🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thế Giới Còn Đổi Thay, Nhưng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Sống Mãi
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐỒNG CHÍ
LÊ QUANG ĐẠO
VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
VĂN PHÒNG QUỐC HỘI
TỈNH ỦY BẮC NINH
ĐỒNG CHÍ
LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Hà Nội – 2021
1
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Đồng chí NGUYỄN THỊ THANH
Ủy viên Trung ương Đảng,
Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Trưởng ban Công tác đại biểu
Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
H
ơn 60 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Quang Đạo đã có nhiều cống hiến to lớn trên nhiều lĩnh vực khác nhau
như công tác đảng, công tác chính trị, tuyên huấn trong Quân đội, hoạt động của Quốc hội, công tác Mặt trận. Quá trình công tác phong phú đó đã hình thành nên ở đồng chí những quan điểm sâu sắc về việc xây dựng nền dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1. Quan điểm của đồng chí Lê Quang Đạo về dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa
Qua quá trình khảo sát thực tế về tình hình thực thi dân chủ cơ sở ở địa phương vào những năm cuối thập niên 1990, đồng chí Lê Quang Đạo đã khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ ta, là truyền thống của dân tộc và là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh1. Nền dân chủ xã hội
_______________
1. “Dân chủ là sức mạnh của chế độ”, in trong Lê Quang Đạo: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.813-819.
2 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
chủ nghĩa tức là quyền làm chủ phải thực sự thuộc về nhân dân mà đại đa số là nhân dân lao động, do đảng chân chính của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đó là sức mạnh chính của chế độ xã hội chủ nghĩa1.
Từ thực tiễn hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội và qua hoạt động của Quốc hội - cơ quan đại diện của nhân dân, đồng chí Lê Quang Đạo khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua hai hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Hai hình thức này không thể tách rời nhau. Có những vấn đề cần được giải quyết bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, đặc biệt là những vấn đề ở cơ sở, gắn bó trực tiếp với quyền, lợi ích của nhân dân, phải bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân qua quyền làm chủ trực tiếp ở cơ sở2.
Về dân chủ đại diện, điều quan trọng trước hết là cần phải coi trọng và phát huy được vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Đồng chí khẳng định, Quốc hội, kể từ khi được lập ra đã có một vị trí rất quan trọng, là cơ quan thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Nhưng để dân chủ đại diện phát huy được vai trò thì trước khi Quốc hội quyết định, Quốc hội phải lắng nghe được các ý kiến của nhân dân3.
Tuy nhiên, đồng chí Lê Quang Đạo cũng khẳng định, dân chủ phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Vì vậy, để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động, để thực hiện rộng rãi và đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì phải xúc tiến hoàn chỉnh hệ thống pháp luật xã hội chủ
_______________
1. Xem “Thư gửi Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng”, ngày 12/4/1996, in trong Lê Quang Đạo: Tuyển tập, Sđd, tr.445-446.
2. Xem Lê Quang Đạo: Tuyển tập, Sđd, tr.442-443.
3. Xem “Dân chủ là sức mạnh của chế độ”, in trong Lê Quang Đạo: Tuyển tập, Sđd, tr.813-819.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 3
nghĩa, để Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và theo pháp luật trên tất cả các lĩnh vực trong phạm vi cả nước. Như vậy, để xây dựng nền dân chủ, theo Chủ tịch Lê Quang Đạo việc đầu tiên là xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa mà trong đó nhiệm vụ lập hiến, lập pháp là nhiệm vụ quan trọng nhất của Quốc hội vì chỉ có Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền làm điều này. Đồng chí cũng nhấn mạnh rằng cần khẩn trương từng bước hoàn chỉnh hệ thống pháp luật của Nhà nước và làm sao các luật đã ban hành mau đi vào cuộc sống, mau có hiệu lực. Đi đôi với ban hành các luật phải có ngay các văn bản dưới luật cần thiết đi kèm theo của Chính phủ mới có thể thực hiện được.
2. Đồng chí Lê Quang Đạo và việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Ngày 17/6/1987, tại phiên họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII, đồng chí Lê Quang Đạo được bầu giữ trọng trách Chủ tịch Quốc hội. Trên cương vị Chủ tịch Quốc hội, Đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng vào việc đổi mới sâu sắc, toàn diện hoạt động lập pháp của Quốc hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo đảm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Phát huy tinh thần Hiến pháp năm 1980 và thực hiện mục tiêu của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Quốc hội khóa VIII đã đảm đương sứ mệnh cao cả mở đường cho công cuộc đổi mới toàn diện nhằm ổn định tình hình kinh tế - chính trị, giữ
vững quốc phòng và an ninh, đưa cách mạng nước ta vững bước tiến lên. Với vai trò là Chủ tịch Quốc hội khóa VIII, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, trọng trách của đồng chí Lê Quang Đạo vô cùng to lớn, vừa thực hiện sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, vừa lãnh đạo Quốc hội khóa VIII đi đúng chủ trương xây dựng nền dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngay trong buổi gặp gỡ các cơ
4 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
quan báo chí sau khi được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Lê Quang Đạo đã khẳng định để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động, để thực hiện rộng rãi và đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Quốc hội và các đại biểu Quốc hội phải cố gắng thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định và pháp luật1.
Vì vậy, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Quang Đạo, Quốc hội ban hành được 2 bộ luật, 29 đạo luật và Hội đồng Nhà nước ban hành 39 pháp lệnh, nhiều hơn số luật được ban hành của bảy khóa trước cộng lại. Nếu như ở Quốc hội khóa VII, nội dung các luật, pháp lệnh được ban hành chủ yếu là các quy định về
tổ chức bộ máy nhà nước thì ở Quốc hội khóa VIII tập trung ban hành nhiều luật và pháp lệnh quan trọng về kinh tế như Luật đất đai, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh về ngân hàng... nhằm phục vụ việc chuyển sang nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, góp phần phát huy mọi tiềm năng của đất nước.
Cùng với việc ban hành các luật, pháp lệnh về kinh tế, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước cũng ban hành nhiều luật và pháp lệnh nhằm đổi mới hoạt động trong lĩnh vực chính trị như Luật công đoàn, Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân... thể hiện sự quan tâm của Quốc hội và Hội đồng Nhà nước trong việc đổi mới về chính trị, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân, tạo sự chuyển biến rõ nét ở các kỳ họp của Hội đồng nhân dân các tỉnh và thành phố, làm cho hoạt động của Hội đồng nhân dân thiết thực hơn, nhất là
_______________
1. Xem “Báo chí phỏng vấn Chủ tịch Quốc hội khóa VIII”, in trong Lê Quang Đạo: Tuyển tập, Sđd, tr.473-480.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 5
trong công tác giám sát. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội, Quốc hội đã chú ý xây dựng, sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật nghĩa vụ quân sự, Luật về sĩ quan Quân đội nhân dân.
Để tạo nên sự đồng bộ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, việc thay đổi hệ thống chính trị phải gắn liền với cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, Chủ tịch Lê Quang Đạo đã chỉ đạo Quốc hội và Hội đồng Nhà nước cần phải thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp để
tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1980 một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Hiến pháp sau khi soạn thảo đã lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân trong cả nước. “Theo thống kê chưa đầy đủ của 46 tỉnh, thành phố đã có 9.234.218 người tham gia các cuộc thảo luận đóng góp ý kiến vào bản dự thảo Hiến pháp”1 và việc lấy ý kiến này trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn với tinh thần nghiêm túc, dân chủ, sôi nổi, thể hiện ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đặc biệt là việc thông qua Hiến pháp năm 1992 là sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Trong đó, sự thay đổi quan trọng nhất chính là xác định rõ về chế độ kinh tế: phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ
_______________
1. Lịch sử Quốc hội Việt Nam, tập III (1976 - 1992), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.207.
6 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp nhấn mạnh đến vai trò của Quốc hội. Quốc hội đề cao vai trò của đại biểu Quốc hội trong đó có một bộ phận là đại biểu Quốc hội chuyên trách để phát huy hơn nữa vai trò là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Như vậy, Hiến pháp năm 1992 đã “khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, xác định thành quả bước đầu của công cuộc đổi mới, tạo cơ sở pháp lý cho công cuộc xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân bảo đảm quyền tự
do dân chủ và công bằng xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững trật tự kỷ cương, bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh, cho mọi người dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và có điều kiện phát triển toàn diện”1.
Vấn đề dân chủ không chỉ thể hiện trong công tác xây dựng pháp luật mà còn thể hiện ở lề lối làm việc của Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo cho rằng hiệu quả hoạt động của Quốc hội ngày càng được nâng lên bắt nguồn từ việc mở rộng dân chủ. Việc mở rộng dân chủ “trước hết cần công khai các hoạt động của Quốc hội trên các phương tiện truyền thông đại chúng để nhân dân biết, theo dõi và giám sát hoạt động của đại biểu Quốc hội. Tổ chức hợp lý để các đại biểu Quốc hội góp ý kiến thẳng thắn, thiết thực trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội; đảm bảo các quyết định của Quốc hội; phản ánh được ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân”. Vì vậy, để chuẩn bị cho kỳ họp Quốc hội, ngoài các khâu xây dựng chương trình, báo cáo, đề án, thuyết trình trước Quốc hội thì chương trình làm việc phải được công khai ít nhất trước một
_______________
1. “Phát biểu tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX”, ngày 19/9/1992, in trong Lê Quang Đạo: Tuyển tập, Sđd.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 7
tháng trên các phương tiện thông tin đại chúng để cử tri biết và góp ý kiến trong cuộc tiếp xúc cử tri.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII, thể hiện trách nhiệm trước cử tri cả nước, tại các diễn đàn Quốc hội, đồng chí Lê Quang Đạo đã dành nhiều thời gian điều hành Quốc hội tập trung thảo luận các báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về tình hình thực hiện kế hoạch và ngân sách Nhà nước; đồng thời yêu cầu Hội đồng Bộ trưởng báo cáo bổ sung, cung cấp thêm thông tin, số liệu để đại biểu Quốc hội có thêm căn cứ xem xét, phân tích trước khi quyết định. Do đó, nội dung các nghị quyết của Quốc hội về các vấn đề quan trọng của đất nước đã đáp ứng được nhiều mong muốn, nguyện vọng của nhân dân, nhất là trong việc đề ra các giải pháp giải quyết một số vấn đề cấp bách, nóng bỏng về kinh tế. Khi cần xem xét, quyết định sáp nhập hoặc chia tách các bộ; thay đổi nhân sự cao cấp của Nhà nước, Đồng chí đều đưa ra diễn đàn Quốc hội, bàn bạc công khai và tìm cách giải quyết theo tinh thần dân chủ, cởi mở, nhưng vẫn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.
Trong lịch sử của nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII còn ghi đậm sự kiện đặc biệt, đó là việc bầu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng sau khi đồng chí Phạm Hùng từ trần. Theo dự kiến của Đảng giới thiệu một đồng chí trong Ủy viên Bộ Chính trị giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nhưng một số đại biểu Quốc hội lại đề nghị thêm đồng chí khác. Được sự đồng tình của Trung ương Đảng và sự giúp đỡ của các đại biểu Quốc hội, đồng chí Lê Quang Đạo đã đưa ra một quyết định hiếm có trong lịch sử là tán thành danh sách cả hai ứng cử viên để bầu vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Việc này vừa thể hiện tinh thần dân chủ và niềm tin vào sự sáng suốt của đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
8 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Qua thực tiễn, đồng chí Lê Quang Đạo cũng nhận thấy, hoạt động của Quốc hội còn có một số hạn chế, nhiều vấn đề cấp bách, nóng bỏng mà nhân dân quan tâm như trợ cấp xã hội, chống tham nhũng, chống buôn lậu... chưa được giải quyết kịp thời. Luật, pháp lệnh ban hành còn thiếu đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống. Bên cạnh đó, một số văn bản luật, pháp lệnh chất lượng chưa cao, có điểm chưa thực tế nên phải sửa đi sửa lại nhiều lần. Điều này đã ảnh hưởng đến lòng tin của cử tri đối với Quốc hội. Vì vậy, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo kiến nghị cần phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng với Quốc hội là nhân tố quan trọng nhất để bảo đảm cho Quốc hội thực sự hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ mà Hiến pháp và luật đã quy định. Đồng thời, phải không ngừng đổi mới về tổ chức và lề lối làm việc của Quốc hội, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội và tăng cường thông tin cho nhân dân các hoạt động của Quốc hội; nâng cao trách nhiệm và đẩy mạnh hoạt động của các đại biểu Quốc hội. Bảo đảm các điều kiện và phương tiện làm việc của Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban thường trực của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.
*
* *
Qua những bài viết và quá trình hoạt động không mệt mỏi trong hơn 60 năm công tác đã cho thấy những đóng góp hết sức to lớn của đồng chí Lê Quang Đạo cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với việc xây dựng nền dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mong mỏi lớn nhất của đồng chí là đất nước ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Trong bối cảnh hiện nay, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vị trí, vai trò của Quốc hội ngày càng được nâng cao. Kế thừa và phát huy những thành quả của Quốc hội khóa trước trong đó có những đóng góp to lớn của
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 9
đồng chí Lê Quang Đạo, Quốc hội hiện nay luôn chủ động, sáng tạo đổi mới về tư duy, tăng cường công tác lập pháp để phục vụ yêu cầu bức thiết quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa tạo ra những bước tiến quan trọng xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, xứng đáng với niềm tin và đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân.
