🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thể chế Pháp luật Kinh tế một số quốc gia trên thế giới Ebooks Nhóm Zalo Kiến nghị Dự án “Hỗ trợ tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam” THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI (Sách chuyên khảo) nhà xuât bản tài chính 1 Báo cáo kinh tế vĩ mô quý III - 2015 2 Kiến nghị CHỦ BIÊN: - TS. Nguyễn Văn Giàu, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; - ThS. Nguyễn Văn Phúc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; - TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. BIÊN TẬP: - Nguyễn Văn Phúc, - Nguyễn Minh Sơn, - Dương Thùy Dung. THAM GIA BIÊN SOẠN: - PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; - PGS.TS. Dương Đăng Huệ, Trung tâm Thông tin, Tư vấn Pháp luật, Câu lạc bộ Pháp chế Doanh nghiệp, Bộ Tư pháp; - PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy, Đại học Quốc gia Hà Nội; - TS. Nguyễn Văn Cương, Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp; - TS. Vũ Thị Lan Anh, Đại học Luật Hà Nội; - TS. Nguyễn Bá Bình, Khoa Pháp luật Thương mại Quốc tế, Đại học Luật Hà Nội; - TS. Hoàng Minh Hiếu, Vụ Thông tin, Văn phòng Quốc hội; - NCS. Đỗ Minh Tuấn, Công ty Luật Châu Á (AsiaLaw); - ThS. Nguyễn Thị Dung, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; - ThS. Quảng Thùy Trang, Trường Kinh tế, Đại học Sydney, Úc. 3 Báo cáo kinh tế vĩ mô quý III - 2015 4 Kiến nghị MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU..............................................................................................................10 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ....13 I. QUAN NIỆM VỀ THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ...............................13 II. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA .......................................................................16 2.1. Các lý thuyết về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và pháp luật...16 2.2. Các nghiên cứu thực chứng về mối liên hệ giữa thể chế pháp luật và mức độ phát triển kinh tế............................................................................20 III. PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ.........................................................23 IV. PHÁP LUẬT VỀ CÁC CHỦ THỂ KINH DOANH................................27 V. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH...28 CHƯƠNG II: THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ......................................................................................... 32 I. TỔNG QUAN..........................................................................................................32 1.1. Khái quát chung về hệ thống pháp luật Hoa Kỳ ..................................32 1.2. Khái quát chung về nền kinh tế Hoa Kỳ................................................35 1.3. Vai trò của pháp luật đối với phát triển kinh tế....................................36 II. PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ, SẢN XUẤT, KINH DOANH...........................................................................................................38 2.1. Chính sách ưu đãi thuế.............................................................................38 2.2. Chính sách hỗ trợ tài chính......................................................................41 2.3. Các chính sách hỗ trợ khác.......................................................................44 III. PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG ..............45 3.1. Pháp luật về thị trường hàng hóa.............................................................45 3.1.1. Nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm............................................................45 3.1.2. Trách nhiệm sản phẩm......................................................................46 3.2. Pháp luật về thị trường tài chính.............................................................48 3.2.1. Pháp luật về ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro hệ thống...................48 3.2.2. Pháp luật về giao dịch bảo đảm – công cụ hiệu quả bảo vệ chủ nợ trong các quan hệ nghĩa vụ..............................................................56 3.3. Pháp luật về thị trường bất động sản ......................................................58 5 Báo cáo kinh tế vĩ mô quý III - 2015 3.3.1. Thuê bất động sản...............................................................................59 3.3.2. Mua bán bất động sản.......................................................................62 3.3.3. Thế chấp bất động sản........................................................................64 3.4. Thị trường khoa học – công nghệ...........................................................67 IV. PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU.................................................................................71 4.1. Khái quát chung về quyền sở hữu............................................................71 4.2. Bất động sản.................................................................................................73 V. PHÁP LUẬT VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ, CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP, CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ KHÁC..............................75 5.1. Các loại hình tổ chức kinh doanh...........................................................75 5.1.1. Cá nhân kinh doanh (sole proprietorship)......................................75 5.1.2. Hợp danh.............................................................................................76 5.1.4. Công ty cổ phần...........................................................................83 5.2. Pháp luật về tài chính doanh nghiệp của Hoa Kỳ................................88 5.2.1. Cấu trúc vốn .......................................................................................88 5.2.2. Thủ tục phát hành chứng khoán công ty:........................................92 5.2.3. Phân chia cổ tức..................................................................................96 5.3. Pháp luật về quản trị doanh nghiệp của Hoa Kỳ..................................96 5.3.1. Cổ đông................................................................................................97 5.3.2. Hội đồng quản trị...............................................................................98 5.3.3. Người điều hành công ty..................................................................100 5.3.4. Nghĩa vụ của người quản lý công ty...............................................101 5.3.5. Vấn đề kiểm soát thông tin tài chính .............................................104 5.4. Pháp luật về tổ chức lại, giải thể và chấm dứt hoạt động của công ty.................................................................................................................105 5.4.1. Tổ chức lại doanh nghiệp.................................................................105 5.4.2. Giải thể và chấm dứt hoạt động của công ty.................................109 5.4.3. Pháp luật về phá sản........................................................................110 VI. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG.......................................................................112 6.1. Bản chất quan hệ hợp đồng ....................................................................113 6.2. Xác lập hợp đồng ......................................................................................115 6.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng...............................................................115 6.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng...........................................117 6.3. Hình thức của hợp đồng .........................................................................117 6.4. Các trường hợp ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng....................118 6 Kiến nghị 6.5. Quyền của người thứ ba..........................................................................120 6.5. Chế tài hợp đồng ......................................................................................121 6.5.1. Chế tài vật chất.................................................................................121 6.5.2. Chế tài công bình..............................................................................123 VII. PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, ĐIỀU TIẾT KINH TẾ ............................125 7.1. Pháp luật về cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền .................128 7.1.1. Cơ chế bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường........128 7.2. Quy chế pháp lý bảo vệ sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng..131 7.3. Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong các hợp đồng vay tiêu dùng.............................................................................................................131 7.3.1. Quy định thông tin trung thực về cho vay.....................................132 7.3.2. Quyền được đối xử bình đẳng của người vay................................132 7.3.3. Quy định về quyền của người tiêu dùng trong hợp đồng vay.....132 7.3.4. Quyền hủy bỏ hợp đồng tín dụng tiêu dùng (cooling-off )...........134 7.3.5. Công bố thông tin về người vay......................................................134 7.3.6. Quy chế pháp lý về thu hồi nợ từ người tiêu dùng........................134 7.4. Hệ thống các cơ quan quản lý hệ thống tài chính..............................136 VIII. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP.................................138 8.1. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.......................................................138 8.2. Giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án .....................................................143 8.2.1. Thương lượng....................................................................................143 8.2.2. Hòa giải .............................................................................................143 8.2.3. Trọng tài ............................................................................................144 IX. ĐÁNH GIÁ CHUNG ......................................................................................144 CHƯƠNG III: THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC............................................................. 148 I. TỔNG QUAN........................................................................................................148 II. PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ, SẢN XUẤT, KINH DOANH.........................................................................................................150 2.1. Các quy định về thanh toán quốc tế.....................................................150 2.2. Các quy định về nhập khẩu ....................................................................151 2.3. Các quy định về hiện diện thương mại ................................................151 2.3.1. Công ty...............................................................................................151 2.3.2. Chi nhánh của công ty nước ngoài tại Đức...................................151 7 Báo cáo kinh tế vĩ mô quý III - 2015 2.3.3. Văn phòng đại diện của công ty nước ngoài tại Đức ...................152 2.4. Các quy định về ưu đãi, khuyến khích đầu tư.....................................153 2.4.1. Hỗ trợ về địa điểm, khu vực đầu tư...............................................153 2.4.2. Hỗ trợ cho các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D projects)154 2.4.3. Hỗ trợ về nhân sự .............................................................................154 2.4.4. Hỗ trợ tín dụng của Nhà nước .......................................................155 2.4.5. Bảo lãnh của Nhà nước...................................................................155 III. PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG ............155 3.1. Pháp luật về thị trường hàng hóa...........................................................155 3.1.1. Pháp luật về dịch vụ logistics..........................................................155 3.1.2. Pháp luật về thương mại.................................................................156 3.2. Pháp luật về thị trường tài chính; thị trường dịch vụ ngoài tài chính ..................................................................................................157 3.2.1. Về hoạt động ngân hàng ..................................................................158 3.2.2. Thị trường chứng khoán ..................................................................159 3.3 Pháp luật về thị trường bất động sản .....................................................160 3.4. Pháp luật về thị trường khoa học – công nghệ...................................163 3.5. Pháp luật về thị trường lao động............................................................165 IV. PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU...............................................................................168 V. PHÁP LUẬT VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ, CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP, CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ KHÁC.............169 5.1. Pháp luật về công ty..................................................................................170 5.1.1. Công ty trách nhiệm hữu hạn.........................................................170 5.1.2. Công ty cổ phần.................................................................................171 5.1.3. Công ty hợp danh .............................................................................172 5.2. Pháp luật về mua bán, sáp nhập, giải thể, phá sản..............................175 5.2.1. Các quy định về mua bán, sáp nhập..............................................175 5.2.2. Các quy định về giải thể..................................................................176 5.2.3. Các quy định về phá sản..................................................................177 VI. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG.......................................................................179 VII. PHÁP LUẬT VỀ CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ, ĐIỀU TIẾT KINH TẾ.............................................................................................181 7.1. Cơ quan chống độc quyền ......................................................................181 7.1.1. Pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền................................181 7.1.2. Cục Chống độc quyền Liên bang (Cục Các-ten)..........................183 8 Kiến nghị 7.2. Cơ quan Giám sát Ngân hàng Liên bang.............................................183 7.4. Văn phòng Tên thương mại và Sáng chế Đức....................................186 VIII. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP.................................187 8.1. Tố tụng Tòa án..........................................................................................187 8.1.1. Về phân định thẩm quyền giữa các cấp Tòa án............................188 8.1.2. Về trình tự..........................................................................................188 8.2. Tố tụng Trọng tài và hòa giải..................................................................189 IX. ĐÁNH GIÁ CHUNG ......................................................................................190 CHƯƠNG IV: THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ ÚC........................ 191 I. TỔNG QUAN........................................................................................................191 1.1. Vài nét về nước Úc và truyền thống pháp luật Úc.............................191 1.1.1. Úc – một đảo quốc, một Châu lục, một đất nước thịnh vượng, đa dạng văn hóa và sắc tộc.........................................................................191 1.1.2. Truyền thống pháp luật...................................................................191 1.2. Mô hình tổ chức nhà nước Úc...............................................................192 1.2.1. Hiến pháp năm 1901 – Luật khai quốc và hiến định cách thức tổ chức nhà nước theo học thuyết tam quyền phân lập ...........................192 1.2.2. Cơ quan lập pháp .............................................................................193 1.2.3. Cơ quan hành pháp..........................................................................194 1.2.4. Hệ thống Tòa án ...............................................................................194 1.3. Khái quát về hệ thống pháp luật kinh tế Úc........................................195 1.3.1. Mô hình kinh tế và sự hình thành hệ thống pháp luật kinh tế Úc......................................................................................................195 1.3.2. Vai trò của pháp luật đối với phát triển kinh tế...........................195 1.3.3. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật về pháp luật kinh tế......196 II. PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ, SẢN XUẤT, KINH DOANH.........................................................................................................196 2.1. Môi trường kinh doanh...........................................................................196 2.2. Đầu tư nước ngoài....................................................................................197 III. PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG ............198 3.1. Pháp luật về thị trường hàng hóa...........................................................198 3.1.1. Pháp luật về xuất xứ hàng hóa.......................................................198 3.2. Pháp luật về thị trường tài chính...........................................................201 3.2.1. Vai trò của pháp luật đối với thị trường tài chính.......................201 9 Báo cáo kinh tế vĩ mô quý III - 2015 3.2.2. Pháp luật về quản lý thị trường tài chính ở Úc............................202 3.3.2. Pháp luật về đầu tư nước ngoài vào thị trường bất động sản Úc............................................................................................206 3.3.3. Những đề xuất thay đổi đang được Chính phủ Úc cân nhắc.....207 3.4. Pháp luật về thị trường khoa học - công nghệ....................................208 3.4.1. Luật quyền tác giả............................................................................208 3.4.2. Luật về kiểu dáng công nghiệp .......................................................209 3.4.3. Luật nhãn hiệu.................................................................................209 3.4.4. Luật sáng chế.....................................................................................209 3.4.5. Hợp tác quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.............................210 3.5. Pháp luật về thị trường lao động.......................................................... 211 IV. PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU...............................................................................212 4.1. Quyền sở hữu đối với các loại tài sản....................................................212 4.1.1. Tài sản cá nhân.................................................................................213 4.1.2. Bất động sản......................................................................................213 V. PHÁP LUẬT VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ, CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP, CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ KHÁC.............214 5.1. Các loại hình doanh nghiệp...................................................................214 5.1.1. Cơ sở kinh doanh một chế................................................................214 5.1.2. Hợp danh...........................................................................................215 5.1.3. Công ty...............................................................................................216 5.2. Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp .........................................................217 5.3. Phá sản doanh nghiệp..............................................................................218 VI. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG.......................................................................219 6.1. Khái quát về pháp luật hợp đồng của Úc.............................................219 6.2. Tự do hợp đồng.........................................................................................219 6.3. Hình thức hợp đồng ................................................................................220 VII. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ..................................220 7.1. Tòa án .........................................................................................................221 7.2. Trọng tài .....................................................................................................221 7.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế khác......................222 7.3.1. Thương lượng....................................................................................222 7.3.2. Trung gian hòa giải..........................................................................223 7.3.3. Mời chuyên gia độc lập thẩm định tranh chấp ............................223 10 Kiến nghị CHƯƠNG V: PHÁP LUẬT KINH TẾ HÀN QUỐC............................ 224 I. TỔNG QUAN........................................................................................................224 II. PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ, SẢN XUẤT, KINH DOANH.........................................................................................................231 2.1. Các luật về thuế.........................................................................................231 2.1.1. Thuế thu nhập cá nhân....................................................................232 2.1.2. Thuế thu nhập doanh nghiệp..........................................................233 2.1.3. Thuế giá trị gia tăng (VAT)............................................................233 2.1.4 Các hiệp định tránh đánh thuế hai lần .........................................233 2.2. Pháp luật về thương mại điện tử............................................................233 III. PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG ............234 3.1. Pháp luật về thị trường hàng hóa...........................................................234 3.1.1. Pháp luật về thương mại.................................................................234 3.1.2. Các luật về đấu thầu........................................................................235 3.2. Pháp luật về thị trường tài chính, tín dụng .........................................235 3.3. Pháp luật về thị trường bất động sản ....................................................237 3.4. Pháp luật về thị trường khoa học - công nghệ....................................238 3.5. Pháp luật về thị trường lao động............................................................240 IV. PHÁP LUẬT VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ, CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP, CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ KHÁC.............242 V. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG.........................................................................244 VI. PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, ĐIỀU TIẾT KINH TẾ..............................247 VII. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ..................................249 CHƯƠNG VI: THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ MALAYSIA I. TỔNG QUAN........................................................................................................251 1.1. Tổng quan về bối cảnh lịch sử và bộ máy chính trị............................251 1.2. Tổng quan về mô hình kinh tế và hệ thống pháp luật.......................252 II. PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ, SẢN XUẤT, KINH DOANH.........................................................................................................254 2.1. Chính sách mở cửa thị trường ...............................................................254 2.2. Chính sách thuế........................................................................................256 2.2.1. Thuế thu nhập...................................................................................256 2.2.2. Thuế đối với hàng hóa và dịch vụ ..................................................259 2.2.3. Các loại thuế và phí khác ................................................................261 11 Báo cáo kinh tế vĩ mô quý III - 2015 2.2.4. Quản lý thuế......................................................................................261 2.2.5. Chuyển giá.........................................................................................261 2.2.6. Ưu đãi thuế .......................................................................................262 III. PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG ............264 3.1. Pháp luật về thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối.............264 3.1.1. Thị trường chứng khoán ..................................................................264 3.1.2. Thị trường ngoại hối ........................................................................265 3.2. Pháp luật về thị trường đất đai và bất động sản..................................266 3.3. Pháp luật về thị trường lao động............................................................266 3.3.1. Khung pháp lý...................................................................................266 3.3.2. Công đoàn .........................................................................................267 3.3.3. An sinh xã hội...................................................................................268 IV. PHÁP LUẬT VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ, CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP, CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ KHÁC.............269 4.1. Các loại hình doanh nghiệp và tổ chức kinh tế..................................269 4.1.1. Công ty...............................................................................................269 4.1.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn hợp danh.......................................269 4.1.3. Công ty hợp danh hoặc một chủ sở hữu.........................................270 4.1.4. Liên doanh ........................................................................................270 4.2. Thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức kinh tế đặc thù .........271 4.2.1. Thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng................271 4.2.2. Thành lập và hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán................................................................................................274 4.3. Các yêu cầu luật định về chế độ sổ sách, chứng từ, kế toán đối với công ty thành lập tại Malaysia.......................................................................275 4.3.1. Chế độ kế toán và lưu trữ................................................................275 4.3.2. Báo cáo tài chính ..............................................................................275 4.3.3. Các báo cáo cơ bản............................................................................275 4.4. Thâu tóm và sáp nhập ..............................................................................275 V. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG.........................................................................277 5.1. Giao kết hợp đồng ....................................................................................277 5.2. Điều khoản hợp đồng..............................................................................277 5.3. Hợp đồng vô hiệu.....................................................................................278 5.4. Các chế tài do vi phạm hợp đồng..........................................................278 VI. PHÁP LUẬT VỀ CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ, 12 Kiến nghị ĐIỀU TIẾT KINH TẾ.............................................................................................278 6.1. Ngân hàng Trung ương Malaysia (Ngân hàng Negara Malaysia)...278 6.2. Ủy ban Chứng khoán ..............................................................................279 6.3. Ủy ban Doanh nghiệp Malaysia............................................................279 6.4. Ban Thu nhập Nội địa Malaysia............................................................280 6.5. Ủy ban Thông tin và Truyền thông Malaysia......................................280 6.6. Hội đồng Sở hữu trí tuệ Malaysia (MyIPO).......................................280 6.7. Hội đồng cạnh tranh................................................................................281 VII. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ..................................281 7.1. Giải quyết tranh chấp tại Tòa án...........................................................281 7.2. Giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp ngoài Tòa án..................282 VIII. ĐÁNH GIÁ CHUNG ...................................................................................283 CHƯƠNG VII: THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ CỘNG HÒA LIÊN BANG NGA .................................................................................... 285 I. TỔNG QUAN........................................................................................................285 1.1. Thực trạng pháp luật của Cộng hòa Liên bang Nga trước năm 1991 .......285 II. PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU................................................................................293 III. PHÁP LUẬT VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ, CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP, CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ KHÁC.............294 3.1. Pháp luật về phá sản .................................................................................294 3.1.1. Nguồn của pháp luật về phá sản ....................................................294 3.2.1. Đặc điểm của pháp luật phá sản của Cộng hòa Liên bang Nga..............................................................................................295 IV. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG.......................................................................297 V. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP......................................299 5.1. Tòa án Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Nga......................................299 5.2. Tòa án tư pháp (Tòa án thẩm quyền chung)......................................300 5.3. Tòa án trọng tài.........................................................................................300 5.4. Tòa án hòa giải..........................................................................................300 5.5. Các Trung tâm Trọng tài thương mại...................................................301 CHƯƠNG VIII: KẾT LUẬN................................................................... 302 I. KHÁI LƯỢC QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ VIỆT NAM (1986 – NAY) ......................................302 13 Báo cáo kinh tế vĩ mô quý III - 2015 II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỀ YÊU CẦU CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NGHIÊN CỨU THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ MỘT SỐ QUỐC GIA..............................................304 2.2.1. Pháp luật về khuyến khích, hỗ trợ đầu tư, sản xuất, kinh doanh....................................................................................................305 2.2.2. Pháp luật về chế độ sở hữu ..............................................................306 2.2.3. Pháp luật về các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp ................................................................................................306 2.2.4. Pháp luật về hợp đồng......................................................................308 2.2.5. Pháp luật về quản lý, điều tiết nền kinh tế...................................309 2.2.6. Về phát triển các loại thị trường.....................................................310 PHỤ LỤC .........................................................................................312 14 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế LỜI NÓI ĐẦU Từ năm 1986 đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, thể chế pháp luật, trong đó có pháp luật kinh tế từng bước được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Tổng quan về quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật kinh tế trong 30 năm qua có thể chia thành 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ năm 1986-2000 với Hiến pháp năm 1992, bản Hiến pháp của thời kỳ đầu Đổi mới; giai đoạn thứ hai từ năm 2001-2013, bắt đầu bằng việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001 và giai đoạn thứ ba từ khi bản Hiến pháp năm 2013 được ban hành đến nay. Giai đoạn mới mở đầu khi Quốc hội sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để phù hợp với thời kỳ phát triển mới. Đây là sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, thu hút sự quan tâm sâu sắc và hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo đồng bào, chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và thực sự trở thành đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý sâu rộng trong cả hệ thống chính trị. Ngay từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được thành lập. Sau hơn 2 năm chuẩn bị, với quá trình làm việc công phu, nghiêm túc, khoa học và thật sự dân chủ, Quốc hội đã xem xét, quyết định thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Song hành với quá trình soạn thảo Hiến pháp và trên cơ sở Hiến pháp mới, Quốc hội đã và đang tiến hành sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản pháp luật phù hợp với bối cảnh và tình hình mới 15 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới cũng như lộ trình hội nhập quốc tế của nước ta; trong đó, tập trung vào các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, quyền con người, quyền công dân, cải cách thể chế kinh tế, cải cách tư pháp. Trong lĩnh vực kinh tế, Quốc hội đã ban hành các luật như: Luật đất đai năm 2013, Luật đấu thầu năm 2013, Luật đầu tư công năm 2014, Luật phá sản năm 2014, Luật doanh nghiệp năm 2014, Luật đầu tư năm 2014, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh năm 2014... Những văn bản pháp luật này được kỳ vọng sẽ tạo ra một nền tảng vững chắc cho quá trình cải cách thể chế kinh tế trong lâu dài và có tác động lớn đến quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đã được thực hiện ba năm qua. Để tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, việc nghiên cứu thể chế pháp luật kinh tế các nước trên thế giới là cần thiết và bổ ích. Tuy nhiên, không có câu trả lời tuyệt đối về lựa chọn pháp luật theo hình mẫu quốc gia nào. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hệ thống pháp luật các nước ngày càng tiệm cận với nhau hơn; bản thân pháp luật cũng có tính kế thừa, tính đặc thù xã hội và văn hóa. Do vậy, việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật các quốc gia khác chỉ mang tính chất tham khảo, học hỏi kinh nghiệm để từ đó đưa ra lựa chọn chính sách phù hợp cho Việt Nam. Xuất phát từ nhu cầu như vậy, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã huy động đội ngũ chuyên gia luật học am hiểu sâu và có nhiều kinh nghiệm để thực hiện nghiên cứu thể chế pháp luật kinh tế của một số quốc gia trên thế giới trong suốt hai năm (2014-2015) và phát hành cuốn sách “Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới”. Sáu quốc gia đã được lựa chọn nghiên cứu là: Hoa Kỳ, Úc (đại diện của hệ thống thông luật Ănglô-Xắcxông), Đức (đại diện của hệ thống dân luật Châu Âu lục địa), Hàn Quốc (quốc gia phát triển thành công của khu vực Châu Á), Malaysia (quốc gia phát triển ấn tượng khu vực Đông Nam Á) và Cộng hòa Liên bang Nga 16 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế (quốc gia chuyển đổi). Đối với thể chế pháp luật kinh tế của mỗi quốc gia, các tác giả đã tìm hiểu và lựa chọn phân tích một số văn bản luật cơ bản, chính yếu trong các lĩnh vực pháp luật kinh tế cốt yếu, bao gồm: Những luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể trên thị trường từ khi gia nhập thị trường, hoạt động trên thị trường tới khi rút lui khỏi thị trường. Nghiên cứu đã xem xét và đánh giá đặc trưng của các luật chủ yếu, trong một số trường hợp là các án lệ tiêu biểu điều chỉnh và tác động đến hành vi của các chủ thể trong thị trường tại các quốc gia trên, qua đó tác động đến sự phát triển một cách lành mạnh của thị trường. Những thiết chế quản lý và điều tiết thị trường: Trong các trường hợp được lựa chọn nghiên cứu, các thiết chế được hình thành và cơ bản được hoàn thiện để quản lý và điều tiết thị trường nhằm bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên. Nghiên cứu đã xem xét vai trò và vị trí của các thiết chế như cơ quan quản lý cạnh tranh, Ngân hàng trung ương, Ủy ban Chứng khoán, cơ quan thống kê, cơ quan bảo hiểm tiền gửi... đặc biệt là tính độc lập cũng như sự phối hợp giữa các thiết chế trong quản lý và điều tiết thị trường. Cuốn sách cũng đưa ra một số đề xuất, khuyến nghị cho việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các luật nhằm góp phần đa dạng hóa pháp luật kinh tế và hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường tại Việt Nam trong thời gian tới. Với những phân tích mang tính giới thiệu, định hướng về thể chế pháp luật kinh tế của các quốc gia được lựa chọn nghiên cứu, cuốn sách nhằm giúp các đại biểu Quốc hội có thêm nguồn thông tin trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội. Cuốn sách này cũng sẽ được gửi đến các cơ quan nghiên cứu hoạch định chủ trương, chính sách và pháp luật để tham khảo; đồng thời, gợi mở hướng tìm hiểu, phân tích cho những nghiên cứu tiếp theo. 17 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới Thường trực Ủy ban Kinh tế chân thành cám ơn sự tài trợ của Dự án “Hỗ trợ tái cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam” và Bộ Ngoại giao và Thương mại Ôxtrâylia trong việc biên soạn và xuất bản cuốn sách này. Do hạn chế về thời gian, nguồn lực và do số lượng các văn bản pháp luật nghiên cứu là khá lớn nên công tác biên soạn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến góp ý chân tình của quý Đại biểu, quý Cơ quan để có thể biên soạn và xuất bản những ấn phẩm tốt hơn trong thời gian tới. THƯỜNG TRỰC ỦY BAN KINH TẾ 18 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế Chương I TỔNG QUAN VỀ THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ I. QUAN NIỆM VỀ THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ “Thể chế” là một trong những đối tượng nghiên cứu chính của các ngành khoa học xã hội, bao gồm cả triết học, chính trị học, kinh tế học, nhân chủng học và xã hội học; từ đó, đã hình thành nên các trường phái lý thuyết khác nhau về chể chế. Thuật ngữ “thể chế” được sử dụng từ nhiều thập kỷ nhưng các nhà nghiên cứu vẫn chưa có khái niệm thống nhất về “thể chế”. Có cách định nghĩa về thể chế bao gồm các luật lệ, cơ chế thực thi và các tổ chức1; thể chế là tập hợp các quy tắc chính thức và không chính thức điều chỉnh hành vi, ứng xử của con người2; các quy tắc này bao gồm các luật, quy định và hệ thống định chế thực thi các luật và quy định đó; và thể chế cũng bao gồm cả các nguyên tắc chính trị hay thể chế chính trị, là “thể chế” tạo ra các luật lệ nói trên; nó bao gồm cả các chuẩn mực văn hóa định hướng cách thức ứng xử của con người như niềm tin, đạo đức... Có định nghĩa khác về thể chế bao gồm các quy tắc và cách thức ứng xử, trong đó có các luật, còn các tổ chức là những thực thể mà ở đó các thành viên thống nhất trong hành động nhằm theo đuổi một mục đích chung3. Quỹ 1Roumeen Islam (ed.), Building Institutions for Markets, World Development Report 2002, Oxford Uni versity Press, 2002. 