu được dành cho người khác? Trong trường hợp này, không có sự đánh đổi đơn giản giữa hiệu quả và công bằng.
Hiệu quả và công bằng là hai lý do chính cho sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế tư nhân (“thị trường”):
• Hiệu quả bất cứ khi nào xảy ra thất bại cá nhân hoặc thất bại thị trường - “thất bại” có nghĩa là các quyết định dưới mức tối ưu do các ngoại tác, độc quyền tự nhiên, hàng hóa công cộng, hoặc đơn giản là những lựa chọn không hợp lý (tất cả được phân tích dưới đây);
• Công bằng bất cứ khi nào có đủ người trong xã hội ưa thích phân phối lại các nguồn lực - phân phối lại hoặc có thể là thanh toán bằng tiền hoặc cung cấp các dịch vụ công, chẳng hạn như giáo dục, y tế hoặc nhà ở.
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 23
Phần lớn các phân tích trong kinh tế học về chính sách công đều đặt câu hỏi trước khi phân tích: Đối với một phân phối thu nhập nhất định, cách hiệu quả nhất để xã hội sử dụng các nguồn lực là gì? Cái gì sẽ mang lại phúc lợi xã hội lớn nhất? Cuốn sách này cũng bắt đầu theo cách tương tự, quay trở lại các câu hỏi về phân phối trong Chương 6. Khung phân tích tương tự cũng đặt ra câu hỏi về hiệu quả của sự can thiệp của chính phủ. Chương 7 tập trung vào sự thất bại của chính phủ. Trong khi có nhiều ví dụ xuyên suốt cuốn sách (cũng như trong cuộc sống) về các chính sách sai lầm của chính phủ đã sai lầm, một trong những chủ đề là có những khó khăn cố hữu trong tổ chức một nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu rộng lớn và mục tiêu xung đột lẫn nhau, và trong một số bối cảnh, cả chính phủ và giải pháp thị trường sẽ “thất bại”. Một chủ đề khác tiếp theo, là sai lầm khi coi “chính phủ” và “thị trường” là lựa chọn thay thế. Xã hội có một loạt các cơ cấu tổ chức bao gồm sự pha trộn giữa các lựa chọn tư nhân và tập thể, lựa chọn tập thể đôi khi được thực hiện bởi các cơ quan thuộc khu vực công “chính thức” và đôi khi được thực hiện bởi thỏa thuận cộng đồng “không chính thức”; Chương 4 phân tích thêm vấn đề này.
Phần còn lại của Chương này bao gồm câu hỏi về vai trò thích hợp của chính phủ và khu vực tư nhân (nhà nước và thị trường) trong nền kinh tế, vấn đề chính trong rất nhiều cuộc tranh luận chính trị về các chính sách kinh tế. Dựa trên một số giả định nhất định, lý thuyết kinh tế biện minh thị trường cạnh tranh là cách “tốt nhất” để tổ chức sản xuất và tiêu dùng. Các phần tiếp theo xem xét “tốt nhất” nghĩa là gì và những giả định nào dẫn đến giả định có lợi cho thị trường. Điều đáng nhấn mạnh ở đây là, mặc dù các nhà kinh tế về
24 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
chính sách công đều có sẵn công cụ lý thuyết này nhưng tất cả đều nhận thức được rằng nó không cung cấp nhiều hơn một hệ thống tổ chức suy nghĩ hữu ích cho họ. Không ai nghĩ rằng, người tiêu dùng và nhà sản xuất hành xử trong thực tế như họ làm trong các mô hình trừu tượng này. Các nhà phê bình trong lĩnh vực kinh tế học thường nhầm tưởng rằng các nhà thực hành vận dụng lý thuyết trừu tượng ở giá trị bề nổi, trong khi kinh tế học về chính sách công trong thực tế bắt nguồn từ thực tế thực nghiệm. Do đó, các phần tiếp theo sẽ giới thiệu những kiến thức cơ bản lý thuyết về cái được gọi (hơi khó hiểu) là kinh tế học phúc lợi.
Hiệu quả
Câu hỏi đầu tiên là tiêu chí để chọn cách tổ chức sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế hơn là chọn một cách khác: Một hoạt động có hiệu quả nghĩa là gì? Giá trị trung bình cụ thể được sử dụng trong kinh tế học được gọi là hiệu quả
Pareto (theo tên nhà kinh tế người Italy Vilfredo Pareto, 1848-1923).
Việc phân bổ các nguồn lực là hiệu quả Pareto nếu không ai có thể trở nên tốt hơn mà không có ai khác trở nên tồi tệ hơn.
Sự cải thiện Pareto là một sự thay đổi làm cho một số người trở nên tốt hơn mà không làm cho bất kỳ ai khác trở nên tồi tệ hơn.
Điều này đòi hỏi một định nghĩa về “tệ hơn” hoặc “tốt hơn”. Tiêu chí được sử dụng là cách đánh giá của cá nhân về phúc lợi của họ. Khi đó, phúc lợi xã hội theo một cách nào đó
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 25
phải là tổng phúc lợi của các cá nhân trong xã hội - một câu hỏi được thảo luận dưới đây. Hiện tại, có vẻ hợp lý khi đồng ý rằng một thay đổi giúp ích cho một ai đó và không gây hại cho ai là một sự cải thiện.
Chú ý rằng, một sự cải thiện Pareto có thể - hoặc không thể - dẫn đến kết quả hiệu quả Pareto; nhưng nếu nền kinh tế đang ở điểm hiệu quả Pareto, sẽ không có khả năng về một sự cải thiện Pareto. Hơn nữa, tiêu chí là bất khả thi về việc phân phối tài nguyên; ngay cả trong một xã hội rất bất bình đẳng, nó vẫn khẳng định rằng việc làm cho một người giàu trở nên tồi tệ hơn không phải là một sự cải thiện ngay cả khi nhiều người nghèo hơn đã khá giả hơn.
Hiệu quả Pareto có liên quan đến các khái niệm chính trong lý thuyết kinh tế vi mô. Phụ lục của Chương này đưa ra một số thông tin cơ bản, được trình bày trong tất cả các sách kinh tế vi mô chuẩn; nó sẽ quen thuộc với bất kỳ ai đã nghiên cứu kinh tế học, và khá bí ẩn đối với bất kỳ ai chưa làm quen với một số lý thuyết kinh tế sai lầm này. Việc các sách khác nhau đưa ra các định nghĩa khác nhau không giúp ích được gì. Ở đây tôi cố gắng làm cho các ý tưởng trực quan nhất có thể.
Hiệu quả Pareto bao gồm các yếu tố sau:
• Hiệu quả sản xuất: Với tài nguyên sẵn có (như đất đai, khoáng sản, lao động hoặc máy móc) và giá cả tương đối của chúng, và với thực trạng công nghệ, sản lượng có cao đến mức có thể không? Nền kinh tế đang vận hành trên đường biên khả năng sản xuất của nó?
• Hiệu quả phân bổ (hoặc tiêu dùng hoặc trao đổi): Với việc sản xuất các hàng hoá khác nhau và giá cả tương
26 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
đối của chúng, hàng hoá được sản xuất ra có thuộc về những người đánh giá chúng nhất không? Những người đang ở trên đường bàng quan cao nhất có thể của họ?
Định nghĩa được sử dụng đôi khi chỉ tập trung vào hiệu quả phân bổ, đôi khi cả phân bổ và năng suất; và đôi khi nó bổ sung thêm yếu tố thứ ba:
• Hiệu quả kết hợp sản phẩm (hoặc sản lượng): Hàng hóa được tạo ra có tương ứng với hàng hóa mà mọi người muốn mua không, hoặc có một sự kết hợp hàng hóa khác được sản xuất với cùng nguồn gốc sẽ làm cho mọi người muốn mua hơn không (đặt họ trên đường bàng quan cao hơn)?
Ba yếu tố trên bao hàm mức độ hiệu quả của nguồn lực chuyển thành sản phẩm, liệu có phù hợp với sở thích của người tiêu dùng, và liệu thông qua trao đổi, chúng có đến tay những người đánh giá chúng nhất không. Nếu bất kỳ
trong ba yếu tố không thỏa mãn, thì ít nhất một người có thể trở nên khá giả hơn (thông qua việc sử dụng các nguồn lực trong sản xuất, kết hợp hàng hóa được sản xuất hoặc trao đổi hàng hóa) mà không làm cho bất kỳ ai khác phải thiệt thòi hơn. Điều này có vẻ trực quan hợp lý như một khái niệm về hiệu quả.
Điều quan trọng cần lưu ý là thuật ngữ này có thể khiến mọi người hiểu nhầm rằng hiệu quả Pareto chỉ là một khái niệm kỹ thuật. Vì vậy, thật khó trả lời những câu hỏi mà chúng ta nghĩ là các vấn đề đạo đức, đặc biệt là việc phân phối các nguồn lực. Điều này đúng trong trường hợp hiệu quả
sản xuất nhưng không hoàn toàn đúng khi nói đến hiệu quả
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 27
phân bổ, trong đó giả định rằng “tốt hơn” có nghĩa là thỏa mãn sở thích của mọi người, bất kể đó là gì (và cũng có thể tăng từ sự thỏa mãn sở thích cá nhân thành phúc lợi xã hội). “Hiệu quả” nghe có vẻ như nó chỉ là những câu hỏi tích cực, những vấn đề thực tế; nhưng hiệu quả Pareto mang tính quy luật, liên quan đến việc đánh giá giá trị trong việc giả định sự thỏa mãn sở thích cá nhân là tiêu chí đúng đắn để đánh giá các kết quả chính sách kinh tế.
Hiệu quả Pareto và thị trường cạnh tranh
Cùng với khái niệm hiệu quả Pareto và một tập hợp các giả định, có thể chứng minh hai định lý cơ bản của kinh tế học phúc lợi.
Định lý đầu tiên phát biểu rằng, nếu tồn tại trạng thái cân bằng thị trường cạnh tranh, thì đó là Pareto hiệu quả. Nếu không, mọi người sẽ có thể thực hiện các cuộc trao đổi làm tăng độ thỏa dụng của họ - vì vậy nó không thể là trạng thái cân bằng khi bắt đầu. Giá cả cạnh tranh đo lường mức tăng (cận biên) về phúc lợi khi tăng thêm một đơn vị hàng hóa. Miễn là có thể trao đổi thị trường, mọi người có thể giao dịch với cách khác cho đến khi tất cả những cải thiện tiềm năng trong phúc lợi của họ đạt được. Định lý này là nền tảng ủng hộ thị trường cạnh tranh như một tiêu chuẩn, mặc dù điều này phụ thuộc vào tính hợp lệ của các giả định, sẽ được thảo luận thêm bên dưới.
Định lý thứ hai nói rằng, với sự phân bổ ban đầu của các nguồn lực tái tạo, sẽ có một tập hợp các mức giá cạnh tranh hỗ trợ kết quả hiệu quả Pareto. Nó ngụ ý rằng, hiệu quả có thể đạt được bằng cơ chế giá trong thị trường cạnh tranh và
28 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
có thể được tách biệt khỏi vấn đề phân phối nguồn lực ưu tiên: trao đổi theo giá thị trường sẽ mang lại kết quả Pareto một cách hiệu quả mà không cần quan tâm đến cách phân phối nguồn lực ưu tiên. Nếu xã hội muốn phân phối lại các nguồn lực ngay từ đầu, thì thị trường cạnh tranh lại có thể
mang lại kết quả hiệu quả Pareto.
Tuy nhiên, các định lý dựa trên một số giả định nhất định; một số rõ ràng, một số khác thì tinh vi hơn (Hộp 1.3). Liệt kê những điều này để thấy rằng, chúng thường không phù hợp với thực tế, và các nhà kinh tế cũng nhận thức được điều này. Ngay cả Paul Samuelson, người đã làm hơn bất cứ ai để đưa lý thuyết vĩ đại được phác thảo ở trên vào cách kinh tế học được học và thực hành, đã nói rõ về điều này: “Điều trên không xảy ra trong cuộc sống thực”. Tuy nhiên, các định lý phúc lợi và ứng dụng hiệu quả Pareto vẫn có tác động mạnh mẽ trong thế giới quan của kinh tế học khi đưa ra một khung khái niệm để suy nghĩ về lý do tại sao, trong bất kỳ bối cảnh thực tế cụ thể nào, sự cạnh tranh và trao đổi thị trường không phải là cách tiếp cận tối đa hóa phúc lợi xã hội. Các định lý tổ chức các ý tưởng hơn là chỉ ra các đề xuất. Bản chất của các biện pháp can thiệp của chính phủ được đánh giá dựa trên mức độ tương ứng của các biện pháp này với cách thực tế khác từ các giả định. Và thậm chí có hy vọng bị giới hạn về tính thực tế của sự cải thiện Pareto trong chính sách công - vì thường có người thắng và kẻ thua - việc đánh giá chính sách công thường được thực hiện trong điều kiện thị trường thất bại cụ thể như là sự rời bỏ hiệu quả của Pareto. Nếu không, các nhà kinh tế sẽ liên tục cần phải đưa ra những đánh giá chính xác về các câu hỏi phân bổ, điều mà có thể hiểu là họ do dự.
