🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tam Tổ Trúc Lâm Ebooks Nhóm Zalo THÍCH THANH TỪ TAM TỔ TRÚC LÂM GIẢNG GIẢI DL 1997 - PL 2541 LỜI ĐẦU SÁCH Ph ật giáo đời Trần mang đậm nét siêu thoát và quần chúng của Phật giáo Nguyên thủy ở Ấn Độ. Xưa kia tại Ấn Độ, một ông Hoàng thái tử chứng kiến nỗi khổ đau muôn thuở của con người, Ngài quyết chí đi tu để tìm phương giải phóng con người ra khỏi vòng trầm luân khổ ải. Ngài đã thực hiện được chí nguyện, sau khi chứng đạo thành Phật dưới cội bồ-đề, và tiếp tục đi rao giảng phương pháp giải thoát hơn bốn mươi năm. Sau trên mười chín thế kỷ, ở Việt Nam đời Trần, vua Trần Nhân Tông cũng thấm thiết nỗi đau khổ của con người, Ngài từ bỏ ngai vàng vào núi Yên Tử tu hành được ngộ đạo thành Tổ, và ngót hai mươi năm đi truyền bá khắp nơi, lập thành hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Tiếp theo sau, một vị Trạng nguyên cũng cùng một tâm tư ấy, từ quan đi tu đuợc ngộ đạo thành Tổ thứ ba của phái Trúc Lâm Yên Tử. Đức Phật và chư Tổ Trúc Lâm Yên Tử cùng một nguyện vọng một tâm tư vì giải thoát sanh tử cho chính mình và độ chúng sanh thoát khỏi trầm luân muôn kiếp nên đi tu. Đây là giá trị chân thật cũng là danh dự lớn lao của Phật giáo Việt Nam, khiến chúng ta không hổ thẹn với các nước Phật giáo bạn. V ới tinh thần khôi phục lại Phật giáo đời Trần, chúng tôi cho xuất bản quyển Tam Tổ Trúc Lâm để giới thiệu cùng Phật tử Việt Nam có cơ hội nghiên cứu và học tập. Lý đáng chúng tôi phải căn cứ một nguyên bản chữ Hán và cho in đầy đủ ở phần sau, song vì những quyển Tam Tổ Thực Lục, Tam Tổ Hành Trạng… còn nhiều thiếu sót, nên chúng tôi không thể căn cứ vào một bản được, mà cần phải góp nhặt tra cứu những bản liên hệ như: Thánh Đăng Lục, Thiền Tông Bản Hạnh… để bổ túc. Sau này những tập Văn Học Đời Lý, Văn Học Đời Trần của ông Ngô Tất Tố, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang và Thơ Văn Lý Trần của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội giúp tư liệu khá nhiều cho chúng tôi, cọng thêm các bộ Quốc sử càng làm sáng tỏ hơn. Tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa hài lòng về vị Tổ thứ ba (Huyền Quang), vì quyển Tổ Gia Thực Lục do người trong thân tộc ghi chép đời Ngài, không phải một đệ tử xuất gia thân tín ghi, cho nên những việc tạp thì ghi đủ, còn việc truyền pháp, đắc pháp, vấn đáp, giảng đạo thì ghi quá đơn lược. Vì vậy phần sử của Ngài có nhiều điểm vẫn còn nghi vấn chưa được sáng tỏ. Quy ển Tam Tổ Trúc Lâm ra đời chắc chắn còn nhiều thiếu sót, vì khả năng chúng tôi có hạn không thể hơn nữa được. Chúng tôi chân thành tri ân tất cả những vị đã có công sưu tập phiên dịch in ấn những tập sách liên hệ đến Phật giáo đời Trần, nhờ công khó nhọc của quí vị giúp chúng tôi được dễ dàng nhiều khi biên soạn quyển sách này. Kính ghi THÍCH THANH T Ừ Thiền viện Thường Chiếu Mùa Đông năm 1996 TAM TỔ TRÚC LÂM Lời dẫn Tr ước khi giảng về Tam Tổ Trúc Lâm, chúng tôi nói sơ lược vài điều. Những bài giảng về Tam Tổ khác hơn những bài giảng về ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục là nguyên một tập chữ Hán chuyển thành chữ Việt, nên chúng tôi để luôn bản chữ Hán cho quí vị nghiên cứu. Còn các bài về Tam Tổ Trúc Lâm thì khác hơn vì có tánh cách lịch sử nhiều, và những tài liệu thi văn của các ngài tản mác ở những bộ sách khác nhau, cho nên chúng tôi cần phải đối chiếu nhiều quyển mới soạn được chương trình Tam Tổ. Có r ất nhiều sách nói về Tam Tổ Trúc Lâm, những quyển chúng tôi chú ý nhất là: Tam Tổ Thực Lục, Tam Tổ Hành Trạng, Thiền Tông Bản Hạnh và Thánh Đăng Lục. Đó là những bộ sách chuyên về các vị Tổ đời Trần, nhưng mỗi quyển có chỗ nói khác nhau, nên chúng tôi không thể dùng một bản làm chuẩn để giảng được. L ại nữa ngài Trần Nhân Tông, tức Sơ tổ Trúc Lâm (Điều Ngự Giác Hoàng), là một ông vua đi tu, cho nên đời của Ngài có nhiều liên hệ đến cuộc sống ở triều chánh. Song trong Tam Tổ Thực Lục hay Tam Tổ Hành Trạng không có kể lại những sự việc liên quan đến cuộc sống đó. Học về Ngài, không phải chúng ta chỉ học khoảng thời gian Ngài đi tu thôi, mà chúng ta cần phải biết rõ từ đầu đến cuối, tức là từ lúc Ngài sanh ra, đến khi làm vua, rồi đi tu và nhập Niết-bàn. Vì thế chúng tôi phải đối chiếu những quyển sử Việt Nam để thâu thập thêm tài liệu đầy đủ nói về cuộc sống của Ngài khi còn ở tại gia. Theo Tam Tổ Thực Lục hay Tam Tổ Hành Trạng, chỉ thấy nói về phần xuất gia, còn phần tại gia rất là đơn sơ. Đế n như Tổ Huyền Quang, Ngài là một thi sĩ, một Trạng nguyên giỏi văn chương đi xuất gia, cho nên đời của Ngài về mặt thi văn rất là phong phú. Nhưng trong Tam Tổ Hành Trạng hay Tam Tổ Thực Lục chỉ nói đơn giản không có dẫn chứng những thi văn của Ngài. Chúng tôi phải soạn qua các quyển thi văn cổ Việt Nam để tìm gom lại những bài văn Ngài đã làm, do đó chúng ta không có một tập sách nhất định làm căn bản để học. Tuy nhiên những bài thi văn nào quan trọng chúng tôi đều có dẫn kèm bản chữ Hán theo từng bài, chớ không phải là toàn quyển. SƠ TỔ PHÁI TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG (1258 - 1308) Ngài tên húy là Khâm, con tr ưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh hoàng thái hậu, sanh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử. Ngài cố từ để nhường lại cho em, mà Vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ thái hậu sau này. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu. M ột hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị Sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất đắc dĩ phải trở về. N ăm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu.” Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên Vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc. Ngài th ường ăn chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên?” Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt. Con ng ười Ngài rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, suốt thông nội điển (kinh) và ngoại điển (sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm tông (thiền), tham học thiền với Thượng sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tủy. Đối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy. Nh ững khi giặc Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị những bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết tâm chống giặc. N ăm Quí Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp đặt việc xuất gia. Đế n tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299) Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầuđà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầuđà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó. Đế n năm Giáp Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng), và dạy họ tu hành Thập thiện. Vào mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại gia. Sau đó, Ngài chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông. Ngày mùng 1 tháng giêng n ăm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại Báo Ân thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính Ngài giảng Truyền Đăng Lục, bảo Quốc sư Đạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa. Bãi hạ, Ngài vào núi Yên Tử, đuổi hết những người cư sĩ theo hầu hạ và những kẻ nô dịch trong chùa, không được chực hầu như trước. Chỉ để lại mười vị Thị giả thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng Truyền Đăng Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là Pháp Loa còn ở thôi. T ừ đây, Ngài leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.” Ngày mùng 5 tháng 10 n ăm ấy, người nhà của Công chúa Thiên Thụy lên núi bạch Ngài: “Công chúa Thiên Thụy bệnh nặng mong được thấy Tôn đức rồi chết.” Ngài bùi ngùi bảo: “Thời tiết đã đến vậy.” Ngài bèn chống gậy xuống núi, chỉ cho theo một người Thị giả. Ngài mùng 10 Ngài về đến kinh, dặn dò xong, ngày rằm Ngài trở về núi. Ngài dừng nghỉ ở chùa Siêu Loại. Hôm sau vừa rạng đông, Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu, tự đề bài kệ rằng: ÂM: Th ế số nhất tức mặc Thời tình lưỡng hải ngân Ma cung hồn quản thậm Phật quốc bất thắng xuân. DỊCH: S ố đời một hơi thở Lòng người hai biển vàng Cung ma dồn quá lắm Cõi Phật vui nào hơn. Đế n ngày 17, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ hoàng thái hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Đây là bữa cúng dường rốt sau.” Ngày 18, Ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn An Kỳ Sanh. Nghe nhức đầu, Ngài gọi hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp được.” Đến am Ngọa Vân, Ngài tạ hai vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành đi, chớ xem thường việc sanh tử.” Ngày 19, Ngài sai Th ị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sát quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền, nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc lát lại lặn xuống. Đêm ấy Bảo Sát nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy điềm chẳng lành. Ngày 21, B ảo Sát đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Đối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa rõ hãy nói mau.” Bảo Sát hỏi: - Như khi Mã Tổ bệnh, Viện chủ hỏi: “Những ngày gần đây Tôn đức thế nào?” Mã Tổ bảo: “Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.” Nói thế ý chỉ làm sao? Ngài l ớn tiếng đáp: - Ngũ Đế Tam Hoàng là vật gì? Bảo Sát lại hỏi: - Chỉ như “hoa sum sê chừ gấm sum sê, tre đất nam chừ cây đất bắc”, lại là sao? Ngài đáp: - Làm mù mắt ngươi. Bảo Sát bèn thôi. Suốt mấy hôm trời đất u ám, chim vượn kêu hót rất bi thảm. Đế n ngày mùng 1 tháng 11, đêm nay trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát: “Hiện giờ là giờ gì?” Bảo Sát bạch: “Giờ Tý.” Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói: “Đến giờ ta đi.” Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?” Ngài nói kệ đáp: ÂM: Nh ất thiết pháp bất sanh Nhất thiết pháp bất diệt Nhược năng như thị giải Chư Phật thường hiện tiền. Hà khứ lai chi liễu dã. DỊCH: T ất cả pháp chẳng sanh Tất cả pháp chẳng diệt Nếu hay hiểu như thế Chư Phật thường hiện tiền. Nào có đến đi ấy vậy. Bảo Sát hỏi: - Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào? Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói: - Chớ nói mớ. Nói xong, Ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, vào niên hiệu Hưng Long thứ 16 (1308), thọ năm mươi mốt tuổi. Pháp Loa theo l ời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ nơi Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầuđà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. Ngài còn l ưu lại những tác phẩm: 1. Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục 2. Đại Hương Hải Ấn Thi Tập 3. Tăng-già Toái Sự 4. Thạch Thất Mị Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài. GIẢNG: Hôm nay chúng ta h ọc về Sơ Tổ phái Trúc Lâm, tức là Điều Ngự Giác Hoàng hay vua Trần Nhân Tông. Ngài là một ông vua đi tu, trong sử ghi hiệu Ngài là Trúc Lâm Đại Đầuđà hay Hương Vân Đại Đầuđà. Là những Phật tử xuất gia hay tại gia, chúng ta cần phải nắm vững hành trạng của chư Tổ Việt Nam để thấy rõ những điều hay mà chư Tổ đã tu, đã lãnh hội được và truyền mãi đến con cháu sau này. Đọ c lịch sử đức Phật, chúng ta có thể hãnh diện vì Ngài là một Thái tử chuẩn bị lên ngôi, lại bỏ ngai vàng đi tu, điều này rất ít thấy ở những tôn giáo khác. Đấng Giáo chủ của chúng ta là người sắp hưởng địa vị cao tột ở thế gian mà Ngài không màng đến, ra đi tìm đạo để giác ngộ cho chúng sanh, thật là cao thượng quí báu thay! Suốt đời hoằng hóa độ sanh, Ngài làm rực rỡ cho tôn giáo của mình và Phật giáo được truyền bá khắp năm châu là một điểm son trên thế gian này. Chúng ta còn hãnh di ện hơn nữa là ở Việt Nam, không phải một Thái tử, mà một ông vua đi tu. Đang làm vua đủ uy quyền, đủ nghị lực để gìn giữ giang sơn, nhưng ngài Trần Nhân Tông không muốn hưởng, lại đem tất cả sự nghiệp giao cho con để đi tu. Tư cách xuất gia của Ngài là một điểm sáng chói khiến chúng ta càng hãnh diện. Đứ c Phật là một Thái tử đi tu, ông Tổ của mình là một ông vua đi tu, còn chúng ta là gì? Là bần cố nông đi tu! Nhớ lại Phật, nhớ lại Tổ, chúng ta có cảm thấy xấu hổ hay không? Các ngài bỏ hết địa vị quyền lợi và hạnh phúc của thế gian, chịu cực, chịu khổ tìm đạo, học đạo và ngộ đạo rồi các ngài giảng dạy cho chúng sanh. So lại chúng ta ngày nay chưa phải là người giàu có, vẫn làm lụng vất vả mới có cơm ăn, có đi tu thì chúng ta hi sinh những gì? Có chăng là hi sinh cái nghèo, để được làm thầy tu. Hi sinh cái nghèo đâu phải việc khó. Có người đem bán cái nghèo, không ai chịu mua kia mà, thế thì đâu có gì gọi là hi sinh! Như vậy chúng ta bỏ cái nghèo để đi tu là việc làm dễ trăm phần, nếu không làm được thì thật quá dở. So với đức Phật và Sơ tổ Trúc Lâm, các Ngài ở trong hoàn cảnh khó khăn đủ mọi bề. Là một Thái tử đi tu, Vua cha buồn rầu không biết giao sự nghiệp cho ai, vợ con khóc than không ai lo lắng, quần thần và nhân dân đều trông cậy, thế mà Ngài bỏ đi một cách dễ dàng. Đến như Sơ tổ Trúc Lâm, Ngài là Vuađang cai trị muôn dân, quần thần và toàn dân tín nhiệm mà Ngài cũng bỏ ngai vàng đi tu. Những việc rất khó làm mà các Ngài đã làm được, thì chúng ta ngày nay là những kẻ hậu sanh hậu học làm một chuyện hết sức dễ và đơn giản mà chúng ta không nỗ lực gắng làm cho thành công hay sao? Thế nên đọc qua lịch sử của người xưa, chúng ta phải làm sao cố gắng hơn, không thể lơ là lôi thôi như thế này mãi. Song n ếu đọc sử của vị Tổ thứ sáu ở Trung Hoa, chúng ta sẽ được an ủi phần nào. Lục tổ Huệ Năng là một tiều phu đi tu, Ngài cũng ngộ đạo. Đừng nghĩ Thái tử và Vua đi tu mới ngộ đạo, còn dân nghèo chúng ta đi tu thì vô phần. Nghĩ như vậy là lầm, vì ông tiều phu cũng ngộ đạo kia mà, thế thì chúng ta cũng có phần. Nh ư vậy về mặt lịch sử, chúng ta hãnh diện thấy Phật Tổ đã hi sinh đời mình đi tu, về mặt đạo đức cũng có những người dốt nát đi tu và ngộ đạo, thì chúng ta không có gì mặc cảm e rằng mình tu không có lợi. Trái lại chúng ta tin chắc rằng nếu chúng ta quyết chí gắng tu thì sẽ có kết quả tốt đẹp không nghi. * Ngài tên húy là Khâm, con tr ưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh hoàng thái hậu, sanh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử, Ngài cố từ để nhường lại cho em, mà Vua cha không chịu. Khi được lập làm Hoàng thái tử, Ngài cố từ để nhường lại cho em, điều này rất hiếm có trong lịch sử Việt Nam, Trung Hoa hay Nhật Bản. Có khi anh em vì tranh giành ngôi vua mà giết hại lẫn nhau. Vì các vua ngày xưa có rất nhiều con, nên ai được lập làm Hoàng thái tử thì thấy rõ mình sẽ làm vua, còn các người con khác thì không được. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ thái hậu sau này. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu. Tuy được lập làm Thái tử và có gia đình, nhưng lúc nào Ngài cũng canh cánh trong lòng mong được đi tu. M ột hôm vào lúc nửa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị Sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất đắc dĩ phải trở về. Vì quy ết tâm đi tu, cho nên giữa đêm Ngài trèo thành ra đi, cũng giống như đức Phật ngày xưa vượt thành xuất gia. Ngài định lên núi Yên Tử, nhưng đường xa quá đi chưa đến nơi. Tới chùa Tháp ở núi Đông Cứu, trời vừa sáng, nên Ngài vào tháp nằm nghỉ. Thầy Trụ trì thấy Ngài tướng mạo phi thường mới làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy Ngài ởđó, bất đắc dĩ Ngài phải trở về. Nói đến đây chúng tôi muốn nhắc lại với quí vị, có một số người nghiên cứu tập Thơ văn của Ngô Thời Nhậm, thấy ý của ông nói về ngài Điều Ngự Giác Hoàng như sau: Ngài sở dĩ lên núi Yên Tử tu là để dò dẫm tin tức của quân Trung Quốc ở miền Bắc, nếu nghe có động tịnh gì thì báo về triều đình để ngừa đón giặc. Như vậy cái nhìn và câu nói đó đánh giá rất sai lầm về ngài Điều Ngự Giác Hoàng. Vì núi Yên Tử giáp ranh với Trung Quốc nên nói Ngài lên đó để lắng nghe tin tức, nếu nói như vậy là Ngài thành mật thám đem tin chớ không phải là tu! Đó là cái nhìn rất lệch lạc. Thì đây, ngay lúc còn làm Thái tử, Ngài đã trốn đi, cũng quyết lên núi Yên Tử. Tại sao? Vì Yên Tử là nơi có các Thiền sư tu ngộ đạo. Khi trước ông nội Ngài là Trần Thái Tông đi tu cũng lên núi này. Như vậy các Ngài lên núi Yên Tử để tu, chớ không phải để lắng nghe tin tức bên Trung Quốc. Người sau không hiểu, lấy ý của ông Ngô Thời Nhậm rồi kết luận sai lầm việc đi tu của Ngài. Đó là lời xuyên tạc của người sau, chúng ta chớ hiểu lầm các Tổ mà mang tội. N ăm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội tu tập. Tuy làm Vua, Ngài v ẫn giữ mình thanh tịnh và thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập. Trong cung đình ngày xưa thường có chia ra đại nội và ngoại thành. Đại nội tức khu vực nội thành, là khuôn viên nơi vua chúa và các quan đại thần ở, ngoại thành là nơi ở của các quan nhỏ. Trong đại nội luôn luôn có lập một ngôi chùa để các ông hoàng bà phi đi chùa lễ Phật. Hiện nay khi chúng ta ra Huế sẽ thấy vòng thành của đại nội, hay khi đi viếng Trung Quốc chúng ta sẽ thấy rõ khu vực gọi là nội thành của triều Thanh, trong đó có các cung điện và một ngôi chùa. M ột hôm nghỉ trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu.” Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên Vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc. Đ ây là một hiện tượng kỳ đặc, vì khi sanh ra, thân Ngài cũng màu vàng, trên vai phải có nốt ruồi, cho nên người đoán tướng nói Ngài là một vị ra đời để gánh vác việc lớn của đời cũng như của đạo. Giờđây Ngài lại mộng thấy đức Phật vàng, biết đâu không phải là sự tái sanh của các vị Bồ tát? Do đó sự tu hành của Ngài rất đơn giản mà thành tựu. Ngài th ường ăn chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên?” Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt. Đ âu có ai ở địa vị vua mà lại ăn chay, ăn chay cho tới thân thể gầy ốm! Thường người khá giả giàu có ăn uống đầy đủ món ngon nên béo phì ra. Còn Ngài ở địa vị một ông vua mà không nghĩ tới sự sung sướng hưởng thụ. Ngài chỉ muốn tu thôi, mới ăn chay lạt cho đến gầy ốm. Vua cha thấy Ngài là người đủ đức hạnh, cho nên lúc nào cũng trông cậy nơi Ngài. Song Ngài muốn được tu, nên Vua cha mới khóc. Là người con có hiếu, nghe cha than trách, Ngài cũng rơi nước mắt. Con ng ười Ngài rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, suốt thông nội điển (kinh) và ngoại điển (sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm tông (thiền), tham học thiền với Thượng sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tủy. Đối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy. Đ oạn này là phải ở phần trước. Khi còn làm Thái tử, Ngài đã tham học thiền với Thượng sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tủy và kính lễ Thượng Sĩ làm thầy. Đến khi làm vua Ngài họp các Thiền sư để bàn đạo lý. Thi ền tủy nghĩa là gì? Đây là từ ngữ của Tổ Bồ-đề-đạt-ma, lúc Tổ bảo các đồ đệ trình kiến giải trước khi Tổ tịch. Mỗi người trình chỗ thấy hiểu của mình, nhưng tới ngài Huệ Khả, Ngài đảnh lễ Tổ rồi đứng khoanh tay im lặng. Tổ bảo: “Ngươi được phần tủy của ta.” Được tủy của ta là chỉ cho người thâm ngộ đến chỗ tột cùng. Đối với Thượng Sĩ Tuệ Trung, Ngài đã thâm ngộ lý thiền cùng tột nên nói là “thâm đắc đến chỗ thiền tủy”. Nh ững khi giặc Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị các bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết tâm chống giặc. Đến đoạn này chúng tôi muốn giải thích rõ để Tăng Ni không có nghi ngờ. Là m ột ông vua cầm quân đánh giặc chống với quân Nguyên, trong hai trận chiến (1285, 1288) quân binh hai bên chết rất nhiều có đến mấy muôn người, vậy ông vua