2Ngân hàng Thế giới, Phát triển bền vững trong thế giới năng động: thay đổi thể chế, tăng trưởng và chất lượng cuộc sống, (Sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2003. 3Shahid Javed Burki and Guillermo Perry, eds, Beyond the Washington Consensus: Institutions Matter, Washington DC, World Bank, 1998. 19 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund - IMF) định nghĩa thể chế là tập hợp các quy tắc, luật lệ (chính thức, phi chính thức, khách quan, chủ quan, kinh tế, chính trị hay văn hóa…) tạo thành khuôn khổ cho quan hệ và trao đổi của con người, tạo đòn bẩy khuyến khích, định hướng cho các thành viên của xã hội4. Tổ chức Hợp tác Phát triển quốc tế Thụy Điển (Sida) phân biệt khái niệm “thể chế” và “tổ chức”; thể chế được định nghĩa là các quy tắc hành vi điều chỉnh các quan hệ xã hội, điều chỉnh các hành vi của các chủ thể trong mối quan hệ với các chủ thể khác, hình thành nên “luật chơi” mà ở đó, các chủ thể bao gồm các cá nhân và tổ chức, là “người chơi”5. Các nhà kinh tế học về thể chế (institutional economists) tại các nghiên cứu độc lập của mình cũng đã đưa ra các định nghĩa tương tự: thể chế là “hệ thống các yếu tố xã hội kết nối với nhau tạo nên quy tắc hành động chung, các yếu tố này là các yếu tố phi vật thể do con người tạo nên có tác động ngoại sinh đối với mỗi cá thể mà chúng tác động, bao gồm cả luật lệ, niềm tin, các nguyên tắc và các tổ chức”6; là “luật chơi”, là những áp đặt do con người đặt ra đối với các quan hệ giữa người và người, bao gồm các áp đặt chính thức (quy định, luật, điều lệ) và không chính thức (quy tắc ứng xử, quy tắc hành động bản thân tự áp dụng) và cơ chế thực thi7… Trong phạm vi nghiên cứu của Tài liệu này, các tác giả tập trung phân tích thể chế pháp luật kinh tế các quốc gia được lựa chọn, mà ở đó, thể chế pháp luật kinh tế được hiểu dưới góc độ bao gồm các quy định pháp luật kinh tế. Trong thập niên 1980, chịu sự ảnh hưởng của pháp luật từ các quốc gia thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam đã hình 4Dẫn theo Nguyễn Đình Cung, Đổi mới tư duy và thảo bỏ nút thắt thể chế để chuyển mạnh nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân 2015, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, 2015. 5Sida, Supporting the Development of Institutions - Formal and Informal Rules: An Evaluation Theme Basic Concepts, 2005. 6Aner Grief, Institutions and the Path to the Modern Economy: Lessons from Medieval Trade, New York: Cambridge, 2006. 7Douglass C. North, Economic Performance Through Time, American Economic Review, 1994. 20 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế thành quan niệm về ngành luật kinh tế độc lập với pháp luật dân sự và các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, có nguồn gốc từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các quan hệ kinh tế được hình thành trên cơ sở mệnh lệnh hành chính, bảo đảm sự thống trị của khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, hạn chế tự do khế ước, thủ tiêu kinh doanh8. Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, quan niệm về pháp luật kinh tế như một ngành luật độc lập ở Việt Nam cũng đã dần mai một. Người ta nhận thấy rằng việc tách biệt pháp luật kinh tế khỏi pháp luật dân sự cản trở tính nhất quán, lô-gíc của hệ thống pháp luật. Thay vào đó, những quan niệm mới với cách tiếp cận rộng và linh hoạt hơn về pháp luật kinh tế đã được hình thành. Pháp luật kinh tế không còn được xem là một ngành luật độc lập mà có phạm vi rộng hơn. Trước hết, đó là những quy phạm liên quan đến sự hình thành, tồn tại và vận hành của doanh nghiệp như thành lập doanh nghiệp, gia nhập thị trường, tiến hành kinh doanh và rút khỏi thị trường. Trong khuôn khổ tư duy đó, những vấn đề chính của pháp luật kinh tế có thể bao gồm: pháp luật doanh nghiệp, pháp luật hợp đồng trong kinh doanh, pháp luật giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, pháp luật về phá sản doanh nghiệp9. Bên cạnh đó, pháp luật kinh tế còn bao gồm những vấn đề liên quan đến quản lý kinh tế công cộng (như quản lý thị trường, quản lý chất lượng, quản lý quy hoạch phát triển, chính sách hỗ trợ, chính sách giám sát, chính sách chống phá giá…), pháp luật về các lĩnh vực kinh tế (thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán…); pháp luật về các hợp đồng chuyên biệt (mua bán hàng hóa, gia công, trung gian, tiêu thụ, vận tải và hậu cần, thuê mua, quảng cáo…); pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền; pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật về kinh tế quốc tế, 8Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật kinh tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 27. 9Phạm Duy Nghĩa, Dẫn trên, tr.30. 21 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới pháp luật trọng tài và những lĩnh vực pháp luật khác10. Quan niệm này ngày càng trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam11. Thực tiễn lập pháp của nước ta trong thời gian qua cũng cho thấy sự phát triển của pháp luật kinh tế theo hướng này. Tuy nhiên, đứng trước nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng thì việc nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia khác có ý nghĩa tham khảo hết sức quan trọng cho tiến trình phát triển của pháp luật trong nước, nhất là trong bối cảnh hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong nghiên cứu này, việc lựa chọn những quốc gia để nghiên cứu cũng đã thể hiện mong muốn của các tác giả nhằm có được một bức tranh đa dạng nhất về pháp luật kinh tế thuộc các hệ thống khác nhau, bao gồm Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang Đức, Úc, Hàn Quốc, Malaysia và Cộng hòa Liên bang Nga, xét trên các yếu tố về chính thể, hệ thống pháp luật, vị trí địa lý cũng như trình độ phát triển. Quốc gia Vị trí địa lý Chính thể Hình thức Nhà nước Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ Bắc Mỹ Cộng hòa Tổng thống Liên bang Anh - Mỹ (hệ thống thông luật) Đức Châu Âu Cộng hòa nghị viện Liên bang Châu Âu lục địa (hệ thống dân luật) Úc Châu Đại Dương Cộng hòa nghị viện Liên bang Anh - Mỹ (hệ thống thông luật) Hàn Quốc Đông Bắc Á Cộng hòa hỗn hợp Đơn nhất Châu Âu lục địa (hệ thống dân luật) Malaysia Đông Nam Á Quân chủ lập hiến Liên bang Anh - Mỹ (hệ thống thông luật) Liên bang Nga Châu Âu Cộng hòa hỗn hợp Liên bang Châu Âu lục địa (hệ thống dân luật) 10Phạm Duy Nghĩa, Dẫn trên, tr.30. 11Lê Minh Toàn (chủ biên), Luật kinh tế Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.14. 22 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế Có thể nhận thấy quan niệm về phạm vi của pháp luật kinh tế ở các quốc gia này cũng tương đối tương đồng. Mặc dù ở hầu hết các quốc gia đều không có khái niệm chính thức về pháp luật kinh tế nhưng đều bao gồm các cấu thành cơ bản như: - Pháp luật về đầu tư, sản xuất, kinh doanh; - Pháp luật về phát triển các loại thị trường; - Pháp luật về sở hữu; - Pháp luật về các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế; - Pháp luật về hợp đồng; - Pháp luật về các cơ quan quản lý, điều tiết kinh tế; - Pháp luật về giải quyết tranh chấp. Điều này cho thấy quan niệm về pháp luật kinh tế của các quốc gia, bao gồm cả những quy định liên quan đến việc điều chỉnh những quan hệ kinh tế gắn liền với sản xuất - kinh doanh của các chủ thể kinh doanh và liên quan đến chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước với tư cách là chủ thể của quyền lực công cộng. Tuy nhiên, trong từng cấu thành nhỏ này, cách thức tiếp cận của từng quốc gia có những điểm khác biệt. Chẳng hạn, pháp luật về hợp đồng của những quốc gia theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa chịu ảnh hưởng bởi các triết lý về hợp đồng của pháp luật La Mã, lấy Bộ luật dân sự là bộ luật gốc và từ đây phát triển thành các chuyên ngành khác. Trong khi đó, pháp luật hợp đồng của những quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ chủ yếu được hình thành từ nguồn án lệ đồ sộ từ cấp bang đến cấp Liên bang. Chính từ sự linh hoạt và đa dạng trong cách thức tiếp cận về pháp luật kinh tế như vậy nên không có một câu trả lời thống nhất ở các quốc gia được nghiên cứu về nguồn luật để bảo đảm sự hoàn thiện thể chế pháp luật kinh tế. Chẳng hạn, xét về số lượng văn bản Nhà nước đã ban hành, số lượng văn bản quy phạm pháp 23 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới luật điều chỉnh một số lĩnh vực kinh tế do Quốc hội Hoa Kỳ ban hành từ năm 1973 cho đến nay gồm khoảng 1.793 văn bản12, trong khi đó, tại Úc, ở cấp độ Liên bang có khoảng 800 luật và 21.000 thông tư pháp luật về kinh tế13. II. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA 2.1. Các lý thuyết về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và pháp luật Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và pháp luật đã được rất nhiều học giả đề cập và bàn luận. Kể từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 những tác phẩm của Karl Marx và Max Weber đã có những phân tích cụ thể và sâu sắc về mối quan hệ này. Theo học thuyết mang tính khái quát cao của K.Marx, pháp luật là một trong các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, sinh ra trên cơ sở của hạ tầng và bị quy định bởi cơ sở hạ tầng. Trong mối liên hệ giữa pháp luật và kinh tế thì các tiền đề kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật mà còn quyết định toàn bộ nội dung, tính chất và cơ chế để điều chỉnh pháp luật. Tính chất quyết định này được thể hiện cụ thể ở các phương diện sau: Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu và hệ thống pháp luật Trong mỗi cơ cấu và hệ thống kinh tế đều có những loại quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế đặc thù. Những mối quan hệ này có nhu cầu được điều chỉnh bằng pháp luật tương ứng. Vì vậy, pháp luật tồn tại trong khuôn khổ của cơ chế kinh tế và có nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh từ cơ cấu kinh tế và bảo đảm sự tồn tại bền vững của cơ cấu kinh tế. Chẳng hạn như, 12Xem Chương II. 13Xem Chương IV. 24 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, cơ cấu pháp luật về các nội dung liên quan trực tiếp đến công dân như Luật dân sự, Luật thương mại ít được chú trọng phát triển. Nhưng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, đây lại là nội dung được chú trọng quan tâm. Thứ hai: Tính chất của các quan hệ kinh tế quyết định tính chất của các quan hệ pháp luật, của mức độ và phương pháp điều chỉnh pháp luật. Trong các cơ chế kinh tế khác nhau, các mối quan hệ kinh tế thường có tính chất và thuộc tính khác nhau. Vì vậy, bản thân các quan hệ kinh tế ở những cơ chế kinh tế khác nhau cũng cần những phương pháp điều chỉnh khác nhau. Những phương pháp đó sẽ tạo ra những tính chất của từng kiểu quan hệ pháp luật cũng khác nhau. Chẳng hạn, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mối quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế được coi là hợp đồng kế hoạch. Trong cơ chế pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế này có một nghĩa vụ đặc biệt là nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, trong cơ chế kinh tế thị trường, các mối quan hệ về hợp đồng được điều chỉnh bằng phương pháp tự do, dân chủ, thỏa thuận và bình đẳng. Thứ ba: Mỗi cơ chế kinh tế đều quyết định một hệ thống cơ quan và thủ tục pháp lý tương ứng. Sự thay đổi của từng cơ chế kinh tế kéo theo sự thay đổi của hệ thống các cơ quan pháp luật, các thủ tục pháp lý và cả tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước. Điển hình như ở nước ta, quá trình chuyển đổi nền kinh tế làm “biến mất” một số cơ quan quản lý kinh tế quan trọng trong cơ chế kinh tế cũ, như tổ chức trọng tài kinh tế nhà nước đã được thay thế bằng một loạt những cơ quan và tổ chức mới như Tòa kinh tế, Tòa lao động… Tuy nhiên, các nhà lý luận Marx - Lenin cũng nhấn mạnh rằng dù pháp luật được sinh ra từ các điều kiện, tiền đề kinh tế 25 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới nhưng pháp luật không phản ảnh thụ động các quan hệ mà có tác động ngược trở lại đối với kinh tế. Đặc tính cơ bản của pháp luật là mô hình hóa các quan hệ xã hội, trong đó có các mối quan hệ kinh tế. Do vậy, pháp luật là hình thức quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Pháp luật quy định, bảo vệ, cho phép, ngăn cấm hoặc khuyến khích các quan hệ kinh tế phù hợp với mục đích kinh tế của mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Sự tác động trở lại của pháp luật đối với kinh tế có thể diễn ra theo những hướng khác nhau: Thứ nhất, nếu như các quy phạm pháp luật được xây dựng phù hợp với bản chất, tính chất của cơ chế kinh tế, với mục tiêu kinh tế của Nhà nước và xã hội thì pháp luật đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của quá trình kinh tế, góp phần hoàn thiện hơn cơ chế kinh tế và hệ thống kinh tế. Thứ hai, pháp luật không chỉ điều chỉnh những quan hệ kinh tế đã định hình, mà bằng khả năng sáng tạo của mình, pháp luật có thể đón bắt và điều chỉnh những quan hệ kinh tế sẽ xuất hiện trong hệ thống kinh tế. Thứ ba, trường hợp pháp luật mâu thuẫn với nội dung, tính chất và quy luật của các quan hệ kinh tế sẽ gây tác động kìm hãm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế hoặc của một trong các yếu tố hợp thành hệ thống kinh tế, thậm chí có thể làm rối loạn các quá trình kinh tế, làm cho các hoạt động kinh tế và sự phát triển kinh tế đi ra ngoài quỹ đạo của mình14. Phân tích cụ thể hơn về mối quan hệ giữa pháp luật và phát triển, Max Weber, nhà xã hội học nổi tiếng người Đức (1864 - 1920) đã nhấn mạnh đến vai trò của pháp luật đối với quá trình phát triển xã hội qua việc xem xét vai trò của pháp luật trong việc góp phần hình thành chủ nghĩa tư bản ở châu Âu. 14Đào Trí Úc, Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. 26 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế Weber cho rằng tính khái quát cao, áp dụng chung, bắt buộc phải tuân thủ đối với mọi đối tượng áp dụng của pháp luật đã góp phần làm cho sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế có thể lường trước và dự đoán được. Chính nhờ tính khả đoán của pháp luật mà quan hệ kinh tế trở nên ổn định hơn, giảm các chi phí trong các hoạt động kinh tế. Hơn thế nữa, pháp luật các quốc gia phương tây tạo ra cơ chế phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường với ba yếu tố cơ bản: (1) sự ghi nhận về tự do cá nhân, (2) tự do sở hữu và (3) khuyến khích các quan hệ hợp đồng. Chính vì vậy, ở những quốc gia này, pháp luật với ba nền tảng cơ bản là sở hữu tư nhân, tự do khế ước và tự do lập hội đã là cơ sở cho sự phát triển xã hội tiền chủ nghĩa tư bản15. Gần đây hơn, mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế được các nhà kinh tế học hiện đại khảo sát nhiều hơn dưới góc độ xem pháp luật như là một yếu tố chi phí giao dịch trong kinh doanh. Học thuyết này được bắt đầu phát triển từ đầu thế kỷ 20 với tên tuổi của Ronald H. Coase. Theo đó, Coase tập trung phân tích về hành vi cụ thể của người kinh doanh, trong đó xem pháp luật là một phần chi phí của giao dịch. Một khi pháp luật minh bạch, ổn định, có thể dự báo trước được và tin cậy được sẽ làm giảm rủi ro kinh doanh, giảm chi phí giao dịch từ đó giao lưu kinh tế sẽ gia tăng. Điều này có nghĩa là tùy theo thực trạng pháp luật mà nhà kinh doanh sẽ có các phản ứng khác nhau. Nếu môi trường pháp lý rõ ràng, rành mạch thì các chi phí để tìm hiểu, ra quyết định và thương thảo cũng như triển khai các giao dịch kinh doanh sẽ giảm bớt, do vậy các nhà kinh doanh sẽ tăng cường các giao dịch kinh tế. Ngược lại, trong một môi trường pháp lý không rõ ràng, các nhà kinh doanh sẽ hạn chế giao dịch hoặc tìm ra các kênh bảo 15Lan Cao, Law and Economic Development: A New Beginning?, Texas International Law Journal, Vol 32:545, 1997. 27 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới hộ khác với chi phí giao dịch hợp lý hơn so với các chi phí giao dịch qua kênh pháp luật chính thức16. Tới thế kỷ 21, nhà kinh tế học Daron Acemoglu và nhà khoa học chính trị James A. Robinson đã đưa ra luận điểm về sự phát triển kinh tế phụ thuộc trước hết vào tính đầy đủ, dung hợp (inclusiveness) của các thể chế kinh tế và chính trị. Các quốc gia khác nhau về mức độ thành công kinh tế bởi sự khác nhau về thể chế, về các quy tắc ảnh hưởng đến nền kinh tế và các động cơ khuyến khích thúc đẩy người dân17. Như vậy, các lý thuyết đều cho thấy pháp luật góp phần tạo ra hoàn cảnh và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế ở những góc độ khác nhau. Quan hệ giữa pháp luật với sự phát triển kinh tế không phải là một loại quan hệ có tính cách nhân quả mà là một quan hệ tương liên, thường được biểu hiện bằng những chuyển đổi trong hệ thống pháp luật và trong khu vực kinh tế. Những chuyển đổi này có lúc song song và bổ trợ lẫn nhau, có lúc độc lập nhưng liên hoàn, tạo thành một chuỗi đồng bộ. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của các điều kiện kinh tế - xã hội trong giai đoạn toàn cầu hóa, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế vào cuối thế kỷ 20 đã đặt ra vấn đề xem xét lại vai trò của yếu tố pháp luật đối với phát triển kinh tế và đi tới kết luận rằng: pháp luật là yếu tố cần thiết nhưng không phải là yếu tố cơ bản nhất để tạo nên động lực cho sự phát triển vì hai yếu tố: (1) Bản thân luật thành văn do Nhà nước xây dựng và ban hành sẽ không bao giờ “đầy đủ” để có thể điều chỉnh hết mọi tình huống trong cuộc sống (tính “không thể đầy đủ” của pháp luật) và (2) Việc soạn thảo và thực thi pháp luật gây ra nhiều tổn hại về mặt chi phí. 16Ann Seidman et al, Making Development Work: Legislative Reform for Institutional Transforma tion and Good Governance, Kluwer Law International, The Hague, London, Boston, 1999, pp. 20-70. 17Daron Acemoglu, James A. Robinson, Why nations fail?, Crown Business, 2012. 28 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế Khái niệm về tính “không thể đầy đủ” của pháp luật được phát triển dựa trên cách tiếp cận nghiên cứu có tính bứt phá với quan điểm: các hợp đồng được thiết lập bằng văn bản không bao giờ có thể đầy đủ, tức là không bao giờ có thể kể rõ mọi tình huống có thể xảy ra cũng như dự liệu được hết các cách ứng phó. Việc soạn thảo các luật thành văn của Nhà nước cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự: cho dù Nhà nước có tiêu tốn rất nhiều thời gian, công sức và chi phí để xây dựng các quy định thành văn thì cũng không thể nào hoàn thành được một văn bản pháp luật lường được hết mọi tình huống có thể diễn ra trong cuộc sống thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đó18. Hơn thế nữa, việc xây dựng pháp luật, cũng như vận hành bộ máy thi hành luật là những hoạt động cần rất nhiều chi phí và tài nguyên. Nếu không cần quá nhiều tài nguyên cho việc soạn luật và thi hành luật thì một phần nhân lực (như luật sư, công an, thẩm phán…) hoặc vật lực (như các kinh phí cho hoạt động của những người này…) có thể được sử dụng vào việc hữu ích và cấp thiết khác của quốc gia. Bên cạnh đó, một đặc điểm thông thường của hoạt động soạn thảo pháp luật là khi các nhà làm luật nhận thấy một điều gì tiêu cực không muốn xảy ra thì phản ứng thường là phải ra luật cấm và yêu cầu các nhà hành pháp triệt để thi hành luật ấy. Song, nếu xét trên góc độ kinh tế thì chưa hẳn đây là một giải pháp hay, bởi có khả năng là chi phí để dùng vào việc soạn thảo luật và thi hành các quy định cấm đó không tương xứng với những thiệt hại do hành động bị cấm đưa lại. Tuy vậy, mục đích cuối cùng của các nhà kinh tế học khi đưa ra thuyết “không thể đầy đủ” của pháp luật không phải là 18Học thuyết này gắn liên với tên tuổi của Williamson O.E. với một số tác phẩm nổi tiếng như Markets and Hierarchies: Analysis and antitrust implications [1975], The Economic Institutions Of Capitalism [1985], The Mechanism of Governance [1996]. Xem thêm: Eric Brousseay và M’hand Fares, Incomplete Contracts and Governance Structures, 2000, có tại www.brousseau.info truy cập ngày 21/01/2008. 