" Tết Ở Làng Địa Ngục 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tết Ở Làng Địa Ngục Ebooks Nhóm Zalo Tất cả nhân vật, tình tiết trong tác phẩm này đều là giả tưởng (hư cấu), dựa trên những câu chuyện dân gian mang màu sắc hoang đường, huyền bí, phản ánh thế giới quan xưa cũ của người Việt cổ và một số dân tộc Á Đông. MỞ ĐẦU Thương em, anh cũng muốn vô Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông nhà Hồ, nội tán cấm nghiêm. Cho đến tận bây giờ, nhiều người dân ở miền Trung nắng gió vẫn còn thuộc lòng những câu thơ ấy. Nghe qua có vẻ đơn giản, nhưng chẳng mấy ai biết được rằng đằng sau những câu thơ đó lại ẩn chứa khoảng ký ức về một thời kỳ kinh hoàng. Truông nhà Hồ trước đây vốn nằm tiếp giáp với hai châu Địa Lý và Minh Linh, nay thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình. Thuở trước, nơi đây vốn là một vùng đất hoang vu hẻo lánh, cây cối bạt ngàn, cỏ mọc cao quá đầu người. Nhắc đến truông nhà Hồ, người dân quanh vùng đều run rẩy sợ hãi. Cái họ sợ không phải là bãi đất hoang sơ, cỏ mọc um tùm nhiều rắn rết. Thứ làm cho họ khiếp đảm thực sự chính là sào huyệt của một băng cướp nguy hiểm, dân gian quen gọi với danh từ thảo khấu. Câu chuyện xảy ra vào thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, khi ấy truông nhà Hồ nổi lên như một địa danh khét tiếng. Hễ cứ ai đi qua đó thường bị bọn cướp bắt bớ, giết chóc, trấn lột của cải, đòi tiền mãi lộ. Một ngày nọ, có gia đình buôn tơ lụa người miền ngược đi ngang qua, nhân khẩu cũng phải lên đến hơn trăm người đều bị bọn cướp giết sạch, rồi tẩu tán đồng tơ lụa đi khắp nơi. Người ta kể lại rằng, hơn trăm mạng người của gia đình buôn tơ lụa bị giết hại một cách dã man, người bị chém lìa đầu, người bị đâm thấu tim, lại có người bị đâm lòi bụng. Sau cơn giết người tàn bạo ấy, máu nhuộm đỏ cả đất, đứng cách xa mấy dặm đường vẫn còn ngửi thoang thoảng mùi máu tanh. Đám cướp cạn chém giết gần hết gia tộc nọ, nhưng nghe đâu còn sót lại người vợ đang mang bầu của ông chủ buôn tơ. Không ai có thể hiểu nổi làm thế nào mà một người đàn bà bụng mang dạ chửa lại có thể trốn thoát. Dân trong vùng suy đoán, có thể thị đã lẩn trốn vào đám lau sậy um tùm, rồi ẩn nấp ở đó chờ đám cướp rút lui mới tìm đường thoát. Chẳng rõ người đàn bà bụng chửa ấy đã đi đâu, cứ như thể thị đã tan biến khỏi mặt đất. Từ sau vụ cướp đẫm máu ấy, danh tiếng của truông nhà Hồ cứ như thế lớn dần, không còn ai dám qua lại nơi đó nữa. Phần vì sợ cướp, phần vì lời đồn đại những bóng ma màu trắng toát bay phất phơ qua lại trên ngọn cây, mặt nước vào những đêm mưa gió. Dân trong vùng bảo rằng đó là oan hồn của đại gia đình buôn tơ lụa bị bọn cướp giết ngày nào. Lúc bấy giờ có một vị quan nội tán triều Nguyễn tên là Nguyễn Khoa Đăng, nổi tiếng thông minh, tài giỏi. Quan nội tán biết được mối lo sợ của dân chúng, ông bèn tìm cách dẹp tan băng cướp lộng hành. Đêm hôm ấy, trời tối như hũ nút, không có ánh trăng soi chiếu như mọi khi, quan cho xe chở lúa và hàng hóa chạy qua truông. Trong xe, ông bố trí một người lính ngồi trong thùng và rải lúa ra dọc đường. Nhờ có dấu lúa rải này mà quan nội tán tìm được sào huyệt của bọn cướp, quan quân triều đình tràn vào bắt gọn. Bọn cướp tháo chạy, nhưng đa phần bị quân triều đình bắt giữ giải về kinh chịu tội. Băng cướp tan rã, cái họa truông nhà Hồ cũng chẳng còn, từ đó dân chúng qua lại truông được yên bình. Đám cướp tan rã, chỉ còn hơn chục người còn lại kịp chạy thoát thân. Những người ấy không phải là kẻ đầu sỏ, mà chỉ là những tên sai vặt. Đám người ấy có già, có trẻ, có trai, có gái, họ chạy thoát nhờ chui vào giếng, trốn vào bụi cây um tùm nhằm tránh khỏi sự truy bắt của quan quân triều đình. Sào huyệt để ẩn náu không còn, mọi thứ vũ khí, của cải cướp được đều bị thu giữ, hơn mười người còn sót lại quyết định di chuyển về thành Thăng Long. Người ta không thể lý giải vì sao mà tàn dư của băng cướp có thể vượt quãng đường dài đằng đẵng từ truông nhà Hồ đến tận kinh thành. Chỉ biết rằng khi đám người đi đến kinh thành thì gần như kiệt sức. Dân trong thành thấy diện mạo của họ có phần lạ kỳ, mái tóc bạc phơ, quần áo rách rưới, cả người toát ra vẻ lạnh lẽo u ám như vừa từ dưới âm ty địa ngục chui lên, bèn ra sức xua đuổi. Sống giữa chốn phố thị không được, họ đành di chuyến về một vùng đất hoang vu, quanh năm mây mù giăng phủ, cách Thăng Long gần hai trăm dặm. Rặng núi nơi họ dừng chân gần như chẳng có bóng người, quanh năm thời tiết lạnh lẽo, sương mù giăng khắp nơi, thú dữ thường xuyên qua lại. Đám cướp quyết định dừng lại nơi đây, an cư lạc nghiệp, dựng nhà dựng cửa, dùng dao phạt bớt cây cối, đào một cái hố để hứng nước mưa, tìm kế sống qua ngày. Họ thành lập một ngôi làng nho nhỏ với vỏn vẹn hơn chục nhân khẩu, sống quây quần bên nhau để xa lánh người đời. Bất cứ ngôi làng nào ở nước Việt cũng đều có tên, thế nhưng ngôi làng nhỏ đìu hiu nằm sâu trong rừng thì đến cái cổng làng cũng chẳng có, huống chi là đặt một cái tên đúng nghĩa. Để đến được ngôi làng này, người ta phải đi năm vạn bước chân và trèo hàng chục dốc núi. Con đường mòn từ cửa rừng đi đến gần ngôi làng dài heo hút, càng vào sâu lối đi càng chật hẹp. Đi sâu vào rừng là đường lên núi, dốc núi dựng đứng, cứ khoảng vài chục bước chân là đến một con dốc. Ven đường đầy rẫy những cái cây cao vút, thân cây to đến nỗi người lớn ôm không xuể. Ai vô tình lạc vào đây mà không đánh dấu trên những thân cây thì chắc chắn bị lạc, rồi sẽ chết vì đói khát, thú rừng xơi tái, hoặc nguy hiểm hơn là chết bất đắc kỳ tử bởi những u linh nơi rừng thiêng nước độc. Nơi đó tưởng chừng như chẳng ai có thể sống được, ấy vậy mà hơn chục người của băng cướp vẫn sống, họ sinh con đẻ cái, dần dần thành một ngôi làng nhỏ sâu bên vực núi thăm thẳm. Người ta tự mặc định cho ngôi làng mình đang sống là chốn địa ngục giữa trần gian. Làng Địa Ngục hiện lên bảng lảng trong sương mù che phủ, tựa hồ một tàn tích bị bỏ hoang từ lâu lắm. Dân làng sống trên núi, ấy thế mà phong tục của làng lại tuân theo bản sắc của làng quê phong kiến Bắc Bộ. Người ta cũng đón Tết cổ truyền vào ngày đầu năm, cũng dựng cây nêu để trừ quỷ, cũng ngồi quây quần bên nồi bánh chưng và nhâm nhi chén rượu nồng. Có giả thuyết cho rằng băng cướp khi xưa vốn có gốc gác từ làng An Biên (Hải Phòng ngày nay), cho nên những người còn sót lại sinh hoạt theo dân xứ Bắc cũng không có gì lạ. Cái Tết đối với người dân nước Việt từ cổ chí kim đã quan trọng, thế nhưng với người làng Địa Ngục lại càng ý nghĩa hơn bội phần. Bởi lẽ đây là thời điểm người trong làng ngồi quây quần với nhau, được tận hưởng bầu không khí hân hoan trong tiết trời lạnh lẽo. Chuỗi ngày quỷ dị kinh hoàng ở làng Địa Ngục cũng bắt đầu vào một ngày giáp Tết lạnh đến cắt da cắt thịt như thế. HỒI 1 TÁO QUÂN BÁO MỘNG Tết năm ấy dường như đến sớm, mới đầu tháng Chạp mà mấy cây hoa đào trước làng đã bắt đầu nở rộ. Ngôi làng kỳ thực không lớn lắm, từ con đường nhỏ đi vào là có thể nhìn thẳng đến cuối làng, nơi có những mái nhà tranh xiêu vẹo, làn khói nhà ai nấu nướng bốc lên nghi ngút. Người dân trong làng vốn sống biệt lập với bên ngoài, mọi thứ đều do họ tự cung tự cấp. Đàn ông trong làng ngày ngày vào rừng đặt bẫy thú, đàn bà dệt vải, trồng trọt cây trái quanh nhà. Sương mù quanh năm giăng lối, khí trời lạnh lẽo lại vô tình biến nơi đây thuận lợi hơn trong việc trồng trái cây, rau củ. Đáng lẽ ra cuộc sống của người làng Địa Ngục cứ trôi qua trong yên bình như thế, nếu không có vụ án bí hiểm năm ấy. Ông Thập làm trưởng làng tính ra cũng ngót nghét chục năm ròng. Triều đình vốn không biết đến sự tồn tại của làng Địa Ngục, thế nên bộ máy chính quyền quản lý của làng không phải là lý trưởng, cai lệ, trương tuần. Người có uy quyền lớn nhất chính là trưởng làng, nói cụ thể hơn là ông Thập. Sở dĩ ông có được cái chức trưởng làng là bởi ông là người duy nhất có thể mang hàng hóa của dân trong làng, băng rừng, trèo đèo lội suối đi xuống dưới xuôi để bán. Đổi lại ông cũng mua thuốc men, gạo, muối đem về cho dân. Việc ấy tưởng chừng đơn giản, ấy thế mà nhiều người trong làng lại chẳng mấy ai thành công trót lọt. Người thì bị lạc đường, người thì bị rơi xuống hố mất hết hàng hóa, thậm chí có người bị rắn độc cắn chết ở dọc đường. Chỉ duy nhất ông Thập làm giao thương trót lọt. Thời trước thì có cha và bà nội của ông có thể vượt dốc băng rừng. Ấy thế nhưng việc trao đổi hàng hóa diễn ra cũng hết sức ít ỏi. Một tháng chỉ có vài ngày họp chợ, xem ra cũng giống như chợ phiên của đồng bào miền ngược, chỉ có điều phiên chợ mà làng Địa Ngục cử người tham gia lại toàn người Kinh mà thôi. Phải đến thời ông Thập thì việc giao thương mới trở nên đều đặn hơn. Ấy là vì ông Thập có sức vóc, lại thông thạo nhiều loại tiếng địa phương, ông còn được bà nội dạy cho ít tiếng Tàu nên buôn bán thuận lợi, tiền bạc cũng nhiều hơn hẳn. Bản thân ông Thập cũng là người thật thà, uy tín. Nếu có thể giúp được ai cái gì, ông đều chẳng nề hà, thành ra dân trong làng ai nấy đều quý mến ông, họ đồng lòng tôn ông là trưởng làng, mọi việc trong làng từ ma chay, cưới hỏi đều do ông chủ trì. Ông Thập có một người vợ tên là bà Lim, nhưng chẳng ai gọi tên thật của bà, người ta quen gọi tên vợ theo tên chồng rồi thêm chữ “thị” đằng trước, tức là thị Thập. Hai ông bà ăn ở với nhau hơn chục năm, quen biết nhau từ nhỏ, cũng được gọi là bạn thanh mai trúc mã. Gia đình ông Thập tuy không bề thế như lý trưởng, cường hào ở dưới xuôi, nhưng cũng gọi là có của ăn của để. Chỉ duy có một điều khiến ông Thập băn khoăn, đó là ông bà vẫn chưa có người nối dõi. Ông lo lắng lắm, dù gì thì ông cũng ngót nghét tứ tuần rồi, vợ ông cũng chẳng còn trẻ trung gì nữa. Chính vì thế mà lần nào mang hàng xuống dưới xuôi, ông cũng đều đi xem bói. Thăng Long có thầy bói nào nổi tiếng ông cũng tìm đến cho bằng được. Người thì kêu ông phải làm lễ thật to để thấy giải hạn, kẻ khác lại bảo ông phải mang thật nhiều tiền đi công đức cho thầy mới mong có mụn con, nếu mà là con trai thì càng tốt. Ai nói gì ông Thập đều làm theo, thế nhưng chẳng có tiến triển gì. Vợ chồng ông Thập lấy làm rầu rĩ lắm. Tháng Chạp năm ấy lạnh cắt da cắt thịt, mới đầu tháng ông Thập đã gánh hàng xuống dưới xuôi để đem bán. Gần Tết rồi, thứ gì cũng đắt đỏ cả. Ông không mang theo rau củ, nông sản như mọi khi, mà lần này trong cái bao của ông toàn vải là vải. Ông Thập bày vải lên trên cái sạp nho nhỏ đan bằng mấy đọt tre còi cọc rồi ngồi ở đầu chợ, chẳng mấy chốc đã hết veo. Ông đang chuẩn bị đi về thì chợt thấy có một ông già bẩn thỉu lết lại gần xin ăn. Nhìn ông già ăn mày thật tội nghiệp, hai tay và gương mặt lở loét bốc mùi hôi thối, đôi chân cụt đến đầu gối, ông già lết lại gần ông Thập, vừa thều thào vừa khóc: “Con lạy ông! Ông làm ơn làm phúc bố thí cho con. Bốn ngày nay con chưa có gì vào bụng cả, con đói lắm ông ơi.” Ông Thập động lòng thương, liền cúi xuống gần cụ già hỏi thăm: “Cụ gọi tôi là ông như thế, tôi tổn thọ mất. Trời rét thế này mà cụ vẫn đi xin ăn sao?” “Đói thì đầu gối phải bò thôi ông ơi. Con đi đến đâu người ta cũng xua đuổi.” Ông già vừa nói, vừa kèm theo một tràng ho rũ rượi. Ông Thập thở dài, ông lôi từ trong túi áo ra một ít tiền, lại lấy từ trong gùi ra cái bánh chưng đã lạnh ngắt. Ông dúi tất cả vào tay của ông cụ rồi nói: “Tôi chỉ có từng này. Cụ cầm lấy, chắc cũng mua được vài bữa. Còn cái bánh chưng thì xin biếu cụ xơi.” Ông cụ già run run cúi đầu cảm tạ ông Thập. Dường như ông cụ còn muốn nói thêm điều gì nữa, thế nhưng không thể cưỡng lại được sức hút của cái bánh trên tay, ông cụ bóc vội vàng lớp lá bọc bên ngoài rồi ăn lấy ăn để. Ông Thập lắc đầu, ông vác cái gùi lên lưng, rồi rảo bước về làng. Đi được mấy bước chân, ông Thập bất giác quay lại nhìn ông lão ăn mày nọ. Lão ngẩng đầu nhìn ông Thập, đôi mắt đục ngầu vằn lên những tia máu trông giống như mắt của loài thú dữ. Làn da xám ngoét của lão đầy những vết đồi mồi, cả người toát ra một mùi tanh khó tả. Ngửi thoáng qua thì thấy giống mùi tanh của cá, ngửi kĩ hơn thì là mùi máu tanh nồng nặc. Trong một thoáng chốc, ông Thập thấy lão ăn mày giống như một con quỷ. Thế nhưng, ông tặc lưỡi cho rằng mình nghĩ như thế là có tội với người ta, ông khoát tay chào ông cụ rồi bước đi. Trời sẩm tối thì ông Thập cũng về gần đến làng. Nhiều khi chính bản thân ông cũng không hiểu, vì sao tổ tiên của dân làng - tàn dư của băng cướp năm nào - lại chọn vùng núi hoang vu hẻo lánh, đầy tà ma này để làm chỗ dừng chân. Người dân xung quanh vùng ai cũng biết đến rặng núi heo hút, quanh năm sương phủ trắng như một lớp màn bằng bạc bao bọc. Mỗi khi trời tối, từng bầy đom đóm bay quanh làng càng khiến cho khung cảnh thêm phần rùng rợn. Đối với đám văn nhân nhã sĩ suốt ngày ngâm vịnh thơ ca, bầy đom đóm tựa như những ngôi sao trên mặt đất. Thế nhưng người làng Địa Ngục tin rằng, mỗi một con đom đóm đều chở trên lưng chúng những vong hồn chưa siêu thoát. Đom đóm càng nhiều chứng tỏ càng có nhiều vong hồn lảng vảng quanh đây. Người ta biết rõ tổ tiên của làng đã từng là một băng cướp khét tiếng, giết chóc vô số người vô tội. Nhất là vụ thảm án giết chết hơn trăm mạng người của gia đình tơ lụa năm nào. Có đôi lúc người ta tự hỏi, liệu những vong hồn chết oan uổng của gia đình buôn tơ lụa ấy đã siêu thoát chưa? Hay là vẫn còn lẩn khuất ở đâu đó chờ đợi thời cơ giết hết con cháu của băng cướp năm nào để trả món nợ máu? Người làng Địa Ngục lớn lên với nỗi sợ lơ lửng trên đầu. Dù chẳng ai nói ra, nhưng cả làng đều cho rằng hàng trăm con đom đóm bay qua bay lại trong làng, bậu trên những bệ cửa xiêu vẹo, phát sáng lập lòe trong đêm tối chính là hàng trăm vong hồn đang chầu chực lấy mạng người làng Địa Ngục. Thói đời thật lạ, thứ gì không giải thích được thì người ta trốn tránh. Trời vừa chập tối là người làng đóng chặt cửa, chỉ dám ở trong nhà, thậm chí còn không dám ló mặt trong ra ngoài cửa sổ, bởi họ sợ một con đom đóm nào sẽ đến và câu mất hồn vía của họ đi. Thực hư thế nào thì chẳng ai rõ, chỉ nhớ rằng ngay từ bé ông Thập đã được bà nội dặn đi dặn lại: “Không được ra khỏi nhà vào nửa đêm, cũng không được để cho đom đóm đậu lên người. Coi chừng… coi chừng bị câu hồn đi mất!” Nhắc đến bà nội ông Thập là nhắc đến một con người kỳ dị. Cụ bà vốn là con của cặp vợ chồng nấu bếp trong băng cướp, nói đúng hơn thì cha làm đầu bếp, mẹ làm thầy cúng. Người ta vẫn nói, phàm những kẻ càng làm việc ác lại càng mê tín. Bọn cướp giết chóc nhiều nên chúng có sẵn một bà đồng chuyên lo chuyện cúng giỗ, và nhất là trấn yểm cho những oan hồn đã bị chúng đoạt mạng. Người đó chính là mẹ của cụ bà. Ngày quan quân triều đình nhà Nguyễn quét sạch băng cướp trừ họa cho dân, cha mẹ cụ chỉ kịp cầm một con dao chọc tiết lợn phòng thân dẫn đứa con gái trốn dưới cái giếng cạn, sau đó phủ rơm rạ lên trên. Quan quân lục soát thấy không còn ai liền lục tục kéo nhau rời đi. Sau này, gia đình họ tụ hợp cùng với chục người khác rồi mới tính đến chuyện di tản. Những ngày rời truông nhà Hồ phiêu bạt tới kinh thành, không ai rõ đám người ấy đã trải qua những gì, chỉ biết cả đoàn khi về đến Thăng Long thì tóc ai nấy đều bạc trắng. Người già lo lắng nhiều lại thêm lao lực nên bị bạc tóc đã đành, thế nhưng ngay cả người trẻ tuổi và mấy đứa nhỏ cũng bị bạc trắng tóc thì quả thật là một chuyện lạ đời. Chẳng trách dân trong kinh thành lại xem họ như quỷ vừa mới chui từ dưới địa ngục lên dương gian. Bà nội của ông Thập khi lớn lên trở thành thiếu nữ, lấy chồng, sinh con rồi đến khi về già mái tóc cũng bạc trắng như vậy. Năm ông Thập mười tuổi thì cụ bà mất sau một trận ốm đột ngột. Ngày hôm ấy cũng là lần đầu tiên ông Thập băng rừng, vượt dốc xuống ngôi làng dưới chân núi chơi. Cả ngày ông lang thang ở khu chợ, ngắm đủ thứ đồ chơi, quà bánh đầy màu sắc, lại bị cuốn vào xem trận chọi gà. Khi ông Thập giật mình nhớ ra phải về làng thì trời đã xế chiều, mặt trời dần xuống núi. Trời tối, khu rừng càng trở nên đáng sợ. Ông Thập rùng mình trước viễn cảnh phải băng rừng một mình trong đêm hôm, thế nhưng với một đứa trẻ vừa tròn mười tuổi thì nỗi sợ ấy chẳng là gì so với trận đòn roi của cha mẹ. Ông ba chân bốn cẳng chạy về ngọn núi, nhằm thẳng hướng con dốc ngoằn ngoèo. Trời mùa đông nên tối rất nhanh, ánh sáng leo lét của mặt trời không soi rọi được qua tầng tầng lớp lớp phiến lá âm u trong rừng. Ông cầm chặt chiếc đèn lồng nhỏ xíu trong tay, bước thấp bước cao đi trên con đường nhỏ trơn tuột. Màn đêm buông xuống, tiếng chim lợn vang vọng khắp rừng, kèm theo đó là tiếng lá cây xào xạc càng khiến cho khung cảnh trở nên rùng rợn. Ông bước từng bước nhỏ, ngọn lửa trong chiếc đèn lồng chẳng thể nào soi rọi con đường dưới chân, nhưng ít nhất thứ ánh sáng leo