🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thanh Hóa Quan Phong Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : THANH-HÓA QUAN PHONG Tác giả : VƯƠNG-DUY-TRINH Bản phiên-diễn của NGUYỄN DUY TIẾU Nhà xuất bản : BỘ VĂN-HÓA GIÁO-DỤC VÀ THANH-NIÊN TỦ SÁCH CỔ VĂN – ỦY BAN DỊCH THUẬT Năm xuất bản : 1973 ------------------------ Nguồn sách : tusachtiengviet.com Đánh máy : ThanhVan, windyclover, huonggiang, yelgre Kiểm tra chính tả : Hải Hải, Thư Võ Biên tập ebook : Thư võ Ngày hoàn thành : 29/03/2018 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn tác giả VƯƠNG-DUY-TRINH, dịch giả NGUYỄN DUY TIẾU và ỦY BAN DỊCH THUẬT BỘ VĂN-HÓA GIÁO-DỤC VÀ THANH-NIÊN đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. Ghi chú : Nhóm làm Ebook sao y bản chánh chính tả cũng như các phương ngữ có trong sách gốc. Và do phần Hán văn khá dài (140 trang), nhất thời không thể biên tập ngay, nên nhóm làm ebook đã biên tập phần Việt văn trước (105 trang đầu) và sẽ bổ túc phần Hán văn sau khi hoàn thành. Mong bạn đọc thông cảm cho thiếu sót này. MỤC LỤC VÀI LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ LỜI DẪN-GIẢI CỦA TÁC-GIẢ SÁCH « THANH HÓA QUAN PHONG » THANH-HÓA QUAN PHONG TỔNG-SƠN HUYỆN NGA SƠN HUYỆN HOẰNG, MỸ NHỊ HUYỆN HẬU-LỘC HUYỆN LÔI-DƯƠNG HUYỆN THỤY-NGUYỄN HUYỆN ĐÔNG-SƠN HUYỆN AN-ĐỊNH HUYỆN VĨNH-LỘC HUYỆN THẠCH-THÀNH HUYỆN CẨM-THỦY HUYỆN NGỌC SƠN HUYỆN QUẢNG-XƯƠNG HUYỆN NÔNG CỐNG HUYỆN NHƯ-XUÂN CHÂU THƯỜNG-XUÂN CHÂU NGỌC LẶC CHÂU LƯƠNG-CHÁNH-CHÂU QUANG-HÓA CHÂU VƯƠNG-DUY-TRINH THANH-HÓA QUAN PHONG Bản phiên-diễn của NGUYỄN DUY TIẾU Nguyên tác lưu trữ tại Viện khảo cổ dưới số VNT-17 TỦ SÁCH CỔ VĂN UỶ BAN DỊCH THUẬT BỘ VĂN-HÓA GIÁO-DỤC VÀ THANH-NIÊN 1973 VÀI LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ THANH-hóa là một tỉnh rộng lớn nhất nước Việt Nam, gồm có 24 phủ, huyện và châu. Thanh-hóa cũng là vựa lúa lớn nhất miền Trung-Bắc nước ta, với những câu phương-ngôn : « Được mùa Nông cống sống thiên-hạ », và « Được mùa Nông-cống sống khắp nơi », v.v… Và Thanh-hóa cũng là một hạt có những sản-vật trân-kỳ đặc biệt : «Thanh-hóa Trịnh-vạn vi ngọc quế, Nghệ an Quỳ-châu thứ chi »1. Thanh-hóa núi không quá cao, sông không quá sâu và xiết như sơn xuyên các tỉnh Nghệ-an, Hà-tĩnh, Quảng-nam, Quảng-nghĩa… đã chung đúc ra những mẫu người có một truyền thống thuần-lương, thanh-nhã… Theo thuyết phong-thuỷ (phép địa-lý), Thanh-hóa là đất Đế-Vương chung hội. Riêng chúng tôi thì lại không muốn hiểu như thế, vì chúng tôi nghĩ rằng : Dù Lam-Sơn (thuộc tỉnh Thanh-hóa) có là cơ-sở của cuộc tranh đấu chống ngoại xâm do Bình-định-vương Lê-Lợi khởi xướng, qua 10 năm kháng chiến diệt Minh để xây-dựng nhà Hậu-Lê, cũng như Thanh-hóa là Thang-mộc-ấp của triều Nguyễn, các sự-kiện lịch-sử nầy, còn rất nhiều yếu-tố địa-lý và nhân-chủng khác cấu tạo nên, chúng ta không nên khẳng-định vấn-đề một cách độc-đoán và phiến-diện như thế. Để tìm hiểu tỉnh Thanh-hóa một cách tương-đối đầy-đủ hơn về dân-phong sĩ-khí cũng như thủy tú sơn kỳ của từng phủ, huyện và châu thuộc tỉnh Thanh-hóa, năm thứ 15 niên-hiệu Thành-thái (tức năm Quý-mão là năm 1903 sau Công-nguyên), Cụ Vương Duy-Trinh, với hàm hiệp-biện đại học-sĩ, lãnh chức Tổng-đốc tỉnh Thanh-hóa đã sáng-thảo quyển « Thanh-hóa quan-phong » bằng chữ Nôm gồm 70 tờ (70 x 2 = 140 trương). Với quyển sách dày 140 trương giấy, tác-giả đã cho chúng ta biết khá tường-tận về tỉnh Thanh-hóa. Dịch phẩm nầy được thực-hiện đúng nội-qui đã hoạch định từ lúc ban đầu của Ban Cổ Văn thuộc Ủy ban Dịch thuật. Tôn chỉ của Ban Cổ Văn là dịch-thuật tất cả các tác phẩm bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm do người Việt Nam trước thuật trong số có quyển « Thanh-hóa quan-phong ». Chúng tôi rất may-mắn được nhận lãnh trách-nhiệm phiên dịch tác phẩm này để cống hiến tài liệu cho học giới. Là một người cựu-học, tài sơ lực bạc, chúng tôi dầu có gắng đến đâu, cũng không sao tránh khỏi có những điều thiếu-sót, lệch-lạc trong khi phiên-dịch. Vậy chúng tôi sẵn-sàng đón nhận những lời chỉ-giáo của các quí vị học-giả cao-minh, nhất là các vị cựu-học thâm nho khắp chốn xa gần. Sài-gòn ngày 1 tháng 9 năm 1971 Dịch-giả cẩn chí LỜI DẪN-GIẢI CỦA TÁC-GIẢ SÁCH « THANH HÓA QUAN PHONG » Từ ngày kinh Thi có 15 loại thơ Quốc-phong2ra đời trở về sau, thì điển-chế « Trần-thi quan phong »3tự-nhiên phải bỏ. Nói như vậy không phải là không có thơ quan phong. Nước trung-hoa còn như vậy, phương chi nước Việt Nam chúng ta. Đại phàm làm người ở trên cõi đời, ai lại không có khí huyết và tư-chất, cũng như ai lại không có tính-tình ? Tâm tình của người ta phát-xuất ra ở đâu, cũng đều có ảnh hưởng ở nơi ấy, nào có khác gì trước ngọn gió thổi, cây cỏ đều bị chuyển-động rung-rinh. Đến đời gần đây, thói thường người ta chỉ ưa-chuộng văn-chương, từ-cú. Người ta hằng ham-muốn bắt-chước thơ họ Đỗ, họ Lý4ngày xưa, để mong có danh-tiếng ở chốn Tao-đàn. Còn như những câu ca-dao được sáng-tác tại những nơi làng quê ngỏ hẹp, thì người ta lại tỏ ý khinh-bỉ, mà cho là những câu hát quê-mùa ở ngoài đường-sá, không đáng lưu ý, thật là đáng tiếc thay ! Gia-khê tiên-sinh thường thường bàn-bạc đến việc ấy. Tiên-sinh còn yêu-cầu chúng tôi ghi-chép lại những câu ca dao, làm thành quyển sách, rồi đưa cho tiên-sinh phiên dịch. Ý-tứ tiên-sinh thật là thâm-thuý, uyên-nguyên và tinh-vi vô cùng ! Gia-khê tiên-sinh là một nhà học-giả Tây-phương, còn học-vấn Đông-dương ngày xưa là học-vấn của Chu-công và Khổng-tử. Thế mà một ngày, tiên-sinh học hỏi được một điều gì hay-ho, mới-mẻ ở Đông-dương, tiên-sinh coi hơn mười năm đọc sách, cho nên Tử-Cán nầy [tức biệt-hiệu của Vương-duy-trinh, tức tác-giả cuốn sách nầy] chịu ơn tiên sinh nhiều lắm. Chúng tôi đoái nhìn lại các làng xóm ta phần nhiều không có văn-tự, nên mỗi khi bày-tỏ tính-tình, người ta chỉ diễn-đạt bằng tiếng nói của Việt-Nam mà thôi. Quan huyện-doãn (tức quan Tri-huyện) huyện Nông cống thuộc tỉnh Thanh-hóa là Tiến-sĩ Phan Hữu-Nguyên5có nói : « Hoặc có khi người ta tiếp-xúc với cảnh-vật mà sinh tình ; hoặc có khi nhân sự việc xảy ra mà người ta cảm hứng ; hoặc người ta truy-niệm luân-thường mà nảy sinh lòng hiếu hữu ; người ta khen-ngợi Thần Phật quá đáng mà tấu thành thiên chương. Từ phong-tình mà có những khúc nhạc, từ cấy gặt mà có những câu ca, đều là do sở-đắc ở trong tính-tình rồi mới phát-tiết ra ngâm-nga vịnh phúng. Tuy những câu ca-dao ở địa-phương, lời lẽ có phần thô-tục quê-mùa, tựa-hồ không đáng phổ-biến tới những nơi xa ngái. Nhưng phong-tục vốn chuộng thuần-hậu thật-thà, cho nên qua những câu ca-dao ấy, người ta có thể hay biết dân tình thế-thái từng địa-phương một cách khái-quát ». Câu nói của Phan huyện-doãn thật là chân-thành vậy ! Chúng tôi bèn lượm-nhặt những câu ca-dao tại các địa phương trong tỉnh Thanh-hóa làm thành một quyển sách, lại còn làm những bài giải-thuyết sơ-lược, xong rồi chúng tôi gởi đến Gia-khê tiên-sinh, để Tiên-sinh tự rút ngắn lại, ngõ hầu thoả mãn chí tiên-sinh trong muôn một. Còn như nói chúng tôi làm công việc trước-thuật, thì chúng tôi đâu dám nghĩ tới. Niên-hiệu Thành-thái năm thứ 15 sau tiết Đông-chí năm ngày Thự Hiệp-biên Đại-học-sĩ lãnh chức Tổng-đốc tỉnh Thanh-hóa la VƯƠNG-DUY-TRINH cẩn chí. THANH-HÓA QUAN PHONG Vâng trời mở vận, Tỉnh Thanh thang-mộc nước nhà. Nay thanh-hóa, trước Thanh-hoa, Thanh-đô, Thanh nội, Đường là Ái-châu. Đời Tần Tượng-quận ở đâu, Cửu-chân đời Hán, Chỉn hầu cũng đây. Kể danh thắng thì : Nước xanh khéo đặt, non lạ khôn bày, Mà khí thiêng nung đúc những ngày, Vật đã tốt, người cũng hay, Thói đất tình trời thấy chưng thuở lý Hạng ca-dao chi tác, Một nơi một khác, Chép lại để đợi khách quan phong coi trác thử. TỔNG-SƠN HUYỆN (Tức Hà-trung phủ-lỵ sở) [Tờ 3b] Năm cũ đã qua, năm mới đã đến. Bước chân vào đình trung, tôi xin kính chúc. Trước tôi chúc : Thánh-hoàng vạn-tuế, tại thượng dương dương, Bảo quốc hộ dân, lưu ân tích phúc. Tôi lại chúc kỳ lão sống tâm chín mươi thọ tăng thêm thọ. Tôi lại chúc quan viên trùm lão, Niên tăng phú quí, nhật hưởng vinh hoa. Tôi lại chúc quan lại binh dân ta, Đột pháo xông tên, công thành danh toại. Tôi lại chúc đồng trang thượng hạ, Già sức khoẻ, trẻ bình an, Nhờ Đức Vua nhà no người đủ, Các xướng thiên thu vạn vạn tuế, Thiều quang đản dật, thục khí nhân uân, Ngũ lão ban đồng kiên lão, tam đa chúc hiệp hoa phong. Tam đạt tôn6chữ xỉ làm đầu, Ai ai cũng mần ông trùm tuế thọ. Sách có chữ : « Tuế hữu tứ thời, xuân tại thủ,7 Nhơn kiêm ngũ phúc thọ vi tiên ».8 Mầng ông trùm để phúc lộc kiêm toàn, Lại gồm chữ hương trung thượng thọ.9 Tước lộc thế mà danh lợi thế, Dẫu ngàn năm còn tiếng thơm dai, Thảnh thơi thọ vực xuân đài10 Đâu đâu cũng hoan hài ca vũ. GIẢI Đầu năm mầng chúc Thánh-cung, Tôn thân đâu cũng một lòng nữa ta. Đạt tôn thứ nhất tuổi già, Đầy vơi chén ngọc, đàn hòa ngày xuân. Anh chờ em từ thuở mô tê, Không hề buộc lá, không hề để nha. Buộc lá kinh em mau già, Để nha sợ nữa ra cành mía lau. Khoan hồ khoan. Thiếp như mía tiến vừa tơ, Chàng như mía tiến dật dờ đợi ai, Non cao sông hãy còn dài, Thương nhau đã [Tờ 4b] dễ bằng ngày gặp nhau. Khoan hồ khoan. GIẢI Năm năm tuế cống gọi là, Lòng người vui vẻ, miệng ca ngọt ngào, Bồng bồng đổ lộc ra hoa, Một đàn con gái hái hoa bồng bồng. Trở ra lấy chồng, Gánh gánh gồng gồng, bảy bị còn ba. Nào ai nhắn nhủ mi ra, Mà mi lại kể con cà con kê. Muốn tốt quảy bị mà về, Việc quan ta chịu một bề cho xong. Ngày xưa anh ở trong phòng, Bây giờ anh đã vào trong hành thuyền. Hai tay bưng đĩa trầu lên, Trước lạy hành thuyền, sau lạy ông cai. Chồng tôi tham sắc tham tài, Một chỉnh đôi gáo, tôi ngồi sao yên. Cho tôi chiếc đũa đồng tiền, Anh đi lấy vợ, tôi xin lấy chồng. [Tờ 5a] Có lấy thì lấy cách sông, Để tôi ra láng lấy ông chèo đò. Có chèo thời tôi chèo cho, Lênh đênh mặt nước ai lo cho mình. GIẢI Việc gì… một bề hai, Hãy còn ăn cáy máy tai tức mình. Chỉnh phu vương víu với tình, Thuyền xuôi lái ngược, chong chinh giữa dòng. Rủ nhau lên núi đốt than, Anh đi Tam-điệp, em mang non Trình. Gối than lem luốc với tình, Nhớ lời vàng đá, xin đừng xa nhau. GIẢI Nói non riêng một góc trời, Ghé vai gánh vác ngỏ lời gió trăng. [Tờ 5b] Muốn cho gần chợ ta chơi, Gần sông tắm mát, gần nơi đi về. Muốn cho gần bến gần thuyền, Gần bác gần mẹ nhơn duyên cũng gần. Muốn cho gần mẹ gần cha, Khi vào thúng lúa, khi ra quan tiền. Muốn cho chợ họp đôi chiều, Cho lắm kẻ bán cho nhiều người mua. GIẢI Phương-ngôn : Rằng khôn một người một ý, Lịch sự mỗi vẻ mỗi hay. Nên lại có câu rằng : Gần thời chẳng bén duyên cho, Xa xôi cách mấy chuyến đò cũng theo. Xin trời mưa xuống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy bát cơm đầy, Lấy khúc cá to. GIẢI Lòng dân ai thấu cho chơ, Vì dân so nắng tính mưa mới là. [Tờ 6a] Tối hôm qua, mận đến hỏi đào, Vườn xuân đà có ai vào hái hoa. Bông hoa đào chinh chính nở ra, Gia tay khiến bứt, sợ nhà có cây. Lạ lùng anh mới đến đây, Thấy hoa liền hái, biết cây ai trồng. GIẢI Đây là trai gái phong tình. NGA SƠN HUYỆN Nay mầng hải yến hà thanh, Muôn dân trăm họ thái-bình âu ca, Miền Thanh-hóa, huyện Nga-ta, Cỏ cây thang mộc quốc-gia triều-đình. Bốn phương bể lặng tăm kinh, Muôn dân trăm họ thái-bình âu ca. GIẢI Bốn phương đâu cũng một nhà, Dưới cây ngồi bóng nhớ là phận riêng. [Tờ 6b] Bao giờ cho hương bén hoa, Khăn đào bén túi thì ta lấy mình. Thuyền không đậu bến giang-đình, Ta không ta quyết lấy mình mà thôi. Ai về đường ấy mấy đò, Mấy cầu mấy quán ta cho mượn tiền. Ước gì quan đắp đường liền, Kẻo ta đi lại tốn tiền đò ngang. Em về soạn quán bán hàng, Để anh là khách đi đàng trú chân. Anh về xăm ván cho dày, Bắc cầu sông cái cho thầy mẹ sang. Thầy mẹ sang, em cũng theo sang, Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo. GIẢI Hoa thơm bướm cũng khoe vàng, Thế gian mấy kẻ không tình bướm hoa. Ai lên nhắn chị hàng cau, Chiếu buồm chận nước mượn màu cho tươi. GIẢI [Tờ 7a] Cau tươi buồm chiều mới tươi, Phấn son dồi mặt là người phù hoa. Lời gần mà ý tứ xa, Thảo nào tứ vật, lời ca hãy còn, (Tứ vật : vật giao An-hạnh hữu11 vật thú Trị-cụ thê12 vật mãi Đông-kinh bố13 vật đã Bạch-câu đề)14 Linh-đinh qua cửa Thân-phù, Khéo tu thời nổi, vụng tu thời chìm. GIẢI Kim-sơn đó cửa Thần-phù, Xưa là hiểm ác ra vô khó lòng. Dầu khi gió lặng trời trong, Cánh buồm tay lái cũng phòng sự xa. Khác gì bể hoạn15xông pha, Không phong ba16lại phong ba hiểm nghèo. Đem trung tín17thả con chèo, Thuyền hay đến bến hải đào18lo chi, Giang sơn vốn sẵn hộ trì, Chơn nhơn đời trước thiên ky bây giờ. Mũi-Rồng cỡi sóng chớ vì, Giây lèo vừa đứt có tơ thị Đồng. [Tờ 7b] ĐỘC Hung hữu định đà, thức cao lự viễn, tuân thiệp thế nhơn trung lưu nhất hồ giã. HOẰNG, MỸ NHỊ HUYỆN19 Em là con gái Kẻ-đằng, Bên Tề bên Sở biết rằng chờ ai. Ai lên nhắn nhủ hàng bông, Có muốn lấy chồng thời xuống Nguyệt-viên. Nguyệt-viên lắm lúa nhiều tiền, Lại có sông liền tắm mát nghỉ ngơi. Chiều chiều ba giỏ cá tươi, Chẳng ăn thì thiệt, chẳng chơi thì hèn. Đồn rằng Kẻ-Trọng nhiều cau, Kẻ-Cát lắm lúa, Kẻ-Mao nhiều tiền. GIẢI Đằng-cao, Đằng-xá, hay là Đằng-xuyên chưa rõ ; Nguyệt-viên, Trì-trọng là xã, Mao-yên là thôn. [Tờ 8a] Rung rinh nước chảy ngang đèo, Ngựa đua dưới bến, thuyền chèo trên non. GIẢI Việc đời điên đảo đảo điên, Khác gì nước lụt dưới trên lộn phèo. Xăn quần bắt kiến cởi chơi, Trèo cây rau má bỏ rơi tức mình. GIẢI Lòng người phóng đãng, lời nói hoang đường. Giữ gìn một đỉnh tiu tiu, Tiếng như trong núi, bóng tiều ngoài sông. Lạnh lùng những thuở đêm đông, Áo đơn mỏng mảnh ngóng trông đợi hè. GIẢI Có chăng người ấy lúc cùng, Đăm đăm danh lợi nóng lòng ước ao. HẬU-LỘC HUYỆN [Tờ 8b] Danh giáo thủ trung giai lạc địa,20 Thi thơ chi ngoại tổng nhàn thiên.21 Gẫm mà xem phong cảnh Phú-điền, Sơn-khâm hậu thuỷ nhiễu tiền tác án.22 Bán mẫu phương đường giai đạo ngạn,23 Quần phong hoa thảo tức văn chương.24 Kìa ruộng ngọc, nọ non vàng, Dầu ngọc uẩn25châu tàng26tối diệu. Núi Anh-võ dục năng ngôn ngữ,27 Gái thanh-tân lắm tiếng cầm ca. Lùm tùng sơn tươi tốt cỏ hoa. Khách giao dịch mai chiều tụy hội. Rừng kỳ lão mưa nhuần cây cổ thụ, Cõi Xuân-đài lắm kẻ cao niên. Chùa Định-tâm gió thoảng mùi sen, Ngày hạ thưởng say sưa người dật khách.28 Bút Dựng-tốn Mã giang dẫn mạch, Tài ba vỏ trải can thành. Nước dinh canh lưỡng dịch song hành, Đủ sơn tú [Tờ 9a] thuỷ thanh là thế, Phong-cảnh ấy mà giang-sơn