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 29
Hộp 1.3. Các giả định cho các định lý phúc lợi
Người tiêu dùng và nhà sản xuất có lý trí và tư lợi;
Họ có sở thích cố định;
Có sự cạnh tranh hoàn hảo với không có nền kinh tế lợi thế theo quy mô và không có rào cản đầu vào (hoặc đầu ra); Các cá nhân có đầy đủ thông tin, và nó là đối xứng (giống nhau) cho tất cả các cá nhân;
Hàng hóa là đối thủ - nếu tôi tiêu thụ hoặc sử dụng nó, thì bạn không thể;
Lợi ích xã hội và tư nhân là bình đẳng;
Chi phí xã hội và tư nhân là bình đẳng;
Có thị trường hoàn hảo (bao gồm thị trường cho các hàng hóa tương lai;
Hàng hóa được sở hữu và có khả năng trao đổi - có quyền tài sản và luật hợp đồng hiệu quả.
Sự khác biệt với các giả định đằng sau các định lý phúc lợi trình bày trong phần còn lại của Chương này và cuốn sách. Tuy nhiên, trước tiên, có một số vấn đề khác liên quan đến các định lý cần giải quyết: vấn đề của thế giới “tốt nhất thứ hai”, các câu hỏi về phân phối và cách tổng hợp phúc lợi cá nhân vào phúc lợi xã hội.
Định lý tốt nhất thứ hai
Một vấn đề là tiêu chí hiệu quả Pareto hữu ích như thế nào khi nền kinh tế không ở trạng thái cân bằng cạnh tranh và có nhiều thất bại thị trường hoặc rời khỏi cạnh tranh và trao đổi tự do. Định lý tốt nhất thứ hai (được Richard
30 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Lipsey và Kelvin Lancaster chứng minh vào năm 1956) cho thấy một sự thay đổi sẽ là một cải thiện Pareto trong một thế giới tốt nhất thứ nhất sẽ hiếm khi xảy ra như vậy trong một thế giới tốt nhất thứ hai. Ví dụ, nếu thuế quan của châu Âu đánh vào hàng nhập khẩu chi phí cao từ Hoa Kỳ được bãi bỏ, làm cho giá mua thấp hơn, nhưng vẫn có thuế đánh vào hàng nhập khẩu từ các nhà sản xuất châu Á có chi phí thấp, thì người châu Âu chuyển sang mua hàng hóa Mỹ được sản xuất với chi phí cao hơn sẽ không tăng phúc lợi xã hội. Một ví dụ khác là một danh sách độc quyền gây ô nhiễm bầu không khí. Kết thúc sự độc quyền - loại bỏ một thị trường thất bại - làm cho một thị trường khác thất bại, tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, tồi tệ hơn bởi vì giá cả sẽ giảm và sản lượng sẽ tăng trong thị trường cạnh tranh hơn.
Định lý tốt nhất thứ hai tạo ra điểm quan trọng rằng, không thể sử dụng phương pháp lựa chọn-và-hỗn hợp (pick and-mix) (hoặc cân bằng một phần) để đánh giá phúc lợi kinh tế - xã hội, khi xem xét các thay đổi chính sách một cách riêng biệt. Ví dụ, thông tin không hoàn hảo thường dẫn đến rủi ro đạo đức (moral hazard) trong thị trường bảo hiểm: nếu tôi có bảo hiểm nhà, thì tôi có thể không quan tâm đầy đủ đến an toàn cháy nổ, với những chủ nhà cẩn thận hơn họ sử dụng gói hỗ trợ bảo hiểm. Một giải pháp có thể là trợ giá thiết bị báo động khói. Tuy nhiên, điều đó khắc phục được một vấn đề ở một thị trường nhưng lại tạo ra sự méo mó ở một thị trường khác, dẫn đến việc sản xuất các thiết bị báo động khói hiệu quả hơn so với đèn xe đạp. Lý tưởng nhất là nên có một chính sách để điều chỉnh sự méo mó đó, nhưng
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 31
việc phân tích trong thế giới thực về mối quan hệ như thế là một thách thức ít được đề cập đến nhất. Sự phức tạp này đã dẫn đến một lý thuyết tốt nhất thứ ba, nói rằng vì các chính phủ không thể có tất cả các bằng chứng thực nghiệm cần thiết để tạo ra các đánh giá cân bằng chung, họ chỉ nên giải quyết các vấn đề mà họ đủ biết.
Một lần nữa, định lý tốt nhất thứ hai là một thực hành chính thức, nhưng một định lý nhấn mạnh trong cuốn sách này, đó là không phải “thị trường” hay “chính phủ” đều là giải pháp cho các vấn đề kinh tế. Định lý tốt nhất thứ hai giải thích tại sao trong bất kỳ bối cảnh nào nơi mà một thứ gì đó khác với hiệu quả Pareto, kết quả thị trường cạnh tranh cho mọi thứ khác không cần phải hiệu quả nhất. Tuy nhiên, nó cũng giải thích tại sao rất nhiều can thiệp chính sách của chính phủ lại gây ra những hậu quả không mong muốn, một dạng chính của “chính phủ thất bại”. Trong cả hai trường hợp, sự thất bại dẫn đến bài học rằng, mọi thứ trong nền kinh tế đều được kết nối với nhau.
Các vấn đề phân phối (Distributional Questions)
Định nghĩa về hiệu quả Pareto đặt các vấn đề về phân phối hoặc công bằng sang một bên. Vì yêu cầu rằng, không ai bị làm tồi tệ đi. Định lý phúc lợi thứ hai chính thức hóa sự tách biệt giữa phân phối và hiệu quả, ngụ ý rằng, nếu phân phối ban đầu là không mong muốn thì xã hội nên thực hiện phân phối lại một lần, và sau đó quá trình thị trường trao đổi tại các mức giá hiện hành sẽ mang lại hiệu quả Pareto. Dẫn đến sự bình luận về nguyên tắc bồi thường (phân tích
32 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
đầu tiên vào năm 1939 bởi John Hicks và Nicholas Kaldor, và sau đó được biết đến là bồi thường Kaldor-Hicks). Nếu một chính sách cụ thể làm cho một ai đó tồi tệ đi, thì liệu người thắng cuộc đơn giản chỉ thanh toán phần bồi thường thích hợp?
Câu trả lời (được Tibor Skitovsky chỉ ra ngay lập tức trên bài báo năm 1941 và một vài bài sau đó) là không, bởi vì phần bồi thường yêu cầu cần được xác định tại các mức giá hiện hành của hàng hóa trong nền kinh tế, và một sự
thay đổi chính sách sẽ thay đổi các mức giá tương đối này. Có phải phần bồi thường được tính tại các mức giá của người thắng hay mức giá của kẻ thua? Tùy thuộc vào lựa chọn, một chính sách và sự đảo ngược của nó giống như cải thiện Pareto. Nó tùy thuộc vào quan điểm bạn chọn. Sự
tranh luận các vấn đề sâu sắc về kinh tế học phúc lợi mang tính lý thuyết tạo ra một chút khác biệt so với các câu hỏi chính sách thực hành, mà thường liên quan đến bồi thường cho kẻ thua - như trả cho hộ gia đình có một đường sắt đặt vào cuối vườn của họ, hoặc trả cho cổ đông tư nhân bị mua hết nếu một công ty được quốc gia hóa. Tuy nhiên, nhấn mạnh rằng lý thuyết là vì tất cả mục đích thực hành một khung tổ chức các khái niệm.
Phúc lợi xã hội
Phúc lợi xã hội cũng có câu hỏi là làm thế nào để tổng hợp từ phúc lợi cá nhân đến xã hội. Có thể tính tổng phúc lợi xã hội bằng cách cộng các tiện ích của từng cá nhân không? Định lý bất khả thi nổi tiếng năm 1951 của Kenneth Arrow đã chứng
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 33
minh rằng không thể tổng hợp sở thích cá nhân vào sở thích xã hội mà không vi phạm một số giả định dường như - hợp lý - bao gồm cả tiêu chí hiệu quả Pareto. Tuy nhiên, phúc lợi xã hội có thể được định nghĩa bằng cách cho phép so sánh giữa các cá nhân về phúc lợi chẳng hạn (Chi tiết trong Phụ lục của Chương này).
Trong trường hợp này, chính phủ, hoặc các nhà kinh tế của họ, có thể xác định một hàm phúc lợi xã hội kết hợp các đánh giá giá trị cụ thể về sự phân phối. Một cách đơn giản sẽ là thuyết vị lợi cơ bản, tổng số độ thỏa dụng riêng lẻ. Mục đích là tối đa hóa tổng các độ thỏa dụng riêng lẻ; miễn là có đủ số người thắng, hoặc thắng đủ lớn, thì việc thua lỗ đối với các cá nhân khác là có thể chấp nhận được. Như ông Spock đã nói, hy sinh mạng sống của mình cho người khác trong Star Trek II: The Wrath of Khan, “Nhu cầu của nhiều người lớn hơn nhu cầu của số ít. Hoặc nhu cầu của một người”. Các lựa chọn khác sẽ bao gồm đưa ra các trọng số khác nhau cho độ thỏa dụng của các nhóm khác nhau hoặc đặt một mức sàn cho kết quả đối với bất kỳ cá nhân nào. Thông thường, các phán đoán của các nhà kinh tế học về phúc lợi xã hội (nghĩa là, liệu một chính sách có được mong muốn hay không) đều có một hàm ý phúc lợi xã hội ngầm trong tâm trí, và nó cũng thường là một hàm thỏa dụng hoặc hàm kết quả. Ví dụ, phân tích chi phí - lợi ích, được sử dụng rộng rãi trong thẩm định chính sách, cân nhắc chi phí do một số người gánh chịu vì lợi ích mà những người khác thu được. Thuyết vị lợi được thêu dệt thành kết cấu kinh tế học, như thực sự được chỉ ra bằng việc sử dụng “độ thỏa dụng” là tiêu chí để đánh giá sự thành công hay thất bại của chính sách.
34 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Thất bại của thị trường và thất bại của chính phủ
Như đã lưu ý, trên thực tế, một bức màn lịch sử được vẽ lên trên các vấn đề lý thuyết với kinh tế học phúc lợi, nhưng lý thuyết định hình một khuôn khổ thông dụng hữu ích để phân tích các thất bại của thị trường. Chuẩn đánh giá thị trường cạnh tranh có nghĩa là các chính sách kinh tế thường được đánh giá cụ thể dựa trên các thất bại thị trường tương ứng với thất bại của các giả định đối với các định lý phúc lợi cơ bản (Hộp 1.4).
Lý thuyết nền tảng cho các cơ sở lý luận các biện pháp can thiệp vào chính sách được sử dụng trong cuốn sách này vì nó giúp làm rõ loại chính sách nào phù hợp nhất với một vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, cách tiếp cận “thất bại thị trường” thường có thể rơi vào một trong hai bẫy đối lập. Đầu tiên giả
định rằng, có lẽ do thuật ngữ của các bằng chứng kinh tế, rằng những thất bại của thị trường là đặc biệt, và do đó có một giả định có lợi cho “thị trường tự do”. Tuy nhiên, các giả định là một tiêu chuẩn lý tưởng hóa và rõ ràng là không bao giờ đúng trong thực tế, như các nhà kinh tế thực hành đều nhận thức rõ. Mặt khác, điều này không có nghĩa là phải có một giả định ngược lại ủng hộ việc chính phủ sửa chữa (thường xuyên) những thất bại của thị trường bằng một số hình thức can thiệp. Đối với “chính phủ” bao gồm những người có thể có động cơ hoặc có khuyến khích riêng của họ, và những người đang đóng vai trò là “tác nhân” cho phần dân chúng còn lại sẽ đề cập trở lại trong Chương 7. Các nhà kinh tế thường đánh giá thấp các giới hạn về năng lực của nhà nước trong việc phân tích lựa chọn chính sách. Tuy nhiên, cũng như thất bại thị trường, cũng có kết quả thất bại
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 35
thường xuyên của chính phủ, và không chỉ quan trọng đối với thất bại thị trường đối lập với nhà nước hoàn hảo được lý tưởng hóa theo cách khác.
Hộp 1.4. Thất bại thị trường
Giả định “Thất bại thị trường” khi không nắm bắt
A1 Người tiêu dùng và nhà sản
Sự lựa chọn “không lý trí”, ảnh
xuất có lý trí và tư lợi
hưởng mang tính xã hội
A2 Họ có sự bàng quan cố định
A3 Có sự cạnh tranh hoàn hảo
Độc quyền tự nhiên
mà không có nền kinh tế theo
quy mô và không có rào cản
cho xuất (hay nhập)
A4 Các cá nhân có đầy đủ
Bất cân xứng thông tin
thông tin, và đối xứng (giống
nhau) đối với tất cả
A5 Lợi ích cá nhân và xã hội là
Ngoại tác
bằng nhau; chi phí cá nhân và
xã hội là bằng nhau
A6 Có các thị trường hoàn hảo
Lựa chọn bất lợi; bi kịch của các
(bao gồm cho cả các hàng hóa
điểm chung
tương lai)
A7 Hàng hóa được sở hữu và có
Chi phí giao dịch
thể trao đổi - có quyền tài sản,
và mọi người tuân theo luật
A8 Hàng hóa là đối thủ của
Hàng hóa công cộng/hưởng lợi
nhau - nếu tôi sử dụng nó, thì
miễn phí (free riding)
bạn sẽ không thể sử dụng nó
36 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Trên thực tế, thị trường và chính phủ thường thất bại trong những bối cảnh giống nhau và vì những lý do giống nhau. Đây là lý do tại sao các cấu trúc của tổ chức kinh tế đã thay đổi rất nhiều qua thời gian và giữa các quốc gia. Đó là lý do tại sao các xã hội khác nhau kết thúc với các hỗn hợp khác nhau giữa “nhà nước” và “thị trường”, và không bao giờ hoặc chỉ một nhà nước can thiệp hoàn toàn hoặc một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do.