lét đó cũng làm ông vững dạ thêm mấy phân. Đi được nửa đường, ông Thập nhìn thấy lác đác trong khoảng tối trước mặt có ánh sáng lập lòe của mấy con đom đóm. Ông mừng lắm, bụng bảo dạ: “Thế là sắp tới nhà mình rồi.” Ông rảo bước nhanh hơn, bất chấp cái lạnh, cái đói và cả khung cảnh rợn ngợp của khu rừng như muốn nuốt chửng lấy mình. Đột nhiên, một cơn gió đem theo hơi nước lạnh buốt từ đâu thổi tới, làm ngọn lửa trong đèn lồng tắt ngóm, xung quanh tối đen như mực, bầy đom đóm bay qua bay lại càng lúc càng nhiều hơn. Ông Thập run run sợ hãi, rón rén đi chầm chậm về phía trước. Tiếng chim lợn kêu dồn dập, tiếng gió thổi vù vù nghe như tiếng rít của con quái vật nào đó từ xa vọng lại. Bỗng dưng, ông Thập nghe thấy tiếng ai đó gọi tên mình. “Thập! Thập ơi!” Ông quay ngoắt lại phía sau, thế nhưng không có ai đó. Nghĩ là mình nghe lầm, ông Thập lại bước tiếp, tim đập thình thịch, mồ hôi túa ra như tắm, ướt đẫm vạt áo phía sau lưng. Vừa đi được vài bước, tiếng gọi lại vang lên. “Thập ơi! Thập!” Điều quái dị là lần này tiếng gọi không mang thanh âm u trầm của một người đàn ông, mà là giọng của một đứa con nít nào đó. Vừa gọi dứt lời, đứa nhỏ cười khành khạch. Ông Thập hoảng lắm, ông lấy hết can đảm bước thật nhanh về phía trước, trong đầu khấn vái trời Phật. Cứ đi được vài bước chân, tiếng gọi tên ông lại liên hồi vang lên. Lúc thì là tiếng của một bà cụ già, lúc lại là tiếng của một người phụ nữ, rồi nhiều khi tất cả tiếng gọi vang lên cùng một lúc, hòa lẫn với điệu cười khành khạch vang vọng giữa rừng đêm. Điều dị thường nhất là dù giọng nói đàn ông hay đàn bà thì đều văng vẳng như từ cõi âm ty vọng về. Ông Thập thở dồn dập, chân bước đi như chạy. Trời tối, đường lại trơn, chỉ cần sơ sẩy một chút là ông ngã xuống vách núi bất cứ lúc nào. Ông một tay cầm chặt cái đèn lồng dù nó đã tắt ngóm, tay còn lại đặt trước ngực như để tăng thêm phần can đảm cho chính mình. Giữa núi rừng hoang vắng, một đứa nhỏ mười tuổi mò mẫm đi trong đêm tối mịt mùng, xung quanh đầy rẫy những u hồn vất vưởng mà mắt thường chẳng thể nào nhìn thấy. Trời đổ mưa lâm thâm, những hạt mưa xuân như bụi bay tràn ngập cả không gian, dù đã được tán cây rừng che phủ ít nhiều nhưng mưa vẫn bay lất phất. Cái lạnh, cái đói, và nhất là cảm giác sợ thót tim khiến cho ông Thập ngã gục xuống phía trước, giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống gò má. Đúng lúc ấy, ông nghe thấy một giọng nói quen thuộc. “Thập ơi! Có phải Thập đấy không?” Ông giật mình ngước lên, ngay lập tức ông nhận ra đó là giọng nói của bà nội. Ông ráng sức hét lớn: “Bà! Bà ơi! Con ở đây.” Bà nội ông lại gần, tay cầm một cái đèn lồng màu trắng toát bay bay trong làn mưa bụi. Cụ bà cúi xuống đỡ lấy ông rồi chép miệng: “Giời ơi! Cháu tôi. Bà đã dặn mày không được đi ra ngoài khi trời tối cơ mà!” Ông Thập không trả lời. Giây phút bà nội vừa chạm vào người, ông thấy lạnh buốt. ‘Tại sao tay bà nội lại lạnh ngắt thế nhỉ?’ Ông thầm nghĩ. Thế nhưng suy nghĩ đó thoáng nhanh qua đầu ông, có bà nội ở đây rồi, ông chẳng còn sợ hãi nữa. Bà nội kéo ông đi phăm phăm trên con đường nhỏ, vừa đi bà vừa lẩm bẩm: “Phải về nhanh! Phải về nhanh! Nếu không là không còn kịp nữa.” Ông Thập ngây thơ hỏi: “Không còn kịp cái gì nữa hả bà? Hình như sắp về đến làng rồi mà.” Cụ bà nói nhỏ, giọng thều thào như hụt hơi: “Còn xa lắm, phải về kịp, phải về kịp.” Ông Thập nghe bà nói nhưng rõ ràng không hiểu gì, nên đành im lặng, tay bám chặt lấy khuỷu tay gầy nhẳng của bàn chân bước đi thật nhanh. Bà cụ đi nhanh đến nỗi một thằng bé mười tuổi như ông Thập lúc ấy cũng phải nhanh chân mới đuổi kịp. Vừa chạy theo bà, trong lòng ông Thập càng cảm thấy kỳ lạ. Bởi lẽ ngày thường cụ bà vốn bị bệnh xương khớp rất nặng, chẳng thể nào đi nhanh được. Vậy mà đêm nay, cụ bà như lướt bay trên mặt đất. Mải suy nghĩ, hai bà cháu đã về đến trước cổng làng lúc nào không hay, từ đằng xa ông Thập đã nhìn thấy những ô cửa sổ sáng đèn, chứng tỏ người làng vẫn chưa đi ngủ. Càng lạ hơn nữa khi ông thấy bầy đom đóm đêm nay bay qua bay lại ở làng đặc biệt nhiều, chẳng lẽ có chuyện gì đó bất thường xảy ra? Ông Thập buông bàn tay đang níu vạt áo bà nội, chạy ào vào để tìm mẹ. Ông chạy vụt qua hàng rào nơi có cây hoa đào đang nhú mầm non giữa đêm cuối đông đầu xuân rét mướt. Vừa chạy ông vừa la lớn: “Mẹ! Mẹ ơi!” Trong gian nhà ông Thập khi ấy đang sáng đèn. Cha mẹ ông ngồi phủ phục trước giường của bà nội, tấm màn bằng vải mỏng giăng kín, khói hương bay nghi ngút, cả hai người mắt đỏ hoe. Vừa thấy con, bà mẹ vội ôm chầm lấy, nói với giọng hốt hoảng: “Thập! Mày đi đâu mà mẹ tìm mãi không được? Mẹ cứ sợ là…” Ông Thập quên cả đói cả lạnh, ông ngây thơ đáp: “Con đi chơi! May mà bà nội tìm thấy con, bà đưa con về đây đấy.” Lúc bấy giờ, cha mẹ ông sững người, cả hai nhìn nhau với vẻ hoang mang đến cực độ. Cha ông run run lên tiếng: “Mày… mày… mày nói gì vậy hả con? Ai… ai đưa mày về?” “Bà nội đưa con về thật mà thầy. Con đang đi giữa đường thì gặp bà nội cầm đèn lồng đưa con về. Bà đi đằng sau ấy.” Vừa nói, ông Thập vừa ngoái ra đằng sau để chỉ cho cha mẹ mình thấy. Thế nhưng, cánh cửa trước sân vẫn mở he hé như lúc ông chạy vào. Ngoại trừ cây đào cổ thụ trước sân thì chẳng có lấy một bóng người. Ông Thập lấy làm ngạc nhiên quá, vì rõ ràng vừa nãy chính ông còn đang bám tay bà nội mình cơ mà. Ông quay qua nói với mẹ: “Thầy mẹ phải tin con! Rõ ràng con vừa đi với bà về mà!” Cha ông Thập khẽ đưa vạt áo chùi nước mắt, ông nói nhỏ: “Không phải thấy mẹ không tin con. Mà là… bà nội… bà nội con mất rồi… Mất lúc giờ Thân.” Ông Thập bàng hoàng cả người. Sống mũi ông bắt đầu cay cay, ông vùng khỏi vòng tay mẹ, chạy vào giường bà nội rồi vén tấm màn lên. Bà nội ông nằm đó, im lìm, nét mặt thanh thản, hai tay cụ bà đan vào nhau, đặt ngang bụng như người đang nằm ngủ. Đêm hôm ấy, cả làng Địa Ngục mất ngủ vì tiếng một thằng nhóc mười tuổi khóc. Ban đầu nó gào khóc nức nở, một lúc sau dường như mệt quá nó khóc nỉ non, sụt sùi. Nó kêu trả bà nội về cho nó, rồi nó ngồi phục trước giường của bà nội nhìn đăm chiêu, thỉnh thoảng lại buông một tiếng thở dài hệt như một ông cụ non. Sau cái đêm định mệnh ấy, dường như ông Thập trở thành một người khác hẳn. Ông chẳng còn thích thú chơi với đám bạn bè đồng trang lứa nữa, mà ngày nào cũng đi bộ xuống dưới chân núi, rồi lại quay ngược trở về. Mùa hạ cũng như mùa đông, trời nắng cũng như trời mưa, ông Thập băng rừng, vượt suối, cha mẹ cần thế nào cũng không được. Người làng bảo ông bị điên, muốn đi lại cung đường hiểm trở ấy để tìm gặp lại vong hồn bà nội đã khuất. Cũng có người bảo ông Thập hối hận vì đã mải chơi, lạc đường để rồi không thể nào gặp bà lần cuối. Lý do cuối cùng là gì thì không ai rõ, chỉ biết rằng số lần xuống núi của cả làng cộng lại cũng chẳng bằng ông Thập. Hơn một năm sau ngày mất của bà, ông Thập là người duy nhất trong làng biết tổng cộng sáu lối đi khác nhau để vượt dốc, băng rừng tiến vào làng Địa Ngục. Mãi sau này ông mới được một bà thầy bói lừng danh ở đất Thăng Long nói cho hay, cái đêm hôm ấy bà nội ông cứ lẩm bẩm phải về kịp giờ là bởi cụ bà sợ lỡ mất con đò chở vong. Cho đến tận bây giờ, ở nhiều vùng đất Việt vẫn tồn tại quan niệm rằng người chết nếu không muốn làm ma đói, ma chết dọc đường thì phải lên kịp chuyến đò chở vong hồn về âm ty địa ngục. Vốn là người sống trên núi, quanh năm chỉ đọc đi đọc lại những cuốn sách hiếm hoi do bậc cha ông trong làng truyền lại, cho nên ông Thập dường như chẳng hiểu biết gì về những phong tục lạ đời ấy. Cũng có thể ngày ấy ông còn nhỏ dại quá, bà nội và cha mẹ ông cũng không tiện nói. Ngẫm ra cũng đúng, ai lại mang chuyện cô hồn bóng quế đi kể với trẻ con bao giờ. Câu chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, ấy vậy mà nhiều khi nghĩ lại cứ ngỡ như vừa mới hôm qua. Ông Thập khẽ xốc lại cái gùi mây trên vai, đoạn lấy mu bàn tay dụi dụi vào đôi mắt. Hôm nay trời cũng nhiều sương mù hệt như cái đêm bà nội ông mất, cũng là đêm mà ông lần đầu tiên cảm nhận rõ vong hồn của những người đã chết. Mà đâu chỉ là vong của bà nội, còn có vong hồn của những người không kịp lên chuyến đò nên đành vảng vất nơi rừng thiêng nước độc. Những giọng nói gọi tên ông năm nào chẳng phải là của những vong hồn không nơi nương tựa đó hay sao? Khi ông Thập về đến làng thì trời đã nhá nhem tối. Bây đom đóm có vài con bay lượn lờ quanh mấy bụi cây. Nhà ông nằm giữa làng, chẳng có cửa lim cũng không có sập gụ, thế nhưng trước cửa lại có hai cây đào cổ thụ cao vút. Cứ mỗi độ xuân về, hai cây đào lại bung nở những đóa hoa màu hồng phơn phớt. Nhiều gia đình trong làng cũng trồng đào trước cổng, nhưng luận về cây lớn nhất, đẹp nhất thì vẫn phải kể đến hai cây đào trước cửa nhà ông Thập. Nhiều người làng vẫn bảo nhau rằng nếu không có hoa đào trước sân thì ngôi làng này chẳng giống nơi có người sống, mà giống y như cái tên gọi của làng vậy. Sau bữa cơm, ông Thập đi nằm. Thường ngày ông sẽ đi ngủ ngay, vì quãng đường dài dặc khiến ông thấm mệt. Thế nhưng đêm nay, không hiểu sao nằm trên giường mà ông thao thức trằn trọc. Đôi mắt đỏ ngầu, làn da nhợt nhạt như người chết của ông già ăn mày khiến ông ám ảnh. Từ hồi nào đến giờ, ông vẫn tự hào là bản thân sở hữu thần kinh thép, thế mà sao hôm nay ông lại có một nỗi lo lắng bồn chồn bất an đến thế? Canh Tí vừa điểm thì cũng là lúc ông thiếp đi. Trong giấc mơ, ông thấy mình cặm cụi nấu một ấm nước trong gian bếp phía sau nhà. Ông đang cúi xuống để thổi vào đống tro tàn chờ ngọn lửa bùng lên thì bất chợt nhìn thấy một đôi hài thêu hoa màu đỏ rất lộng lẫy. Ông chưa kịp định thân thì nghe có tiếng văng vẳng bên tai: “Thương cho nhà ông hiền lành, ta báo cho biết làng này sắp gặp họa.” Ông giật mình nhìn lên thì chẳng thấy gì cả, chỉ thấy màn sương mù bay lãng đãng. Ông lại cúi xuống nhìn dưới chân thì chỉ kịp thấy một cái đuôi rắn màu đỏ chóe trườn ra hướng vườn sau rồi biến mất. Sáng sớm hôm sau, ông Thập đứng trước cửa vươn vai, hít hà bầu không khí lành lạnh rồi vào trong nhà uống ngụm trà nóng. Thị Thập vợ ông vừa bưng nồi ngô luộc vào nhà, vừa chẹp miệng kể: “Mình ạ! Sáng nay tôi vào bếp đun nước thì thấy có vết rắn bò đấy. Nó bò vào gần đống ngô tôi mới phơi lúc sáng.” Ông Thập đang uống nước trà bỗng giật nẩy mình. Ông cả kinh hỏi vợ: “Cái gì? Có rắn bò vào trong bếp à?” “Thì mình ra bếp mà xem. Vết nó bò vẫn còn đấy.” Thị Thập chỉ tay về gian sau. Đứng trong căn bếp nhỏ xíu lợp bằng mái rạ, ông Thập thở hắt ra. Ông chợt nghĩ đến giấc mơ đêm qua, tay ông lăm lăm cái gậy phòng khi có rắn thật. Thế nhưng ngoài vết rắn trườn ra sau nhà thì chẳng có thứ gì đặc biệt hết. “Quái lạ! Sao lại trùng hợp đến thế nhỉ?” Ông nghĩ thâm trong bụng, rồi tặc lưỡi lắc đầu cho rằng chỉ là do mình quá mệt mỏi nên sinh ra mộng mị mà thôi. Đêm hôm sau, ông có một giấc mơ y hệt đêm qua. Lại là đôi hài gấm thêu hoa màu đỏ và cái đuôi rắn đỏ quạch như đêm trước. Điều khác biệt là lần này ông lại thấy thêm một đôi hài màu xanh, và giọng nói trầm trầm của một người đàn ông: “Làng này sắp gặp họa, nhà ngươi sắp gặp họa. Nhanh còn kịp.” Lời người đàn ông vừa dứt, ông Thập giật mình tỉnh dậy. Ngoài trời vẫn tối om, tiếng leng keng của anh mõ làng vọng lại từ xa xa. Đâu đó có tiếng chó sủa ma vang lên từng hồi. Một ngày trôi qua rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến lúc nửa đêm, ông Thập lên giường ngủ sớm, ông hy vọng không gặp phải những giấc mơ lạ lùng như trước nữa. Tiếng mưa rơi lộp bộp, tiếng con chim cú mèo rúc lên đâu đó tạo nên khung cảnh quen thuộc nơi núi rừng. Nằm chợp mắt được một lúc thì ông Thập giật mình tỉnh giấc, thấy vợ vẫn ngủ ngon, hơi thở đều đều, ông thở dài rồi bước xuống giường đi đun nước pha trà. Cơn mưa cuối đông đầu xuân tí tách rơi, trời tối đen như mực, chả trách dân gian gọi tháng Chạp là tháng củ mật. Ông chong cây đèn cầy tỏa ánh sáng leo lét rồi chầm chậm đi ra phía sau nhà bếp. Gian bếp nhỏ đến nỗi một ánh sáng thoát ra từ cây đèn trên tay ông cũng có thể soi tỏ. Vừa đưa mắt nhìn sang đống hạt ngô, ông Thập chợt sững sờ, hồn vía như bay lên mây, tim ông đánh thót một cái. Ấy là vì trên đống hạt ngô đã phơi khô có một con rắn lớn màu vàng đang nằm chễm chệ, làn da vàng nhạt lấp lánh của nó nổi bật trên đống hạt ngô màu cam khô quắt khô queo. Điều kỳ quái ở chỗ, con rắn vàng không ngủ mà mắt mở to thao láo nhìn ra bậc của bếp nơi ông Thập đang đứng như trời trồng. Ánh mắt nó nhìn ông như thể nó đã đợi ông đến từ lâu. Vốn là người lớn lên ở vùng rừng núi hoang vu, ông Thập đâu ngại gì mấy con rắn, con rết. Vậy mà chẳng hiểu sao lần này nhìn thấy con rắn vàng ươm, ông lại đờ người ra sợ hãi. Con rắn vàng thè cái lưỡi liên hồi, nó ngúc ngoắc cái đầu như muốn chỉ về hướng gian nhà trên, nơi vợ chồng ông đang sống. Ông nhìn theo hướng con rắn chỉ, trong lòng mơ hồ không hiểu gì cả. Con rắn trườn qua chân ông, mình mẩy nó ướt át, những cái vảy lấp lánh trên thân khẽ cọ vào đôi bàn chân trần của ông. Vừa bò ra khỏi bếp, con rắn quay đầu lại nhìn, ông Thập nghe rõ mồn một giọng nói từ đâu đó vang lên: “Làng Địa Ngục sẽ có người chết!” Dứt lời, con rắn vàng ươm trườn thẳng ra sân vườn phía sau rồi biến mất. Ông Thập cả kinh, đời ông chưa bao giờ gặp con vật nào biết nói, mà lại nói toàn những chuyện lạ lùng như vậy. Ông hoảng quá, vội chạy theo con rắn, loạng choạng thế nào mà ông vấp phải mô đất lớn trong vườn, ông hét lên: “Ối giời ơi!” Ông choàng tỉnh, thấy mình vẫn nằm trên giường, mồ hôi ướt đẫm cả lưng áo, lấm tấm cả trên trán. Vợ ông giật mình ngồi dậy hỏi: “Cái… cái gì vậy? Làm sao mà ông hét lên giữa đêm hôm khuya khoắt thế?” Thì ra chỉ là một giấc mơ. Ông Thập đưa đôi bàn tay chai sần khẽ lau vầng trán ướt mồ hôi rồi khẽ nói với bà vợ: “Không… không có gì đâu! Ngủ tiếp đi.” Thị Thập nhìn ông một lúc rồi lại trở mình ngủ tiếp. Ông Thập nằm im lặng, dán mắt lên trần nhà suy nghĩ. Ba đêm liên tiếp ông đều mơ thấy ba con rắn khác nhau. Lần đầu thì là con rắn màu đỏ khé, đêm thứ hai là con rắn màu xanh lục, còn đêm nay là con rắn màu vàng. Ông ngẫm nghĩ không hiểu sao lần nào cũng thấy chúng trong bếp. Tại sao luôn luôn là nhà bếp mà không phải nơi nào khác? Ông thở dài rồi khẽ với tay gãi gãi cái cổ chân. Vừa sờ vào bàn chân, ông giật thót mình vì tay ông chạm phải cái gì ươn ướt. Dưới ánh trăng lờ mờ đầu tháng, ông nhìn thấy trên mu bàn chân mình lấm tấm vài cái vảy rắn, đúng chỗ con rắn vàng bò qua. Lẽ nào giấc mơ là thật? Hay là ông mộng du mà không hề biết? Một cơn gió lạnh buốt thổi ùa vào khung cửa sổ, ông Thập run run nằm xuống giường thao thức. Sống gần nửa đời người, ông Thập chẳng lạ gì những câu chuyện dân gian về sự linh thiêng của loài rắn. Nhiều người vẫn thường truyền tai nhau nghe về hiện tượng rắn quấn bát hương trên bàn thờ báo hiệu tai ương sắp giáng xuống. Nói đâu xa, chính cái làng Địa Ngục này cũng từng có câu chuyện như vậy. Năm ấy, mấy vùng quê dưới chân núi bị lũ lụt, lương thực hết sạch. Làng Địa Ngục nằm trên lưng chừng núi, lại vô tình sở hữu một địa thế thuận lợi, không những tránh được lũ lụt mà còn thu được nhiều cá tôm từ con suối vắt ngang qua làng. Trong làng khi ấy có nhà thằng Đậu chuyên nghề dệt vải. Thằng Đậu sống với mẹ già, hai mẹ con cất tạm cái nhà cuối làng. Thằng Đậu khỏe mạnh, khéo tay có tiếng, nó chọn những cây gỗ khẳng khiu đem đóng thành khung cửi cho mẹ nó dệt vải. Lần ấy vào rừng, thằng Đậu vô tình thấy một cái hang rắn. Nó cúi xuống xem thì thấy rắn mẹ đang nằm ấp mấy quả trứng. Sẵn tính gan dạ, nó lấy cây gậy chọc vào hang rắn. Trứng rắn vỡ gần hết, con rắn mẹ thủ thế bên trong, khè cái răng sắc lẻm đe dọa. Thằng Đậu lấy một đống vỏ cây, lá cây khô đem đốt rồi xông khói vào hang rắn, giống như người ta hun chuột. Khói mù mịt, con rắn đảo mắt liên hồi, thằng Đậu buộc con dao vào đầu cái cây rồi chọc vào bên trong lia lịa. Dân bắt rắn chẳng đời nào làm như thằng Đậu vì con rắn sẽ bị nhiều vết thương. Nhưng thằng Đậu không màng, khi nó lôi được con rắn ra thì chỉ còn là cái xác tả tơi. Thằng Đậu đem về nấu cháo. Nó đem sang mời ông Thập nhưng ông bà kiên quyết từ chối. Ông Thập lắc đầu nói với thằng Đậu rằng đừng làm gì thất đức. Thằng Đậu cười hề hề, bưng bát cháo nóng hổi đi về nhà. Vừa về đến nhà, nó thấy trên bàn thờ có một con rắn lớn màu đen quấn chặt vào bát hương. Thằng Đậu đờ cả người vì sợ sệt, nó chạy ra sân kiếm con dao cán dài. Ngờ đâu, phía bên hông nhà, nơi có cái khung cửi, mẹ nó nằm chết gục ở đó, miệng há hốc cứng đơ, phần thịt bên gò má trái còn nguyên vết răng cắn, làn da chuyển thành màu sạm đen, đôi mắt bà cụ trợn tròn chỉ toàn lòng trắng. Thằng Đậu gào lên một tiếng rồi cầm dao xông thẳng vào nhà. Con rắn