có mang tội sát sanh không? Thế thường ai cũng nghĩ mình đánh giặc giết người thì mang tội sát sanh chớ gì? Đã mang tội sát sanh, tại sao Ngài đi tu lại mau ngộ đạo như vậy? Đó là vấn đề nếu không giải thích e rằng sẽ có sự nghi hoặc. Vì thế chúng tôi phải dẫn rõ đoạn sử này. Quân nhà Nguyên sang xâm l ấn nước Việt Nam mà chúng ta có thể chống nổi là một việc rất phi thường, vì quân Nguyên thời đó là một đội quân hùng mạnh nhất thế giới, không một nước nào chống cự nổi. Đi từ miền đất Mông Cổ qua các nước phương Tây, đến Ba Tư, đến gần nước Lỗ nước Ý, coi như lấn qua Âu Châu, quân Nguyên đi tới đâu thắng tới đó, nên gọi là đội quân bách chiến bách thắng (trăm trận trăm thắng). Họ đánh giặc rất giỏi, nhất là đường bộ, có quân kỵ cỡi ngựa bắn tên rất tài, là thiện chiến nhất. Sau khi lấn qua các nước Tây phương, họ trở lại lấn qua phía đông, chiếm trọn Trung Quốc, lên làm vua lập thành nhà Nguyên. Như vậy đội quân của họ coi như chiếm giữ hơn phân nửa thế giới, là bao nhiêu người? Còn nước Việt Nam chúng ta lúc đó chỉ có một vùng từ miền cao nguyên ở Quảng Ninh đi lần vô tới Thanh Hóa thôi, chưa tới miền Trung, chưa có miền Nam, chỉ có một phần ba đất nước bây giờ, vậy số dân độ chừng bao nhiêu? Nếu nói về khu vực đất đai, nước Việt Nam khi đó chỉ bằng một tỉnh Trung Quốc, còn số dân cũng chưa chắc bằng một tỉnh Trung Quốc. Một đội quân đã chiếm Trung Quốc và chiếm luôn mấy nước Tây phương, rồi họ lại kéo quân về đánh Việt Nam, thử nghĩ chúng ta có thể chống nổi hay không? Người xưa có nói: Việt Nam chúng ta chống quân Nguyên giống như cầm trứng chọi đá, trứng bể hay đá bể? Thế mà đá bể! Chẳng phải chuyện phi thường là gì? Quân Nguyên thua tr ận thứ nhất đời vua Trần Thái Tông. Đến năm 1285, họ chuẩn bị trận thứ hai hùng mạnh gấp đôi. Khi ấy ngài Trần Nhân Tông mới lên ngôi vua được sáu năm, ngài Trần Thánh Tông làm Thái thượng hoàng. Đây là trận chiến nguy hiểm vì sức họ mạnh vô cùng, thế mà chúng ta thắng được trận này. Kế ba năm sau (1288), đến trận thứ ba, họ dồn hết lực lượng để đánh, cũng lại thua luôn. Thế là chúng ta thắng luôn ba trận chiến. Quân Nguyên khi sang đánh nước ta họ đi đường thủy thì ít, đi đường bộ nhiều và đường bộ là sở trường của họ. Khi ấy Việt Nam chúng ta nước nhỏ người ít, họ kéo quân qua đánh thì coi như chúng ta thua trăm phần trăm. Nhưng các vua quan nhà Trần khéo điều binh khiển tướng thế nào mà thắng được luôn ba trận như vậy, là điều mà rất nhiều người quan tâm. Nh ư trong bài có dẫn, trong hai cuộc chiến đời vua Trần Nhân Tông, Ngài có họp hai buổi đại hội nổi tiếng thời đó và mãi đến bây giờ, một kỳ hội nghị tại Bình Than, một kỳ hội nghị tại Diên Hồng. Tại hội nghị Bình Than, Ngài hội các tướng lãnh binh sĩ để hỏi ý kiến xem thế giặc mạnh như vậy, chúng ta nên đầu hàng hay chống lại họ. Tất cả tướng lãnh đều quyết định chống lại. Đó là tư cách lãnh đạo của một ông vua, nếu các tướng lãnh bằng lòng chống giặc thì nhà vua phải thuận theo. Đến kỳ hội nghị thứ hai tại điện Diên Hồng, vua Trần Nhân Tông họp toàn dân nhất là các bô lão có kinh nghiệm để hỏi ý kiến: Hiện giờ thế giặc rất mạnh, chúng ta người ít, quân ít, nước nhỏ không thể chống nổi, nhưng tất cả các vị muốn chống hay muốn hòa, hòa tức là đầu hàng. Tất cả đều nhất định chiến đấu chống giặc chớ không hòa, không đầu hàng. Như vậy hai cuộc chiến đó là do ý kiến của tướng lãnh và toàn dân, chớ không phải do lòng ác của vua muốn chống lại người để hại dân mình chết. Ngài thuận theo ý kiến chung chớ không phải ý riêng của Ngài. Ngài chỉ là người bị bắt buộc làm mà thôi. Hiểu rõ như vậy chúng ta mới thấy trong cuộc chiến tuy số người bị chết rất nhiều, nhưng đó là cuộc chiến của toàn dân, chớ không phải do nhà vua ra lệnh. Làm cái gì có tội, nhưng không phải do ý ác của mình, thì tội đó sám hối được. Còn làm cái gì do ý ác của mình thì không sám hối được. Có cuộc chiến để bảo vệ giang sơn, đó là bổn phận của người làm vua, của người lãnh đạo đất nước. Có cuộc chiến không phải vì mình muốn, mà vì ý kiến chung của toàn dân. Ở đây chúng ta thấy có điểm rất kỳ đặc mà trong thời quân chủ chưa từng có, từ Trung Quốc đến Việt Nam chưa tìm ra một ông vua hỏi ý kiến dân bao giờ! Chỉ có vua Trần Nhân Tông đem những hiểm nguy trình bày cho toàn dân biết, rồi hỏi ý kiến dân muốn thế nào thì Ngài làm thế ấy, rất là dân chủ, rất là vì dân. Tinh thần dân chủ đối với thời đó là chuyện không bao giờ có, thế mà có. Rồi chính vì bổn phận, vì người bảo mình làm, chớ không phải vì mình muốn, cho nên tội giết hại không phải là nặng đối với Ngài. Do đó khi đi tu Ngài sám hối là hết. Hiểu như vậy, nếu có ai hỏi tại sao đi đánh giặc mà tu đắc đạo, thì chúng ta phải thấy cho rõ ràng, đừng có hiểu lầm. Trong vi ệc quân nhà Nguyên đi xâm lăng, tất cả nước nào đội quân đó tới đều tan nát. Nhưng trong đời quân Nguyên chỉ thua có hai nước là Việt Nam và Nhật Bản. Thua Việt Nam là thua thật sự, còn thua Nhật Bản là tại thời cơ không thuận lợi. Quân Nguyên chuyên về bộ binh, mà trong cuộc chiến với Nhật Bản họ phải dùng hải quân tức là tàu thuyền, đó là điểm yếu của họ. Khi qua Nhật Bản, chỉ có một số ít quân đổ bộđược, còn đại quân đi gần tới Nhật bị một trận bão làm chìm thuyền, quân Nguyên chết gần hết, thành ra bại trận! Nói theo xưa, đó là thời trời. Còn ở Việt Nam chúng ta là đất liền, họ lại giỏi về bộ binh nhất là kỵ binh nên kéo quân qua rất dễ, mà lại thua! Là tại sao? Không phải do thời cơ thuận tiện, mà thật tình là do tinh thần đoàn kết và tài sức khôn ngoan của người Việt Nam mới thắng được giặc. Khi đối chiếu chúng ta thấy rõ những điểm kỳ đặc này. Nếu không hiểu, chúng ta cứ nghĩ đời Trần là đời các vua Thiền sư mà sao đánh giặc lại giỏi đến thế. Các vua là người tu, nhưng buộc lòng phải chống giặc, cho nên các Ngài chỉ làm với tinh thần toàn dân muốn làm. Toàn dân muốn làm tức là toàn dân đoàn kết, nên các Ngài đứng ra lãnh đạo. Do đoàn kết nên dù số nhỏ cũng thắng được số lớn. Thí dụ như trong một làng có chừng năm bảy trăm hộ khoảng mấy ngàn người, chỉ cần năm ba người liều chết cầm dao cầm súng rượt bắn thì cả làng có chạy không? Dù người đông bao nhiêu cũng vẫn sợ, vẫn chạy như thường. Thế nên số đông mà thua số ít, vì một là họ gan dạ liều chết, hai là họ đoàn kết với nhau. Tinh thần ít thắng nhiều là như vậy. N ăm Quí Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp đặt việc xuất gia. Đế n năm 1293, vì muốn xuất gia sớm, Ngài truyền ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng. Như vậy từ năm 1288 dẹp xong giặc Nguyên, đến năm 1293, chỉ trong vòng năm năm mà giặc giã được yên, đất nước được bình định. Ở ngôi Thái thượng hoàng chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp đặt việc xuất gia, không nghĩ đến sự thụ hưởng giàu sang uy quyền tột đỉnh. Khi có giặc đến xâm lấn đất nước, buộc lòng Ngài phải đánh để gìn giữ giang sơn. Khi giặc yên Ngài nhường ngôi cho con. Chỉ dạy con xong, Ngài đi tu. Đó là ý kiến rất kỳ đặc của Ngài. Đến tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299), Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầuđà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầuđà. Ch ữ đầuđà nguyên là chữ Phạn, đọc âm là đẩu-tẩu, dịch nghĩa là phủi giũ, nghĩa là buông sạch hết không để danh lợi làm lem lấm. Cho nên tu hạnh đầuđà tức là tu khổ hạnh. Buổi đầu Ngài lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầuđà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó. Ở đây nói Ngài lên núi Yên Tử để tu mà không thấy nói Ngài xuất gia và thọ giới với vị nào. Vì ngày xưa ít có ai dám làm thầy ông vua, chức Quốc sư là do vua phong mà thôi, nên chỉ nói Ngài xuất gia, rồi sau đó đi hoằng hóa. Nhưng về phần học đạo, đọc trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, chúng ta thấy rõ Ngài ngộ đạo ngay câu nói của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Khi còn làm Thái tử Ngài hỏi về yếu chỉ thiền như thế nào, Thượng Sĩ dạy: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.” Ngài lấy câu đó làm căn bản tu hành và sau đó Ngài ngộ đạo. Thế nên Thiền tông Việt Nam tức là phái thiền Trúc Lâm Yên Tử lấy câu “phản quan tự kỷ” làm trọng tâm để giải thích sự tu hành. Vì Ngài ngộ nơi câu đó, nên sau này đi tu Ngài liền truyền bá, chớ không cần phải học với ai nữa. Ngài l ấy hiệu đầu tiên là Hương Vân Đại Đầuđà. Hương Vân là mây thơm, khi thắp hương khói thơm bay lên giống như làn mây. Đại đầuđà tức là tinh thần tu khổ hạnh rất cao. Theo sử kể lại, Ngài từ chối không đi ngựa, không đi thuyền rồng, chỉ đi bộ mà thôi. Thế nên từ núi Yên Tử về kinh đô Ngài đi bộ mất sáu, bảy ngày mới đến nơi. Tinh thần của Ngài rất dứt khoát, khi nào làm vua thì hẳn làm vua, lúc nào đi tu là hẳn đi tu, không có nuối tiếc. Còn chúng ta ngày nay đi tu thì thế nào? Từ chối cái gì? Từ chối đi bộ muốn đi Honda, từ chối đi Honda muốn đi xe hơi…, muốn tiến lên chớ không chịu lùi lại. Chúng ta đi tu mà còn tiếc rẻ những vật dụng không nỡ bỏ lại nhà, muốn đem vào chùa để dùng riêng, thật là quá dở. Còn Ngài khi đi tu thì bỏ lại tất cả không tiếc một cái gì. Tinh thần của Ngài rất đặc biệt, cho nên mới dùng chữ Đại Đầuđà. Vì thế trên đường tu, Ngài dụng công không nhiều, thời gian tu không dài, mà kết quả rất lớn, đó là do Ngài có ý chí mãnh liệt và thái độ dứt khoát. Gương người xưa cao quí như vậy, chúng ta phải ráng noi theo. Ngày nay chúng ta dụng công tu nhiều, thời gian tu dài mười năm, hai mươi năm mà chưa làm được điều gì lợi ích cho mình cho người, thật đáng hổ thẹn. Đó là vì chúng ta không có ý chí mãnh liệt, không có thái độ dứt khoát, nên không có kết quả. Trong th ời gian sau, Ngài làm rất nhiều Phật sự nào là lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Rồi Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường, quê hương của Ngài, lập giảng đường giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đi tới các nơi như trại Bố Chánh và lập am Tri Kiến rồi ở đó. Đế n năm Giáp Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng), và dạy họ tu hành Thập thiện. Vào mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại gia. Còn m ột đoạn sử mà chúng tôi không nêu ra ở đây, đó là việc Ngài qua Chiêm Thành một thời gian, với mục đích hòa hợp nước Chiêm Thành với nước Việt Nam, hòa với phương Nam để đủ sức chống với phương Bắc. Và Ngài hứa gả Công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm. Vì có tánh cách lo cho đất nước xứ sở nhiều, nên chúng tôi không có ghi đoạn sử này vào đây. Đế n năm 1304 Ngài dạo đi các nơi khuyên dân dẹp bỏ những miếu thờ thần không chánh đáng. Ngài lại dạy dân tu hành Thập thiện, việc này rất đáng để chúng ta lưu tâm. Không phải ai Ngài cũng dạy tu thiền, vì tu thiền là phương pháp tu dành cho những người quyết tâm quyết chí, chớ không phải cho người dân thường. Muốn người dân có đạo đức thì không gì hơn dạy họ tu trì Ngũ giới và hành Thập thiện. Đó là phương pháp mà toàn dân ai cũng có thể tu được. Đem đạo đức phổ biến cho quần chúng, thì chỉ có Ngũ giới và Thập thiện là căn bản. Như hiện nay tuy chúng ta ở Thiền viện, nhưng với người Phật tử mới chưa quyết tâm tu thiền, chúng ta cũng khuyên họ giữ Ngũ giới và hành Thập thiện. Chớ không phải gặp ai chúng ta cũng bảo phải tu thiền, nếu tu thiền không được thì coi như bỏ đi, nói như vậy là không tốt. Mùa đông năm ấy, vua Anh Tông thỉnh Ngài về triều để truyền giới Bồ-tát tại gia cho Vua và các quan. Sau đó, Ngài chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông. Ngày mùng 1 tháng giêng n ăm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại Báo Ân thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính Ngài giảng Truyền Đăng Lục, bảo Quốc sư Đạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa. Đ oạn này chứng minh cụ thể chủ trương của Sơ tổ Trúc Lâm là Thiền Giáo đồng hành. Ngài giảng Truyền Đăng Lục là sách truyền đăng của nhà thiền, nhưng khuyên Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa. Bãi h ạ, Ngài vào núi Yên Tử, đuổi hết những người cư sĩ theo hầu hạ và những kẻ nô dịch trong chùa, không được chực hầu như trước. Chỉ để lại mười vị Thị giả thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng Truyền Đăng Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là Pháp Loa còn ở thôi. T ừ đây, Ngài leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.” Trong th ời gian này, Ngài leo khắp núi Yên Tử, chẳng ngại nhọc nhằn, qua lại trên các ngọn núi để tìm những chỗ kỳ đặc. Ngài Pháp Loa sợ Ngài bệnh nên khuyên can, Ngài bảo: “Thời tiết của ta đã đến, muốn tạo kế lâu dài.” Tức là Ngài tự biết đến lúc sắp ra đi, nên muốn tìm chỗ an thân khi tịch, hoặc là tìm chỗ cất ngôi chùa để khiến cho Phật pháp được bền lâu. Ngày mùng 5 tháng 10 n ăm ấy, người nhà của Công chúa Thiên Thụy lên núi bạch Ngài: “Công chúa Thiên Thụy bệnh nặng mong được thấy Tôn đức rồi chết.” Ngài bùi ngùi bảo: “Thời tiết đã đến vậy.” Ngài bèn chống gậy xuống núi, chỉ cho theo một người Thị giả. Ngày mùng mười Ngài về đến kinh, dặn dò xong, ngày rằm Ngài trở về núi. Ngài xu ống núi về kinh thăm chị là Công chúa Thiên Thụy đang đau nặng và sắp mất. Trong Tam Tổ Thực Lục có ghi: Thấy Công chúa Thiên Thụy lo sợ, Ngài khuyên: “Chị nên yên tâm, nếu ra đi đến Diêm chúa thì chị nói: Ít hôm sau em tôi là Trúc Lâm Đại Đầuđà sẽ xuống.” Câu chuyện này không được thích hợp, nên không có ghi vào tiểu sử, nhưng được dẫn ra đây để Tăng Ni thấy rằng: Người tu có thể nhờ đức độ của mình làm giảm nhẹ được nghiệp của thân bằng quyến thuộc, nói điều này không phải là không có lý do. Thí dụ như hiện nay chúng ta có một địa vị cao sang trong xã hội, nếu những người thân của mình giả sử có phạm những lỗi lầm gì thì người đứng ra xử phạt cũng nương tay, đó là một lẽ thật. Ở đây cũng vậy, Ngài Điều Ngự tin rằng nhờ đạo đức tu hành của mình, những thân nhân sẽ được giảm bớt các hình phạt, cho nên Ngài mới khuyên chị như vậy. Dặn dò xong, Ngài trở về núi. Ngài dừng nghỉ ở chùa Siêu Loại. Hôm sau vừa rạng đông, Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu. Chúng ta thấy Ngài đúng là nhà tu khổ hạnh. Tuy già bệnh mà Ngài vẫn đi bộ chớ không đi ngựa. Khi đến chùa làng Cổ Châu, Ngài tự đề bài kệ rằng: Th ế số nhất tức mặc, Thời tình lưỡng hải ngân. Ma cung hồn quản thậm, Phật quốc bất thắng xuân. Trong quy ển Tam Tổ Thực Lục, câu đầu của bài kệ nói khác: “Thế số nhất sách mạc.” “Sách mạc”, sách là sợi dây, cũng có âm là tác tức là tan tác. Chữ mạc là chớ, là không, cũng đọc là mạch tức là rậm rạp, hoặc đọc là bá tức là lặng lẽ. Nếu câu kệ là “thế số nhất sách mạc” thì không biết làm sao giải nghĩa, nên làm rối nhiều dịch giả. Song khi đọc trong Tam Tổ Hành Trạng của ông Ngô Thời Nhậm, câu đầu bài kệ là: “thế số nhất tức mặc”, chúng tôi thấy câu này rất hợp lý. Thế số là số đời, nhất tức mặc là một hơi thở, thở ra mà không hít vào là chết ngay. Nghĩa này rất hợp với kinh Phật, nên chúng tôi nhận câu này là đúng. Đế n sau này khi tra lại bộ Thiền Tông Bản Hạnh của Thiền sư Chân Nguyên, chúng tôi thấy câu đầu bài kệ cũng là: “Thế số nhất tức mặc”. Thiền sư Chân Nguyên sanh năm 1647, tịch năm 1726. Còn tác giả quyển Tam Tổ Hành Trạng là ông Ngô Thời Nhậm, sanh năm 1746 mất năm 1805. Vậy ngài Chân Nguyên sanh trước ông Ngô Thời Nhậm gần một trăm năm. Vì thế quyển Tam Tổ Hành Trạng của ông có thể căn cứ theo tài liệu của ngài Chân Nguyên. Ngài là một Thiền sư trụ trì chùa Long Động, tức là cửa ngõ vào núi Yên Tử, và trụ trì chùa Quỳnh Lâm là ngôi chùa lớn nhất của hệ phái Trúc Lâm, cho nên tài liệu của Ngài chính xác hơn, chúng ta đủ lòng tin nơi câu “thế số nhất tức mặc” trong quyển Thiền Tông Bản Hạnh của Ngài. Gi ải nghĩa bài kệ: Thế số nhất tức mặc Thế số là số đời. Nhất tức mặc là một hơi thở. Tức là hơi thở, mặc là dừng là lặng. Nghĩa là hơi thở ra mà dừng lại không hít vào là mất đi một cuộc đời. Thời tình lưỡng hải ngân Th ời tình là tình đời hay lòng của con người. Lưỡng hải ngân là hai biển bạc. Nghĩa là lòng tham con người là hai biển bạc, là chỉ sự tham muốn vô cùng. Số đời của mình chỉ trong một hơi thở, mà lòng tham muốn vô cùng. Ma cung hồn quản thậm Ma cung là cung ma. Hồn là mờ mịt tối tăm. Quản thậm là bị quản lý rất khít khao chặt chẽ. Ph ật quốc bất thắng xuân Cõi Phật đẹp đẽ không gì hơn (xuân là chỉ cho sự đẹp đẽ). Dịch: S ố đời một hơi thở Lòng người hai biển vàng. Cung ma dồn quá lắm, Cõi Phật vui nào hơn. Hai câu đầu chỉ mạng sống con người hết sức ngắn ngủi mà lòng tham muốn vô cùng. Lòng người hai biển vàng, dùng chữ vàng thay chữ bạc cho ăn vận. Nơi nào có tiền bạc nhiều như nước gọi là tiền rừng bạc bể, hay biển bạc. Nếu là biển vàng thì càng quí, càng tham hơn nữa. Hai câu sau là chỉ nơi cung ma tối tăm khổ sở bị cai quản chặt chẽ, còn cõi Phật tốt đẹp an vui không gì bằng. Tóm l ại bài kệ này diễn tả hai hình ảnh đối nghịch nhau giữa kẻ mê và người tỉnh. Kẻ mê cho thân này là lâu dài quí báu, nên lòng tham muốn quá nhiều, không lường tuổi thọ của mình, rồi tạo nghiệp chịu khổ. Đến khi chết phải đọa vào cõi ma cõi ác, đau đớn vô ngần! Nếu chúng ta thức tỉnh biết rõ cuộc đời hư dối phù du, lòng tham dừng lại để cố gắng tiến tu, đó là chúng ta chọn cõi Phật để trở về nương tựa, đó cũng là nơi an vui tự tại muôn đời. Bài k ệ này là những lời cảnh tỉnh của ngài Trúc Lâm Đại Đầuđà. Với tâm hồn bao la rộng rãi, Ngài muốn cải tạo thế gian trở thành hiền lành tốt đẹp. Ngài đi trong dân gian dạy người giữ Ngũ giới, tu Thập thiện, cố gắng tu hành chuyển nghiệp. Song việc làm của Ngài chưa xong, mà tuổi thọ đã hết rồi! Biết mình sắp tịch, Ngài cảm khái ghi lại bài kệ mang tâm trạng của Ngài lúc ấy. Bài kệ này liên hệ rõ ràng với bài kệ bốn câu sau đây: Thân nh ư hô hấp tỹ trung khí, Thế tợ phong hành lãnh ngoại vân. Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú, Bất thị tầm thường không quá xuân. Trong hai câu đầu Ngài luôn luôn nhớ thân mình giống như hơi thở ra vào nơi mũi, ngắn ngủi tạm bợ. Cuộc đời thay đổi không dừng như đám mây trôi ngoài đỉnh núi xa! Đối chiếu lại, chúng ta thấy rất hợp với câu kệ: “Thế số nhất tức mặc”… Nhờ tra quyển Thiền Tông Bản Hạnh, chúng ta thấy được chỗ tương hợp, không còn lầm lẫn nữa. Đế n ngày 17, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ hoàng thái hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Đây là bữa cúng dường rốt sau.” Ngài đi bộ trở về núi, đến am Bình Dương, được Tuyên Từ hoàng thái hậu lúc ấy tu rồi, thỉnh Ngài vào am cúng dường bữa trai. Ngài vui vẻ nói: Đây là bữa cúng dường rốt sau. Như vậy là Ngài biết trước Ngài sắp tịch. Ngày 18, Ngài l ại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn An Kỳ Sanh. Nghe nhức đầu, Ngài gọi hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp được.” Đến am Ngọa Vân, Ngài tạ hai vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành đi, chớ xem thường việc sanh tử.” Ngày 19, Ngài sai Th ị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sát quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền, nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc lát lại lặn xuống. Đêm ấy Bảo Sát nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy điềm chẳng lành. Ngày 21, B ảo Sát đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Đối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa rõ hãy nói mau.” Bảo Sát hỏi: - Như khi Mã Tổ bệnh, Viện chủ hỏi: “Những ngày gần đây Tôn đức thế nào?” Mã Tổ bảo: “Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.” Nói thế ý chỉ làm sao? Ngài lớn tiếng đáp: - Ngũ Đế Tam Hoàng là vật gì? B ảo Sát hỏi: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật là ý chỉ thế nào, ngài Điều Ngự