10
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO - NHÀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ TÀI NĂNG CỦA ĐẢNG, QUÂN ĐỘI VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Trung tướng TRỊNH VĂN QUYẾT
Ủy viên Trung ương Đảng
Ủy viên Quân ủy Trung ương
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam
Đ
ồng chí Lê Quang Đạo tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện, sinh ngày 08/8/1921 tại xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh (nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống yêu nước, trên quê hương giàu truyền thống cách mạng, đã nuôi dưỡng và thôi thúc đồng chí sớm tham gia cách mạng. Năm 17 tuổi, đồng chí tham gia phong trào yêu nước tại địa phương, tháng 8/1940, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, đến giữa năm 1941 thoát ly gia đình tham gia hoạt động cách mạng. Hơn 60 năm hoạt động cách mạng, trải qua nhiều lĩnh vực công tác, giữ nhiều trọng trách lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và Quân đội, đồng chí Lê Quang Đạo luôn thể hiện bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ của người chiến sĩ cộng sản, nhà chính trị, quân sự tài năng của Đảng, Quân đội, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 11
1. Đồng chí Lê Quang Đạo là nhà chính trị tài năng, có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc
Đồng chí Lê Quang Đạo tham gia cách mạng khi phong trào đấu tranh giành chính quyền đang diễn ra quyết liệt và gặp muôn vàn khó khăn do sự đàn áp, khủng bố của phong kiến phản động, thực dân Pháp và phát xít Nhật. Với trọng trách đứng đầu tổ chức đảng ở nhiều địa bàn quan trọng như: Bí thư Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh (1941); Bí thư Ban Cán sự Đảng tỉnh Phúc Yên (1942 - 1943); Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ; Bí thư Ban Cán sự Đảng thành phố Hà Nội (1943 - 1944)..., đồng chí luôn thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ và tài năng của người cán bộ lãnh đạo; vừa bí mật chỉ đạo xây dựng cơ sở, phục hồi tổ chức, phát triển lực lượng; vừa trực tiếp tuyên truyền, vận động, chỉ đạo nhân dân đấu tranh, phát triển phong trào cách mạng, thúc đẩy thời cơ tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa, góp phần làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Sau Cách mạng Tháng Tám và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trọng trách Bí thư Thành ủy Hà Nội (1946), Bí thư Liên Tỉnh ủy Hà Nội - Hà Đông (1948), đồng chí Lê Quang Đạo luôn bám sát cơ sở, lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động kháng chiến trong lòng địch, củng cố tổ chức, xây dựng cơ sở cách mạng, động viên tinh thần, ý chí chiến đấu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”; chỉ đạo công tác tiêu thổ kháng chiến, chuẩn bị hậu cần, khu an toàn ở ngay nội thành để bảo vệ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, từ tháng 9/1950
12 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
đến tháng 12/1978, đồng chí Lê Quang Đạo được Đảng điều động công tác trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, tình hình kinh tế - xã hội đất nước ở vào thời điểm rất khó khăn, đã tác động không nhỏ đến tâm tư, tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trên cương vị Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương, đồng chí Lê Quang Đạo luôn giữ vững và phát huy bản lĩnh chính trị của người cộng sản kiên trung, nhạy bén trong công việc, có nhiều cống hiến trong tham mưu, đề xuất với Trung ương Đảng tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận để tiến hành sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, tiếp tục tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa. Với tầm nhìn chiến lược, đồng chí cùng Ban Khoa giáo Trung ương đề xuất nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến phát triển khoa học và giáo dục, coi trọng bồi dưỡng, sử dụng và phát huy nhân tài, nhất là đội ngũ trí thức; về đổi mới tư duy lý luận, tư duy kinh tế; đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, phát triển nguồn nhân lực... Nhiều nội dung đề xuất của Ban Khoa giáo đã được Trung ương tiếp thu, đưa vào Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Trong 5 năm giữ cương vị Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1987 - 1992), cũng là thời điểm đất nước ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, đồng chí Lê Quang Đạo có những đề xuất mới về mở rộng dân chủ, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, “đổi mới sâu sắc và toàn diện về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, nhất là đẩy mạnh công tác lập hiến và lập pháp để
thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý đất
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 13
nước bằng pháp luật, phục vụ công cuộc đổi mới toàn diện đất nước”1. Tham gia chỉ đạo xây dựng, thông qua Hiến pháp năm 1992 và nhiều bộ luật, pháp lệnh mới, quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Mười bảy năm tham gia Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 5 năm trên cương vị Chủ tịch Mặt trận (1994 - 1999), đồng chí Lê Quang Đạo có đóng góp sáng tạo trong xây dựng và hoạt động của Mặt trận, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, như: Giúp Trung ương Đảng xây dựng Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 18/4/1983 “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới”. Đặc biệt, năm 1993, đồng chí cùng cán bộ Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc nghiên cứu, tham mưu giúp Bộ Chính trị xây dựng, ban hành Nghị quyết số 07-
NQ/TW, ngày 17/11/1993 “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất trong tình hình mới”, tạo bước ngoặt cho đại đoàn kết dân tộc và công tác Mặt trận trong công cuộc đổi mới đất nước2, làm cơ sở cho sự ra đời của Luật Quốc tịch và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đồng chí đề xuất nhiều sáng kiến vào việc “nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối liên hệ mật thiết của nhân dân với Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đại đoàn kết toàn dân”3; đề xuất triển khai thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” trở thành cuộc vận động rất thiết thực hiện nay.
_______________
1, 2, 3. “Lời điếu do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đọc lại Lễ truy điệu đồng chí Lê Quang Đạo”, báo Nhân Dân, ngày 28/7/1999.
14 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
2. Đồng chí Lê Quang Đạo - nhà quân sự xuất sắc, đóng góp quan trọng vào bổ sung, phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, xây dựng Quân đội về chính trị, tư tưởng, góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Trong những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí được Quân ủy Trung ương giao phụ trách công tác đảng, công tác chính trị, trực tiếp tham gia lãnh đạo, chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, ở những hướng quan trọng, những chiến trường nóng bỏng, có tính chất quyết định đến cục diện chiến trường, tạo thế và lực xoay chuyển tình hình để Đảng đưa ra các quyết định chiến lược giành thắng lợi toàn diện.
Với các trọng trách: Phó Chủ nhiệm Chính trị chiến dịch Biên giới (1950); Phó Chủ nhiệm Chính trị chiến dịch Điện Biên Phủ kiêm Chính ủy Đại đoàn 308 (1954); Bí thư Đảng ủy, Chính ủy chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (1968); Chính ủy Bộ Tư lệnh 500, Chính ủy chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971); Chính ủy Chiến dịch Trị - Thiên (1972), đồng chí Lê Quang Đạo cùng Đảng ủy, Chỉ huy Bộ Tư lệnh các chiến dịch luôn bám sát mặt trận, sâu sát chiến trường, nắm chắc diễn biến, tính chất ác liệt, gian khổ trên từng hướng, mũi, từng đợt, từng trận đánh, thảo luận, thông qua quyết tâm tác chiến, phương án tổ chức lực lượng, hiệp đồng tác chiến. Đề xuất các chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, gần gũi, thương yêu, cổ vũ, động viên bộ đội nêu cao ý chí, quyết tâm chiến đấu, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, phát huy sở
trường, cách đánh của ta, hạn chế, ngăn chặn sức mạnh của địch. Phát động các phong trào thi đua, huy động sức mạnh chiến tranh nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “quyết tâm
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 15
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”... Khẩu hiệu “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường đỡ đổ máu” là sáng kiến của đồng chí Lê Quang Đạo trong phong trào thi đua “luyện hay, đánh giỏi”, trở thành phương châm chỉ đạo huấn luyện của bộ đội đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trên cương vị Cục trưởng Cục Tuyên huấn đầu tiên (1951 - 1955), đồng chí đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; xây dựng và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Quân đội với nhân dân; đặt nền móng cho sự
phát triển của ngành Tuyên huấn ngay từ ngày đầu thành lập; đưa “công tác chính trị là linh hồn, là mạch sống của bộ đội”1; kiến tạo và đề xuất tổ chức các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân trở thành cuộc vận động lớn thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đồng thời, quan tâm xây dựng, phát triển ngành Tuyên huấn, gắn xây dựng đội ngũ với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên huấn các cấp; từng bước phát triển ngành Tuyên huấn về tổ chức, chuyên môn nghiệp vụ, hoạt động có nền nếp, chính quy, thống nhất, từ chỗ “Trước đây hầu như cán bộ chính trị cơ sở đều làm ăn mò mẫm” đến hoạt động “có cẩm nang, bài bản”2.
Đồng chí Lê Quang Đạo còn là người đề xuất và trực tiếp chỉ đạo đưa lực lượng văn nghệ sĩ tham gia chiến đấu. Với quan điểm: “Quân sự thu hút địch bằng hoạt động quân sự. Công tác tuyên huấn thu hút địch bằng tuyên truyền văn hóa. Đã đến lúc đưa lực lượng văn nghệ sĩ tham gia chiến đấu”3, đồng chí đã động viên nhiều văn nghệ sĩ tham gia hoạt động cách mạng, trực tiếp chiến đấu trên các chiến trường, góp phần đưa văn hóa nghệ thuật trở thành mặt trận quan trọng, tạo
_______________
1, 2. Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (1944 - 1975), Tập 1, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.196, 199.
3. Trung tướng Hồng Cư: “Người Chính ủy mặt trận”, in trong sách Lê Quang Đạo (1921 - 1999), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.245.
16 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
sức mạnh tổng hợp để bộ đội củng cố quyết tâm, ý chí chiến đấu, chiến thắng trước quân thù.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trên cương vị Phó Chủ nhiệm Chính trị Chiến dịch kiêm Chính ủy Đại đoàn 308, đồng chí Lê Quang Đạo nêu quan điểm: “Quân đội cách mạng không chỉ chiến đấu bằng sức mà phải chiến thắng quân địch bằng tinh thần, bằng trí tuệ, bằng mưu lược”1. Từ thực tiễn kinh nghiệm chiến đấu của Đại đoàn 308, đồng chí đã đề xuất cách đánh mới, sáng tạo, đó là cách “Đánh lấn”2. Cách đánh này đã được Bộ chỉ huy Chiến dịch phê chuẩn, phổ biến rộng rãi trên toàn mặt trận. Với cách đánh mới đã tạo ra sức tiến công mạnh mẽ, đẩy quân Pháp vào thế bị động, bất ngờ và thất bại hoàn toàn, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954; đồng thời, bổ sung, phát triển và tạo nên nét đặc sắc của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trên cương vị Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị phụ trách công tác tuyên huấn (1955 - 1978), đồng chí Lê Quang Đạo đã đề xuất thực hiện những quan điểm có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn để “giải quyết tốt mấy vấn đề công tác chính trị hiện nay trong việc đẩy mạnh xây dựng Quân đội lên chính quy, hiện đại”3, nhằm thực hiện tốt chế độ lãnh đạo của Đảng và chế độ chỉ huy trong Quân đội; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, bồi dưỡng ý chí chiến đấu và hiện đại hóa Quân đội. Đồng thời, quán triệt, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là đường lối quân sự, đường lối chiến tranh nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có cán bộ chính trị, cơ quan chính trị và đơn vị cơ sở trong Quân đội vững mạnh toàn diện. Những quan điểm của đồng chí thấm đậm tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng trong xây dựng Quân đội
_______________
1, 2. Lê Quang Đạo: Tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018, tr.148, 147. 3. Lê Quang Đạo: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.731.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 17
nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng, có giá trị thực tiễn sâu sắc góp phần làm nên chiến thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Cuối năm 1973, với trọng trách Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, kiêm Giám đốc, Bí thư Đảng ủy Học viện Chính trị quân sự, đồng chí Lê Quang Đạo cùng Ban Giám đốc Học viện đề ra chủ trương, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, đào tạo cán bộ chính trị cho Quân đội, chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng; gắn tổng kết thực tiễn với nghiên cứu phát triển lý luận và hoạt động khoa học, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội chính quy, hiện đại.
Hai mươi tám năm trong quân ngũ, đồng chí Lê Quang Đạo luôn giữ vững hình ảnh tiêu biểu về phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, đem hết tài năng, trí tuệ, sức lực cống hiến cho sự nghiệp xây dựng Quân đội, đóng góp quan trọng vào việc tăng cường và phát huy vai trò của công tác đảng, công tác chính trị - linh hồn, mạch sống của Quân đội; khẳng định vai trò quyết định của nhân tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh chính nghĩa. Đồng chí là người chỉ huy ưu tú của Quân đội, một vị tướng lĩnh hội tụ đầy đủ phẩm chất đạo đức cách mạng: Trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung.
Với những đóng góp to lớn về hoạt động công tác chính trị, tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam suốt hai cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, đồng chí Lê Quang Đạo được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội tôn kính là “Anh cả của ngành tuyên huấn Quân đội”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhận xét: “Đồng chí Lê Quang Đạo là một cán bộ lãnh đạo có đức độ và tài năng của Đảng ta và Quân đội ta... đã đem hết tài năng và sức lực, tâm hồn và trí tuệ xây dựng và chỉ đạo ngành Tuyên huấn Quân đội”1.
_______________
1. Lê Quang Đạo (1921 - 1999), Sđd, tr.184-187.
18 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Với những thành tích xuất sắc trong những năm tháng phục vụ Quân đội và những cống hiến to lớn trong hoạt động cách mạng, đồng chí được Đảng và Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng năm 1958, thăng quân hàm Trung tướng năm 1974; được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Ítxala hạng Nhất do Nhà nước Lào truy tặng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
Đồng chí Lê Quang Đạo là nhà chính trị, quân sự tài năng của Đảng, của Quân đội, của cách mạng Việt Nam và là người con ưu tú của quê hương Bắc Ninh, đã để lại tấm gương cao đẹp: Về nhân cách một người cộng sản mẫu mực, gần gũi, khiêm tốn, chân thành, thủy chung, nhân ái; về tinh thần hết lòng, hết sức phụng sự cách mạng, phục vụ nhân dân; về ý chí kiên cường với tinh thần tiên phong quả
cảm; về đạo đức sáng trong cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cho các thế hệ sau học tập, noi theo.
3. Tiếp tục kế thừa, phát huy tinh thần, tấm gương đồng chí Lê Quang Đạo, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Quang Đạo là dịp để chúng ta ôn lại cuộc đời, sự nghiệp, cống hiến của đồng chí đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam. Học tập, noi gương đồng chí, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt quan điểm, chủ trương: “Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng”1, nhằm tạo chuyển biến
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.233.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 19
mạnh mẽ về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó, cần tập trung quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, thường xuyên học tập nâng cao trình độ nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tri thức nhân loại vào thực tiễn công tác. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”; và quan điểm Đại hội lần thứ XIII của Đảng: “Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng, nhân sinh quan cách mạng cho đảng viên”1. Xây dựng bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; khơi dậy mạnh mẽ “khát vọng phát triển” đất nước phồn vinh, hạnh phúc; nêu cao truyền thống quyết chiến, quyết thắng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Hai là, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; khiêm tốn, giản dị, đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội; xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Theo đó, quán triệt và thực hiện có hiệu quả quan điểm: “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.241.