không còn quấn trên bát hương nữa. Thằng Đậu điên cuồng quay đầu tìm kiếm. Bỗng từ đâu trên mái nhà tranh, con rắn liệng người táp một cái vào cổ nó. Nó kêu “hự” một tiếng rồi cầm tay quăng con rắn ra sân. Cơn đau nhói ở cổ khiến nó bủn rủn tay chân. Nó loạng choạng chạy ra ngoài tri hô: “Bớ làng nước! Có rắn! Rắn cắn chết người!” Nghe tiếng động, dân làng chạy lại nhà thằng Đậu thì chỉ thấy mẹ con nó nằm chết. Hai bát cháo thịt rắn còn vương vãi trong nhà, bốc khói nghi ngút. Căn nhà thằng Đậu từ đó bỏ hoang. Dân trong làng cùng nhau chôn cất cho mẹ con nó, coi như giữ trọn tình làng nghĩa xóm. Cơn lũ qua đi, người ta mới rủ nhau đi thăm mộ. Vừa ra đến nơi thì cả làng lặng người bởi cảnh tượng trước mắt. Xác thằng Đậu đã bị ai đó moi lên, trên thi thể đang phân hủy của nó có một cái xác rắn vừa lột. Chuyện thằng Đậu bị rắn trả thù làm cho dân làng Địa Ngục sợ hãi. Họ không dám bắt rắn, cũng chẳng dám ăn thịt loài động vật này, dù có thấy xác rắn chết giữa đường. Ông Thập thở dài, ông cứ suy nghĩ mãi về những giấc mơ kỳ lạ của mình. Linh tính cho ông biết, sắp có điều gì ghê gớm lắm xảy ra ở ngôi làng Địa Ngục. HỒI 2 THẦY BÓI QUÈ GIẢI MỘNG Ba đêm nằm mộng liên tiếp khiến ông Thập cảm thấy uể oải ít nhiều. Thị Thập thấy chồng mệt mỏi, lại thường trầm ngâm suy nghĩ nên trong lòng cảm thấy lo lắng. Mấy lần bà gặng hỏi nhưng ông Thập chỉ lắc đầu không đáp. Bởi ông biết, kể những giấc mơ của mình ra thì bà sẽ cho rằng ông đi buôn hàng dưới xuôi nên mệt mỏi, sinh ra mộng mị. Mà ông thì đang muốn xuống dưới chợ để đi tìm thầy bói, hoặc nếu có thể đi một chuyến xa đến tận kinh thành thì càng tốt. Thành Thăng Long chắc là sẽ có người có thể giải được giấc mộng kỳ dị này. Những chuyến hàng từ làng Địa Ngục đi xuống dưới xuôi được chia làm ba đợt mỗi tháng. Đợt hàng đầu tiên nhằm ngày mồng Mười, đợt hàng thứ hai nhằm ngày Hai mươi và đợt cuối cùng sẽ là ngày cuối tháng. Những ngày lễ đặc biệt trong năm như dịp Tết, rằm tháng Giêng, rằm Trung Thu, rằm tháng Bảy, nhu cầu buôn bán của dân trong làng nhiều hơn, ông Thập sẽ bố trí thêm một vài chuyến hàng nữa. Thời ông còn trẻ, lần nào mang hàng đi bán cũng chỉ có một mình ông. Thế nhưng từ mấy năm trước, sức khỏe ông không những suy giảm mà lượng hàng hóa cũng tăng nhiều, ông Thập mới dẫn dắt vài người thanh niên trai tráng khỏe mạnh trong làng đi cùng để phụ một tay. Đám thanh niên được đi ra khỏi làng thì lấy làm thích thú lắm, ai cũng xung phong. Có anh chàng ỷ vào sức vóc nên muốn tách đoàn đi riêng một mình. Người già trong làng khuyên thì anh chỉ cười cho rằng con đường xuống núi chẳng có gì đáng sợ, chẳng phải ông Thập vẫn một mình xuống núi hay sao? Ma quỷ chỉ dọa được những người yếu bóng vía, chứ trẻ khỏe như anh thì nào ai dám dọa? Nói là làm, rạng sáng ngày hôm ấy anh chàng chất đống thịt rừng săn được vào cái gùi mây đeo trên lưng, hăm hở cầm đuốc rẽ sương mù thẳng con đường làng mà xuống. Không ai biết anh đã gặp chuyện gì, cũng không ai biết anh có đi được xuống núi hay không, chỉ biết rằng hai ngày sau anh mới thất thểu về làng với gương mặt ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Người trong làng thấy anh đi bộ từ đầu làng bèn hỏi thăm, thế nhưng anh chàng run run chỉ tay về phía đầu làng rồi thảng thốt nói: “Nhiều… Nhiều lắm! Nhiều vong lắm. Nó… Nó ở ngoài kia kìa!” Người ta nhìn theo hướng tay anh chỉ, nhưng chẳng thấy gì ngoài những rặng cây um tùm lẩn khuất trong màn sương bàng bạc. Một chàng thanh niên khỏe mạnh, cường tráng là thế, vậy mà chỉ sau một chuyến đi rừng bỗng trở nên sợ sệt, trời nhá nhem tối là không dám ra ngoài. Ngay cả việc tiểu tiện cũng không dám đi một mình. Ai nấy đều lắc đầu ngao ngán. Cái gương trước mắt sờ sờ ra đấy, thôi thì dân làng chỉ đành quanh quẩn ở nơi đây cho tới chết. Còn muốn đi xuống núi thì chỉ có thể nhờ cậy ông trưởng làng mà thôi. Lại nói về ông Thập, nhiều lúc ông cũng không hiểu vì sao cả làng chỉ có một mình ông đi lại trót lọt đến vậy. Các cụ cao niên trong làng vẫn bảo rằng ông có vong hồn của bà nội đi theo, lại sinh vào ngày Hạ Chí, tức là thời điểm dương khí mạnh nhất nên tà ma không trêu chọc được. Trước cách lý giải có phần giản đơn đó, ông Thập tuy không hỏi thêm, song trong lòng ông vẫn thấy có điều gì đó mà bản thân mình chưa được biết tường tận. Thế nhưng, việc đào sâu lý do ông có thể một thân một mình băng rừng để xuống dưới núi cũng chẳng giúp được gì nhiều, ít nhất là trong thời điểm này. Khi mà ông còn đang băn khoăn về những giấc mộng kỳ lạ. Gần đến ngày rằm tháng Chạp, phiên chợ cuối năm hẳn sẽ rất đông. Theo lẽ thường, ông sẽ phải đưa thêm trai tráng trong làng đi, nhưng ông Thập đổi ý. Ông quyết định sẽ đi một mình để tìm thầy bói giải mộng. Chuyện buôn bán có thể tạm gác lại, chứ chuyện mộng mị thì không. Nhất là khi ông nghe rõ mồn một giọng người đàn ông nói trong mơ: “Làng này sắp gặp họa! Nhà ngươi sắp gặp họa.” Nếu mơ một lần, ông có thể cho rằng đó là do bản thân đi lại mệt nhọc nên sinh ra mộng mị, nhưng đằng này lại mơ tới mấy lần. Đó là còn chưa kể sự xuất hiện kỳ bí của những con rắn trong nhà bếp của gia đình ông. Làm sao có thể làm ngơ trước những điềm báo rõ ràng đến thế? Đêm Mười bốn tháng Chạp, ông Thập quẩy cái gùi trên vai rồi cầm ngọn đuốc rẽ sương mù mà đi thẳng. Con đường độc đạo này ông đã đi cả ngàn lần, cớ sao hôm nay ông cảm thấy nó dài hơn mọi khi? Khi ông xuống tới chân núi thì trời vẫn nhá nhem tối, đám thương buôn gần đó vẫn còn đang say sưa ngủ trong chòi. Ông Thập đi tới chỗ ngồi quen thuộc, nhóm một đống củi nho nhỏ để chiếu sáng. Độ hai canh giờ sau thì trời bắt đầu sáng rõ mặt người, lác đác đó đây đã có người ôm thúng, bán mẹt. Phiên chợ ngày rằm tấp nập người mua kẻ bán. Người ta mang đủ thứ ra để mời chào khách, người thì bán thịt, người thì bán gạo, kẻ bán rau, bán cây trái. Lại có anh chàng bán cả những thứ đồ vàng mã để đốt cho người đã khuất, Người Việt từ xưa đến nay quan niệm rằng trần sao thì âm vậy. Dịp Tết, người người nhà nhà nô nức sắm quần áo để chia tay năm cũ, chào đón năm mới với nhiều dự định còn đang ở phía trước. Người ta cũng không quên mua quần áo mới cho các vong linh ông bà tổ tiên của gia đình mình. Người giàu thì mua hơn chục bộ áo quần vàng mã, lại sắm thêm vài xấp giấy màu đủ kiểu, chục khay vàng nén bạc, kẻ hầu người hạ để đốt xuống âm tào địa phủ. Kẻ nghèo cũng phải mua được chút ít cho gia tiên tiền tổ, nếu không thì sẽ bị coi là bất hiếu, mà bản thân cũng chẳng được yên lòng. Ông Thập bày những xấp vải đủ sắc màu trên mạnh chiếu cũ kĩ. Bỗng dưng ông ngậm ngùi nhớ lại chuyện cũ. Từ ngày mẹ con nhà thằng Đậu chết đi, chẳng mấy ai có thể dệt được những tấm vải in hoa văn ẩn hiện nữa. Đáng thương ở chỗ, người làng Địa Ngục chẳng mấy ai nhớ đến tài năng dệt vải của nhà thằng Đậu, người ta chỉ rỉ tai nhau nghe những mẩu chuyện ma mị sau cái chết của mẹ con nó. Thỉnh thoảng, vào những đêm trăng lặn, khí trời âm u, có mấy người trong làng đi bẫy thú rừng vô tình đi ngang qua đó nhìn thấy một người đàn bà cặm cụi ngồi dệt vải trước hiên. Có lần nọ, người ta nghe rõ tiếng khung cửi lạch cạch vang lên từng chặp, rồi cả tiếng ho húng hắng. Thấy có tiếng động lạ, mấy người trong làng ra hiệu cho nhau trốn vào một góc nhỏ để nghe ngóng động tĩnh. Trên hiên có một người đàn bà vẫn chăm chú dệt vải, dường như chẳng để ý đến điều gì. Mấy người đàn ông đoán chắc là trộm, bèn cầm dao đạp cửa xông vào. Đúng lúc ấy, một cơn gió thổi tới làm bụi cây rung rinh, người đàn bà ngẩng mặt lên từ cái khung cửi. Khuôn mặt vừa lộ ra, đám người lập tức rúng động, có kẻ thốt lên một tiếng kinh hoàng. Đó là mẹ thằng Đậu. Đúng là mẹ thằng Đậu đây mà. Dưới ánh đuốc bập bùng, gương mặt bà cụ già hiện lên rõ mồn một. Đôi mắt đờ đẫn, con ngươi long lên sòng sọc, đảo tứ tung. Bên gò má nơi con rắn độc cắn vẫn sạm đen vì hoại tử như ngày người ta phát hiện ra xác bà, chỉ có điều gò má đó giờ nhung nhúc toàn dòi là dòi. Bà cụ ngước mắt về phía đám người làng rồi cười khành khạch. Đám người ngây ra vì sợ hãi. Bất chợt có tiếng cười hô hô vang lên. Trên mái nhà, thằng Đậu ngồi vắt vẻo, lúc lắc cái cổ đen ngòm, vỗ đùi đèn đẹt rồi cười khoái chí. Đám người tá hỏa, hét lên một tiếng hãi hùng rồi bỏ chạy tán loạn. Cả làng ai cũng biết chuyện, người ta càng sợ hãi ngôi nhà đìu hiu bị bỏ hoang của mẹ con nó, chẳng ai dám qua lại. Việc đến tai ông Thập, ông vặn hỏi đám trai làng có ai đùa nghịch hay bỡn cợt gì tới vong linh người chết hay không? Có làm sao mà cả hai mẹ con nhà thằng Đậu lại hiện hồn về trêu chọc người sống như thế? Trước vẻ mặt nghiêm khắc của ông trưởng làng, có một cánh tay run rẩy giơ lên. Ông Thập ngước mắt nhìn, thì ra là thằng Vẹt. Thằng Vẹt kém thằng Đậu mấy tuổi, ngày thường hai đứa nó hay đi vào rừng bẫy thú cùng nhau. Nay thằng Đậu chết đi, thằng Vẹt đi cùng bố và chú ruột nó. Thằng Vẹt lí nhí thú tội rằng sáng hôm đó, nó có đi ngang qua cái nhà bỏ hoang của mẹ con thằng Đậu. Đúng lúc đó nó mắc tiểu, bèn tiểu tiện vào cạnh bờ tường rào của nhà bạn. Cứ tưởng chỉ tiểu tiện thôi thì cũng chẳng sao, nào ngờ đến tối thì gặp chuyện. Bố thằng Vẹt giận lắm, toan đánh con trai thì dân làng ngăn lại. Ông Thập lắc đầu ngán ngẩm rồi sai mẹ thằng Vẹt sửa soạn lễ vật đến cáo lỗi trước ngôi mộ hai mẹ con nhà nọ. Từ đó mọi chuyện yên lành, không còn ai bị mẹ con thằng Đậu dọa nữa. Thế nhưng, cứ đến gần ngày giỗ của hai mẹ con là người làng lại thấy bóng dáng họ phất phơ đi qua đi lại trước mái hiên, có khi còn thấy thằng Đậu ngồi đánh đu trên mấy cây đào trước cổng làng. Người làng thương cảnh mẹ góa con côi đến ngày giỗ cũng không ai nhớ đến, bèn thổi xôi, giết gà cúng tế đàng hoàng. Riêng bố thằng Vẹt thi thoảng vẫn nhờ ông mua giúp cho ít tiền vàng để đốt cho mẹ con nhà thằng Đậu. Dù gì thì thằng Đậu cũng là bạn thân của con trai ông. Thằng con ông trót dại xúc phạm tới người đã khuất, ngộ nhỡ thằng Vẹt có mệnh hệ gì thì gia đình ông tuyệt tự. Chớp mắt một cái mà hai mẹ con thằng Đậu chết cũng phải mấy mùa hoa đào, hoa mận trôi qua rồi. Thời gian nào có đợi ai bao giờ? Nghĩ đến đó, ông Thập cất tiếng thở dài. Chợ chưa vãn nhưng ông Thập đã bán hết vải từ lúc nào. Người ta khen vải của ông đẹp, màu sắc óng ả mượt mà, nhất là vải màu đỏ tươi dùng để may yếm đào nhìn đến là thích mắt. Các bà, các cô ưng ý lắm, thành ra dịp nào cũng đi tìm ông Thập để mua. Có gã lái buôn người phương Bắc muốn đến tận làng để mua rồi đem về Tàu, nhưng ông Thập lắc đầu từ chối. Bởi lẽ, từ thời cha ông thuở trước, người làng Địa Ngục đã có một quy định nghiêm ngặt đó là tuyệt đối không cho người lạ vào làng. Sở dĩ người ta đặt ra quy định này là để bảo vệ sự bí mật của người nơi đây. Người làng biết rõ bản thân mình là tàn dư của băng cướp khét tiếng từng bị triều đình truy nã, cho nên họ lựa chọn cuộc đời ẩn dật trong rừng sâu núi thẳm cũng là để con cháu đời sau được sống yên bình. Màn sương mù quanh năm không tan, ánh nắng mặt trời le lói chiếu sáng cùng với sự âm u đến rợn ngợp đã bảo vệ dân làng khỏi sự soi mói, xét nét của người đời. Lão lái buôn người Tàu không thuyết phục được ông Thập đành cau có bỏ đi, không quên lầm bầm chửi rủa. Ông Thập chờ lão đi hẳn mới thu dọn đồ đạc rồi chuẩn bị về nhà. Gọi là ra về nhưng thực chất ông đi tìm thầy bói để giải mộng. Ở nước Việt từ cổ chí kim, hễ cứ có làng quê thì thế nào cũng có ít nhất một vài thầy bói. Mỗi người thi triển một cách thức bói toán khác nhau. Có kẻ xem chỉ tay, có người lên đồng, lại có kẻ xem bằng trầu cau. Những thủ pháp để bói toán vận hạn tương lai thì ông Thập đều từng thử, chỉ có điều ông chưa từng gặp ai muốn giải mộng bao giờ. Người có thể giải mộng lại càng hiếm hoi, bởi dân gian có thói quen ước đoán ý nghĩa của những giấc mộng bằng kinh nghiệm của mình. Đàn bà nằm mộng thấy nuốt mặt trăng, mặt trời là điểm báo sinh con quý tử. Người nào mộng thấy rụng răng là điềm báo tai ương sắp kéo đến. Cứ như thế, những kinh nghiệm đoán mộng được dân gian truyền tụng lại như một kho tàng tri thức bằng miệng. Trong thâm tâm, ông Thập tin rằng, những giấc mộng về ba con rắn của ông phải báo hiệu điều gì đó ghê gớm lắm, không chỉ ảnh hưởng tới mình ông. Chẳng phải mấy con rắn đã nói tiếng người bảo với ông làng Địa Ngục sắp gặp đại họa hay sao? Ông Thập dành gần hết buổi sáng để đợi ở nhà bà thầy bói có tiếng trong vùng. Người ta kể rằng, bà hành nghề thầy bói từ năm mươi tuổi, chẳng lấy chồng mà cứ sống một mình trong căn nhà cách chân núi không xa. Gần Tết nên bà bận lắm, hết chỗ này mời đi cúng bốc mộ lại đến chỗ kia mời đi cúng cầu siêu. Ông Thập chờ mãi, đến khi gặp được bà thì ông lại băn khoăn chẳng biết bắt đầu từ đâu. Ông kể cho bà nghe sự lạ mà mình gặp, nhưng khéo léo không nói tên ngôi làng mình đang ở. Bà thầy bói vừa nghe đến đoạn con rắn biết nói, bèn giật mình rồi đập mạnh tay xuống bàn. “Chết chưa! Chết chưa? Cả làng bị hạn rồi! Phải giải hạn đi, không là chết hết đấy.” “Bẩm cô…” Ông Thập ngập ngừng. “Về đi, về đi, gọi cả làng đến đây, sắm nhiều lễ vào. Nhanh lên.” Như vừa kịp nghĩ ra điều gì, bà lại nói tiếp: “À không? Không thì để ta lặn lội đến làng cúng cũng được.” Nói xong, bà bỏm bẻm nhai trầu, đôi mắt sáng lên xem chừng đắc ý lắm. Ông Thập thở dài, ông biết chính bà cũng không biết rõ về giấc mơ hơn ông là bao. Thứ ông thắc mắc là tại sao mình lại nằm mơ thấy những điều kỳ lạ đến vậy? Bầy rắn bò vào nhà ông rốt cuộc là yêu ma hay quỷ quái? Chẳng lẽ tội lỗi giết người từ đời cha ông thuở trước đến giờ con cháu như ông cũng phải gánh hay sao? Ông rời khỏi nhà bà thầy bói, trong lòng trĩu nặng. Ông đi ngược lại khu chợ vì đó là con đường dẫn đến lối lên dốc để tới con đường mòn về làng. Ông đang suy nghĩ thì bỗng nghe thấy tiếng gọi thì thào từ phía sau: “Này cậu!” Ông Thập quay lại, phiên chợ đã vãn, chỉ còn lác đác vài người, không thấy có ai gọi. Ông toan bước tiếp thì thấy bên đường lại có giọng nói cất lên: “Cậu Thập ơi! Cậu Thập!” Ông nhìn quanh thì chợt thấy bên lề đường có lão già lụ khụ đang ngồi bệt dưới đất hướng mắt về phía ông. Mặc dù trong lòng thấy lạ lùng nhưng ông Thập vẫn rảo bước tới. Khi đến gần, ông nhận ra đó là lão ăn mày hôm trước. Chỉ mới mấy ngày không gặp mà trông lão ăn mày đã tiều tụy hơn. Đôi mắt lão lồi ra, làn da bủng beo như da của người chết. Lão vẫn bốc mùi tanh hôi như hôm trước, thậm chí có phần nồng nặc hơn. Trời rét căm căm nhưng lão chỉ mặc một manh áo cộc, cái quần vá chằng vá đụp của lão thủng lỗ chỗ vì phải lê dưới đất từ ngày này qua ngày khác. Ông Thập khẽ nhăn mũi để tránh cái mùi tanh hôi từ người lão ăn mày bẩn thỉu, ông hỏi nhỏ: “Cụ biết tên tôi sao?” “Ở cái chợ này ai chẳng biết cậu Thập. Thế nhưng mà… chẳng ai biết làng cậu ở đâu cả.” Lão ăn mày nhìn ông Thập với ánh mắt bình thản có phần tò mò. “Cụ gọi tôi có chuyện gì?” “Trả ơn!” Lão ăn mày khẽ nói. Lần này thì ông Thập bất ngờ thực sự, vốn dĩ ông với lão đâu có quan hệ gì, hà tất phải trả ơn? Chẳng lẽ lão muốn nhắc đến chuyện lần trước ông cho lão ít tiền lẻ và cái bánh chưng hay sao? Ông vốn coi đó là chuyện làm phước, đâu cần phải báo đáp. Vả lại, lão ăn mày thì làm gì có thứ gì đáng giá để báo đáp ông. Lão ăn mày nhìn ông mỉm cười, lão chống đôi tay gây guộc xuống đất, nhìn ông Thập rồi nói: “Chắc cậu đang nghĩ một lão già sắp chết như tôi thì làm gì có thứ gì đáng giá để cho cậu phải không? Khà khà.” Lão vừa lắc đầu vừa cười, ung dung vuốt chòm râu bạc. Đoạn lão nói tiếp: “Có đấy! Có đấy! Có thứ tôi có thể cho cậu được đấy. Tôi tuy nghèo đói nhưng cốt cách của kẻ trượng phu sao có thể quên được. Hôm trước tôi thoi thóp sắp chết, cậu cho tôi ăn, lại cho tôi tiền. Cái mạng già này sắp gõ cửa Diêm Vương, thế mà lại được cậu cứu giúp. Ơn nghĩa ấy tôi nào dám quên.” Nói rồi, lão thở dài sườn sượt. Ông Thập bắt đầu hứng thú với lão ăn mày. Xem cách lão ăn nói, cũng coi như là người đọc sách thánh hiền. Ông nảy sinh thiện cảm, bèn thong thả đi đến cái sạp hàng xiêu vẹo lợp bằng tre bỏ không. Đoạn lại vẫy tay gọi gã bán hàng thịt cuối chợ mang đến ít thịt nướng, sau cùng ông lôi từ trong chiếc gùi mây của mình ra bình rượu nhỏ. Lão ăn mày ì ạch đi theo sau, chẳng mấy chốc hai người, một già một trẻ ngồi trong sạp hàng trò chuyện. Ông Thập kính lão một chén, rồi mới chậm rãi hỏi: “Vậy chẳng hay cụ có thể giúp tôi điều gì?” Lão ăn mày đón chén rượu từ tay ông Thập, lão tu một hơi rồi quệt miệng bằng mu bàn tay bẩn thỉu. “Tiền bạc thì tôi không có. Chỉ có thể giúp cậu xem vận hạn vậy.” “Cụ biết xem bói thật sao?” Ông Thập giật mình. “Tôi biết xem bói từ khi còn nhỏ kia.” Lão ăn mày thoáng cười. Lão hiểu cái nhìn ngạc nhiên của ông Thập, trầm ngâm nhìn chén rượu trên tay rồi từ tốn kể lại: “Tôi năm nay cũng gần tám mươi tuổi rồi. Cha tôi trước kia làm chức quan trông coi kho lương ở phủ Quốc Oai, từ nhỏ tôi đã được dạy sách thánh hiền nên đạo nghĩa quân thần, phụ tử, bằng hữu tôi điều hiểu cả. Đến khi tôi tròn mười tuổi thì xảy ra biến cố. Năm ấy, nước sông Hồng dâng cao, khắp nơi chết đói. Kho lương nơi cha tôi cai quản bị mất cắp. Quan trên cho rằng cha tôi cố ý thông đồng với lũ đạo tặc để cướp thóc gạo, bèn dâng biểu tấu cho triều đình. Nhà tôi bị chém không còn một ai. Cha tôi biết mình bị oan, thế nhưng kêu trời trời không tỏ, kêu đất đất chẳng hay. Ông cố ý đâm tôi một nhát vào mạng sườn, máu chảy ướt đẫm một bên vạt áo. Bọn lính thấy vậy tưởng cha tôi bị điên, lại tưởng tôi đã chết nên vứt xác tôi ở lại.” Ông Thập ngây người ra nhìn lão ăn mày trước mặt. Mái tóc bạc phơ của lão bay lơ thơ trong làn gió thổi. Lão ăn thịt, uống rượu rồi kể tiếp, cứ như thể lão chờ được dốc bầu tâm sự đã lâu. “Mãi sau này tôi mới hiểu ra, cha tôi muốn giữ lại huyết mạch duy nhất cho gia đình. Ông đã thỏa thuận với người đầy tớ trung thành của mình: khi quan quân giải hết cả nhà tôi đi, tên đầy tớ sẽ đem tôi trốn đi chạy chữa. Khi nào tôi khỏe lại thì đưa tôi về phủ Long Hưng để trốn tránh.” Lão ăn mày thở dài, trong đôi mắt đục ngầu của lão phảng phất nét đau thương. Giọng của lão càng lúc càng nhỏ dần: “Biết tin cha mẹ đã không còn, tôi khóc đến sưng cả mắt. Người đầy tớ đưa tôi đến phủ Long Hưng để tìm người thân. Thế nhưng, chẳng may trên đường gặp một toán cướp. Chúng cướp con ngựa mà chúng tôi đang đi, rồi giết chết người đầy tớ trung thành của cha tôi. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy người ấy là… là… là khi chúng moi tim người ấy ra rồi vứt cho chó ăn.” Lão ăn mày run bần bật, ông Thập cũng bàng hoàng cả người. Lão không còn khách sáo nữa, lão dốc bầu rượu tu ừng ực rồi kể tiếp: “Bọn cướp trói tôi lại, định bụng đem tôi đi rồi đào tạo tôi thành kẻ sai vặt cho chúng. Đêm hôm ấy, chúng say rượu, tôi thừa lúc chúng không để ý cởi dây trói thoát được. Tôi trộm được một ít bạc vụn từ túi một tên cướp, rồi chạy trốn. May mắn cho tôi tìm được một nhà dân cho tá túc. Sáng hôm sau, người ta khác nhau về chuyện bọn cướp moi tim một thằng bé rồi vứt xác vào trong thôn. Tôi đoán rằng bọn cướp lùng sục tìm kiếm tôi, nhưng không tìm được bèn trút giận lên một thằng bé vô tình chúng bắt gặp.” Ông Thập ngồi nghe lão ăn mày kể chuyện mà như bị thôi miên. Ông sốt ruột giục lão: “Thế rồi sao nữa? Cụ kể tiếp đi! Làm sao mà cụ lại biết xem bói? Lão ăn mày lắc đầu cười buồn. “Người ta bảo nghề chọn người chứ không phải người chọn nghề. Ngôi nhà mà tôi xin tá túc ở đó chính là ngôi nhà của một ông thầy lang. Vào cái đêm mà tôi gõ cửa xin ngủ nhờ, ông thầy lang ra mở cửa thì thấy sau lưng tôi thoắt ẩn thoắt hiện hai cái bóng màu trắng đục. Một người bị mổ phanh ngực moi mất tim, còn một người thì bị cụt đầu. Ông thầy lang đoán có chuyện chẳng lành nên đồng ý cho tôi vào, ông ấy dẫn tôi xuống kho chứa thuốc sau nhà rồi dặn tôi đừng lên tiếng. Tôi chờ ở đó cả đêm, đến khi trời sáng thì ông cụ đi vào khẽ nói: ‘Ổn rồi! Con ra ngoài đi.’ “Người thầy lang ấy sau này chính là cha nuôi của tôi. Ông ấy vốn sống một thân một mình, không có vợ con. Sau này, ông ấy thu nhận tôi, vừa dạy nghề thuốc cho tôi, lại dạy cho thuật xem bói. Ngày bé, tính tôi vốn hiếu động, không thích thú với việc bốc thuốc nên tôi chẳng học được nhiều. Riêng việc xem bói thì tôi có hứng thú hơn cả. Khi tôi thành thạo các ngón nghề xem bói cũng là lúc tôi vừa tròn mười hai tuổi.” Kể đến đây, lão ăn mày im lặng đưa ngón tay chai sần khẽ chùi nước mắt. Chờ cho lão ăn mày qua cơn xúc động, ông Thập mới dè dặt hỏi: “Vậy… vậy sao cụ lại đến bước đường này? Chẳng phải nghề thầy bói cũng có của ăn của để hay sao?” “Tôi sống với cha nuôi được vài năm thì xảy ra biến cố. Cha tôi bốc thuốc cho một người thiếp của viên quan lớn. Không ngờ bị những người vợ khác của viên quan ghen ghét, đổ thuốc diệt chuột vào trong ấm sắc thuốc của người thai phụ. Cái thai… cái thai không những không còn, mà cả người mẹ cũng vong mạng. Một lúc chết hai mạng người nên quan phủ điều ra rất gắt gao. “Cha tôi trước đó đã đoán biết được ngày ông xảy ra họa sát thân. Ông thương tôi còn trẻ nên không đành lòng để tôi liên lụy. Cuối cùng, để bảo tồn danh dự cho bản thân, ông lao đầu xuống vực rồi chết. Tận mắt nhìn cha nuôi chết đi, tôi trở nên ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Người ta kể lại rằng lúc quan quân bắt được tôi thì tôi vẫn cười như một thằng điên. Người ta tống tôi vào nhà lao, dùng hình tra khảo. Cho đến khi… đến khi hai chân tôi bị cụt.” Ông Thập run rẩy cầm chén rượu kính lão ăn mày ngồi trước mặt. Không ngờ cuộc đời lão lại lắm nỗi oan khiên đến vậy. Ông thở dài não nề rồi lắc đầu buồn bã, hỏi tiếp: “Vậy sao cụ lại ra được khỏi nhà lao rồi lưu lạc đến đây? Lão ăn mày nhìn thẳng vào mắt của ông Thập rồi trầm giọng: “Chuyện đó sau này nếu còn duyên, tôi sẽ kể cho cậu nghe tường tận. Hôm nay là ngày tôi báo đáp ơn cứu mạng của cậu.” “Cụ quá lời rồi. Có đáng gì đâu!” “Tôi đây già cả rồi! Thứ gì cũng không có, chỉ có xem bói là thành thạo. Chi bằng để tôi xin cho cậu một quẻ vậy.” “Vậy cụ muốn xem bói như thế nào?” Ông Thập khẽ hỏi. “Chuyện đó thì phải hỏi cậu muốn xem bằng cách nào. Nhân tướng, chỉ tay, kinh dịch tôi đều xem được cả. Chỉ có điều không phải chuyện gì cũng có thể nói ra.” Lão ăn mày điềm nhiên đáp. “Ý cụ là?” “Thiên cơ bất khả lộ. Cậu đưa bàn tay trái ra đây!” Lão ăn mày khẽ đỡ bàn tay trái của ông Thập. Đôi mắt lão nhíu lại, trong miệng lẩm bẩm điều gì đó nghe không rõ. Trời đã ngả về chiều, bầu trời cuối năm xám xịt như thể sắp mưa, trong cái sạp hàng xiêu vẹo bỏ hoang có hai người đàn ông thì thầm to nhỏ. Khung cảnh ấy không đến nỗi rùng rợn, nhưng cũng nhuốm màu ảm đạm. Lão ăn mày cúi sát xuống lòng bàn tay ông Thập, rồi khẽ nói: “Cậu từng chết hụt khi còn nhỏ.” Ông Thập mỉm cười không đáp. Trẻ con vốn đã nghịch ngợm phá phách, lại ở chốn núi đồi hoang vu rợn ngợp, đứa nào mà chẳng có lần suýt bị chết hụt cơ chứ. Đoán biết được ông Thập nghĩ gì trong đầu, lão ăn mày lại nói tiếp: “Không phải chết hụt thông thường, từ bàn tay này tôi có thể thấy cậu bị chết hụt liên quan đến tà ma. Nếu tôi không nhầm thì…” Lão cúi xuống sát hơn, vầng trán nhíu chặt, càng khiến cho gương mặt thêm phần già nua, khắc khổ. “Nếu tôi không nhầm thì thuở nhỏ cậu từng bị lạc đường, suýt bị quỷ ma câu hồn giấu thể. May mà được cứu.” Một cảm giác lạnh toát chạy dọc sống lưng ông Thập. Ông bàng hoàng cả người. Chuyện ông đi lạc đường rồi được vong hồn bà nội đưa về làng Địa Ngục làm gì có người ngoài biết. Từ xưa đến nay, dân làng Địa Ngục đâu có giao du với người ở ngoài. Ngoại trừ ông là người hay xuống núi, đâu có ai có thể đem chuyện này đi kể cho người lạ nghe, đặc biệt là một lão ăn mày bẩn thỉu như thế này. Bấy giờ ông Thập đã có phần sợ hãi, ông run run hỏi lại lão ăn mày: “Quỷ ma câu hồn giấu thể có nghĩa là sao hả cụ?” “Phàm là người còn sống sẽ có ba hồn bảy vía. Quỷ ma câu hồn tức là người sống bị câu ít nhất một hồn đi mất, khiến cho thần trí ngây ngô, nếu câu mất đủ ba hồn thì vong mạng. Còn giấu thể tức là quỷ ma đem thân thể người đang sống giấu đi. Nhiều khi người ta bị giấu ngay trong sân nhà mà không ai tìm thấy. Bản thân người bị giấu dù có nhìn thấy người thân đang đi tìm mình cũng không thể nào lên tiếng trả lời được. Thường thì trẻ con bị quỷ ma câu hồn giấu thể nhiều hơn, vì vía còn yếu. Cũng có nhiều khi ngay cả người lớn cũng bị giấu.” Ông Thập nghe mà càng lúc càng cảm thấy rùng rợn. Rõ ràng lão ăn mày trước mặt ông đây không phải một người bình thường. Ông Thập còn đang nhìn lão ăn mày cầm bàn tay mình thì bất chợt nghe thấy lão nói. “Năm đó không có vong linh của tổ tiên thì hẳn là cậu đã chết dọc đường rồi. Cậu càng lớn tuổi thì vía càng nặng, giờ thì chẳng lo bị yêu ma làm cho lạc đường nữa đâu. Chỉ có điều đường con cái của cậu…” Lão ăn mày bỏ lửng câu nói rồi khẽ lắc đầu thở dài. Lão đã chạm đúng vào điều canh cánh trong lòng ông Thập bấy lâu nay. Ông hỏi dồn: “Đường con cái của tôi làm sao hả cụ?” “Tử tức mờ nhạt. Con cái hiếm hoi lắm mới có được. Mà không cẩn thận thì hài nhi chết yểu.” Ông Thập hoảng hồn, trái tim ông khẽ thốt lên một cái như có ai đó bóp chặt. Bấy lâu nay, ông đi tìm đông tìm tây, lặn lội đến tận Thăng Long nhưng chẳng có ai nói những điều lạ lùng đến mức rợn người như lão ăn mày cả. Ông Thập run rẩy, ông nghĩ đến cảnh hai vợ chồng ông già cả rồi chết trong cô độc mà bất giác rơi nước mắt. Lão ăn mày vẫn đăm chiêu nhìn bàn tay chai sần của ông. “Họa sát thân của cậu kéo đến năm ba mươi chín tuổi. Họa lớn lắm, không tránh được. Số kiếp đã định vậy rồi.” Lão ăn mày buông bàn tay của ông Thập ra, đoạn hỏi: “Chẳng hay năm nay cậu bao nhiêu tuổi rồi?” Ông Thập lắp bắp: “Ba… ba… ba mươi tám tuổi.” Lão ăn mày cúi đầu ngậm ngùi im lặng. Gương mặt ông Thập trắng bệch, người ông run run sợ hãi. Giọng nói ông không còn như bình thường được nữa. Trái tim trong lồng ngực ông đập thùm thụp. Bất chợt, một ý nghĩ lóe sáng trong đầu, ông hỏi lão ăn mày: “Cụ… cụ… cụ biết giải mộng hay không?” Lão ăn mày thoáng ngạc nhiên, thế nhưng lão nhìn ông Thập rồi nhẹ nhàng đáp: “Tôi cũng biết ít nhiều. Có điều, ít có người nào xin giải mộng. Người đời thường thích tiên đoán hậu vận, muốn biết khi nào mình sẽ phát tài hơn là hỏi về điềm báo gặp trong mơ. Ít ai biết được rằng, thời vận của con người, thậm chí là cả một triều đại lại có thể được tiết lộ từ một giấc mơ.” Ông Thập nghe mà cảm thấy lạ lùng quá. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, nào có ai nói với ông những điều kỳ quái đến thế. Sự ngạc nhiên lấn át phần nào nỗi sợ hãi về đường hậu vận của mình, ông gặng hỏi: “Cụ nói thế có nghĩa là sao?” Lão ăn mày ung dung vuốt chòm râu bạc, khoan thai giải thích: “Để tôi kể cho cậu nghe chuyện nhé. Năm Canh Tuất, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, đặt tên cho nơi đây là Thăng Long. Một đêm nọ, vua nằm mộng, thấy Phật Bà Quan Âm dẫn vua lên trên đài sen, lại hái tám bông hoa sen trắng muốt ban thưởng cho vua. Tỉnh mộng, nhà vua đem chuyện ấy kể với các quan trong triều. Các quan kể rằng ở hồ Tảo Liên mạn phía Cửa Nam thành, đúng là có một loài sen trắng nở sớm. Vua sai người đi hái thử, quả đúng là hệt như trong giấc mơ, bèn sai người xây dựng một ngôi chùa thờ Phật Quan Âm, đặt tên là Đắc Quốc. Giấc mộng ấy, sau này người đời mới biết rằng nhà vua đã được báo mộng triều Lý chỉ tồn tại đúng tám đời vua.” Ông Thập tròn mắt lắng nghe lão ăn mày kể lại. Lão cúi xuống rót chén rượu rồi gật gù. “Giấc mộng báo phác họa cho con người, nhưng không mấy ai biết đến. Chẳng trách có người tới số chết vẫn không biết mình sắp gặp họa.” Ông Thập cả kinh, ông lập cập quỳ xuống dập đầu trước mặt lão ăn mày hôi thối. “Bẩm cụ! Cụ giúp tôi. Cụ giúp tôi!” Lão ăn mày giật mình, lão luống cuống nhoài người qua mâm rượu thịt, đoạn đỡ lấy tay ông Thập rồi nói: “Kìa! Cậu Thập! Cậu làm gì thế?” “Cụ giúp tôi! Cụ giải cho tôi giấc mộng. Nếu không thì tôi xin quỳ mãi ở đây.” Lão ăn mày giật mình. “Giấc mơ như thế nào mà cậu có vẻ sợ hãi đến vậy?” Ông Thập ngồi phịch xuống, thì thầm kể lại cho lão ăn mày những giấc mộng liên tiếp mà ông gặp phải. Mà nào có phải là giấc mộng bình thường, bởi lẽ chính ông đã tận mắt nhìn thấy vết rắn bò vào gian nhà bếp, cũng chính ông là người đã sờ thấy mu bàn chân mình vương mấy cái vảy lấp lánh của con rắn vàng. Đâu là hư ảo, đâu là sự thật, ngay đến bản thân ông cũng không biết nữa. Đó là còn chưa kể thêm cái họa sát thân mà ông sẽ vướng phải vào năm ba mươi chín tuổi do chính lão ăn mày vừa nói. Một cảm giác ớn lạnh bao trùm lấy ông Thập, ông sợ rằng làng Địa Ngục có khi chết sạch không còn một ai. Lão ăn mày nghe xong liền trầm ngâm hồi lâu. Trời đã bắt đầu tắt nắng nhưng ông Thập không vội về như mọi khi. Bất quá thì ông sẽ ngủ lại như những lần mang hàng đi xa. Độ nửa tuần hương sau, lão ăn mày mới nhỏ giọng hỏi: “Cậu Thập này! Cậu có biết ba con rắn đó là gì không?” “Bẩm cụ, không ạ.” “Rắn vốn dĩ là thần. Cha nuôi của tôi khi còn sống hay dặn rằng nằm mơ thấy rắn bò vào trong bếp là điềm báo liên quan đến Táo Quân. Ba con rắn với ba màu khác nhau là hiện thân của ba vị Táo Quân trong nhà cậu đấy. Thiên cơ bất khả lộ mà họ vẫn báo cho cậu được biết. Chỉ e là…” “Cụ đừng làm con sợ.” “Chỉ e là sắp có nhiều người chết.” Đúng như ông Thập dự đoán, giấc mơ liên tiếp về ba con rắn khác nhau không hề tốt lành gì. Giọng nói trầm trầm khi mấy con rắn cất tiếng như vọng lại trong đầu ông. Ông ngạc nhiên quá đỗi, thì ra bầy rắn là hiện thân của Táo Quân. Thảo nào mà trong giấc mơ của ông, mấy con rắn chỉ xuất hiện trong bếp, lại mang những màu sắc khác nhau. Loài rắn đối với người làng Địa Ngục vốn dĩ đã quá đáng sợ, nhất là khi mẹ con nhà thằng Đậu bị con rắn trả thù đến chết. Thế nhưng, nói đi cũng phải nói lại, vốn dĩ thằng Đậu đập vỡ trứng rắn, giết hại con rắn mẹ còn đang ấp trứng, vậy nên bị con rắn đực trả thù âu cũng hợp với lẽ thường ở đời. Chính bản thân ông Thập mơ thấy rắn, mà lại là vị Táo Quân hiện về báo mộng, nhắc nhở ông về cái nạn mà làng Địa Ngục phải chịu. Điều mà ông Thập băn khoăn không hiểu, đó là băng cướp năm xưa đã không còn, cớ sao đến bây giờ dân làng vẫn còn phải gánh nghiệt oán lớn đến vậy? Đoán chừng được tâm tư của ông Thập, lão ăn mày nghiêm giọng hỏi: “Thứ lỗi cho tôi hỏi thẳng. Người làng cậu đã từng gây ra tội lỗi trời tru đất diệt hay chưa?” Vừa nghe câu hỏi, ông Thập đánh rơi luôn bầu rượu trên tay xuống đất vỡ toang. “Chưa… chưa từng. Người làng con quanh năm chỉ biết ruộng vườn. Săn thú thì có, chứ… chứ giết người thì chưa.” Ông Thập ấp úng. Lão ăn mày nhìn ông Thập như đang dò xét. Cảm giác đè nén trong lòng khiến ông Thập đổ mồ hôi dù đang giữa trời mùa đông. Ông không lạ gì câu chuyện từ đời tổ tiên của cả làng - những người từng là một băng cướp gây họa ở truông nhà Hồ, sau bị một viên quan nội tán triệt phá. Ông cũng rõ như lòng bàn tay vụ thảm sát cả gia tộc người mạn ngược buôn tơ lụa năm nào. Mặc dù không được tận mắt chứng kiến, song ngay từ lúc còn nhỏ, ông đã được bà nội mình để đi kể lại về cái đêm máu chảy thành sông, thấy chất đầy đường như thế. Bà nội ông, cũng như những người trong đám tàn dư của băng cướp đã phải bỏ trốn khỏi vùng đất rợn ngợp ấy. Khó mà so sánh giữa truông nhà Hồ và làng Địa Ngục xem nơi nào âm u, rợn ngợp hơn. Nhưng dù vùng đồi núi bao quanh làng có hoang vu đến mấy thì dân làng vẫn thà sống ở đây hơn là về nơi cũ. Dù không nói ra nhưng ai cũng hiểu rằng đám con cháu của băng cướp sợ cái nơi đã đoạt mạng cả gia tộc vô tội. Ngẫm ra cũng phải, ai mà chẳng rùng mình trước một khu đất rộng lớn hoang vắng, hằng đêm lại có những cái bóng trắng toát bay phất phơ trên từng nhánh cây, bãi cỏ? Ai mà lại muốn ở nơi mà đêm đêm chợp mắt lại nghe thấy tiếng dao kiếm va vào nhau loảng xoảng, tiếng kêu cứu thảm thiết của đám người, rồi mùi máu tanh nồng nặc bay tới? Ông Thập giật mình nhớ đến khung cảnh bầy đom đóm hằng đêm vẫn bay qua bay lại trong làng ông. Chẳng lẽ vong hồn của gia tộc buôn tơ lụa ấy vẫn kề cận người dân làng ông để chờ cơ hội đoạt mạng trả thù? Ông Thập ngôi thừ người, gương mặt ông càng lúc càng trắng bệch. Bất chợt có một cơn gió lạnh buốt ùa đến, xộc thẳng vào mặt ông làm cho ông quay về với thực tại. Ông ngẩng lên thì không thấy lão ăn mày đâu nữa. Chỉ có tiếng quạ réo, hòa lẫn với tiếng chim lợn vang lên từ đâu đó vọng lại. “Quái lạ! Rõ ràng là lão ăn mày vừa mới ngồi đây. Sao thoắt một cái lão đã biến đâu mất rồi?” Ông Thập lấy làm lạ. Quanh khu chợ rộng lớn giờ chỉ còn mình ông. Cơn gió lớn ùa về, đám lá cây trong rừng xào xạc, những mảnh màn che ở sạp hàng bỏ hoang bay phất phơ trong gió. Tiếng sấm đì đùng trên không trung như muốn làm tăng thêm cái hoang vu, âm u của ngày rằm cuối tháng. Trời chuyển cơn mưa rào, ông Thập vội vã xách cái gùi mây đi tìm nhà dân tá túc. Dưới chân núi gần khu chợ mà ông Thập hay lui tới có một ngôi làng nhỏ. Gọi là làng nhưng thực chất nhân khẩu ở nơi này không nhiều, thậm chí còn ít hơn số dân làng Địa Ngục lúc bấy giờ. Nói đúng hơn, ngôi làng là nơi tập trung những tiểu thương từ những nơi khác đến để buôn bán. Ngày thường, ngôi làng vốn không có nhiều người qua lại, nhưng mỗi ngày chợ phiên họp thì kẻ qua người lại, khiến nơi đây thêm phần náo nhiệt. Ông Thập thường xuyên nghỉ chân lại căn nhà trọ trong làng, cũng coi như có mối quan hệ. Chủ nhà trọ là gã Tam, người ta thường gọi gã là Tam thọt hay Tam quỷ. Sở dĩ có cái