29 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới khuyến khích xã hội không cần để tâm đến việc xây dựng pháp luật thành văn bởi vì pháp luật, như đã đề cập ở trên, có những vai trò nhất định đối với sự phát triển của xã hội. Mục tiêu của lý thuyết này là nhằm xác định và khuyến khích những thể chế có khả năng bù đắp cho sự “không đầy đủ” của pháp luật như các thể chế phi chính thức, bất thành văn như tập quán, chuẩn mực đạo đức… và một trong những yếu tố được đề cập đến nhiều trong thời gian qua là sự tin cẩn trong xã hội hay yếu tố niềm tin. Sự tin cẩn trong xã hội có thể được phân thành hai loại: tin cẩn vì quen biết nhau, có kinh nghiệm làm ăn với nhau (thường được gọi là tin cẩn chiến lược) và tin cẩn vì chia sẻ những giá trị văn hoá và đạo đức với nhau (thường được gọi là tin cẩn đạo đức). Một khi giữa các chủ thể kinh doanh có sự tin cẩn lẫn nhau thì chi phí giao dịch giữa hai bên sẽ giảm đi vì họ không còn mất nhiều thời gian để thương lượng, tìm hiểu đối thủ kinh doanh hoặc phải thuê các công ty luật soạn thảo các hợp đồng chi tiết để tránh các trường hợp xấu có thể xảy ra. Tuy lợi ích của việc giảm chi phí này rất cụ thể và có nhiều trường hợp là không nhỏ nhưng tầm ảnh hưởng của nó tương đối hạn hẹp vì số các chủ thể kinh doanh có thể tin cẩn lẫn nhau là không nhiều. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, mỗi chủ thể kinh doanh không thể chỉ gói gọn hoạt động kinh doanh của mình với một số lượng đối tác nhất định. Tương tự, sự tin cẩn về mặt đạo đức cũng có tác dụng phần nào làm giảm chi phí kinh doanh. Khi hai đối tác kinh doanh, dù chưa có sự tin cẩn chiến lược, nhưng có cùng những giá trị văn hóa hoặc tôn giáo thì dễ tìm thấy những điểm tương đồng có thể tin cẩn được để giảm các chi phí kinh doanh. Chẳng hạn, nếu cả hai đối tác có cùng một tôn giáo thì hai bên sẽ có lòng tin với nhau sẽ tuân theo cùng những điều răn trong đạo lý tôn giáo của cả hai bên. 30 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế Tầm quan trọng của sự tin cẩn về đạo đức có giá trị hơn trong việc xem xét về mức độ hiệu quả trong hoạt động của Nhà nước. Trong xã hội khi sự tin cẩn về đạo đức tăng lên thì sự tham gia của người dân vào hoạt động quản lý xã hội cũng tăng lên làm cho mức độ hiệu quả trong hoạt động nhà nước cũng sẽ được nâng cao. Và từ đó, đến lượt mình, sự hữu hiệu của bộ máy nhà nước sẽ làm cho nền kinh tế - xã hội phát triển thêm và ngược lại. 2.2. Các nghiên cứu thực chứng về mối liên hệ giữa thể chế pháp luật và mức độ phát triển kinh tế Trên cơ sở các lý luận về mối liên hệ giữa thể chế pháp luật và sự phát triển kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế hiện đại đã dành thời gian để thực hiện các nghiên cứu thực chứng về mối liên hệ này, đặc biệt là sau Thế chiến thứ II với sự bùng nổ các hoạt động viện trợ của các quốc gia phát triển hoặc của các tổ chức quốc tế như WB hoặc IMF đối với các quốc gia bị chiến tranh tàn phá (thời gian ngay sau Thế chiến) và các quốc gia chậm phát triển (trong thời gian gần đây). Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng trên thực tế, rất khó có thể đánh giá thực chứng về sự tác động của việc hoàn thiện pháp luật với quá trình phát triển của các quốc gia vì sự phát triển của một quốc gia còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như các giá trị văn hóa, nguồn nhân lực, vị trí địa chiến lược… Do vậy, rất khó có thể khu biệt hóa tác động thực sự của pháp luật đối với tiến trình phát triển. Hơn thế nữa, mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật là một khái niệm tương đối trừu tượng, khó có thể lượng hóa để trở thành một biến số cụ thể có thể sử dụng được trong việc thực hiện nghiên cứu thực chứng. Nhất là trong điều kiện hiện nay, hệ thống pháp luật thường được quan niệm theo nghĩa rộng bao gồm không chỉ hệ thống các quy phạm pháp luật mà còn cả 31 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới những thiết chế thực thi, hệ thống thông tin pháp luật, đào tạo pháp luật. Chính vì vậy, các nghiên cứu thực chứng về mối liên hệ giữa pháp luật và mức độ phát triển chủ yếu tập trung vào một số góc độ cụ thể có thể tiến hành so sánh được của hệ thống pháp luật như: mức độ dân chủ, quyền tự do kinh doanh, mức độ độc lập của hệ thống tư pháp…19 Về mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển kinh tế, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các thước đo để đánh giá mức độ dân chủ ở các quốc gia và thực hiện phép so sánh giữa các quốc gia khác nhau về mức độ dân chủ và sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu này vẫn chưa đưa ra được một kết luận rõ ràng vì những khó khăn, phức tạp trong việc xác định các thông số như thế nào là “phát triển” và thế nào là “mức độ dân chủ”. Ở những quốc gia khác nhau với những nền văn hóa khác nhau, quan điểm về dân chủ và phát triển cũng có thể có những nét khác nhau nhất định. Nhưng có một thực tế khá rõ ràng là qua khảo sát đối với những quốc gia phát triển trong thời gian gần đây thì việc đi theo lộ trình ưu tiên phát triển kinh tế trước và tiến hành dân chủ hóa sau dường như đem lại nhiều thành công hơn. Chẳng hạn như, những quốc gia mà cải cách kinh tế đi trước dân chủ gồm: Hàn Quốc, Đài Loan, Chile, Mexico có mức độ phát triển ổn định hơn hẳn so với Argentina, Brazil, Philippines và Bangladesh là những quốc gia tiến hành dân chủ hóa trước20. Có hai lý do cơ bản lý giải cho hiện tượng này: thứ nhất, cởi trói kinh tế bởi một chính quyền chuyên chế có “công hiệu hơn” so với một chính quyền dân chủ và thứ hai, dân chủ hoá được tiến hành trong một không gian kinh tế “tự do” sẽ đem đến một nền dân chủ “tốt” hơn. 19Frank B. Cross, Law and Economic Growth, có tại www.utexas.edu/law/academics/centers/clcjm/ civiljustice/Cross.pdf truy cập 19/12/2007. 20Trần Hữu Dũng, Dân chủ và phát triển: Lý thuyết và chứng cứ, Thời đại mới, Số 10, tháng 3/2007. 32 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế Theo hai nhà nghiên cứu Giavazzi và Tabellini, các chính sách cởi trói cho nền kinh tế của các chính quyền chuyên chế sẽ có công hiệu hơn vì họ ít phải chịu các áp lực phản đối hơn của các nhóm lợi ích khi họ bị đụng chạm như trong một xã hội dân chủ. Còn một khi một nền kinh tế đã phát triển rồi mới tiến hành dân chủ hóa thì nền dân chủ đó sẽ có nhiều lý do bền vững hơn so với trường hợp ngược lại do nền kinh tế lúc đó đã sẵn sàng cho thương mại, cạnh tranh và đã có đủ nguồn lực để phân phối cho dân chúng vốn được coi là một điều cần thiết mà mọi nền chính thể dân chủ đều cần làm. Hơn thế nữa, trong trường hợp dân chủ hóa quá sớm trong một nền kinh tế còn đóng kín thì nền kinh tế dễ bị tê liệt do các thế lực dân chủ mới đòi phân bố thu nhập và sẽ đi quá xa trong những chính sách thoả mãn quần chúng, có tính lãng phí. Giavazzi và Tabellini cũng đưa ra các chứng cứ cho thấy quá trình phát triển kinh tế trước khi đi đến dân chủ hóa thường được thực hiện theo những kế hoạch định trước nên dễ diễn ra trong trật tự. Ngược lại, dân chủ hóa đi trước thường là kết quả của một quá trình cách mạng đột ngột, có tính xáo trộn và do vậy dễ dẫn tới những xáo trộn về mặt kinh tế. Tuy nhiên, mức độ hiệu quả nhất, theo hai nhà nghiên cứu này, là trường hợp tiến hành cải cách để phát triển kinh tế và dân chủ một cách đồng thời21. Khác với mối liên hệ giữa dân chủ và phát triển kinh tế, nhiều nghiên cứu đã cho thấy mức độ tự do của nền kinh tế có mối quan hệ rõ rệt với sự phát triển kinh tế. Tự do kinh tế thường được đo lường bởi các yếu tố như mức độ bảo đảm quyền tư hữu, sự tự do giao kết và thực hiện các giao dịch kinh tế22. Trong số đó, quyền sở hữu được xem là có vị trí rất quan trọng. Thậm chí một số nghiên cứu còn đưa ra kết luận rằng việc bảo đảm quyền tư 21Giavazzi và Tabellini, Economic and Political Liberalizations có tại www.szgerzensee.ch/fileadmin/ Dateien_Anwender/Dokumente/Conferences/papers_conferences/GiavazziTabellini.pdf truy cập 21/01/2008. 22Frank B. Cross, Dẫn trên, n. 19. 33 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới hữu tạo ra sự phát triển ở các quốc gia23. Từ năm 1995, Tạp chí Phố Wall (Hoa Kỳ) và Quỹ Di sản Heritage đã đưa ra chỉ số tự do kinh tế thường niên (Index of Economic Freedom - IEF) dựa trên 50 biến số kinh tế độc lập để tính toán và xếp hạng cho 161 quốc gia. Những biến số này được xếp vào 10 nhóm lớn gọi là các yếu tố tự do kinh tế, bao gồm: chính sách thương mại, gánh nặng ngân sách Chính phủ, can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế, chính sách tiền tệ, các luồng vốn và đầu tư nước ngoài, ngân hàng và tài chính, lương và giá, quyền sở hữu tài sản, các luật lệ, hoạt động của thị trường phi chính thức. Các yếu tố này có tầm quan trọng ngang nhau đối với mức độ tự do kinh tế của mỗi quốc gia. Căn cứ vào số điểm bình quân 10 yếu tố này của mỗi quốc gia để xếp hạng và đánh giá mức độ tự do kinh tế theo các nhóm: tự do hoàn toàn, gần như tự do hoàn toàn, gần như không tự do và kiểm soát24. Trong mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và các yếu tố của Nhà nước pháp quyền, Ngân hàng thế giới đã tiến hành một nghiên cứu điều tra trên phạm vi 73 quốc gia và đã đưa ra các chỉ số đáng tin cậy để đánh giá mức độ hoàn thiện của Nhà nước pháp quyền của các quốc gia như tính ổn định về chính trị, mức độ an ninh dành cho con người và tài sản, tính khả đoán của các phán quyết tư pháp và mức độ tham nhũng. Những nghiên cứu này cho thấy sự tin cậy của người dân đối với Nhà nước, đặc biệt là đối với hệ thống tư pháp có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển kinh tế. Hệ thống tư pháp với chức năng giải quyết tranh chấp giữa các bên tư nhân với nhau, giải quyết tranh chấp giữa các bên tư nhân và Nhà nước, cung cấp nền tảng để các cá nhân và tổ chức hành xử bên ngoài hệ thống chính thức và ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội và các chuẩn mực xã hội. Những thay 23Torstensson, Johan, Property Rights and Economic Growth: An Empirical Study, Kyklos, Blackwell Pub lishing, vol. 47(2), 1994, tr. 231-47. 24http://www.heritage.org/index/about. 34 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế đổi này mang lại luật pháp và trật tự, khuyến khích sự phát triển của các thị trường, tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo25. Một hướng đi khác trong việc nghiên cứu thực chứng về mối quan hệ giữa pháp luật và phát triển là đánh giá tác động của những chế định pháp luật cụ thể đối với quá trình phát triển kinh tế. Đây là cách thức tiếp cận theo lý thuyết của Ronal Coase về chi phí kinh tế của pháp luật. Như đề cập ở phần trên, trước đây nhiều nghiên cứu đã cho thấy để tạo điều kiện cho kinh tế phát triển thì vai trò của Nhà nước chỉ nên dừng lại ở mức độ bảo đảm quyền sở hữu tài sản và bảo đảm việc thực thi các hợp đồng, còn sau đó không nên can thiệp vào quá trình vận hành của thị trường tự do. Tuy nhiên, theo học thuyết Coase thì sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết nếu nó làm giảm chi phí giao dịch hơn so với khi chưa có sự can thiệp của Nhà nước. Các nghiên cứu thực chứng cũng hỗ trợ cho kết luận này đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật về thị trường chứng khoán hoặc ngân hàng. Qua khảo sát ở nhiều quốc gia khác nhau cho thấy ở những quốc gia có các quy định pháp luật về chứng khoán có hiệu quả, nhất là trong việc ngăn chặn các vụ mua bán nội gián và pháp luật về giám sát hoạt động của ngân hàng thì sự phát triển của thị trường chứng khoán và ngân hàng ở nước đó trở nên mạnh mẽ hơn, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế26. III. PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, nhiều chuyên gia cho rằng pháp luật quản lý kinh tế về bản chất là sự luật hóa các chính sách kinh tế của Nhà nước. Chính vì vậy, so với bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực tư, bộ 25Ngân hàng Thế giới, Xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường, Báo cáo phát triển thế giới 2002, NXB Chính trị quốc gi, tr. 154-173. 26Ross Levine & Sara Zevros, Stock Markets, Banks, and Economic Growth, World Bank Policy Research Working Paper No. 1690; A1.213 Working Paper No. 297. 35 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới phận pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế có tính động hơn do đối tượng quản lý là những chủ thể kinh doanh, các hoạt động kinh doanh luôn luôn năng động, biến động không ngừng. Vì vậy, chính sách quản lý phải luôn được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn, dẫn đến pháp luật phải thay đổi theo. Khảo sát pháp luật của các quốc gia về vấn đề này cho thấy pháp luật về quản lý kinh tế thường bao gồm những quy định liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu tài sản, phát triển thị trường, bảo đảm thị trường cạnh tranh công bằng, ưu đãi và khuyến khích đầu tư, về các cơ quan điều tiết kinh tế và giải quyết tranh chấp. Đối với việc phát triển các loại thị trường, phần lớn pháp luật các quốc gia đều dành nhiều sự quan tâm để bảo đảm môi trường cho doanh nghiệp phát triển. Trong đó việc phát triển các loại thị trường cần thiết cho các doanh nghiệp tồn tại và vận hành là hết sức quan trọng. Những dạng thị trường cơ bản mà pháp luật của các quốc gia đề cập bao gồm: - Thị trường hàng hóa - dịch vụ; - Thị trường tài chính (đặc biệt là thị trường vốn); - Thị trường đất đai, bất động sản và tài nguyên khác; - Thị trường khoa học - công nghệ; - Thị trường lao động. - Các thị trường phái sinh. Pháp luật kinh tế ở các quốc gia có những kinh nghiệm khác nhau về phát triển các loại thị trường. Chẳng hạn như ở Cộng hòa Liên bang Đức, việc phát triển thị trường hàng hóa có sự quan tâm thích đáng đến phát triển logistics. Logistics là một trong những bộ phận kinh tế lớn nhất của Đức, chỉ đứng sau ngày công nghiệp kỹ thuật cơ khí, điện tử và ngành công nghiệp ô tô. Có khoảng 2,8 triệu người lao động làm việc trong lĩnh vực này. Một đối tượng rất quan trọng mà Chính phủ Đức hướng tới và cũng là 36 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế một yếu tố quan trọng trong sự phát triển của logistics là chính sách vận tải thống nhất và toàn diện nhằm giúp cho hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng thông minh, hiệu quả và an toàn hơn khi sử dụng. Một hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh các dịch vụ logistic cũng được phát triển một các đầy đủ và hoàn thiện gồm: Luật về không gian hoạt động, Luật đường sắt chung, Quy chế về giao thông đường sắt, Luật về vận chuyển các hàng hóa nguy hiểm, Luật về trách nhiệm và chi phí bồi thường đối với sự cố tràn dầu từ các tàu chở hàng hóa, Quy chế về thời xếp hàng và bốc dỡ hàng hóa, Luật giao thông đường bộ, Luật về quyền đăng ký vận chuyển hàng hóa… Đối với việc phát triển thị trường tài chính, sau những đổ vỡ trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008, pháp luật các quốc gia đã có những cải cách trong quản lý thị trường tài chính nhằm ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro hệ thống. Trong đó, đi đầu là Hoa Kỳ với việc ban hành Luật cải tổ phố Wall và bảo vệ người tiêu dùng Dodd-Frank năm 2010 (Luật Dodd-Frank) ra đời để cải tổ hệ thống tài chính Hoa Kỳ, qua đó thiết lập Hội đồng giám sát ổn định tài chính (Financial Stability Oversight Council - FSOC) là cơ quan liên ngành có chức năng xác định và ứng phó với rủi ro hệ thống. Luật Dodd-Frank cũng đưa ra nhiều cơ chế nhằm ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro hệ thống. Phương thức này cũng được pháp luật nhiều quốc gia khác nghiên cứu, áp dụng27. Các quốc gia được khảo sát cũng dành sự quan tâm đặc biệt để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về thị trường khoa học - công nghệ. Trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển nhanh, việc bảo đảm các loại tài sản trí tuệ, chuyển giao công nghệ cũng rất được chú trọng. Trong đó, kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy: để thị trường khoa học và công nghệ phát triển cần có những chính sách khuyến khích, kết nối hiệu quả giữa nghiên cứu - sản 27Xem Chương II. 37 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới xuất - tiêu dùng; khuyến khích hoạt động khoa học - công nghệ, nghiên cứu phát triển thông qua các chính sách ưu đãi; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả; khuyến khích nguồn lực tài chính tài trợ cho khoa học và công nghệ cả từ khu vực công và tư. Trên thị trường khoa học - công nghệ có sự tham gia của nhiều chủ thể bao gồm các trường đại học, phòng thí nghiệm Liên bang, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức kinh doanh. Về chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư, nhìn chung các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều dựa trên việc bảo đảm hoạt động kinh doanh được tự do, không có sự phân biệt giữa công dân nước mình và các quốc gia khác. Tuy nhiên, để khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực và địa bàn cụ thể, pháp luật các quốc gia cũng có những chính sách đặc thù nhất định. Những chính sách này được thực hiện thông qua nhiều công cụ khác nhau và gắn với những mục đích khác nhau như ưu đãi liên quan đến kết quả đầu tư, liên quan đến các hoạt động nghiên cứu và phát triển, liên quan đến tuyển dụng lao động hoặc nhu cầu về vốn… Các công cụ ưu đãi có thể là khoản hỗ trợ, khoản vay hoặc các bảo đảm tài chính phù hợp với nhu cầu của các hoạt động kinh doanh khác nhau và vào các giai đoạn phát triển khác nhau của công ty. Tuy nhiên, đối với những quốc gia đang trong quá trình phát triển hoặc mới bước vào giai đoạn phát triển thì để bảo vệ lợi ích quốc gia, các quốc gia này thường có những quy định pháp luật chặt chẽ nhằm chống lại hiện tượng chuyển giá. Chẳng hạn như ở Malaysia, các nghĩa vụ và các khoản bồi thường trong các giao dịch chuyển giá được xác định trên nguyên tắc sòng phẳng được thừa nhận bởi Ban Thu nhập nội địa. Nguyên tắc này cho phép cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh giá trong các giao dịch chuyển giá giữa các bên có liên quan tại Malaysia mà theo quan điểm của cơ quan có thẩm quyền là không đáp ứng nguyên tắc sòng phẳng. 