Sự thăng trầm của lịch sử và dòng chảy của “thị trường” và “nhà nước”
Đầu Chương này đã đề cập đến mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử, các xu hướng chính trị và các ý tưởng kinh tế. Bây giờ đã đặt ra những điều cơ bản của khung kinh tế lý thuyết để cung cấp phân loại các thách thức chính sách, phần này xác định ngắn gọn khung hiện đại này trong bối cảnh lịch sử rộng lớn. Các chương sau cũng bao gồm lịch sử kinh tế có liên quan. Đây là một vấn đề của Vương quốc Anh và một vài vấn đề liên quan đến Hoa Kỳ, không chỉ vì tôi là người Anh mà còn bởi vì các nhà kinh tế và các trường đại học Vương quốc Anh và Hoa Kỳ chiếm ưu thế trong lĩnh vực này, có nghĩa là kinh nghiệm của hai quốc gia đã có tác động không cân xứng về kinh tế học. Tuy nhiên, mặc dù cách tường thuật lịch sử khác nhau đối với các quốc gia khác nhau, nhưng vấn đề và nguyên tắc phân tích phổ biến hơn.
Quan điểm chủ đạo trong kinh tế học liên quan đến vai trò của chính phủ đã thay đổi theo thời gian. Trong Của cải
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 37
của các dân tộc (The Wealth of Nations) (xuất bản năm 1776), Adam Smith ủng hộ vai trò lớn hơn đối với sự trao đổi thị trường bởi vì sau đó có nhiều hạn chế của chính phủ đối với hoạt động, ủng hộ các lợi ích đã được thiết lập, vào thời điểm nền kinh tế đang ở đỉnh cao của sự thay đổi lớn về công nghệ và xã hội của cuộc Cách mạng công nghiệp. Ông đặt mục tiêu ủng hộ thị trường là phương tiện ưa thích để điều phối hoạt động kinh tế trong xã hội - do đó định lý phúc lợi đầu tiên đôi khi được mô tả là định lý bàn tay vô hình. Nhưng những người ủng hộ thị trường tự do hiện đại thường đề cao quan điểm của ông, bỏ qua sự nhấn mạnh của ông về tầm quan trọng của các giá trị đạo đức và các ràng buộc xã hội làm cho thị trường hoạt động hiệu quả.
Nhờ có Smith và các nhà kinh tế học cổ điển khác, khi kinh tế học được chính thức hóa vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, và kinh tế học phúc lợi mang tính lý thuyết đã mô tả ở trên phát triển rằng, vai trò của chính phủ được xem xét để khắc phục thất bại của thị trường theo một vài cách cụ
thể. Nếu xác định một độc quyền tự nhiên hay độc quyền bên ngoài, thì chính phủ đang tính toán mang tính lý thuyết về cách khắc phục nó, mặc dù tốt nhất theo một cách mà làm sai lệch sự lựa chọn cá nhân càng ít nhất có thể. Ví dụ, trong cuốn sách viết năm 1920 của mình về Kinh tế học phúc lợi (The Economics of Welfare) Pigou đã gợi ý rằng, một thuế xuất cố định để đẩy chi phí bán rượu tư nhân đến khi chi phí này phù hợp với chi phí xã hội (của hành vi du côn, tội phạm, bệnh tật). Cách tiếp cận này là cách rượu vẫn bị đánh thuế ở
nhiều nước (xem Hộp 1.5).
38 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Hộp 1.5. Thuế Pigouvian đối với rượu
Áp dụng thuế Pigouvian đối với rượu, để điều chỉnh các yếu tố ngoại tác liên quan đến việc uống rượu, rất hấp dẫn nhưng lại liên quan đến những khó khăn thực tế, gồm cách đo lường quy mô ngoại tác và thuế suất phù hợp. Một thách thức là mức thuế lý tưởng sẽ khác nhau giữa các cá nhân và phải cao hơn nhiều đối với những người nghiện rượu nặng. Ví dụ, ở Hoa Kỳ chỉ có 7% dân số là những người thường xuyên uống rượu bia, nhưng những người này chiếm khoảng 75% chi phí sử dụng rượu quá mức. Chính sách “tốt nhất thứ hai” sẽ đặt mức thuế bằng với chi phí biên bên ngoài trung bình của tất cả những người uống rượu. Tuy nhiên, nếu những người nghiện rượu nặng có xu hướng chọn đồ
uống khác với những người uống rượu nhẹ (ví dụ, rượu whisky thay vì rượu vang), thì một chính sách tốt hơn sẽ đánh thuế cao hơn đối với loại rượu được người nghiện rượu nặng ưa thích. Một nghiên cứu ở Vương quốc Anh cho thấy, những người nghiện rượu nặng thực sự thích uống rượu có nồng độ cồn cao hơn, và những người nghiện rượu nhẹ cũng có nhiều khả năng chuyển sang loại thức uống rẻ hơn (hơn là uống rượu ít đi) khi giá tăng*. Sử dụng sự bàng quan khác nhau và độ co giãn của cầu theo giá khác nhau, có thể cho thấy rằng phúc lợi xã hội sẽ tăng lên đáng kể từ việc đánh thuế cao hơn đối với các loại rượu mạnh. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đây là một thế giới tốt nhất thứ hai (tức là thuế rượu Pigouvian tối ưu có thể dẫn tới kết quả phân phối); rằng ngành công nghiệp đồ uống có cồn có thể có một số
quyền lực độc quyền; và quy định của chính phủ là một giải pháp thay thế để sử dụng thuế Pigouvian.
* R. Griffith, M. O'Connell và K. Smith (2017), “Design of Optimal Corrective Taxes in the Alcohol Market”, IFS Working Paper No. 17/02.
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 39
Trước thế kỷ XX, năng lực của nhà nước hạn chế hơn bây giờ. Các chính phủ thu thuế, chống chiến tranh và ủng hộ một số công lý, và có lẽ đặt ra một số tiêu chuẩn trọng lượng và thước đo. Nhưng ngoài những điều cơ bản này, hầu hết các chính sách (bao gồm thực thi công lý, hoặc kiểm soát các tiêu chuẩn, cũng như xóa đói giảm nghèo) được thực hiện ở cấp địa phương. Năng lực hạn chế này vẫn là thực tế ở nhiều nền kinh tế có thu nhập thấp. Tuy nhiên, ở các nền kinh tế công nghiệp hóa, vào đầu thế kỷ XX, vai trò của chính phủ đã mở rộng hơn. Sự sụp đổ của Phố Wall năm 1929 và cuộc Đại suy thoái, kết hợp với sự mở rộng đều đặn của cuộc bỏ phiếu từ giữa thế kỷ XIX trở đi, đã dẫn đến nhu cầu quản lý nền kinh tế ngày càng tăng của chính phủ, đưa ra một minh chứng ấn tượng về mức độ tồi tệ nếu bỏ rơi thị trường.
Thật vậy, kế hoạch tập trung khá hấp dẫn ở giai đoạn đó - hợp lý hơn và hiệu quả hơn - đối với một số nhà kinh tế ở cả bên trái và bên phải của phổ chính trị. Từ chủ nghĩa cộng sản của Liên Xô đến các chính sách kinh tế tập thể của phát xít Đức và Italy, đã cho thấy nhiều ví dụ vào đầu những năm 1930 về sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của nhà nước vào sản xuất và phân phối. Vào thời điểm này, một cuộc tranh luận sôi nổi đã diễn ra giữa các nhà kinh tế, được gọi là cuộc tranh luận “tính toán xã hội chủ nghĩa”, nhằm tìm hiểu liệu một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung có thể
thay thế cho thị trường cạnh tranh, mang lại nhiều phúc lợi xã hội hay không. Một số nhà kinh tế học phản đối chủ nghĩa xã hội với lý do nó sẽ làm giảm tự do, tuy nhiên lại cho rằng chủ nghĩa xã hội sẽ chứng tỏ một kỷ nguyên hấp dẫn và thành công hơn chủ nghĩa độc tôn - nổi tiếng, cuốn sách Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và dân chủ của
40 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Joseph Schumpeter xuất bản năm 1942. Mặt khác, Friedrich Hayek bình luận rằng thị trường là một phương tiện xử lý thông tin phi tập trung hơn hẳn so với bất kỳ phương tiện tập trung nào khác. Trong một bài báo nổi tiếng năm 1945, ông lập luận rằng giá cả là một cách tổng hợp thông tin độc đáo để điều phối sự lựa chọn của nhiều người tiêu dùng và nhà sản xuất cá nhân với sự bàng quan khác nhau, hoặc phải đối mặt với những chi phí và điều kiện cung ứng khác nhau. Ông cho rằng không thể có bất kỳ cơ quan lập kế hoạch tập trung nào có thể xử lý nhiều thông tin như vậy, ông lập luận - có thể ngay cả bây giờ với sức mạnh máy tính và thông tin trực tuyến lớn hơn rất nhiều - nhưng thị trường phát hiện và điều phối để vô số hàng hóa và dịch vụ
hàng ngày có sẵn cho người tiêu dùng khi họ cần chúng. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự phát triển của kế toán quốc gia theo hình thức vẫn được sử dụng cho đến ngày nay, song song với kinh tế học vĩ mô của John Maynard Keynes trong cuốn sách nổi tiếng Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ (The General Theory of Employment, Interest and Money). Việc đo lường hoạt động kinh tế tổng thể đã bắt đầu trước Chiến tranh thế giới thứ hai với những nỗ lực của Simon Kuznets và Colin Clark, và trở nên cấp thiết trong thời kỳ chiến tranh để chính phủ có thể biết những nguồn lực nào có sẵn cho sản xuất thời chiến và những thứ tiêu dùng làm ra mà dân chúng phải hy sinh. Việc xây dựng của các tài khoản quốc gia - bao gồm GDP/GNP - được tiếp tục trong thời kỳ hậu chiến, trở thành một tiêu chuẩn quốc tế. Cũng như việc tạo ra dữ liệu quan trọng này, quản lý kinh tế vĩ mô cũng được thực hiện nhờ nghiên cứu về chu kỳ kinh doanh (tiên phong bởi Ragnar Frisch) và các mô hình kinh tế lượng
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 41
vĩ mô (bởi Jan Tinbergen và những người theo ông). Tất cả những hoạt động trí tuệ quan trọng này trong kinh tế học, thứ mà sau này tạo nên khả năng quản lý kinh tế vĩ mô và nhà nước phúc lợi sau chiến tranh, đã trùng lắp sâu sắc với làn sóng bi kịch gia tăng từ giữa những năm 1930 đến giữa những năm 1940.
Nhu cầu của Chiến tranh thế giới thứ hai, khi nhu cầu thời chiến được ưu tiên, tiếp theo là quy mô tái thiết cần thiết sau khi xung đột kết thúc, chính phủ quan tâm nhiều hơn đến lập kế hoạch kinh tế. Nhiều nền kinh tế phương Tây, chẳng hạn như Pháp và Netherlands, và cả Nhật Bản đã thành lập các cơ quan lập kế hoạch sau chiến tranh một phần để quản lý việc sử dụng quỹ Marshall Plan hào phóng do Hoa Kỳ cung cấp để xây dựng lại các nền kinh tế bị tàn phá. Những quốc gia này vẫn có một di sản mạnh mẽ về sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế.
Từ những năm 1940 và cho đến những năm 1950, phạm vi can thiệp kinh tế của chính phủ vào hầu hết các nền kinh tế công nghiệp phát triển giàu có. Nhà nước phúc lợi mở rộng, bao gồm lương hưu của nhà nước và bảo hiểm việc làm. Nhà nước thực hiện các dự án xây dựng nhà ở và tài trợ nhiều dịch vụ công hơn, như giáo dục và y tế. Chính phủ
can thiệp nhiều hơn vào sản xuất, quốc hữu hóa các ngành công nghiệp hoặc các công ty riêng lẻ, ở mức độ lớn hơn hoặc thấp hơn. Hầu hết ở các nước, các bưu điện và thông tin liên lạc thuộc sở hữu của chính phủ từ đầu thế kỷ XX hoặc thậm chí sớm hơn, chính phủ luôn quan tâm đặc biệt đến những gì người dân đang nói cho người khác. Nhiều thành phố hoặc đã cung cấp các tiện ích như khí đốt và điện, nước và dịch vụ thoát nước, và vận chuyển địa phương,
42 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
hoặc cũng tư nhân hóa các dịch vụ thiết yếu này từ rất sớm. Tuy nhiên, trên khắp châu Âu (không phải ở Hoa Kỳ), làn sóng lớn về quốc hữu hóa kinh doanh đã xảy ra trong những năm 1940 đến những năm 1970. Ví dụ, Chính phủ Vương quốc Anh đã quốc hữu hóa nhà sản xuất ôtô British Leyland vào năm 1973 và các công ty đóng tàu và máy bay vào cuối năm 1977.