biệt danh Tam thọt là vì gã có cái tật ở chân ngay từ khi còn nhỏ, còn Tam quỷ là do gã có biệt tài kể chuyện liên quan đến yêu ma quỷ quái. Mỗi khi trời tối, đám lái buôn chẳng có việc gì làm bèn ngồi quây quần trò chuyện bên đống củi cháy tí tách. Kể chuyện đông chuyện tây mãi cũng chán, gã Tam mới đem chuyện ma ra kể. Gã kể về yêu quái Xương ở huyện Phong Châu thuở trước. Đêm đêm, vòng phách của yêu quái Xương thường bay lảng vảng khắp nơi để nhập vào những người đàn bà yếu bóng vía. Khi thì nó nhập vào ả đàn bà bán rượu, lúc thì nhập vào cô bán tương. Về sau, người trong làng biết được yêu quái Xương là hồn của người phụ nữ họ Hồ, bèn rủ nhau quật mộ của ả, lấy xương tán xuống sông, từ đó chuyện yêu quái nhập người bớt hẳn. Những chuyện khẩu truyền về ma quái trong dân gian vốn rất nhiều, thế nhưng qua lời kể của Tam thọt, sự ma mị và rùng rợn của câu chuyện như tăng thêm mấy phần. Người ta bảo gã được trời phú cho biệt tài kể chuyện, ai nghe một lần là nhớ mãi. Chính ông Thập cũng thường xuyên lui tới quán trọ tồi tàn của gã chỉ để nghe chuyện ma. Hôm nay, ông ngồi nói chuyện với lão già ăn mày tới xế chiều, trời lại sắp mưa to gió lớn, ông Thập quyết định dừng chân tại nhà trọ của gã để ngả lưng, mai về làng sớm. Ông vừa đặt chân đến cửa nhà trọ thì thấy bên trong rất đông người. Họ ngồi tụ tập quanh cái bếp lửa đặt giữa nhà cho ấm cúng, gã Tam đang say sưa kể chuyện. Ông Thập khẽ hạ cái gùi xuống, bước khẽ khàng, ngồi xuống manh chiếu đã bạc màu. Tam quỷ hắng giọng: “Mọi lần tôi kể cho bà con nghe toàn chuyện ma được người khác kể lại. Hôm nay thì khác, Tam quỷ tôi xin hầu bà con một chuyện có thật. Ấy là chuyện lão ăn mày yêu quái ở cái làng này.” Một người khác chợt xen vào: “Có phải lão ăn mày cụt chân, cả người bốc mùi hôi thối hay đi xin ăn không?” “Chính phải! Chính phải. Lão ta là ma đấy. Chuyên rình để bắt hồn người. Ai đang nói chuyện với lão mà thấy lão biến mất thì đích thị sắp bị lão mò đến bắt hồn đi rồi!” Gã Tam hạ giọng thầm thì. Cái điếu cày trên tay ông Thập rơi xuống, tạo thành một tiếng động lớn. Hết thảy mọi người đều giật mình quay lại. Cả người ông Thập nổi da gà, một suy nghĩ thoáng nhanh qua đầu ông: “Lẽ nào… chính là lão thầy bói quà đội lốt ăn mày vừa nãy?” HỒI 3 CHUYẾN ĐÒ CHỞ VONG Tim ông Thập khẽ thốt lên một cái, gương mặt ông trắng bệch vì sợ hãi. Ông chột dạ nghĩ thầm: “Chẳng lẽ mình vừa nói chuyện với ma?” Không một ai để ý đến vẻ mặt thất thần của ông Thập, bởi lẽ họ còn mải mê nghe Tam quỷ thao thao bất tuyệt: “Gia đình tôi sống ở đây hơn chục năm rồi. Ngày trước, nơi đây không nhộn nhịp như thế này đâu, chẳng qua tri huyện cho dựng chợ ở đây nên đông vui, tấp nập hơn trước. Chợ dựng được hơn một năm thì lão ăn mày què từ đâu đến kiếm sống. Bà con biết đấy, cứ có chợ là có ăn mày, mà đâu phải là một người đâu. Có khi phải tới mấy người ấy chứ. Ấy vậy mà từ ngày lão ăn mày ấy tới đây, chẳng có ai dám tranh chấp địa bàn với lão. Nói đúng hơn thì chẳng còn ai có thể tranh giành, bởi mấy gã ăn mày trước đều bị ngơ ngơ ngẩn ngẩn.” Trước vẻ mặt hoang mang của mọi người, Tam quỷ lấy làm thỏa mãn lắm. Lúc này, gã đưa mắt nhìn ra ngoài phía cửa sổ xem có ai nghe lén hay không, rồi hạ giọng thầm thì đầy kích động: “Nếu mà như thế thì chuyện cũng chẳng có gì đáng nói. Thế nhưng cách đây vài năm, có một vụ án mạng ngay giữa chợ liên quan đến lão ăn mày què. Tôi đây này, chính tôi là người chứng kiến từ đầu đến cuối. “Năm đó, trời cũng lạnh cắt da cắt thịt như thế này. Hàng xóm nhà tôi khi ấy là thằng Tứ bán cháo lòng ở chợ. Hôm ấy, nó vừa mới dọn gánh cháo lòng ra bán thì lão ăn mày què từ đâu tới xin ăn. Lão kêu lão đói lắm, mấy ngày nay chẳng có gì bỏ vào bụng. Thằng Tú bực mình vì chưa kịp mở hàng đã có người xin xỏ, nó toan đuổi đi thì lão ăn mày ngỏ ý xem hậu vận cho nó.” Tam quỷ ngừng một lát như thể cố kích thích sự tò mò của mọi người, đoạn nói tiếp: “Bà con còn lạ gì thằng Tứ cháo lòng đó nữa. Cái thói mê tín, ham cờ bạc của nó thì ở chợ này ai chẳng biết. Nghe thấy có thể tiên đoán hậu vận, thằng Tứ đồng ý ngay. Nó cho lão ăn mày què bát cháo lòng, lão ăn xong hẹn khi vãn chợ sẽ đến xem bói cho nó. Chiều hôm đó, chợ đã về hết, thằng Tứ dọn hàng xong ngồi đợi lão què. Chính mắt tôi nhìn thấy chứ chẳng phải điêu toa. Lão đến thật, lão xem bói cho nó bằng mấy đồng xu. “Lão nói với nó điều gì ấy, tôi không đứng gần nên chẳng nghe rõ, chỉ nhớ rằng thằng Tứ đăm chiêu lắm. Nó ngồi ngây ra suy nghĩ điều gì đó, lão ăn mày thấy thế bèn bỏ đi rất nhanh. Tôi cũng chẳng hiểu sao lão lại có thể lết đi nhanh như thế, vụt một cái lão đã biến mất sau lùm cây. Thằng Tứ ngồi đăm chiêu suy nghĩ đến khi ngẩng lên thì chẳng thấy lão già ăn mày đâu nữa. Nếu mà không phải tôi chứng kiến thì khéo tôi cũng cho là lão biết bốc hơi.” “Nếu chỉ có thế thì có gì lạ đâu?” Một người lên tiếng, mấy người khác phụ họa theo. Tam quỷ xua tay đáp lại: “Mọi người chưa biết hết đấy thôi. Ngay đêm hôm đấy thì thằng Tứ chết.” Đám người lại im phăng phắc. “Nhà tôi cách nhà nó một cái hàng rào, đứng ở hiên nhà tôi cũng có thể nhìn thấy khoảng sân của nhà nó.Trong sân có trồng một cây hòe, ở dưới đặt một cái chõng tre, đằng sau hông nhà là một cái chuồng lợn. Cái đêm thằng Tứ xảy ra chuyện, tôi bị tào tháo đuổi. Mẹ nhà nó! Cứ chốc chốc lại ôm bụng đi tìm cầu tiêu.Thằng Tứ chết vào giờ khắc nào thì tôi không rõ. Chỉ nhớ lúc ấy vào khoảng giờ Tí ba khắc, tôi vừa mới bước từ cầu tiêu đi ra thì thấy có bóng người treo trên cây hòe đung đưa. Tôi thầm nghĩ: ‘Khỉ gió! Đứa nào điên mà trèo cây tầm này được?’ Đi được vài bước, trong lòng tôi cảm thấy có gì đó kỳ quặc. Trèo cây mà sao hai chân lại thõng xuống như thế. Tôi tiến đến bờ rào để nhìn cho rõ hơn. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc của đêm rằm cuối năm, tôi nhìn thấy thằng Tứ treo cổ trên tán cây hòe, lưỡi dài ra cả tấc.” Có người rú lên một tiếng kinh hoàng, ngay cả ông Thập cũng giật mình. Tam quỷ sờ tay lên cổ, đầu ngón tay chạm vào yết hầu, vừa giả vờ siết cổ mình vừa nói: “Sợi dây thít chặt cổ nó như thế này này. Lưỡi nó thè ra, còn mắt nó thì mở tròn, chỉ nhìn thấy lòng trắng. Mà đâu chỉ có thế, ổ bụng nó bị rạch toang, lòi ra cả đống ruột dính đầy máu, hệt như ruột lợn. Đống ruột của nó bay phất phơ, ánh trăng rằm sáng đến nỗi soi tỏ cả những giọt máu nhỏ tong tong từ ruột nó xuống dưới đất. Tôi hoảng quá kêu toáng lên. “Nói ra các bác đừng chê cười, chứ lúc đấy tôi dường như són ra quần. Tôi ngã phịch xuống dưới sân, hai chân cứng như chì, không sao đứng dậy được. Nghe tiếng hét của tôi, bầy chó sủa inh ỏi. Trong nhà, mụ vợ tôi chạy ra hốt hoảng gọi to: ‘Cái gì đấy? Cái gì đấy?’ Mụ thấy tôi ngã sõng soài bên cạnh bờ rào, mặt hướng về phía cây hòe, bèn chạy đến gần tôi để đỡ tôi dậy; mụ kể lại là lúc đó gương mặt tôi cắt không còn giọt máu. Thế nhưng, vừa tới nơi thì chính mẹ nhìn thấy xác thằng Tứ. Mụ gào lên một tiếng rồi lăn ra ngất lịm.” Tam quỷ vừa dứt lời thì từ đằng sau nhà có tiếng guốc mộc đi loẹt quẹt. Thị Tam, vợ gã, tay bưng ấm trà xanh ra mời đám khách trọ. Hẳn là thị cũng nghe được diễn biến của câu chuyện nên gật đầu xác nhận: “Nhà em nào có biết chuyện gì xảy ra sau đó. Chỉ biết là khi tỉnh dậy thì đã thấy mình nằm trong nhà. Em tò mò chạy ra xem thì thấy quan quân đang bê xác thằng Tứ đặt lên xe bò, lại còn phủ rơm lên trên. Lão Tam nhà em sợ liên lụy bèn ba chân bốn cẳng đánh xe bò đi báo quan ngay trong đêm. Thằng Tứ vốn sống một mình, không vợ con, cũng chẳng họ hàng thân thích. Bởi thế cho nên nó chết cũng chẳng ai gào khóc. Chứ đổi lại người khác thì có khi khắp làng trên xóm dưới đã phát hiện ra nó chết rồi.” Cả đám người im lặng, không ai nói với ai câu nào, chỉ đưa mắt nhìn nhau tỏ vẻ bàng hoàng. Ông Thập nhíu mày hỏi lại: “Vậy từ khi thằng Tứ chết, hai vợ chồng bác sống ở đây có gặp sự lạ gì không?” Thị Tam được hỏi đúng điều mà thị muốn nói, liên nhanh nhảu: “Có chứ! Có chứ! Ngay cái đêm thằng Tứ chết, chính mắt hai vợ chồng em nhìn thấy một con đò trôi lềnh bềnh trước cửa nhà nó trong lớp sương mù ban đêm. Lạ nhỉ! Sương mù vào đêm mùa đông ở vùng đồi núi thì thiếu gì. Nhưng mà… nhưng con đò trôi thì làm sao mà đi trên cạn được?” Không ai tiếp lời thị, đám người có già có trẻ căng tai như muốn nuốt từng lời thị nói: “Nhà chúng em còn nghe rõ ràng từ trên đó có tiếng gọi: ‘Tứ ơi! Tứ đi! Nhanh lên!’ Nhưng thằng Tứ làm sao trả lời được, nó bị quan trên đưa xác đi ngay trong đêm rồi còn đâu. Nói ra sợ các bác không tin chứ… em nghe rõ mồn một tiếng gọi vang vọng như từ cõi âm tào. Mà.. mà đâu phải một mình em nghe thấy. Chồng em cũng nghe thấy nữa mà. Có đúng không mình?” Thị Tam quay sang chồng như muốn tìm thêm sự khẳng định. Gã Tam nhấp ngụm nước trà rồi nói tiếp: “Đích thị là có tiếng gọi như vậy đấy các bác ạ. Tôi còn nghe thấy có tiếng người gõ kẻng nghe trầm trầm, đục đục nữa cơ. Một lúc sau thì biến mất.” “Thế… thế sau đó, hai bác còn thấy gì nữa không?” “Không!” Thị Tam khẳng định. “Nhưng vợ chồng em có sang gốc cây hòe thắp hương khấn vái cho cậu Tứ. Dù gì cũng là hàng xóm.” Tam quỷ quay sang nạt vợ: “Thôi! Bà hôm nay nói hơi nhiều rồi đấy. Đi vào trong xem cơm nước thế nào đi!” Thị Tam liếc nhìn chồng ra chiều hờn dỗi rồi lại loẹt quẹt đôi dép đi vào bên trong. Gã Tam chờ cho thị đi hẳn mới nói tiếp: “Kể ra thì cũng thật lạ. Thằng Tứ đang yên đang lành, cớ sao lại treo cổ tự vẫn? Lúc nó chết, dưới cái chõng tre của nó còn con dao bầu chọc tiết lợn cơ mà? Nếu muốn tự sát thì cứa cổ một cái có phải nhanh hơn không? Làm sao phải tự treo cổ rồi lại rạch bụng mình cho rắc rối? Mà sao quan trên lại bưng bít vụ thằng Tứ treo cổ?” Tam quỷ nhìn một vòng quanh đám người đang có rúm vì sợ hãi, rồi thì thào: “Thằng Tứ chết khi lão ăn mày què vừa xem bói cho nó. Tôi đoán… tôi đoán là chính lão ăn mày đã xúi thằng Tứ chết, hoặc dọa cho nó chết.” “Nhưng… nhưng làm thế để làm gì?” Một người khác thắc mắc. Gã Tam trợn mắt. “Ai mà biết được chứ? Thằng Tứ suốt ngày chòng ghẹo lão, có lần còn đánh đuổi lão đi. Cái ngày lão xem bói cho nó thì đúng là ngày nó chết chứ sao. Chắc chắn lão ăn mày có liên quan.” Ông Thập vô thức nhìn ra hướng cây hòe trước cửa ngôi nhà bỏ hoang, bên cạnh cái hàng rào thấp tè. Cây hòe đứng trơ trụi trong tiết trời mùa đông lạnh giá, thỉnh thoảng có cơn gió thổi đến làm mấy cái lá lơ thơ phất phơ trông vô cùng thê lương. Câu chuyện đã hết, nhưng đám người hiếu kỳ tụ tập tại nhà Tam quỷ vẫn dùng dằng chưa chịu đi. Phần đông vẫn tiếp tục ngồi nán lại để bàn luận sôi nổi về cái quỷ sự giật gân mà họ vừa mới được nghe. Không ai biết vì sao thằng Tứ lại chết, cũng chẳng ai đoán được vì sao quan trên lại không điều tra rộng rãi vụ án này. Điều làm mọi người băn khoăn nhất là con đò trôi lềnh bềnh trong màn sương mờ ảo ghé qua trước cửa nhà thằng Tứ là thứ gì mà lạ lùng đến thế? Mỗi người một ý, không ai chịu nhường ai. Họ rôm rả nói chuyện đến nửa đêm mới dứt. Trăng lên cao, ánh trăng đêm rằm cuối năm tỏa ra bàng bạc, soi tỏ đường đi. Lúc này, đám người nghe chuyện mới lũ lượt kéo nhau ra về, chỉ còn những người trọ thực sự như ông Thập ở lại nhà gã Tam. Ông Thập ngồi cạnh bếp lửa bập bùng, nhâm nhi ít thịt trâu gác bếp cùng chén rượu ngô thơm lừng, ngọt lịm. Tam quỷ đứng ngoài hiên tiễn khách khứa ra về, không quên hứa hẹn lần sau sẽ kể thêm chuyện mới. Ông Thập không thể không nhận thấy mọi người cố ý đi vòng đường khác để tránh phải bước ngang qua nhà thằng Tứ cháo lòng. Ông lắc đầu, dốc thẳng chén rượu nồng vào cổ họng. Sống không ai đoái hoài, chết chẳng ai xót thương. Thật đúng là khổ! Đêm hôm ấy, nằm ngủ trong căn phòng trọ tồi tàn của Tam quỷ mà ông Thập cứ thao thức nghĩ đến câu chuyện vừa nghe lúc chiều tối. Vốn là người thông minh, ông Thập cũng đoán ra được vài phần. Đầu tiên, ông nghĩ đến con đò ma quái bồng bềnh trong sương rồi có tiếng người gọi tên thằng Tứ cháo lòng. Khi vừa nghe thấy vợ chồng Tam quỷ nhắc đến, ông Thập biết ngay đó là một con đò chở vong. Nhiều vùng còn tồn tại những giai thoại về con đò đưa linh hồn người chết về cõi u minh. Người ta kể lại rằng trên con đò này có quan sai của Diêm Vương đến để dẫn người chết lên đò, lại có âm binh chèo đò với đội mắt trống rỗng, đen sì, không có một chút ánh sáng nào trong đó. Con đò trôi bồng bềnh trong không trung lúc ẩn lúc hiện. Điều đặc biệt ở chỗ là đò không vào tận nơi tạ thế của người chết, mà chỉ đứng từ phía xa gọi tên người chết để cho vong hồn này lên đồ cho kịp chuyến. Có nhiều người nói rằng đó chỉ đón người chết đúng một lần duy nhất, nếu không kịp thì người chết sẽ trở thành oan hồn vất vưởng chốn nhân gian. May mắn thì vong hồn tới được cửa chùa ăn mày, rồi nhờ công đức tụng niệm kinh A Di Đà của các vị sư mà được siêu thoát. Còn không may thì sẽ bị quỷ dẫn dụ, hoặc các thầy pháp chiêu hồn làm âm binh dưới trướng, mãi mãi không được đầu thai. Lúc nghe thấy Tam quỷ nhắc đến con đò, toàn thân ông Thập ớn lạnh. Bởi vì chính ông đã từng nghe bà nội mình lẩm bẩm khi vong hồn của bà đi tìm đứa cháu trai duy nhất: “Nhanh lên, không thì không kịp.” Bà nội ông cứ nắm tay ông mà lẩm bẩm mãi câu nói đó. Sau này ông mới hiểu, bà nội sợ không kịp chuyến đò. Ông cũng hiểu rằng bà nội còn sợ cháu mình bị ma quỷ giấu vào rừng sâu, chết đường chết chợ hơn. Nghĩ đến đó, bất giác ông thở dài một tiếng nặng nề. Chuyện quan tri huyện giấu nhẹm vụ thằng Tứ tự tử, ông cũng đoán được dăm ba phần. Ông nhẩm tính, năm thằng Tứ cháo lòng vong mạng, tri huyện cũng đã gần đến ngày cáo lão về hưu. Bao nhiêu năm đương chức, cả một vùng rộng lớn do quan quản lý chẳng hề xảy ra vụ trọng án nào. Nay thằng Tứ chết bất đắc kỳ tử, quan trên mà biết chuyện, đòi điều tra cho ra nhẽ thì còn đâu cái vẻ vang mà mấy chục năm trời quan gây dựng? Mà thằng Tứ chết nào có ai kêu oan xin được tra cứu rõ ràng. Thôi thì nghiệp ai làm người ấy gánh, quan tri huyện sai mấy thằng lính quèn tìm một cái xe bò và một người khâm liệm đến hạ xác thằng Tứ xuống rồi chôn vội sau chân núi. Quan cho người làm một mâm cơm cúng người chết, một vò rượu và một ít tiền vàng, thế là xong, coi như uy danh cả đời của quan cũng được giữ trọn mà cũng không cần áy náy với vong hồn người đã khuất. Chân tướng sự việc thì có là gì? Điều làm ông Thập băn khoăn nhất, đó là việc lão ăn mày có liên can gì đến cái chết của thằng Tứ cháo lòng hay không? Đành rằng thằng Tứ thường hay xua đuổi lão ăn mày mỗi khi lão đến xin xỏ, nhưng điều đó cũng không đến nỗi phải giết một mạng người. Mà cứ cho là lão ăn mày muốn giết người để trả thù thì lão cũng chẳng thể làm được. Lão què quặt ốm yếu, trong khi thằng Tứ thì to cao khỏe mạnh, làm sao mà lão có thể treo xác thằng Tứ lên trên cao rồi moi ruột nó ra như mổ bụng một con lợn. Dù biết lão ăn mày không thể giết thằng Tứ, nhưng chính ông Thập cũng lấy làm nghi ngờ về cách hành xử kỳ lạ của lão. Lão đang xem bói cho người ta, tại sao phải tranh thủ lúc người ta chìm trong suy nghĩ về hậu vận mà trốn mất? Lão làm như thế để nhằm mục đích gì cơ chứ? Ông Thập cau mày tỏ ra khó hiểu, trong đầu ông lúc này tầng tầng lớp lớp suy nghĩ đang ồ ạt kéo tới, hệt như những đợt sóng thủy triều. Mải suy nghĩ, ông Thập không ngờ đã tới giờ Sửu, tiếng mõ văng vẳng từ đằng xa vọng lại, hòa lẫn với tiếng gió thổi. Trời bắt đầu đổ cơn mưa. Đối với những người sống ở chốn đô thành náo nhiệt, một cơn mưa tựa như thứ tẩy uế hồng trần, nhưng với những người sống ở nơi hoang vu rừng thiêng nước độc thì lại khác. Mưa là thời điểm người ta cần đặc biệt chú ý, đường đi lối lại trong rừng sẽ khó khăn hơn, sẽ xuất hiện nhiều rắn rết hơn, chưa kể đến việc đi lại trong mưa sẽ dễ bị lạc đường hơn bình thường. Cơn mưa lớn dần, từng giọt mưa rơi tí tách trước bệ cửa sổ nơi ông Thập nằm ngủ, hơi nước thổi vào lạnh buốt. Ông ngồi dậy, với tay ra ngoài để đóng cánh cửa sổ lại cho khỏi hắt nước mưa. Từ cửa sổ nơi ông nằm nhìn thẳng qua góc sân nho nhỏ của nhà Tam quỷ, nếu nghiêng đầu sang bên trái một chút sẽ thấy hàng rào thấp lè tè và cây hòe nhà thằng Tứ cháo lòng. Ông Thập vừa chạm tay vào cái cửa sổ tồi tàn, bất chợt một tia chớp lóe lên làm sáng bừng cả không gian. Trong một tích tắc, ông nhìn thấy trên phía cây hòe có bóng dáng ai đó đang treo lủng lẳng, đầu ngoẹo sang một bên. Ông Thập hoảng hồn, bụng ông như có ai đó thúc vào một cái đau điếng, ông rú lên: “Ối giời ơi!” Nghe tiếng hét của ông Thập, Tam quỷ đang nằm ngủ ở gian phòng bên giật mình tỉnh giấc, ú ớ hỏi lại: “Cái gì vậy? Ai hét vậy?” Cơn mưa đêm khiến cho không gian lạnh căm căm, gã không thấy vợ mình nằm cạnh, gã cũng chẳng kịp suy nghĩ nhiều, chỉ choàng với cái áo rồi cầm chiếc đèn cây chạy sang