20 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày”1. Gắn thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới”. Tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở; xóa đói, giảm nghèo; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội địa phương nơi đóng quân. Nhiệt tình hưởng ứng các phong trào, cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và địa phương phát động, gắn với các phong trào thi đua “Dân vận khéo”, “Đơn vị dân vận tốt”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”... Qua đó, củng cố, tăng cường niềm tin yêu của nhân dân đối với Quân đội, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; tạo sức mạnh tổng hợp nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị. Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ2.
Ba là, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác khoa học, độc lập, tự chủ, sáng tạo, tôn trọng và phát huy trí tuệ tập thể; nêu cao
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.184.
2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.158.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 21
tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đề cao phương pháp, tác phong nói đi đôi với làm, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” bản thân mình. Tích cực đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận diện rõ đối tác, đối tượng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch.
Bốn là, nêu cao trách nhiệm, tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất chủ trương, biện pháp phù hợp, hiệu quả để xây dựng và phát triển đất nước; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Đẩy mạnh và thực hiện tốt “công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc”. Trong bất cứ tình huống, hoàn cảnh nào cũng phải “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”1. Có kế hoạch, phương án và giải pháp tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.160-161.
22 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Tổ quốc trên không gian mạng..., “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”1 trong tình hình mới.
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr.67-68.
Đ
23
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO -
NHÀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ SONG TOÀN
Trung tướng, PGS.TS. TRẦN VIỆT KHOA
Ủy viên Trung ương Đảng,
Ủy viên Quân ủy Trung ương,
Giám đốc Học viện Quốc phòng
ồng chí Lê Quang Đạo sinh ra trong một gia đình ở quê hương Kinh Bắc giàu truyền thống yêu nước. Đồng chí
sớm giác ngộ và tham gia cách mạng, được tôi luyện trong phong trào đấu tranh cách mạng từ những năm 1938 - 1943 và trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là tấm gương cao đẹp về bản lĩnh chính trị, tác phong công tác, trí tuệ và đức độ. Đồng chí xứng đáng là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí gắn liền với những biến đổi to lớn và sâu sắc của cách mạng Việt Nam trong hơn 60 năm cuối thế kỷ XX. Đồng chí Lê Quang Đạo là người cộng sản gương mẫu, nhà yêu nước chân chính, có tinh thần làm việc tận tụy, phấn đấu trọn đời vì lý tưởng của Đảng và hạnh phúc của nhân dân, nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước. Đồng chí kinh qua nhiều chức vụ quan trọng cả trong và ngoài Quân đội; có thể nói, đồng chí Lê Quang Đạo là nhà chính trị, quân sự song toàn.
24 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
1. Từ một thanh niên yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng và trở thành Bí thư trẻ tuổi dũng cảm, năng động, sáng tạo, công tác ở những địa bàn trọng yếu
Trưởng thành từ phong trào Thanh niên dân chủ ở Hà Nội, tham gia phong trào Thanh niên phản đế Đông Dương, đồng chí sớm giác ngộ cách mạng và đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 19 tuổi. Đồng chí đã được làm việc với các nhà hoạt động cách mạng như Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt..., được dự lớp huấn luyện chính trị ngắn ngày của đồng chí Nguyễn Văn Cừ.
Năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam; đồng chí Lê Quang Đạo được Trung ương Đảng và Bác Hồ giao nhiều trọng trách lần lượt làm Bí thư Ban Cán sự Đảng các tỉnh: Bắc Ninh, Phúc Yên và thành phố Hà Nội; Xứ ủy viên, rồi giữ chức Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ với nhiệm vụ chủ yếu lúc này là xây dựng các cơ sở đảng, tuyên truyền phát triển các tổ chức quần chúng ở vùng căn cứ Bắc Ninh - Phúc Yên - Hà Nội, giúp Trung ương đào tạo cán bộ cho phong trào quần chúng đấu tranh sâu rộng, mạnh mẽ, tạo những tiền đề và điều kiện thuận lợi cho khởi nghĩa thắng lợi ở các địa bàn này trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đồng chí được cử về tham gia thành lập Thành ủy Hải Phòng và được cử làm Bí thư. Trên cương vị Bí thư Thành ủy Hải Phòng trong lúc cách mạng đang ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đồng chí đã cùng với cấp ủy đảng Hải Phòng đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức cứu quốc, củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang và chỉ đạo tổ chức thành công Tổng tuyển cử ở Hải Phòng, góp phần giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 25
2. Đồng chí Lê Quang Đạo là người chỉ huy chính trị, quân sự, người Anh cả của ngành Tuyên huấn Quân đội nhân dân Việt Nam
Từ khi được điều động vào Quân đội (năm 1950), trong suốt những năm tháng quân ngũ, đồng chí đã cống hiến tài năng và trí tuệ, với tư duy sáng tạo, nhạy bén, trở thành một nhà hoạt động tư tưởng và văn hóa xuất sắc của Quân đội và của Đảng ta. Đồng chí có mặt ở
những chiến trường nóng bỏng với những chức vụ quan trọng. Trên cương vị Cục trưởng Cục Tuyên huấn (tháng 01/1951), đồng chí sớm nắm bắt được những yêu cầu quan trọng đặt ra đối với công tác lãnh đạo chính trị, chủ động đề xuất những nội dung quan trọng của công tác giáo dục chính trị trong bộ đội và được phân công biên soạn, viết nhiều tài liệu về công tác chính trị, tư tưởng, xây dựng Đảng, đặc biệt là các tài liệu chỉnh huấn, chỉnh quân trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Cùng với đó, đồng chí còn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên huấn cho các cấp, các đơn vị, góp phần xây dựng ngành Tuyên huấn Quân đội ngày càng hoàn thiện về tổ chức và giỏi về nghiệp vụ.
Đồng chí Lê Quang Đạo đã giúp Quân ủy Trung ương đặc biệt chăm lo bồi dưỡng và phát huy bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội”, và phần thưởng cao quý nhất đối với lực lượng vũ trang ta là được nhân dân tặng danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”. Bản thân đồng chí Lê Quang Đạo là một con người tiêu biểu cho phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Cống hiến của đồng chí đối với Quân đội ta rất to lớn cả về hai mặt xây dựng và chiến đấu. Đồng chí rất coi trọng xây dựng Quân đội về chính trị và tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong nhiều chiến dịch quan trọng. Đồng chí được Quân ủy Trung ương giao nhiều trọng trách trong các chiến dịch lớn:
26 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Phụ trách công tác tuyên huấn trong Chiến dịch Biên giới (1950), Phó Chủ nhiệm chính trị Chiến dịch Điên Biên Phủ (1954), Quyền Chính ủy Đại đoàn 308 trong cuộc tiến công sang Thượng Lào, Phó Trưởng đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ban Liên hiệp đình chiến Việt - Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí thường có mặt ở
những chiến trường nóng bỏng, đã từng làm Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (1968), chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), Chiến dịch Trị - Thiên (1972). Trên cương vị được giao, đồng chí luôn đi sát mặt trận, bám sát chiến trường, nắm chắc diễn biến của từng trận đánh, gần gũi chiến sĩ, phát huy tinh thần tập thể, dân chủ, động viên bộ đội quyết tâm chiến đấu. Đồng chí đã cùng cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta lập nên những chiến thắng vẻ vang, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Giữa tháng 6/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III được tổ chức tại Hà Nội, thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Lê Quang Đạo đã trình bày tham luận khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời nêu rõ những ưu điểm, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến và nguyên nhân của những khuyết điểm đó. Bài phát biểu của đồng chí Lê Quang Đạo tại Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã góp phần vào thành công của Hội nghị lịch sử, quyết định đường lối chiến lược để kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Qua kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn phong phú trên các chiến trường, đồng chí đã viết nhiều bài, rút ra những kinh nghiệm về thực hiện công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội.
Khi bàn về vai trò, tầm quan trọng của công tác chính trị, tư tưởng trong Quân đội trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Lê Quang Đạo nhấn mạnh: Được Đảng tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, ra đời từ trong
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 27
phong trào cách mạng của nhân dân, Quân đội ta đã phát triển lớn mạnh nhanh chóng và chiến thắng vẻ vang. Cùng với toàn dân, Quân đội ta đã đánh đuổi phát xít Nhật, chiến thắng đế quốc Pháp và hiện đang đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, làm cho bè bạn mến phục, thế giới kinh ngạc và kẻ thù khiếp sợ. Quân đội ta thật xứng đáng là quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng. Vậy, cái gì đã làm nên sức mạnh chiến thắng thần kỳ của Quân đội ta? Có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết vì Quân đội ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã có tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất, có khí phách anh hùng được xây dựng trên cơ sở giác ngộ chính trị cao, tình đoàn kết chiến đấu chặt chẽ trong nội bộ Quân đội, giữa Quân đội và nhân dân theo đường lối chính trị và quân sự đúng đắn. Những chiến công oanh liệt của Quân đội ta càng khẳng định chân lý bất di bất dịch là con người có giác ngộ chính trị, có tinh thần chiến đấu cao bao giờ cũng là nhân tố cơ bản nhất quyết định mọi thắng lợi trên chiến trường. Tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của Quân đội ta bắt nguồn từ tính chất chính nghĩa của chiến tranh cách mạng, từ bản chất vô sản của Quân đội nhân dân, từ chế độ xã hội chủ nghĩa, từ sự lãnh đạo của Đảng với đường lối cách mạng đúng đắn phản ánh đúng nguyện vọng, yêu cầu của đông đảo quần chúng, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội và đặc điểm của nước ta. Muốn cho những điều kiện đó biến thành sức mạnh tinh thần vô địch của Quân đội phải có công tác chính trị, tư tưởng vững mạnh của Đảng. Có thể nói: công tác chính trị, tư tưởng là điều kiện chủ quan quyết định trực tiếp việc nâng cao tinh thần chiến đấu của Quân đội.
Với những đóng góp to lớn đối với công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đồng chí Lê Quang Đạo được tôn vinh là “Anh cả của ngành Tuyên huấn Quân đội”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhận xét: “Đồng chí Lê Quang Đạo là một cán bộ lãnh đạo có đức độ và tài năng của Đảng ta và Quân đội ta... Suốt 28 năm trong quân ngũ,
28 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Lê Quang Đạo đã đem hết tài năng và sức lực, tâm hồn và trí tuệ xây dựng và chỉ đạo ngành Tuyên huấn Quân đội. Anh là một nhà hoạt động tư tưởng và văn hóa xuất sắc của Quân đội và của Đảng... Anh là một nhà lãnh đạo, chỉ huy ưu tú của Quân đội, một vị tướng có đủ
những đức tính trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung như Bác Hồ đã từng dạy. Anh coi trọng xây dựng Quân đội về chính trị và tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong chiến dịch, chiến đấu...”1. Với những công lao, đóng góp cho ngành Tuyên huấn Quân đội trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đồng chí Lê Quang Đạo đã được Đảng, Nhà nước phong hàm Thiếu tướng năm 1958 và Trung tướng năm 1974.
3. Đồng chí Lê Quang Đạo là nhà hoạt động chính trị xuất sắc của Đảng, người lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) và lần thứ V (1982) của Đảng, đồng chí Lê Quang Đạo được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và Bí thư Trung ương Đảng, trực tiếp làm Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương, phụ trách công tác dân vận của Đảng, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, trước bộn bề khó khăn chồng chất của đất nước mới ra khỏi cuộc chiến tranh, cả nước phải gồng mình để hàn gắn vết thương chiến tranh, đất nước bị bao vây, cấm vận, lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, đời
_______________
1. Lê Quang Đạo (1921 - 1999), Sđd, tr.186.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 29
sống nhân dân gặp nhiều khó khăn... Trên cương vị công tác của mình, đồng chí Lê Quang Đạo cùng Ban Khoa giáo Trung ương đã tranh thủ, tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, các trí thức có tâm huyết góp ý với Đảng. Nhiều ý kiến quý báu lần đầu tiên đề cập các vấn đề tư duy lý luận, tư duy kinh tế, kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, các vấn đề sử dụng nhân tài, phát triển nguồn lực của đất nước... Đồng chí Lê Quang Đạo cùng Ban Khoa giáo Trung ương tổng hợp các ý kiến, các đề xuất, trực tiếp báo cáo với Tổng Bí thư Trường Chinh, nhiều nội dung mới của các báo cáo này, lần đầu tiên đã được thể hiện trong Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) - Đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước.
Từ năm 1983 đến năm 1986, đồng chí Lê Quang Đạo giữ các chức vụ: Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), đồng chí tiếp tục được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Tháng 6/1987, tại kỳ họp Quốc hội khóa VIII, đồng chí Lê Quang Đạo được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong 5 năm trên hai cương vị ấy, đồng chí đã góp phần tích cực đưa đường lối đổi mới của Đảng vào việc đổi mới hoạt động của Quốc hội, nhất là việc đẩy mạnh công tác lập hiến và lập pháp, để thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật như: chỉ đạo việc soạn thảo Hiến pháp năm 1992, phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (1991), đáp ứng đòi hỏi của cách mạng trong giai đoạn mới. Trong việc xây dựng pháp luật, đồng chí đã góp phần tích cực để Quốc hội thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
30 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Quốc hội khóa VIII dưới sự điều hành của đồng chí và Hội đồng Nhà nước đã thông qua 20 luật, 30 pháp lệnh và nghiên cứu để chuẩn bị thể chế hóa nhiều luật và pháp lệnh quan trọng khác, đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn đổi mới đất nước cũng như xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trên cương vị Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Lê Quang Đạo đã cùng với Quốc hội đẩy mạnh công tác lập pháp, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật. Quốc hội khóa VIII do đồng chí Lê Quang Đạo làm Chủ tịch đã thông qua Hiến pháp năm 1992 và nhiều bộ luật, pháp lệnh, quyết định nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động của Nhà nước, thực hiện quan điểm Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Đồng chí Lê Quang Đạo cũng rất chú trọng tới những vấn đề lý luận và thực tiễn, đổi mới phong cách làm việc, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Nhà nước, tích cực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Đồng chí có nhiều bài phát biểu, bài viết quan trọng trong chỉ đạo công tác lập pháp theo quan điểm của Đảng. Ngoài thực hiện chương trình pháp luật của Quốc hội, đồng chí cùng Quốc hội đóng góp nhiều vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong công cuộc đổi mới của đất nước. Trong 5 năm trên cương vị Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, đồng chí Lê Quang Đạo đã góp phần quan trọng cho công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt động Quốc hội, mở rộng dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đầu năm 1993, đồng chí Lê Quang Đạo được điều sang chuyên trách công tác Mặt trận, với cương vị Bí thư Đảng đoàn và Ủy viên
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 31
Đoàn Chủ tịch. Trên cương vị mới, đồng chí đã dành nhiều công sức, tâm huyết và trí tuệ cho công tác Mặt trận và sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Thấm nhuần sâu sắc quan điểm về đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí đã cùng Đảng đoàn Mặt trận tham mưu cho Đảng xây dựng và ban hành Nghị quyết 07-NQ/TW, ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị về “Đại đoàn kết toàn dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất” với mục tiêu phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Nghị quyết đã cụ thể hóa Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp năm 1992.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IV (tháng 8/1994), đồng chí Lê Quang Đạo được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong các năm 1993 và 1994, cùng với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng chí đã có nhiều đóng góp về
phát triển công tác Mặt trận; hướng công tác Mặt trận về cơ sở xã, phường, góp phần phát huy tinh thần yêu nước, ý thức dân chủ, tự chủ, tự quản, tinh thần chủ động, tích cực của nhân dân trong xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư...