Triết lý chủ đạo liên quan đến quyền sở hữu tư liệu sản xuất và rộng hơn là vai trò kinh tế của nhà nước, đã thay đổi sau cuối những năm 1970. Sự thay đổi này một phần là do chính trị, được cuộc bầu cử của Margaret Thatcher ở Anh và Ronald Reagan ở Mỹ thúc đẩy, các sự kiện đóng một vai trò quan trọng. Tư duy kinh tế phát triển cùng với những thay đổi chính trị.
Ý tưởng của các nhà kinh tế học theo định hướng thị trường như Hayck dần dần trở nên có ảnh hưởng hơn theo thời gian vì một số vấn đề về quyền sở hữu hoặc sản xuất của chính phủ ngày càng gia tăng. Ba mươi năm sở hữu nhà nước rộng rãi ở các quốc gia châu Âu cung cấp nhiều ví dụ về sự thất bại của chính phủ. Chương 3 xem xét điều này một cách chi tiết. Hiện tại, đủ để lưu ý rằng động cơ lợi nhuận trong thị trường cạnh tranh mang lại cho các công ty tư nhân động lực mạnh mẽ để giảm chi phí và đổi mới. Kinh nghiệm sau chiến tranh về các ngành công nghiệp được quốc hữu hóa cho thấy chúng thực sự không hiệu quả hoặc không đổi mới như các ngành tương tự của khu vực tư nhân. Một phần do các công đoàn khu vực nhà nước mạnh hoặc các cơ quan chuyên môn cũng vậy, nhiều dịch vụ được thực hiện vì lợi ích của người sản xuất hơn là người tiêu dùng. Các nhà quản lý trong khu vực chính phủ cũng không phải chịu trách nhiệm
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 43
về lợi nhuận của doanh nghiệp mình và có xu hướng được các bộ tài chính cứu trợ nếu họ bị mất tiền.
Các chính trị gia cánh hữu và các tổ chức tư vấn đã thúc đẩy hoạt động của Hayek vì những lý do thần tượng. Tuy nhiên, cũng tại thời điểm đó trong kinh tế học hàn lâm, các lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu nhấn mạnh đến tính cá nhân, tối đa hóa hành vi phù hợp với các định lý bàn tay vô hình được mô tả ở trên. Hơn nữa, một nhánh ngày càng có ảnh hưởng lớn của kinh tế học, lý thuyết lựa chọn công, đã khẳng định một cách đúng đắn rằng điều cần thiết là phải tính đến các động cơ và khuyến khích các nhà hoạch định chính sách công và nhân viên khu vực công. Các phân tích kinh tế trước đó cho rằng “chính phủ” nhân từ và khách quan, hành động một cách không vụ lợi để tối đa hóa phúc lợi xã hội. Nhưng những người theo thuyết lựa chọn công (như James Buchanan) lập luận rằng, lăng kính phân tích kinh tế nên được áp dụng đối với các ưu đãi mà các quan chức và người lao động trong khu vực công phải đối mặt và giả định rằng, giống như bất kỳ ai khác, họ đáp lại những ưu đãi đó, hành động vì lợi ích của họ. Điều này có thể là về mặt tài chính (thăng chức, hoặc thậm chí là tham nhũng), hoặc nó có thể đang phát triển đế chế quan liêu của họ hoặc được bầu cử lại.
Các sự kiện trong những năm 1970 đã tạo nên trường hợp này. Đó là một thập kỷ đầy khó khăn đối với tất cả các nền kinh tế tiên tiến, với việc OPEC tăng giá dầu đáng kể, lạm phát có xu hướng tăng cùng lúc mà nhiều quốc gia bị suy thoái, và một cảm giác vào giữa thập kỷ đã có một cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Ở Vương quốc Anh, thập kỷ này đã chứng kiến số lượng ngày càng nhiều các cuộc đình
44 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
công và tăng lương và vòng xoáy tăng giá tiền lương, lên đến đỉnh điểm là cái gọi là Winter of Discontent (Mùa đông bất bình) năm 1978 - 1979, khi một chính phủ Đảng Lao động chủ trì xử lý rác thải chất đống trên đường phố, cắt điện, và thậm chí cả những người chết nằm không được chôn cất vì các cuộc đình công của công nhân thành phố. Bà Thatcher, đắc cử năm 1979 và ông Reagan nhậm chức từ năm 1981, đã phê chuẩn các lập luận của Hayek về thị trường và các lập luận lựa chọn của công chúng chống lại sự can thiệp của chính phủ. Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào năm 1989 đã đặt dấu ấn cho triết lý kinh tế của họ. Chủ nghĩa cộng sản Xôviết đã tiết lộ một thảm họa kinh tế cũng như chính trị và đạo đức. Sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào năm 1989 đã nhấn mạnh quan điểm một cách đầy kịch tính: Người Đông Đức, lần đầu tiên kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai được tự do đi qua biên giới sang phía Tây, phải đối mặt với thực tế rằng họ nghèo hơn, có ít sự lựa chọn về các sản phẩm chất lượng hơn so với những người đồng hương của họ ở Tây Đức.
Những năm 1990 và 2000 là thập kỷ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đổi mới công nghệ và bùng nổ thị trường tài chính. Một số quốc gia có thu nhập thấp, trên hết là Trung Quốc, chấp nhận kinh tế thị trường và triết lý tự do hóa. Sự lựa chọn này đã giúp Trung Quốc đạt được mức giảm nghèo lớn nhất mà thế giới từng trải qua. Nhưng con lắc trong chính trị
và trong tư duy kinh tế sẽ lại dao động, và có thể đã và đang như vậy. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 không phải là một tín hiệu tốt cho thị trường. Có điều, thu nhập cá nhân trung bình thực tế giảm một phần mười ở Mỹ trong và sau cuộc khủng hoảng, và tỷ trọng giảm sâu nhất từ những năm 1970 (Hình 1.2). Thu nhập cũng bị đình trệ hoặc giảm sút
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 45
đáng kể ở nhiều nước thành viên khác của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), bao gồm cả những nước bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng đồng euro sau đó.
Hình 1.2. Thu nhập cá nhân trung bình thực tế ở Hoa Kỳ. Các vùng bóng mờ xác định sự suy thoái ở Hoa Kỳ Nguồn: Cục điều tra dân số Hoa Kỳ (US Bureau of the Census).
Trong những năm gần đây, sự chú ý cũng tập trung vào sự bất bình đẳng tăng lên nhanh chóng kể từ năm 1980; mặc dù sự gia tăng bất bình đẳng chủ yếu xảy ra vào những năm 1980, thực tế là mức sống không được cải thiện đối với nhiều người ở hầu hết các nước phương Tây kể từ (ít nhất) năm 2008 đã làm suy yếu rất nhiều sự hỗ trợ cho “thị trường tự
do” (để trong dấu ngoặc kép vì là một sự trừu tượng không tồn tại trong thực tế). Chương 6 trở lại vấn đề về sự phân phối. Sự bất mãn xuất hiện trong các cuộc bầu cử ở nhiều quốc gia gần đây đang khiến một số chính trị gia suy nghĩ
46 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
hơn về sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế. Trong khi đó, trong tư tưởng kinh tế cách đây một thời gian, xu hướng tập trung vào thất bại của các giả định nêu trên, với nhiều nghiên cứu hiện đang xem xét cả các ngoại tác, sự mất cân xứng thông tin, hoặc việc ra quyết định “không hợp lý”.
Vấn đề đạo đức ở đây là ranh giới giữa nhà nước và thị trường không ngừng xuất hiện và hòa cùng với các sự kiện, xu hướng chính trị, ý tưởng kinh tế và lựa chọn chính sách gắn bó chặt chẽ với nhau, phát triển cùng nhau.
Ngoại tác và hàng hóa công cộng
Sự dao động của con lắc có thể được minh họa bằng cách xem xét một số thất bại thị trường thường gặp nhất: sự tồn tại của ngoại tác (giả định A5 của các định lý cơ bản trong Hộp 1.4 không nắm bắt và hàng hóa công cộng (khi A8 không hợp lệ). Mặc dù phân tích dường như đơn giản, nhưng quan điểm về
chính sách nào giải quyết tốt nhất về những thất bại thị trường có thể khác nhau và làm sáng tỏ các lý do thất bại. Một ngoại tác tồn tại khi sự lựa chọn của một người hoặc một hãng ảnh hưởng đến những người khác theo cách mà chi phí hoặc lợi ích cá nhân và xã hội khác nhau. Ví dụ bao gồm ô nhiễm hoặc khí CO2, khí thải từ nhà máy, ảnh hưởng đến không khí mà mọi người hít thở và khí hậu; tôi làm phiền hàng xóm bằng cách tổ chức một bữa tiệc ồn ào; một đài phát thanh có sóng gây nhiễu sóng của đài khác; học một kỹ năng với nhiều khả năng các nhà tuyển dụng muốn thuê lao động có kỹ năng sẽ đặt trụ sở tại thị trấn; cho trẻ đi tiêm phòng, tăng khả năng “miễn dịch bầy đàn” trong khu vực cũng như nâng cao sức đề kháng của bản thân đối với bệnh tật; tham
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 47
gia mạng xã hội vì nó trở nên thú vị hoặc hữu ích hơn đối với các thành viên khác. Thực tế là chúng ta sống trong xã hội hoặc cộng đồng, không phải như những ẩn sĩ, có nghĩa là ngoại tác có sức lan tỏa.
Một cách để chính phủ giải quyết các ngoại tác là sử dụng thuế hoặc trợ cấp để cân bằng các chi phí và lợi ích của tư nhân và xã hội. Trong Hình 1.3, đường cung cho thấy chi phí cận biên cá nhân của một sản phẩm. Như đã đề cập trước đó, Alfred Pigou đã đưa ra ý tưởng về thuế một lần (a lump-sum tax) (thuế như nhau trên một đơn vị sản lượng) - được gọi là thuế Pigouvian - để tăng chi phí tư nhân bằng với chi phí xã hội và giảm lượng hàng hóa được tiêu thụ. Không dễ dàng để tính toán mức thuế tốt nhất có thể là bao nhiêu, nhưng nguyên tắc áp dụng đối với “thuế tội lỗi (sin taxes)” đánh vào rượu và thuốc lá, hoặc thuế carbon.
Một hàng hóa công cộng là hàng hóa có mức tiêu thụ không có đối thủ (một người tiêu thụ nó không ngăn cản người khác làm như vậy) và cũng không loại trừ (không thể ngăn cản mọi người tiêu thụ nó) (Hình 1.4). Các ví dụ về hàng hóa công cộng gồm không khí sạch, hệ thống chiếu sáng đường phố, quốc phòng, hệ thống tư pháp và cảnh sát, công viên công cộng, đường sá, và giao thông công cộng. Một vài trong số đó là không loại trừ (ví dụ như chiếu sáng đường phố và quốc phòng). Chúng đôi khi được coi như là hàng hóa công cộng thuần túy. Những thứ khác có thể loại trừ, mặc dù nhà cung cấp có thể không bận tâm đến việc kiểm soát quyền truy cập vào chúng. Ví dụ, một công viên có thể được rào lại và tính phí vào cửa, nhưng hầu hết các thị trấn và thành phố đều cung cấp ít nhất một số quyền truy cập miễn phí vào không gian xanh và sân chơi. Hàng hóa không đối thủ với
48 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
khả năng tiếp cận hạn chế như thế này đôi khi được gọi là hàng hóa câu lạc bộ: một khi bạn đã trả phí để tham gia câu lạc bộ, thì mức tiêu thụ là không đối thủ (Bảng 1.1). Ngược lại, mặc dù hàng hóa công cộng thường không phải là đối thủ, nhưng chúng có thể trở nên tắc nghẽn; đường sá là một ví dụ mà hầu hết mọi người đều tham gia nhưng khi lưu lượng tham gia giao thông vượt một ngưỡng nhất định so với lượng phương tiện giao thông có nghĩa là việc lái xe sẽ bị hạn chế (trừ đường có thu phí).
Hình 1.3. Thuế Pigouvian điều chỉnh ngoại tác. Có một ngoại tác tiêu cực, do đó chi phí cận biên xã hội (SMC) vượt quá chi phí cận biên tư nhân (PMC, đường cung S). Thuế Pigouvian t làm tăng đường cung đến điểm mà nó gặp SMC. Giá cao hơn và số lượng sản xuất và tiêu thụ thấp hơn so với khi chưa có thuế
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 49
Hàng hóa công cộng sẽ được cung cấp dưới mức cung cấp của thị trường: với bất kỳ số lượng nhất định nào được sản xuất (trong đó lượng cung bằng nhu cầu của người đầu tiên, Hình 1.4b), nhu cầu bổ sung có thể được đáp ứng mà không có ảnh hưởng xấu tới người dùng trước đó hoặc người tiêu dùng. Đặc điểm không đối thủ này có nghĩa là khó có thể tài trợ cho hàng hóa công cộng (Hộp 1.6). Có một sự cám dỗ lớn về sử dụng miễn phí, nói cách khác sử dụng chúng nhưng không phải trả tiền. Đó là tại sao nhiều hàng hóa công cộng được tài trợ thuế hoặc ít nhất được hỗ trợ một phần hoặc được nhà nước cung cấp.