38 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế Để hạn chế việc chuyển giá, lãi suất đối với các khoản hỗ trợ tài chính giữa các bên có quan hệ liên quan tại Malaysia hoặc liên quốc gia sẽ không được coi là chi phí hợp lệ để khấu trừ28. Vấn đề chuyển giá nhằm tránh hoặc trốn thuế ở Hàn Quốc được thực hiện theo quy định của một luật riêng là Luật về điều phối thuế quốc tế, theo đó các giao dịch quốc tế giữa các bên có quan hệ lợi ích với nhau phải thực hiện nguyên tắc “đối xử như những người không có quan hệ thân thích”. Nếu vi phạm, cơ quan thuế có thể điều chỉnh mức thuế phải nộp tương ứng29. Về các cơ quan điều tiết kinh tế, việc thiết lập các cơ quan điều tiết kinh tế ở các quốc gia chủ yếu hướng đến mục tiêu tạo ra những công cụ để khắc phục những khuyết tật của thị trường, bảo đảm thị trường cạnh tranh công bằng và vận hành một cách lành mạnh. Trên thực tế, các cơ quan điều tiết kinh tế thường được thành lập gắn liền với một Luật điều tiết thị trường. Chẳng hạn như ở Hoa Kỳ, các cơ quan điều tiết thị trường thường là những cơ quan độc lập được thiết lập theo luật, như: Cục Dự trữ Liên bang (FED), Ủy ban Chứng khoán (SEC), Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng (CPSC), Cục Bảo vệ Môi trường (EPA), Cục Hàng không Liên bang (FAA) (thuộc Bộ Giao thông), Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC), Ủy ban Quản lý Năng lượng Liên bang (FERC)…30. Các cơ quan này thường được giao ba nhiệm vụ cơ bản: ban hành các quy chế hành chính, hướng dẫn văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành và thực thi pháp luật. Nhiều quốc gia khác cũng đi theo mô hình tương tự. Chẳng hạn, ở Malaysia, các cơ quan độc lập theo luật, có vai trò điều tiết kinh tế bao gồm Ngân hàng trung ương, Ủy ban Chứng khoán, Ủy ban về doanh nghiệp, Ban Thu nhập nội địa, Ủy ban Thông tin truyền thông, Hội đồng Sở hữu trí tuệ, Hội đồng Cạnh tranh…31 28Xem Chương VI. 29Xem Chương V. 30Xem Chương II. 31Xem Chương VI. 39 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới Về cơ chế giải quyết tranh chấp, trong lĩnh vực kinh tế, pháp luật các quốc gia có những hình thức đa dạng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, trong đó tập trung vào việc bảo đảm quyền sở hữu tài sản, bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh. Thông thường, các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự và thương mại gồm tố tụng Tòa án và các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án (Alternative Dispute Resolution - ADR) như hòa giải, Trọng tài. Thực tiễn cho thấy, giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án tốn kém về tiền bạc và thời gian. Có những vụ việc kéo dài nhiều năm mới ra được quyết định cuối cùng. Ngoài ra, quy trình tố tụng Tòa án cứng nhắc, các bên phải có mặt tại trụ sở của Tòa án để giải quyết với thời gian biểu không thuận tiện, những quy định này gây khó khăn cho các bên trong quá trình tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với các đương sự là các chủ thể kinh doanh. Quyết định của Tòa án là công khai, vì vậy đôi khi không phù hợp với nhu cầu bảo mật của các thương nhân. Vì vậy, ngày càng nhiều các thương nhân lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án (ADR) bởi các phương thức này khắc phục được các hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án. Do đó, ngày nay phần lớn các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế được giải quyết bằng phương thức giải quyết ngoài Tòa án. Đối với phương thức giải quyết ngoài Tòa án, các quốc gia có nhiều hình thức đa dạng khác nhau trong lĩnh vực này. Trong đó, có những quốc gia có những phương thức khá đặc thù. Chẳng hạn, ở Úc, hình thức mời chuyên gia độc lập thẩm định tranh chấp rất được các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế quan tâm. Chuyên gia thẩm định thường là những người có kiến thức và kinh nghiệm hành nghề trong lĩnh vực tranh chấp giữa hai bên thưa kiện. Họ tìm cách nắm bắt thông tin cần thiết quyết 40 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế định vấn đề thông qua quá trình tìm hiểu và hỏi đáp. Hai bên thưa kiện có toàn quyền quyết định có giải quyết theo nhận định của chuyên gia hay không hoặc có thể thương lượng dựa trên phán quyết của chuyên gia để dàn xếp hòa giải32. Với các ưu điểm về thủ tục nhanh gọn, đưa ra các giải pháp giải quyết tranh chấp hợp lý, ở các quốc gia, việc thành lập các trung tâm hòa giải cũng được quan tâm thực hiện. Chẳng hạn, Malaysia có những trung tâm hòa giải ở những lĩnh vực khác nhau như Trung tâm Hòa giải Bảo hiểm, Trung tâm Hòa giải ngân hàng, Ủy ban về tranh chấp liên quan đến người tiêu dùng, Trung tâm Hòa giải của Hội luật sư và Ủy ban về Quyền tác giả. Thực tế cho thấy cách thức giải quyết qua các trung tâm hòa giải rất có hiệu quả, được công chúng sử dụng nhiều. Đây là bài học kinh nghiệm cần được quan tâm, áp dụng ở những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. IV. PHÁP LUẬT VỀ CÁC CHỦ THỂ KINH DOANH Pháp luật về các chủ thể kinh doanh là một phần rất quan trọng, thậm chí được xem là phần cơ bản nhất của pháp luật kinh tế. Một số chuyên gia còn so sánh pháp luật về các chủ thể kinh doanh trong pháp luật về kinh tế có vị trí quan trọng như đối với các quy định pháp luật về thể nhân trong pháp luật về dân sự. Ở các quốc gia trong phạm vi được khảo sát, pháp luật quy định nhiều loại hình chủ thể kinh doanh khác nhau. Chẳng hạn như ở Đức, hệ thống doanh nghiệp của Đức tương đối phức tạp với nhiều loại hình công ty khác nhau. Sự phân loại các hình thức công ty của pháp luật Đức được thiết lập trên cơ sở sự kết hợp linh hoạt vừa có tính phân chia vừa có tính liên kết giữa hai loại chế độ chịu trách nhiệm của các thành viên là hữu hạn và vô hạn với các loại hình cơ bản như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ 32Xem Chương IV. 41 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới phần, công ty hợp danh. Cách thức phân loại này cũng được áp dụng ở đa số các quốc gia. Để tạo điều kiện cho việc khởi sự kinh doanh, pháp luật các quốc gia quy định về thủ tục thành lập các doanh nghiệp tương đối thuận lợi, dễ dàng. Thông thường, các doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở một bản thỏa thuận hợp tác kinh doanh giữa các thành viên trước sự có mặt của công chứng viên. Thời gian thành lập các doanh nghiệp thường chỉ kéo dài từ vài ngày đến khoảng 2-3 tuần. Thời gian để thành lập hoặc giải thể doanh nghiệp được xem là một trong các tiêu chí để đánh giá môi trường kinh doanh ở các quốc gia33. Tuy nhiên, một trong những vấn đề mà kinh nghiệm các quốc gia rất chú trọng khi quy định về các chủ thể kinh doanh là các quy định về quản trị doanh nghiệp. Theo đó, về nguyên tắc, việc quản trị doanh nghiệp được thực hiện dựa trên sự phân định rạch ròi giữa quyền sở hữu và quyền quản lý. Pháp luật các quốc gia đều ghi nhận các cổ đông là người sở hữu công ty nhưng không có quyền trực tiếp quản lý công ty. Hoạt động quản lý công ty trước hết được trao cho Hội đồng quản trị và người điều hành công ty. Cổ đông chỉ thực hiện quyền kiểm soát công ty thông qua biểu quyết để bầu hoặc miễn nhiệm thành viên Hội đồng quản trị và thông qua hoặc không thông qua những thay đổi căn bản của công ty. Bên cạnh đó, pháp luật về quản trị doanh nghiệp của các quốc gia còn có những quy định rất cụ thể nhằm bảo đảm quyền lợi của các nhà đầu tư, đặc biệt là quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ. Điều này được thực hiện thông qua những quy định nhằm bảo đảm tính minh bạch trong quản trị công ty, nhất là các thông tin tài chính, kinh doanh và quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý; bảo đảm thực thi các quyền của tất cả các cổ đông; phát huy vai trò của các thành viên trong Hội đồng quản trị 33Ví dụ như: Chỉ số thuận lợi kinh doanh (EBDI - Ease of Doing Business Index) được đề ra bởi WB. 42 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế thông qua các quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh doanh, tuyển dụng giám đốc điều hành, giám sát tính trung thực và hiệu quả của hoạt động quản lý và trong việc chấm dứt hợp đồng với giám đốc điều hành khi cần thiết. Pháp luật về các chủ thể kinh doanh còn bao gồm các quy định nhằm bảo đảm hoạt động của chủ thể kinh doanh tuân theo những chuẩn mực nhất định. Trong đó, các yêu cầu tuân thủ hàng đầu được tập trung vào việc tuân thủ chế độ về kế toán và lưu trữ, chế độ báo cáo tài chính và công khai báo cáo tài chính, nhất là đối với công ty đại chúng. Trong thời gian gần đây, hoạt động kinh doanh ở Việt Nam xuất hiện xu hướng mua bán và sáp nhập các doanh nghiệp. Đây cũng là lĩnh vực được pháp luật nhiều quốc gia chú trọng xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn, ở Malaysia có Bộ luật thâu tóm và sáp nhập năm 1998. Mục tiêu là bảo đảm các cổ đông nhỏ có cơ hội bình đẳng để xem xét, tiếp cận các đề xuất chuyển nhượng và cho phép các cổ đông này quyết định chuyển nhượng hay giữ lại cổ phần của mình. Bộ luật này đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, trong đó sửa đổi gần đây nhất là vào năm 2010 với những thay đổi quan trọng, phản ánh nỗ lực của Ủy ban Chứng khoán trong việc tăng cường bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và minh bạch hóa cũng như đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn trong việc thực hiện các giao dịch thâu tóm và sáp nhập trên thị trường Malaysia34. V. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Nền tảng của giao dịch kinh doanh là hợp đồng. Hầu hết các hoạt động kinh doanh như mua bán, đại lý, ủy thác, gia công, thuê quảng cáo, giao nhận kho vận suy cho cùng đều là những quan hệ hợp đồng. Chính vì vậy, pháp luật về hợp đồng ở các quốc 34Xem Chương VI. 43 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới gia đều được cho là phần cơ bản nhất của pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Về cơ bản, pháp luật điều chỉnh về hợp đồng ở các quốc gia phụ thuộc vào truyền thống pháp luật của nước đó. Chẳng hạn, hệ thống pháp luật về hợp đồng của Đức chịu nhiều ảnh hưởng bởi các triết lý về hợp đồng của pháp luật La Mã. Hệ thống này lấy Bộ luật dân sự là bộ luật gốc và từ cái gốc này phát triển ra các luật chuyên ngành khác. Do đó, khi nói đến pháp luật về hợp đồng là nói về một hệ thống35. Trong khi đó, pháp luật hợp đồng của Hoa Kỳ chủ yếu được điều chỉnh bởi nguồn án lệ đồ sộ từ cấp bang đến cấp Liên bang. Tuy nhiên, bên cạnh nguồn luật án lệ, ngày nay, đối với các giao dịch mua bán hàng hóa, cho thuê hàng hóa, giao dịch bảo đảm và các giao dịch liên quan khác được điều chỉnh bởi Bộ luật thương mại thống nhất (Uniform Commercial Code - UCC) và một số văn bản khác. Hợp đồng giữa các bên còn phải tuân thủ các quy định của các luật chuyên ngành, ví dụ các quy định của các luật chống độc quyền, các quy định của các luật về bảo vệ người tiêu dùng...36 Tuy có sự khác biệt về nguồn luật điều chỉnh nhưng về nội dung của pháp luật về hợp đồng giữa các quốc gia có những điểm tương đồng. Trong đó, yếu tố tự do giao kết hợp đồng có vai trò quan trọng trong chế định hợp đồng. Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân. Đương nhiên, tự do hợp đồng không phải là không có giới hạn. Chẳng hạn, pháp luật về cạnh tranh cũng đưa ra một số trường hợp giới hạn sự thỏa thuận giữa các công ty có vị trí độc quyền có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh hoặc quyền lợi của người tiêu dùng. Về giao kết hợp đồng, pháp luật Châu Âu lục địa cho rằng hợp đồng hình thành kể từ thời điểm bên đề nghị nhận được chấp 35Xem Chương III. 36Xem Chương II. 44 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế nhận đề nghị với điều kiện chấp nhận đó không bị rút lại trước hoặc đúng thời điểm nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Đề nghị được coi là đã nhận được nếu nó được chuyển vào hộp thư của bên được đề nghị và có hiệu lực vào ngày hôm sau, theo thường lệ, bên được đề nghị kiểm tra hộp thư của mình, cho dù có thể ngày hôm đó bên được đề nghị hoàn toàn không mở hộp thư ra. Trong khi đó, theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ thì một hợp đồng được coi là đã được giao kết nếu đáp ứng đủ 6 yêu cầu sau: (i) Có đề nghị giao kết hợp đồng tự nguyện; (ii) Có sự chấp thuận đề nghị giao kết hợp đồng tự nguyện; (iii) Mong muốn giao kết hợp đồng; (iv) Các bên có sự cân nhắc trước khi giao kết hợp đồng; (v) Tính hợp lý; (vi) Các bên có đủ năng lực hành vi để ký kết hợp đồng. Về hình thức hợp đồng, theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, một số hợp đồng bắt buộc ký bằng văn bản như hợp đồng tặng cho tài sản, thế chấp, cho thuê tài sản với thời hạn trên một năm, hợp đồng bảo đảm… Nếu pháp luật có quy định hình thức hợp đồng phải bằng văn bản thì phải được ký bằng tay hoặc chữ ký tắt đã được công chứng. Các hợp đồng mà pháp luật không có yêu cầu phải bằng văn bản thì có thể được giao kết bằng lời nói hoặc hành vi. Hình thức văn bản của hợp đồng có thể được thay thế bằng hình thức điện tử. Trong khi đó, pháp luật của các quốc gia theo truyền thống pháp luật Anh - Mỹ quy định hình thức hợp đồng một cách linh hoạt hơn. Bên cạnh các quy định chung về hợp đồng, một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng khác là các quan hệ lao động. Hợp đồng lao động được coi là một dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ và phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của người lao động và người sử dụng lao động. Trong mối quan hệ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, pháp luật của các quốc gia theo đường lối kinh tế thị trường 45 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới xã hội thường có xu hướng bảo vệ quyền lợi của người lao động. Chẳng hạn như ở Cộng hòa Liên bang Đức, các quy định về thời gian lao động và tiền lương tối thiểu được quy định tương đối cụ thể, toàn diện và rất coi trọng quyền lợi của người lao động. Về thời gian làm việc, thời gian làm việc trung bình là từ 35 đến 40 giờ và không quá 8 tiếng/ngày. Thời gian làm việc có thể kéo dài tới 10 tiếng/ngày nhưng trong phạm vi 6 tháng thì thời gian làm việc trung bình của khoảng thời gian này là không quá 8 tiếng/ ngày. Làm việc trong những ngày nghỉ lễ về nguyên tắc là cấm. Tuy nhiên, Luật về thời giờ làm việc có cho phép một số trường hợp ngoại lệ và phải có sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Phần lớn các trường hợp ngoại lệ như vì lý do kỹ thuật phải duy trì hoạt động sản xuất, vì lý do kinh tế để tạo việc làm hoặc các lý do xã hội như gia tăng lợi ích công. Pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức cũng dành nhiều quyền lợi cho lao động nữ, theo đó lao động nữ được quyền nghỉ thai sản hưởng nguyên lương. Thời gian nghỉ được tính từ 6 tuần trước ngày dự kiến sinh và kéo dài tới 8 tuần sau khi sinh con. Trong khi đó, pháp luật của những quốc gia theo định hướng phát triển nền kinh tế thị trường tự do thì việc giao kết hợp đồng lao động được dựa trên sự thỏa thuận giữa hai bên. Nhà nước can thiệp rất ít vào mối quan hệ lao động. Thậm chí, ở Hoa Kỳ, cho đến nay chỉ có duy nhất 1 trong tổng số 50 bang có quy định cho phép lao động nữ được hưởng chế độ thai sản. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, một số nước theo đuổi việc xây dựng nền kinh tế thị trường tự do cũng đã có những thay đổi nhất định nhằm hướng đến việc bảo vệ nhiều hơn cho quyền lợi của người lao động. Chẳng hạn, ở Úc, Luật công bằng lao động đã thiết lập một Ủy ban bảo vệ quyền lợi lao động duy nhất hoạt động trên toàn bộ nước Úc. Ủy ban này hoạt động với tiêu chí bảo đảm quyền lợi tối thiểu về lương bổng và điều kiện làm việc của 46 Chương I: Tổng quan về thể chế pháp luật kinh tế người lao động đồng thời là trung gian kết nối, giúp đỡ giải quyết các bất đồng giữa người lao động và người sử dụng lao động. Song hành với Ủy ban công bằng lao động là Thanh tra lao động - cơ quan thanh tra có thẩm quyền hoạt động trên toàn quốc với vai trò điều tra những trường hợp chủ sử dụng lao động vi phạm luật. Luật công bằng lao động cũng đưa ra 10 tiêu chuẩn về quyền lợi lao động tối thiểu dành cho người lao động chính thức của doanh nghiệp37. 37Xem Chương IV. 47 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới 48 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ Chương II THỂ CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ I. TỔNG QUAN Pháp luật Hoa Kỳ không phân chia thành các ngành luật. Do vậy, trong thực tiễn không tồn tại khái niệm pháp luật kinh tế hay pháp luật kinh doanh với tư cách là một ngành luật độc lập. Khái niệm pháp luật kinh doanh chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu và giảng dạy về pháp luật ở Hoa Kỳ. Vì vậy, trong phạm vi nội dung nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “hệ thống pháp luật kinh tế của Hoa Kỳ” (“pháp luật kinh tế của Hoa Kỳ”) để đề cập đến toàn bộ các quy phạm pháp luật được chứa đựng trong các nguồn luật, bao gồm cả các quy phạm pháp luật về hình sự và dân sự, bao gồm cả luật nội dung và luật hình thức điều chỉnh các quan hệ kinh tế ở Hoa Kỳ. 1.1. Khái quát chung về hệ thống pháp luật Hoa Kỳ Pháp luật Hoa Kỳ, hay nói chính xác hơn là hệ thống pháp luật Liên bang và 50 hệ thống pháp luật của các bang thuộc Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thuộc dòng họ pháp luật mà ở đó án lệ là nguồn luật chủ yếu. Khởi nguồn của dòng họ thông luật là từ nước Anh. Sau khi bộ tộc Norman chiếm được Anh vào năm 1066, các Tòa án hoàng gia đầu tiên được thành lập từ Hội đồng cố vấn của Nhà vua. Các thẩm phán hoàng gia đi khắp nước Anh để xét xử các tranh chấp xảy ra ở các địa phương. Ban đầu họ sử dụng các tập quán của địa phương để xét xử. Theo thời gian các Tòa án 49 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới nhận thấy rằng cần phải có một hệ thống pháp luật thống nhất trên toàn nước Anh. Bằng việc chọn lựa, sửa đổi và tổng hợp các tập quán ở các địa phương, họ phát triển một hệ thống pháp luật thống nhất trên toàn nước Anh. Hệ thống pháp luật đó được biết với tên gọi là “thông luật”. Các thẩm phán trong thời kỳ đầu của thông luật có xu hướng bảo đảm tính tương thích giữa các quyết định của họ.38 Theo đó, các thẩm phán sẽ sử dụng các phán quyết trước đó để xét xử các vụ việc giống hoặc tương tự xảy ra sau này. Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ kế thừa truyền thống pháp luật của Anh quốc. Tuy nhiên, sau hàng mấy trăm năm hình thành và phát triển, mặc dù nền tảng vẫn là thông luật, nhưng pháp luật Hoa Kỳ có nhiều khác biệt so với pháp luật của Anh quốc. Khi áp dụng án lệ, Tòa án Hoa Kỳ thực hiện theo học thuyết “stare decisis”, theo đó quyết định của Tòa án cấp trên có tính bắt buộc áp dụng đối với Tòa án cấp dưới. Tòa án không được tự ý bãi bỏ án lệ của mình trừ khi có lý do bắt buộc. Thông thường, các thẩm phán sẽ dựa vào sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội, trật tự công cộng mới để đưa ra một quy phạm mới hoặc quyết định một vụ việc mà không áp dụng bản án trước đó. “Án lệ của thời kỳ đi lại bằng xe ngựa không phù hợp với điều kiện đi lại của ngày nay. Nguyên tắc rủi ro rất có khả năng xảy ra là không đổi, nhưng những vật thuộc phạm vi của nguyên tắc này sẽ thay đổi. Chúng là bất kỳ vật gì cần thiết cho cuộc sống trong sự phát triển của xã hội văn minh đòi hỏi chúng phải như vậy”39. Một điểm nữa rất đáng lưu ý là trong trường hợp chưa có một án lệ nào liên quan đến vụ việc mà Tòa án giải quyết, Tòa án sẽ tham khảo án lệ của bang khác hoặc quốc gia khác. Tòa án cũng có thể sẽ áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật, sự công bằng, giá trị xã hội và trật tự công cộng để giải quyết vụ việc. 38William Burnham, Introduction to the law and legal system of the United States (third edition), West Group - a Thompson Company, 2002, tr. 41. 39Vụ MacPherson v. Buick Motor Co., 217 NY 382, 111 N.E. 1050 (1916). 50 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ Nguồn luật chính thức của pháp luật Hoa Kỳ bao gồm: Hiến pháp Liên bang, Hiến pháp các bang, các luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác do hệ thống cơ quan lập pháp ban hành, các quy chế hành chính và án lệ. Trong đó, án lệ là đặc trưng của hệ thống pháp luật Hoa Kỳ. Án lệ có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực tư như công ty, hợp đồng… Ngoài ra, một nét khá đặc thù của hệ thống pháp luật Hoa Kỳ là ngoài nguồn luật chính thức, còn có các nguồn luật bổ sung như các lý thuyết pháp lý, các quan điểm, tư tưởng pháp lý được công bố trong các công trình khoa học, các tài liệu bình luận pháp luật… Trong quá trình áp dụng pháp luật, Tòa án vẫn sử dụng các nguồn này để tham khảo nhằm đưa ra quan điểm của mình. Văn bản quy phạm pháp luật ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ. Ở cấp Liên bang, từ năm 1973 đến nay, Nghị viện Hoa Kỳ đã ban hành được 11.620 văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền trong đó phần lớn là các luật và có một số ít là nghị quyết. Bảng 1: Thống kê số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh một số lĩnh vực kinh tế do Nghị viện Hoa Kỳ ban hành từ năm 1973 cho đến nay40 Lĩnh vực Tài chính Nông nghiệp và thực phẩm Thương mại Năng lượng Phát triển nguồn nước Thương mại và Tài chính quốc tế Khoa học, công nghệ và truyền thông Thuế Lao động Phát triển nhà ở và cộng đồng Số lượng văn bản 220 246 250 207 192 176 151 141 118 92 Nhiều Luật được ban hành để thay thế án lệ, như các bang đều dựa vào Bộ luật thương mại thống nhất (UCC) để ban hành 40https://www.congress.gov/search?pageSize=250&q={%22source%22%3A%22legislation%22%2C%2 2bill-status%22%3A%22law%22}. 