Hơn 60 năm tham gia cách mạng, trải qua nhiều lĩnh vực hoạt động công tác khác nhau cả trong và ngoài Quân đội, đã đem lại cho đồng chí Lê Quang Đạo vốn sống phong phú, kiến thức sâu rộng và phương pháp công tác linh hoạt, sáng tạo. Là một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Quân đội và Mặt trận, ở cương vị
công tác nào, đồng chí Lê Quang Đạo cũng cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ta. Những công lao, đóng góp đồng chí Lê Quang Đạo cả về lý luận và thực tiễn công tác đảng,
32 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như những đóng góp của đồng chí về lý luận, thực tiễn cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quốc hội Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới thì sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, hoạt động của Quốc hội trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần tiếp tục được phát huy hiệu quả, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
33
HỌC TẬP VÀ NOI GƯƠNG ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO, ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
QUYẾT TÂM XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG
NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP, VĂN MINH
Đồng chí ĐÀO HỒNG LAN
Ủy viên Trung ương Đảng
Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội
tỉnh Bắc Ninh
H
ội thảo khoa học cấp quốc gia “Đồng chí Lê Quang Đạo với cách mạng Việt Nam và quê hương Bắc Ninh” là hoạt động
có ý nghĩa thiết thực kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Quang Đạo, nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, người con ưu tú của quê hương Bắc Ninh.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và là cửa ngõ phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội. Là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hiến và cách mạng. Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, Bắc Ninh có nhiều danh nhân nổi tiếng như Lê Văn Thịnh, Hàn Thuyên, Nguyễn Đăng Đạo, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Cao...; nhiều chiến sĩ cách mạng tiêu biểu, kiên trung như đồng chí Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Lê Quang Đạo... Trong đó, đồng chí Lê Quang Đạo -
34 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, người con ưu tú của quê hương Bắc Ninh đã trở thành niềm tự hào to lớn, là động lực tinh thần cổ vũ các thế hệ người Bắc Ninh trong quá trình xây dựng và phát triển.
Đồng chí Lê Quang Đạo (tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện), sinh ngày 08/8/1921, trong một gia đình có truyền thống hiếu học, yêu nước tại xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Sinh ra và lớn lên tại vùng đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng, quê hương của vương triều Lý; đồng thời, nơi đây cũng là căn cứ địa, an toàn khu của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ, thường xuyên được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước về chỉ đạo và hoạt động cách mạng... Truyền thống quê hương, gia đình đã hun đúc, nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, là động lực, điểm tựa để đồng chí Lê Quang Đạo phấn đấu, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.
Năm 1930, Nguyễn Đức Nguyện đi học ở Trường Tiểu học kiêm bị Đình Bảng; năm 1936, tốt nghiệp Tiểu học. Năm học 1937 - 1938, Nguyễn Đức Nguyện ra Hà Nội học, lúc đầu học tại Trường tư thục Gia Long, sau chuyển sang học ở Trường Trung học tư thục Thăng Long. Là người có tri thức, lại sớm được tiếp cận, gặp gỡ, học tập tư
tưởng yêu nước, tiến bộ qua sách báo của Đảng và các thầy giáo như Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai... đặc biệt là tiếp thu Đường kách mệnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Đức Nguyện đã sớm giác ngộ cách mạng, đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn. Cuối năm 1938, Nguyễn Đức Nguyện tham gia Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Đình Bảng. Người thanh niên Nguyễn Đức Nguyện thường xuyên hưởng ứng hoạt động của Hội truyền bá quốc ngữ, đặc biệt đã tổ chức rước đèn, đọc bài vè “Hò đi học” cổ động nhân dân trong làng đi học với khẩu hiệu “Đi học là yêu nước”.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 35
Trong thời gian học tại Hà Nội, mỗi lần về quê, Nguyễn Đức Nguyện đã tích cực tuyên truyền nhiều loại sách báo tiến bộ đến với các đoàn viên thanh niên tại Đình Bảng lúc đó. Hầu hết các điếm canh trong làng đều thành các phòng đọc công cộng. Thông qua sách báo tiến bộ, các chủ trương, đường lối của Đảng được truyền bá đến các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ trong làng Đình Bảng.
Đến giữa năm 1939, Đình Bảng là địa phương có một mạng lưới cơ sở cách mạng rộng, có phong trào cách mạng sôi nổi. Cuối năm 1939, Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ ra chủ trương chuyển hình thức hoạt động của các tổ chức cộng sản từ hoạt động công khai, hợp pháp, sang hình thức bí mật. Thực hiện chủ trương chuyển trọng tâm công tác về vùng nông thôn, gấp rút xây dựng hệ thống các cơ sở chính trị bí mật vững chắc ở Đình Bảng, Nguyễn Đức Nguyện cùng một số đồng chí khác được giao nhiệm vụ chuẩn bị các cơ sở tin cậy và lo công tác đảm bảo an toàn nơi ăn chốn ở để đón các đồng chí lãnh đạo của Đảng về
hoạt động.
Trong dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga (ngày 07/11/1939), Nguyễn Đức Nguyện đã cùng các bạn thanh niên dải truyền đơn trong các ngõ xóm, ở làng Đình Bảng và phủ Từ Sơn. Thông qua các hoạt động với nhiều hình thức phong phú, phong trào cách mạng ở Đình Bảng và huyện Từ Sơn ngày càng phát triển.
Với nhiều hoạt động sôi nổi, nhiệt huyết của bản thân, Nguyễn Đức Nguyện đã góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ở Đình Bảng và các địa phương lân cận. Đến tháng 8/1940, Nguyễn Đức Nguyện được kết nạp vào Đảng khi mới 19 tuổi. Nhận thấy vị trí ngày càng quan trọng của Đình Bảng và để xây dựng Đình Bảng trở thành một trong những địa bàn an toàn bí mật, làm cơ sở của cơ quan Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ, cuối năm 1940, Chi bộ độc lập đầu tiên của Đình Bảng được thành lập, do đồng chí Nguyễn Đức Nguyện làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, Đình Bảng đã trở thành nơi có
36 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
phong trào cách mạng phát triển mạnh và được Trung ương Đảng chọn là một trong những tâm điểm để xây dựng thành An toàn khu I. Hội nghị Trung ương lần thứ bảy tổ chức tại làng Đình Bảng đã được bảo vệ an toàn.
Từ giữa năm 1941, đồng chí Nguyễn Đức Nguyện thoát ly gia đình để hoạt động cách mạng lấy tên là Lê Quang Đạo. Đồng chí thường xuyên gây dựng cơ sở, phát triển phong trào cách mạng ở Cẩm Giang, Trang Liệt, Phù Chẩn, Trung Mầu, Phù Khê, Tam Sơn, Phật Tích... Đầu năm 1941, đồng chí thành lập Chi bộ Đảng Phù Chẩn - Dương Húc và trực tiếp làm Bí thư. Lúc này cả tỉnh Bắc Ninh có 4 chi bộ là: Đình Bảng, Cẩm Giang - Trang Liệt, Phù Chẩn - Dương Húc (Từ Sơn) và Liễu Khê (Thuận Thành), phong trào cách mạng phát triển mạnh cả chiều rộng và chiều sâu. Để đáp ứng yêu cầu tình hình mới, đồng chí Lê Quang Đạo được điều động làm Bí thư Ban Cán sự Đảng huyện Từ Sơn.
Trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và điều kiện đã cho phép, Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh được thành lập, đồng chí Lê Quang Đạo làm Bí thư. Sau khi Ban Cán sự Đảng tỉnh được thành lập, công tác xây dựng Đảng và phong trào cách mạng quần chúng được đẩy mạnh, phát triển lên một bước. Với cương vị là Bí thư Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh, đồng chí Lê Quang Đạo đã cùng các đồng chí trong Ban Cán sự tổ chức nhiều hoạt động, phát triển thêm nhiều đảng viên mới và mở rộng cơ sở cách mạng ra các xã thuộc huyện Tiên Du, Thuận Thành, Quế võ. Bằng những hoạt động tích cực của mình, đồng chí Lê Quang Đạo đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng Tháng 8 năm 1945 thắng lợi ở tỉnh Bắc Ninh.
Là một cán bộ trưởng thành trong phong trào cách mạng quần chúng, luôn sâu sát cơ sở, bám sát địa bàn, đồng chí Lê Quang Đạo đã trưởng thành về mọi mặt. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 37
đồng chí được Trung ương Đảng điều động và phân công làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng, Bí thư Thành ủy Hà Nội và sau đó đảm nhận các chức vụ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như Cục trưởng Cục Tuyên huấn; Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Trưởng ban Khoa giáo Trung ương; Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đồng chí được phong hàm Thiếu tướng năm 1958 và Trung tướng năm 1974. Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khóa III, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương các khóa III, IV, V, VI; Bí thư Trung ương Đảng các khóa IV, V. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào, đồng chí đều nỗ lực, hết lòng, hết sức cống hiến và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, đóng góp quan trọng vào những thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn.
Là một cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, đồng chí Lê Quang Đạo vẫn luôn gần gũi với quê hương. Mặc dù thoát ly quê hương đi hoạt động cách mạng, nhưng mỗi khi có điều kiện, đồng chí đều về quê, gắn bó với nhân dân địa phương, dành cho quê hương những tình cảm thân tình và trách nhiệm. Đồng chí thường nhắc nhở, động viên Đảng bộ và nhân dân Đình Bảng phải đoàn kết thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đình Bảng vốn có truyền thống cách mạng, cần phát huy để xứng đáng là một làng kiểu mẫu”. Đồng chí thường nói: “Ai làm cách mạng cũng do xuất phát từ tình cảm quê hương, lòng yêu dân tộc”. Về dự Đại hội Đảng bộ tỉnh, Đại hội Mặt trận Tổ quốc tỉnh đồng chí nhắc nhở cán bộ, đảng viên: cần phải chăm lo công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ; tăng cường khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng và nhân dân, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, quan tâm đào tạo, giáo dục thế hệ trẻ, phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân... Tình cảm mặn
38 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
nồng với quê hương, đến những ngày cuối đời, khi đang dưỡng bệnh trong bệnh viện, đồng chí vẫn nói với các con: “Sau này, khi bố không đủ sức khỏe thì các con cố gắng thay bố thăm hỏi họ hàng, quê nhà. Dù trong hoàn cảnh nào của đời sống và sự nghiệp cũng luôn nghĩ đến quê hương. Nếu có thể giúp gì được cho quê nhà thì nên làm”.
Hơn 60 năm hoạt động cách mạng (1938 - 1999), đồng chí Lê Quang Đạo là một cán bộ tài năng, đức độ, ham học hỏi, giàu trí tuệ, trung thực, thẳng thắn, rất mực khiêm tốn, luôn tôn trọng, lắng nghe ý kiến nhân dân; sống giản dị, trong sáng, hòa hợp, đoàn kết với mọi người. Đồng chí là tấm gương của nhà lãnh đạo tận tụy và đầy trách nhiệm trước dân, trước Đảng, trước mọi nhiệm vụ, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân; là hình mẫu tiêu biểu của người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, một nhà yêu nước chân chính, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là tấm gương sáng ngời cho các thế hệ hôm nay và mai sau học tập, noi theo.
Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Quang Đạo, tỉnh Bắc Ninh đã phối hợp với các cơ quan Trung ương tổ chức nhiều hoạt động thiết thực như: hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm; tổ chức cuộc thi tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp và cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí; phát triển lớp đảng viên mang tên đồng chí Lê Quang Đạo; tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia; xây dựng phim tài liệu, phóng sự; sưu tầm tài liệu, hiện vật, kỷ vật về đồng chí; xây dựng Nhà lưu niệm tại Công viên thị xã Từ Sơn; trùng tu, tôn tạo, xếp hạng di tích lịch sử Nhà lưu niệm (gốc) tại khu phố Tỉnh Cầu, phường Đình Bảng; tổ chức Lễ dâng hương; chỉ đạo các tổ chức cơ
sở đảng học tập chuyên đề về tấm gương đồng chí Lê Quang Đạo, tổ chức tham quan, nói chuyện chuyên đề, chiếu phim tài liệu... nhằm khơi dậy niềm tự hào về truyền thống cách mạng của quê hương, cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ra sức thi đua, phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 39
Phát huy truyền thống của quê hương, đất nước, học tập và noi gương đồng chí Lê Quang Đạo, trong các giai đoạn cách mạng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bắc Ninh luôn phát huy truyền thống văn hiến, cách mạng, đoàn kết khắc phục khó khăn, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị trên các lĩnh vực. Từ một tỉnh thuần nông, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn... Sau gần 25 năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, vượt bậc trên các lĩnh vực, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp; quy mô kinh tế mở rộng; nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội luôn nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước, Bắc Ninh trở
thành cực tăng trưởng của Vùng Thủ đô; các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa - xã hội được quan tâm phát triển đồng bộ; nhiều chính sách an sinh xã hội đi trước và cao hơn mức bình quân cả nước; đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao; công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội đạt nhiều kết quả tích cực; Đảng bộ tỉnh luôn đạt trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt 6 tháng đầu năm 2021, đại dịch Covid-19 tiếp tục bùng phát và diễn biến hết sức phức tạp, Bắc Ninh là một trong những địa phương nằm trong tâm dịch, chịu hậu quả lớn do tác động của dịch bệnh. Song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Trung ương, sự vào cuộc quyết liệt, sáng tạo của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết, đồng thuận của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp tỉnh, Bắc Ninh đã đạt được những kết quả quan trọng trong thực hiện ba mục tiêu chủ yếu: phòng, chống dịch hiệu quả; tổ chức thành công tốt đẹp cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 - 2026; tập trung khắc phục khó khăn, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đến nay, dịch Covid-19 đã cơ bản được khống chế; sản
40 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
xuất tiếp tục được duy trì; đời sống của nhân dân, người lao động được đảm bảo, trật tự xã hội được giữ vững.