phòng bên cạnh. “Ai đấy? Sao đêm không ngủ còn hò hét cái gì?” Gã gắt nhẹ. Chiếc đèn cây tỏa ánh sáng tù mù nhưng cũng đủ khiến căn phòng trở nên ấm áp hơn ít nhiều, ông Thập ngồi bàng hoàng trên chiếc chõng tre phủ vài tấm vải tạm bợ. Ông quay ra nhìn thẳng vào mắt Tam quỷ rồi nói với giọng run run: “Trên cây hòe… có… có… người.” Nghe ông Thập nói, Tam quỷ giật mình hoảng hốt, suýt đánh rơi chiếc đèn cây xuống đất. “Ông… ông nói cái gì cơ?” Ông Thập lúc này lòng dạ rối bời, ông vẫn ngồi trên giường, toàn thân run rẩy vì khiếp đảm. Ông hướng mặt về phía cửa sổ. “Tôi vừa thấy trên cây hòe có người. Mà hình như hình như là đang treo lơ lửng.” Tam quỷ thất kinh. Gã bạo gan trèo lên giường, khom người nhìn qua cửa sổ. Gã chẳng thấy gì ngoài một màn đêm mịt mùng với những giọt mưa nặng hạt. Ông Thập sợ đến ngây người, cửa sổ còn chưa kịp đóng lại, nước mưa táp vào, chăn mền bị ướt một khoảng. Tam quỷ ngó nghiêng trước cửa sổ một lúc, nhưng không thấy gì bèn tiện tay đóng luôn hai cánh cửa lại. Gã đứng thẳng người rồi hỏi nhỏ ông Thập: “Bác nhìn thấy người chết treo hay sao? Bác có chắc không?” Dưới ánh đèn leo lét, ông Thập nhìn Tam quỷ rồi nói với giọng quả quyết: “Bác Tam! Tôi không hề chiêm bao, vì tôi đã ngủ đâu. Trời mưa to quá, tôi dậy để đóng cánh cửa sổ lại thì đúng lúc ấy có tia chớp nháy lên. Đúng lúc đó, tôi nhìn thấy bóng ai đó trên cây hòe, tôi sợ quá kêu lên.” Ông Thập lặng nhìn Tam quỷ đang đứng bần thần suy nghĩ. Ông hiểu rằng gã không hoàn toàn bị thuyết phục bởi câu chuyện của mình, nhưng cũng chẳng thể nào phản bác. Cây hòe vẫn còn đó chứ chẳng thể mọc ra chân mà chạy. Nếu muốn xác minh thì cùng lắm ông sẽ cùng gã đi đến đó để xem xét. Cùng lắm là hơn chục bước chân chứ đâu có xa xôi gì. Nói thì nói vậy, nhưng chính ông Thập cũng mong là mình nhìn nhầm. Ông không hề muốn vong hồn của thằng Tứ cháo lòng lảng vảng về ngôi nhà cũ của hắn. Nếu mà quả đúng như thế thật thì sau này ai còn dám đến nhà Tam quỷ để ở trọ nữa. Bấy lâu nay, ông Thập tự hào bởi sự gan dạ của mình. Nếu không gan góc thì làm sao ông dám băng rừng vượt dốc để đi từ làng Địa Ngục xuống dưới chân núi mà buôn bán. Nhưng từ sâu trong tâm thức, ông Thập không dám chắc ông có quay lại nhà Tam quỷ để trọ nữa không, nếu như vong hồn của thằng Tứ cứ lảng vảng bên cạnh. Ai lại muốn cả ngày đi làm mệt nhọc, tôi lại chịu đựng cảnh ma quỷ bày ra trước mắt? Tam quỷ nghĩ ngợi điều gì đó, gã châm cây đèn cây trong phòng ông Thập lên rồi nói nhỏ: “Thôi! Cứ đi ngủ đã. Có việc gì thì mai tính sau.” Tam quỷ quay gót trở về phòng ngủ của mình. Nhà gã tuy không rộng rãi bề thế nhưng cũng được xây theo lối kiến trúc ba gian thường thấy ở vùng Bắc Bộ. Gian chính giữa là nơi gã đặt chiếc bàn thờ cùng cái sập gỗ đào thật lớn để đón tiếp những người muốn nghe gã kể chuyện. Gian hướng nam là nơi gã xây hai phòng trọ để cho lái buôn nghỉ ngơi. Chếch về phía sau một chút là gian phòng ngủ của vợ chồng gã, được xây phân cách với phòng trọ bởi góc sân nho nhỏ, vừa để tạo không gian thoáng đãng cho khách, vừa riêng tư cho gia đình. Gã men qua góc sân, trong lòng cảm giác mơ hồ. Bất chợt, bụng dạ Tam quỷ dâng lên một dự cảm chẳng lành. Gã bước nhanh về phòng để tìm vợ. Giường ngủ vẫn trống trơn như lúc gã rời đi. Gã quay ra cửa ngóng đầu về phía cầu tiêu: “Mình ơi! Mình có ở đấy không?” Không có ai trả lời. Cảm giác bất an trong lòng gã càng tăng. Gã khoác áo tơi, đi vội ra phía cầu tiêu, trên tay còn cầm một ngọn đuốc rất lớn. Cầu tiêu không có ai. Vậy thì vợ gã đi đâu? Cơn mưa càng lúc càng nặng hạt, gió thổi vun vút khiến cho ngọn đuốc bập bùng như sắp tắt. Tam quỷ lại đi ngược lên gian nhà trên tìm vợ. Cả gian nhà không có ai, chỉ có tiếng lép bép của mấy con thiêu thân lao vào chiếc đèn cầy đặt trên bàn thờ. Tam quỷ lúc này mới cảm thấy rờn rợn xen lẫn bất an tột độ. Gã rảo bước thật nhanh về phía gian phòng nơi ông Thập đang nằm ngủ. Cây đèn cầy chính gã thắp cho ông vẫn đang sáng, gã mở cửa bước vào rồi khẽ gọi: “Bác Thập! Bác Thập ơi!” Ông Thập giật mình dậy ngay, ông ngơ ngác hỏi: “Có chuyện gì thế? “Vợ tôi đi đâu mất rồi ấy. Tôi tìm suốt từ nãy đến giờ chẳng thấy đâu cả.” Ông Thập ngạc nhiên, lập tức ngồi hẳn dậy, vừa với tay búi cái tóc thành củ hành ngược ra đằng sau, vừa hỏi nhỏ: “Bác đã đi tìm chưa? Biết đâu bác gái lại đi cầu tiêu rồi bị trúng gió ngất xỉu thì sao?” “Tìm rồi! Ra tận nơi rồi nhưng không thấy.” Tam quỷ lắc đầu. “Sao lại thế được nhỉ? Mưa to gió lớn thế này, bác gái đi đâu được?” Ông Thập vừa dứt lời, một tia chớp rạch ngang bầu trời, tiếp theo đó là tiếng sấm nổ đì đùng trên không trung như muốn xé toang bầu không khí tĩnh mịch nơi miền sơn cước. Hai người đàn ông chết lặng như trời trồng, bốn mắt nhìn nhau. Cả hai đồng loạt quay đầu về cái cửa sổ vừa đóng chặt, dù không ai bảo ai nhưng cả hai đều có chung một suy nghĩ. Tam quỷ vội vã bước ra khỏi phòng, không kịp nói một lời, run run cầm cây đánh lửa châm ngọn đuốc lớn. Ông Thập thấy vậy cũng vội vàng đi theo. Cơn mưa nặng hạt trong đêm làm cho không gian tê buốt, gió thổi thốc vào ốc. Hai người đàn ông mang theo hai chiếc đuốc lớn, những giọt mưa rơi xuống khiến cho ngọn đuốc lập lòe như những đốm lửa ma trơi ngoài nghĩa địa. Tam quỷ đi phía trước, ông Thập bám sát phía sau. Cả hai dừng lại bên cái hàng rào thấp lè tè, ngăn cách giữa nhà Tam quỷ và Tứ cháo lòng. Tam quỷ giơ ngọn đuốc cao quá khỏi đầu, hướng về phía cây hòe ma quái. Ánh lửa bập bùng soi tỏ được thân cây hòe cổ thụ. Cả hai người đàn ông căng mắt nhìn, hơi thở dồn dập vì hồi hộp. Trong màn đêm mù mịt, trên tán cây um tùm, lộ ra một đôi chân buông thõng. Tam quỷ đứng như ngày người ra, mắt nhìn chăm chăm về phía trước. Ông Thập dường như nín thở, cố với tay cho cây đuốc của mình sát gần hơn. Không khí trong đêm mưa cũng như dây đàn, một tia chớp khác lại lóe lên, cả không gian bừng sáng. Dù tia chớp chỉ chiếu rọi trong tích tắc, nhưng cũng đủ cho cả hai người đàn ông nhìn thấy trước mặt họ là người đàn bà bị treo cổ. Nhận ra vợ mình, Tam quỷ rống lên một tiếng hãi hùng rồi nhảy qua bờ tường rào, đạp lên cái chõng tre mà ngày trước thằng Tứ cháo lòng vẫn ngủ trưa. Gã ôm lấy vợ mình mà khóc không thành tiếng. Ông Thập đứng ngây người ra nhìn, bàng hoàng không thốt được tiếng nào, dù là tiếng hét hãi hùng. Tam quỷ khóc nức nở, hòa lẫn với tiếng gió thổi vun vút, tiếng sấm nổ đùng đoàng từ xa. Mưa tạnh dần, thỉnh thoảng có vạt nước đọng trên tán cây hòe bị gió thổi tạt lại. Tam quỷ run lẩy bẩy đứng trên cái chõng tre để ôm chặt lấy xác của vợ mình. Thị Tam treo lơ lửng trên cây, hai chân thõng xuống, đầu ngoẹo sang một bên. Người thị ướt sũng vì nước mưa, riêng phần cổ thì bị thắt lại bởi sợi dây thừng to bằng ba ngón tay người lớn. Ông Thập im lặng, trên tay vẫn cầm chắc cây đuốc để soi sáng cho Tam quỷ. Cây đuốc của gã bị quẳng sang một bên lúc gã nhảy lên chõng tre ôm lấy xác vợ, giả như trong lúc kinh hãi mà ông Thập cũng làm tắt đuốc thì hẳn sẽ nguy hiểm bội phần. Giờ Dần đã điểm nhưng trời vẫn còn tối thui, Tam quỷ đưa tay dò dẫm để cởi cái dây treo cổ. Ông Thập lúc ấy mới giật mình nói nhanh: “Đừng! Đừng mở dây thắt cổ. Phải cắt đi mới được. Không cắt đi là lại có người treo cổ tiếp đấy.” Tam quỷ sững người, luống cuống nhìn quanh để tìm thứ gì đó có thể cắt được. Ông Thập chỉ tay xuống dưới cái chõng tre. “Kia kìa! Dưới cái chõng tre hình như có con dao bầu.” Tam quỷ cúi xuống dùng đôi bàn tay để dò tìm vị trí con dao chọc tiết lợn mà Tứ cháo lòng để lại. Gã đứng thẳng người, kề dao vào sợi dây rồi bắt đầu cắt. Dao bầu vốn không xa lạ gì với người dân quê. Con dao không lớn lắm, chỉ dài gần bằng gang tay người lớn, đầu dao được vuốt nhọn, lưỡi dao mỏng dính. Khi giết lợn, đồ tể cắm phập vào cổ con lợn, dân gian quen gọi bằng thuật ngữ chọc tiết lợn là bởi vậy. Dao bầu tuy rất sắc, nhưng sợi dây treo cổ thị Tam vừa to vừa dai, Tam quỷ không cắt phăng được đành phải cưa tới cưa lui. Độ gần một tuần hương thì Tam quỷ cũng cưa đứt sợi dây thừng. Cả người thị Tam đổ xuống, thân thể thị cứng đơ. Thị vừa ngã xuống, ông Thập chợt nhận thấy sương mù từ đâu bay phảng phất khắp nơi. “Sao mà giống sương mù trong làng Địa Ngục thế?” Ông kinh ngạc nghĩ thầm. Tam quỷ đang sụt sùi ôm xác vợ trong tay bỗng thấy có sương mù bảng lảng trôi, bèn đưa mắt nhìn ông Thập. Cả hai nhìn nhau như ngây người, chẳng hiểu điều gì. Chợt từ đâu có tiếng kẻng gõ trầm trầm, đục đục vọng lại. Tiếng kẻng càng gần, màn sương mù càng dày thêm, cây đuốc trong tay ông Thập dường như sắp tắt. Tam quỷ dường như cũng đoán có điều gì đó sắp xảy đến, bèn đặt xác vợ xuống đất, ngẩng đầu ra ngoài cửa nghe ngóng. Cuối giờ Sửu, cây đuốc của ông Thập chỉ còn le lói ánh sáng tù mù. Trong màn sương bàng bạc giăng khắp núi rừng, một con đò bỗng hiện ra. Con đò trôi lững lờ trên không trung, mũi đò rẽ ngang màn sương mà trôi, cứ như thể đang băng băng trên mặt nước. Trước đó có bóng dáng một người nào đó đội nón xếp bằng, hai tay không ngừng vung những nhịp chèo khoan thai. Ông Thập và Tam quỷ ngây người nhìn con đò dừng ở trước cửa, khi ẩn khi hiện trong lớp sương trắng. Chợt cả hai nghe có tiếng nói âm u vang vọng: “Thị Tam! Thị Tam ơi!” Trên cành cây hòe âm u bỗng rung lên một tiếng, hai người đàn ông theo phản xạ ngẩng đầu nhìn lên tán cây. Tán cây rung rinh nhè nhẹ dù trời không có gió, cả ông Thập lẫn Tam quỷ đứng ngây người, một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng khiến cả hai run lên bần bật. “Lên đò!” Tiếng nói rờn rợn vừa nãy lại cất lên. Ông Thập nhìn thấy rõ ràng, con đò tiếp tục trôi đi rất nhanh, chớp mắt đã không thấy bóng dáng đâu nữa, cứ như thể nó chưa từng xuất hiện. Con đò đã đi xa rồi mà hai người đàn ông vẫn chết lặng vì quá hãi hùng. Khi ngọn đuốc trong tay ông Thập tắt ngóm, cũng là lúc bầu trời tờ mờ sáng, mấy người ở trọ cạnh phòng ông đêm qua lục đục trở dậy. Họ khoác những chiếc gùi mây trên lưng, khoác thêm manh áo dày nhưng vá chằng vá đụp để tránh cái lạnh của mùa đông. Vừa bước ra khoảng sân, mấy người nọ đứng sững vì khung cảnh hiện ra trước mắt. Ông Thập đứng dầm mưa bên cạnh hàng rào trông sang sân nhà thằng Tứ cháo lòng, miệng trắng bệch, không còn một chút máu nào. Mấy người nọ cảm thấy có gì đó kỳ lạ đang diễn ra, họ dắt díu nhau đến gần hàng rào để tìm hiểu cho kĩ. Vừa nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, mấy người đồng loạt gào lên sợ hãi. Bên cây hòe um tùm trồng trong góc sân nhà thằng Tứ, Tam quỷ quỳ cạnh xác vợ, người gã run lên từng hồi giống như một kẻ động kinh. Trước cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt, đám khách trọ ai nấy đều kinh hồn bạt vía, có kẻ thì ngã lăn ra đất, kẻ khác thì bỏ chạy về phía khu chợ phía trước, miệng rú lên hoảng loạn. Trời sáng rõ mặt người, lúc này ông Thập mới để ý kĩ gương mặt của vợ Tam quỷ lúc chết. Khi còn sống, thị không phải là người xấu xí, làn da của thị trắng ngần, khuôn trăng đầy đặn, đôi mắt thị lúc nào cũng lúng liếng đưa tình, xem ra cũng có phần lẳng lơ. Điều khiến cho thị không được đẹp hoàn toàn, đó là đôi môi của thị thâm sì như người bị bệnh. Mấy mụ đàn bà ở chợ kể cho nhau nghe là mụ từ nhỏ bị bệnh tim, càng lớn môi càng thâm lại, dẫu cho thị lúc nào cũng nhai trầu chóp chép.Ông Thập đăm chiêu nhìn xuống xác chết của Thị mới nhận ra cơn mưa suốt đêm khiến cho làn da của thị càng thêm nhợt nhạt đến mức ma quái. Trên vai và vạt áo của thị dính đầy những hạt li ti từ hoa hòe, ngày thường người ta vẫn dùng thứ này để hãm trà uống, chữa bệnh mất ngủ. Tam quỷ ôm xác vợ về nhà, ông Thập cầm cái chõng tre vất chỏng chơ bên hiên nhà để Tam quỷ có thể đặt xác của vợ lên. Gã cũng không quên mang theo con dao bầu chọc tiết lợn của thằng Tứ và cả sợi dây siết chặt cổ vợ mình. Chưa đầy nửa tuần hương sau, cả nhà Tam quỷ chật kín người. Ông Thập nhìn quanh, ước chừng như cả chợ đều đến đây để nghe ngóng. Đích thị là mấy kẻ ở trọ đêm qua đã ra đến chợ thông báo cho bà con. Người dân quê dù ở vùng nông thôn hay núi rừng đều thích hóng chuyện thiên hạ, nhất là những câu chuyện máu me kinh dị. Vợ thằng Tam quỷ chết bất đắc kỳ tử bên gốc cây hòe nhà hàng xóm là một sự kiện mà chẳng ai có thể bỏ qua. Trong số những người đến xem xác của thị Tam, ông Thập biết rõ rằng người đến chia buồn, giúp đỡ thì ít, mà kẻ đến nghe ngóng thì nhiều. Không biết bao nhiêu người xúm lại ông Thập để hỏi thăm, nhưng ông chỉ lắc đầu rồi bịa ra một lý do nhằm trốn tránh: “Các bác đừng hỏi tôi! Đêm qua trời mưa to, tôi nằm trong phòng ngủ say, đến khi ra ngoài thì đã thấy sự tình như thế. Nào tôi có biết gì đâu.” Người ta không dám hỏi Tam quỷ vì lúc này gã không còn khóc nữa mà ngồi bất động bên xác vợ, ánh mắt đục ngầu đỏ hoe, đằng đằng sát khí. Để xác thị Tam cho thiên hạ nhìn ngó chỉ trỏ cũng không đành, ông Thập vào trong gian buồng nhỏ tìm lấy cái chăn lành lặn nhất rồi phủ lên xác thị. Tam quỷ run run nhìn vợ, rồi đùng đùng cầm lấy con dao chọc tiết lợn của thằng Tứ cháo lòng đi phăm phăm về phía chợ. Ông Thập đang cởi cái bếp củi giữa nhà, trông thấy cảnh tượng ấy bèn hét lớn: “Bác Tam! Dừng lại! Bác Tam!” Mấy người lái buôn vẫn đứng ở trước cửa nhà hóng chuyện, ông Thập hoảng hồn gọi với theo: “Mau chặn bác ấy lại! Không là có án mạng bây giờ.” Gương mặt Tam quỷ đỏ phừng, ánh mắt vằn lên những tia máu. Ông Thập đuổi theo tóm chặt lấy Tam quỷ, đoạn giật tung con dao sắc lẻm từ tay gã, ông quát lớn: “Bác định làm gì? Giờ có giết lão ăn mày què thì bác gái cũng sống lại được đâu.” Tam quỷ vùng vẫy trong tay ông Thập, nghiến răng nghiến lợi nhưng nước mắt rơi lã chã: “Tao… tao.. tao phải giết nó. Chỉ có nó… nó giết vợ tao?” Mấy người đàn ông lái buôn hợp sức với ông Thập để kìm Tam quỷ lại. Vật lộn một lúc, gã cũng đành phải ngồi im trên cái ghế tre trong nhà. Cả ngày gã không ăn uống gì, người trong làng đến phụ giúp gã khâm liệm người quá cố, rồi quấn thị bằng manh chiếu nhỏ. Một cụ già thất thập cổ lai hy còn cắt thân cây chuối ở gần bờ rào, cắm lên đó mấy nén nhang, rồi ngồi tỉa tót que tre thành đôi đũa bông cắm trên bát cơm cúng người đã khuất. Mùi nhang khói nghi ngút bay khắp nhà, khiến ông Thập liên tưởng đến con đò ma quái ẩn hiện trong màn sương mù đêm qua. Khi Thị Tam đã yên lành trong manh chiếu bó chặt chờ đem chôn thì cũng là lúc trời ngả bóng về chiều. Đáng lẽ ông Thập có thể bỏ đi ngay vì dù sao ông cũng chẳng có quan hệ họ hàng gì với Tam quỷ, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì chỉ có ông và gã chứng kiến toàn bộ câu chuyện quái dị về con đò chở vong đêm qua, cả hai lại cùng nghi hoặc về lão ăn mày què bí hiểm. Bởi thế, ông Thập quyết định ở lại cùng Tam quỷ. Ông không biết mình có giúp được gì cho gã hay không, nhưng bỏ mặc gã một mình với cái xác chết tức tưởi của vợ thì cũng thật tội nghiệp. Vốn dĩ ông xuống núi là để tìm người có thể giải đáp giấc mơ về mấy con rắn trong nhà bếp của ông, thế nhưng mọi thứ còn đang mông lung kỳ bí thì hàng loạt sự kiện kỳ bí khác dồn dập kéo tới. Tuy vậy, điều khiến ông nghi hoặc hơn cả, đó chính là lão ăn mày què dị hợm. Dù ông dám chắc là lão không thể nào hại chết hai mạng người, nhưng chắc chắn lão ăn mày què phải biết một điều gì đó. Lại còn Tam quỷ nữa. Gã cứ khẳng định chắc chắn rằng lão ăn mày giết vợ mình chỉ vì đã chứng kiến cái chết đáng ngờ của Tứ cháo lòng. Mọi sự kiện đều quy về lão ăn mày, nếu ông Thập mà không canh chừng, để cho Tam quỷ giết lão thì há chẳng phải mọi chuyện đi vào ngõ cụt rồi hay sao? “Không được! Lão ăn mày què không được chết, vì nếu muốn biết rốt ráo mọi chuyện chỉ có thể bắt đầu từ lão mà thôi.” Ông Thập tuyên bố chắc nịch với chính lòng mình như vậy. Những ai từng sống qua mùa đông ở miền sơn cước mới biết tiết trời nơi đây tối nhanh và lạnh lẽo đến mức nào. Tối hôm đó không mưa tầm tã như đêm hôm trước, chỉ có hạt mưa phùn bị gió thổi bay bay như một lớp màn mỏng phủ khắp núi rừng. Tam quỷ cùng ông Thập ngồi uống rượu ngô bên cạnh bếp lửa cháy bập bùng, phía sau họ là cái xác của thị Tam được gói ghém trong manh chiếu mỏng. Vừa mới uống được hai tuần rượu thì Tam quỷ đột ngột hỏi ông Thập: “Bác có nghĩ là lão ăn mày què giết vợ tôi không?” Ông Thập không hề ngạc nhiên khi thấy gã hỏi điều này, ông đáp: “Không! Tôi tin là lão không giết bác gái nhà ta. Nhưng… quả đúng lão là người kỳ lạ.” Tam quỷ im lặng không nói gì, ông Thập lại nói tiếp: “Tôi đoán chắc bác cũng nhận ra điều này. Lão là một người tàn tật, lão chỉ còn hai cái đầu gối để lê lết khắp nơi xin ăn. Dù có muốn thì lão giết bác gái nhà ta bằng cách nào? Còn một điều nữa quan trọng hơn, đó là vì sao lão lại phải giết người? Những người trêu chọc lão hằng