51 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới Bộ luật thương mại của bang nhằm thay thế án lệ trong việc điều chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng thuê hàng hóa và một số giao dịch khác.41 Tuy nhiên, có một số luật trong những lĩnh vực pháp luật riêng như Luật thuế Liên bang, Luật bảo hiểm xã hội, Luật môi trường, chứng khoán và ngân hàng. Ngoài các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan lập pháp cấp Liên bang, cấp bang và chính quyền địa phương ban hành, các cơ quan quản lý hành chính cũng có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, gọi là các quy chế hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan này. Về thứ bậc hiệu lực, theo nguyên tắc, luật của Liên bang có hiệu lực cao hơn so với luật của từng bang. Trong cùng cấp Liên bang hoặc bang thì Hiến pháp có hiệu lực cao nhất, sau đó là Luật do cơ quan lập pháp Liên bang (hoặc bang) ban hành, tiếp đó là quy chế hành chính và cuối cùng là án lệ. Mặc dù văn bản quy phạm pháp luật có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, nhưng cách ban hành và áp dụng các luật ở Hoa Kỳ có nhiều điểm khác biệt so với các quốc gia thuộc dòng họ pháp luật Châu Âu lục địa. Các luật ở Hoa Kỳ là các luật chuyên ngành. Hiếm có trường hợp các cơ quan lập pháp của Hoa Kỳ lại ban hành ra các luật chứa đựng những nguyên tắc chung, vì vậy, Thẩm phán Hoa Kỳ không có thói quen tìm kiếm trong các luật các nguyên tắc chung. Một vấn đề nữa là Tòa án các quốc gia thuộc dòng họ pháp luật dân sự có thể áp dụng tương tự pháp luật, còn các Tòa án Hoa Kỳ không có xu hướng này, những nội dung Luật không quy định sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của án lệ. Khi đề cập đến hệ thống pháp luật Hoa Kỳ không thể bỏ qua hệ thống Tòa án. Tòa án là cơ quan có chức năng giải thích và áp 41Cần lưu ý rằng mặc dù bộ luật thương mại thống nhất được các bang ban hành để thay thế các án lệ trước đó điều chỉnh các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng thuê hàng hóa và một số giao dịch khác, nhưng vẫn cần các án lệ giải thích các quy định trong các bộ luật thương mại thống nhất. 52 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ dụng pháp luật. Một khối lượng khổng lồ các quy phạm pháp luật kinh tế được tìm thấy trong các bản án (án lệ). Ngoài ra các luật cũng được Tòa án giải thích thông qua hoạt động xét xử. Về mặt truyền thống, Tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự giữa các chủ thể kinh doanh, từ đó nhiều học thuyết pháp lý và quy phạm pháp luật về kinh doanh được hình thành, ví dụ như học thuyết trách nhiệm sản phẩm... Bên cạnh đó, Tòa án có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự. Ngoài ra, Tòa án có thẩm quyền xét xử các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp ban hành, đây là thẩm quyền làm nên đặc thù của hệ thống Tòa án Hoa Kỳ (bao gồm hệ thống Tòa án Liên bang và hệ thống Tòa án của các bang), theo đó, Tòa án có quyền tuyên một văn bản quy phạm pháp luật vi phạm Hiến pháp hoặc trái với văn bản quy phạm pháp luật cấp trên và vô hiệu. Ở Hoa Kỳ, các Tòa án có chức năng giải thích và áp dụng pháp luật. Chính vì vậy, có một số lượng các án lệ của Tòa án được coi là các án lệ giải thích luật. Ví dụ Điều 4(2) Luật chứng khoán năm 1933 không định nghĩa cụ thể thế nào là chào bán chứng khoán riêng lẻ. Để hiểu rõ thế nào là chào bán chứng khoán riêng lẻ cần phải tham chiếu quyết định của Tòa án tối cao Liên bang Hoa Kỳ trong vụ S.E.C. v. Ralston Purina Co., 346 U.S. 119, 124, 125 (1953)42. 42Theo Tòa án tối cao Liên bang Hoa Kỳ, số lượng không phải là yếu tố quyết định. Thay vào đó Tòa án chú trọng đến vấn đề những người mà đợt chào bán hướng tới có mối quan hệ với và hiểu biết về tổ chức phát hành để dẫn đến việc phát hành được miễn trừ không. Việc xem xét này không chỉ là đối với người mua chứng khoán thực tế mà còn cả với người được chào bán. Tòa án cũng cho rằng người lao động của công ty phát hành chứng khoán trừ người quản lý vẫn cần được bảo vệ như các nhà đầu tư khác trong công chúng. Vì chỉ những người quản lý mới có khả năng và điều kiện tiếp cận thông tin cùng loại với thông tin trong trường hợp đăng ký phát hành. Người được chào bán tự nguyện tiếp cận và có được thông tin không là căn cứ để xác định một giao dịch là phát hành chứng khoán riêng lẻ. Trong quá trình giải thích văn bản quy phạm pháp luật Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc sau: (1) Việc giải thích phải tránh vi phạm hiến pháp; (2) Phải tôn trọng hướng dẫn của cơ quan quản lý hành chính nhà nước trừ trường hợp hướng dẫn của cơ quan này trái với ý chí của cơ quan lập pháp; (3) Trong giải thích luật hình sự, những thuật ngữ hoặc cụm từ không rõ ràng phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Ngoài ra, đôi khi Tòa án cũng giải thích văn bản quy phạm pháp luật theo những giá trị cơ bản. 53 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới 1.2. Khái quát chung về nền kinh tế Hoa Kỳ Với tài nguyên phong phú, nguồn nhân lực chất lượng cao, hệ thống pháp luật hiện đại, nên không ngạc nhiên khi thấy rằng trong suốt thế kỷ vừa qua Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí đầu tàu trong nền kinh tế giới. Nền kinh tế Hoa Kỳ là nền kinh tế thị trường, theo đó khu vực tư nhân được khuyến khích phát triển, định hướng và quy mô của nền kinh tế do thị trường quyết định thông qua phần lớn các quyết định của khối dân doanh. Các cơ quan quản lý nhà nước ít can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, điều này thể hiện ở chỗ số lượng các văn bản quy phạm pháp luật mang tính quản lý nhà nước được ban hành ra nhằm điều chỉnh các hoạt động kinh doanh ở mức hợp lý. Các cơ quan quản lý nhà nước cũng ít khi sử dụng các mệnh lệnh hay biện pháp hành chính để can thiệp vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mặc dù tùy từng thời kỳ sự can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động của thị trường ít nhiều thay đổi theo chiều hướng tăng hoặc giảm. Nhưng nhìn chung, Nhà nước không can thiệp quá sâu vào sự vận hành mang tính bản chất của thị trường. Thủ tục thành lập tổ chức kinh doanh rất đơn giản, các quy định pháp luật về huy động vốn, quan hệ hợp đồng… đều theo xu hướng tự do và tôn trọng sự định đoạt và thỏa thuận của các bên, khuyến khích sự sáng tạo, sự mạo hiểm trong kinh doanh và phát triển công nghệ. Hiện nay, ở Hoa Kỳ có tới 23 triệu doanh nghiệp nhỏ chiếm lĩnh 54% hoạt động thương mại, tạo ra 55% tổng số việc làm và 66% tổng số việc làm mới tính từ những năm 1970 cho đến nay43. Hoa Kỳ cũng đóng góp 128 trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất thế giới44. 43Nguồn: https://www.sba.gov/offices/headquarters/ocpl/resources/13493 tải xuống lúc 1:49 ngày 09/12/2014. 44Global 500 2014: http://fortune.com/global500/wal-mart-stores-1/ tải xuống lúc 11:10 ngày 09/12/2014. 54 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ Hoa Kỳ cũng rất thành công trong việc khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học và sáng tạo. Những phát minh mang tính lịch sử là những minh chứng thực tế cho những thành công của chính sách này, như bóng đèn điện, máy bay, máy laser, điện thoại di động, tủ lạnh, thư điện tử, lò vi sóng, máy tính cá nhân, công nghệ LCD hoặc LED, ATM và nhiều phát minh khác. Sự sáng tạo không ngừng cũng là một trong những nhân tố then chốt thúc đẩy sự phát triển cực thịnh của nền kinh tế Hoa Kỳ. Lực lượng lao động ở Hoa Kỳ chủ yếu làm việc cho khối tư nhân. Người lao động Hoa Kỳ được xếp vào nhóm có thu nhập cao so với người lao động ở các quốc gia trên thế giới. Thu nhập bình quân của một hộ gia đình ở Hoa Kỳ là 53.046 USD/năm45. Tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ giữ ở mức 7,7% vào năm 2013. Các quy định của pháp luật lao động của Hoa Kỳ góp phần làm cho việc tuyển dụng và sa thải người lao động khá dễ dàng. Hoa Kỳ vẫn được đánh giá là nhà sản xuất hàng đầu thế giới với nhiều ngành công nghiệp hàng đầu. Các ngành công nghiệp mũi nhọn của Hoa Kỳ bao gồm xăng dầu, thép, ô tô, máy xây dựng, máy bay, máy nông nghiệp, hóa chất, chế biến thực phẩm, viễn thông, hóa chất… Cho đến nay, Hoa Kỳ vẫn dẫn đầu trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo máy bay và cũng là nước xuất khẩu lớn các thực phẩm ra thế giới. Hoa Kỳ là trung tâm tài chính lớn nhất thế giới, với Sở Giao dịch Chứng khoán New York lớn gấp nhiều lần bất kỳ sở giao dịch chứng khoán nào trên thế giới và hệ thống ngân hàng phát triển hàng đầu thế giới, cùng với các sản phẩm tài chính đa dạng, không ngừng được cải tiến, phát minh. Hoạt động huy động vốn và giao dịch các sản phẩm tài chính diễn ra rất sôi động trên các thị trường tài chính Hoa Kỳ, tạo ra nguồn vốn khổng lồ phục vụ cho sự phát triển của các doanh nghiệp. 45Nguồn: http://quyckfacts.census.gov/qfd/states/55000.html tải xuống lúc 14:17 ngày 09/12/2014. 55 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới 1.3. Vai trò của pháp luật đối với phát triển kinh tế Vai trò của pháp luật Hoa Kỳ được thể hiện ở hai khía cạnh dường như đối lập nhau: (1) Bảo đảm nguyên tắc tự do trên thị trường; và (2) Bảo đảm sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nguyên tắc tự do kinh doanh được thể hiện ở tự do thành lập doanh nghiệp, tự do hợp đồng... Ở đó, Nhà nước không can thiệp sâu vào các hoạt động của các doanh nghiệp. Ví dụ, khi thành lập tổ chức kinh doanh theo mô hình cá thể hoặc hợp danh thông thường, các chủ thể không phải đăng ký. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác như công ty cổ phần thì phải đăng ký, nhưng thủ tục đăng ký chỉ là thủ tục thông báo về việc thành lập công ty và cơ quan đăng ký xác nhận. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ doanh nghiệp, hợp đồng và các quan hệ tư khác chủ yếu hình thành từ các tập quán thương mại, chuẩn mực kinh doanh, vì vậy rất linh hoạt, phù hợp với thực tiễn và tạo thuận lợi cho sự phát triển của các thị trường ở Hoa Kỳ như thị trường hàng hóa, thị trường tài chính, thị trường bất động sản... Trong mối quan hệ giữa các chủ thể tư, pháp luật bảo đảm nguyên tắc bình đẳng và tự do thỏa thuận. Các bên phải thiện chí, trung thực và không được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bên khác. Pháp luật Hoa Kỳ thiết kế các phương thức giải quyết tranh chấp rất đa dạng như thương lượng, hòa giải, trọng tài, Tòa án, giúp cho các chủ thể kinh doanh có nhiều lựa chọn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Adam Smith là người xây dựng lý thuyết “bàn tay vô hình” và cho rằng “bàn tay vô hình” được thực hiện thông qua các chủ thể kinh tế trên thị trường. Từ đó, ông phát triển mô hình cạnh tranh hoàn hảo, theo đó, Nhà nước can thiệp một cách hạn chế vào thị trường tự do, những công việc mà Nhà nước chỉ nên làm là: (1) Quốc phòng; (2) Thực thi hệ thống tư pháp nằm bảo vệ sở 56 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ hữu tư nhân và bảo đảm khả năng thực hiện các giao dịch tư nhân; (3) Xây dựng các công trình hoặc hàng hóa công cộng có giá trị cho xã hội mà khối tư nhân không làm. Những tư tưởng trên của Adam Smith rất khó thực hiện trên thực tiễn bởi (1) thị trường không vận hành như những giả thuyết mà ông đưa ra và (2) bản thân thị trường là không hoàn hảo: Sẽ chỉ tồn tại mô hình cạnh tranh hoàn hảo nếu như không tồn tại độc quyền. Về mặt tự nhiên, độc quyền là xu hướng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, khi mà một hoặc một số doanh nghiệp với lợi thế về nhân lực, công nghệ, tài chính sẽ ngày càng chiếm được thị phần lớn trên thị trường. Ngoài ra, các giao dịch sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp làm tích tụ và tập trung tư bản cũng dẫn đến độc quyền. Độc quyền dẫn đến hiện tượng giá cao, chất lượng thấp, không có động lực cho phát triển sáng tạo. Những doanh nghiệp độc quyền lạm dụng vị thế độc quyền chuyển lợi ích của xã hội thành lợi ích của mình. Ngoài ra, họ còn xây dựng ra các rào cản bất hợp lý nhằm ngăn cản các chủ thể khác gia nhập thị trường. Như vậy độc quyền sẽ bóp chết sự phát triển và làm suy tàn nền kinh tế. Chính vì vậy, pháp luật cần bảo đảm Nhà nước có những can thiệp nhất định bao gồm việc ban hành và thực thi pháp luật chống độc quyền. Một chủ thể kinh doanh theo đuổi lợi ích cá nhân của mình trên thị trường cạnh tranh sẽ gây ra những tác động phụ ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường sẽ có hiện tượng một chủ thể kinh doanh có được lợi ích của mình bằng chi phí của chủ thể khác. Ví dụ: trong lĩnh vực môi trường, nhà sản xuất xả thải ra môi trường sẽ gây thiệt hại cho môi trường về lâu dài. Đây là chi phí lớn mà xã hội phải gánh chịu. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 cũng cho thấy những người quản lý công ty vì tiền lương và thưởng trên doanh 57 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới số, đã bất chấp những rủi ro tiềm ẩn gây ra cho các ngân hàng mà mình quản lý mà quyết định cho vay dưới chuẩn. Hậu quả là nhiều tổ chức tài chính bị sụp đổ, những tổ chức còn tồn tại phải gánh chịu những tổn thất về mặt tài chính rất nặng nề. Trong giao dịch thương mại, bên có lợi thế hơn về kinh tế thường có xu hướng áp đặt và gây bất lợi một cách bất hợp lý cho bên yếu thế. Vì vậy, Nhà nước vẫn cần thiết phải điều tiết thị trường thông qua hoạt động ban hành và thực thi các quy định của pháp luật. Tất nhiên, ở từng thời kỳ mức độ can thiệp sẽ khác nhau. Có một số dịch vụ và sản phẩm phục vụ xã hội, đòi hỏi chi phí đầu tư cao mà lợi nhuận thu về không dễ dàng. Vì vậy không hấp dẫn được tư nhân. Trong trường hợp đó pháp luật phải tạo cơ chế để Nhà nước đứng ra cung cấp dịch vụ và sản phẩm đó. Trên thị trường, người bán và người mua đều cùng có lợi, hay nói cách khác thị trường chỉ vận hành hoàn hảo khi cả người mua và người bán đều được thông tin đầy đủ. Tuy nhiên, thực tiễn lại không diễn ra như thế. Bên nắm giữ nhiều thông tin thường có xu hướng chỉ cung cấp những thông tin ở mức tối thiểu cho bên còn lại gây ra tình trạng thông tin bất cân xứng. Trong quan hệ lao động, người lao động thường ở thế thụ động về thông tin công việc, môi trường làm việc. Trong hoạt động chào bán chứng khoán, nhà đầu tư thường biết không nhiều thông tin về chủ thể phát hành. Chính vì vậy, Nhà nước cần có những quy định của pháp luật và có bộ máy thực thi các quy định đó nhằm bảo đảm công bằng trong thông tin trên thị trường. Cuối cùng, pháp luật cũng có vai trò định hướng cho các nhà kinh doanh, người tiêu dùng thông qua các quy định khuyến khích hoặc hạn chế. Ví dụ, để phát triển nguồn năng lượng sạch, công nghệ, pháp luật Hoa Kỳ có nhiều cơ chế ưu đãi về thuế, tài chính và các ưu đãi khác cho các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động phát triển năng lượng sạch, công nghệ cao. 58 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ II. PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ, SẢN XUẤT, KINH DOANH 2.1. Chính sách ưu đãi thuế Chính sách thuế được cả cấp Liên bang và cấp bang sử dụng để khuyến khích và thu hút đầu tư. Một số chính sách thuế được áp dụng theo từng thời kỳ nhất định. Chính sách thuế chủ yếu là chính sách giảm thuế (tax credit). Giảm thuế là việc khấu trừ trực tiếp một khoản tiền từ tổng nghĩa vụ thuế, USD đối với USD, khác với việc khấu trừ từ thu nhập thuần46. Giảm thuế đầu tư là chính sách thuế nhằm khuyến khích đầu tư vào tư liệu sản xuất (capital goods) bằng cách khấu trừ một khoản tiền nghĩa vụ thuế thu nhập tương đương với một khoản bằng tỷ lệ nhất định trên giá mua của tài sản47. Chính sách giảm thuế đầu tư năng lượng cấp Liên bang (The Federal Business Energy Investment Tax Credit) được quy định tại Điều 48 Bộ luật ngân sách (Internal Revenue Code). Luật phát triển năng lượng năm 2008 kéo dài thời hạn giảm thuế lên 08 năm cho các các đối tượng thuộc lĩnh vực năng lượng mặt trời (solar energy), tế bào nhiên liệu (fuel cells), microturbines. Luật này cũng quy định áp dụng chính sách giảm thuế cho hệ thống năng lượng gió quy mô nhỏ (small wind-energy systems), hệ thống địa nhiệt (geothermal heat pumps) và hệ thống kết hợp làm nóng và điện (combined heat and power (CHP) systems). Về cơ bản, chính sách giảm thuế đầu tư năng lượng cấp Liên bang được áp dụng cho các hệ thống năng lượng đạt tiêu chuẩn đang hoạt động trong hoặc trước ngày 31/12/2016. Hệ thống năng lượng mặt trời, tế bào nhiên liệu và hệ thống năng lượng gió quy mô nhỏ (dung lượng tối đa 100 KW) được hưởng mức giảm thuế tương đương 30% chi phí mà không có mức giới hạn tối đa. Đối với hệ thống năng lượng 46Bryan A. Garner (editor-in-chief ), Black’s Law Dictionary, Second pocket edition, West Group - A Thompson Company, 2011, tr. 695. 47Bryan A. Garner, Dẫn trên, tr. 695. 59 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới mặt trời, đối tượng được giảm thuế bao gồm các thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời để phát điện, làm nóng hoặc làm lạnh (hoặc cung cấp nước nóng để sử dụng trong một cấu trúc) hoặc cung cấp quy trình làm nóng. Hệ thống tạo ánh sáng mặt trời mà sử dụng năng lượng mặt trời để tạo ánh sáng bên trong cấu trúc sử dụng hệ thống sợi quang. Đối với tế bào nhiên liệu, các đối tượng được giảm thuế là tế bào nhiên liệu có dung lượng tối thiểu là 0,5 KW và hiệu suất sản xuất điện tối thiểu là 30%. Mức giảm thuế tương đương 30% chi phí với mức trần 1.500 USD/0,5KW. Các hệ thống năng lượng như hệ thống địa nhiệt, microturbines và hệ thống kết hợp làm nóng và điện nếu đủ điều kiện sẽ được giảm thuế tương đương 10% chi phí mà không có giới hạn tối đa. Điều 1603 Luật phục hồi và tái đầu tư năm 2009 quy định về cơ chế hoàn lại một phần chi phí của tài sản năng lượng thay vì hưởng cơ chế giảm thuế đầu tư năng lượng cấp Liên bang như được quy định tại Điều 48 Bộ luật ngân sách. Như vậy người nộp thuế chỉ được chọn một trong hai cơ chế, chứ không được hưởng cùng một lúc hai cơ chế. Theo cơ chế hoàn lại chi phí, người nộp thuế đủ điều kiện được hưởng cơ chế giảm thuế đầu tư năng lượng cấp Liên bang có quyền làm thủ tục để hưởng cơ chế hoàn lại chi phí thay vì cơ chế giảm thuế. Mức hoàn lại chi phí là 30% chi phí đối với hệ thống năng lượng mặt trời, tế bào nhiên liệu và hệ thống năng lượng gió quy mô nhỏ… Đối với hệ thống địa nhiệt, microturbines và hệ thống kết hợp làm nóng và điện nếu đủ điều kiện thì mức hoàn lại là 10% chi phí. Để được hoàn lại các tài sản này phải đang được sử dụng trong năm 2009, 2010 hoặc được sử dụng sau năm 2010 nhưng trước thời hạn giảm thuế (trong khoảng từ 01/01/2013 đến 01/01/2017 tùy loại tài sản) nhưng các tài sản này phải được bắt đầu xây dựng trong năm 2009 hoặc 2010. Luật tạo việc làm năm 2004 có quy định về giảm thuế cho các hoạt động sản xuất trong nước trong thời hạn 05 năm. Hiện 60 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ nay tỷ lệ giảm thuế bằng 9% thu nhập từ hoạt động sản xuất trong nước hoặc thu nhập chịu thuế tùy theo mức nào thấp hơn nhưng không vượt quá 50% tổng mức lương W-248 mà người nộp thuế phải chi trả. Thu nhập từ hoạt động sản xuất trong nước là khoản chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động sản xuất trong nước trên tổng chi phí của hàng hóa được bán phân bổ cho khoản doanh thu này, các khoản giảm trừ, các chi phí, thiệt hại phân bổ trực tiếp cho khoản doanh thu này và tỷ lệ các khoản giảm trừ, chi phí và thiệt hại không phân bổ trực tiếp cho khoản doanh thu này hoặc các khoản thu nhập khác. Doanh thu từ các hoạt động sản xuất trong nước phát sinh từ: (1) Hoạt động cho thuê, li-xăng, bán, trao đổi hoặc định đoạt khác đối với: (i) Các tài sản đủ điều kiện được sản xuất, tạo ra, phát triển hoặc chiết xuất toàn bộ hoặc một phần đáng kể trên lãnh thổ Hoa Kỳ bởi người nộp thuế; (ii) Các phim đủ điều kiện được sản xuất bởi người nộp thuế; hoặc (iii) Điện, gas tự nhiên hoặc nước sạch sản xuất tại Hoa Kỳ bởi người nộp thuế; (2) Hoạt động xây dựng trên lãnh thổ Hoa Kỳ; (3) Các hoạt động tư vấn kỹ thuật hoặc dịch vụ kiến trúc được thực hiện trên lãnh thổ Hoa Kỳ để thực hiện các dự án xây dựng trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Cần lưu ý rằng doanh thu phát sinh từ hoạt động: (1) Bán thực phẩm và đồ uống được chuẩn bị bởi người nộp thuế tại cơ sở bán lẻ; và (2) Chuyển tải hoặc phân phối điện, gas tự nhiên hoặc nước sạch không được coi là doanh thu từ hoạt động sản xuất trong nước. Luật miễn giảm thuế và tạo việc làm năm 2010 có quy định về giảm thuế cho các sản phẩm gia dụng gồm máy rửa bát, máy 48Bất kỳ người sử dụng lao động nào hoạt động kinh doanh mà trả lương bao gồm cả các khoản thanh toán không bằng tiền mặt từ 600 đô la trở lên/năm (tất cả các khoản mà có thuế thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế phải được khấu trừ) cho công việc mà người lao động thực hiện phải nộp mẫu W-2 cho mỗi người lao động (mặc dù người lao động có liên quan đến người sử dụng lao động mà từ người này: thuế thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được khấu trừ; thuế thu nhập sẽ được khấu trừ nếu như người lao động đã yêu cầu giảm trừ không nhiều hơn một mức giảm trừ hoặc không yêu cầu miễn trừ từ khoản khấu trừ theo mẫu W-4, tờ xác nhận các khoản giảm trừ của người lao động (employee’s withholding allowance certificate). 