Học tập tấm gương đồng chí Lê Quang Đạo, để hướng đến mục tiêu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bắc Ninh tiếp tục phát huy truyền thống văn hiến và cách mạng, quê hương đồng chí Lê Quang Đạo, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong hành động nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục quan tâm xây dựng Đảng bộ, chính quyền trong sạch, vững mạnh; nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng gần dân, phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến nhân dân, phát huy được sức mạnh toàn dân. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Trung ương và của tỉnh; thực hiện tốt Quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cấp, các ngành gắn với Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và khát vọng cống hiến xây dựng quê hương, đất nước giàu đẹp, văn minh; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ hai, tiếp tục chủ động phòng chống dịch, tập trung phát triển kinh tế - xã hội bền vững; cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, gắn công nghiệp hóa với phát triển mở rộng không gian đô thị văn minh, hiện đại, phát huy lợi thế so sánh, tăng cường liên kết vùng, tạo động lực mới với vai trò cực tăng trưởng của Vùng Thủ đô.
Thứ ba, huy động mọi nguồn lực phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa - xã hội; chú trọng phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân; quan tâm chăm lo các đối tượng chính sách, người có công, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; phát huy giá trị dân ca quan họ và văn hóa, con người Bắc Ninh - Kinh Bắc.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 41
Giữ vững quốc phòng - an ninh, mở rộng đối ngoại, hội nhập quốc tế, tranh thủ các nguồn lực và phát huy sức mạnh toàn dân, tạo sự đồng thuận và môi trường ổn định thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững.
Phát huy những kết quả đạt được, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Ninh nguyện noi gương đồng chí Lê Quang Đạo, đoàn kết thống nhất, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ chính trị đề ra, xây dựng quê hương Bắc Ninh ngày càng phát triển.
Hội thảo khoa học hôm nay là một trong những hoạt động có ý nghĩa thiết thực trong chuỗi sự kiện kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của đồng chí Lê Quang Đạo. Chúng tôi tin rằng, thông qua những tham luận được trình bày tại Hội thảo lần này sẽ làm rõ hơn về cuộc đời, sự
nghiệp, tôn vinh những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Quang Đạo đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đây sẽ là những tư liệu hết sức quý báu và là tài liệu quan trọng để các đơn vị, địa phương, những nơi đồng chí Lê Quang Đạo đã từng hoạt động, nhất là tỉnh Bắc Ninh thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay và mai sau về sự cống hiến của các bậc lãnh đạo tiền nhân đối với đất nước, quê hương; khơi dậy và nêu cao lòng tự hào dân tộc, phát huy truyền thống lịch sử - văn hóa, truyền thống yêu nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập và phát triển.
42
CHỦ TỊCH LÊ QUANG ĐẠO VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
BAN THƯỜNG TRỰC
ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Đ
ồng chí Lê Quang Đạo, tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện, sinh ngày 08/8/1921 tại xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn (nay là
phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh.
Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, đồng chí Lê Quang Đạo đã sớm giác ngộ và đến với cách mạng từ khi còn rất trẻ. Trên cơ sở tiếp thu truyền thống đạo đức của dân tộc, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Quang Đạo đã thấm nhuần các chuẩn mực đạo đức của người cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Trong kháng chiến gian khổ, khốc liệt cũng như trong thời bình, đồng chí vẫn giữ nếp sống giản dị, trong sạch, trung thực, liêm khiết, gắn bó với nhân dân.
Đồng chí Lê Quang Đạo được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tin tưởng trao cho nhiều trọng trách quan trọng, ở địa bàn trọng yếu và ở những thời điểm lịch sử. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Đồng chí là nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân ta, nguyên là Chủ tịch Quốc hội,
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 43
Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong những vị Chủ tịch Mặt trận tạo bước đột phá cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc lên tầm cao mới. Liên tục từ năm 1983 đến năm 1999, đồng chí tham gia Đoàn Chủ tịch, trong đó 12 năm đảm nhiệm trọng trách Bí thư Đảng đoàn và 5 năm (1994 - 1999) là Chủ
tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với 17 năm tham gia công tác Mặt trận, đồng chí đã có những đóng góp to lớn với sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Đặc biệt là với trọng trách được phân công, đồng chí có những đóng góp quan trọng trong việc giúp Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xây dựng Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 18/4/1983 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới”; Nghị quyết số 07- NQ/TW, ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”; Xây dựng Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được và thông qua tại kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa X (ngày 12/6/1999).
Ngay từ khi còn ở cương vị Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Lê Quang Đạo đã nhiều lần trao đổi về sự cần thiết phải có một nghị quyết chuyên đề của Đảng về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm cụ thể hóa Cương lĩnh năm 1991 của Đảng và Hiến pháp năm 1992, trong đó thể hiện cho được tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới của cách mạng. Theo đồng chí, trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” hiện nay, muốn đổi mới công tác Mặt trận nhất thiết phải đổi mới nhận thức và sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác Mặt trận. Vì đổi mới sự lãnh đạo của Đảng là xuất phát điểm, là yếu tố quyết định để sự đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận đạt hiệu quả
44 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
cao1. Đầu năm 1993, khi chuyển sang chuyên trách công tác Mặt trận với cương vị Bí thư Đảng đoàn và Ủy viên Đoàn Chủ tịch, với nhận thức trên, đồng chí đã dành nhiều công sức, tâm huyết và trí tuệ cho công tác Mặt trận và sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng chí đã cùng Đảng đoàn Mặt trận giúp Trung ương Đảng xây dựng và ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị
“Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất trong tình hình mới”. Nội dung chủ yếu của Nghị quyết là: phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đúng như Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”2. Đại đoàn kết chủ yếu lấy mục tiêu chung đó làm điểm tương đồng, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng tới tương lai, hòa hợp thành một khối thống nhất để xây dựng và bảo vệ đất nước, tất cả vì độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Nghị quyết đã nêu bật quan điểm: Đảng là người lãnh đạo Mặt trận, vừa là thành viên của Mặt trận; phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc thực chất là phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời đã tạo bước ngoặt cho sự tăng cường đoàn kết dân tộc và công tác Mặt trận trong
_______________
1. Xem Lê Quang Đạo (1921 - 1999), Sđd, tr.464.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.614.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 45
công cuộc đổi mới đất nước. Đây là nghị quyết rất quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, thể hiện tư duy đổi mới rất sâu sắc của Đảng về công tác Mặt trận trong thời kỳ mới, đã được đồng bào trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài đồng tình hưởng ứng. Đồng thời, Nghị quyết cũng mang tính định hướng cho Quốc hội trong việc xây dựng Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sau này. Đồng chí Lê Quang Đạo là người chủ trì và đóng góp rất nhiều công sức, trí tuệ vào việc xây dựng Nghị quyết.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tháng 8/1994), đồng chí Lê Quang Đạo được cử làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cũng tại Đại hội này, Mặt trận đã kế thừa, mở rộng và phát huy việc xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư lên thành một nội dung quan trọng trong đổi mới phương thức hoạt động và củng cố tăng cường Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nghị quyết đầu tiên của Ủy ban Trung ương Mặt trận khóa IV là phát động một cuộc vận động nhằm thực hiện chủ trương này.
Trả lời phỏng vấn báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 19/8/1994), đồng chí làm rõ quan điểm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: đại đoàn kết chủ yếu lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những sự khác nhau không trái với lợi ích chung của Tổ quốc. Để phát huy hiệu quả công tác của Mặt trận, cần phải đổi mới tổ chức hoạt động của Mặt trận sao cho thiết thực, theo hướng củng cố, mở rộng và đổi mới1. Một ngày sau, trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ (ngày 20/8/1994), đồng chí giải thích tại sao Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lại phải xây dựng cương lĩnh trong khi đã có đường lối chung của Đảng. Về phương hướng đổi mới tổ chức hoạt động của Mặt trận, đồng chí Lê Quang Đạo nêu rõ: “Một là, phải làm sao cho Mặt trận thật sự
tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay, từ Trung ương đến _______________
1. Xem Lê Quang Đạo: Tuyển tập, Sđd, tr.682-685.
46 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
địa phương có nhiều trường hợp Mặt trận chưa thực sự tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc. Ở nhiều cấp chính quyền, nhiều tổ chức đoàn thể, những vị trí chủ chốt đều là đảng viên. Đây là một mặt mạnh của sự lãnh đạo của Đảng và có nhiều đảng viên làm việc rất tốt. Nhưng có nguy cơ Đảng và Nhà nước dần dần tách khỏi nhân dân. Khi tách khỏi quần chúng thì không còn sức mạnh... Hai là, Mặt trận phải hoạt động thực chất, thiết thực để đem lại hiệu quả ngày càng cao... Muốn hoạt động thực chất thì phải nắm vững nguyên tắc hành động: hiệp thương dân chủ, hợp tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp thống nhất hành động. Trong đó hai nguyên tắc cơ bản nhất là hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động chung... Để thiết thực thì phải tập trung được trí tuệ và phản ánh được những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phải tạo ra được những phong trào hành động chung, phải xây dựng, bảo vệ và đặc biệt là giám sát hoạt động của các tổ chức, nhân viên nhà nước”1.
Sau 10 năm thực hiện cuộc vận động, với những kinh nghiệm và kết quả đã đạt được, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, Đại hội lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đặt ra yêu cầu: Phải nâng cao chất lượng và mở rộng cuộc vận động hiện có trở thành cuộc vận động toàn dân, toàn diện, toàn quốc.
Ngay sau Đại hội lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có biết bao công việc phải làm, đồng chí Lê Quang Đạo đã dành sự ưu tiên cho việc tìm tòi, suy nghĩ để có được sự chuyển biến mới về phong trào quần chúng trong thời kỳ đổi mới. Đồng chí đã nghe nhiều ý kiến của các cán bộ Mặt trận qua các thời kỳ, đã đi tìm hiểu phong trào ở nhiều địa phương, đặc biệt là những nơi đã có những nhân tố mới, có cách làm mới hoặc đang manh nha những ý tưởng mới như các tỉnh Sơn La, Vĩnh Long, Lai Châu, Hải Dương và các thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh,
_______________
1. Lê Quang Đạo: Tuyển tập, Sđd, tr.688.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 47
Hà Nội, Hải Phòng,... Trong nhiều cuộc họp của Ban Thường trực Đoàn Chủ tịch, bàn về chủ trương phát động phong trào, hay một cuộc vận động, đồng chí đã gợi mở và khuyến khích những đề xuất mới, tạo không khí thảo luận sôi nổi, các ý kiến khá phong phú, đa dạng, nhiều chiều, kể cả tên phong trào hay cuộc vận động... Tất cả các ý kiến đều được đồng chí lắng nghe và tôn trọng. Đồng chí nêu lên ý tưởng và tư
tưởng chỉ đạo phát động một cuộc vận động mới: trong thời kỳ đổi mới, với chức năng của mình, Mặt trận cần phát động một cuộc vận động chính trị - xã hội rộng lớn phù hợp, nhằm quy tụ và thúc đẩy mọi phong trào của các tầng lớp nhân dân của cả nước. Cuộc vận động cần thể hiện tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn giữa huy động với bồi dưỡng sức dân như Bác Hồ đã dạy lấy sức dân mà xây dựng cuộc sống cho dân,... nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân. Cuộc vận động phải mang tính toàn dân, phát huy truyền thống đại đoàn kết, thực hành dân chủ, coi đây là động lực của các phong trào, cũng là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. Cuộc vận động nên lấy địa bàn khu dân cư là nơi thực hiện, nên lấy hình thức tự quản để phát huy sức dân ở mọi cộng đồng dân cư.
Ý kiến của đồng chí đã được Ban Thường trực Đoàn Chủ tịch nhất trí cao và sau một thời gian chuẩn bị, các văn bản dự thảo đã được hoàn thành và được Ban Thường trực thông qua với tên gọi “Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”. Ngày 03/5/1995, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra Thông tri số 04 về Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” (sau này nhiều nơi gọi tắt là Cuộc vận động 04).
Thực hiện ý kiến của đồng chí Lê Quang Đạo, ngày 15/01/1999, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục ban hành Thông tri số 01 để hướng dẫn tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng “Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống
48 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
mới ở khu dân cư”, bổ sung và cụ thể hóa những yêu cầu về đời sống văn hóa, về quy chế dân chủ vào các nội dung đã có, đồng thời bổ sung một nội dung mới: “Đoàn kết xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh gắn bó với nhân dân trong khu dân cư”.
Đồng chí Lê Quang Đạo còn rất quan tâm tới việc củng cố các tổ chức đoàn thể. Đến dự Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VII (tháng 11/1993), đồng chí phát biểu nêu lên vai trò, nhiệm vụ của giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn trong công tác vận động công nhân, trí thức tích cực góp phần vào phát triển kinh tế. Đồng chí đề nghị cần có các biện pháp tích cực đưa giai cấp công nhân lên một tầm cao mới, từ đó có thể đẩy mạnh công nghiệp phát triển, giải quyết được nhiều việc làm và cải thiện đời sống của công nhân, lao động. Đồng chí Lê Quang Đạo nhận thấy Mặt trận có thể và cần phải đảm nhiệm một vai trò quan trọng trong lĩnh vực vận động quần chúng, triển khai trong cả nước một phong trào học tập, hướng tới một xã hội học tập. Sau một thời gian vận động và chuẩn bị, dưới sự đỡ đầu của Mặt trận Tổ quốc, Hội Khuyến học Việt Nam được thành lập, do Giáo sư Nguyễn Lân làm Chủ tịch. Trong bài phát biểu tại Đại hội thành lập Hội Khuyến học Việt Nam tháng 10/1996, đồng chí Lê Quang Đạo nói: “Ngày nay với sự cố gắng rất nhiều của Nhà nước ta, để phát triển sự nghiệp giáo dục, chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa việc “xã hội hóa giáo dục””.