Hình 1.4. Tư nhân (a) và
hàng hóa công cộng (b).
Hàng hóa tư nhân là đối
thủ trong tiêu dùng, và
nhu cầu thị trường là
tổng các đường cầu cá
nhân (trục ngang). Hàng
hóa công cộng là không
đối thủ, cho nên ngay
khi cầu cá nhân đầu tiên
được đáp ứng, cầu cá
nhân khác có thể sử
dụng miễn phí, tiêu
dùng cùng một
sản lượng.
Ý kiến cho rằng, chính phủ phải cung cấp tất cả hàng hóa công cộng, vì vấn đề mà nhiều người được hưởng lợi
50 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
miễn phí sẽ dẫn đến việc thiếu cung cho hàng hóa công cộng hiện đang bị thách thức. Có những ví dụ về hàng hóa công cộng được tài trợ theo nhiều cách khác nhau. Ngọn hải đăng thường được sử dụng như một ví dụ về hàng hóa công cộng thuần túy vì ánh sáng cảnh báo của chúng có thể được nhìn thấy với bất kỳ tàu nào đi qua. Tuy nhiên, trong lịch sử, việc trả phí bến cảng thường là những ngọn hải đăng tài chính. Mặc dù một số tàu chắc chắn là những người đi tự do, nhưng bất kỳ tàu nào mà thuyền trưởng muốn vào cảng gần đó sẽ trả phí. Một số nhà kinh tế thị trường ủng hộ lập luận rằng, điều này cho thấy việc tài trợ tư nhân cho hàng hóa công cộng là một khả năng; những ví dụ như thế này được coi là hàng hóa câu lạc bộ vì chúng được tài trợ bởi một thỏa thuận kiểu thuê bao. Tuy nhiên, ví dụ đáng chú ý này là ví dụ về các cơ quan có thẩm quyền thu xếp tài trợ cho hàng hóa không cạnh tranh - không chỉ liên quan đến quyết định của chính quyền và được tài trợ bởi thuế chung. Nên bình luận về liệu hàng hóa công cộng phải được khu vực công cung cấp, hay liệu thay thế vào đó là khu vực tư nhân có thể cung cấp chúng, là một phần câu hỏi về ý nghĩa của “tư nhân”.
Bảng 1.1. Các loại hàng hóa
Mang tính đối thủ Không mang tính đối thủ
Có thể loại trừ Hàng hóa tư nhân (ví dụ: quần áo,
thực phẩm)
Hàng hóa câu lạc bộ (ví dụ: đường sá thu phí, phí đi vào đường)
Không thể loại trừ
Những thứ chung (ví dụ: cá ở biển)
Hàng hóa công cộng (ví dụ: quốc phòng, đèn đường)
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 51
Hộp 1.6. Hàng hóa công cộng
Hàng hóa công cộng không đối thủ (chi phí cận biên của tiêu dùng tăng thêm bằng không). Có một vấn đề của "hưởng lợi miễn phí": mọi người sử dụng miễn phí đầu ra mà người khác đã trả tiền. Việc tài trợ cho hàng hóa công cộng vì thế thường gặp khó khăn. Chính sách cổ điển là trả cho hàng hóa công cộng từ nguồn thu thuế. Các sách thường đề cập đến hàng hóa công cộng cũng không thể loại trừ - nhưng điều này gây hiểu lầm thể hiện ở nhiều hình thức, bao gồm cả việc thực thi pháp luật. Nhiều loại hàng hóa công cộng được loại trừ, bằng nhiều cách khác nhau - phí vào cổng công viên, phí cầu đường, lệ phí giấy phép, giấy phép phổ thông - và sau đó thường được gọi là hàng hóa câu lạc bộ. Rất nhiều hàng hóa kỹ thuật số là hàng hóa công cộng (do tư nhân cung cấp) vì chi phí biên bằng 0 và không có đối thủ, nhưng có thể loại trừ được (mật khẩu). Nếu những người trong cuộc đua tự do không bị loại trừ, các nhà cung cấp của họ (ví dụ, báo chí) phải đối mặt với vấn đề làm thế nào để tài trợ cho họ.
Một ví dụ khác về việc cung cấp hàng hóa không đối thủ của chính phủ là việc đầu tư vào hệ thống đường sá thế kỷ XIX ở Anh. Hoạt động công ích này được tổ chức bởi “rurnpike trusts” - các chính quyền gồm các chức sắc địa phương, những người có quyền thu phí và có trách nhiệm duy trì các tuyến đường. Đây là các tổ chức tư nhân nhưng được chính phủ hỗ trợ về cơ sở pháp lý. Theo một cách nào đó, chúng báo trước những mối quan hệ đối tác công tư của những năm cuối thế kỷ XX và XXI. Việc cung cấp đường sá cho tư nhân phổ
biến ở một số quốc gia hơn các quốc gia khác (Hộp 1.7). Chương 4 xem xét kỹ hơn các thể chế tập thể không phải là tư nhân cũng như công.
52 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Cũng cần nhắc lại, một số trường hợp hàng hóa công cộng đặc biệt, được gọi là hàng hóa khuyến dụng (merit goods) và hàng hóa trải nghiệm (experience goods). Thay vì dưới mức cung cấp, những hàng hóa này đang được cung cấp dưới mức nhu cầu. Hàng hóa khuyến dụng là những thứ được coi là tốt cho con người mặc dù họ không nhận ra điều đó. Các chương trình phát sóng chính trị của đảng (lưu ý là ở các quốc gia khác ngoài Hoa Kỳ, quảng cáo mang tính chính trị có trả tiền trên truyền hình thường bị
hạn chế hoặc bị cấm) là một ví dụ. Không ai muốn xem, nhưng thông báo về chính sách của các đảng đối thủ là điều tốt cho cử tri. Hàng hóa trải nghiệm là những thứ mà người ta không biết liệu có thực sự thú vị hay không cho đến khi được dùng thử - tiểu thuyết, phim ảnh, âm nhạc và các trải nghiệm văn hóa khác là những ví dụ rõ ràng. Một số hàng hóa như vậy có thể cần tới chính sách khuyến khích sử dụng, chẳng hạn như thu hút nhiều người miễn cưỡng tham gia thử các môn thể thao (để giúp giải quyết bệnh béo phì), điều này khiến họ phát hiện ra rằng họ thích hoạt động này.
Có ít sự khác biệt giữa hàng hóa công cộng và các ngoại tác hơn so với cái nhìn đầu tiên. Nói hàng hóa là không đối thủ cũng giống như nói về lợi ích xã hội vượt trội so với lợi ích cá nhân. Hàng hóa công là một trường hợp đặc biệt của ngoại tác
Điểm tương tự có thể được đưa ra đối với các ngành công nghiệp độc quyền tự nhiên (ví dụ, giả định A3 không phải là hợp lệ - xem Hộp 1.4), được thảo luận thêm ở Chương 3. Một số sản phẩm được gọi là độc quyền tự nhiên với lợi nhuận ngày càng tăng theo quy mô do chi phí cố định cao (nền kinh
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 53
tế quy mô theo cung) hoặc ngoại tác mạng lưới (nền kinh tế quy mô theo cầu), bởi vì có xu hướng chỉ có một ngành (hoặc phần lớn là số nhỏ) sản xuất chúng. (Nghiêm túc mà nói, một ngành có độc quyền khi mà chi phí trung bình giảm trên toàn bộ mức sản lượng đầu ra.
Hộp 1.7. Cung cấp đường sá tư nhân
Có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia về vai trò của khu vực tư nhân đối với những gì có thể được coi là hàng hóa công cộng cổ điển, cụ thể là các con đường chính hoặc đường cao tốc. Ở châu Âu, 13 quốc gia (chủ yếu là các quốc gia nhỏ như Estonia và Liechtenstein) không có đường thu phí và 8 khoản phí chỉ thu khi đi qua một số cầu hoặc đường hầm nhất định (Nhóm thứ hai bao gồm Hà Lan và Thụy Điển, nơi có cầu Oresund dài 8 km nổi tiếng - thuộc sở hữu nhà nước giữa Malmö và Copenhagen được giới thiệu trong loạt phim truyền hình Cái cầu (The Bridge). Trong số những quốc gia có thu phí, Anh có rất ít đường cao tốc một chiều và một số ít bến phà hoặc cầu) - trong khi những nước khác như Pháp và Italy có mạng lưới đường thu phí rộng khắp. Bên kia Đại Tây Dương, Hoa Kỳ có nhiều cầu đường thuộc tư nhân sở hữu và điều hành và gần đây tư nhân hóa tài sản thuộc sở hữu nhà nước và do nhà nước điều hành - ví dụ, đường thu phí Indiana hiện do một người Ôxtrâylia gốc Tây Ban Nha điều hành với hợp đồng thuê 75 năm. Những con đường như vậy có thể được chính phủ hoặc một trong các cơ quan của chính phủ điều hành, hoặc hoàn toàn do một nhà điều hành tư nhân hoặc tư nhân cấp vốn và vận hành với sự bảo đảm của chính phủ về doanh thu tối thiểu, hoặc theo một số hình thức hợp tác công tư. Hiện nay đang có xu hướng đối tác công tư để chia sẻ rủi ro và cũng để khắc phục tình trạng ngân sách eo hẹp của chính phủ.
54 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Cầu Oresund
Ảnh Luc De Cleir/Pexels.
Một hãng sản xuất ra tất cả sản phẩm là giải pháp chi phí thấp nhất. Nếu chính phủ không tự cung cấp sản phẩm được (như xây dựng nhiều đường cao tốc hoặc hệ thống nước sạch và nước thải), thì đặt ra luật lệ nghiêm khắc (tất cả
hàng hóa này được quy định theo luật). Sự tăng lên về doanh thu theo quy mô cũng là một trường hợp đặc biệt của ngoại tác, vì khi một hãng tăng sản xuất hơn hãng khác trong ngành có thể được lợi từ việc tăng quy mô thị trường.
Pigou và Coase
Cách suy nghĩ “Pigouvian” về phúc lợi xã hội liên quan đến chính phủ xác định sự thất bại thị trường, như sự hiện diện các ngoại tác hoặc hàng hóa công cộng, và khắc phục nó bằng một chính sách cụ thể, như thuế hoặc trợ cấp. Các phương pháp tiếp cận chính sách trực tiếp khác để điều chỉnh ngoại
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 55
tác hoặc cung cấp hàng hóa công cộng gồm cả cấp phép (để kiểm soát phổ tần vô tuyến được sử dụng cho các chương trình phát sóng và điện thoại, hoặc hạn chế các cá nhân sử dụng máy bay không người lái gần sân bay); cung cấp các dịch vụ của chính phủ, chẳng hạn như y tế và giáo dục (để khuyến khích tiêm chủng hoặc các biện pháp y tế công cộng khác, hoặc tăng nhu cầu về trình độ học vấn vì lợi ích của người lao động và những người lao động khác); và quy định (để hạn chế các hoạt động như tiệc tùng ồn ào vào đêm khuya hoặc đổ chất thải xuống sông), thông qua phạt tiền hoặc hành động pháp lý. Quan điểm theo chủ nghĩa can thiệp này vào các hành động của chính phủ nhằm giải quyết những thất bại cụ thể của thị trường đã được duy trì trong phần lớn thế kỷ XX, và tất nhiên tất cả các loại chính sách này vẫn được nhiều chính phủ áp dụng rộng rãi.
Có một cách suy nghĩ thay thế ảnh hưởng về các trường hợp ngoại lệ nói chung và trường hợp đặc biệt của hàng hóa công cộng nói riêng. Cách tiếp cận này, liên quan đến Ronald Coase, giúp chính sách theo định hướng giải pháp thị trường đối với những thất bại thị trường như ngoại tác và hàng hóa công cộng.
Coase chỉ ra rằng, theo lý thuyết thì ngoại tác là tương hỗ. Tham gia bữa tiệc đêm khuya ồn ào, một ngoại tác tiêu cực đối với hàng xóm (có lẽ là không được mời). Điều đó cũng có thể được coi là những người hàng xóm liên quan bị áp đặt mong muốn yên tĩnh như một ngoại tác đối với những người muốn có một chút vui vẻ. Ví dụ mà Coase đưa ra trong một bài báo nổi tiếng năm 1960 là gia súc đi lạc vào trang trại lân cận và phá hoại vụ mùa. Giả định trực quan là chủ trang trại gia súc nên bị cảnh sát hoặc tòa án phạt, nhưng chúng tôi
56 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
cho rằng người nông dân có quyền tài sản bất khả xâm phạm đối với thành quả trên đất của mình. Coase hỏi, điều gì sẽ xảy ra nếu lợi ích từ những con bò béo hơn đem lại cho chủ trang trại nhiều doanh thu hơn là bị thất thu ngô? Tại sao chủ
trang trại và người nông dân không thương lượng đền bù mà chủ trang trại lại có quyền đối với gia súc ăn ngô của mình? Đây có thể là một thỏa thuận đôi bên cùng có lợi. Tương tự như vậy, nhà máy làm ô nhiễm một con suối và cá chết, chúng ta nên hỏi giá trị của số cá chết nhiều hơn hay ít hơn chi phí do nhà máy phải ngừng sản xuất do gây ô nhiễm. Có sự đối xứng trong mọi ngoại tác. Chúng trở nên bất đối xứng khi quyền tài sản được giao cho một bên và thỏa thuận riêng tư có thể có tùy thuộc vào chi phí giao dịch đạt được thỏa thuận.