ngày ở cái chợ này nhiều vô số kể. Tại sao lão phải giết đúng bác gái nhà ta cơ chứ?” Tam quỷ uống rượu ừng ực, gã dốc cả vò rượu vào cổ họng, đoạn lại chùi mép bằng mu bàn tay. Ông Thập nhìn gã hồi lâu, rồi thở dài kể cho gã nghe chuyện gặp gỡ của mình với lão ăn mày què. Ông khéo léo giấu đi chi tiết lão giải mộng, chỉ kể lại cái cảnh lão què tiên đoán hậu vận cho mình. Vừa nghe tới đoạn lão ăn mày què biến mất khi ông Thập còn đang ngồi thì người suy nghĩ, Tam quỷ thốt lên một tiếng kinh hoàng rồi hỏi dồn dập: “Lão… lão biến mất giống như lúc lão xem bói cho thằng Tứ cháo lòng à?” “Ừ!” Ông Thập gật đầu khẳng định. “Ôi… bác Thập ơi…” Giọng Tam quỷ run run. “Bác phải cẩn thận đấy, không khéo… không khéo… bác lại là người vong mạng tiếp theo cũng nên.” Không phải ông Thập chưa từng nghĩ tới vấn đề này. Con cháu của băng cướp khát máu như ông thì làm sao dám mong một cuộc đời bình an, tử tế? Chỉ có điều ông không nghĩ rằng việc xem bói lại khiến lão ăn mày giết ông, điều đó chẳng mang lại lợi ích gì cho lão cả. Tam quỷ có vẻ hoang mang trước câu chuyện mà ông Thập vừa kể, gã không uống rượu nữa mà đăm chiêu suy nghĩ. Bầu không khí giữa hai người dường như căng thẳng hơn. Đúng lúc đó, một cơn gió mạnh thổi tung cánh cửa ọp ẹp của nhà Tam quỷ. Lớp sương mù bay là là trên mặt đất, hơi lạnh tràn vào khiến cho cả hai nổi hết da gà. Cả hai vô thức nhìn ra cửa. Đúng lúc ấy, trước khoảng sân nhỏ xíu của nhà Tam quỷ, lão ăn mày què đang đứng đó từ bao giờ. HỒI 4 BÌNH RƯỢU SỌ NGƯỜI Lão ăn mày đứng trước sân nhà Tam quỷ, nhìn chòng chọc vào bên trong nhà. Lớp sương mù bảng lảng xung quanh, len lỏi cả vào căn nhà đơn sơ, từng cơn gió thổi qua khe cửa vun vút nghe như tiếng ma than quỷ khóc. Lão vẫn mặc một chiếc áo vá chằng vá đụp, làn da bủng beo xám xịt, đôi môi thâm sì, tái nhợt đi vì cái rét buốt đến tận xương. Gương mặt lão không bộc lộ cảm xúc gì đặc biệt, chỉ im lặng đứng nhìn mà thôi. Dường như sự xuất hiện bất ngờ của lão ăn mày què khiến ông Thập và Tam quỷ ngây người ra nhìn. Đúng là lão chứ không sai. Lão què chống hai tay xuống đất, dồn trọng tâm vào tay, lấy hết sức mình lê tấm thân gây guộc chầm chậm tiến vào cửa. Tam quỷ như bừng tỉnh khỏi nỗi ngạc nhiên, cơn giận trong người gã bùng nổ, gã quay sang bên hông vơ vội lấy con dao bầu chọc tiết lợn rồi đứng phắt dậy, phăm phăm tiến đến lão ăn mày què. “Đừng! Bác Tam! Đừng có giết lão.” Ông Thập nhào theo. Tuy nhiên, Tam quỷ bỏ ngoài tai lời ông Thập, chạy ào tới trước mặt lão què, hai tay run run, đôi mắt đỏ hoe, vằn lên những tia máu dữ tợn. Gã giơ cao dao bầu trong tay, khi gã toan vung xuống người lão què thì ông Thập từ đằng sau ôm chầm lấy gã, đẩy gã sang một bên. Con dao chọc tiết lợn không đâm trúng người lão ăn mày mà chỉ sượt qua tay, khiến cho khuỷu tay trái của lão có một vết cắt dài chừng một đốt ngón tay người lớn. Tam quỷ quay phắt người lại, ngón tay gã run run chỉ thẳng vào mặt ông Thập rồi hét lớn: “Mẹ kiếp! Bác cản tôi làm gì? Tôi phải giết thằng chó này!” Giọng Tam quỷ lạc đi, hòa vào trong tiếng vù vù của gió. Ông Thập gằn giọng: “Giết người thì bác gái cũng không sống lại được. Bác không muốn biết tường tận mọi chuyện à?” “Nó… Nó… Nó là đồ sát nhân. Chính nó đã giết vợ tôi.” Tam quỷ rưng rưng như đang cố gắng nuốt nước mắt vào trong, gương mặt méo xệch, hằn lên sự đau đớn. Lão ăn mày để mặc vết thương đang rỉ máu, ngước mắt nhìn Tam quỷ rồi quả quyết đáp lại: “Tôi không giết vợ anh. Càng không giết cậu Tứ.” “Mày… mày… mày nói láo. Nếu không phải mày thì ai?” Tam quỷ trừng mắt nhìn lão ăn mày què quặt dưới chân mình. Chưa kịp để lão ăn mày trả lời, ông Thập đã hỏi lại: “Vậy thì cụ tới đây làm gì?” Lão ăn mày quay sang nhìn ông Thập với vẻ mặt bình thản. “Tôi đến đây để nói cho các anh biết điều đó. Hay nói đúng hơn là…” Lão quay sang nhìn Tam quỷ như muốn khẳng định với gã. “Tôi tới để giải oan cho chính mình.” Ông Thập nhíu mày suy nghĩ. Câu chuyện quái dị về cái chết của thằng Tứ cháo lòng vừa mới được Tam quỷ kể tối hôm qua, vợ gã cũng vừa mới chết. Vậy làm sao mà lão ăn mày biết được mọi nghi ngờ đang dồn về lão? Dù cho người làng xúm đen xúm đỏ lại xem xác thị Tam, rồi đồn đại khắp nơi, thì việc lão ăn mày biết được tin tức cũng không thể sớm như thế. Bởi lẽ, làm gì có ai nói với lão? Người dân nơi đây tin rằng lão là kẻ sát nhân, chắc chắn sẽ tránh lão như tránh tà, hà tất gì phải dính dáng đến lão? Nỗi nghi kỵ trong lòng ông Thập mỗi lúc một lớn, ông quay sang vỗ nhẹ vai Tam quỷ như thể trấn an gã, rồi hạ giọng nói nhỏ: “Cho lão vào bên trong để hỏi chuyện. Cứ để lão nói cũng không hại gì, có gì chúng ta tính tiếp.” Không để Tam quỷ từ chối, ông Thập gật đầu ra hiệu cho lão ăn mày đi vào bên trong, đoạn lại kéo Tam quỷ đi cùng mình. Hai tay gã còn đang nắm chặt thành nắm đấm, gương mặt vẫn toát lên vẻ căm hận tột cùng. Ngẫm ra cuộc đời cũng thật nhiều nỗi trái ngang. Vào giờ này hôm qua, ông Thập cùng đám lái buôn và mấy người trong khu chợ còn đang ngồi quây quần nghe vợ chồng Tam quỷ kể chuyện về cái chết kỳ bí của thằng Tứ cháo lòng. Ấy vậy mà hôm nay, mọi thứ đã khác hẳn: vẫn là bếp lửa ấy, vẫn là căn nhà có ánh đèn cầy sáng tù mù ấy, chỉ có điều người kể là lão ăn mày què, còn thị Tam đã trở thành người thiên cổ, nằm lạnh lẽo bên trong chiếc chiếu hoa vá lỗ chỗ. Lão ăn mày lết tới gần thi hài của thị Tam, lão khẽ thở dài rồi châm một cây nhang đốt cho người đã khuất. Ông Thập và Tam quỷ im lặng nhìn lão viếng vong hồn thị Tam, dù chẳng nói ra nhưng trong lòng cả hai người đàn ông dạn dày sương gió đều ngổn ngang suy nghĩ. Bầu không khí tịch liêu đến nỗi người ta có thể nghe rõ được hơi thở nhè nhẹ của ông Thập, tiếng nấc cụt của Tam quỷ. Sự căng thẳng bao trùm lên tất cả. Lão ăn mày què khó nhọc quay người lại, ngồi đối diện với hai người đàn ông. Lão nhìn ông Thập, rồi lại nhìn Tam quỷ một hồi, sau cùng mới cất giọng đều đều: “Hẳn mọi người đều cho rằng tôi là kẻ giết người.” Tam quỷ toan nói, nhưng ông Thập kéo tay, nhìn gã lắc đầu, ngụ ý đừng cắt ngang lời lão nói. Lão ăn mày như không để ý đến hành động của Tam quỷ, điềm đạm tiếp lời: “Cũng khó trách được mọi người nghĩ như vậy. Bởi vì xung quanh tôi có quá nhiều chuyện quái dị, người bình thường không thể giải thích được. Đêm nay tôi sẽ giải thích cho hai vị nghe, dù có tin hay không thì tôi cũng không dám oán trách nửa lời.” Lão ăn mày thoáng cười buồn, hít một hơi dài rồi nói tiếp: “Tôi lưu lạc đến khu chợ ở vùng núi hoang vu hẻo lánh này gần bốn năm rồi, chính xác là ba năm tám tháng. Lúc tôi mới đến, khu chợ vừa mới được quan tri huyện cho xây dựng, người buôn kẻ bán còn chưa tấp nập như bây giờ, thậm chí dân quanh vùng nhiều người còn chưa biết nơi này có chợ. “Đã là chợ thì phải có ăn mày, nhất là ở những vùng biên giới như thế này, ăn mày càng kiếm ăn dễ dàng. Ban đầu chợ có ba, bốn gã ăn mày như tôi, kẻ lớn nhất cũng đã trạc ngũ tuần tên là Đản, còn đứa nhỏ nhất thì mới mười tuổi, nó không có tên, tôi chỉ nghe bọn chúng gọi nó là thằng Câm. “Phàm đã làm nghề gì thì đều phải tuân theo luật của nghề đó. Ăn mày cũng có quy tắc của ăn mày, mỗi khu vực đều do một vài gã ăn mày nắm giữ, chuyện tranh chấp địa bàn rồi đánh nhau đổ máu vốn dĩ rất bình thường. Tôi vừa chân ướt chân ráo đến chợ thì vô tình gặp đúng vợ của quan tri huyện đi chợ cùng người hầu, thấy tôi què quặt vẫn phải đi xin ăn, quan bà thương tình cho tôi ít xu lẻ. Tôi chưa kịp mừng thì bọn thằng Đản và thằng Câm đi đến, chúng dẫn theo sau hai thằng khác nhìn tôi cười cợt. Biết sự chẳng lành nhưng thân cô thế cô, lại đang tàn tật nên tôi chẳng thể nào trốn được. “Chúng lôi tôi vào một nghĩa địa nhỏ bên dưới chân đồi rồi đánh đập. Chúng hoạnh họe, hỏi tôi từ đâu đến, lớn giọng nói đây là địa bàn của chúng, nếu tôi không ngoan ngoãn phục tùng thì phải biến đi chỗ khác, bằng không đừng trách chúng vô tình. Chúng cướp tiền xu lẻ của tôi, lại cướp đi cả cái bát mẻ mà tôi cầm để xin ăn.” Lão ăn mày què thở dài sườn sượt rồi nói tiếp: “Chúng ở đó hành hạ tôi cả ngày trời, nào đánh, nào đấm, rồi toan cắt thịt tôi để nướng ăn. May phước cho tôi, chúng chẳng có con dao nào, ví phỏng lúc ấy có thứ gì để cắt thịt thì chắc giờ này tôi chẳng còn ngồi ở đây mà nói chuyện với hai vị. Chúng đang đánh đập tôi thì chợt nghe có tiếng người đi tới. Ngày hôm ấy, trời cũng âm u, mây đen vần vũ như thế này, làm gì có ai đi đi lại lại giữa bãi tha ma hoang vắng vào lúc sẩm tối? Ấy vậy mà tôi và lũ thằng Đản đều nghe rõ mồn một có tiếng ai đó khấn rì rầm đâu đây vọng lại. “Tiếng rì rầm đó nghe rất lạ, không phải là tiếng cầu khấn dành cho người đã mất, nó giống như một bài khẩu quyết thì đúng hơn. Thằng Đản, thằng Câm buông tay khỏi cổ áo tôi, chúng im lặng nghe ngóng. Tiếng rì rầm cất lên từ sau một gò đất cao cao; trong hơi gió lành lạnh, tôi ngửi thấy mùi nhang khói thoang thoảng. Lúc đó, tôi đoán chắc chắn có ai làm chuyện mờ ám đâu đây. “Dường như bọn thằng Đản, thằng Câm cũng đoán được là có đám người nào đó đi tảo mộ. Các vị hiểu bọn ăn mày như lũ chúng tôi thích nhất là gì không? Đó là ăn trộm đồ cúng trên mộ người chết. Nhiều khi gặp phải nhà giàu cúng gà, cúng heo quay, chúng tôi còn mừng hơn cả cha sống lại. Bọn nó không hành hạ tôi nữa, chúng líu ríu chạy về hướng phát ra tiếng khấn rì rầm, mong tìm được thứ gì đó ngon lành. Tôi nhớ như in chúng chạy về cái gò đất trên cao, từ nơi đó có thể đứng nhìn bao quát cả khu chợ. Cái gò đất đó có rất nhiều người dân trong chợ này biết đến.” Lão ăn mày ngừng một lúc để nhìn Tam quỷ như thể tìm kiếm sự đồng tình. Có vẻ như Tam quỷ cũng biết đến gò đất giữa bãi tha ma dưới triền núi, gã gật đầu xác nhận nhưng vẫn im lặng không nói gì, chỉ nhìn chăm chăm vào lão ăn mày què. Lão hít một hơi dài rồi nói tiếp: “Một mình tôi nào dám chạy theo bọn thằng Đản, thằng Câm để kiếm chác đồ cúng trên mộ nhà người ta. Tôi vốn dĩ không đồng hội đồng thuyền với bọn chúng, bản thân lại què quặt thế này, sao làm được tích sự gì. Thế là tôi im lặng nằm xuống bãi cỏ để cho mấy vết thương chúng đánh đập khi nãy bớt đau. “Lạ lùng ở chỗ, khi bạn thằng Đản tiến tới chỗ gò đất để hóng người ta cúng khấn thì tiếng rì rầm đột ngột ngưng bặt. Cả người tôi mình mẩy ê ẩm, không biết chính xác chuyện gì xảy ra, chỉ nghe thấy bọn chúng hét lên kinh hoàng rồi bỏ chạy tan tác. Tôi cố gắng ngồi dậy, nấp sau một ngôi mộ để xem chuyện gì xảy ra thì chỉ kịp thấy mỗi thằng trong bọn chúng chạy về một phía. Thằng Đản thì bưng mặt chạy, thằng Câm thì ú ớ không thành tiếng, ngã lăn lông lốc. Hai thằng tay sai đi cùng với bọn chúng thì gào lên như bị ma đuổi. Tôi bàng hoàng cả người, không hiểu rõ chúng chứng kiến chuyện gì mà lại sợ hãi đến thế. “Bọn chúng bỏ chạy rồi, tiếng rì rầm lại tiếp tục vang lên, lại còn cả tiếng chuông rung leng keng nữa. Tôi nấp sau mộ, chờ đợi xem có sự lạ gì tiếp thì chẳng thấy gì, chỉ thoáng thấy bóng một người đàn ông mặc áo the đen, hai tay chắp sau lưng, trên vai có một cái tay nải, đi về phía con đường lớn. Đến khi trời tối hẳn thì tôi mới mò ra cái gò đất để xem xét. “Quả thật kỳ lạ! Tôi chẳng thấy có gì ngoài một ít đồ cúng, bên trên có một con gà luộc, một ít gạo muối, một ít trái cây và bình rượu nhỏ xíu. Cơn đói làm người ta mụ mẫm hết cả đầu, tôi lết tới ăn thịt, uống rượu. Giả như giờ mà có ma quỷ hay ai đến đây giết chết thì tôi cũng nhất quyết không chịu làm con ma đói. Tôi vừa ăn vừa ngẫm nghĩ đến sự lạ lúc chiều, chẳng hiểu vì sao mà bọn thằng Đản, thằng Câm lại chạy trốn như thế? Tôi còn nghĩ nếu sau này gặp lại, nhất định hỏi chúng cho rõ. Thế nhưng, tôi chẳng thể ngờ được ngày hôm sau gặp lại, bọn chúng đã trở thành kẻ ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, lúc tỉnh lúc mê.” Lão ăn mày thở dài. Ông Thập rót một chén rượu ngô đặt trước cả ba người, lão què không khách khí cầm lấy chén dốc một hơi cạn sạch. Tam quỷ quên cả tỏ vẻ hung dữ, hỏi dồn dập: “Rồi sau đó như thế nào? Ông có biết vì sao mà lũ thằng Đản lại phát điên không? Rốt cuộc chúng đã gặp phải chuyện gì?” Lão ăn mày què không trả lời ngay mà trầm giọng hỏi lại: “Các vị đã bao giờ nghe nói tới rượu sọ người chưa?” Ông Thập ngây người nhìn lão ăn mày què, trong lòng nổi lên một cảm giác vừa tởm lợm, vừa kinh hãi. Người Việt, người phương Bắc bấy lâu nay có thói quen ngâm rượu trắng với các loại trái cây, động vật để chữa bệnh, bồi bổ sức khỏe cho gân cốt. Chỉ tính riêng rượu ngâm thôi cũng đã hàng chục loại. Kẻ giàu thì ngâm rượu với thuốc bắc, mãng xà, tắc kè, nhân sâm. Quan lại vua chúa giàu sang quyền quý còn cất công tìm cả gân hươu, bàn tay gấu để ngâm chung với rượu, những mong kéo dài tuổi thanh xuân. Người nghèo thì dùng trái cây để ngâm rượu, khi thì quả mơ, cũng có khi chỉ cần một ít chuối hột cũng đủ làm cho người ta lâng lâng. Cách ngâm rượu ngày trước cũng vô số phép tắc cầu kỳ. Phàm là đàn bà đã có chồng, hoặc phụ nữ đã thất thân thì không được phép đến gần vò rượu, càng không được phép tự tay ngâm rượu. Người ta sợ vò rượu mất đi sự thanh bạch, trong trẻo vốn có của nó. Chẳng thế mà việc ngâm rượu, lấy rượu từ vò khi đã ngâm xong, cánh đàn ông phải đích thân làm, âu cũng là để giữ cho rượu thanh bạch. Chẳng nói đâu xa, ngay đến cả thứ rượu nữ nhi hồng nổi tiếng của phương Bắc cũng phải tuân theo phép tắc này. Dân gian xưa lưu truyền lại, để làm được rượu nữ nhi hồng, người ta phải lựa chọn mười ba thiếu nữ xinh đẹp, tuổi chưa quá mười hai, quan trọng nhất là phải còn trong trắng. Những cô gái đó sẽ tắm rửa sạch sẽ, chậm rãi nhai những quả nho được liệt vào hàng nhất phẩm, sau đó nhả ra nước nho rồi mới được hạ thổ, chưng cất mấy chục năm, cuối cùng mới cho ra thứ rượu nữ nhi hồng hảo hạng. Ông Thập ngồi ngây người ngẫm nghĩ, rượu nữ nhi hồng hiếm có là thế mà còn lừng danh trên chốn giang hồ, không chỉ những anh hùng hảo hán biết đến mà kể cả những người lao động bình thường như ông cũng đã từng nghe nói tới. Chẳng lẽ loại rượu sọ người mà lão ăn mày què đang nhắc tới lại còn hiếm có khó tìm hơn nữa hay sao? Nghĩ đến đó, ông Thập nhìn Tam quỷ với ánh mắt hoang mang, gã cũng ngạc nhiên không kém gì ông Thập. Tựa như đoán được sự bất ngờ trong ánh mắt của hai người đàn ông ngồi đối diện, lão ăn mày què mỉm cười. “Rượu sọ người là có thật. Chỉ có điều, xung quanh chúng còn quá nhiều chuyện rùng rợn đến nỗi người ta không tin rằng chúng có thật. Để làm được loại rượu này, người ta phải dùng chính sọ của người sống để ngâm rượu, hoặc có thể dùng sọ của người vừa mới chết. Loại rượu dùng để ngâm phải được chưng cất bằng thứ gạo nếp thượng hạng, lại phải được nấu trong đêm tối, tuyệt đối không để ánh sáng chiếu vào. Sọ người được đặt trong cái chum bằng gốm, loại gốm tốt nhất là lấy từ đất của vùng Thổ Âm cách Thăng Long khoảng một trăm dặm, nay đã tuyệt tích trên đời. “Những chiếc sọ được xếp tầng tầng lớp lớp trong chum, sau đó người ta đổ rượu từ từ để cho từng ngóc ngách của sọ người đều thấm đẫm chất lỏng cay nồng ấy. Rượu được ủ trong bảy bảy bốn chín ngày mới được lấy ra. Người uống rượu này có thể dẫn dụ âm binh, lôi kéo âm binh đi hại người. Bầy ma xó, ma trành gặp phải người uống rượu này đều phải tránh xa. Chỉ có điều…” Lão ăn mày què bỏ lửng câu nói. Tam quỷ sốt ruột hỏi nhanh: “Chỉ có điều làm sao? Lão đã kể thì phải kể cho nhanh chứ.” Lão ăn mày lắc đầu, nhỏ giọng đáp lại: “Chỉ có điều, người ngâm rượu này không được lấy vợ, sinh con. Khi ngâm rượu phải hạ thổ xuống đất, hằng ngày tưới máu tươi lên trên mặt đất, giống như người ta tưới cây bằng nước vậy.” Ông Thập nghe mà bủn rủn cả người, bàn tay ông đang cầm chén rượu ngô run lên cầm cập. Ngoài trời, gió vẫn thổi, sương mù đã tan biến từ lúc nào, thay vào đó là cơn mưa phùn lâm thâm, rả rích trong đêm. Tam quỷ bấy lâu nay đem chuyện tà ma quỷ quái mua vui cho mọi người, nào ngờ đến hôm nay chính gã lại bị câu chuyện rùng rợn của người khác làm cho sợ hãi. Ông Thập cất giọng: “Vậy bình rượu sọ người đó có liên quan gì đến việc lũ thằng Đản, thằng Câm bị điên? Liệu có liên quan đến việc thằng Tứ cháo lòng và thị Tam chết bất đắc kỳ tử không? Chẳng hay cụ biết được điều gì?” Đôi mắt của lão ăn mày què thấp thoáng tia cười đầy ẩn ý. Lão nhìn ông Thập một lúc rồi mới nói: “Cái chết của cậu Tứ và thị Tam, cùng với việc mấy gã ăn mày bị điên loạn, đích thị có liên quan đến bình rượu sọ người. Mà đâu phải chỉ có liên quan đơn thuần, chính bình rượu sọ người năm ấy mới là nguyên nhân gây ra cơ sự ngày hôm nay.” Tam quỷ giật thót người, toàn thân gã không lạnh mà run. Gã không ngờ rằng cái chết của vợ gã lại có gốc rễ từ thứ rượu quỷ dị như thế. Vợ gã còn đang may áo mới để mặc vào dịp Tết, thế mà cuối cùng