Ngay từ năm 1988, đồng chí Lê Quang Đạo đã chú ý đến tổ chức Hội đồng Dân chủ - Pháp luật của Mặt trận. Hội đồng này gồm các giáo sư, chuyên gia luật và một số lĩnh vực khác, những người được đào tạo rất cơ bản. Từ ngày về Mặt trận, mặc dù rất bận công việc, song đồng chí hầu như không bỏ qua một buổi họp nào của Hội đồng Dân chủ - Pháp luật, bàn về các dự luật sắp được đưa ra thông qua. Với vai trò tư vấn pháp luật cho Mặt trận, Hội đồng đã xem xét rất kỹ vấn đề tác động của văn bản luật đến quyền lợi của các tầng lớp nhân dân.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 49
Thấy rõ vai trò, tác dụng của Hội đồng Dân chủ - Pháp luật, sau Đại hội Mặt trận lần thứ IV (năm 1994), đồng chí Lê Quang Đạo đã thống nhất với Đoàn Chủ tịch Mặt trận và Tổng Thư ký Trần Văn Đăng cho thành lập thêm các hội đồng mới, như: Hội đồng Chính sách kinh tế, Hội đồng Khoa học - Giáo dục, Hội đồng Văn hóa - Xã hội. Ủy viên các hội đồng là các giáo sư, tiến sĩ, chuyên viên cao cấp, các nhà doanh nghiệp có tên tuổi, các viên chức cao cấp đã nghỉ hưu (làm việc theo chế độ cộng tác viên). Các hội đồng này thực sự là cơ quan tư vấn có hiệu quả cho Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong những vấn đề có liên quan. Ngoài ra, đồng chí Lê Quang Đạo còn chú ý đến hệ thống cộng tác viên của Mặt trận (viên chức cao cấp của chính quyền cũ, trưởng bản, già làng, chức sắc tôn giáo...), họ hoạt động rất hăng hái và tận tình, giúp Mặt trận giải quyết những xung đột giữa người dân và chính quyền địa phương, có những đóng góp thiết thực trong việc xây dựng chính sách thông qua tiếng nói của Mặt trận.
Đồng chí cũng tham gia đề xuất các ý kiến của Mặt trận đề nghị Quốc hội trong việc tham gia xây dựng, bổ sung, sửa đổi các luật như Luật quốc tịch (đã được ban hành năm 1988), Luật khiếu nại, tố cáo, Luật thương mại, Luật thuế giá trị gia tăng (năm 1997)... Trong số đó, bộ luật mà đồng chí dành nhiều thời gian, tâm sức nhất là Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Theo đồng chí, trước đây, Nghị quyết số 07- NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác Mặt trận quan trọng nhưng chưa được cụ thể hóa thành luật, chưa bảo đảm cho vị trí của Mặt trận được khẳng định trong hệ thống chính trị, là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước để tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân và đại diện cho tiếng nói của tất cả các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các kiều bào ta ở nước ngoài. Vì thế, sau khi Quốc hội quyết định đưa Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào chương trình xây dựng pháp luật theo kiến nghị của Đảng đoàn, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
50 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
quốc Việt Nam, đồng chí đã dốc sức cùng tập thể Đảng đoàn, Ban Thường trực, Đoàn Chủ tịch tập trung nghiên cứu, chỉ đạo để nhanh chóng thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc thành pháp luật, đó là xác định rõ tính chất, vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm, mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc với Nhà nước.
Với tư cách là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng chí đã dốc sức chỉ đạo và cùng tập thể Đảng đoàn, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường trực cho ý kiến để xây dựng dự thảo trong suốt ba năm rưỡi, đến dự thảo lần thứ 17 trước khi trình Quốc hội thông qua. Chính từ sự kiên quyết, kiên trì trong tư tưởng chỉ đạo của đồng chí trong Đảng đoàn, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường trực và kiên trì thuyết minh, thuyết trình với Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, mà Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ năm thông qua ngày 12/6/1999, trong đó toàn bộ những vấn đề cơ bản về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được quy định trong luật.
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời là mốc son, là nền tảng pháp lý mở ra một thời kỳ mới để Mặt trận chủ động đổi mới về tổ chức và hoạt động cho các đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sau này, nâng cao vai trò của Mặt trận trong sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết toàn dân, một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là công trình lớn cuối cùng của đồng chí dâng hiến cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận và nhân dân ta trước lúc lâm bệnh và đi xa.
Qua đây, chúng ta càng thấy rõ đồng chí Lê Quang Đạo là tấm gương của nhà lãnh đạo tận tụy và đầy trách nhiệm trước dân,
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 51
trước Đảng, trước mọi nhiệm vụ, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân; tấm gương khiêm tốn, giản dị, liêm khiết, trung thực, chân thành, ghét thói xu nịnh, cơ hội chủ nghĩa, bè phái; tấm gương nói ít làm nhiều, luôn chí công vô tư và đặt lợi ích của Đảng, của dân lên trên hết, trước hết. Đồng chí là nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, là tấm gương tiêu biểu của người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, một nhà yêu nước chân chính, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là tấm gương tiêu biểu cho các thế hệ hôm nay và mai sau học tập, noi theo. Đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng trong xây dựng và đặt cơ sở cho việc tiếp tục mở rộng và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
52
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN BẮC NINH, BẮC NINH VỚI ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO
Đồng chí NGUYỄN QUỐC CHUNG
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy,
Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh
Đ
ồng chí Lê Quang Đạo (tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện), sinh ngày 08/8/1921, trong một gia đình có truyền thống yêu
nước tại xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn (nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Sinh ra và lớn lên tại vùng đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng, nơi phát tích vương triều nhà Lý - khai mở nền văn minh Đại Việt; đồng thời, nơi đây cũng là căn cứ địa, an toàn khu của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ, thường xuyên được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước về chỉ đạo và hoạt động cách mạng... Truyền thống quê hương, gia đình đã hun đúc, nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, là động lực, điểm tựa để đồng chí Lê Quang Đạo phấn đấu, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.
Những năm 1930 - 1936, Nguyễn Đức Nguyện học và tốt nghiệp Trường Tiểu học Đình Bảng. Từ năm 1937 - 1939, học ở Trường Trung học tư thục Thăng Long - Hà Nội. Trong thời gian này, Nguyễn Đức Nguyện đã tham dự những buổi nói chuyện chính trị ở Hội quán Trí Tri, phố Hàng Quạt; tham gia Đoàn Thanh niên dân chủ, rồi Thanh niên phản đế; được đọc các sách báo tiến bộ như: Tin tức, Đời nay, Lao động, Tiếng nói của chúng ta, Hồn trẻ, Tiếng trẻ, Thời thế, Bạn dân, tác phẩm
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 53
Về vấn đề dân cày của Qua Ninh - Vân Đình1, các cuốn sơ giản về Chủ nghĩa Mác - Lênin... Thông qua sách báo và những tư tưởng yêu nước, tiến bộ của các thầy giáo có kiến thức uyên bác và nhân cách mẫu mực như Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp,... Nguyễn Đức Nguyện được tiếp thu Đường kách mệnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, và đã thấy con đường đi của mình... “Có thể nói “Từ ấy” của tôi đến từ phong trào Dân chủ Đông Dương, lúc tôi mới 16 - 17 tuổi, qua các sách báo của Đảng được xuất bản công khai lúc ấy... Tôi cảm thấy như bừng tỉnh, vì trước đây mình chỉ mới yêu nước chung chung, còn bây giờ một ánh sáng lý tưởng đã soi rọi khiến tôi náo nức, hăng say đi vào con đường cứu nước”2.
Tại quê nhà, Nguyễn Đức Nguyện đã mở lớp dạy hè cho học sinh trường làng; làm cộng tác viên của báo Con ong, cung cấp một số tin tức đấu tranh ở làng, viết những bài chế giễu thói hư tật xấu của xã hội, những bài thơ châm biếm; tổ chức tối rước đèn đêm Trung thu, nhằm hưởng ứng hoạt động của Hội truyền bá chữ quốc ngữ, với khẩu hiệu “Đi học là yêu nước”;... góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ở
Đình Bảng cũng như các địa phương lân cận ngày càng phát triển. Sau hơn hai năm tích cực hoạt động, gây dựng cơ sở cách mạng, Nguyễn Đức Nguyện đã trở thành cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đoàn Thanh niên dân chủ.
Tháng 8/1940, Nguyễn Đức Nguyện được kết nạp vào Đảng và sau ít tháng được phân công làm Bí thư Chi bộ Đình Bảng, Ủy viên Ban Cán sự Đảng phủ Từ Sơn. Trên cương vị Bí thư Chi bộ, đồng chí đã lãnh đạo phong trào cách mạng ở Đình Bảng theo những phương pháp thích hợp, tránh đấu tranh trực diện, đánh lạc hướng theo dõi, truy lùng của kẻ thù, nhằm che giấu lực lượng, hướng trọng tâm vào công
_______________
1. Bút danh của các đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp.
2. Lê Quang Đạo (1921 - 1999), Sđd, tr.30.
54 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
tác xây dựng, củng cố và phát triển cơ sở bí mật an toàn, tin cậy, làm cơ sở để phát triển phong trào cách mạng1.
Giữa năm 1941, đồng chí thoát ly gia đình để hoạt động cách mạng và lấy tên là Lê Quang Đạo. Cuối năm 1941, đầu năm 1942, đồng chí được phân công làm Bí thư Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh, Xứ ủy viên, rồi Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ. Trên cương vị Bí thư, đồng chí Lê Quang Đạo đã cùng Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh đẩy mạnh các phong trào cách mạng, phát triển đảng viên mới, mở rộng cơ sở
cách mạng sang các huyện Tiên Du, Thuận Thành...; thành lập chi bộ ghép Phù Chẩn - Dương Húc; tổ chức các cuộc mít tinh để tuyên truyền đường lối của Mặt trận Việt Minh trong quần chúng nhân dân; thành lập các tổ chức cứu quốc; lập Mặt trận Việt Minh; tổ chức bảo vệ chu đáo, an toàn cán bộ lãnh đạo và nhiều cuộc họp của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ, góp phần quan trọng vào Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Hơn 60 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Quang Đạo đã được Trung ương Đảng và Bác Hồ tin tưởng giao nhiều trọng trách quan trọng: Bí thư Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh; Bí thư Ban Cán sự Đảng tỉnh Phúc Yên; Bí thư Thành ủy Hải Phòng; Bí thư Thành ủy Hà Nội; Bí thư Liên Tỉnh ủy Hà Nội - Hà Đông; Cục trưởng Cục Tuyên huấn; Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Chủ
tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. _______________
1. Tháng 11/1940, Đình Bảng được Trung ương Đảng chọn làm nơi tổ chức Hội nghị lần thứ bảy. Tham dự Hội nghị có các đồng chí: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh, Hoàng Quốc Việt. Hội nghị đã chỉ rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam lúc này là thực dân, phát xít Nhật - Pháp; quyết định thành lập những đội du kích khi cần thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; chỉ thị cho Xứ ủy Nam Kỳ hoãn ngay cuộc khởi nghĩa vì chưa có đủ điều kiện đảm bảo cho khởi nghĩa thắng lợi.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 55
Đồng chí được phong hàm Thiếu tướng năm 1958 và Trung tướng năm 1974. Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khóa III, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương các khóa IV, V, VI; Bí thư Trung ương Đảng các khóa IV, V.
Trọn cuộc đời sống, chiến đấu cho Đảng, cho cách mạng, đồng chí Lê Quang Đạo đã góp phần quan trọng vào những chiến công hiển hách trong thời đại Hồ Chí Minh và công cuộc đổi mới đất nước. Ghi nhận những đóng góp to lớn của đồng chí, Đảng, Nhà nước đã tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác.
Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” và thể hiện lòng thành kính đối với các bậc tiền nhân thế hệ đi trước, trong những năm qua, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, các cấp ủy, chính quyền luôn quan tâm đến công tác quy hoạch; đầu tư
trùng tu, tôn tạo, xây dựng các di tích lịch sử như: Xây dựng nhà lưu niệm, nhà tưởng niệm, tượng đài, công viên mang tên các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, Hoàng Quốc Việt, Nhà lưu niệm Bác Hồ, quần thể khu di tích lịch sử - văn hóa đồi Lim (huyện Tiên Du), gắn với việc dựng Bia ghi dấu địa điểm thành lập Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Bắc Ninh - Bắc Giang... thành “địa chỉ đỏ” để tuyên truyền giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Quang Đạo, tỉnh Bắc Ninh đã phối hợp với các cơ quan Trung ương và chủ trì tổ chức nhiều hoạt động thiết thực như: Xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, đề cương tuyên truyền; Thi tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp và cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Quang Đạo; phát triển lớp đảng viên mang tên đồng chí Lê Quang Đạo; tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc
56 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
gia với chủ đề “Đồng chí Lê Quang Đạo với cách mạng Việt Nam và quê hương Bắc Ninh”; xây dựng phim tài liệu, phóng sự; sưu tầm tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật về đồng chí; xây dựng nhà lưu niệm, tượng đài đồng chí tại Công viên thị xã Từ Sơn; trùng tu, tôn tạo, xếp hạng di tích lịch sử Nhà lưu niệm (gốc) tại khu phố Tỉnh Cầu, phường Đình Bảng, ngôi nhà của gia đình đồng chí đã từng sinh sống khang trang, tôn kính, để mọi người đến thắp nhang tưởng niệm; tổ chức Lễ dâng hương, Lễ kỷ niệm cấp quốc gia; phát động các phong trào thi đua yêu nước; chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng học tập chuyên đề về tấm gương đồng chí Lê Quang Đạo, coi trọng việc giáo dục lý luận chính trị, giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin... nhằm khơi dậy niềm tự hào về truyền thống và cách mạng của quê hương, cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ra sức thi đua, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Học tập và noi gương đồng chí Lê Quang Đạo, trong các giai đoạn cách mạng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bắc Ninh luôn phát huy truyền thống văn hiến, cách mạng, đoàn kết khắc phục khó khăn, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị trên các lĩnh vực. Từ một tỉnh thuần nông, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, cơ sơ vật chất, kết cấu hạ tầng, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, sau gần 25 năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh đạt được nhiều kết quả quan trọng toàn diện, vượt bậc trên các lĩnh vực, quy mô kinh tế mở rộng, luôn duy trì ở mức tăng trưởng cao, kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội luôn nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước. Năm 2020, quy mô nền kinh tế Bắc Ninh đứng thứ 8 toàn quốc; giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1,3 triệu tỉ đồng, đứng đầu toàn quốc; thu ngân sách nhà nước đạt trên 30.500 tỉ đồng, đứng thứ 9 toàn quốc;
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 57
phát triển 16 khu công nghiệp tập trung, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 20 tỷ USD từ 33 quốc gia và vùng lãnh thổ; giá trị sản xuất công nghiệp ước tăng 11,2%; thương mại - dịch vụ phát triển theo hướng văn minh, hiện đại; nông nghiệp chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao; hoàn thành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; hạ tầng kinh tế tiếp tục được quan tâm đầu tư, diện mạo đô thị và nông thôn có nhiều đổi mới; các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa - xã hội được quan tâm phát triển đồng bộ; nhiều chính sách an sinh xã hội đi trước và cao hơn mức bình quân cả nước; đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao; công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội đạt nhiều kết quả tích cực; giữ vững Đảng bộ tỉnh đạt trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt 6 tháng đầu năm 2021, đại dịch Covid-19 tiếp tục bùng phát và diễn biến hết sức phức tạp trên địa bàn tỉnh, ảnh hưởng sâu rộng đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh. Song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Trung ương, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ
thống chính trị, sự đoàn kết, đồng thuận của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp tỉnh, Bắc Ninh đã đạt được những kết quả quan trọng trong thực hiện 3 mục tiêu chủ yếu: Phòng, chống dịch hiệu quả - Tổ chức thành công tốt đẹp cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 - 2026 - Tập trung khắc phục khó khăn, thúc đẩy kinh tế phát triển: GRDP ước đạt 61.115 tỉ đồng, tăng 7,45%; kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 35,2 tỷ USD, tăng 27,5%; thu ngân sách ước đạt 16.011 tỉ đồng, đạt 57,5% dự toán (trong đó thu nội địa 12.511 tỉ đồng). Đến nay, dịch Covid-19 đã cơ bản được khống chế; đời sống của nhân dân, người lao động được bảo đảm, trật tự xã hội được giữ vững.
58 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Để hướng đến mục tiêu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bắc Ninh tiếp tục phát huy truyền thống văn hiến và cách mạng, quê hương đồng chí Lê Quang Đạo, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong hành động nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tập trung xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện nghiêm túc Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII)”. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong giai đoạn mới. Củng cố và tăng cường lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, chính quyền.
Hai là,tiếp tục tháo gỡ khó khăn, phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất, kinh doanh; phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế, trong đó chú trọng tạo đột phá phát triển thương mại - dịch vụ... thực hiện công tác cải cách hành chính, nhất là tiếp tục rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và người
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 59
dân. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách về thu hút đầu tư trong giai đoạn mới, theo hướng ưu tiên thu hút các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đầu tư vào tỉnh.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch vùng, xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa; hỗ trợ hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế số, sản xuất công nghệ cao.
Ba là, quy hoạch và xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội với tầm nhìn dài hạn, gắn công nghiệp hóa với phát triển mở rộng không gian đô thị văn minh, hiện đại, phát huy lợi thế so sánh, tăng cường liên kết vùng, tạo động lực mới với vai trò cực tăng trưởng của Vùng Thủ đô và Vùng đồng bằng Bắc Bộ. Huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, gắn kết đồng bộ giữa thành thị và nông thôn để đẩy nhanh quá trình đô thị
hóa. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường.
Bốn là, phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa - xã hội; phát huy bản sắc văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc và giá trị di sản lịch sử văn hóa; dân ca Quan họ. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Đổi mới, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Năm là, giữ vững quốc phòng - an ninh, mở rộng hợp tác đối ngoại, tranh thủ các nguồn lực và phát huy sức mạnh toàn dân, tạo sự đồng thuận và môi trường ổn định thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển toàn diện, bền vững.
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Quang Đạo là dịp để cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tỉnh Bắc Ninh tự hào, trân trọng và đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục về thân thế, sự nghiệp hoạt
60 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
động cách mạng, tấm gương hết lòng vì Đảng, vì đất nước và quê hương Bắc Ninh của đồng chí.
Phát huy những kết quả đạt được, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Ninh nguyện noi gương đồng chí Lê Quang Đạo, đoàn kết thống nhất, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ chính trị đề ra, xây dựng quê hương Bắc Ninh ngày càng phát triển và sớm trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng văn minh, hiện đại.
61
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO
TRÊN CƯƠNG VỊ CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (1987 - 1992)
Đồng chí VŨ MINH TUẤN
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Đ
ồng chí Lê Quang Đạo tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện, sinh ngày 08/8/1921, trong một gia đình giàu truyền thống
yêu nước ở xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn (nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Đồng chí nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng của Nhà nước như Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Dù ở cương vị nào đồng chí cũng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao, được nhân dân yêu mến và tin cậy.
Được Đảng và nhân dân tín nhiệm, đồng chí Lê Quang Đạo được bầu làm đại biểu Quốc hội các khóa VIII, IX, X. Ở khóa nào đồng chí cũng trúng cử với số phiếu rất cao. Do uy tín và sự cống hiến của đồng chí, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VIII, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Quốc hội và Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Trong những năm tháng hoạt động trên cương vị người đứng đầu cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đồng chí đã cùng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, hướng trọng tâm thực hiện chức năng chủ yếu lập pháp, giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và hoạt động đối ngoại, làm
62 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
việc có hiệu quả, khắc phục chủ nghĩa hình thức quan liêu, góp phần tích cực vào việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, xứng đáng với sự tin cậy và lòng mong mỏi của nhân dân.
1. Về hoạt động lập pháp
Để chuyển nền kinh tế theo cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường theo tinh thần đổi mới của Đảng, vấn đề đặt ra là phải xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất là pháp luật trong lĩnh vực kinh tế như: đất đai, đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân. Lúc đó, kinh nghiệm thực tế còn thiếu, chương trình xây dựng pháp luật, quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, các tư liệu thông tin cần thiết phục vụ công tác lập pháp... đều mới bắt đầu. Các đại biểu hoạt động chuyên trách thuộc Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban thường trực của Quốc hội còn quá ít ỏi, kinh nghiệm hoạt động còn nhiều hạn chế, nhưng trước yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đồng chí Lê Quang Đạo đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn soạn thảo các dự án luật quan trọng nhằm thể chế hóa chính sách kinh tế mới của Nhà nước Việt Nam. Kết quả, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII, dưới sự chủ trì của đồng chí, Quốc hội ban hành một khối lượng văn bản quy phạm pháp luật lớn nhất từ trước đến nay với chất lượng ngày càng cao. Cụ thể, từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa I đến khóa VII, ngoài ba bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ thông qua 29 luật, 36 pháp lệnh1. Đến Quốc hội khóa VIII, Quốc hội đã thông qua 2 bộ luật, 29 đạo luật và Hội đồng Nhà nước ban hành 39 pháp lệnh. Đáng chú ý là nhiều đạo luật quan trọng về kinh tế lần đầu tiên được ban hành như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Luật doanh nghiệp tư nhân; Luật công ty... _______________
1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế thừa, đổi mới và phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.158.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 63
hay Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh về ngân hàng... đã thể chế hóa đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Lần đầu tiên các luật này thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quyền thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân.
Quốc hội còn ban hành các luật về thuế như Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Bộ luật hàng hải, Bộ luật dân dụng. Cùng với việc ban hành các luật, pháp lệnh về kinh tế, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước cũng đã ban hành nhiều luật và pháp lệnh nhằm đổi mới hoạt động trong lĩnh vực chính trị như: Luật công đoàn, Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân... bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong cách quản lý phù hợp tình hình thực tế. Bên cạnh đó, để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích của công dân, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đồng chí cùng với Quốc hội thông qua Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự.
Để tạo nên sự đồng bộ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, việc thay đổi hệ thống chính trị phải gắn liền với cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, vấn đề đặt ra cần phải chuẩn bị tiến hành sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới. Ngày 30/6/1989, Chủ tịch Lê Quang Đạo đã ký quyết định thông qua Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp gồm 28 thành viên do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Ủy ban sửa đổi Hiến pháp có nhiệm vụ xây dựng dự án sửa đổi Hiến pháp đưa ra trưng cầu ý kiến rộng rãi trong nhân dân để trình Quốc hội xem xét quyết định. Việc lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân được thực hiện với tinh thần nghiêm túc, sôi nổi, dân chủ, thể hiện ý thức trách nhiệm cao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta và trở
thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn. Qua bốn lần sửa đổi, bổ sung và lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân. Ngày 15/4/1992, tại kỳ họp
64 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
thứ 11, Quốc hội khóa VIII, Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội thông qua gồm Lời nói đầu, 12 chương và 147 điều. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 đã đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới và khẳng định những thành quả bước đầu của nhân dân ta trên mọi lĩnh vực và chỉ ra phương hướng lâu dài nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của đồng chí, hoạt động lập pháp của Quốc hội khóa VIII đã tập trung thực hiện khối lượng công việc khá lớn. Đã sửa đổi và ban hành mới các bộ luật lớn, bộ luật quan trọng, hoàn thiện hệ thống pháp lý về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, củng cố quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng. Việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã bám sát các quan điểm, đường lối của Đảng, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự chủ động cho các cơ quan trong việc đề xuất, xây dựng và trình các dự
án luật, pháp lệnh.
2. Về quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII, thể hiện trách nhiệm trước cử tri cả nước, tại các diễn đàn Quốc hội, đồng chí đã dành nhiều thời gian điều hành Quốc hội, tập trung thảo luận và thông qua Nghị quyết phê chuẩn Kế hoạch nhà nước 5 năm (1986 - 1990) với ba chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; thông qua nhiệm vụ và mục tiêu chủ
yếu của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) để đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế; phê chuẩn các hiệp định, hiệp ước quan trọng về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và giáo dục mà Chính phủ Việt Nam đã ký kết. Những nội dung, nghị quyết của
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 65
Quốc hội đã đáp ứng phần nào mong mỏi của nhân dân, nhất là trong việc đề ra các giải pháp giải quyết một số vấn đề cấp bách, nóng bỏng về kinh tế.
Bên cạnh đó, việc xem xét, quyết định sáp nhập hoặc chia tách các bộ, thay đổi nhân sự cao cấp của Nhà nước, Chủ tịch Lê Quang Đạo đều đưa ra diễn đàn Quốc hội, bàn bạc công khai và tìm cách giải quyết theo tinh thần dân chủ, cởi mở, nhưng vẫn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Trong lịch sử của nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII còn ghi đậm sự kiện đặc biệt, đó là việc bầu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng sau khi đồng chí Phạm Hùng từ trần. Theo dự kiến của Đảng giới thiệu một đồng chí trong Ủy viên Bộ Chính trị giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, nhưng một số đại biểu Quốc hội lại đề nghị thêm đồng chí khác. Được sự đồng tình của Đảng và sự giúp đỡ của các đại biểu Quốc hội, đồng chí Lê Quang Đạo đã đưa ra một quyết định hiếm có trong lịch sử là tán thành danh sách cả hai ứng cử viên vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Việc này vừa thể hiện tinh thần dân chủ và niềm tin vào sự sáng suốt của đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Trước tình hình các thế lực thù địch chống phá cách mạng từ nhiều phía, đặc biệt là vấn đề bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc và chủ trương giải quyết vấn đề Campuchia bằng giải pháp chính trị; với mong muốn bảo đảm an ninh, an toàn xã hội, ổn định, hợp tác và phát triển theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo đã ký quyết định thông qua Nghị quyết về việc sửa Lời nói đầu của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là sự kiện được dư luận thế giới và khu vực đặc biệt quan tâm chứng tỏ thiện chí của Việt Nam mong muốn bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, coi vấn đề tồn tại giữa hai
66 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
nước là tạm thời có thể giải quyết và coi việc khôi phục hữu nghị giữa nhân dân hai nước là cơ bản, lâu dài vì hòa bình và chủ nghĩa xã hội trên thế giới1.
Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cùng với việc rút hết quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo đó, thay mặt Quốc hội, Chủ tịch yêu cầu Hội đồng Bộ trưởng và Ủy ban nhân dân các cấp phải quan tâm chỉ đạo chặt chẽ và các biện pháp kiên quyết đối với công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Quốc hội coi đây là một khâu quan trọng trong hoạt động quản lý, là điều kiện cần thiết để bảo đảm việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ổn định đời sống nhân dân2.
Để phục vụ tốt nhất hoạt động chung của Quốc hội, đồng chí Lê Quang Đạo đã chú ý khai thác các mối quan hệ công tác với các cơ quan hữu quan, trước hết là với các cơ quan của Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch Quốc hội có trách nhiệm “điều hòa và phối hợp hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội”. Vì vậy, trong chương trình hoạt động của mình, theo định kỳ 3 tháng một lần đồng chí thường sắp xếp thời gian và nội dung công việc họp với Thường trực Hội đồng dân tộc và Thường trực các Ủy ban, để nghe báo cáo về kết quả hoạt động và mối quan hệ công tác giữa các cơ
quan của Quốc hội.
3. Về hoạt động giám sát
Để góp phần đổi mới hoạt động của Quốc hội, không chỉ quan tâm đến đổi mới nội dung, đồng chí còn quan tâm đổi mới cả phương thức _______________
1, 2. Xem Lịch sử Quốc hội Việt Nam, tập III (1976 - 1992), Sđd, tr.249, 250.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 67
hoạt động. Điều mọi người dễ nhận thấy, cách điều khiển phiên họp của Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo vừa bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng mặt khác lại phát huy dân chủ để đại biểu Quốc hội dám mạnh dạn nêu ý kiến của mình. Tại các phiên họp toàn thể
của Quốc hội, các đại biểu thường đọc những bài tham luận viết sẵn, nội dung trình bày không tập trung vào các chủ đề cần thiết mà Quốc hội cần xem xét quyết định tại kỳ họp. Đồng chí Lê Quang Đạo đã đề nghị thay việc tham luận bằng thảo luận những vấn đề chủ yếu được nêu lên qua thảo luận tổ để Quốc hội có điều kiện phát biểu tập trung hơn sâu sắc hơn. Sự thay đổi hình thức thảo luận tạo nên lối làm việc thiết thực, tập trung, gợi mở cả những vấn đề cần tranh luận và có hiệu quả cao hơn. Điều đó cũng chứng tỏ đồng chí Lê Quang Đạo đã biết phát huy sức mạnh của tập thể trong công việc.