Do đó, Coase tiếp tục nói rằng nếu mọi người có thể tự do đi lại và nếu chi phí giao dịch không quá cao, họ sẽ tự giải quyết việc phân bổ chi phí thông qua các giao dịch thị trường mà không cần chính phủ can thiệp và can thiệp từ bên ngoài bằng thuế Pigouvian hoặc luật pháp. Nhiều nhà kinh tế học theo định hướng thị trường đã lưu tâm đến vấn đề này và lập luận rằng có rất ít trường hợp liên quan tới chính sách của chính phủ hơn là ngụ ý khi cho rằng những thất bại của thị
trường cần được khắc phục. Thật vậy, có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia về mức độ thuế và trợ cấp đối với các sản phẩm khác nhau hoặc việc cung cấp hàng hóa công cộng, vì vậy đây rõ ràng là một vấn đề tranh luận.
Tuy nhiên - như bài phát biểu nhận giải Nobel - Coase nhận ra rằng người dân thường không thể thỏa hiệp, vì chi phí giao dịch để làm điều này là quá cao. Chi phí giao dịch là gì? Cụ thể, thời gian và nỗ lực cần thiết để tìm ra thông tin cho giao dịch sắp tới. Dễ dàng xác định những con bò lạc
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 57
thuộc về ai (hoặc nhà máy nào thải chất độc xuống sông)? Chủ trang trại ngô có thể nói dối mức độ thiệt hại vụ mùa bị phá hủy - có phải dễ dàng giám sát cái gì đang xảy ra? Có khả thi không khi có đủ vài người tham gia đàm phán (vì trong cuộc sống hiếm khi chỉ có hai bên)? Đôi khi đó cũng là quyền tài sản không rõ ràng. Khi hai hành khách hàng không tranh giành quyền sử dụng một trong bộ “bảo vệ đầu gối - knee defender”, ngăn cản người kia nghiêng ghế về phía sau, đây có thể là trường hợp cho thấy chi phí giao dịch thỏa thuận một khoản phí với hàng xóm của bạn để được quyền ngả lưng với - 5 USD? 50 USD? - quá cao; nhưng đó cũng chắc chắn là trường hợp mà không rõ ràng ai có quyền đối với không gian đang tranh chấp. Thật không may, không rõ ràng rằng liệu vé của bạn có cho phép bạn có một chút không gian trước mặt bạn - cái gì điều chỉnh bạn sử dụng bộ bảo vệ đầu gối - knee defender (mặc dù người ta tưởng tượng rằng người sử dụng bộ bảo vệ đầu gối có thể nghĩ rằng họ được cả hai) - hay một chút không gian sau bạn - cái gì cho phép bạn ngả ghế.
Tuy nhiên, cách tiếp cận Coaseian đã có tác động lớn đến một số nhà kinh tế học và làm cơ sở cho trường phái kinh tế nhấn mạnh vai trò của hệ thống pháp luật trong việc giải quyết các ngoại tác, hay đúng hơn là các tranh chấp phát sinh. Tòa án từ lâu đã là phương tiện giải quyết các khiếu kiện dân sự dựa trên luật chung (hành động kinh tế), nhưng trường phái luật và kinh tế học có ảnh hưởng lớn từ Coase nhấn mạnh việc phân bổ quyền tài sản (luật tài sản) và giải quyết tranh chấp hiệu quả (luật hợp đồng).
Bình luận của Coase nhấn mạnh hai điểm chính, cơ bản của kinh tế học chính sách công. Một là tầm quan trọng của
58 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
việc định nghĩa và trình bày rõ ràng về quyền tài sản. Trong ví dụ của Coase đưa ra, người nông dân có quyền tài sản đối với đất đai và thành quả trên đất đai của mình, mặc dù chủ trang trại có thể đưa ra cho anh ta một lời đề nghị đáng để cho gia súc ăn ngô. Tương tự, trong trường hợp Vittel ở Hộp 1.8, quyền tài sản thuộc về người chủ đất đai. Trong các trường hợp khác, chẳng hạn như không gian dành cho đầu gối trên máy bay, thỏa thuận Coaseian có thể không thực hiện được nếu không rõ ai sở hữu tài sản được đề cập.
Hầu hết, chúng tôi coi các giả định phổ biến về quyền tài sản như một phần của trật tự tự nhiên, nhưng chúng hoàn toàn được hệ thống chính trị và pháp luật, cũng như tập quán xác định. Ví dụ, khi bạn mua một bữa ăn trong nhà hàng, bạn giả định rằng bạn đang mua thức ăn và thuê không gian để ngồi ở đó trong một hoặc hai giờ, nhưng không phải là bạn có thể ra ngoài với những chiếc đĩa và ly mà bạn sử dụng. Luật phải tuân theo, bởi vì nhà hàng có thể gọi cảnh sát về việc bạn làm. Tuy nhiên, công nghệ thường phá vỡ các giả định về quyền tài sản. Các lập luận thường đề cập đến nền kinh tế ngày nay liên quan đến “sở hữu trí tuệ” luôn luôn gây tranh cãi (vì bao gồm các ý kiến, đó là một hàng hóa công cộng, không đối thủ trong tiêu dùng, không tốn kém để sao chép). Công nghệ kỹ thuật số đã có thể tạo ra một loạt tài sản trí tuệ mới và thúc đẩy quyền sở hữu. Mặc dù đôi khi phương pháp tiếp cận luật và kinh tế lấy cảm hứng từ Coase đưa ra quan điểm hữu ích về tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ trong các nền kinh tế hiện đại kỹ thuật số và vô hình ngày càng tăng, cũng như tính chất tương đối của các chuẩn mực và án lệ có từ trước về quyền sở hữu tài sản trí tuệ. Chương 4 sẽ quay trở lại những vấn đề này.
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 59
Hộp 1.8. Một sự mặc cả Coaseian trong thực tế
Nước khoáng Vittel được đóng chai từ các suối ở vùng Vosges của Pháp. Từ những năm 1970, việc canh tác trong khu vực trở nên căng thẳng hơn và chất lượng nước suối tự nhiên bắt đầu xấu đi. Sự hiện diện của nitrat trong nước đe dọa hoạt động kinh doanh, nhưng chủ sở hữu của Vittel, Nestlé, đã thương lượng thành công với bốn mươi nông dân liên quan để trả tiền bồi thường cho họ nhằm thay đổi phương thức canh tác và hạn chế dòng chảy đang đe dọa chất lượng nước. Một nghiên cứu về cuộc đàm phán đã kết luận rằng có một số lý do quan trọng dẫn đến thành công. Có tương đối ít nông dân tham gia, và chính Vittel đã mua một số đất ở thượng nguồn. Nghiên cứu cho thấy công ty cải thiện quản lý đất ở thượng nguồn sẽ tiết kiệm chi phí hơn là xây dựng một nhà máy lọc mới, vì vậy công ty sẵn sàng đền bù thu nhập, trợ cấp thiết bị và đào tạo kỹ thuật cho nông dân.
C. Déprés, G. Grolleau, và N. Mzoughi, “On Coasean Bargaining with Transaction Costs: The Case of Vittel” Center d'Economic et Sociologie appquées à l'Agosystemure et aux Espaces Ruraux, Working Paper No. 2005/03, https://www.2.dijon.inra.fr/cesaer/wp-content/uploads/2012/11/ AVP2005_3.pdf.
Thương lượng Coaseian, giải quyết thông qua thương lượng hoặc hành động pháp lý các vấn đề do ngoại tác tạo ra, cũng đòi hỏi chi phí giao dịch liên quan không quá cao. Chúng bao gồm thời gian cần thiết để thương lượng với tất cả các bên liên quan, và khó khăn trong việc tìm hiểu tất cả
thông tin liên quan và giám sát hành động của mọi người. Về nguyên tắc, những người lên chuyến bay có thể thương lượng với những người phía trước và phía sau để tìm ra ai coi trọng không gian hơn, nhưng trên thực tế, rắc rối sẽ quá lớn.
60 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Trong bài diễn thuyết giải Nobel của mình, chính Coase cho biết ông nghĩ rằng chi phí giao dịch thường rất cao. Tuy nhiên, ông nói thêm: “Nếu chúng ta chuyển từ chế độ không có chi phí giao dịch sang một trong những chi phí giao dịch dương, thì rõ ràng rằng hệ thống pháp luật là quan trọng cốt yếu”.
Do đó, sự hiện diện của chi phí giao dịch là yếu tố then chốt trong việc xác định những cách sắp xếp mà một xã hội thực hiện để sản xuất hàng hóa và dịch vụ, và phân bổ các nguồn lực cho các mục đích sử dụng khác nhau. Ví dụ, như
đã thảo luận trong Chương 7, có liên quan đến câu hỏi liệu khu vực công có nên thực hiện một hoạt động hay ký hợp đồng với các nhà cung cấp tư nhân (hoặc về vấn đề đó liệu một doanh nghiệp tư nhân nên giữ một hoạt động trong nội bộ hay ký hợp đồng với một nhà cung cấp). Liệu có thể thể
hiện trong hợp đồng hoặc thỏa thuận dịch vụ chính xác những gì nhà cung cấp tư nhân phải cung cấp và giám sát xem hợp đồng có được thực hiện hay không? Đối với một số hoạt động - chẳng hạn như trả lương, hoặc kiểm tra chất thải - điều này rất đơn giản. Thật khó cho những người khác, đặc biệt là những nơi có sự bất cân xứng về thông tin - ví dụ, rất khó để giám sát chất lượng của nhiều dịch vụ, chẳng hạn như cung cấp sức khỏe hoặc chăm sóc xã hội, và sự cám dỗ
đối với nhà cung cấp để cắt giảm chi phí (một hợp đồng cạnh tranh) sẽ mạnh mẽ.
Suy nghĩ về chi phí giao dịch cũng nhấn mạnh rằng, thế giới không được phân chia các thị trường và chính phủ một cách rõ ràng và toàn diện. Thật vậy, ý tưởng về một “thị trường” ốm yếu không được định nghĩa trong lý thuyết kinh tế (đừng bận tâm đến thị trường “tự do”). Lý thuyết
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 61
kinh tế vi mô liên quan đến người tiêu dùng và sản xuất tư nhân. Tuy nhiên, có rất nhiều tổ chức không phải là một doanh nghiệp tư nhân thu lợi nhuận hay một tổ chức chính phủ. Các công đoàn, các tổ chức tương hỗ, tập thể và hợp tác xã, hiệp hội phụ huynh - giáo viên, các nhóm tự nguyện, các tập đoàn phi lợi nhuận - tất cả đều tham gia vào một số hoạt động xã hội học, bên cạnh các cơ quan chính phủ hoặc các công ty tư nhân, hoặc cả hai. Có rất nhiều tổ chức tham gia vào kết quả kinh tế tập thể, tất cả đều cần được tính đến trong chính sách công. Phần lớn cái nhìn sâu sắc trong kinh tế học về lý do tại sao các hoạt động được tổ chức theo cách này hơn là cách khác phụ thuộc vào chi phí giao dịch và sự bất cân xứng của thông tin. Trong một bài báo kinh điển khác, Coase đã sử dụng cách tiếp cận chi phí giao dịch (thay vì giả định tất cả các hoạt động xảy ra thông qua trao đổi thị trường) để giải thích tại sao các công ty tồn tại. Cách tiếp cận này đã tạo cơ sở cho nhiều nghiên cứu tiếp theo xem xét tổ chức của các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp, và cũng như tại các viện kinh tế nói chung.
Kết luận
Chương này đã mô tả phương pháp tiếp cận mà kinh tế học sử dụng để đánh giá chính sách công: Liệu chúng có đóng góp vào phúc lợi xã hội không (theo nghĩa rất cụ thể được sử dụng trong kinh tế, bao gồm hiệu quả Pareto)? Mặc dù từ hiệu quả và mặc dù đặt sang một bên xem xét sự phân phối cũng như các tiêu chí đạo đức khác, chẳng hạn như tự do hoặc lòng tự hào dân tộc, đây là một tiêu chuẩn
62 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
quy tắc. Theo một cách nào đó, sự hài lòng theo sở thích, hay mức độ tiện ích cá nhân, được tổng hợp lại làm tiêu chí để đánh giá phúc lợi xã hội. Không có nhà kinh tế học nào lấy các định lý kinh tế phúc lợi tiêu chuẩn như một mô tả thực tế, và cơ sở này thiết lập tiêu chuẩn của một thị
trường cạnh tranh theo cách suy nghĩ về sự tương tác giữa chính phủ và thị trường. Mặc dù vậy, đã có một cuộc tranh luận đáng kể kể từ thời Adam Smith về hình dạng và phạm vi của các chính sách công. Chương tiếp theo sẽ xem xét chi tiết hơn về mối quan hệ giữa chính phủ và thị
trường và đặc biệt là sự cân bằng giữa cạnh tranh và sự điều tiết của chính phủ.