lại chết tức tưởi vì một thứ rượu trộn lẫn với sọ người. Điều lạ lùng nhất là tại sao lão ăn mày què lại biết? Liệu lão đã từng nhìn thấy loại rượu ấy chưa? Chẳng lẽ vợ gã chết chỉ vì thị vô tình biết được trên đời này lại có thứ rượu kinh hoàng đến thế? Từng câu hỏi dồn dập trong trí óc khiến gã cảm thấy rối bời. Gã nhìn sang ông Thập, ông cũng hoang mang sợ hãi không kém gã là bao, một luồng cảm giác bất an kéo tới. Sự việc xem chừng ngày càng phức tạp, ông Thập ngẫm nghĩ mãi cũng không thể tưởng tượng rằng đằng sau hai cái chết ở khu chợ nho nhỏ vùng sơn cước này lại chứa đựng nhiều bí mật kinh hoàng đến thế. Lão ăn mày què vẫn tiếp tục uống rượu, Tam quỷ ngồi im lặng, chăm chăm nhìn về thi thể của vợ mình bó trong chiếc chiếu. Một hồi lâu sau, gã mới lên tiếng: “Cụ nói cho tôi được biết, rốt cuộc mọi chuyện là thế nào?” Lão ăn mày què không trả lời ngay mà đột ngột hỏi lại: “Cậu Tam này! Ở làng nhỏ này, có ai không vợ, không con, sống một thân một mình, lại có nguồn máu tươi quanh năm để tưới lên bình rượu hay không?” “Chẳng lẽ ý cụ là…?” Tam quỷ ngước nhìn ra căn nhà bên cạnh, nơi có gốc cây hòe đang đứng ảm đạm một mình trong tiết trời lạnh lẽo. “Chính phải!” Lão ăn mày quà gật đầu xác nhận. “Chính Tứ cháo lòng là người ngâm rượu sọ người đấy.” Ông Thập và Tam quỷ sững sờ, cả hai nhìn nhau đầy kinh ngạc. Thằng Tứ cháo lòng thì ông Thập không hề lạ lẫm gì. Nó bán tiết canh cháo lòng ở khu chợ nhỏ dưới chân núi này cũng đã vài năm. Ở làng quê nào cũng phải có ít nhất một vài người đồ tể, chọn nghiệp sát sinh làm kế sinh nhai. Chồng làm mổ lợn thì vợ sẽ chế biến nội tạng để bán kiếm lời, đó cũng là chuyện thường tình. Nghe đâu trước đây thằng Tứ cháo lòng cũng có một cô vợ, thế nhưng chẳng may thị mất sớm. Mà nào có phải mất vì bệnh tật, thị chết vì chính chồng mình giết. Số là Tứ cháo lòng ưa uống rượu, đêm hôm ấy hắn cầm chai rượu và cái thủ lợn vào trong làng tìm bạn nhậu đánh chén, khi về đến nhà thì hắn đã say túy lúy, chân đảm đá chân chiêu. Vợ hắn đang có bầu, bụng thị to vượt mặt, lúc đó thấy chồng về đến nhà say rượu mới bực mình cằn nhằn vài câu. Hắn đang cơn say bèn điên máu cầm con dao bầu đuổi giết vợ. Vợ hắn tránh không kịp nhát dao oan nghiệt của chồng nên chết thảm. Khi dân trong xóm chợ phát hiện ra thì thị đã nằm bất động bên vũng máu lênh láng, đông đặc tự bao giờ. Người ta kể lại rằng con dao bầu đâm giữa bụng thị, máu chảy xối xả, lan ra cả nền đất. Tứ cháo lòng tỉnh cơn say mới biết được là đã giết chết cả vợ lẫn con, hắn gào lên điên loạn rồi ôm xác vợ mà khóc. Vụ ấy quan trên cũng xuống tận nơi để điều tra, sau cùng hắn bị giam cầm mấy năm rồi được thả. Người ta đồn đại rằng vợ Tứ cháo lòng từng cất giấu không ít vàng bạc, thế nhưng chôn ở chỗ nào thì chỉ có một mình thị biết. Nay thị chết tức tưởi, một lời trăng trối cũng không kịp để lại, làm sao mà ai biết được thị chôn vàng đâu? Lại nói về Tứ cháo lòng, từ sau khi hắn ra tù, hắn vẫn trở lại ngôi nhà cũ tiếp tục nuôi lợn, trồng rau, đêm giết lợn, ngày đi bán cháo. Có nhiều người thắc mắc vì sao hắn phải làm nhiều việc vất vả như thế làm gì, mỗi lần như vậy hắn chỉ cười hề hề không đáp. Người trong xóm chợ đoán già đoán non rằng hắn cần tiền để tìm thầy gọi hồn vợ hắn về dương gian, những mong vong hồn vợ hắn tha thứ mà chỉ nơi cất giấu vàng bạc cho hắn. Chính ông Thập cũng đã từng gặp hắn nhiều lần khi đi xem bói, chỉ có điều ông muốn cầu con cầu cái, còn hắn thì muốn tìm vàng. Chuyện đồn đại trong làng ngoài xóm như thế, người không để ý cũng biết được vài phần, huống chi Tam quỷ lại là kẻ ưa kể chuyện. Nhưng ngay chính gã cũng không thể ngờ được sự việc vợ mình chết lại liên quan đến Tứ cháo lòng, càng không thể tưởng tượng nổi gã bán cháo lòng ngày ngày gặp ở chợ lai rắp tâm ngâm rượu so người. Lão ăn mày què trầm ngâm hồi lâu rồi mới tiếp tục kể: “Ban đầu tôi cũng không tin được cậu Tứ lại có thể làm trò phù thủy như thế. Nhưng phải đến khi tôi tận mắt trông thấy cậu ta quật mộ người mới chết để cắt đầu lấy sọ ngâm rượu thì tôi mới bủn rủn chân tay.” Lão rít điếu thuốc lào rồi thở dài. “Tôi sống cả đời người, lưu lạc dọc nước Nam này, chuyện gì cũng đã từng nghe. Ma trành, ma lai đều chỉ là những chuyện tầm phào. Dân gian đồn thổi rằng rượu sọ người tuy cách ngâm cầu kỳ, phải giết nhiều sinh linh vô tội, phạm lỗi với quỷ thần nhưng lại khiến cho kẻ uống có thể nhìn thấy ma, nói chuyện với ma và sai khiến chúng. Chỉ có điều, thứ rượu sọ người này đâu phải ai cũng dám làm. Thầy mo sống trên rừng trên bản cũng không thể kiếm được đủ nguyên liệu để ngâm rượu, đám thầy pháp dưới miền xuôi lại càng khó thực hiện. Tôi ngẫm nghĩ mãi mới hiểu ra, cái hôm mà bọn thằng Đản, thằng Cầm hành hạ tôi ở ngoài nghĩa địa, cậu Tứ chính là người lầm rầm đọc bài chú trước khi chặt đầu. Lũ thằng Đản nhìn thấy phép phù thủy liền bị mất một vong phách, thành ra ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Đúng là số kiếp!” Tam quỷ đột ngột lên tiếng: “Cụ vẫn chưa nói cho tôi biết vì sao vợ tôi lại chết? Vả lại, vợ tôi quanh năm ở trong nhà thì làm sao biết được thứ rượu quỷ quái ấy?” Lão ăn mày què xua tay đáp: “Cậu Tam à! Cậu đừng nôn nóng quá.” Lão ngừng lại một lúc rồi nhìn thẳng vào mắt Tam quỷ mà nói: “Chắc cậu không biết chứ Tứ cháo lòng tằng tịu với vợ cậu cả năm nay rồi.” Ông Thập giật mình nhìn sang Tam quỷ. Dường như những lời nói của lão đã thụi vào bụng gã vài cái đau điếng, khiến cho gã sững người. Gương mặt gã từ đó bừng chuyển sang tím tái rồi trắng bệch như xác chết, gã nhìn sang xác vợ rồi gằn giọng trả lời: “Làm sao mà ông biết chuyện đó? Ông… Ông… đừng có mà ăn nói lung tung. Ông có tin tôi bẻ cổ ông ngay tại đây không?” Lão ăn mày què cười buồn. “Làm sao mà tôi có thể đem danh dự của người đã khuất ra nói đùa được. Khi Tứ cháo lòng còn sống, chính tôi đã xem bói cho cậu ta. Nhìn trên cung số tử vi của cậu ta năm ấy, Hỉ Thần và Đào Hoa chiếu sáng, tôi đoán là cậu ta không có vợ con sống trong cùng mái nhà, nhưng vẫn đi tằng tịu với người khác. Trong những chòm sao chiếu sáng, lại có cả sao Điếu Khách, Hóa Kị cùng xuất hiện. Từ đó suy ra cậu ta có mối lương duyên không minh bạch, khi bị phát hiện thì ảnh hưởng đến thanh danh, chưa biết chừng còn có thương tích đổ máu. Thực ra mọi chuyện chỉ là ước đoán của tôi mà thôi, nhưng đêm hôm ấy, tôi đang nằm trong sạp hàng bỏ hoang trong chợ thì trông thấy vợ cậu và cậu Tứ dẫn nhau vào trong một sạp hàng…” Lão ăn mày què bỏ dở câu nói, ông Thập lúng túng không biết phải làm gì, còn Tam quỷ nghiến răng kèn kẹt. Ông lão buồn rầu. “Vốn dĩ chuyện này không nên nói ra, thế nhưng nó lại liên quan đến mạng người nên tôi đành phải nói. Hai vị hẳn cũng biết, phàm đã làm trò phù thủy tà ma thì phải giữ cho thân trong sạch, nhất là phải chú ý đến việc nam nữ thụ thụ bất thân. Tôi không biết cậu Tứ đã nghe ai bày cho cách ngâm rượu sọ người, nhưng tôi cho là cậu ta luyện nó để gọi vong hồn vợ mình về nói cho mình xem số vàng ấy giấu ở đâu. “Tôi đoán chừng kẻ đã dạy cậu ta ngâm rượu không nói cho cậu ta biết đến chuyện vụng trộm trong thời gian rượu chưa thành công sẽ dẫn đến họa sát thân như thế nào. Người ta kể rằng mỗi bình rượu sọ người đều có oán khí của những người bị chặt đầu lấy sọ kết thành. Bên cạnh mỗi bình rượu sẽ có hai con quỷ mắt đỏ ngầu, đuôi dài ngoằng như đuôi mèo canh giữ, hút lấy một phần oán khí từ bình rượu hằng ngày mà sống. “Người ta tưới máu lên vùng đất hạ thổ bình rượu là để cúng tế hai con quỷ mắt đỏ đuôi dài ấy. Nghe nói rằng mỗi khi tưới máu đều phải đọc một bài chú để mời hai con quỷ nhận máu tế. Nếu chẳng may không giữ được mình, người luyện thuật sẽ bị quỷ vật. Một con sẽ giết chết người ngâm rượu, con còn lại sẽ giết kẻ đã dan díu với chủ nhân của chúng.” Tam quỷ nghe đến đâu, toàn thân run lên bần bật đến đó. Hai mắt gã đỏ ngầu, hết nhìn thi thể vợ rồi lại nhìn sang gốc cây hòe bên khoảng sân nhà bên cạnh. Lão ăn mày què nói với chất giọng trầm trầm, chậm rãi càng khiến ông Thập cảm thấy ớn lạnh. So với tấn bi kịch xảy ra trước mắt thì những giấc mộng về mấy con rắn biết nói của ông có vẻ như quá tầm thường. Ông Thập suy nghĩ một hồi rồi mới nói tiếp: “Cụ nói bác gái đây bị quỷ canh rượu trả thù. Vậy tại sao Tứ cháo lòng chết cách đây vài năm rồi mà bác gái đây mới chết? Tại sao không giết luôn cùng với cậu Tứ?” Đôi mắt lão ăn mày què lấp lánh tia cười. Lão vuốt râu rồi nhìn ông Thập gật gù. ”Cậu Thập đây quả là một người thông minh. Từ lúc cậu Tứ cháo lòng chết tức tưởi bên gốc cây hòe, chính tôi cũng đã từng hỏi đi hỏi lại mình điều ấy. Nếu chính tôi không tận mắt chứng kiến thị Tam tằng tịu với cậu Tứ thì tôi cũng không nghĩ rằng hai cái chết có liên quan. Nhưng suy xét rất lâu, tôi mới nhận thấy rằng việc thị Tam chết sau đó vài năm hẳn là do oán khí trong bình rượu sọ người chưa tan hết, bọn quỷ vẫn còn thức ăn để duy trì trong thời gian ngắn. Thông thường, nếu người ngâm rượu dùng sọ người đã chết từ lâu thì oán khí uất hận giữ lại cùng lắm được một năm. Đằng này bình rượu của cậu Tứ hẳn là đã lấy sọ người mới chết để ngâm cho nên oán khí mới lâu tan đến như vậy. Chính điều này khiến cho lũ quỷ điên cuồng giết cậu ta man dại, và cũng khiến cho bác thị Tam đây kéo dài sinh mạng thêm được vài năm.” Lão ăn mày què nhìn về cái xác bó trong manh chiếu rồi thở dài cảm thán: “Thương thay cho một kiếp người. Chỉ vì trót thất thân mà chết thảm.” Tam quỷ không nói gì nữa, cũng chẳng buồn đụng đến chén rượu ngô trước mặt. Gã đau đáu nhìn vào xác vợ mình, đôi mắt vằn lên những tia máu đỏ lừ, toàn thân bất động. Không khí trong căn nhà nhỏ dường như còn căng thẳng hơn lúc lão ăn mày què bước vào. Ông Thập cúi đầu thở dài. Sự thật luôn khiến người ta cảm thấy đau khổ, chẳng trách có những người thà sống trong sự dối trá cả đời còn hơn là đối mặt với chúng. Lão ăn mày què lặng lẽ lết đến cạnh cái xác, lật manh chiếu bó chặt thị Tam. Đoạn lão vén mí mắt của người đã khuất lên rồi lắc đầu. “Tròng mắt đỏ quạch rồi. Hệt như mắt của mấy con quỷ mà người ta hay nhắc tới đây mà. Thật đáng tiếc.” Ông Thập không nén nổi nỗi tò mò, lom khom tiến lại gần xác chết cứng đờ của thị Tam. Con ngươi trong mắt thị gần như biến mất, toàn bộ tròng mắt đều biến thành màu đỏ. Người ta thường ví mắt của người phụ nữ như nước hồ thu, thế nhưng đôi mắt thị Tam khiến người ta nghĩ đến một biển máu. Con mắt ấy đã từng thấy những gì? Liệu thị có biết được cái gì làm cho thị chết? Thị có ân hận hay không? Khi nghe lão ăn mày què kể lại tường tận câu chuyện, ông Thập vốn dĩ không tin hoàn toàn. Thế nhưng, ngẫm ra mọi thứ lại rất khớp với nhau. Đúng là Tứ cháo lòng từng giết vợ, đúng là hắn từng đi xem bói nhiều lần, người trong xóm chợ nhỏ này cũng từng thấy gã gánh từng thùng máu lợn đi trong đêm, thị Tam quả là người có phần lẳng lơ. Ông Thập tin vào câu chuyện của lão ăn mày què, giờ lại tận mắt nhìn thấy đôi mắt đỏ lòm đầy máu của thị Tam nên ông chắc chắn rằng câu chuyện về bình rượu sọ người đang diễn ra ở đây, ngay giữa cái xóm chợ nhỏ xíu và ồn ào này. Câu chuyện dừng lại khi gà bắt đầu gáy. Trời tảng sáng, màn sương mù lại giăng khắp lối, chen lẫn vào đó là cơn mưa bụi nhạt nhòa. Tam quỷ ngồi im lặng bất động, ông Thập tựa lưng vào bức tường tranh đắp đất loang lổ, còn lão ăn mày què đăm chiêu nhìn ra cổng. Dường như mỗi người đang theo đuổi một dòng suy nghĩ riêng. Sáng hôm sau, người trong xóm chợ đến để đưa tiễn thị Tam về bãi tha ma để an nghỉ. Đám người đến kỳ thực không quá nhiều, chỉ có vài người sống thân quen với gia đình Tam quỷ, phần còn lại là mấy người lái buôn thường xuyên ghé nhà gã để nghỉ ngơi, nghe những câu chuyện kinh dị qua chất giọng thì thào của gã. Tam quỷ không khóc lóc như hôm qua nữa. Gã im lặng đi bên chiếc võng bọc cái xác không hồn của vợ. Ông Thập đi phía trước, tay cầm một khúc thân cây chuối hột cắm nhang chi chít. Bầu trời âm u tối sầm lại như đang chứng kiến một con người vong mạng vì trót phạm luật của loài quỷ dữ. Lão ăn mày què im lặng lết tấm thân già nua phía sau. Đoàn đưa tang của thị ra đi lặng lẽ. Không kèn. Không trống. Càng không có người khóc than. Người trong xóm chợ không khỏi thắc mắc vì sao Tam quỷ lại thay đổi thái độ với lão ăn mày nhanh như thế. Mới đêm qua gã còn đang đòi giết lão, mà hôm nay lại coi như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Băn khoăn như vậy, nhưng người ta cũng không tiện hỏi han nhiều. Dù sao cũng đang lúc tang gia bối rối, ai lại hỏi những câu chuyện tầm phào. Vừa đi đến gần bãi tha ma thì trời đổ mưa to, đoàn người hối hả rảo bước nhanh hơn. Cơn mưa tầm tã khiến cho lớp đất dưới chân núi như mềm hơn. Một vài người đàn ông nhanh tay hạ chiếc võng cói xuống đất, sau cùng họ lấp đất lại, cắm vài nén nhang lên mộ. Thế là xong. Tam quỷ đứng lặng trước ngôi mộ sơ sài của vợ. Người ta nán lại một chút để nói vài câu chia buồn với gã. Tam quỷ không trả lời, chỉ ậm ừ đáp lại. Giờ Tỵ hôm ấy, đoàn đưa tang mới về đến nhà Tam quỷ. Trong nhà vẫn còn nghi ngút khói hương, người trong xóm chợ nán lại ăn trầu, uống nước, chia buồn với chủ nhà. Nghĩ cũng tội, Tam quỷ vốn không có con, nay lại mất vợ. Người ta đồn đại rằng khu đất chỗ gã ở không mấy tốt lành. Mấy năm trước thì thằng Tứ cháo lòng chết tức tưởi, nay lại là thị Tam. Trong đám đông đang xì xào bàn tán đó, duy chỉ có ông Thập vẫn không nói gì. Ông ngồi xuống cạnh lão ăn mày què. Gương mặt lão trông vẫn thế, vẫn xám ngoét như ngày nào. Thế nhưng ông Thập tin một điều, đằng sau vẻ mày què quặt ốm yếu này còn ẩn chứa nhiều điều bí mật. Lão chắc chắn là một thầy bói thực sự chứ không phải kẻ lừa gạt như nhiều loại thầy bói rởm trong thiên hạ. Phân vân một hồi, ông Thập mới lên tiếng: “Con… con định hỏi cụ chuyện này từ đêm hôm qua, nhưng ngặt nỗi bác Tam quỷ đang ngồi ở đó. Cụ cho con hỏi giấc mơ của con liệu… liệu có chết người hay không?” Lão ăn mày què thở hắt ra, xem chừng mệt mỏi. Lão trầm giọng trả lời: “Giấc mơ của cậu là mơ thấy rắn báo mộng. Cậu Thập à! Tôi vẫn cho rằng đó là Táo Quân báo cho cậu biết tại họa sắp giáng xuống.” “Nhưng có khi nào giấc mơ ấy lại có ý nghĩa khác? Con… con nghe nói. Nằm mơ thấy rắn là điềm báo sắp có con cái kia mà?” “Chính phải. Nhưng chỉ khi cậu bỗng dưng nằm mơ thấy rắn ấp trứng trong tổ mà thôi.” Lão ăn mày nhíu mày nghĩ ngợi. “Trong giấc mơ của cậu, bầy rắn nói rõ ràng là tai họa, có thể thấy đây là giấc mơ chẳng lành. Rắn thường biểu hiện cho thần thánh, từ xưa đến nay vẫn vậy.” “Ý cụ là sao?” Ông Thập ngơ ngác hỏi lại. “Người nước Nam và người Tàu quan niệm rắn là biểu tượng của thần, có linh tính như người. Khi xưa, thân phụ của cụ Ức Trai Nguyễn Trãi từng nằm mơ thấy có người đàn bà bụng chửa vượt mặt đến xin phép cụ ngưng sửa chữa lớp học vài ngày để sửa nhà. Sáng hôm sau, học trò bẩm lại với cụ rằng trong lúc sửa nhà, tình cờ thấy một ổ rắn, con rắn mẹ chạy thoát thân nhưng trứng trong tổ bị giập nát hết. Chẳng phải là rắn đã báo mộng hay sao?” Thấy ông Thập im lặng không nói gì, lão ăn mày què tiếp tục: “Chuyện này vốn dĩ đã khó tin. Ngày còn trẻ, tôi cũng chẳng tin có chuyện kỳ lạ trên đời như thế. Ấy vậy mà khi tôi đi xin ăn ở động Hương Tích vẫn thường nghe các vị sư trong đó kể lại chuyện lạ. Người ta nói rằng nhiều khi vào trước lễ hội, vùng núi nơi chùa Hương tọa lạc thường có mưa xối xả. Dân gian quen gọi là ‘mưa rửa đền’ nhằm gột sạch những bụi bặm trước khi vào lễ tế. Lại có sự cụ kể lại, cứ vào lễ Thượng Nguyên, người ta thấy hàng chục con rắn lớn nhỏ từ trong rừng bò tới chùa. Các sư thầy biết được đó là thần thánh khắp phương ngụ trong lốt rắn về hành lễ cho nên không dám đánh đập đuổi đi, chỉ cung kính vái chào rồi lui vào trong. Thỉnh thoảng các vị sư thầy vẫn đem bánh trái dân chúng cúng dường ra đặt trong rừng cạnh chùa để thỉnh mời các vị rắn.” Lão ăn mày què vỗ vỗ bàn tay chai sần lên vai ông Thập. “Giấc mơ thấy rắn biết nói của cậu, chín phần là họa, một phần là phúc. Thôi thì cậu phải cẩn thận là hơn.” Nói rồi, lão lết tấm thân tàn đi ra khỏi cửa nhà Tam quỷ, đoạn dừng lại nhìn chăm chú vào cây hòe âm u một lúc rồi lắc đầu đi thẳng. Ông Thập ngồi ngẩn ngơ cả người vì những lời nói của lão què khi nãy. Ông thở dài rồi lấy chiếc gùi mây quàng lên lưng mà hướng thẳng về ngọn núi quê ông. Cơn mưa tầm sáng khiến cho không khí trong rừng như thêm phần âm u, rợn ngợp. Mùi hoa thơm thoang thoảng từ đâu bay tới, tiếng chim hót líu lo trên cao, rồi tiếng một con vượn hú từ đâu vọng lại. Ông Thập rảo bước nhanh, vừa đi vừa ngẫm nghĩ. Ông rời làng đã mấy hôm nay, ví như ngày thường không đi buôn tận Thăng Long thì chỉ nội nhật là ông đã về đến làng. Câu chuyện gặp gỡ lão """