Trong nhiệm kỳ khóa VIII, hoạt động giám sát của Quốc hội cũng có nhiều đổi mới tập trung vào các vấn đề quản lý kinh tế - xã hội, việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đồng chí Lê Quang Đạo đề nghị các cơ quan của Quốc hội tích cực giám sát theo chuyên đề, đi sâu khảo sát, theo dõi sát sao việc giải quyết kiến nghị... nhất là hoạt động giám sát tại các kỳ họp. Nội dung giám sát ngày càng phong phú, tập trung vào những vấn đề cấp bách, nóng bỏng như vấn đề giải quyết việc làm, tiền lương, chống tham nhũng, chống buôn lậu, ổn định đời sống, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, cải cách giáo dục, xử lý các vụ việc tiêu cực... bảo đảm dân chủ hơn và chất lượng tốt hơn thu hút được sự quan tâm theo dõi của nhân dân. Hoạt động chất vấn tại kỳ họp đã có bước cải tiến rõ rệt tập trung các vấn đề về ngân sách nhà nước và thuế, về phương án tiền lương, về công tác tài chính, về việc tăng giá điện... Nhiều đại biểu đã góp ý kiến thẳng thắn, thiết thực, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của cử tri. Đồng chí Lê Quang Đạo cũng rất chú trọng công tác giám sát đối với
68 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
hoạt động của Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và cũng đã kịp thời đề ra một số chủ trương, biện pháp sau mỗi chương trình giám sát để các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương và các cấp chính quyền địa phương thực hiện nghiêm chỉnh việc xem xét các án trọng điểm về kinh tế và việc thi hành án đối với kẻ phạm tội.
4. Về hoạt động đối ngoại
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng và Nhà nước trong nhiệm kỳ khóa VIII, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã chủ động và tích cực triển khai có hiệu quả hoạt động đối ngoại trên nhiều hướng song phương, đa phương; tăng cường hoạt động đối ngoại kinh tế, đối ngoại chính trị. Tại kỳ họp thứ 3 ngày 28/6/1988, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo đã ký thông qua “Nghị quyết về một số vấn đề quốc tế và hoạt động đối ngoại của nhà nước”. Nghị quyết tán thành hoạt động đối ngoại của Hội đồng Bộ trưởng, củng cố mối quan hệ nước ta với Liên Xô, Lào, Campuchia góp phần củng cố hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Ủng hộ những cố gắng to lớn của Liên Xô trong cuộc đấu tranh loại bỏ vũ khí hạt nhân, bảo vệ hòa bình thế giới và an ninh các dân tộc. Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và nhấn mạnh sự cần thiết các bên giải quyết tranh chấp về hai quần đảo đó bằng thương lượng hòa bình và ủng hộ quyết định rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia trong năm 1988, coi đó là đóng góp quan trọng vào việc giải quyết bằng chính trị vấn đề Campuchia vì hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á.
Để cải thiện mối quan hệ với các nước láng giềng và nhiều nước khác trên thế giới, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo đã đón tiếp và làm việc với nhiều đoàn đại biểu Quốc hội các nước đến thăm chính
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 69
thức nước ta như: đoàn đại biểu Quốc hội Hunggari, đoàn đại biểu của Ủy ban Dân tộc và Ủy ban Văn hóa giáo dục của Quốc hội Campuchia, đoàn Ủy ban đối ngoại Xôviết, Tổng thống Ấn Độ, Đoàn đại biểu Nhà nước và Chính phủ Cộng hòa nhân dân Triều Tiên, đoàn các nghị sĩ
Liên bang Thụy Sĩ... Ngoài ta, Chủ tịch Quốc hội đã đi thăm và làm việc một số nước như Cộng hòa nhân dân Mông Cổ (tháng 9/1987), Cộng hòa nhân dân Ba Lan (tháng 11/1987)... Đầu năm 1991, mặc dù tình hình Liên Xô đang có nhiều diễn biến phức tạp, đồng chí Lê Quang Đạo đã dẫn đầu đoàn đại biểu Quốc hội đi thăm Liên Xô nhằm tiếp tục khẳng định và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác mọi mặt giữa hai nước và hai cơ quan lập pháp trong tình hình mới. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã được đẩy lên một bước, luôn chủ động trong mối quan hệ, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, mở rộng giao lưu và hợp tác về các vấn đề đối nội, đối ngoại, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Sở dĩ hoạt động đối ngoại của Quốc hội đạt nhiều thành tựu quan trọng, không ngừng được mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa và ngày càng có hiệu quả là do đồng chí nắm vững đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, kịp thời đưa ra những quyết định sáng suốt đưa hoạt động đối ngoại của Quốc hội lên tầm cao mới đóng góp không nhỏ vào hoạt động đối ngoại của Nhà nước. Từ một nước không có tên trên bản đồ thế giới, nay Việt Nam đã sẵn sàng vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, đóng góp có trách nhiệm vào công việc của thế giới với vị thế ngày càng cao. Từ một quốc gia bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài đưa quan hệ đi vào chiều sâu, thực chất với các nước, tạo sự đan xen, gắn kết giữa lợi ích Việt Nam với các nước.
Trên cương vị người đứng đầu cơ quan quyền lực cao nhất, đồng chí Lê Quang Đạo đã hoàn thành trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó, đã đưa Quốc hội đi vào hoạt động thực chất, có hiệu quả,
70 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
khắc phục chủ nghĩa hình thức, quan liêu, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tạo thế ổn định, từng bước đưa đất nước tiến lên trên con đường phát triển mới. Ngày 24/7/1999, đồng chí Lê Quang Đạo đã vĩnh biệt chúng ta đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng tấm gương về cuộc đời cao đẹp của một người cộng sản mẫu mực, sống giản dị, trong sáng, chân thành và thủy chung đáng để cho chúng ta học tập.
T
71
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO
VỚI ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN HÀ NỘI
TS. NGUYỄN VĂN PHONG
Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội
rong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng chí Lê Quang Đạo - người học trò xuất sắc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và của khối đại đoàn kết toàn dân; người chiến sĩ cộng sản kiên cường, suốt đời chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Là một cán bộ tham gia hoạt động từ lúc Đảng ta còn trong bí mật, đồng chí luôn nêu cao tinh thần yêu nước, chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, không lùi bước trước khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Với Đảng bộ Hà Nội, đồng chí Lê Quang Đạo được Đảng phân công đảm nhiệm các chức vụ chủ chốt ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau: tháng 4/1943, làm Bí thư Ban Cán sự Đảng Hà Nội1; tháng 4/1946, làm Phó Bí thư Khu ủy đặc biệt Hà Nội (khu XI); tháng 11/1947, làm Bí thư Thành ủy; từ tháng 5/1948 đến tháng 10/1948, Bí thư Liên Tỉnh ủy Hà Nội - Hà Đông; từ tháng 11/1948 đến
_______________
1. Xem Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội, tập 1 (1926 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.250, 264.
72 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
tháng 2/1949, làm Bí thư Thành ủy; từ năm 1978 đến năm 1982, đồng chí Lê Quang Đạo được cử về làm Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội. Với cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Hà Nội, đồng chí để lại dấu ấn sâu đậm trong gây dựng phong trào đấu tranh trước Cách mạng Tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và thời kỳ Hà Nội chuẩn bị bước vào đổi mới.
1. Đồng chí Lê Quang Đạo cùng Ban Cán sự Đảng Hà Nội xây dựng phong trào cách mạng ở Hà Nội những năm trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Thời kỳ 1940 - 1943, tại Hà Nội, các tổ chức Công hội, Thanh niên phản đế, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc liên tiếp bị địch phá, hàng trăm cán bộ đảng viên, quần chúng trung kiên bị địch bắt bị tù đày hoặc hy sinh. Đây là thời kỳ Ban lãnh đạo của Hà Nội bị kẻ thù khủng bố ác liệt nhất (Thành ủy Hà Nội 8 lần bị phá) phải lập lại nhiều lần. Với quyết tâm giữ vững phong trào, Trung ương và Xứ ủy đã điều động cán bộ hỗ trợ Đảng bộ Hà Nội. Trong giai đoạn lịch sử cực kỳ khó khăn đó, Ban Cán sự Đảng Hà Nội thường xuyên được đồng chí Hoàng Văn Thụ, Bí thư Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo, giữ vững mối liên hệ giữa Xứ ủy với Ban Cán sự và giữa Ban Cán sự với cơ sở đảng. Hà Nội là trung tâm của các cuộc đấu tranh và cũng là nơi thể hiện rõ nét tính khốc liệt của cuộc đấu tranh của nhân dân yêu nước chống chế độ thuộc địa trong thời kỳ phát xít hóa, kẻ địch luôn tìm mọi biện pháp khủng bố liên tục, tìm diệt cán bộ ở cơ quan đầu não chỉ đạo phong trào cách mạng, địch quyết phá, ta quyết giữ.
Trong bối cảnh đó, tháng 4/1943, đồng chí Lê Quang Đạo, Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ được Trung ương và Xứ ủy điều động về Hà Nội lập Ban Cán sự Đảng gồm 3 người, do đồng chí Lê Quang Đạo làm Bí thư. Đồng chí cùng Ban Cán sự Đảng Hà Nội duy trì và giữ vững ngọn lửa đấu tranh chống phát xít Nhật - Pháp.
ĐỒNG CHÍ LÊ QUANG ĐẠO VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ QUÊ HƯƠNG BẮC NINH 73
Thực hiện phương châm “Bám dân, đánh giặc”, đồng chí Lê Quang Đạo cùng Ban Cán sự Đảng vận động công nhân Hà Nội xây dựng phát triển tổ chức, đấu tranh đòi quyền lợi thiết thực hàng ngày ở cả thành thị và nông thôn. Đồng chí luôn bám sát cơ sở, động viên cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần chủ động, tuyên truyền vận động quần chúng, bảo vệ
Đảng, ủng hộ Mặt trận Việt Minh, nhờ đó phong trào cách mạng được duy trì bền bỉ ở cả thành thị và nông thôn. Nhiều đồng chí do địch khủng bố tạm thời bị mất liên lạc với tổ chức nhưng vẫn nêu cao tinh thần trách nhiệm của người cán bộ cách mạng, tổ chức in báo, rải truyền đơn, lãnh đạo quần chúng đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Tức tối trước những hoạt động cách mạng, phát xít Nhật và thực dân Pháp đều giăng lưới mật thám khắp nơi tìm bắt các đồng chí trong Xứ ủy, Thành ủy, trong đó có đồng chí Lê Quang Đạo, nhưng nhờ sự bao bọc của các cơ sở, nhân dân, nên chúng đã thất bại. Chúng đặt biệt danh cho đồng chí Lê Quang Đạo là “Đốc lý đỏ”, một chức danh của người đứng đầu cơ quan hành chính của địch ở Hà Nội.
Trong thời gian hai năm với cương vị Bí thư Ban Cán sự Đảng Hà Nội (1943 - 1944), đồng chí Lê Quang Đạo đã thể hiện rõ tài năng, sáng tạo cùng tập thể Ban Cán sự vượt qua mọi khó khăn, thách thức, xây dựng lại Thành ủy và tổ chức đảng ở cơ sở tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 ở Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây giành thắng lợi trọn vẹn, nhanh gọn, ít đổ máu.
2. Đồng chí Lê Quang Đạo lãnh đạo, củng cố các tổ chức đảng, đoàn thể, xây dựng lực lượng du kích, đẩy mạnh chiến đấu trong lòng địch trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 - 1949
Chính quyền cách mạng còn non trẻ, vừa mới thành lập đã đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức bởi sự đe dọa của giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực
74 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội bắt tay vào xây dựng, củng cố chính quyền, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp khi chúng trở lại xâm lược nước ta.
Thi hành Quyết định của Trung ương (tháng 11/1946) về việc thành lập chiến khu XI (tức Hà Nội), dưới sự chỉ đạo của Trung ương, Khu ủy Khu XI do đồng chí Nguyễn Văn Trân làm Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Khu XI; đồng chí Lê Quang Đạo làm Phó Bí thư trực tiếp phụ trách công tác tuyên huấn, đã xúc tiến mọi mặt công việc chuẩn bị kháng chiến ở Thủ đô. Khu ủy Khu XI được Trung ương giao nhiệm vụ cụ thể: Khi địch cố tình gây chiến tranh thì phải lãnh đạo quân dân Hà Nội đánh trả, giành thế chủ động, chiến đấu giam chân địch một thời gian để hoàn thành công việc chuẩn bị và tổ chức lực lượng sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
Trước ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, đồng chí Lê Quang Đạo đã ngày đêm cùng với các đồng chí trong Thành ủy lãnh đạo quân dân Thủ đô, chuẩn bị chiến trường, tổ chức lực lượng chiến đấu. Trong thời gian ngắn, các đơn vị lực lượng vũ trang Thủ đô và đội quân cảm tử
của Hà Nội đã lập nên những chiến công lẫy lừng trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cầm chân địch 60 ngày đêm trong Thành phố, tạo điều kiện cho các địa phương khác có thời gian chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Trong 60 ngày đêm khói lửa ấy, đồng chí Lê Quang Đạo, bất chấp gian khổ hy sinh, đồng cam cộng khổ, sát cánh cùng Trung đoàn Thủ đô anh dũng chiến đấu. Đêm 23/12/1946, đồng chí Lê Quang Đạo và đồng chí Trần Quốc Hoàn đã vượt qua lửa đạn và hệ thống đồn bốt của địch, trực tiếp vào Liên khu I - nơi nóng bỏng nhất của mặt trận Hà Nội, xem xét tình hình, chỉ đạo và động viên tinh thần bộ đội. Hình ảnh đồng chí Lê Quang Đạo còn ghi mãi trong tâm trí của chiến sĩ quyết tử Thủ đô, trong cuộc chiến đấu sống còn với quân thù.