Phụ lục của Chương 1
Phụ lục này mô tả ngắn gọn - dưới dạng phi kỹ thuật - lý thuyết kinh tế vi mô làm nền tảng cho kinh tế học phúc lợi. Sách kinh tế vi mô tiêu chuẩn, ví dụ như Phân tích kinh tế vi mô (Microeconomic Analysis) của H. Varian trình bày chi tiết kỹ thuật; Giới thiệu về kinh tế học phúc lợi hiện đại (An Introduction to Modern Welfare Economics) của P.O. Johansson tập trung vào lý thuyết về kinh tế học phúc lợi chi tiết hơn, theo một kiểu phi kỹ thuật. Có nhiều cơ sở
lý luận chuyên sâu về kinh tế học phúc lợi và sự lựa chọn xã hội. Những cơ sở lý luận này tập trung vào tư tưởng kinh tế đã thay đổi, Roger Backhouse khảo sát sự phát triển của kinh tế học phúc lợi trong một bài báo gần đây, “Nguồn gốc của kinh tế học phúc lợi mới (The Origins of the New Welfare Economics)” (http://www.ier.hit-u.ac.jp/ extra/10.Backhouse.pdf).
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 63
Hình 1.5. Sản xuất: đường đẳng lượng
Ở đây, xem xét một nền kinh tế Robinson Crusoe đơn giản, nơi mà nhà sản xuất và người tiêu dùng là hai cá thể giống nhau, Robinson và Friday; có hai yếu tố sản xuất, đất đai và lao động, và hai sản phẩm, quả dừa và quả dứa. Bắt đầu quá trình sản xuất, các đường đẳng lượng là các đường cong mô tả sự kết hợp giữa đất đai và lao động cần thiết, dựa trên kỹ
thuật sản xuất, để tạo ra mỗi sản lượng. Hình 1.5 thể hiện đường đẳng lượng về quả dừa, và có một đường đẳng lượng tương tự về quả dứa. Các đường đẳng lượng ngụ ý có đặc tính toán học đẹp và vẽ lên các đường cong trơn.
Hiệu quả sản xuất đòi hỏi tỷ lệ đất và lao động thay thế cho nhau trong sản xuất phải ngang nhau cho cả dừa và dứa. Nếu không, ít nhất một trong số các loại cây trồng có thể được sản xuất bằng cách thay đổi hỗn hợp các yếu tố đầu vào. Tỷ lệ này (được gọi là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên, MRTS -
64 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
the Marginal Rate of Technical Substitution) bằng với giá nhân tố tương đối, hoặc giá đất so với lao động. Biểu đồ hình hộp Edgeworth vẽ hai tập hợp các đường đẳng lượng có nguồn gốc ở các góc đối diện với nhau (Hình 1.6).
Hình 1.6. Hiệu quả sản xuất
Các đường cong đại diện cho các đường đẳng lượng cho thấy mức sản lượng không đổi của dừa (gốc tọa độ ở góc dưới cùng bên trái) và dứa (gốc tọa độ ở góc trên bên phải), tương ứng, đối với các kết hợp khác nhau giữa đất đai và lao động. Hiệu quả sản xuất xảy ra khi hai tập hợp phương trình tiếp tuyến với cách khác và tiếp tuyến bằng tỷ lệ thay thế kỹ
thuật biên (và tỷ lệ giá nhân tố). Ngược lại có thể sản xuất nhiều hơn ít nhất một sản lượng ở các mức đất đai và lao động nhất định. Đường nối các điểm tiếp tuyến được gọi là đường cong hợp đồng (the contract curve). Giả sử nền kinh tế
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 65
bắt đầu ở một điểm ngoài đường hợp đồng, chẳng hạn như h, biểu thị sự kết hợp ban đầu giữa việc sử dụng đất và lao động. Bất kỳ chuyển động nào từ h về phía phân đoạn của đường hợp đồng (được gọi là phần cốt lõi (the core)) đều hiệu quả hơn - một cải thiện của Pareto.
Một câu chuyện tương tự về tiêu dùng (Hình 1.7). Sở thích của Robinson và Friday có thể được thể hiện bằng các đường bàng quan, theo dấu sự kết hợp của dừa và dứa mang lại cho chúng mức độ tiện ích không đổi.
Hình 1.7. Tiêu dùng: các đường bàng quan của Friday
Ngoài ra còn có một biểu đồ hộp Edgeworth tương tự thể hiện hiệu quả phân bổ (Hình 1.8). Đối với bất kỳ mức độ ban đầu và phân phối sản phẩm nào, hai cá thể có thể tăng độ thỏa dụng bằng trao đổi thương mại với nhau, đổi dừa lấy dứa, đến mức tỷ lệ thay thế cận biên (MRS - the marginal rate of substitution) - số lượng dứa trên một đơn vị dừa sẽ trao đổi - bằng nhau cho cả hai.
66 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Hình 1.8. Hiệu quả phân bổ
Trong Hình 1.8, các đường cong đại diện cho các đường bàng quan cho thấy mức độ thỏa dụng không đổi của Friday (điểm gốc ở góc dưới cùng bên trái) và Robinson (điểm gốc ở góc trên cùng bên phải), tương ứng cho các sự kết hợp khác nhau của dừa và dứa. Hiệu quả phân bổ xảy ra khi hai bộ đường bàng quan tiếp tuyến với nhau và tiếp tuyến bằng tỷ lệ thay thế biên (và với giá tương đối của dứa và dừa). Ngược lại, có thể làm tăng độ thỏa dụng của ít nhất một người với sản lượng của hai loại thực phẩm bằng cách đổi dừa lấy dứa. Giả sử tài nguyên ban đầu của dừa và dứa là điểm h. Sau đó, ít nhất một trong số chúng có thể được cải thiện tốt hơn bằng cách mua bán dừa lấy dứa cho đến khi đạt được một điểm trên phần cốt lõi, phần của đường hợp đồng nằm giữa các đường bàng quan ban đầu của hai người. Tại điểm hiệu quả Pareto, cũng bằng với tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của dừa cho dứa trong sản xuất.
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 67
Cuối cùng, yêu cầu hiệu quả kết hợp sản phẩm nói rằng tỷ lệ dừa có thể được biến thành dứa (tỷ lệ chuyển đổi cận biên, hoặc độ dốc của đường giới hạn khả năng sản xuất (the production prossiblity frontier)) cũng phải bằng tỷ lệ thay thế biên trong tiêu dùng.
Chương này cũng đề cập đến câu hỏi làm thế nào để tổng hợp từ kết quả cá nhân với kết quả xã hội. Định lý bất khả thi của Arrow cho rằng đối với bất kỳ nhóm sở thích chung nào có thể xảy ra, không có cách nào tổng hợp các độ thỏa dụng riêng lẻ thành phúc lợi xã hội trong khi đáp ứng tất cả các giả định sau:
- Hiệu quả Pareto - không ai có thể trở nên tốt hơn nếu không có ít nhất một thứ khác trở nên tồi tệ hơn; - Tính độc lập của các lựa chọn thay thế không liên quan - sự hứng thú của một cá nhân giữa các lựa chọn thay thế A và B không bị ảnh hưởng bởi sự giới thiệu của C (vì vậy nếu tôi thích táo hơn dừa, việc giới thiệu nho không khiến tôi thích dừa hơn táo);
- Không độc tài - nếu mọi người trong xã hội có những sở thích khác nhau, không có cá nhân nào mà sở thích của họ luôn chiếm ưu thế;
- Miền không hạn chế hoặc tính phổ quát - sở thích của các cá nhân có thể được xác định trên tất cả các mặt hàng có sẵn.
Một cơ sở lý luận mang tính kỹ thuật lớn về lựa chọn xã hội đã khảo sát lý do đó, và kết quả được trình bày trong xuất bản mở rộng (năm 2017) của cuốn sách kinh điển của Amartya Sen: Collective Choice and Social Welfare. Đặc biệt,
68 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Sen lập luận rằng tổng hợp có thể đạt được một cách hợp lý nếu hàm tổng hợp phúc lợi xã hội không cần phải xếp hạng toàn diện tất cả các tập hợp có thể về các sở thích cá nhân, nhưng có thể giới hạn đến các vấn đề cụ thể.
Hình 1.9. Phúc lợi xã hội của người rất thực dụng. Trong chủ nghĩa rất thực dụng, thu nhập của người dân là sự thay thế hoàn hảo: nhiều A tốt hơn là ít B hơn bất kể tác động của phân phối là gì
Kinh tế học chính sách công ngụ ý rằng, một hàm phúc lợi xã hội tồn tại, thường tiềm ẩn và thường là một biến thể của chủ nghĩa vị lợi. Tuy nhiên, các quan điểm khác nhau về công bằng có thể được thể hiện bằng các hàm phúc lợi xã hội (social welfare functions) khác nhau. Ví dụ:
Cực đại Rawlsian (Rawlsian maximin):
������ = minሺ��ଵ, ��ଶ, … ��ሻ
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 69
Người theo chủ nghĩa rất thực dụng (Strict utilitarian): ������ = ሺ��ଵ, ��ଶ, … ��ሻ
Người theo chủ nghĩa bình quân vừa phải (Moderate egalitarian):
������ = ሺ��ଵ, ��ଶ, … ��ሻ − ��ሾሺ��ଵ, ��ଶ, … ��ሻ − ������ሺ��ଵ, ��ଶ, … ��ሻሿ
Những hàm này thể hiện một biểu đồ bàng quan xã hội; ví dụ, Hình 1.9 cho thấy bộ các đường bàng quan của người rất thực dụng.
Như đã chỉ ra trước đó, tiếp cận lý thuyết của kinh tế học phúc lợi phức tạp không ngăn được các nhà kinh tế học chính sách công từ bỏ cách tiếp cận thực dụng, nhiều hoặc ít thực dụng, cách tiếp cận đối với phúc lợi xã hội trong nghiên cứu thực nghiệm của họ.
Đọc thêm
Tài liệu chuyên môn
Ethan Bueno de Mesquita (2016), Political Economy for Public Policy, Princeton University Press, chapters 1-3.
Lee Friedman (2002), The Microeconomics of Public Policy Analysis, Princeton University Press.
Bruce C. Greenwald and Joseph E. Stiglitz (1986), “Externalities in Economies with Imperfect Information and Incomplete Markets”, Quarterly Journal of Economics 101, no. 2 (May 1): 229-264.
P. O. Johansson (1991), An Introduction to Modern Welfare Economics, Cambridge University Press.
Kevin W. S. Roberts (1980), “Possibility Theorems with Interpersonally Comparable Welfare Levels”, Review of Economics Studies 47, no. 2: 409-420.
70 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Amartya Sen (2017), Collective Choice and Social Welfare, expanded ed., Penguin.
Hal Varian (2014), Intermediate Microeconomics: A Modern Approach, 9th ed., W. W. Norton.
Kinh điển
Kenneth Arrow (1951), Social Choice and Individual Values, Wiley. Ronald Coase (1960), “The Problem of the Social Cost”, Journal of Law and Economics 3: 1-44.
Ronald Coase (1937), “The Nature of the Firm”, Economica 4: 386-405. Friedrich A. Hayek (1945), “The Use of Knowledge in Society”, American Economic Review 35, no.4: 519-530.
R. G. Lipsey and Kevin Lancaster (1956), “The General Theory of Second Best”, Review of Economic Studies 24, no. 1: 11-32. Paul Samuelson (1947), Foundations of Economic Analysis, Harvard University Press, chapter 9.
Joseph Schumpeter (1942), Capitalism, Socialism and Democracy, 5th ed., Harper. (1976 edition, George Allen and Unwin).
Về quy mô can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế Wilfred Beckerman (1986), “How Large a Public Sector?”, Oxford Review of Economic Policy 2, no. 2: 7-24.
Về kinh tế học phúc lợi
Sam Bowles, Alen Kirman, and Rajiv Sethi (2017), “Friedrich Hayek and the Market Algorithm”, Journal of Economic Perspectives (Summer).
Francis Spufford (2011), Red Plenty, Faber. (A novel comparing the planned economy USSR and the free market USA in the 1950s).
Chĭơng 1: Nhà nĭũc và thř trĭūng • 71
Về các thế lực chính trị và lịch sử
Daron Acemoglu and James Robinson (2013), “Economics versus Politics: Pitfalls of Policy Advice”, Journal of Economic Perspectives 27, no. 2: 173-192.
Diane Coyle (2015), GDP: A Brief but Affectionate History, revised ed., Princeton University Press.
Wayne Leighton and Edward Lopez (2012), Madmen, Intellectuals, and Academic Scribblers: The Economic Engine of Political Change, Stanford University Press, chapters 1-3.
Hàng hóa công cộng và các ngoại tác
Ronald Coase (1991), Nobel Prize lecture, “The Institutional Structure of Production”, https://www.nobelprize.org/nobel_prizes/economic sciences/laureates/1991/coase-lecture.html.
Ronald Coase (1974), “The Lighthouse in Economics”, The Journal of Law and Economics 17, no. 2 (October): 357-376.
Tyler Cowen, “Public Goods”, http://www.econlib.org/library/Enc/ PublicGoods.html.
Tomothy Taylor, “Pigouvian Taxes and Bounties”, http://conversableeconomist.blogspot.com/2017/03/pigouvian-taxes and-bounties.html.