ấy, Nền công hầu khanh tướng từ đây Khuyên ai có chí khí thì hay. GIẢI Huyện nầy với huyện Đông-sơn cũng vậy. Đó là lời ca xã Phú-điền. LÔI-DƯƠNG HUYỆN (tức Thọ-xuân phủ lỵ) Bước vào bái vọng quì tâu, Tuế vua tôi chúc sống lâu muôn đời. Mầng vua chính thật con trời, Vua lên trị vì, nhà đủ người no, Trăm năm kính chúc tuổi vua, Bát thiên xuân hưởng, bát thiên thu lâu dài, Tôi dâng chữ thọ chữ tài, Chữ phú chữ quí chữ lai chữa tuyền. Tôi dâng chữ kính chữ tiên, Tôi dâng bốn chữ [Tờ 9b] bách niên thọ trường. Tôi dâng chữ phụ chữ khương, Tôi lại mầng làng nhân vật đề đa. Tôi dâng chữ lạc chữ gia, Chữ thái chữ hoà, chữ hanh chữ thông. Tôi dâng vạn chúc du đồng,29 Văn rỡ rỡ tiền, võ trùng trùng thăng. Văn thời khoa đệ kế đăng,30 Võ thời thao lược ai bằng dân ta. Bình thời dẹp giặc quốc-gia. Vua yên chúa dấu ban ra sắc rồng. Lão thời tóc phụng râu rồng, Bàn đào thi tửu31gởi cung tánh tình. Sĩ thời ấu học tráng hành,32 Khôi nguyên giáp bảng đề danh ba kỳ. Nông thời xuân hạ cấy cày, Lẫm thương lúa chất bằng đời Hán gia. Công thước mực thước tài hoa, Đục rồng vẽ phụng vua đà ban khen. Thương thời lắm bạc nhiều tiền, Bán buôn lời lãi dư ngàn dư trăm. Trai thời có chí hằng trăm, Gái thời khuya sớm chăn [Tờ 10a] tằm hái dâu, Chúc mầng đã sang lại giàu, Chúc mầng lại được sống lâu hơn người. GIẢI Ấy là nhập tịch tự thần,33 Dâng câu chúc tụng ngày xuân lệ thường. Thuyền ai đứng chực bên sông, Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền. Để ta kết nghĩa làm quen. Thuyền tình đã ghé đến nơi, Khác tình sao chẳng xuống chơi thuyền tình, Thuyền không đỗ bến giang-đình. Em như cây quế giữa rừng, Thơm tho ai biết, ngọt lừng ai hay. Anh như cây phướn nhà chay, Em như chiếc đũa sánh bày sao nên. Em nay khắn khắn một lòng, Muốn cho phu xướng phụ tòng34cùng nhau. Lòng em như ý sở cầu. Đôi ta như đá với dao, Năng liếc thì sắc, năng chào thì quen, Đôi ta như thể con [Tờ 10b] bài, Đã quyết thì đánh đừng nài thấp cao. THỤY-NGUYỄN HUYỆN (tức Thiệu-hóa phủ lỵ) Điện xây bình trị, hội mở văn minh. Nay bốn phương hải yến hà thanh. Đều ca múa thái bình hớn hở. Làng ta mừng rỡ, kỳ phúc nay yến mở sự thần. Tiếc xuân-thiên mở tiệc xướng ca, Xin giao áng mấy lời kỉnh chúc. Một chương thánh thọ vô cương,35 Mệnh trời quyến hựu đền vương càng dài. Hai chương hản hoạn trừ tai, Thần về giáng phúc phúc lai sùng thành. Ba chương phong tục hòa bình, Đọi truyền đất quí dân lành xưa nay. Bốn chương cõi thọ nhiều ngày, Chúc mừng quan lão tuế ngoài một trăm. Năm chương bút trận từ lâm, Văn [Tờ 11a] đua tài cả tên nhằm bảng cao. Sáu chương đồng trạch đồng bào,36 Võ ra khoẻ sức, công vào thường cân. Bảy chương hộ khẩu tứ ân,37 Số đinh trù mật việc dân vững vàng. Tám chương niên cốc phong nhương,38 Nhà nhà đầy đủ năm thường có dư. Chín chương con cháu sản sơ, Trong làng gái sạch trai tơ thêm nhiều. Trước sau chúc phúc mấy lời, Áng ta lặng lẽ mọi nơi tiếng đồn. Nhơn hoà thuần hưởng,39 Tục mỹ phong thuần,40 Dân tôi nay tiệc mở thưởng xuân, Nhờ được có quan trên hạ cố. Trước thời thần linh ủng hộ, Sau nữa dân cảm đội dư quang. Xin dâng câu phú quí thọ khương, Cho tôi được bước vào kỉnh chúc. Chúc quan Tổng-đốc đại thần, Khoa danh minh thế41, quan thân trọng triều ?42 Khâm sai xuất trấn Thang-châu, Một phương vạc vạc, sáng mầu khúc [Tờ 11b] tinh. Oai nghiêm trong có khoan bình, Phụng công43nhưng cũng thấu tình dân ngay. Thương dân mọi việc chẳng nề, Hiệu thần nhờ bút đợi đề phân minh. Kỉnh thành cảm đến thần minh, Hào quang hiển hiện anh linh tức thì. Mừng nay hạ cố đến dân, Thoả lòng trên dưới đôi lần ước ao. Nguyện xin phúc thạnh sang giàu, Hàn đồng đậu quế44công hầu tập phong. Xuân hồi vũ trụ,45 Lạc phổ đồng nhơn.46 Khai tượng kỳ ca xướng tự thần, Lãnh hổ ẩn kiền thân chức cổ, Nhứt bái chúc hoàng đồ cách cố,47 Thiên vạn niên quốc tộ hưng long.48 Nhị bái chúc vạn tuế thánh cung,49 Thiên vạn cổ hội đồng hưng thạnh. Tam bái chúc quốc-gia cảnh mạnh, Hội thái bình ninh tịnh hưng ca, Tứ bái chúc dân xã mục hoà, Hồi mỹ tục gia gia hưng hạnh, Long giá hạ hộ quì phụng mạnh. [Tờ 12a] Phục thiên thanh thống lãnh kỳ phu. Xuân nhàn tai sĩ thứ hy du,50 Thiệt ngưởng lại không phò đại đức. GIẢI Ba bài nhập tịch sự thần, Ngày xuân mờ áng đánh cờ làm vui. Ai về Phú-lộc gởi lời, Thơ nầy một bức nhắn người tri-âm, Mối tơ chín khúc ruột tằm, Khi tháng tháng đợi, mà năm năm chờ. Vì tình ai lẽ làm ngơ, Cắm sào chỉ quyết đợi chờ nước xuân. Ước sao chỉ Tấn tơ Tần, Sắc cầm hảo hợp, lựa vần Quan-thư. Đôi bên ý hợp lòng ưa, Mới phu công thiếp mới vừa lòng anh. Thiếp thời tần tảo cưởi canh, Chàng thời nấu sử sôi kinh kịp thời. Một mai chiếm bảng xuân-vi, Ấy là đề diệp tinh kỳ51từ đây. Ai ơi, nghe thiếp lời nầy. [Tờ 12b] GIẢI Khen cho gái biết tìm chồng, Đuốc hoa lại đợi bảng rồng với luôn. ĐÔNG-SƠN HUYỆN Đời vua Thái-tổ, Thái-tông, Con bế, con bồng, con ngã, con mang. Bò đen hút lộn bò vàng, Hai con hút chắc đâm quàng xuống sông. Thằng bé đi về bảo ông, Bò đen ta đã xuống sông mất rồi. GIẢI Vàng đen cũng của một nhà, Không người chăn dắt nên mà ra ri. Bước trời phải bước lưu ly,52 Lòng người nhớ đến bình thì thuở xưa. Ấy là thuở Hậu-Lê thấy nhứt thống, Hay là khi Ngụy Mạc tiềm can chưa tường. [Tờ 13a] Cây cao bóng mát chẳng ngồi, Em ra ngoài nắng trách trời không râm. Xa xuôi dịch lại cho gần, Làm thân con nhện mấy lần giăng tơ. GIẢI Đây lời gái, trên lời trai, Tiếng chì tiếng bấc ngoài tai, Đồn xằng đồn láo bẻ hai duyên người. Con chuột mắc bẩy, vì ống tre Già đẽo ra đòn xóc, chồng đi lính Vợ ở nhà khóc hy hy. Trời ơi sinh giặc làm chi, Cho chồng tôi phải ra đi chiến-trường. Đồng-đăng có phố Ký-lừa, Có nàng Tô-thị, có chùa Tam-thanh. Ai lên xứ Lạng cùng anh, Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em. Tay cầm bầu rượu nắm nem, Khi vui quên hết lời em dặn dò. Con cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo [Tờ 13b] đưa chồng, tiếng khóc nỉ non, Nàng ơi trở lại cùng con, Để anh đi Trỉ nước non kịp người, Cho kịp chân ngựa chân voi, Cho kịp chân người kẻo thiếu việc quan. Con cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng nước mắt nỉ non. Nàng bay trở lại cùng con, Cho anh đi Trỉ nước non Cao-bằng. Chân đi đá lại dùng dằng, Nửa nhớ Cao-bằng, nửa nhớ vợ con. Đi thời nhớ vợ cùng con, Khi về nhớ củ khoai môn trên rừng. GIẢI Dường là thuở Lê đã dấy, mạc lên Cao-bằng. Mười tám năm đồn thú giao chinh,53 Có vui gì việc dụng binh, Thương tình nên phải tự tình làm khuây. Tình kẻ dưới người trên hay, Thái vi trượng đổ thế nầy mà thôi. [Tờ 14a] Muốn ăn đậu phụ tương chao, Mài dao lựa kéo cạo đầu đi tu. Đi tu cho tốt đi tu, Ăn chay nằm mộng ở chùa hồ sen. Thấy cô má đỏ răng đen, Nam-mô di Phật lại quên ở chùa. Muốn tu chùa ngói Bụt vàng, Chùa tranh Bụt đất ở làng thiếu chi. Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ ấy là chơn tu. Mồng chín tháng chín có mưa, Thì con đi sớm về trưa mặc lòng. Mồng chín tháng chín không mưa, Thì con bán cả cày bừa con ăn. GIẢI Tháng năm không mưa mồng năm, Tháng tám đêm rằm mà được trăng trong. Ấy là điềm tốt nghề nông, Nhà khỏe ai nấy để lòng làm gương. Ba mươi tết xem tàn hương, Được bông được đậu hai đường cùng phân. [Tờ 14b] Ngày nào trời nắng chang chang, Mẹ con hái củi đốt than no lòng. Trời làm một trận minh mông, Mẹ con nhịn đói nằm không ba ngày. GIẢI Một ngày cũng khó làm ơn, Người kêu rằng nắng kẻ hờn rằng mưa. Biết sao trời ở cho vừa, Thay trời nên phải trước ngừa việc dân. ĐỘC Pha thi vân : nhược sử nhơn nhơn đảo nhiếp toại tạo vật ưng tu nhật thiên biến tức thử ý dã.54 Chẳng tham ruộng cả ao sen, Tham về cái bút cái nghiên anh đồ. Đi đâu chẳng lấy học trò, Khi người ta đỗ khóc đừ mà nem. GIẢI [Tờ 15a] Phú cổ có câu rằng : Giàu thú quê chân lấm tay bùn. Duyên chẳng đẹp, chớ ép dầu ép mỡ. Khó hàn-sĩ tai thần mắt thánh, Phận mà ưa, đừng cân nghĩa cân vàng. Trâm vàng ai nỡ uốn câu, Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời. GIẢI Người khôn giá nặng hơn vàng, Hỡi ai sao chẳng giữ giàng nết na. Lần lựa cho qua tháng tiểu đại, kẻo năm còn rộng, tháng còn dài. Dép thay mặt dưới, quần thay ống. Áo đổi vai trên, túi đổi quai ; Dặn vợ có cà đừng gắp mắm, Khuyên con bớt gạo bỏ thêm khoai. Dầu ai có nói rằng hà tiện, Hà tiện dầu mà chẳng lụy ai. Đi đồng gió mát thảnh thơi, Thương ai nằm [Tờ 15b] võng nắng nôi ở nhà. Muốn tắm mát lên ngọn sông đào, Muốn ăn thơm chín thì vào rừng xanh. Hai tay vin cả hai cành, Quả chín thì hái quả xanh thì đừng. Bấy lâu ăn ở trên rừng, Chim kêu vượn hót nửa mừng nửa lo, Sa chân bước xuống mạn đò, Nửa lo buôn bán nửa lo sự đời. Ngồi đêm trông thấy trăng tròn, Muốn toan hỏi nguyệt mà đoan mấy lời. Nguyệt rằng vật đồi sao dời, Thân nầy sẽ để cho người soi chung. Làm cho rõ mặt anh hùng, Ngàn năm sương tuyết một lòng thanh quang. GIẢI Chỉnh55về thì Trịnh-thị56đi, Chỉnh đi Trịnh-thị lại về. Được thua đương cuộc tỉnh mê, Người hiền suy tính hai bề tới lui. Chim còn lẫn bóng mà coi, Cây cao mới đậu nữa người ta ru. [Tờ 16a] Ruột tằm chín khúc vò tơ, Biết rằng chàng có đợi chờ ta chăng. Ngọn đèn thấp thoáng bóng trăng, Ai đem người ngọc xung xăng chốn nầy. Đôi ta làm bạn thong dong, Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng. Bởi chăng thầy mẹ nói ngang, Để cho đũa ngọc mâm vàng cách xa. Đôi ta như thể con tằm. Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong. Đôi ta như thể con ong, Con lớn, con bé, con trong, con ngoài. Cầm lược lại nhớ đến gương, Cầm khăn nhớ túi, ngồi giường nhớ nhau. Chim khôn mắc phải lưới hồng, Đố ai gở được, đền công lượng vàng. Vàng thì anh chẳng lấy vàng, Anh mà gở được thì nàng lấy anh. Nhớ ai mà đứng đầu cầu, Lược sưa biếng chải gương tàu biếng soi. Đá hoa bỏ vắng không ngồi, Phòng hương bỏ vắng cho người vãng lai. [Tờ 16b] GIẢI Sáu bài lời hát phong tình. Huyện nầy sở tại tỉnh Thanh, Dân phong một nửa thị thành nửa quê. Ca thi hai mươi lăm đề, Là lời thông xướng xưa tê lưu truyền. AN-ĐỊNH HUYỆN Đức vua Thành-thái lên ngôi, Cửu châu tứ hải làm tôi một nhà, Đức vua có sắc ban ra, Âm phò dực bảo57để mà trung hưng. Phương dân đâu đó nở mầng, Ai ai thì cũng kỉnh dâng một lòng. Mầng nay thiên địa an bài, Ngàn năm hương khói muôn đời anh linh. Từ xưa quốc thái linh linh, Tả long hữu hổ58kéo quanh chầu về, Lịch triều điển lệ cũng ghê, Sắc phong thượng đẳng rước về điện ta. Yên dân, yên nước, yên nhà, Thần công trợ [Tờ 17a] hộ59làng ta phú cường. GIẢI Tế thần ca xướng khi được sắc phong. Nay mầng thiên hạ thái bình, Tiết xuân vui vẻ, điện đình phong quang. Sống lâu như núi Nam-san, Nhà no người đủ chan chan lúa tiền. Mở ra một tiệc tháng giêng, Thờ thần lễ nghĩa nhà riêng rượu trà. Nay mầng tứ hải đồng xuân,60 Tam dương khai khái61muôn dân hòa bình. Sĩ thời chăm việc học hành, Một mai khoa bảng để dành công danh. Công thời phụng các long đình,62 Đủ nghề sư khoán rất vành công thâu. Nông thời cuốc vẫm63cày sâu, Thu hòa hạ mạch64phong thu65có ngày. Thương thời buôn bán liền tay, Bất tài Tử-cống66ai tày cho dương. [Tờ 17b] GIẢI Ấy là lời ca hương ẩm tiết thiều xuân.67 Mùi thế-vị khi nồng lúc nhạt, Chén yên hà68kẻ tỉnh người say. Là người say nghiêng bầu phong nguyệt cho đầy cuộc vui. Mầng nay thái vũ xuân hồi, Miệng dâng câu hát hoan bồi một khi. Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng, Đêm xuân ai dễ cầm lòng đặng ma, Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ, Dầu hao thiếp rót đèn mờ thiếp khêu. GIẢI Lời ngạn rằng : Văn-chương chữ nghĩa bề bề, Chi chi ám ảnh thời mê sự đời. Đây là lời người vợ hiền khuyên chồng gắng học. Làm trai nết đủ trăm đường Trước tiên điều hiếu đạo thường xưa nay. Công cha đức mẹ cao dày, Cưu mang trứng nước [Tờ 18a] bù chì ngây thơ. Nuôi con khó nhọc đến giờ, Trưởng thành con phải biết thờ hai thân. Thức khuya dậy sớm cho cần, Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con. Làm người phải biết cương thường, Xem trong ngũ đẳng69quân vương ở đầu. Thờ cha kính mẹ trước sau, Anh em hòa thuận mới hầu làm nên. Vợ chồng đạo nghĩa cho bền. Bạn bè cho thật dưới trên đấng thường. Dạy con từ thuở tiểu sanh, Gần thầy gần bạn tập tành lễ nghi. Học cho cách vật trí tri. Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng thông. Học trò đèn sách hôm mai, Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào. Làm nên quan thấp quan cao, Làm nên lóng tía võng đào70nghinh ngang. GIẢI Hai bài trên khuyến thiện71 Hai bài dưới là khuyên độc thơ72 [Tờ 18b] Đèn tôi từ thuở Toại-nhơn73 Chà cây lấy lửa, để muôn dân phanh ẩm thục thực.74 Từ thuở ấy hoả sinh bất tức, Sinh có đèn sáng rực bốn phương. Trai văn phòng chí lập văn-chương, Cũng phải đèn sôi kinh nấu sử. Gái thục-nữ giữ bề cung cấm, Cũng lấy đèn dệt gấm thêu hoa. Dầu đến nhà quê cũng nhờ bóng sáng. Sách có chữ rằng « hoả chi công đại hỹ tai »75 GIẢI Hương ẩm sự thần đội đèn hát nói. Rủ nhau đi cấy đi cày, Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu. Trên đồng cạn dưới đồng sâu, Chồng cày vợ dắt con trâu đi bừa. Tháng giêng chân bước đi cày, Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng. Thuận mưa lúa [Tờ 19a] tốt đằng đằng, Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà. Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà. Tháng ba cày phá ruộng ra, Tháng tư là mạ mưa sa đầy đồng. Ai ai cũng vợ cũng chồng, Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay. Lạc trông sao đẩu về đông, Chị em ra sức cho xong mẫu nầy. Lom lem tay lấm chân trầy, Năng trồng cây ngọc cũng ngày hữu thu. Khuyên người đừng có ngao du, Một năm no ấm vận trù từ đây. Ơn trời mưa móc phải thì, Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu. Công linh đừng quản lâu lâu, Ngày nay nước bạc, ngày sau mưa vàng. Xin ai đừng bỏ ruộng hoang, Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu. Trời cho cày cấy đầy đồng, Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê. Một mai gặt lúa đem về. Thờ [Tờ 19a] cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung. Nầy chính là gạo tấm xuân, Mấy phen giá sắc76gian nan mới thành. Bây giờ ta giã cho tinh, Phòng khi yến ẩm dâng lên chớ chầy, Đà no rồi lại đã say, Mừng rằng nay đã hy hy thái bình. GIẢI Bảy bài ấy là việc nông gia. Bước chân xuống thuyền chân bấm ngón ba, Trách cô hàng trứng ở ra hai lòng. Một con sông nước chảy đôi giòng, Một đèn đôi ngọn em trông ngọn nào. GIẢI Một người một dạ ai hay, Cũng vì danh lợi niềm tây đó mà. Ấy là lấy chuyện hàng trứng nói [Tờ 20a] nhơn tình như thế vậy. Hạt lúa vàng, gạo cũng vàng, Anh yêu em, bác mẹ họ hàng cũng yêu. Tiếc thay hạt gạo tám xoan, Đem vo nước đục, lại chan nước nhà. Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, Đã vo nước đục lại vần than thiêm. GIẢI Ba bài ấy : Phải là lời vợ trách chồng, Lắm lời cậy thắm khoe hồng ai khen. Hay là vợ khá chồng hèn, Người ta thương xót cho nên phàn nàn. Anh vỗ trống đất kêu vang, Em thổi sáo trúc nhịp nhàng với anh, Gọi là xanh lá rậm cành. Dở xem một chuyện phong tình, Cho loan nhớ phụng, cho mình nhớ ta, Nhớ nhau nên thất nên gia, Nên cửa [Tờ 20b] nên nhà, nên vợ nên con, Chim thái qui chiu chít trên non, Ước gì ta được vợ con như người. Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng. Khác gì như thể phụng hoàng gặp nhau. Tiện đây ăn một miếng trầu, Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là, Xin chàng quá bước vào nhà, Trước là hỏi chuyện, sau là nghỉ chân. Vì tình em phải tới đây, Trăm năm duyên phải một ngày mà nên. Làm trai chí ở cho bền, Đừng lo muộn vợ, chớ phiền muộn con. Vì con sông, lụy chú chèo đò, Bởi vì trời tối, lụy cô bán hàng. Vì tình nên phải đa mang, Vì duyên em biết quê chàng ở đây. Vì sàng cho gạo xuống nia, Vì nàng anh phải đi khuya về thầm. Bây giờ mận mới hỏi đào, Vườn hồng đã có ai vào hay chưa. Mận [Tờ 21a] hỏi thì đào xin thưa, Vườn hồng có đó, nhưng chưa ai vào. Ở đây gần cảnh nhà chùa, Lẽ đâu có lẽ dặn dò trăng hoa, Trúc mai sum họp một nhà, Song tình đạo nghĩa đã già đồng cân. Cũng liều phú thác cái thân, Khi vui cũng một Tấn Tần mà thôi. Anh muốn trông, anh lên ba đội anh trông, Một đội anh ngồi, hai đội anh trông. Trống thu không ba hồi điểm chỉ, Anh ngồi anh nghỉ, thở vắn thở dài. Trúc nhớ mai, thuyền quyên nhớ khách, Quan nhớ ngựa bạch, bóng lại nhớ cây. Anh nhớ em đây, biết bao giờ cho được. Đạo vợ chồng chẳng trước thời sau, Ngàn năm xin chớ quên nhau, Bấy lâu vắng mặt khát khao, Bây giờ thấy mặt bằng trao lượng vàng. Nhà anh có ruộng năm sào, Một bờ ở giữa làm sao cho liền Muốn liền [Tờ 21b] thời phá bờ đi, Mạ non cấy xuống làm chi chẳng liền. Nhà em có ruộng giữa đồng, Bắt anh tát nước cực lòng anh thay. Gặp cơn mưa bụi gió may, Tay tát gàu nước, hai tay lạy trời Lòng em đã quyết thì đành, Đã cấy thì gặt với anh một mùa. GIẢI Mười hai bài ấy, là lời hát trai gái phong tình. VĨNH-LỘC HUYỆN (tức Quảng-hóa phủ lỵ sở) Triều-đình còn chuộng thi thơ, Khuyên anh đèn sách sớm trưa học hành. May nhờ phận có công danh, Mà anh phú quí, ấy mình vẻ vang. Khuyên đừng trai gái lăng quàng, Khuyên đừng trà rượu nữa mang chê cười. Cũng đừng [Tờ 22a] cờ bạc đua chơi, Sao cho sự-nghiệp ra người trượng-phu. Làm sao nên tiếng danh nho, Thần trung tử hiếu77để cho khen cùng. Em thời canh cưởi trong nhà, Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng. Trước là vinh hiển tổ-đường, Bõ công đèn sách lưu phương78đời đời. Anh ôi có chí canh nông, Chín phần ta cũng được trong tám phần. Can chi để ruộng mà ngâm, Làm ruộng lấy lúa, nuôi tằm lấy tơ. Tằm có lứa, ruộng có mùa, Chăm làm trời cũng đền bồ có khi. Em thì đi cấy ruộng bông, Để anh đi gặt lúa chung một nhà. Đem về phụng dưỡng mẹ cha, Muôn đời tiếng hiếu người ta còn truyền. Trăm nghề làm thợ trai kia, Muốn cho khéo việc quản gì dụng công. Đại-mộc phải cầu lương-công,79 Nhờ trời minh huấn ròng ròng [Tờ 22b] còn đây. Trí khôn ai bảo ai hay, Tấc gang nhận ở trong tay mặc dầu. Tin nhau buôn bán cùng nhau, Thiệt hơn, hơn thiệt trước sau như lời. Hay gì lừa đảo kiếm lời, Một nhà ăn uống tội trời ai mang. Theo chi mang thói gian tham, Pha phôi thiệt giả tìm đường dối nhau. Của phi nghĩa có giàu đâu, Ở cho ngay thật giàu sang mới bền. Đố ai biết núi mấy cây. Biết sông mấy lạch biết mây mấy tầng. Đố ai đốt cháy ao bèo, Để ta gánh đá Đông-triều về ngâm. Bao giờ cho đá mọc mầm, Thì ta kết nghĩa tri-âm với mình. Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta bảo gió, gió đừng rung cây. Rung cành, rung cội, rung cây, Rung sao cho chuyển cây nầy thì rung, Bây giờ rồng mới gặp mây, Sao rồng chẳng thở với mây [Tờ 23a] vài lời. Đêm qua vật đổi sao dời, Tiếc công gắn vó, nhớ lời giao đoan. Cô kia gánh nước quang mây, Cho xin một gáo tưới cây ngô-đồng. Ngô-đồng thêm tốt thêm xinh, Để chim phụng đỗ đầu cành xa ly. Sớm ngày ta đi hái dâu, Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.80 Hai anh đứng dậy hỏi han, Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu. Trình rằng tôi đi hái dâu, Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn. Thưa rằng bác mẹ tôi răn, Làm thân con gái chớ ăn trầu người. THẠCH-THÀNH HUYỆN Nay mầng ông lão làng ta, Phơ phơ tóc bạc, nước da đồi mồi. Đầu năm mới mở tiệc vui, Rượu xuân [Tờ 23b] dâng chén khuyên mời ông xơi. Tuần sơ trò chuyện vui cười, Cùng dân vui vẻ như người ngày xưa. Đến chừng tuần á dâng thi, Đem câu vạn thọ vô kỳ81ngâm nga. Thong dong rượu đến tuần ba, Dạo đàn hát chữ tam đa82mấy lời. Thượng thần trông xuống sáng soi, Hộ cho ông lão đời đời sống lâu. Trong làng ai cũng khẩn cầu, Chúc mầng ông lão thiên thu thọ trường.83 Lão tôi đội đức thượng-thần, Việc nầy vui vẻ muôn phần ơn dân. Nhớ xưa Châu ở nước Mân, Kỉnh lão cũng đặt rượu xuân khuyên mời. Xin mầng già, trẻ, gái, trai. Ở trong thọ vực, xuân đài vẻ vang. Sĩ thời thi chiếm bảng vàng, Nông thời tiền lúa giàu sang đời đời. Công thời nghề-nghiệp hơn người, Thương thời vốn một lời mười tranh đua. Yến điên ăn uống say no, Một năm [Tờ 24a] một tiệc xin cho lâu dài. GIẢI Hai bài yến lão mầng xuân, Một lòng trên dưới mười phần kỉnh yêu. Ba năm trấn thủ lưu đồn, Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan, Chém tre ngã gỗ trên nguồn, Uống ăn cam khổ phàn nàn cùng ai. Phàn nàn cùng trúc cùng mai, Cùng cây lim táu cùng cây ngô-đồng. Bấy lâu ăn ở trên rừng, Chim kêu vượn hót nửa mừng nửa lo. Ai ôi đừng lấy làm lo, Dương xuân84rồi cũng soi cho âm hàn.85 GIẢI Hai bài ấy lời người đồn thú. Gian nan đành phận tôi đòi, Làm trên cũng phải xét soi đến tình. CẨM-THỦY HUYỆN [Tờ 24b] Thánh chúa vạn niên.86 Thánh chúa vạn niên. Chúng tôi nay, dâng cách đội đèn, Thái-hòa gặp tiết xuân-thiên, Gió đưa cội ngọc, hoa chen cành vàng. Tình tang, tình tang, tình tang, Trong nhà ta đèn thắp sáng trưng, Song le lại muốn chơi trăng ngoài thềm. Để cho trong ấm ngoài êm, Êm ngoài êm. Quang minh mấy ngọn một mầu, Khêu lên cho rõ, xem nhau cho tường. Kẻo còn đi nhớ về thương. GIẢI Hai bài ấy là lời ca đội đèn, tiệc hương ẩm. Mẹ em cấm đoán em chi, Để em sắm sửa em đi lấy chồng. Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bõ công trang điểm má hồng răng đen. Muốn ăn măng trúc, măng giang, Măng tre, măng nứa, trà bàng cơm lam. Muốn [Tờ 25a] ăn thơm chín đi tìm, Đố ai tìm được đem lên hầu nàng. Chim kêu, vượn hót trên ngàn, Bây giờ đã đến trăng tàn canh ba. GIẢI Hai bài ấy là lời ca trai gái phong tình. Nước trong mã thủy, sóng lặng kình ba. Mầng nay nhứt thống sơn hà, Đâu thủy quốc chẳng còn giây măt bể. Chúng tôi vốn giòng quân thủy, Khi thừa nhàn giở cách vui chơi. Thuyền lan chèo quế thảnh thơi, Từng dạo khắp am mây non nước. Làng ta nay mở tiệc chèo hay, Đem quân bộ xin bày hàng ngũ. Nghiêm trang nhẽ, tư ca tư tụ, Việc chèo nên, chí kỉnh chí thành. Đức bề trên sản ứng oai linh, Hộ làng được thiên niên thọ lão. [Tờ 25b] Đôi tay nâng lấy mái chèo, Nâng lên cho đều, bái tạ quân vương. Bề trên giá ngự ngai vàng, Hộ làng ta được thọ tràng hiển vinh. Là xinh xinh xinh ! Ngày Nghiêu tháng Thuấn thái bình âu ca. Thuyền ngược ta bỏ sào ngược, Ta chống chẳng được, ta trở sào xuôi. Thuyền ngược ta khấn gió nồm, Thuyền xuôi ta khấn mưa nguồn gió mây. Thuyền ai thấp thoáng bên bờ, Hay thuyền ông Lữ87đợi chờ vua Văn88. Thuyền ai đỗ bến Ô-giang, Hay thuyền Đình-trưởng89đi rước Hạng-vương90sang cùng. GIẢI Sáu bài ấy, ca đua thuyền. Tục xưa sơ mở dân đua thuyền, có ý tập luyện việc quân, cũng như đua gậy đua quyền. Con trai đua vật, các dân có phường. [Tờ 26a] Đôi ta như lúa phai màu, Đẹp duyên thì lấy, tham giàu làm chi. Cầu mông bước tới cầu châu, Bước sang cầu sỉ, gặp nhau cầu dừa. Em ôi, em có chồng chưa, Sông còn có lạch, lọ là người ru. Hoa cầu gặp hội hát xong, Em ở một làng, anh ở một nơi. Bây giờ mới gặp nhau đây, Ước làm phu phụ muôn đời nên chăng. Hữu bằng tự viễn phương lai,91 Lạc hồ quân-tử92lấy ai bạn cùng, Chứ hiếu chữ trung là thầy với mẹ, Chữ nhơn chữ nghĩa là ái với ân. Yêu nhau bao quản xa gần. Đôi tay cầm đôi ống tơ, Rủ năm ba mối, cũng chờ mối anh. Quả như lời ấy chớ sai, Tháng giêng chặt gỗ, tháng hai làm nhà. Tháng ba ăn cưới đôi ta. Ăn chanh ngồi cội cây chanh, Khuyên cội, khuyên [Tờ 26b] cành, khuyên lá, khuyên lông. Khuyên cho đó vợ đây chồng, Đó bề con gái, đây bồng con trai. Tháng xuân là tiết cày bừa, Chăm bế lúa thóc, để hòa làm ăn. Nông tang việc gốc cho cần. Thóc đèn hương thơm hơn mọi thóc, Điểm trên lầu, trống giục đinh đông. Năm canh gió mát trăng trong, Thần hôn định tỉnh93một lòng chớ sai. Ai ôi, nghe lấy ai ai. Em thì đi cấy lấy công, Để anh nhổ mạ tiền chung một lòi. Đem về cho bác mẹ coi, Làm con phải thế em ôi. GIẢI Mười câu ru nín con thơ, Khi ca giã gạo cấy cầy ruộng nương. Dân ta nửa chợ nửa man, Phong tình còn giữ tánh thường không sai. NGỌC SƠN HUYỆN (tức Tĩnh-gia phủ-lỵ) [Tờ 27a] Tay cầm gậy trúc hóa long, Trên thời thượng lão, dưới giòng con trai. Mầng cây rồi lại mầng người, Cây đức lắm chồi, người đức lắm con. Ba vuông sánh với bảy tròn, Đời cha nhơn đức, đời con sang giàu. Trời nào có phụ ai đâu, Hay làm thì giàu, có chí thì nên. Trứng rồng lại nở ra rồng, Hạt xoan lại nở xây xoan rườm rà. Có cha sinh mới ra ta, Làm nên thì bởi mẹ cha vun trồng. Khôn ngoan nhờ ấm cha ông, Làm nên phải đoái tổ-tông phụng-thờ. Đạo là con, chớ có hững hờ, Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm. Bao giờ đồng ruộng thinh thai, Ngồi trâu thổi sáo vui đời Thuấn, Nghiêu. [Tờ 27b] GIẢI Để khuyên lấy hiếu làm đầu, Bài trên mầng tiệc khuyên nhau làm lành. Dưới là ao ước thái bình. Trăng mờ còn tỏ hơn sao, Tuy rằng núi lở, còn cao hơn bờ. Hoa thơm, thơm nức cả cây, Ong chưa dám đỗ, bướm đừng xôn xao. GIẢI Thôi thôi, cậy sắc khoe tài mà chi. Sao không nghĩ, sao không suy, Phương-ngôn rằng : Suy ra ai kém ai đâu, Kẻ xe chỉ thắm, người xâu hạt vàng. Yêu nhau trầu chẩm cũng chơi, Ghét nhau, cau đậu đầy khay không màng. GIẢI Cũng như phương-ngôn rằng : Yêu nhau bốc bậy dần sàng, Ghét nhau đũa ngọc mâm vàng chớ thây. [Tờ 28a] Lưỡi vò độc quá đuôi ong, Xui người tan hiệp dứt lòng nghĩa nhân. GIẢI Có câu rằng : Rung cây, rung cội, rung cành, Đố ai rung được chúng mình thì rung. Như thế thì : Chữ tâm, giữ lấy chữ đồng, Lưỡi vò cũng quén, lưỡi ong dám hề. Một ngày mấy lúc trèo non, Lấy chi mà đẹp mà dòn hỡi anh. Đôi tay vịn cả đôi cành, Quả chín thì hái, quả xanh thì đừng. GIẢI Lời rằng : Gái tham tài, trai tham sắc ; Lại rằng : Một cái nết đánh chết trăm cái đẹp. Thuận mua thì bán, biết đâu là quả chín, quả xanh. [Tờ 28b] Đào tơ sen ngó xanh xanh, Ngọc lành phải giá, gái lành đẹp duyên. Cho nên tiên kết bạn tiên, Phụng hoàng chẳng chịu đứng ghen với gà. Chim khôn lánh bẩy lánh do, Người khôn lánh chốn ô-đồ mới khôn. GIẢI Chẳng những là : Trai khôn tìm vợ, gái khôn tìm chồng mà thôi, Chọn người làm bạn, chọn chúa làm tôi mới là. Trước đường những lối vào ra, Lợi danh là bẩy, do là quyền mưu. Cam ngon quít ngọt đã từng, Còn quả khế rụng trên rừng chớ ăn. Con gà tốt mã vì lông, Răng đen vì thuốc, rượu nồng vì men. GIẢI Ngọt chua cho trải mùi đời, Một đời cũng chẳng một người làm nên. [Tờ 29a] Anh khôn mà vợ anh đần, Lấy ai đãi khách xa gần cho anh. Tiếc thay cây gỗ lim chìm, Đem chôn cột giậu, cho bìm nó leo. Bìm leo thì mặc bìm leo, Ta đạp bìm xuống, ta trèo lên trên. GIẢI Một lời gái, một lời trai, Trách duyên rồi lại mỉa mai với tình. Chữ rằng : Giai ngẩu thiên thành,94 Nào ai kén cá, chọn canh được nào. Trăng thanh nguyệt rạng mái đình, Chén son chưa cạn, sao tình đã quên. Vợ chồng là nghĩa già đời, Ai ôi chớ nghĩ những lời thiệt hơn. Vợ anh như ngọc như ngà, Anh còn tình phụ, nữa là thân tôi. Vợ anh như thể đĩa xôi, Anh còn phụ bạc, huống tôi cơm đùm. [Tờ 29b] GIẢI Bốn bài ấy, dường là bài thiếp trách chồng. Trai làng ở góa còn đông, Cớ sao em vội lấy chồng ngụ cư. Ngụ cư có lúa cho vay, Có lụa bán đầy, em lấy ngụ cư. Lấy lính thời được ăn lương, Lấy thầy ăn mốc, ăn xương chi thầy. Em đừng thấy lính mà khinh, Lãnh-binh, thống-chế, tam-đinh một dòng. GIẢI Một người một ý, ai có như ai. Nên lại có câu rằng : Chẳng tham lắm ruộng lắm trâu. Tham vì ông lão tốt râu mà hiền. Chẳng tham ruộng cả ao liền, Tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ. Thuyền dời mà bến không dời, Bán buôn là nghĩa ở đời cùng nhau. [Tờ 30a] GIẢI Ấy là thương cổ chi giao,95 Chi lan chi nghị,96thế nào biết không. Chiều chiều ra đứng bờ sông, Kẻ kéo cho chết, người không động mình. GIẢI Ấy là thuyền chài kéo lái chung. Phương ngôn rằng : Già quen việc, trẻ quen chơi, Giàu quen việc, thất nghiệp quen ăn. Việc nhà còn vậy, nữa phần việc quan. ĐỘC Thiên hạ sự vãng vãng như thử, tư ngôn tuy tiều, khả dĩ dụ đại.97 Trời mưa cho lúa chín vàng, Cho anh đi cắt, cho nàng đem cơm. Đem thì bát sứ mâm son, Chớ đem mâm gỗ, anh hờn không ăn. Bởi anh chăm việc nông công, Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài. Ngày [Tờ 30b] mùa trĩa đậu trồng khoai, Ngày ba tháng tám mới ngồi mà ăn. Kể việc làm ruộng mọi đàng, Tôi xin kể được rõ ràng ở ai. Tháng chạp là tiết trồng khoai, Tháng giêng trỉa đậu, tháng hai cấy cà. Tháng ba cày bã ruộng ra, Tháng tư bắt mạ, thuận hòa vui thay. Tháng năm cắt lúa vừa rồi, Tháng sáu mưa xuống, nước nôi đầy đồng, Tháng bảy cày cấy đã xong, Tháng tám thấy lúa tốt ròng vui thay. Tháng chín tôi lại kể nay, Bắt mạ chiêm được mới vui trong lòng. Tháng mười lúa chín đầy đồng, Cắt về đổ cót đề phòng năm sau. Tháng mười một là tiết cấy sâu, Một năm kể cả từ đầu đến đuôi. GIẢI Đây là tiết hậu nông công. ĐỘC Hà giảm Mân phong.98 [Tờ 31a] Ngọc còn ẩn bóng cây tùng, Thuyền-quyên đợi khách anh hùng vãng lai. Anh thấy em, anh cũng muốn thương, Sợ lòng bác mẹ soi gương chưa tường. Em thấy anh, em cũng muốn chào, Sợ lòng bác mẹ cây cao lá dài. Đêm qua thiếp mới hỏi chàng, Tre non đủ lá, đan sàn nên chăng ? Đan sàn thiếp cũng xin vâng, Tre non đủ lá, chưa đan được sàn. Xa đường mượn ngựa mà đi, Xin cho tốt tuổi, quản chi xa đường. Trồng hường bẻ lá che hường, Thương em chẳng quản nỗi đường xa xuôi. Muốn ăn cá cả thì thả câu dài, Kìa như miệng cá, ai hoài mà đo, Đố ai lặn xuống vực sâu, Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa. Lưỡi câu anh uốn đã vừa, Sợ lòng cha mẹ kén lừa nơi đâu. Vực sâu thì mặc [Tờ 31b] vực sâu, Kìa sâu hay cạn, nỡ đâu lo hoài. Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Em nằm cành trúc, em dựa cành mai. Đông đào tây liễu99lấy ai bạn cùng. Chàng về thì thiếp xin đưa, Xin trời đừng nắng, chớ mưa chặng đường. Em về em hỏi mẹ cha, Có cho em lấy chồng xa hay đừng. Chưa quen đi lại cho quen, Tuy rằng cửa đóng mà then không cài. Kẻ khinh người trọng vãng lai, Song le cũng chữa có ai bằng lòng. Sơn lâm mấy cội tương vàng, Cành bao nhiêu lá, thương chàng bấy nhiêu. Núi kia ai đắp nên cao, Sông kia ai đào, nước chảy cùng quanh, Cùng quanh thì mặc cùng quanh, Có về Lê-xá để anh đưa tiền. Ăn chơi cho hết tháng hai, Để làng [Tờ 32a] đóng án cho trai dọn đình. Trong thì trống đánh rập rình, Ngoài thì trai gái tự tình cùng nhau. Trèo non ước những non cao, Anh đi đò dọc, ước ao sao sông dài. GIẢI Trở lên lời trai gái hát phong tình. QUẢNG-XƯƠNG HUYỆN Trời che đất chở rộng thinh, Lò âm dương đúc nên hình người ra. Chữ tài sánh lại là ba, Gồm no thiên tánh100khác xa vật tình.101 Kẻ tài là bậc tinh anh, Sinh tri102lựa phải học hành mới hay. Vua tôi sẵn có nghĩa dày, Cha con thân lắm, đấng người nên trông. Khi ấp lạnh, lúc quạt nồng, Bữa dâng ngon ngọt [Tờ 32b] bữa dùng sớm trưa. Ở cho thỏa chí người ưa, Đền ân trả nghĩa thuở xưa bế bồng. Nhất hiếu lập vạn thiện tùng,103 Ông bồng cháu, cháu lại nên ông, Hoàng-thiên chẳng phụ tấm lòng hiếu đâu. Đàn bà phận gái làm dâu, Làm dâu ắt muốn mai sau mẹ chồng. Phải nhắm bước trước cho xong, Bước sau theo dõi, ông ông bà bà, Chữ rằng tích thiện chi gia,104 Đường kia nỗi nọ chẳng qua nợ nần. Ấy là khuyên hiếu ư thân. Lại còn một nỗi ái ân bạn bầu. Anh em cốt nhục đồng bào, Kẻ sau người trước phải hầu cho vui. Lọ là ăn thịt ăn xôi, Quí hồ ưa nết, tới lui bằng lòng. Chớ hề tranh cạnh hành hung, Chớ nên khinh dễ, dốc lòng yêu đương, Cứ trong nghĩa lý luân thường,105 Làm người phải giữ kỹ cương mới mầu. Đừng cậy khỏe chớ [Tờ 33a] khoe giàu, Trời kia còn ở trên đầu còn kinh. Trăm năm trong cõi trời chung, Trăm nghề cũng phải có công mới thành. Cứ trong gia nghiệp nhà mình, Ngày đêm xem sóc giữ gìn làm ăn. Chữ rằng tiểu phú do cần,106 Còn như đại phú là phần do thiên. Đừng dễ dãi, chớ ghét ghen, Còn nhờ lộc nước, có phen dồi dào. Người ta đi cấy lấy công, Đây tôi đi cấy còn trông nhiều bề. Trông trời trông đất trông mây, Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm. Trông cho chân cứng đá mềm, Trời thanh bể lặng mới êm tấm lòng. Chăm bề cày cấy cho xong, Rồi lên sửa việc cung công thể nào. Thi rằng : trú nhĩ vu mao,107 Lại câu : tiêu nhĩ sách đào tương liên.108 Kíp sửa nhà cửa được an, Mới ra vãi lúa ăn về mùa sau. Là hố hồ [Tờ 33b] khoan. Ta chèo cất mái hồ khoan, Thuyền rồng chúa ngự khoan khoan mái chèo. Lênh đênh duyên nổi phận bèo, Đã đành khi nước thủy-triều đầy vơi. Lộ đồ diêu viễn109xa khơi, Thuyền tình chở một mình tôi nặng gì. Chẳng dẫm thì thuyền chẳng đi, Dẫm ra mắc tiếng thị phi với tình. Khách tình lại nhớ thuyền tình. Thuyền tình lại nhớ khách tình là duyên. Hồ khoan hồ ụy, hồ khoan hồ ụy. Ăn làm vậy múa gậy làm sao ? Chưng thấp chưng cao, cho mau cho chóng. Năng khiếp năng dõng110hữu khuất hữu thân111 Cao tổ thì nhơn, Hạng-Vương thì bạo, Nhơn hiền tại mạo112trắng gạo ngon cơm. Hồ khoan, hồ ụy hồ khoan. Bông bống bồng bồng. Trai ân vua chầu chực sân rồng. Gái ân chồng ngồi võng ru con. Ân vua xem trọng bằng non, Ân chồng nhờ phúc tổ [Tờ 34a] tông dõi truyền. Làm trai lấy được vợ hiền, Như cầm đồng tiền mua được của ngon. Phận gái lấy được chồng khôn. Xem bằng cá vượt Võ-môn hóa rồng. Bông bống bồng bồng, bồng bống bồng bông. Em là con gái trẻ thơ, Em đi bán rượu tình cờ gặp anh. Rượu ngong chẳng quản ve sành, Áo rách khéo vá, hơn lành vụng may. Rượu ngon uống lắm thì say. Áo rách có chỉ vá may lại lành. Một năm được mấy mùa xuân, Một ngày được mấy giờ dần sớm mai. Em đừng cậy sắc khoe tài. Khéo thay nồi lủng cũng tay thợ hàn. Trời kia không cũng thừa càn, Nước kia Tấn cũng hợp Tần mới xong. Ngồi trong cửa sổ chạm rồng, Chăn loan gối phụng không chồng ra chi. Thi đào nghĩ chữ vu qui, Hôn nhơn lễ đặt, kịp thì yêu yêu. Trong [Tờ 34b] sông ríu rít thư cưu, Thục-nữ quân-tử hảo cừu [cầu] đẹp duyên. Tục rằng tiên lại tìm tiên, Phú lại tìm quí, bạn hiền tìm nhau. Một đời được mấy anh hùng, Một nước được mấy đức ông trị vì. Anh đừng cợt diễu em chi, Em đương chắp chỉ chọn ngày cải hoa. Tin lên thiên thượng Hằng-nga, Cậy ông Nguyệt-lão với bà Ty Vương. Chăn loan gối phụng sẵn sàng, Màn đào rủ dọc, lầu hường trải ngang. Còn đương chọn đá thử vàng, Ngọc lành ai quảy ra đàng bán rao. Quan quan bốn tiếng thư cưu, Mong người quân tử hảo cừu [cầu] kết duyên. Phấn son cho phỉ tấm nguyền, Anh hùng sánh với thuyền quyên mới tình. Phạt kha113thi ấy đinh ninh, Phỉ môi bất đắc,114xin anh liệu lường. NÔNG CỐNG HUYỆN [Tờ 35a] Nay mầng đời trị trung hưng, Giáo-văn rộng mở mặt rồng trị an. Đất thiêng khí thụy Lam-sơn, Trời sinh thánh chúa long nhan khác thường. Tiền là tiền nhật đăng quang. Hưng là hưng-phục Lê-Hoàng nghiệp xưa. Hội lành cá nước duyên ưa, Chủ ông kể cả trời đà giáng sinh. Kỷ cương là chánh Triều-đình. Nội hiến ngoại hình thêm dạng qui mô, Sáu năm một khóa làm chay, Lam-điền hương ước xưa nay lưu truyền, Trong thời tiền tạ tổ tiên, Ngoài thời mở sáng cờ tiên chơi bời. Nhi đồng ca tiếu vui thay, Vãng lai đại tiểu vận trời hiệp giao. Chúng tôi là gái tơ đào, Khoan khoan gót ngọc bước vào thềm hoa. Chúc mầng vận hội làng ta. [Tờ 35b] Nhơn khương vật phụ nhà nhà hiển vinh. Đất ta sơn thủy hữu tình, Đường đi khuất khúc như hình con long. Trên chùa, giữa chợ, dưới sông, Trông lên phong cảnh linh lung rành rành. Mười sáu pho tượng tinh anh, Dân ta mở hội khánh thành vui chơi. Trình làng khắp hết đông tây, Lặng nghe kính chúc mầng thay mười điều : Một mầng phong thổ làng nầy, Lũy triều thư kiếm đến nay ân dài, Hai mầng võ-tước văn-giai, Văn thời tấn chức, võ thời thăng quan. Ba mầng kỳ lão bình an, Lại thêm tuế nguyệt bách niên qui trù. Bốn mầng trùm thứ làng du, Lắm con nhiều cháu ai hầu dám đương, Năm mầng binh lính khương cường, Đời đời kế thế lưu trường thiên niên. Sáu mầng làng họ linh diên, Lắm con nhiều cháu, bạc tiền đề đa. Bảy mầng học sĩ quyết [Tờ 36a] khoa, Chuyên cần lập nghiệp tên ra bảng rồng. Tám mầng nông khéo vun trồng, Lắm lúa nhiều thóc để phòng hữu dư. Chín mầng công khéo họa thư, Nghiệp nghề nối dõi ấm dư muôn đời. Mười mầng thương cổ có lời, Lắm tiền nhiều bạc tứ thời bán buôn. GIẢI Đường là Lê trung hưng chi hậu, Thờ thần mở áng ân ca thái bình. Hai là trai tiếu, ba là tô tượng khánh thành. Xa thơ một mối, chăn chiếu muôn dân. Mở áng cờ trong tiết thiều-xuân, Trên sự thần, dưới hòa du thưởng. Chúng tôi dự