dẫn một câu trong Bích Nham Lục để đáp: Ngũ Đế Tam Hoàng là vật gì? Chúng ta thường nói Phật là đấng giác ngộ, nhưng ở đây lại nói “mặt trời Phật, mặt trăng Phật”, vậy mặt trời mặt trăng có giác không? Như chúng ta đã biết khi ngộ rồi thì tất cả không gì ngoài tâm Phật. Thế thì mặt trời mặt trăng đâu không phải là Phật sao? Câu đáp của ngài Điều Ngự làm rõ ý này. Ngũ Đế là năm vị vua ở Trung Hoa, Tam Hoàng là ba vị vua thời cổ, các vị này rất được quí trọng, lại hỏi là vật gì? Cho nên người sau kết tội ngài Tuyết Đậu, tưởng như Ngài khinh thường biếm nhẽ các nhà vua. Nhưng những vị vua được người trong thiên hạ quí trọng với một vật khác cũng không có ngoài. Phật dụ như ông vua, mặt trời mặt trăng dụ như vật này vật kia. Mặt trời mặt trăng cũng là Phật, thì vật này vật kia cũng là Ngũ Đế Tam Hoàng, không có ngoài, không có khác. Vậy là không có cái quí ở ngoài cái tiện, không có cái tiện ở ngoài cái quí. B ảo Sát lại hỏi: - Chỉ như “hoa sum sê chừ gấm sum sê, tre đất nam chừ cây đất bắc”, lại là sao? Ngài đáp: - Làm mù mắt ngươi. Bảo Sát bèn thôi. Ngài Bảo Sát lại dẫn những câu của người xưa để hỏi. Sơ Tổ đáp: Làm mù mắt ngươi. Tại sao? Vì hoa gấm, tre cây, nếu kẹt vào những hình ảnh đó, sẽ bị chúng làm mù mắt. Bảo Sát thôi không hỏi nữa. Suốt mấy hôm trời đất u ám, chim vượn kêu hót rất bi thảm. Đế n ngày mùng 1 tháng 11, đêm nay trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát: “Hiện giờ là giờ gì?” Bảo Sát bạch: “Giờ Tý.” Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói: “Đến giờ ta đi.” Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?” Ngài nói kệ đáp: Nh ất thiết pháp bất sanh, Nhất thiết pháp bất diệt. Nhược năng như thị giải, Chư Phật thường hiện tiền. Hà khứ lai chi liễu dã. Dịch: ẳ T ất cả pháp chẳng sanh, Tất cả pháp chẳng diệt. Nếu hay hiểu như thế, Chư Phật thường hiện tiền. Nào có đến đi ấy vậy. B ốn câu kệ là dẫn trong kinh Hoa Nghiêm: Nếu chúng ta thấy tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp chẳng diệt, thấy và hiểu được như vậy thì chư Phật luôn luôn có mặt trước mắt chúng ta. Câu cu ối Ngài đáp: “Nào có đến đi ấy vậy”, nghĩa là không có đến không có đi. Cái nhìn của Ngài khác với chúng ta như thế nào? Đối với chúng ta khi sanh gọi là đến, khi tử là đi. Bởi đến cho nên mừng, ăn mừng ngày sanh, đi cho nên buồn, buồn ngày ra đi, nên gọi là ngày húy kỵ, kiêng không dám nói tới. Nhưng thử hỏi chúng ta đến trong cuộc đời này mấy mươi năm để hưởng cái gì mà mừng? Khi đi, có biết ra sao mà sợ? Thật là lắm chuyện rắc rối. Chúng ta có mặt nơi đây chưa chắc được an lành hạnh phúc, có khi phải lận đận lao đao khóc bao nhiêu nước mắt, tại sao lại mừng? Đến lúc ra đi, nếu cả đời mình không có làm đau khổ phiền lụy cho ai, ra đi thật thảnh thơi, tại sao lại sợ? Con người vì mê muội cho nên tham sống sợ chết, mong được sống lâu đến trăm tuổi, nhưng tuổi già lụm cụm sống thêm mười năm hai mươi năm có hạnh phúc gì không? Thôi thì hết duyên cứ nhẹ nhàng ra đi chớ nên sợ sệt, còn duyên thì vui ở lại, cũng chớ than van cuộc đời sao khổ quá! Nếu sống than khổ, chết lại sợ, vậy phải làm sao? Chúng ta phải gan dạ chấp nhận sống không than, ra đi không sợ, phải hiểu rõ cuộc đời là tạm bợ hư dối, đủ duyên thì tồn tại, thiếu duyên thì tan rã, không có gì quan trọng, mà quan trọng là chúng ta biết vui với cuộc sống và vui lúc ra đi. Th ế nên khi Bảo Sát hỏi: Tôn đức đi đến chỗ nào, ngài Điều Ngự đáp: Nào có đến đi ấy vậy. Như trong kinh Lăng Nghiêm có nói: Thân này như hòn bọt trên mặt biển, nếu hòn bọt tan rồi thì trở về biển cả, làm gì có đến có đi? Song chúng ta chỉ biết hòn bọt mà không biết gốc của nó từ mặt biển, nếu biết được thì hòn bọt còn hay mất đâu có nghĩa gì! Thế nên khi tu chúng ta phải nhận được nơi mình Pháp thân không sanh không diệt, theo duyên huyễn hiện, hễ huyễn sanh thì huyễn tử, sanh tử qua rồi trở về Pháp thân, có mất chi đâu mà nói đi nói đến. Qua câu đáp của Sơ tổ Trúc Lâm chúng ta thấy trong việc sanh tử Ngài rất an nhiên tự tại, không khổ sở, không lo lắng. B ảo Sát hỏi: - Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào? Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói: - Chớ nói mớ. Nói xong, Ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, vào niên hiệu Hưng Long thứ 16 (1308), thọ năm mươi mốt tuổi. B ảo Sát hỏi thêm: “Chỗ chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?” Sơ Tổ liền tát vào miệng Bảo Sát nói: “Chớ nói mớ”, nghĩa là chớ nói mê nói mộng. Ngay chỗ chẳng sanh chẳng diệt mà còn hỏi thế nào, đó là bày thêm chuyện. Hãy ngay đó mà sống. Sơ tổ Trúc Lâm thọ năm mươi mốt tuổi, Ngài đi sớm quá! Pháp Loa theo l ời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ nơi Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầuđà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. Ngài còn l ưu lại những tác phẩm: 1. Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục. 2. Đại Hương Hải Ấn Thi Tập. 3. Tăng-già Toái Sự. 4. Thạch Thất Mị Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài. Những tập sách này hiện nay chỉ còn rải rác chút ít, không nguyên vẹn đầy đủ. Để kết thúc tiểu sử của Sơ tổ Trúc Lâm, chúng tôi muốn nhắc đến tôn hiệu Điều Ngự Giác Hoàng của Ngài. Tên Điều Ngự không phải do Ngài tự xưng, mà chính vua Thánh Tông đặt cho khi Ngài thuật lại điềm mộng. Ngài thấy từ rún mọc lên hoa sen, trên hoa có đức Phật tên là Biến Chiếu, nên Vua cha đặt tên cho Ngài là Điều Ngự, tức là Phật. Giác Hoàng là ông vua giác ngộ đi tu, cũng như đức Phật khi xưa ở Ấn Độ là một Thái tử sắp lên ngôi vua, rồi giác ngộ đi tu. Hai hình ảnh rất gần nhau khiến cho chúng ta thấy rõ các Ngài từ một địa vị cao sang quyền quí, lãnh đạo toàn dân, nhưng các Ngài thức tỉnh ra đi tìm đạo. Song đối với trách nhiệm, các Ngài không thiếu bổn phận, lại còn làm đầy đủ hơn nữa. Nếu Thái tử Tấtđạtđa khi xưa ở tại cung điện, rồi lên làm vua cai trị muôn dân thời đó, thì ngày nay có còn ai biết đến Ngài nữa hay không? Cũng thế, nếu Điều Ngự Giác Hoàng chỉ là vua Trần Nhân Tông thì hiện giờ nếu chúng ta quí kính Ngài chỉ là quí một ông vua thương dân cứu nước, chớ đâu có nhắc đến lý tưởng tu hành đạo đức của Ngài. Nhưng chính vì các Ngài đi tu tìm đạo giải thoát, nên giá trị tinh thần của các Ngài càng rộng rãi cao cả hơn và được lưu truyền mãi đến muôn đời. THAM VẤN Mở đầu pháp hội, Ngài niêm hương báo ân xong bước lên tòa. Vị Thượng thủ bạch chùy v.v… rồi Ngài nói: - Thích-ca V ăn Phật vì một đại sự mà xuất hiện giữa cõi đời này, suốt bốn mươi chín năm chuyển động đôi môi mà chưa từng nói một lời. Nay ta vì các ngươi lên ngồi tòa này, biết nói chuyện gì đây? Ngồi giây lâu, Ngài ngâm: ÂM: Thân nh ư hô hấp tỹ trung khí, Thế tợ phong hành lãnh ngoại vân. Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú, Bất thị tầm thường không quá xuân. DỊCH: Thân nh ư hơi thở ra vào mũi, Đời giống mây trôi đỉnh núi xa. Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng, Đâu phải tầm thường qua một xuân. Ngài vỗ bàn một cái nói: - Không có gì sao? Ra đây, ra đây! * Có vị Tăng hỏi: - Thế nào là Phật? Ngài đáp: - Nhận đến như xưa vẫn chẳng phải. - Thế nào là pháp? - Nhận đến như xưa vẫn chẳng phải. - Thế nào là Tăng? - Nhận đến như xưa vẫn chẳng phải. - Cứu kính thế nào? Đáp: Chữ bát đã bày trao hết sạch, Đâu còn có việc nói cùng ngươi. (Bát tự đả khai phân phó liễu Cánh vô dư sự khả trình quân.) L ại hỏi: - Thế nào là một việc hướng thượng? Ngài đáp: - Đầu gậy khêu nhật nguyệt. - Dùng công án cũ làm gì? - Một lần nhắc lại một lần mới. - Thế nào là giáo ngoại biệt truyền? - Ễnh ương nhảy không khỏi đấu. - Sau khi ra khỏi đấu thì thế nào? - Lại theo con ếch nhảy xuống bùn. - Vẫn là nhảy chẳng khỏi. Ngài bèn lớn tiếng nạt: - Kẻ mù! Thấy cái gì? - Đại tôn đức lừa người làm gì? Ngài liền “hừ, hừ”. Vị Tăng suy nghĩ. Ngài liền đánh. Vị Tăng lại suy nghĩ để hỏi. Ngài liền hét. Vị Tăng cũng hét. Ngài hỏi: - Lão tăng bị một cái hét, hai cái hét của ngươi, rốt cuộc thế nào? Nói mau! Nói mau! V ị Tăng suy nghĩ. Ngài lại hét một tiếng, nói: - Con chồn hoang quỉ quái! Vừa rồi tinh lanh, giờ ở chỗ nào? Vị Tăng lễ bái lui ra. * Tăng hỏi: - Đại tôn đức khổ nhọc tu hành, đã trải qua nhiều năm, đối với sáu thông của Phật, Ngài đã được mấy thông? Ngài đáp: - Cũng được sáu thông. - Năm thông kia gác qua, thế nào là tha tâm thông? - Đầy cả quốc độ, có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết, Như Lai đều thấy. Vị Tăng liền đưa nắm tay lên nói: - Đã biết hết thấy hết, vậy biết cái này có vật gì? Ngài đáp: - Như có như không, chẳng phải không chẳng phải sắc. - Xưa Tăng hỏi Hòa thượng Lang Gia: “Thanh tịnh bản nhiên, vì sao chợt sanh sơn hà đại địa?” Ý chỉ thế nào? - Th ật giống thuyền chài ra biển. - Ý này thế nào? - Ai biết nơi chốn khói sóng xa khơi kia, riêng có chỗ nên suy nghĩ. * Hỏi: - Thế nào là gia phong Phật quá khứ? Đáp: Vườn rừng vắng vẻ ai xem sóc Lý trắng đào hồng hoa tự nhiên. (Viên lâm tịch mịch vô nhân quàn, Lý bạch đào hồng tự tại hoa.) H ỏi: - Thế nào là gia phong Phật hiện tại? Đáp: Gia phong sóng bạc mê yến sớm Tiên uyển đào hồng say gió xuân. (Bạch thùy gia phong mê hiểu yên, Hồng đào tiên uyển túy xuân phong.) H ỏi: - Thế nào là gia phong Phật vị lai? Đáp: Bãi biển chờ triều trời đợi nguyệt Xóm chài nghe sáo khách nhớ nhà. (Hải phố đãi triền thiên dục nguyệt, Ngư thôn văn địch khách tư gia.) H ỏi: - Gia phong Hòa thượng thế nào? Đáp: Áo rách che mây, sáng ăn cháo Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà. (Phá nạp ủng vân triêu khiết chúc, Cổ bình tả nguyệt dạ tiên trà.) L ại hỏi: - Ngài Linh Vân khi xem hoa đào ngộ thì thế nào? Đáp: Tự nở tự tàn theo thời tiết Đông quân bị hỏi cũng khôn lời. H ỏi: - Khi giết người không nhìn lại thì sao? Đáp: - Gan dạ cùng mình. Hỏi: - Người đại tu hành lại rơi vào nhân quả