CHƯƠNG 2
Làm cho thị trường hoạt động
ĐIỀU TIẾT Vj CẠNH TRANH
Chương này xem xét cách các chính sách cố gắng làm cho thị trường hoạt động tốt hơn, theo nghĩa hiệu quả kinh tế cao hơn như được định nghĩa trong Chương 1: Làm thế nào để đạt được hiệu quả sản xuất và phân bổ cao hơn trong bối cảnh có những thất bại thị trường, chẳng hạn như tăng lợi nhuận về quy mô (độc quyền tự nhiên) hoặc bất cân xứng thông tin (ví dụ, các giả định A3 hoặc A4 từ thất bại ở Hộp 1.4)? Nói một cách rộng rãi, các lựa chọn thay thế là thiết lập sự cạnh tranh trên thị trường hoặc quản lý thị trường - hoặc thường xuyên hơn là cả hai. Chương này bắt đầu bằng cách xem xét cách giải thích các tiêu chí phúc lợi xã hội của Chương 1 trong bối cảnh một thị trường cụ thể, và đưa ra cơ sở lý luận để coi cạnh tranh nói chung là phương tiện hữu hiệu nhất để tăng phúc lợi xã hội. Chương này thảo luận về các nguyên tắc và thực tiễn của chính sách cạnh tranh, cũng như những hạn chế của nó trong bối cảnh thị trường thất bại. Quy định có thể là một giải pháp thay thế cho cạnh tranh trong những trường hợp như vậy, mặc dù thường có sự đánh đổi giữa chúng vì quy định lớn hơn khiến những người mới tham gia thị trường khó cạnh tranh hơn. Theo thời gian, có một xu hướng tăng lên
Chĭơng 2: Làm cho thř trĭūng hoįt đŧng… • 73
liên quan đến quy định, đặc biệt dường như là lựa chọn hấp dẫn nhất về mặt chính trị ở các thị trường nổi tiếng. Khi điều này xảy ra, đổi mới công nghệ thường là con đường hiệu quả nhất để tạo ra sự cạnh tranh mới, và những ví dụ gần đây về những người tham gia công nghệ phá vỡ một số thị trường được quản lý cao (chẳng hạn như taxi và tài chính). Tuy nhiên, từ trước đến nay, các thị trường công nghệ mới mang đến những thách thức riêng đối với chính sách cạnh tranh và ở nhiều quốc gia, những gã khổng lồ kỹ thuật số đang bị giám sát ngày càng nhiều.
Tất cả các thị trường tồn tại trong một khuôn khổ do chính phủ tạo ra và duy trì. Quy định của pháp luật là cơ bản: Liệu mọi người có thể tin tưởng rằng hợp đồng của họ sẽ có hiệu lực thi hành, rằng họ sẽ có một số sửa chữa nếu sản phẩm hoặc dịch vụ họ mua bị lỗi hoặc không phù hợp với mô tả của họ, và rằng các quyền tài sản được tôn trọng và thực thi? Tuy nhiên, ở hầu hết các nền kinh tế, vai trò của chính phủ trong hoạt động thị trường còn rộng hơn nhiều. Hầu hết các chính quyền, bao gồm nhiều quốc gia có thu nhập thấp, có các chính sách cạnh tranh do một cơ quan chuyên môn thực thi, nhằm ngăn chặn các công ty lớn giành được và khai thác quyền lực độc quyền; và có rất nhiều quy định ở khắp mọi nơi, từ những quy định khá cơ bản (chẳng hạn như tiêu chuẩn kỹ thuật, quy tắc về trọng lượng và thước đo, và các yêu cầu an toàn cơ bản) đến những quy định phức tạp liên quan đến mọi thứ từ điều kiện sử dụng lao động đến ghi nhãn sản phẩm.
Đặc biệt khó lựa chọn chính sách ở những thị trường được coi là độc quyền tự nhiên. Độc quyền tự nhiên là một ngành có lợi thế theo quy mô mà chi phí bình quân của người sản xuất đang giảm xuống: càng sản xuất nhiều thì chi phí
74 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
bình quân của mỗi đơn vị càng giảm. Trong những trường hợp thuần túy nhất, cách sản xuất với chi phí thấp nhất là chỉ có một công ty trên thị trường. Ví dụ bao gồm những lĩnh vực đòi hỏi đầu tư tốn kém vào kết cấu hạ tầng, chẳng hạn như mạng lưới điện, cấp nước và đường sắt. Ở nhiều nước châu Âu, những lĩnh vực này đã được quốc hữu hóa trong thời kỳ hậu chiến, do đó có sự độc quyền sở hữu nhà nước và độc quyền thực hiện bởi nhà nước, nhiều lĩnh vực trong số đó sau đó đã được tư nhân hóa vào những năm 1980 và 1990 (chiếc tàu - chủ sở hữu công và sản xuất sẽ được xem xét chi tiết hơn trong Chương tiếp theo). Tuy nhiên, việc thiết lập sự cạnh tranh trong các ngành như điện, nước, đường sắt và viễn thông khi chúng thuộc về khu vực tư nhân đã trở thành vấn đề khó. Một ví dụ được xem xét trong Chương này là điện, một công nghệ cũ và được hiểu rõ, nhưng về mặt xã hội lại khó cung cấp: nhiều nước thu nhập thấp không cung cấp điện ổn định, trong khi thậm chí các nền kinh tế mạnh nhất đôi khi cũng bị cắt điện, và thường bị khiếu nại về giá cả và dịch vụ. Nơi mà ngành điện được sở hữu tư nhân, và được tập trung bởi một số lượng nhỏ các công ty, và do đó nó được nhà nước quản lý chặt chẽ chứ không bỏ ngỏ một dịch vụ cơ bản như vậy cho thị trường.
Tuy nhiên, quy định cũng có thể là một vấn đề, vì nó thường mang lại hiệu quả cao và là rào cản đối với cạnh tranh. Các công ty mới khó có thể thâm nhập thị trường khi có rất nhiều quy định phải đáp ứng, nhưng dễ dàng hơn đối với một công ty lớn đang hoạt động đáp ứng tất cả các quy định. Việc quy định như thế nào thể hiện tình huống khó xử
vốn có - sẽ được xem xét lại trong các chương sau - vì gánh nặng quy định làm tăng thêm chi phí và giá cả mặc dù nó có
Chĭơng 2: Làm cho thř trĭūng hoįt đŧng… • 75
những lợi ích khác. Khó khăn trong việc thiết lập sự cân bằng giữa cạnh tranh và quy định trong một số ngành mạng cũ, chẳng hạn như đường sắt, viễn thông hoặc năng lượng, song song với các ngành mạng hiện đại, chẳng hạn như tìm kiếm trực tuyến và các nền tảng kỹ thuật số, cũng có thể làm tăng lợi nhuận theo quy mô. Chương này cũng xem xét các loại chính sách công nào có thể được yêu cầu trong các lĩnh vực mạng kỹ thuật số này.
Tại sao cạnh tranh lại quan trọng?
Andy Grove, cựu giám đốc điều hành của Intel, đã đặt tên cho cuốn hồi ký năm 1998 của mình về ngành công nghiệp chip máy tính trẻ năng động lúc bấy giờ là Chỉ những người hoang tưởng sống sót (Only the Paranoid Survive). Các doanh nghiệp nói chung không thích cạnh tranh, đến mức hoang tưởng, vì nó làm giảm tỷ suất lợi nhuận của họ và làm giảm hy vọng của họ về một cuộc sống bình yên. Các nhà kinh tế học yêu thích sự cạnh tranh. Các định lý phúc lợi cơ bản được mô tả trong Chương đầu tiên giải thích lý do tại sao thị trường kích thích hiệu quả phân bổ và sản xuất. Giá thị trường cạnh tranh truyền tải thông tin một cách hiệu quả về sở thích người tiêu dùng và điều kiện cung ứng. Sự lựa chọn của người tiêu dùng buộc các công ty phải sản xuất với chi phí thấp nhất và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng tốt hoặc cải tiến. Vì vậy, cạnh tranh có nghĩa là giá thấp hơn, chất lượng cao hơn và cải tiến hơn. Lợi nhuận chấp nhận được (“bình thường”) nhưng không cao hơn. Cạnh tranh cũng tốt cho những người là công nhân, vì càng nhiều hãng cạnh tranh trong một ngành và do đó tại thị trường việc làm, họ có nhiều lựa chọn những
76 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
người lao động tiềm năng. Hơn nữa, tăng trưởng năng suất (và do đó là mức sống tăng theo thời gian) cao hơn ở các nền kinh tế có lực lượng cạnh tranh lớn hơn, vì các doanh nghiệp giẫm chân tại chỗ và các doanh nghiệp kém hiệu quả bị phá sản. Quyền lực độc quyền, khi chỉ có một hoặc một vài công ty lớn, có nghĩa là mặt trái của tất cả những thứ tốt đẹp này (Khi có một vài công ty lớn, đây là một tổ chức độc quyền hơn là một sự độc quyền. Có một cơ sở lý luận sâu rộng về các tổ chức độc quyền, rất quan trọng trong áp dụng chính sách cạnh tranh trong thực tế. Để đơn giản, trọng tâm ở đây là xem xét trường hợp độc quyền thuần túy).
Định lý phúc lợi đầu tiên cho rằng, trạng thái cân bằng cạnh tranh là hiệu quả Pareto. Nó áp dụng trong bối cảnh toàn bộ nền kinh tế - đó là một khái niệm cân bằng chung. Để giải thích kết quả tìm thấy trong bối cảnh của một thị trường hoặc ngành cụ thể, chúng ta cần một phiên bản cân bằng từng phần (trong khi cố gắng suy nghĩ về vấn đề tốt thứ hai). Trong bất kỳ thị trường cụ thể nào, phúc lợi kinh tế được định nghĩa là
TS = PS + CS
Tổng thặng dư
=
Thặng dư sản xuất (lợi nhuận)
Thặng dư tiêu dùng
+
(giá trị mà người tiêu dùng đặt trên sản phẩm cao hơn mức giá họ trả)
Tổng thặng dư là tối đa trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo (Bảng 2.1). Trong Hình 2.1, nơi mà giá PPC bằng với chi phí sản xuất hàng hóa, được thể hiện dưới dạng đường cung nằm ngang. Nhà sản xuất chỉ kiếm được lợi nhuận
Chĭơng 2: Làm cho thř trĭūng hoįt đŧng… • 77
“bình thường”, do đó thặng dư của người sản xuất được thể hiện bằng 0, trong khi thặng dư của người tiêu dùng là phần diện tích trên mức giá phải trả và nằm dưới đường cầu - cho biết mức mà người tiêu dùng sẵn sàng trả. Vì vậy, trong trường
hợp cạnh tranh hoàn hảo này TS = CS = vùng A + B + C. Trong độc quyền hoàn hảo, nhà độc quyền cân bằng giữa doanh thu cận biên và chi phí biên. Vì vậy, trong Hình 2.1 (sử dụng cùng một đường chi phí cận biên cho mục đích so sánh), PS = B, lợi nhuận độc quyền, trong khi CS = A (người tiêu dùng hiện đang trả giá PM cho số lượng QM). TS = vùng A + B, nhỏ hơn trong trường hợp cạnh tranh hoàn hảo. Có một sự tổn thất tải trọng (deadweight loss), khu vực C. Quy mô của tổn thất tỷ trọng do độc quyền phụ thuộc vào độ co giãn của cầu (càng không co giãn theo giá, hoặc ít phản ứng với sự thay đổi giá, cầu càng lớn thì tổn thất tỷ trọng càng lớn) và cũng như cấu trúc chi phí (tổn thất tải trọng là mức trung bình dốc đứng thấp hơn và chi phí cận biên giảm theo sản lượng).
Hình 2.1. Thặng dư sản xuất và tiêu dùng, và tổn thất tải trọng
78 • Thř trĭūng, nhà nĭũc và ngĭūi dân...
Bảng 2.1. Hiệu quả phân bổ
và sản xuất dưới cạnh tranh hoàn hảo Thặng dư tiêu dùng Thặng dư sản xuất
Giá cả cân bằng với chi phí sản xuất cận biên
Tất cả người tiêu dùng với một sự tự nguyện trả cao hơn lợi ích giá thị trường này
Các hãng tạo ra lợi nhuận bằng 0 và “bình thường” tại mức giá này
Nếu mức giá cao hơn, thì lợi nhuận tạm thời cao hơn nhưng có sự gia nhập mới; nếu thấp hơn, các hãng sẽ lỗ và ra khỏi thị trường
Vì vậy chuyển từ độc quyền sang cạnh tranh làm tăng phúc lợi, và trạng thái cân bằng cạnh tranh hoàn hảo là Pareto tối ưu (lưu ý rằng sự dịch chuyển này không phải là một cải thiện của Pareto; khi nhà độc quyền mất đi, quy mô thặng dư của người sản xuất giảm xuống).
Tổng thặng dư được tối đa hóa dưới cạnh tranh hoàn hảo, nhưng đó là trong sách vở; trong cuộc sống thực tế vấn đề là về mức độ cạnh tranh - có một quang phổ, như thể hiện trong Hình 2.2.
Độc quyền Thị trường cạnh tranh Cạnh tranh hoàn hảo
Cạnh tranh
thấp
Cạnh tranh không hoàn hảo
Cạnh tranh
cao
Độc quyền nhóm
(gồm cả lưỡng độc quyền)
Cạnh tranh
độc quyền
Cạnh tranh vì thị trường
Hình 2.2. Quang phổ cạnh tranh
"""