sai làm tướng, Vâng lãnh xa lãnh mã đem binh. Một là mầng quốc thọ dân ninh, Nửa ngàn [Tờ 36b] gặp thời Đinh nhứt trị. Hai là mầng tôn thần chư vị, Lửa hương trải vạn ức niên. Ba là mầng văn võ quan viên, Văn tuấn chưởng, võ an thiên hạ. Bốn là mầng đồng dân thượng hạ, Nhà nhà đều phú thứ dinh dư. Tam dương khai thái, vạn vựng hồi xuân. Mở áng cờ ca xướng sự thần, Lãnh hổ ấn kiền thân chúc hộ. Nhứt bái chức hoàng-đồ củng cố, Tam bách niên quốc-tộ hưng long. Nhị bái chúc tuế thánh cung, Thiên vạn cổ hội đồng hưng thạnh. Tam bái chúc đồng dân phong cảnh, Hội thái-bình gia-tĩnh hưng ca. Tứ bái chúc thượng mục hạ hòa, Hồi mỹ tục gia gia hân hạnh. Long giá hạ hầu quì phụng mệnh, Tượng thiên thanh thống lãnh kỳ phu. Xuân nhàn lai cọng lạc tư du, Chánh ngưỡng lại khuông phò đại đức. Mầng [Tờ 37a] nay nho-sĩ có tài, Bút nghiên dóng giả dồi mài nghiệp nho. Rõ-ràng nên đấng học trò, Công danh hai chữ trời cho dần dần. Tình cờ chiếm đặng bảng xuân, Ấy là phú quí đầy sân quế hòe. Một mai chưng bước cống nghè, Vinh qui bái tổ ngựa xe đưa mầng. Bốn phương nức tiếng vang lừng. Ngao du bể thánh vẫy vùng rừng nho. Quyền cao chức trọng trời cho, Bõ công học tập bốn mùa chúc minh. Vui đâu bằng hội đề danh, Nghề đâu là nghiệp học hành là hơn. Công cha như núi Thái-sơn, Nghĩa mẹ như nước trên nguồn chảy xuôi. Phu nhân thì có công nuôi, Toàn gia hưởng phúc lộc trời ban cho. Nay mầng những kẻ nông phu, Kỳ cho hòa cốc phong thu bình thời. Bốn nghề nông ở bậc hai, Thuận hòa mưa gió ấy thời lên trên. [Tờ 37b] Quí hồ nhiều lúa là tiền, Rõ ràng phú túc bình yên cả nhà. Bốn mùa xuân lại thu qua, Muốn cho tiền lúa đầy nhà Hán thương. Bước sang hạ giá đông tàng, Thu thâu tiển hoạch giàu ngang Thạch-sùng. Quí nhơn cùng kẻ anh hùng, Rắp toan muốn hỏi nhà nông e dè. Thiệt thà chăm chỉ thú quê, Chuyên cần nông nghiệp là nghề đoan trang. Gặp thời là được thọ khang, Tam đa ngũ phúc rõ ràng trời cho. Mặt Nghiêu mày Thuấn hây hây, Tuổi vua kỉnh chúc cao tày Thái-sơn. Thái-sơn như lệ115lâu bền, Hoàng-hà như đái bước trên công thần. Công thần phải đạo chúa tôi, Trên thuận lòng trời, dưới đẹp lòng dân. Thong dong mở nước trị dân, Đã lắm bên võ, bên văn lại nhiều. Trời thời bửu tọa nguy nga, Kim thân ngọc [Tờ 38a] sắc thiệt là nghiêm trang. Trông lên thấy đôi bụt vàng, Phật độ cho làng được chữ gia hanh. Bước lên lại thấy đôi đình, Trông vào lại thấy tối linh rõ-ràng. Thần độ cho làng được chữ an khang, Trường sanh thiên tuế là đường, Trường sanh thiên tuế hai hàng song song. Trên chùa, trong chợ, dưới sông, Khách buôn người bán một lòng kính tin. Người thời cúng bạc cúng tiền, Viết vào trong bảng treo lên cửa chùa. Có lòng Trời Phật độ cho. Huyện Nông cao nhứt rừng Na, Tối linh vạn cổ nhứt chùa Khánh-long. Lại thèm khánh đá chuông đồng, Long-quan tại tả, hữu ông thổ-thần. Phật đà bảo hộ cho dân, Thời xin cải cựu tùng tân từ rày. Tôi xin dẫn tích chùa nầy, Đời Lê Vĩnh-Thạnh lưu truyền đến nay. Có năm Bính-Tuất lạ thay, Bính-Đinh [Tờ 38b] một hội chùa nầy phong phi. Còn nhờ lượng cả từ bi, Mười sáu vị tượng lại y như tiền. Chữ rằng hương hỏa ức niên, Nên tạc bia đá để truyền hậu lai. Đến kỳ khánh hạ kỳ an, Lại mời tổng lý huệ hoan mới là. Phần dân tươi tốt như hoa, Trạch người phú quí lương gia mỹ miều. Xin cho binh đủ hộ giàu, Sự khai binh thuế hệ đầu công sưu. Các hạng khoa nghĩ cũng nhiều, Quí hồ dân sự thuận yêu lo gì. Việc quan có phái mới đi, Quan yêu nha dấu, dân vì là hơn. Lại mầng quan lão vinh hoa, Bước lên cõi thọ thiệt là lão-lai. Hai mầng đắc thọ đắc tài, Ba mầng phú quí là hai thọ trường. Bốn mầng lịch sự vẻ vang, Năm mầng phúc hậu gia khanh dõi truyền. Ấy là ngũ lão cao niên, [Tờ 39a] Cầu bằng tuổi hạc tiếng khen giáng đình. GIẢI Chín bài trên, là sự thần phụng Phật đình áng làm vui. Từ xưa trời đất cấu tinh, Dương thư âm trưởng mới sinh ra người, Nuôi ta sinh sản nước nôi, Lại sinh lúa gạo, đủ mùi cam trân. Sắm sanh nhà cửa áo quần, Tơ, bông, tre, nứa, cỏ cây để dành. Lo ta tật bệnh để lành, Đã sinh ra thuốc, lại sinh ra thầy. Lo ta dại dột ngu si, Sinh vua sinh thánh sinh thầy sinh cha. Sinh ta rồi lại nuôi ta, Y như cha mẹ trong nhà với con. Cha sinh mẹ dưỡng ra con, Cũng như trời đất nước non không cùng. Vẫn là một khí huyết chung. Chia riêng mày mặt trong [Tờ 39b] lòng sinh ra. Báo thai chín tháng mang ta, Kiêng khem bịnh tật ai hòa chịu chung. Vượt bể đông có bè có bạn, Mẹ sinh ta vượt cạn một mình. Sinh ta mát mẻ an lành, Từ nay mẹ mới nhẹ mình không lo. Chốn lạnh ngắt để cho mẹ ngủ, Nơi ấm êm mẹ ủ con nằm. Năm canh con khóc cả năm, Ôm con mẹ chịu khổ tâm lo phiền. Khi con ấm sốt chẳng yên, Con phiền có một mẹ phiền bằng hai. Ngọn đèn chong chóng canh dài, Nghĩ thua nghĩ được có ai ngỏ cùng. Con rày đã yên lành mát mẻ, Mẹ mới lòng vui vẻ không lo. Dành riêng quà bánh nhường cho, Sắm riêng quần áo mọi đồ chiều con. Trông cho con nằm ngủ ăn ngon, Sợ còn thất ý lại còn hờn lâu. Hai ba tuổi độ hầu học nói, Tập dạy cho thưa nói [Tờ 40a] dần dần. Đến chừng biết mặc áo quần, Nuôi thầy dạy học tập văn tập bài. Kể với ai cửa nhà nghèo đói, Trông cho con theo dõi người ta. Đến ngày con bước chưn ra, Mẹ cha biết mấy thịt da tiêu mòn. Đến khi con mười lăm mười tám, Lấy vợ cho lại sắm cửa nhà. Sinh ta rồi lại nuôi ta, Cũng như trời đất sinh ra giống người. Xem cha mẹ cũng như trời, Mới là phải đạo ở đời làm con. Ta những bận vợ thương con, Thần hôn định tỉnh nào còn có đâu. Vợ con ngày tháng còn lâu, Mẹ cha ngày tháng có đâu còn dài. Tháng ngày thấm thoát như thoi, Tiền đâu chuộc đặng mà nuôi được nhiều. Cơn khống tống trời xiêu đất lở, Lời di ngôn cứ giữ gìn ta. Đinh ninh việc cửa việc nhà, Còn một hơi thở còn [Tờ 40b] là lòng thương. Mặt nhìn thoảng hồn hương lạnh ngắt, Tình mẹ cha bóng dứt từ đây. Có bao cơm dịu áo dày, Áo rày không mặc cơm rày không ăn. Tiến trân cam bày làm lễ tế, Chẳng qua che miệng thế mà thôi. Viện mà khóc kể lôi thôi, Sầu than phong mộc đoạn rồi như không. Trời cao đất rộng chẳng cùng, Khi nào lại thấy âm dung trở về. Xin người hiếu tử gắng khuyên, Kịp thời nuôi nấng cho toàn đạo con. Kẻo khi sông cạn đá mòn, Phú nga phú uất có còn ra chi. Anh em một khí huyết sinh, Cũng như người có tay chưn khác gì. Ai ai lấy đó mà suy, Có câu đường-đệ trong thi để truyền. Đã sinh ra kiếp ở đời, Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn. Gái thời trinh tịnh lòng son, Sớm hôm gìn [Tờ 41a] giữ kẻo còn sót sai. Trai lành gái tốt ra người, Khuyên con trong bấy nhiêu lời cho chuyên. Trời sinh ra đã làm người, Hay ăn hay nói hay cười hay chơi. Khi ăn thì phải lựa mùi, Khi nói thì phải lựa lời chớ sai. Cả vui chớ có vội cười, Nơi không lễ phép chớ chơi làm gì. Trời cao đất rộng thanh thanh, Cái đường phú quí còn dành cho ta. Có công mài sắt những là, Khi nhờ lộc nước rồi ra dồi dào. Công nợ của có là bao, Ra tay tháo vác thế nào cũng xong. Trời cao bể rộng bao la, Việc gì mà chẳng phải là việc ta. Trong việc nhà, ngoài thời việc nước, Giữ làm sao sau trước vẹn toàn. Lọ là cầu Phật cầu Tiên. Trời thu vừa gặp tiết lành, Muôn dân an khỏe thái bình âu [Tờ 41b] ca. Muốn cho an nước an nhà, Một là đắc hiếu hai là đắc trung.