61 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới giặt và tủ lạnh được sản xuất sau ngày 31/12/2010 (Modification and Extension of Energy Efficient Appliance Credit for Appliances Produced After 2010). Để khuyến khích các cơ sở kinh doanh sử dụng người lao động là những cá nhân không có lợi thế (disadvantaged individuals), Nghị viện Hoa Kỳ đã xây dựng Chương trình giảm thuế nhằm tạo cơ hội việc làm (Work Opportunity Tax Credit Program - WOTC) thông qua việc ban hành các luật như Luật bảo vệ việc làm tại doanh nghiệp nhỏ năm 1996 (The Small Business Job Protection Act 1996), Luật phục hồi và tái đầu tư năm 2009 (American Recovery and Reinvestment Act of 2009). WOTC áp dụng cơ chế giảm thuế cho các cơ sở kinh doanh thuộc khối tư nhân sử dụng lao động năng lực lao động kém hoặc không có lợi thế khi xin việc như: (1) Cựu chiến binh mất khả năng lao động (disable veterans); (2) Người từng bị kết án phạm trọng tội; (3) Người cư trú trong khu vực đặc biệt bao gồm đặc khu (empowerment zone), cộng đồng tái thiết (renewal community) và địa hạt tái thiết đô thị (rural renewal county); (4) Người khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần; (5) Người nhận phiếu thực phẩm (food stamp recipient); (6) Các cựu chiến binh bị thất nghiệp; (7) Người trẻ (từ 16-24 tuổi) không đến trường hoặc có việc làm; (8) Người được hưởng trợ cấp dài hạn cho gia đình; (9) Người được hưởng trợ cấp ngắn hạn cho gia đình... Mức giảm thuế mà người sử dụng lao động được hưởng phụ thuộc vào nhóm người lao động mà người sử dụng lao động sử dụng, mức lương trả cho những người lao động này trong năm đầu tiên, số giờ mà người lao động làm và không vượt quá mức giảm tối đa. Ví dụ: đối với người được hưởng trợ cấp dài hạn cho gia đình, mức giảm thuế được áp dụng cho người sử dụng lao động từ năm thứ hai sau khi người lao động đã làm việc ít nhất 400 giờ. Người sử dụng lao động có quyền yêu cầu giảm tương ứng 9.000 62 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ USD trong hai năm như sau: (1) 40% tổng lương năm đầu tiên, với mức giảm tối đa là 4.000 USD; và (2) 50% tổng lương năm thứ hai, với mức giảm tối đa là 5.000 USD49. Các bang đều có chính sách ưu đãi thuế nhằm khuyến khích hoạt động sản xuất, kinh doanh trong những lĩnh vực nhất định. Bang California cũng xây dựng các chính sách ưu đãi thuế nhằm khuyến khích các hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực quan trọng như nghiên cứu và phát triển, sản xuất, năng lượng thay thế, phim và sản xuất truyền hình.50 Các chính sách thuế mà bang California áp dụng bao gồm chính sách giảm thuế việc làm mới nhằm khuyến khích doanh nghiệp hoạt động ở các khu vực có tỷ lệ thất nghiệp và đói nghèo cao sử dụng người lao động là những người có lợi thế cạnh tranh hạn chế trên thị trường lao động như cựu chiến binh mới giải ngũ trong thời hạn 12 tháng, người từng bị kết án về trọng tội, chính sách giảm thuế nghiên cứu và phát triển, chính sách miễn thuế bán và sử dụng đối với các thiết bị sản xuất cơ bản, chính sách miễn thuế bán và sử dụng cho các nhà sản xuất sản phẩm giao thông, các bộ phận hoặc hệ thống giao thông tiên tiến hoặc thay thế... 2.2. Chính sách hỗ trợ tài chính Các chính sách tài chính chủ yếu là các chính sách cho vay ưu đãi, phát hành trái phiếu không chịu thuế nhằm khuyến khích các chủ thể kinh doanh đầu tư, kinh doanh vào nghiên cứu và phát triển, năng lượng sạch... Cả cấp Liên bang và cấp bang đều có các chính sách ưu đãi tài chính. Chương trình bảo lãnh vay vốn trong lĩnh vực năng lượng sạch (Energy Department’s Loan Guarantee Program - LGP) có căn cứ pháp lý tại Điều 1703 và Điều 1705 Luật chính sách năng lượng năm 2005. Theo đó, Bộ Năng lượng (Department of Energy) 49http://www.doleta.gov/business/incentives/opptax/benefits.cfm. 50State of California, Business Investment Guide, CA Governor’s Office of Business & Economic Develop ment, March 2015, tr. 7. 63 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới bảo lãnh các khoản vay vốn hỗ trợ các hoạt động tiên phong sử dụng công nghệ tiên tiến trong thương mại nếu như có căn cứ xác định rằng người vay có khả năng trả nợ.51 Ngoài ra, Điều 136 Luật độc lập và an toàn năng lượng (Energy Independence and Security Act of 2007) cho phép Bộ Năng lượng trực tiếp cho vay để phát triển các phương tiện công nghệ tiên tiến và các bộ phận kèm theo. Tổng giá trị quỹ cho vay là 25 tỷ USD Hoa Kỳ và hiện nay đã cấp vốn từ 50 triệu USD đến 5,9 tỷ USD. Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hoa Kỳ (Exim Bank) là một tổ chức tín dụng nhà nước của Hoa Kỳ. Nhiệm vụ chính của Exim Bank là hỗ trợ tài chính cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Hoa Kỳ ra thị trường thế giới. Trên thực tế, Exim Bank không cạnh tranh với các định chế tài chính tư nhân mà chỉ lấp khoảng trống tín dụng xuất khẩu đầy rủi ro mà các định chế tài chính tư nhân không làm. Sự hỗ trợ tín dụng của Exim Bank góp phần giúp cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ từ nhỏ đến lớn biến cơ hội xuất khẩu thành hiện thực nhằm tạo nhiều việc làm và phát triển nền kinh tế quốc gia52. Các sản phẩm tài chính mà Exim Bank cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu là bảo lãnh vốn lưu động, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh vay vốn và cho vay trực tiếp. Chương trình hỗ trợ tài chính cho thủy sản (Fisheries Finance Program - FFP) thuộc Bộ Thương mại cung cấp các khoản vay trực tiếp cho ngành thủy sản. FFP cung cấp khoản vay dài hạn để tạo vốn xây dựng và xây dựng lại các tàu đánh cá, các cơ sở thủy sản và mua hạn ngạch đánh cá cá nhân tại Northwest Halibut/ Sablefish Fishery. Chương trình phát triển năng lượng nông nghiệp USDA được quản lý bởi Bộ Nông nghiệp có căn cứ pháp lý là Luật về thực 51http://energy.gov/lpo/loan-guarantee-program-governing-documents. 52http://selectusa.commerce.gov/investment-incentives/exim-bank.html. 64 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ phẩm, bảo vệ môi trường và năng lượng năm 2008. Chương trình cung cấp nguồn vốn cho các dự án nghiên cứu về năng lượng, cải tiến hiệu quả sử dụng năng lượng và thiết lập các hệ thống năng lượng tái tạo. Chương trình được chia thành bốn chương trình nhỏ là: (1) Chương trình hỗ trợ cơ sở tinh chế sinh học (Biorefinery Assistance Program) cung cấp các bảo lãnh vay vốn cho các dự án phát triển, xây dựng và cải tiến các cơ sở tinh lọc sinh học thương mại; (2) Chương trình hỗ trợ thay thế nhiên liệu (Repowering Assistance Program) thanh toán cho các cơ sở tinh chế sinh học đủ điều kiện để thay thế nhiên liệu than đá bằng nhiên liệu sinh khối tái tạo (renewable biomass); (3) Chương trình thanh toán cho nhiên liệu sinh học tiên tiến (Advanced Biofuel Payment Program) thanh toán cho các nhà sản xuất để hỗ trợ và mở rộng sản xuất nhiên liệu sinh học được tinh chế từ các nguồn ngoài hạt nhân ngũ cốc; (4) Chương trình năng lượng nông nghiệp cho Hoa Kỳ (Rural Energy for America Program) cung cấp các hỗ trợ cho các nhà sản xuất nông nghiệp và các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn để hoàn thiện các dự án bao gồm hệ thống năng lượng tái tạo, cải tiến hiệu quả sử dụng năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo, nghiên cứu năng lượng. Văn phòng phát triển thương mại Hoa Kỳ (United States Trade and Development Agency - USTDA) là cơ quan hỗ trợ quốc tế được thành lập và hoạt động theo Điều 661 Luật hỗ trợ nước ngoài năm 1961. USTDA hỗ trợ các công ty tạo công ăn việc làm cho người Hoa Kỳ bằng việc xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong các dự án phát triển được ưu tiên ở các nước mới nổi. USTDA kết nối các doanh nghiệp với cơ hội xuất khẩu thông qua hỗ trợ tài chính cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và hệ thống thương mại tự do ở các nước đối tác của Hoa Kỳ. Chương trình của USTDA có trách nhiệm tạo ra 25 tỷ USD xuất khẩu vào thị trường mới nổi hỗ trợ 110.000 việc làm cho người Hoa Kỳ trong 65 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới vòng 10 năm qua. Nghĩa là cứ 1 USD của Chương trình tạo ra 76 USD xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.53 Chương trình hỗ trợ điều chỉnh thương mại cho doanh nghiệp (Trade Adjustment Assistance - TAA) là chương trình Liên bang do Bộ Thương mại thực hiện các hỗ trợ tài chính cho các nhà sản xuất bị ảnh hưởng bởi hoạt động nhập khẩu. Theo đó, Chương trình hỗ trợ 50% chi phí chi trả cho các nhà tư vấn và các chuyên gia cho các dự án nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ủy ban Thương mại quốc tế (International Trade Commission - ITC) thuộc Bộ Thương mại hợp tác với nhóm ngành sản xuất - kinh doanh (phi lợi nhuận) như các hiệp hội thương mại, các phòng thương mại… triển khai Chương trình hợp tác phát triển thị trường (Market Development Cooperator Program - MDCP). Theo đó, Chương trình tài trợ tài chính và kỹ thuật cho các nhóm ngành sản xuất - kinh doanh thực hiện các dự án nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành sản xuất - kinh doanh của Hoa Kỳ trên toàn cầu. Nhìn chung, các dự án này phải là có tính đột phá (innovative projects). Nhóm ngành sản xuất - kinh doanh bảo đảm chi trả tối thiểu 2/3 chi phí của dự án và duy trì dự án sau khi Chương trình tài trợ MDCP kết thúc. Từ năm 1997 đến năm 2014, trung bình, cứ 1 USD tài trợ tạo ra 335 USD xuất khẩu54. Mỗi dự án được tài trợ tối đa 300.000 USD. Viện Y tế Quốc gia (National Institutes of Health - NIH) triển khai Chương trình nghiên cứu cải tiến kỹ thuật cho doanh nghiệp nhỏ (Small Business Innovation Research - SBIR) và Chương trình chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ (Small Business Technology Transfer - STTR) là những nguồn tài trợ lớn nhất về vốn ban đầu cho các doanh nghiệp công nghệ của Hoa Kỳ. 53http://www.ustda.gov/about/ataglance.asp. 54http://trade.gov/mdcp/About/About.html. 66 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ Các Chương trình này giúp các doanh nghiệp nhỏ Hoa Kỳ tham gia vào các chương trình nghiên cứu và phát triển có tiềm năng thương mại hóa cao. Trong năm tài khóa 2015, SBIR và STTR đầu tư 780 triệu USD vào các công ty về y tế mới thành lập tạo ra các công nghệ mới phù hợp với mục tiêu hoạt động của NHI là nâng cao sức khỏe và cuộc sống an toàn55. Mục tiêu của các Chương trình này là đưa các công nghệ tiên tiến vào khu vực tư nhân từ các hợp tác chiến lược công tư nhằm bảo vệ người tiêu dùng. Ngoài ra, Bộ Năng lượng, Bộ Nông nghiệp và các cơ quan chuyên ngành khác có nhiều quỹ khác hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ liên quan đến an ninh năng lượng, môi trường, nông nghiệp, sinh vật, công nghệ sinh học... Tại New York, doanh nghiệp phát triển cơ sở ở xưởng sửa chữa tàu hoặc phát triển cơ sở tái chế chất thải cứng có thể phát hành trái phiếu được miễn thuế (triple tax-exempt bond). Thành phố New York hỗ trợ tối đa 50.000 USD cho các nhà sản xuất nhỏ và vừa để nâng cao hiệu quả sản xuất; ngoài ra, Chương trình bảo lãnh vay vốn (Capital Access Loan Guaranty Program - CALGP) cung cấp sản phẩm bảo lãnh tối đa 50% vốn vay cho các doanh nghiệp siêu nhỏ (dưới 20 lao động) và nhỏ (20-100 lao động) là những doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay. 2.3. Các chính sách hỗ trợ khác Ngoài các ưu đãi thuế và tài chính, Chính phủ Liên bang và các bang còn có các chương trình ưu đãi khác nhằm hỗ trợ doanh nghiệp như các chương trình hợp tác, tư vấn…; dưới đây, chúng tôi trình bày một số chương trình hỗ trợ doanh nghiệp được thực hiện ở cấp Liên bang. Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ - Bộ Thương mại cung cấp dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật và thông tin khoa học cho các nhà khoa 55https://sbir.nih.gov/. 67 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới học và các nhà tư vấn kỹ thuật để giải quyết các vấn đề kỹ thuật, nghiên cứu và phát triển. Sản phẩm bao gồm các dữ liệu tham chiếu về tiêu chuẩn (Standard Reference Data - SRD), dịch vụ đo lường và tài liệu tham chiếu tiêu chuẩn (Standard Reference Materials - SRMs). Chương trình của Trung tâm Doanh nghiệp của Người bản xứ Hoa Kỳ (The Native American Business Enterprise Center - NABEC) cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho người bản xứ Hoa Kỳ và doanh nghiệp của người thiểu số (Minority Business Enterprise - MBE). Khách hàng là những doanh nghiệp có doanh thu hàng năm trên 500.000 USD và/hoặc có tiềm năng phát triển nhanh. Chương trình hợp tác mở rộng sản xuất Hollings (Manufactur ing Extension Partnership - MEP) là một hệ thống gồm 60 trung tâm trên khắp nước Hoa Kỳ với hàng nghìn chuyên gia có nhiệm vụ hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương trình tập trung vào phạm vi là phát triển công nghệ, phát triển nhà cung cấp, phát triển bền vững, nhân lực và cải tiến. MEP hỗ trợ các nhà sản xuất phát triển khách hàng mới, mở rộng thị trường và tạo sản phẩm mới có tính cạnh tranh và có lợi nhuận56. Trung tâm hỗ trợ xuất khẩu Hoa Kỳ (United States Export Assistance Centers - USEACs) thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ hỗ trợ các dịch vụ xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ. USEACs hỗ trợ các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ phát triển các chương trình tài trợ tài chính cho xuất khẩu và chương trình bảo hiểm xuất khẩu, giúp các nhà xuất khẩu hoàn thiện các giao dịch xuất khẩu. USEACs kết nối doanh nghiệp Hoa Kỳ với các thị trường quốc tế. Trong quá trình hỗ trợ các nhà xuất khẩu, USEACs phối hợp rất hiệu quả với Cục Doanh nghiệp Nhỏ (Small Business Administration - SBA) và Exim Bank. Ngoài ra, Trung tâm Thông tin Thương mại (Treasury International Capital - TIC) và Chương 56http://selectusa.commerce.gov/investment-incentives/hollings-manufacturing-extension-partnership mep.html. 68 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ trình phát triển thương mại (International Trade Administration - ITA) thuộc Bộ Thương mại cũng hỗ trợ rất tích cực và tư vấn cho các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ về thị trường quốc tế, phát triển hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ra thị trường quốc tế. Các trung tâm hợp tác giữa các trường đại học và các ngành công nghiệp (Industry/University Cooperative Research Centers - I/UCRC) là một chương trình phát triển sự hợp tác lâu dài giữa các ngành sản xuất - kinh doanh, cơ sở hàn lâm và Chính phủ. Các trung tâm được tài trợ một phần bởi Viện Khoa học Quốc gia (National Science Foundation - NSF) và phần lớn từ các thành viên của trung tâm, hoạt động dưới sự hỗ trợ về khoa học của NSF. Mỗi trung tâm phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động của mình thực hiện các nghiên cứu vì lợi ích của cả các thành viên thuộc khu vực sản xuất - kinh doanh và giới hàn lâm. Mỗi I/UCRC đóng góp vào việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho nghiên cứu và nâng cao năng lực của đội ngũ kỹ thuật và khoa học từ sự kết hợp giữa nghiên cứu và giáo dục57. III. PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG 3.1. Pháp luật về thị trường hàng hóa Về nguyên tắc, trên thị trường hàng hóa các bên được quyền tự do giao kết hợp đồng, hầu hết các cơ quan nhà nước không can thiệp vào giao dịch giữa các bên. Tuy nhiên, trên thị trường hàng hóa, vấn đề an toàn và sức khỏe của người tiêu dùng được các cơ quan quản lý đặc biệt quan tâm. Vì vậy, việc mua bán hàng hóa trên thị trường phải tuân thủ các quy chế quản lý về chất lượng hàng hóa. 3.1.1. Nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm Lý thuyết về nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm phát triển từ án lệ và sau này được ghi nhận trong Bộ luật thương mại thống nhất 57http://www.nsf.gov/funding/pgm_summ.jsp?pims_id=5501&org=IIP&from=home. 69 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới (UCC). Nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm là một sự cam kết hoặc bảo đảm của người bán hoặc người cho thuê về những đặc tính vật chất của hàng hóa58, bao gồm: nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm mặc định (implied warranty) và nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm minh thị (express warranty). Nghĩa vụ bảo đảm mặc định là những bảo đảm về sản phẩm được quy định bởi pháp luật. Theo Điều 2-314(2) của UCC, thương nhân kinh doanh một mặt hàng nhất định có nghĩa vụ bảo đảm hàng hóa: (1) Phù hợp với mục đích sử dụng thông thường; (2) Hàng hóa có thể được bán hoặc sử dụng; (3) Đối với hàng hóa có thể thay thế thì hàng hóa phải có chất lượng trung bình; (4) Hàng hóa phải thuộc loại, chất lượng, số lượng trong phạm vi thỏa thuận; (5) Hàng hóa phải được đóng gói phù hợp quy cách; (6) Hàng hóa phải phù hợp với những cam kết được ghi trên nhãn sản phẩm. Nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm minh thị được xác lập từ: (1) Bất kỳ một xác nhận hoặc cam kết nào về đặc tính vật chất của hàng hóa mà người bán đưa ra và xác nhận hoặc cam kết này trở thành bộ phận cấu thành của hợp đồng mua bán hàng hóa tạo nên một nghĩa vụ bảo đảm rằng hàng hóa sẽ phù hợp với xác nhận hoặc cam kết đó; (2) Bất kỳ sự mô tả nào về hàng hóa là cơ sở để xác lập giao dịch tạo nên một nghĩa vụ bảo đảm rằng hàng hóa sẽ phù hợp với mô tả đó; hoặc (3) Bất kỳ hàng mẫu là cơ sở để xác lập giao dịch tạo lên một nghĩa vụ bảo đảm rằng toàn bộ hàng hóa sẽ phù hợp với hàng mẫu59. Pháp luật không đòi hỏi bên bán hoặc người cho thuê phải nêu rõ “cam kết” hay “bảo đảm” mới tạo nên một nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm minh thị. Trong hoạt động kinh doanh, người bán có thể đưa ra quan điểm của mình về sản phẩm của mình, nếu quan điểm đó không phải là một sự xác nhận nào về đặc tính vật chất của hàng hóa thì không được coi là nghĩa vụ bảo đảm hàng hóa. Ví dụ: người bán 58Kenneth W. Clarkson, Roger LeRoy Miller and Frank B. Cross, Business Law Text and Cases - Legal, Ethical, Global, and Corporate Environment, twelfth edition, Cengage Learning, 2011, tr. 421. 59§2-313(1) của UCC. 70 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ có thể nói rằng “Hàng của chúng tôi là tốt nhất” hoặc “Hàng của chúng tôi rẻ nhất” Những câu nói này không xác lập một nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm. Nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm minh thị có thể được xác lập từ những quảng cáo. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, theo Luật của Ủy ban Thương mại Liên bang (Federal Trade Commission - FTC), quảng cáo sản phẩm được quản lý bởi FTC, theo đó, FTC có thẩm quyền: (1) Kiểm soát nội dung và tính xác thực của quảng cáo; (2) Kiểm soát khả năng thực hiện những cam kết trong quảng cáo; (3) Kiểm soát việc sử dụng người nổi tiếng để xúc tiến thương mại; (4) Kiểm soát quảng cáo nhử mồi (Bait and Switch); (5) Kiểm soát quảng cáo so sánh60. Trong kiểm soát hoạt động quảng cáo, FTC tiến hành các thủ tục hành chính nhằm bảo đảm việc thực thi các quy định của pháp luật về quảng cáo. Trước hết, các cá nhân, tổ chức gửi đơn khiếu nại lên FTC. Khi nhận được đơn khiếu nại, FTC sẽ tiến hành điều tra. Nếu kết quả điều tra cho thấy rõ ràng là quảng cáo không công bằng, không trung thực hoặc vi phạm pháp luật về quảng cáo, FTC sẽ ra bản cáo buộc chính thức (official complaint). Bản cáo buộc chính thức được gửi cho người bị cáo buộc. Để tránh phải tiến hành các thủ tục xử lý tiếp theo, FTC và người bị cáo buộc có thể thương lượng để thống nhất về biện pháp chế tài được áp dụng. Nếu không, thủ tục xử lý tiếp theo được tiến hành. Khi tiến hành xử lý vi phạm các biện pháp chế tài mà FTC có thể sử dụng như: lệnh dừng hoạt động quảng cáo vi phạm (cease and-desist order), buộc quảng cáo cải chính (counteradvertising: buộc đính chính lại thông tin sai), lệnh dừng quảng cáo hàng loạt 60Quảng cáo nhử mồi là hình thức mà người quảng cáo sử dụng hàng hóa các hàng hóa có giá rẻ hơn giá hàng hóa có trong kho hàng để hấp dẫn người tiêu dùng. Thực chất, người quảng cáo không có ý định bán sản phẩm được quảng cáo hoặc thậm chí không có sản phẩm được quảng cáo, mà người quảng cáo sử dụng hàng hóa rẻ để quảng cáo như là “mồi” nhằm thu hút khách hàng sau đó dẫn dắt người tiêu dùng mua sản phẩm với giá cao hơn. Theo quy chế quảng cáo nhử mồi thì hành vi quảng cáo sản phẩm mà người quảng cáo không có ý định bán thực sự bị cấm. Như vậy quảng cáo nhử mồi là hành vi vi phạm pháp luật. (Xem 16 C.F.R Part 238). 71 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới (multiple product order: buộc người quảng cáo không chỉ dừng việc quảng cáo vi phạm đối với sản phẩm là đối tượng của hành vi ban đầu mà cả các sản phẩm khác), hoàn trả lại tiền cho người tiêu dùng. 3.1.2. Trách nhiệm sản phẩm Nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm và học thuyết gây thiệt hại do lỗi bất cẩn (negligence) được sử dụng trong bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong thực tiễn, để buộc doanh nghiệp chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà sản phẩm của doanh nghiệp gây ra cho người tiêu dùng, nguyên đơn (thường là người tiêu dùng) phải chứng minh đầy đủ các yếu tố cấu thành hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm hoặc hành vi gây thiệt hại do lỗi bất cẩn. Để chứng minh được hành vi gây thiệt hại cho người tiêu dùng do lỗi bất cẩn, nguyên đơn phải chứng minh đầy đủ các yếu tố sau: (1) Doanh nghiệp có nghĩa vụ cẩn trọng đối với nguyên đơn; (2) Doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng đó; (3) Có thiệt hại xảy ra; (4) Giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng và thiệt hại có mối quan hệ nhân quả61. Như vậy, việc chứng minh không dễ dàng đối với phần lớn người tiêu dùng. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, sản phẩm ngày càng đa dạng, đồng nghĩa với việc cộng đồng ngày càng quan tâm đến việc bảo vệ người tiêu dùng. Rõ ràng, học thuyết về gây thiệt hại do lỗi bất cẩn, mặc dù là trung tâm của lĩnh vực pháp luật dân sự nhưng với gánh nặng chứng minh đè lên vai người tiêu dùng, dẫn đến ý nghĩa bảo vệ người tiêu dùng của học thuyết này giảm đáng kể. Trước thực trạng đó, học thuyết “trách nhiệm không cần chứng minh lỗi” (strict liability) được áp dụng cho trách nhiệm sản phẩm từ án lệ Greenman v. Yaba Power Products, Inc. 27 Cal. Rptr. 697, 377 P.2d 897 (1963). Trong vụ này, Tòa án nhận định: “Nhà sản xuất 61Kenneth W. Clarkson, Roger LeRoy Miller and Frank B. Cross, Business Law Text and Cases - Legal, Ethical, Global, and Corporate Environment, twelfth edition, Cengage Learning, 2011, tr. 136. 72 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm, mà không cần phải chứng minh lỗi, đối với sản phẩm được đưa vào thị trường, biết rằng sản phẩm được sử dụng mà không kiểm định khuyết tật, có khuyết tật gây thiệt hại cho con người.” Năm 1965, Viện Luật Hoa Kỳ xây dựng Điều 402A trong Cuốn Bình luận về hành vi vi phạm pháp luật dân sự ngoài hợp đồng (lần 2) (Restatement (second of torts). Điều 402A đề cập về trách nhiệm không cần chứng minh lỗi của nhà sản xuất, người bán buôn, người bán lẻ và những chủ thể kinh doanh khác bán sản phẩm để sử dụng. Nội dung của Điều 402A như sau: “(1) Bất kỳ ai bán sản phẩm nào có khuyết tật mà gây thiệt hại bất hợp lý cho người sử dụng hoặc người tiêu dùng hoặc cho tài sản của người này phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại vật chất gây cho người sử dụng hoặc người tiêu dùng cuối cùng hoặc tài sản của người này, nếu: (a) Người bán tham gia vào hoạt động bán sản phẩm đó; (b) Sản phẩm tiếp xúc với người sử dụng, người tiêu dùng mà sản phẩm được kỳ vọng hướng tới mà không có bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào về điều kiện mà nó được bán. (2) Quy tắc được đưa trong khoản (1) được áp dụng ngay cả khi: (a) Người bán đã thực hiện một cách cẩn trọng có thể trong quá trình chuẩn bị và bán sản phẩm; (b) Người sử dụng hoặc người tiêu dùng không mua sản phẩm từ hoặc xác lập bất kỳ một hợp đồng nào với người bán.”62 Như vậy với việc áp dụng học thuyết trách nhiệm không cần chứng minh lỗi cho trách nhiệm sản phẩm, người bán phải bồi thường thiệt hại cho người sử dụng hoặc người tiêu dùng dù không biết điều gì xảy ra, miễn rằng nguyên đơn chứng minh 62Dẫn lại từ James P. Maloney, James T. Murray Jr., Richard E. Byrne, and Donald A. Schoenfeld, Introduc tion: Symposium on Products Liability, Marquette Law Review, Volume 57, Issue 4 (number 4), Article 3, 1974, tr. 623-624. 73 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới được rằng sản phẩm có khiếm khuyết và khiếm khuyết đó gây thiệt hại cho nguyên đơn. Người bán có thể dựa vào một trong những căn cứ sau để chối bỏ, miễn giảm hoặc miễn trừ trách nhiệm: (1) Sử dụng sai sản phẩm: Đây là trường hợp người sử dụng hoặc người tiêu dùng sử dụng trái với chỉ dẫn sử dụng sản phẩm; (2) Người sử dụng cũng có lỗi: Một số bang ở Hoa Kỳ áp dụng học thuyết lỗi so sánh (comparative negligence). Theo đó, không loại bỏ hoàn toàn trách nhiệm của người bán mà chỉ xác định phần lỗi của người sử dụng để khấu trừ vào khoản bồi thường. (3) Người tiêu dùng chấp nhận rủi ro: Trong trường hợp người tiêu dùng biết được mối nguy hiểm trong sản phẩm nhưng vẫn tự nguyện sử dụng sản phẩm, người bán được miễn trừ trách nhiệm theo học thuyết chấp nhận rủi ro (assumption of risk). 3.2. Pháp luật về thị trường tài chính Hệ thống ngân hàng của Hoa Kỳ bao gồm các ngân hàng thương mại, các tổ chức tiết kiệm và các hợp tác xã tín dụng. Các ngân hàng thương mại có thể là các ngân hàng được đăng ký thành lập ở Liên bang (federal-chartered bank) được gọi là ngân hàng quốc gia. Các ngân hàng quốc gia chịu sự quản lý nhà nước của Cục Kiểm soát Tiền tệ (Office of the Comptroller of the Currency - OCC) và phải là thành viên của hệ thống dự trữ Liên bang (Cục Dự trữ Liên bang - FED) và Tổ chức Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (Federal Deposit Insurance Corporation - FDIC). Các công ty sở hữu ngân hàng, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng ở nước ngoài được quản lý nhà nước bởi FED. Cũng có các ngân hàng được thành lập ở các bang (state-chartered banks) được quản lý nhà nước bởi Tổ chức Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang và các cơ quan quản lý thuộc bang. Các tổ chức tiết kiệm (thrifts) nhận tiền gửi và cấp tín dụng cho các cá nhân. Hợp tác xã tín dụng (credit union) là tổ chức tài chính phi lợi nhuận hoạt động trên 74 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ nguyên tắc hợp tác, được sở hữu và quản lý bởi các thành viên, chịu sự quản lý nhà nước bởi Cục Quản lý Hợp tác xã Tín dụng (National Credit Union Administration - NCUA). Hệ thống thị trường tài chính của Hoa Kỳ bao gồm thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái, thị trường quyền chọn và thị trường tương lai. Thị trường tài chính của Hoa Kỳ có ảnh hưởng lớn đến các thị trường khác trên thế giới. Các chủ thể chủ yếu trên thị trường tài chính bao gồm các nhà đầu tư, các nhà môi giới, các nhà tự doanh, các nhà tư vấn... 3.2.1. Pháp luật về ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro hệ thống Sau cuộc đại khủng hoảng năm 1930, học thuyết của nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes thắng thế. Tư tưởng chủ đạo trong học thuyết của ông là đề cao vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế. Tư tưởng này được thể hiện trong thực tiễn quản lý và điều hành thị trường tài chính của Chính phủ Hoa Kỳ: Nhà nước kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tài chính, thể hiện rõ nét nhất qua việc ban hành Luật Glass-Steagall63. Luật Glass Steagall tách bạch hoạt động của từng loại định chế tài chính: ngân hàng thương mại chỉ cung cấp dịch vụ ngân hàng, công ty chứng khoán chỉ cung cấp dịch vụ chứng khoán, công ty bảo hiểm chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Việc tách bạch nhằm ngăn ngừa ngân hàng thương mại khỏi các hoạt động có rủi ro cao và tránh xung đột lợi ích khi một tổ chức tài chính vừa cung cấp dịch vụ tín dụng dựa trên cơ sở quan hệ tín thác, vừa bán sản phẩm tài chính cho cùng một khách hàng. Ngoài ra, việc tách bạch cũng 63“Luật Glass-Steagall được biết đến một cách chính thức là luật ngân hàng năm 1933, số hiệu công bố là Pub. L. No. 73-66, ch. 89, 48 Sta. 162 (1933) (được tập hợp hóa trong quyển 12 Bộ luật Hoa Kỳ (U.S.C). Điều 16 và 20 của Luật Glass-Steagall cấm ngân hàng bảo lãnh phát hành hoặc kinh doanh chứng khoán doanh nghiệp và liên kết với các công ty để thực hiện các hoạt động này.” Jones, Renee M, Back to Basics: Why Financial Regulatory Overhaul is Overrated [article], Entrepreneurial Business Law Journal, Vol. 4, Issue 2, 2010, tr. 391-406, tr.392. 75 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới ngăn ngừa hiện tượng một tổ chức tài chính độc quyền cung cấp toàn bộ các dịch vụ tài chính cho cùng một khách hàng. Nghị viện còn cho phép Cục Dự trữ Liên bang (FED) khống chế lãi suất tiền gửi nhằm kiểm soát hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. FED đã ban hành Quy chế Q (Regulation Q) quy định về mức trần lãi suất. Theo quy chế này, ngân hàng thương mại và tổ chức tiết kiệm bị hạn chế lãi suất tiền gửi là 6%. Năm 1981, cơ quan quản lý ngân hàng đã ban hành tỷ lệ vốn tối thiểu nhằm ngăn ngừa tình trạng vốn mỏng. Theo quy định thì vốn chủ sở hữu, là nguồn vốn do cổ đông đầu tư vào công ty phải chiếm ít nhất 5% tổng giá trị tài sản của công ty64. Như vậy, trong thời gian này, hoạt động của ngân hàng thương mại và tổ chức tiết kiệm bị hạn chế chặt chẽ bởi Luật Glass-Stealgall. Trong khi đó, ngân hàng đầu tư với việc phát triển dịch vụ “ngân hàng ngầm” (shadow banking) với hai thị trường chính là thương phiếu và repos trong cơ chế kiểm soát lỏng hơn so với cơ chế kiểm soát hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng thương mại, đã trở thành đối thủ cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Đây là các công cụ tài trợ tài chính rẻ nhưng tạo cho nhà đầu tư nhiều lợi nhuận hơn. Với lợi thế như vậy, thị trường “ngân hàng ngầm” phát triển rất mạnh gây áp lực lớn lên thị trường ngân hàng truyền thống. Vì vậy, ngân hàng thương mại bị đuối trong cuộc cạnh tranh với ngân hàng đầu tư. Do đó, Luật Glass-Steagall và các quy chế kiểm soát hoạt động của ngân hàng thương mại và tổ chức tiết kiệm đã được sửa đổi theo hướng giảm các quy định chặt chẽ. Cựu Chủ tịch FED Greenspan đã ủng hộ xu hướng nới lỏng quản lý đối với thị trường tài chính vì theo ông các định chế tài chính có đủ năng lực và động lực để bảo vệ cổ đông của họ và họ đủ khả năng để quản lý rủi ro. Ông 64The Financial Crisis Inquiry Comission, The Financial Crisis Inquyry report - Final report of the National Comission on the causes of the financial and economic crisis in the United States, the Official Government Edition, January 2011, tr. 33. 76 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho rằng “hiện đại hóa hệ thống tài chính là cần thiết để “loại bỏ những hạn chế lạc hậu không hữu dụng mà làm giảm hiệu quả kinh tế và… hạn chế sự lựa chọn của những người sử dụng dịch vụ tài chính…”65. Theo đó, học thuyết kinh tế Keynes đã dần được thay thế bởi học thuyết “thị trường tự do”. Xu hướng nới lỏng quản lý đối với ngân hàng thương mại và tổ chức tiết kiệm được bắt đầu bằng việc ban hành Luật nới lỏng quản lý các tổ chức tín dụng và kiểm soát tiền tệ năm 1980. Luật này đã bãi bỏ hạn chế về lãi suất tiền gửi. Tiếp đến, Luật Garn St. Germain năm 1982 được ban hành nới rộng các hình thức cho vay và đầu tư cho các ngân hàng thương mại và tổ chức tiết kiệm. Các ngân hàng thương mại được phép cho vay với lãi suất thả nổi với các hình thức cho vay đa dạng bao gồm cả những khoản vay với điều kiện hấp dẫn nhằm thu hút người vay. Sau đó, các hạn chế về lãnh thổ và nhiều hạn chế khác liên quan đến hoạt động của ngân hàng thương mại và các tổ chức tiết kiệm cũng dần được bãi bỏ. Cuối cùng, năm 1999 Luật Glass-Steagall đã bị bãi bỏ. Sau khi Luật này bị bãi bỏ, “phân cách giữa ngân hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm bị xóa bỏ. Các định chế tài chính Hoa Kỳ không chỉ có thể cung cấp nhiều dịch tài chính mà còn tăng cường hoạt động tự doanh của họ”66. Chính sách khuyến khích vay tiêu dùng ở Hoa Kỳ với nhiều hình thức cho vay hấp dẫn như Thế chấp có tỷ giá điều chỉnh (Adjustable Rate Mortages - ARM), Thế chấp thay thế thế chấp dạng A (Alternative A-paper - Alt-A), Không thu nhập không tài sản cố định (No Income No Asset - NINA)… đã làm cho hoạt động vay thế chấp để mua nhà đất bùng nổ mạnh mẽ. Các khoản vay này mặc dù hấp dẫn nhưng là những khoản vay dưới chuẩn, là 65The Financial Crisis Inquiry Comission, Dẫn trên, tr. 35. 66United States Senate - Permanent Subcommittee on investigations - Committee on Homeland security and governmental affairs - Wall Street and the Financial crisis: Anatomy of a financial collapse - April 13, 2011, source: http://www.hsgac.senate.gov, tr. 321. 77 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới những cái “bẫy” bòn rút tiền của người tiêu dùng, đẩy họ đến nguy cơ vỡ nợ. “Khoản vay dưới chuẩn tăng lên nhanh chóng trong giai đoạn từ năm 2000 - 2006, từ mức 125 tỷ USD lên đến 1.000 tỷ USD năm 2006, chiếm tỷ trọng các khoản vay từ 12% năm 2000 lên đến 34% năm 2006”67. Các định chế tài chính phát triển dịch vụ cho vay dưới chuẩn vì các khoản vay này hứa hẹn một mức lợi nhuận cao. Hơn nữa, họ được tự do đóng gói các khoản vay này lại với nhau rồi bán ra thị trường chứng khoán theo nghiệp vụ chứng khoán hóa. “Chứng khoán phái sinh và chứng khoán hóa, mặc dù giúp tăng nguồn tài chính và phân tán rủi ro, nhưng đã dẫn đến việc giá cả của trái phiếu và cổ phiếu ngày càng xa rời giá trị đích thực của tài sản bảo đảm”68. FED có thẩm quyền ban hành ra các tiêu chuẩn về khoản vay thế chấp nhưng cơ quan này đã không ban hành được bất kỳ quy định nào như vậy để ngăn ngừa các khoản vay thế chấp “độc hại”. FED cũng không kiểm tra việc các định chế tài chính tạo lập và bán các chứng khoán được bảo đảm bằng khoản vay thế chấp và cơ quan này cũng không biết hoặc không cần biết về những tì vết trong các chứng khoán này. Không những thế, các chứng khoán được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp không phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán (Securities and Exchange Commission - SEC) mà có thể được phát hành riêng lẻ. Việc các định chế tài chính lớn tham gia sâu vào thị trường các công cụ tài chính kém chất lượng đã gây ra rủi ro hệ thống. Rủi ro hệ thống được hiểu là: “Rủi ro làm rối loạn các hoạt động tài chính: (i) bị gây ra bởi sự suy yếu của toàn bộ hoặc một số bộ phận của hệ thống tài chính; và (ii) có nguy cơ gây ra hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế… Định nghĩa này xuất phát từ quan điểm 67Ths. Đỗ Minh Tuấn, Một số vấn đề về thực tiễn chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp ở Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 6/2012, tr.3-17, tr.7. 68PGS.TS. Phạm Quốc Trung, TS. Phạm Thị Túy (đồng chủ biên), Khủng hoảng kinh tế thế giới - Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.139. 78 Chương II: Thể chế pháp luật kinh tế hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho rằng rủi ro hệ thống không chỉ gắn với sự đổ vỡ của những bộ phận đáng kể của hệ thống tài chính mà còn với những tiêu cực bên ngoài và cụ thể là nền kinh tế vận hành trong tình trạng suy yếu”69. Một điều ngạc nhiên là có rất nhiều cơ quan quản lý trên thị trường tài chính, nhưng không có cơ quan nào chịu trách nhiệm xác định, ngăn ngừa hoặc quản lý các rủi ro đe dọa đến sự an toàn và sức khỏe của toàn bộ hệ thống tài chính Hoa Kỳ. Ngoài những khiếm khuyết vừa phân tích ở trên, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 đã cho thấy hệ thống tài chính Hoa Kỳ còn bộc lộ những khiếm khuyết khác như “quá lớn để sụp đổ”, khiếm khuyết trong quản trị doanh nghiệp. Những nội dung này sẽ được phân tích sau. Những khiếm khuyết này đòi hỏi phải có những cải tổ trong quản lý thị trường tài chính ở Hoa Kỳ nhằm ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro hệ thống. Luật cải tổ phố Wall và bảo vệ người tiêu dùng Dodd-Frank năm 2010 (Luật Dodd Frank) ra đời để cải tổ lại hệ thống tài chính của Hoa Kỳ. Thứ nhất, Luật Dodd-Frank thành lập một cơ quan liên ngành, có tên Hội đồng Giám sát Ổn định Tài chính (Financial Stability Oversight Council - FSOC), có chức năng xác định và ứng phó với rủi ro hệ thống. Hội đồng bao gồm các thành viên có quyền biểu quyết là người đứng đầu của 10 cơ quan quản lý trên thị trường tài chính, một thành viên độc lập là chuyên gia bảo hiểm do Tổng thống bổ nhiệm trên cơ sở tham vấn và được chấp thuận bởi Thượng nghị viện, và năm thành viên không có quyền biểu quyết. Chủ tịch Hội đồng là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Để xác định và ngăn chặn rủi ro hệ thống, Hội đồng có quyền thu thập thông tin từ các thành viên và các cơ quan quản lý tài chính khác của Liên bang và bang. Ngoài ra, Hội đồng cũng có quyền chỉ đạo văn phòng nghiên cứu tài chính cung cấp và hỗ trợ thu 69Sebastian Schich and Byoung - Hwan Kim, Systemic Financial Crises: How to fund resolution, OECD Journal: Financial Market Trends, volume 2010, issue 2, tr.4. 79 Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới thập thông tin. Hội đồng điều phối việc chia sẻ thông tin giữa các thành viên và có nhiệm vụ soát xét và xác định những lỗ hổng trong quy định pháp luật dẫn đến rủi ro hệ thống. Trong phối hợp công việc với các cơ quan quản lý tài chính, Hội đồng có quyền đưa ra khuyến nghị để các cơ quan này ban hành, hoàn thiện các quy chế, tiêu chuẩn điều chỉnh từng lĩnh vực thị trường. Ví dụ: khuyến nghị FED quy định chặt chẽ về vốn, đòn bẩy tài chính, tính thanh khoản, quản lý rủi ro và các quy định khác đối với các công ty có quy mô lớn và phức tạp. Trong nhiều trường hợp, Hội đồng có quyền yêu cầu một số cơ quan quản lý phải thực hiện một số hành vi nhất định như quyền yêu cầu FED quản lý một công ty tài chính phi ngân hàng nếu xét thấy sự sụp đổ của công ty này sẽ gây tác động tiêu cực cho hệ thống tài chính Hoa Kỳ hoặc hoạt động của công ty này gây rủi ro cho hệ thống tài chính Hoa Kỳ. Đạo luật Dodd-Frank đưa ra nhiều cơ chế nhằm ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro hệ thống. Trong đó, đáng chú ý là cơ chế giảm thiểu rủi ro hệ thống được quy định tại Điều 121 của Luật này. Theo cơ chế này, nếu Hội đồng Thống đốc Liên bang thấy rằng một công ty sở hữu ngân hàng (bank holding company) với tổng giá trị tài sản hợp nhất từ 50 tỷ USD trở lên hoặc công ty tài chính phi ngân hàng thuộc thẩm quyền giám sát của Hội đồng Thống đốc Liên bang, đe dọa gây ra rủi ro cho sự ổn định tài chính, Hội đồng Thống đốc Liên bang có quyền: (1) Hạn chế việc công ty này sáp nhập, thôn tính hoặc hợp nhất với công ty khác; (2) Hạn chế công ty này cung cấp một hoặc một số sản phẩm tài chính; (3) Yêu cầu công ty chấm dứt thực hiện một hoặc một số hoạt động; (4) Đưa ra các điều kiện để công ty thực hiện một hoặc một số hoạt động. Nếu xét thấy các biện pháp nêu trên không phù hợp, Hội đồng Thống đốc Liên bang (Board of Governors of the Federal Reserve System/ Federal Reserve Board - FRB) có quyền yêu cầu công ty bán hoặc chuyển nhượng tài sản hoặc các hạng mục ngoại bảng 80