hay không? Đáp: Mi ệng dường chậu máu chê Phật Tổ, Răng như kiếm bén gặm rừng thiền. Một mai chết đọa A-tì ngục, Cười ngất Nam-mô Quán Thế Âm. (Kh ẩu tợ huyết bồn ha Phật tổ, Nha như kiếm thọ chủy Thiền lâm. Nhất triêu tử nhập A-tì ngục, Tiếu sát Nam-mô Quán Thế Âm.) Hỏi: Dưới ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết Trên cây oanh đậu một cành hoa, thì th ế nào? Đáp: - Lầm! Hỏi: - Theo Đại tôn đức thì thế nào? Đáp: Dưới ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết Trên cây oanh đậu một cành hoa. T ăng nói: - Đó là câu nói của tôi. Đáp: Muốn biết thần tiên lò luyện thuốc Linh đơn vốn thiệt tử châu sa. H ỏi: - Thế nào là Thanh tịnh pháp thân? Đáp: Đục vàng rơi trong phân sư tử Người đen đúa vác bó hương thơm. T ăng thưa: - Học nhân không hiểu. Đáp: Chớ học thói hồ đồ trả giá Cười người chân thật dối lầm nhau. H ỏi: - Thế nào là Viên mãn báo thân? Đáp: Cánh bằng bay bổng dừng cơn gió Ly châu lắng lạnh biển trong ngần. V ị Tăng lễ bái. Ngài bảo: Nguyên lai đầy đủ nhiều công dụng Bởi chú quàng xiên chẳng được thành. H ỏi: - Thế nào là Thiên bách ức hóa thân? Đáp: Mây dồn sương phủ trời mù mịt Tấc nước như xưa trước đỉnh đầu. T ăng nói: - Đúng thế. Ngài bảo: Cười ngất kẻ gom mây dưới đảnh Bốn bề nuốt lấy hòn sắt tròn. V ị Tăng lễ bái lui ra. * Pháp Loa hỏi: - Nói huyền nói diệu, luận cổ bàn kim, đều thuộc thứ nói đùa, một câu không kẹt trong ngôn ngữ làm sao nói được? Ngài đáp: Gió đông dìu dịu ngàn hoa nở Lách cách vành xe một tiếng vang. Pháp Loa toan mở miệng nói, Ngài liền bảo: Chim hót máu tuôn vẫn vô dụng Non tây như trước phủ mây chiều. Pháp Loa: Khi muôn d ặm mây tạnh thì thế nào? Ngài: Mưa tầm tã. Hỏi: - Khi muôn dặm mây che kín thì thế nào? Đáp: - Trăng vằng vặc. - Cứu kính thế nào? - Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy. - Thế nào là Bản lai diện mục? Ngài im lặng giây lâu hỏi: - Hiểu chăng? Đáp: - Chẳng hiểu. Ngài liền đánh. Pháp Loa hỏi: Thế nào là ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp? Ngài đáp: N ếu dùng sắc thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta, Người ấy hành đạo tà, Không thể thấy Như Lai. Pháp Loa: Th ế nào là Phật? Ngài đáp: Tấm cám ở dưới cối. - Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn sang? - Bánh vẽ. - Thế nào là đại ý Phật pháp? - Cùng hầm, đất không khác. - Xưa có vị Tăng hỏi Triệu Châu “con chó có Phật tánh không”, Triệu Châu nói “không”, ý chỉ thế nào? Đáp: Chất muối ở trong nước Keo xanh ở trong sắc. H ỏi: - Hữu cú vô cú như bìm leo cây, khi ấy thế nào? Ngài bèn nói kệ: H ữu cú vô cú Đằng khô thọ đảo Cơ cá nạp tăng Chàng đầu khái não. H ữu cú vô cú Thể lộ kim phong Hằng hà sa số Phạm nhẫn thương phong. H ữu cú vô cú Lập tông lập chỉ Đả ngõa toản qui Đăng sơn thiệp thủy. H ữu cú vô cú Phi hữu phi vô Khắc chu cầu kiếm Sách ký án đồ. H ữu cú vô cú Hỗ bất hồi hỗ Lạp tuyết hài hoa Thủ chu đãi thố. H ữu cú vô cú Tự cổ tự kim Chấp chỉ vong nguyệt Bình địa lục trầm. H ữu cú vô cú Như thị như thị Bát tự đả khai Toàn vô bả tỹ. H ữu cú vô cú Cố tả cố hữu A thích thích địa Náo quát quát địa. H ữu cú vô cú Đao đao phạ phạ Tiệt đoạn cát đằng Bỉ thử khoái hoạt. DỊCH: H ữu cú vô cú Bìm khô cây ngã Mấy kẻ nạp tăng U đầu sứt trán. H ữu cú vô cú Thể lộ gió thu Hằng hà sa số Va đao chạm bén. H ữu cú vô cú Lập tông lập chỉ Đập ngói dùi rùa Trèo non lội nước. H ữu cú vô cú Chẳng có chẳng không Khắc thuyền tìm kiếm Tìm ngựa cứ hình (bản đồ). H ữu cú vô cú Hồi hỗ, hay không Nón tuyết giày hoa Ôm cây đợi thỏ. H ữu cú vô cú Tự xưa tự nay Chấp tay quên trăng Đất bằng chết chìm. H ữu cú vô cú Như thế như thế Chữ bát mở ra Sao không nắm mũi? H ữu cú vô cú Ngó tả ngó hữu Lau chau mồm mép Ồn ào náo động. H ữu cú vô cú Đau đáu lo sợ Cắt đứt sắn bìm Đó đây vui thích. Ngài bèn bước xuống tòa. GIẢNG: Mở đầu pháp hội, Ngài niêm hương báo ân xong bước lên tòa. Vị Thượng thủ bạch chùy v.v… rồi Ngài nói: - Thích-ca V ăn Phật vì một đại sự mà xuất hiện giữa cõi đời này, suốt bốn mươi chín năm chuyển động đôi môi mà chưa từng nói một lời. Nay ta vì các ngươi lên ngồi tòa này, biết nói chuyện gì đây? Ngồi giây lâu, Ngài ngâm: Thân nh ư hô hấp tỹ trung khí, Thế tợ phong hành lãnh ngoại vân. Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú, Bất thị tầm thường không quá xuân. Dịch: Thân nh ư hơi thở ra vào mũi, Đời giống mây trôi đỉnh núi xa. Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng, Đâu phải tầm thường qua một xuân. Ngài v ỗ bàn một cái nói: - Không có gì sao? Ra đây, ra đây! M ở đầu pháp hội, Ngài niêm hương báo ân. Niêm hương tức là cầm cây hương đưa lên, rồi Ngài nguyện đem công đức truyền bá chánh pháp hồi hướng về tứ ân là ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân quốc gia và ân thí chủ. Niêm hương xong Ngài bước lên tòa. Vị Thượng thủ bạch chùy, tức là đánh kiểng. Mở đầu buổi tham vấn, Ngài nói: Thích-ca V ăn Phật (tức là đức Phật Thích-ca) vì một đại sự mà xuất hiện ở giữa cõi đời này. Đại sự đó là gì? Nếu nói theo kinh Pháp Hoa, đại sự là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, tức là chỉ cho con người ngộ được tri kiến Phật hay là Phật tánh của mình. Su ốt bốn mươi chín năm chuyển động đôi môi, mà chưa từng nói một lời. Chuyển động đôi môi tức là nói, sao lại bảo chưa từng nói một lời? Chưa từng nói một lời, mà sao ghi lại thành Tam tạng kinh điển? Như vậy là có nói hay không có nói? Cũng như hiện giờ tôi giảng rất nhiều, đến khi tôi tịch, quí vị sẽ nói tôi bao nhiêu năm chuyển động đôi môi mà chưa từng nói một lời. Tại sao? Vì bao nhiêu ngôn ngữ được dùng đều là phương tiện để giảng dạy cho mọi người hiểu thấu đạo lý, mà đạo lý cuối cùng, theo kinh Lănggià, là chỉ tâm Phật của chính mình. Song tâm Phật không thể nói tới được, vì tất cả ngôn ngữ là tướng động, tướng sanh diệt, còn tâm Phật là bất động, không sanh diệt. Lấy cái động sanh diệt để nói cái bất động không sanh diệt, thì không thể được. L ại nữa có nói là có khởi nghĩ. Khởi nghĩ tức là động, mà động thì mất tâm Phật, cho nên nói: “bốn mươi chín năm thuyết pháp mà chưa từng nói một lời”, vì tâm Phật hoàn toàn thanh tịnh. Muốn chỉ con người nhận biết được cái chân thật nhưng không thể dùng cái sanh diệt hư dối để diễn tả, nên không nói một lời. Khi xưa Phật không nói, thì bây giờ Ngài biết nói gì đây? Ngồi giây lâu, Ngài ngâm: Thân nh ư hô hấp tỹ trung khí, Thế tợ phong hành lãnh ngoại vân. Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú, Bất thị tầm thường không quá xuân. Dịch: Thân nh ư hơi thở ra vào mũi, Đời giống mây trôi đỉnh núi xa. Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng, Đâu phải tầm thường qua một xuân. Bài k ệ có bốn câu, song trong Tam Tổ Thực Lục chỉ ghi có hai câu sau, bỏ hai câu trước. Vậy hai câu trước xuất xứ từ đâu? Khi trước chúng tôi dịch cũng y cứ theo bản Tam Tổ Thực Lục và những bản dịch khác nên chỉ thấy có hai câu sau. Nhưng khi tra lại trong Thiền Tông Bản Hạnh của Thiền sư Chân Nguyên, chúng tôi mới thấy trong đó có bốn câu, nên mới bổ túc thêm hai câu trước. Thiền Tông Bản Hạnh là một quyển sách bằng chữ nôm, nhưng mấy câu thơ thì ngài Chân Nguyên vẫn để nguyên chữ Hán. Có đủ bốn câu, chúng ta mới thấy nghĩa của bài kệ thật hay, nếu chỉ có hai câu sau thì không biết làm sao giải thích. Thân như hơi thở ra vào mũi. Thân c ủa chúng ta hiện giờ mỏng manh tạm bợ giống như hơi thở hít vào thở ra nơi mũi, không có bền, không có thật. Hít vào rồi phải thở ra, thở ra rồi nếu không hít vào là chết, nên nói mạng sống của thân này mỏng manh như hơi thở ra vào. Đời giống mây trôi đỉnh núi xa. Cu ộc đời hay thế gian này không bền lâu vững chắc, giống như gió thổi mây trôi trên đỉnh núi xa xôi kia. Những đám mây trôi không dừng lại một chỗ, mây theo chiều gió cứ trôi trôi mãi. Đây là diễn tả cái vô thường trôi chảy không dừng. Đám mây trôi, rồi nó tan từ từ không có thật, không có bền. Gió thổi mây trôi là những hiện tượng luôn luôn di chuyển tạm bợ, còn mất bất thường. V ậy hai câu kệ đầu nói lên thân con người mỏng manh tạm bợ như hơi thở, không có gì lâu dài. Cuộc đời trên thế gian này luôn luôn dời đổi, không dừng một phút giây nào, sự đổi dời chuyển dịch cũng là hư dối tạm bợ, như cụm mây trôi tụ tán vô thường. Thân người và ngoại cảnh không có gì bền lâu, không có gì chắc chắn. Hiểu như vậy chúng ta phải làm sao? Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng. N ếu chỉ có hai câu kệ đầu thì buồn bã làm sao, vì thấy thân vô thường, cuộc đời vô thường không có gì bền chắc. Song trong cái vô thường đó vẫn còn có cái diệu dụng phi thường. Cái diệu dụng nằm sẵn trong thể chân thường hằng hữu. Thế nên tiếng chim quốc kêu (đỗ quyên là chim quốc hay chim cuốc) và mặt trăng sáng như ban ngày. Trăng sáng là tĩnh, chim kêu là động, động tĩnh đầy dẫy trên nhân gian này, đây là chỉ cái mầu nhiệm vi diệu sẵn có, không thiếu vắng bao giờ. Chúng ta không thấy, để nó trôi qua đi, cho nên nói: Đâu phải tầm thường qua một xuân. Không ph ải tầm thường mà để qua hết một mùa xuân. Cuộc sống của chúng ta trên thế gian này giống như một mùa xuân tươi đẹp, song chúng ta không biết hưởng, để nó qua mất thì uổng đi một cuộc đời. Tóm t ắt bài kệ, hai câu đầu diễn tả thân phận con người là tạm bợ, cuộc đời là giả trá. Hai câu sau chỉ cho chúng ta hiện có sẵn cái chân thật nhiệm mầu, động tĩnh thường hằng, mà chúng ta không nhận ra được, để một cuộc đời trôi qua suông, rất là đáng tiếc. Chẳng lẽ chúng ta sống để rồi chờ chết sao? Chúng ta phải làm thế nào nhận cho ra cái chân thật đó, để hưởng một mùa xuân vĩnh cửu. Bốn câu thơ lý thú vô cùng, nếu thiếu hai câu đầu chỉ còn hai câu sau thì mất hết ý nghĩa. Ngài ngâm b ốn câu thơ rồi bắt đầu vào vấn đáp. Ngài vỗ bàn một cái, nói: Không có gì sao? Ra đây, ra đây! Lên tham vấn mà ngồi ngó nhau, không ai thưa hỏi gì, nên Ngài mới vỗ bàn nói: Không có gì sao? Ra đây, ra đây! Tức là có gì nghi, nên ra hỏi. Có v ị Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Ngài đáp: Nhận đến như xưa vẫn chẳng phải. Hỏi: Thế nào là pháp? Đáp: Nhận đến như xưa vẫn chẳng phải. Hỏi: Thế nào là Tăng? Đáp: Nhận đến như xưa vẫn chẳng phải. H ỏi ba câu: thế nào là Phật, thế nào là pháp, thế nào là Tăng, Ngài chỉ dùng một câu đáp: Nhận đến như xưa vẫn chẳng phải. Hiện nay nếu ai hỏi chúng ta như thế, hẳn chúng ta định nghĩa rõ ràng và rất hay, không lẽ Ngài lại vụng hơn chúng ta? Vì cái nhìn của thiền thâm sâu, không phải như nghĩa rõ ràng của giáo. Thiền chỉ cho chúng ta nhận ra cái không thể dùng ngôn ngữ tầm thường diễn tả được. ẳ Nh ận đến như xưa vẫn chẳng phải nghĩa thế nào? Nếu có ai đem một chiếc đồng hồ tặng, chúng ta đưa tay nhận rồi cảm ơn. Như vậy có một vật để chúng ta nhận, thì đó là vật bên ngoài chớ không phải của mình. Còn Phật là ngay nơi mình hiển lộ chớ không phải cái gì bên ngoài đưa tới, nếu nói nhận được là không phải. Còn pháp tức kinh điển người đưa chúng ta nhận, sao cũng nói “không phải”? Câu hỏi về Tăng cũng trả lời giống như vậy là tại sao? Đối với giáo thì Phật là đấng giác ngộ, pháp là những lời dạy của Phật, Tăng là những người tu sau này, như vậy Phật Pháp Tăng là riêng. Đối với cái nhìn của Thiền tông, Lục Tổ dạy Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là tịnh. Giác, chánh, tịnh không rời nhau, một thể mà ba dụng, nói một tức đủ cả ba. Nếu không hiểu điều này chúng ta thấy Ngài không biết giải thích, chỉ lập lại câu nhận đến như xưa vẫn chẳng phải. V ị Tăng hỏi thêm: Cứu kính thế nào? Ngài dạy: Bát tự đả khai phân phó liễu, Cánh vô dư sự khả trình quân. Dịch: Chữ bát đã bày trao hết sạch, Đâu còn có việc nói cùng ngươi. Khi nghe Ngài trả lời về Phật Pháp Tăng, vị Tăng không hiểu nên hỏi thêm cứu kính thế nào? Ngài b ảo: Chữ bát đã mở ra trao hết sạch, đâu còn việc gì giấu giếm để nói với ngươi nữa. Đôi chân mày chúng ta giống hình chữ “bát” đã mở ra, lỗ mũi nằm ngay dưới chân mày lại không chịu nắm, còn gì nữa mà chỉ. Đôi chân mày chỉ cho phương tiện, mũi chỉ cho cái chân thật. Phương tiện đã vạch rồi, cái chân thật nằm sẵn ngay đó lại không nhận. Nói nhận đến như xưa vẫn chẳng phải là đã nói thẳng, nói chí tình rồi, còn hỏi cứu kính chi nữa. Ông T ăng vẫn chưa hiểu nên lại hỏi: Thế nào là một việc hướng thượng? Ngài đáp: Đầu gậy khêu nhật nguyệt. Tăng nói: Dùng công án cũ làm gì? Câu đó là câu người xưa nói, nay Ngài đem câu cũ nói với con làm gì? Ngài đáp: Một lần nhắc lại một lần mới. Tuy đó là việc cũ, nhưng mỗi lần nhắc lại là mỗi lần mới. Tăng hỏi: Thế nào là giáo ngoại biệt truyền? Ngài bảo: Ễnh ương nhảy không khỏi đấu. Tăng hỏi tiếp: Sau khi ra khỏi đấu thì thế nào? Ngài đáp: Lại theo con ếch nhảy xuống bùn. Tăng nói: Vẫn là nhảy chẳng khỏi. Ngài bèn lớn tiếng nạt: Kẻ mù! Thấy cái gì? Tăng nói: Đại tôn đức lừa người làm gì? Đây là câu lanh lợi. Ngài liền hừ hừ hai tiếng. Vị Tăng suy nghĩ. Lẽ ra nghe hừ hừ thì lễ nhưng không lễ mà còn suy nghĩ nên Ngài liền đánh. Vị Tăng lại suy nghĩ để hỏi, Ngài liền hét, vị Tăng cũng hét. Ra vẻ rồi đấy. Ngài h ỏi: Lão tăng bị một cái hét, hai cái hét của ngươi, rốt cuộc thế nào? Nói mau, nói mau! Vị Tăng suy nghĩ. Ngài lại hét một tiếng, nói: Con chồn hoang quỉ quái, vừa rồi tinh lanh, giờ ở chỗ nào? Nghĩa là trước dám nói Đại tôn đức lừa người làm gì, đó là tinh lanh, rồi sau dám hét, đó là tinh lanh, nhưng bây giờ lại suy nghĩ để đi tới đâu? Ông Tăng không biết nên lễ bái rồi lui. Đ ây chúng tôi nhắc lại cho quí vị rõ. Thiền tông là giáo ngoại biệt truyền, nghĩa là truyền riêng ngoài giáo lý. Ngài trả lời: Ễnh ương nhảy không khỏi đấu, câu này là nói để cho chúng ta không có gì phải suy gẫm, không có chỗ để bám víu nghĩ suy, nếu ngay đó lãnh hội được thì đúng, không lãnh hội được thì sai. Vì chưa lãnh hội được nên vị Tăng hỏi thêm: Sau khi ra khỏi đấu thì thế nào? Ngài nói d ễ dàng: Lại theo con ếch nhảy xuống bùn. Ra khỏi đấu thì nhảy xuống bùn chớ đi đâu nữa! Câu nói như lời nói đùa nhưng thật ra đã nói lên việc bắt buộc chúng ta phải thấy ở bên kia, chớ không phải ngay trong ngôn ngữ. Vị Tăng còn chấp ngôn ngữ nên nói: Vẫn là nhảy chẳng khỏi. Nhảy xuống bùn tức là nhảy chưa khỏi. Ngài bèn lớn tiếng nạt: Kẻ mù! Thấy cái gì? Nếu nói như thế là ngươi không thấy gì cả. V ị Tăng trở lại nói: Đại tôn đức lừa người làm gì? Ngài nói như thế là một cách lừa người, chớ không nói lẽ thật. Thấy vị Tăng có vẻ hơi thấm nên Ngài liền hừ hừ tức là hư hư. Nhưng vị Tăng lại suy nghĩ, Ngài liền đánh. Vị Tăng lại suy nghĩ để hỏi, Ngài liền hét. Đến đây vị Tăng nhạy bén một chút liền hét lại. Ngài h ỏi: Lão tăng bị một cái hét, hai cái hét của ngươi, rốt cuộc thế nào? Nói mau, nói mau! Ngay đó nếu biết thì trả lời bằng một hành động, nhưng vì không biết, đứng suy nghĩ, nên Ngài mới hét nói: Con chồn hoang quỉ quái vừa rồi tinh lanh, giờ ở chỗ nào? Cái tinh lanh khi nãy giờ đâu mất rồi. Vị Tăng không đáp được phải đảnh lễ rồi lui. Đây là lối đối đáp hoàn toàn là thiền, không có giáo. * M ột vị Tăng khác hỏi: Đại tôn đức khổ nhọc tu hành, đã trải qua nhiều năm đối với sáu thông của Phật, Ngài đã được mấy thông? Câu hỏi này hơi khó trả lời, nghĩa là chịu cực khổ tu hành, Phật được sáu thông, nay Ngài được mấy thông rồi? Ngài đáp: Cũng được sáu thông. Nghĩa là Phật được sáu thông, tôi cũng được sáu thông. Vị Tăng mới thử: Năm thông kia gác qua, thế nào là tha tâm thông? Năm thông thì bỏ qua, hỏi thế nào là tha tâm thông. Ngài li ền đáp: Đầy cả quốc độ, có bao nhiêu thứ tâm Như Lai đều biết, Như Lai đều thấy. Ngài không nói thẳng mà dẫn trong kinh Kim Cang, Phật nói: “Đầy cả quốc độ chúng sanh có bao nhiêu thứ tâm Như Lai đều biết.” Như vậy Ngài có sáu thông như Phật thì Ngài cũng biết, cũng thấy. V ị Tăng liền đưa nắm tay lên nói: Đã biết hết, thấy hết, vậy biết cái này có vật gì? Tức là trong nắm tay tôi có vật gì. Vị Tăng này thử đến nơi chớ không chịu thua. Khi dẫn kinh Phật để đáp, nếu người hỏi lại theo cách này thì chúng ta cũng khó trả lời. Ngài khéo nói: Như có như không, chẳng phải không chẳng phải sắc. Thế nào là như có như không? Tất cả sự vật duyên hợp tạm thấy như có, nhưng Thể tánh là không, nên thấy như có mà là như không, nhưng nó cũng không phải không, cũng không phải sắc. Trả lời như thế nên không làm sao bẻ được Ngài. Vị Tăng liền hỏi: Xưa Tăng hỏi Hòa thượng Lang Gia: “Thanh tịnh bản nhiên, vì sao chợt sanh sơn hà đại địa?” Ý chỉ thế nào? Ngài đáp: Thật giống thuyền chài ra biển. Vị Tăng hỏi thêm: Ý này thế nào? Ngài đáp: Ai biết nơi chốn khói sóng xa khơi kia, riêng có chỗ nên suy nghĩ. Hòa thượng Lang Gia là Thiền sư Huệ Giác ở núi Lang Gia, thuộc hệ phái Lâm Tế, vào đời Tống ở Trung Quốc(1). Khi h ỏi thanh tịnh bản nhiên vì sao chợt sanh sơn hà đại địa, ngài Trúc Lâm Đầuđà đáp: Thật giống thuyền chài ra biển. Thuyền đậu trong bờ rất bình yên, mở neo dong thuyền ra biển là vào chỗ hiểm nguy. Nghĩa là Thể thanh tịnh bản nhiên là thanh tịnh như vậy, khởi nghĩ hỏi là giống như thuyền chài đang đậu bình yên trong bờ chợt dong thuyền ra biển khơi. Chúng ta thích như thế nào? Có sóng gió mới vui, ở yên lâu thì buồn phải không? Như vậy thật giống thuyền chài ra biển. Vị Tăng chưa hiểu nên hỏi: Ý này thế nào? Ngài giải thích thêm: Ai biết nơi chốn khói sóng xa khơi kia, riêng có chỗ nên suy nghĩ. Đó là ra ngoài nơi sóng gió thì chỗ đó suy nghĩ tùy ý. * Đến vị Tăng khác hỏi: Thế nào là gia phong Phật quá khứ? Ngài đáp: Viên lâm tịch mịch vô nhân quản, Lý bạch đào hồng tự tại hoa. Dịch: Vườn rừng vắng vẻ ai xem sóc, Lý trắng đào hồng hoa tự nhiên. V ị Tăng hỏi thêm: Thế nào là gia phong Phật hiện tại? Ngài đáp: Bạch thủy gia phong mê hiểu yến, Hồng đào tiên uyển túy xuân phong. Dịch: Gia phong sóng bạc mê yến sớm, Tiên uyển đào hồng say gió xuân. Vị Tăng hỏi tiếp: Thế nào là gia phong Phật vị lai? Ngài đáp: (1) Sử của Ngài có ghi trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục, quyển bốn mươi sáu. Hải phố đãi triều thiên dục nguyệt, Ngư thôn văn địch khách tư gia. Dịch: Bãi biển chờ triều, trời đợi nguyệt, Xóm chài nghe sáo, khách nhớ nhà. H ỏi: Gia phong Hòa thượng thế nào? Ngài đáp: Phá nạp ủng vân triêu khiết chúc, Cổ bình tả nguyệt dạ tiên trà. Dịch: Áo rách che mây, sáng ăn cháo, Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà. Lời đối đáp trong đoạn này rất thi vị. Hỏi thế nào là gia phong Phật quá khứ, tức là phong thái của Phật quá khứ như thế nào? Phật quá khứ là Phật không còn những hoạt động hiện tại ở thế gian, nên Ngài diễn tả: Vườn rừng vắng vẻ ai xem sóc, Lý trắng đào hồng hoa tự nhiên. Nghĩa là không còn người chú ý, chăm sóc vườn rừng nữa, nhưng cây lý vẫn trổ hoa trắng, cây đào vẫn trổ hoa hồng một cách tự nhiên, chớ không phải là chẳng có gì. Đế n câu hỏi: Thế nào là gia phong Phật hiện tại? Ngài đáp: Gia phong sóng bạc mê yến sớm, Tiên uyển đào hồng say gió xuân. Ngh ĩa là gia phong của Phật hiện tại là hình ảnh một mặt trăng tròn sáng trong hư không, soi khắp cả bầu trời. Dưới mặt biển những lượn sóng do ánh trăng rọi chiếu, dường như tô bạc trên đầu sóng, làm cho chim yến (chim én) tưởng là trời sáng nên đua nhau bay đi kiếm mồi. Trong vườn tiên, cây đào trổ hoa đỏ làm gió xuân say mê. Như vậy gia phong Phật hiện tại giống như mặt trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, nhưng chúng sanh như chim én mê lầm tưởng là trời sáng; cũng như trong vườn tiên hoa đào hồng nở báo hiệu mùa xuân thì gió xuân lại mê say thổi quyện bên hoa hồng. Đó là chỉ gia phong Phật hiện tại là những hình ảnh đẹp đẽ tươi sáng, lúc nào cũng hiện tại như ánh trăng trong, như hoa đào hồng, không thiếu vắng, nhưng chúng sanh như chim én, như gió xuân mê say là vì chúng sanh không biết được lẽ thật. Khi hỏi gia phong Phật vị lai, Ngài đáp: Bãi biển chờ triều, trời đợi nguyệt, Xóm chài nghe sáo, khách nhớ nhà. Tri ều là nước lớn, nước ròng. Vị lai là chưa đến là chỉ sự mơ ước sự trông chờ, nên nói bãi biển chờ nước triều lên, bầu trời đợi trăng mọc. Những người thuyền chài đánh lưới ngoài biển nghe tiếng sáo thổi liền nhớ nhà. Như thế nói đến Phật vị lai là nói đến sự mong chờ, vì hiện tại chưa có, nên Ngài dùng những hình ảnh đẹp vô cùng, như bãi biển chờ nước triều lên, bầu trời đợi trăng mọc, xóm chài nghe tiếng sáo thổi liền nhớ nhà. Đó là nói gia phong ba đời chư Phật. L ại hỏi gia phong Hòa thượng thế nào? Ngài đáp: Áo rách che mây, sáng ăn cháo, Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà. Th ật đẹp làm sao! Khi mặt trời lên cao, những gợn mây che chỗ dày chỗ trống nhìn thấy lỗ chỗ giống như chúng ta mặc chiếc áo rách. Như vậy có thích không? Mình và trời đất không có khác! Vậy gia phong của tôi là tôi mặc áo rách giống như mây che bầu trời và sáng tôi ăn cháo. Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà. Bình tưới trăng là tưới thế nào? Nếu cầm thùng nước có vòi tưới thì nhìn thấy trên nước có mặt trăng. Áo che mây, bình t ưới trăng, thật là đẹp kỳ diệu. Nói đơn giản là sáng tôi mặc áo rách ăn cháo, chiều tối tôi cầm bình tưới cây rồi uống trà, đó là gia phong của tôi, tức là những cái hiện tại, chớ không có gì xa xôi. Chúng ta thấy người xưa nói đến gia phong là nói đến nếp sống giản đơn, mặc áo rách, ăn cháo, đi tưới kiểng, tưới hoa và uống trà. Như vậy đúng với câu “bình thường tâm thị đạo”, nghĩa là trong tất cả sự ăn mặc, lao động, uống trà, chư Tổ vẫn giữ tâm bình thường, đó là gia phong của các ngài chớ không có gì khác lạ. L ại có vị Tăng hỏi: Ngài Linh Vân khi xem hoa đào ngộ thì thế nào? Ngài đáp: Tự nở tự tàn theo thời tiết, Đông quân bị hỏi cũng khôn lời. Ngài Linh Vân(2) là đệ tử của Tổ Qui Sơn Linh Hựu. Khi nhìn thấy hoa đào nở, bỗng dưng Ngài ngộ đạo, do đó có vị Tăng nghi nên hỏi. Sơ tổ Trúc Lâm đáp là hoa đào tùy theo thời tiết mà có nở có tàn. Nếu hỏi tại sao xem hoa đào ngộ đạo, giả sử như Đông quân cũng không đáp được. Đông quân là chỉ thần mặt trời hay thần mùa xuân. Nói cách khác, ngài Linh Vân nhìn thấy hoa đào mà ngộ đạo, đó là tùy theo thời tiết nhân duyên, khi chín mùi chợt gặp thì ngộ. Còn muốn hỏi lý do thì không ai đáp được. (2) Thiền sư Chí Cần ở Linh Vân, Phước Châu. Sư quê tại Trường Khê, Bổn Châu. Ban đầu ở chỗ ngài Qui S ơn, nhân thấy hoa đào ngộ đạo, Sư có làm kệ: Tam thập niên lai tầm kiếm khách, Kỷ hồi lạc diệp hựu sưu chi. Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu. Trực chí như kim cánh bất nghi. T ạm dịch: Ba chục năm qua tầm kiếm khách, Bao lần lá rụng với cành trơ. Từ khi được thấy hoa đào nở, Mãi đến ngày nay chẳng chút ngờ. (Ngũ Đăng Hội Nguyên Tiết Dẫn) Hỏi: Khi giết người không nhìn lại thì sao? Ngài đáp: Gan dạ cùng mình. Nếu giết mà không nhìn lại tức là gan dạ cùng mình chớ gì. L ại hỏi thêm: Người đại tu hành lại rơi vào nhân quả hay không? Ngài liền đáp: Kh ẩu tợ huyết bồn ha Phật Tổ, Nha như kiếm thọ chủy Thiền lâm. Nhất triêu tử nhập A-tì ngục, Tiếu sát Nam-mô Quán Thế Âm. Dịch: Mi ệng dường chậu máu chê Phật Tổ, Răng như kiếm bén gặm rừng thiền. Một mai chết đọa A-tì ngục, Cười ngất Nam-mô Quán Thế Âm. Ti ếu sát, chúng ta có chữ dịch rất hay là cười ngất. Câu hỏi này là do câu chuyện: Trong hội Tổ Bá Trượng, một hôm sau buổi tham vấn, toàn chúng ra về chỉ còn một ông già ở lại. Tổ đến hỏi: Sao ông chưa về? Ông thưa: Con không phải là người. Thời quá khứ thuở đức Phật Ca-diếp, con là một vị Tỳ-kheo tăng ở núi này, nhân có người hỏi: người đại tu hành lại rơi vào nhân quả chăng, con đáp: không rơi vào nhân quả. Do đó con phải đọa làm thân chồn đến năm trăm kiếp. Nay xin Hòa thượng nói cho con một chuyển ngữ để con thoát khỏi kiếp chồn. Tổ bảo: Ông hỏi lại ta đi. Ông già hỏi: Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Tổ đáp: Không lầm nhân quả. Ngay câu nói ấy ông ngộ được, làm lễ thưa: Con đã thoát thân chồn. Con ở sau núi, dám xin Hòa thượng lấy theo lễ tống táng con như một vị Tăng. Câu h ỏi trên hết sức quan trọng đối với người tu. Người đại tu hành là người nào? Nói cho dễ hiểu là người ngộ đạo. Ngộ đạo rồi, đời sau có rơi vào nhân quả không? Tôi dẫn cho quí vị thấy: Người đại tu hành không ai bằng Phật, thế mà đức Phật còn bị nạn kim thương mã mạch, nghĩa là Ngài còn chưa ra khỏi nhân quả. Thế nên ông già trả lời “không rơi vào nhân quả”, là trái với giáo lý đức Phật dạy, đã tạo nhân thì phải chịu quả. Tuy nhiên nếu chúng ta dẫn lại lời Thiền sư Huyền Giác, Ngài nói: Liễu tức nghiệp chướng bản lai không, Vị liễu ưng tu hoàn túc trái. Ngh ĩa là người liễu ngộ rồi thì nghiệp chướng xưa nay là không, còn người chưa liễu ngộ thì phải đền nợ trước, tức là bị nhân quả. Thế thì ông già trả lời đúng như lời ngài Huyền Giác nhưng tại sao ông bị đọa? Đó là vì ông hiểu lầm chữ liễu của Ngài, ông tưởng rằng liễu rồi là không còn kẹt vào nhân quả nữa, nhưng không ngờ liễu thì nghiệp chướng bản lai không. Ngài Trần Nhân Tông trả lời rất khéo như sau: Miệng dường chậu máu chê Phật Tổ, Răng như kiếm bén gặm rừng thiền. Nghĩa là tạo tội tạo nghiệp, chê Phật chê Tổ, phá những người tu. Một mai chết đọa A-tì ngục, Cười ngất Nam-mô Quán Thế Âm. N ếu làm việc ác, chết phải đọa địa ngục A-tì tức là địa ngục Vô Gián. Làm ác thì chịu quả ác không nghi ngờ, nhưng khi quả ác đến thì cười ngất Nam-mô Quán Thế Âm. Đây là câu của người đại tu hành. Tại sao? Tôi dùng một ví dụ nhỏ cho quí vị hiểu. Khi chúng ta mê muội, tranh hơn tranh thua với một người nào, cãi vã rồi chửi mắng họ, lúc đó vì thế yếu họ không dám chống nhưng họ hận. Mai kia thế chúng ta yếu, người đó lại mạnh, khi gặp chúng ta họ xử sự như thế nào? Xưa chúng ta mắng họ một, nay họ trả lại gấp hai, ba phần. Tuy nhiên rất mừng là chúng ta đã ngộ đạo, nên trước những lời mắng chửi nặng nề, chúng ta chỉ cười ngất. Vậy có trả hay không? Nếu chưa ngộ đạo, chúng ta thấy những lời mắng chửi là thật, tự nhiên mình chịu không nổi, nên rất khổ sở. Nhờ ngộ đạo, biết những lời chửi rủa như gió thoảng qua tai, có nghĩa lý gì đâu nên chúng ta cười. Như vậy để thấy rằng nhân quả vẫn phải trả, nhưng khi mê thì khổ, khi ngộ thì cười. Thế nên Ngài dùng hình ảnh rất đẹp: Một mai chết đọa A-tì ngục, Cười ngất Nam-mô Quán Thế Âm. Ng ười mê rơi xuống địa ngục thì than khóc khổ sở, còn người ngộ thì cười, đó là hiện tại nhân quả không mất, nhưng ngộ rồi thì trả mà không trả. Đây là một câu trả lời khéo vô cùng. Tăng hỏi: Dưới ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết, Trên cây oanh đậu một cành hoa, thì th ế nào? Ngài đáp: Lầm! Tăng hỏi tiếp: Theo Đại tôn đức thì thế nào? Ngài bảo: Dưới ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết, Trên cây oanh đậu một cành hoa. T ăng thưa: Đó là câu nói của tôi. Ngài tiếp: Muốn biết thần tiên lò luyện thuốc, Linh đơn vốn thiệt tử châu sa. Qua đoạn này quí vị thấy có điều gì lạ? Vị Tăng dẫn hai câu thơ đặt thành câu hỏi: “Dưới ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết, Trên cây oanh đậu một cành hoa”, thì thế nào? Hai câu th ơ rất là tuyệt, dưới thửa ruộng trống bầy cò trắng đậu trông như những điểm tuyết trên đồng cỏ. Trên cành chim oanh vàng đậu nhìn thấy như đóa hoa nở trên cây. Khi vị Tăng hỏi như vậy, Ngài đáp: Lầm! Tại sao? Vì ông dẫn câu của người khác diễn tả cảnh để hỏi về thiền nên Ngài nói lầm. Vị Tăng mới hỏi thêm: Theo Đại tôn đức thì thế nào? Nghĩa là vậy ý Ngài nghĩ như thế nào? Ngài liền dẫn lại nguyên văn hai câu trên: Dưới ruộng bầy cò ngàn điểm tuyết, Trên cây oanh đậu một cành hoa. Ông Tăng tức quá mới thưa: đó là câu nói của tôi, như vậy đâu phải ý của Ngài, Ngài chỉ lặp lại ý của tôi thôi. Ngài liền đáp: Muốn biết thần tiên lò luyện thuốc, Linh đơn vốn thiệt tử châu sa. Nh ững người tu tiên lấy tử châu sa để trong lò luyện thành linh đơn, như vậy linh đơn gốc từ tử châu sa ra chớ không có gì lạ. Ngài đáp cho vị Tăng hiểu thâm ý của Ngài muốn dạy cho người học. Người tu thiền khi thấy tâm cảnh không hai thì tất cả cảnh không ngoài tâm. Bầy cò đậu dưới ruộng hay chim hoàng oanh đậu trên cành cây… những cảnh đó đều không ngoài tâm. Như vậy Ngài dẫn hai câu thơ trên để nói ngoài cảnh không tâm, cũng như ngoài tâm không cảnh. Chúng ta đừng tìm kiếm cái gì xa lạ kỳ đặc, nên Ngài nói người tu tiên luyện linh đơn là thứ thuốc trường sanh bất tử, nhưng gốc từ tử châu sa mà ra. Như vậy chỗ ngộ đạo, chỗ thấy được Chân tánh không ngoài hình ảnh bầy cò đậu dưới ruộng giống như ngàn điểm tuyết, chim hoàng oanh đậu trên cành cây giống như một đóa hoa. Ngay trước mắt là cái chân thật mà tất cả người tu thiền cần phải đạt đến, đừng bỏ cảnh này đi tìm cái gì xa lạ khác, không có cái chân thật ngoài những cảnh hiện tiền. T ăng hỏi: Thế nào là Thanh tịnh pháp thân? Ngài đáp: Đục vàng rơi trong phân sư tử, Người đen đúa vác bó hương thơm. V ị học tăng không hiểu nói: Học nhân không hiểu. Ngài bảo: Chớ học thói hồ đồ trả giá, Cười người chân thật dối lầm nhau. Nh ư vậy Ngài trả lời câu: “thế nào là Thanh tịnh pháp thân” chưa? Đục vàng rơi trong phân sư tử. Cây đục là cái tầm thường nhưng vàng là quí. Phân là cái xấu xa mà sư tử là quí. Câu này nói rằng cái quí cái tiện không có hai, không rời nhau. Người đen đúa vác bó hương thơm là dịch câu: Thiết côn lôn thượng chá cô ban(3). Người đen đúa là (3) Chá cô ban: tên một thứ hương. Trong quyển Danh Hương Phổ nói: “Hương Chá cô ban sản xuất ở Nhật Nam, giống như nhũ hương.” Thơ Hoàng Đình Kiên có câu: “Loa giáp cát Côn lôn nhĩ, Hương tài tiếu chá cô ban.” (Từ Hải) tiện, hương thơm là quí. Câu này nói quí không rời tiện, quí tiện không hai. Tóm lại hai câu thơ diễn tả hình ảnh quí không rời tiện, tiện không ngoài quí. Pháp thân thanh tịnh không tìm ngoài cái quí tiện. Tại sao? Nếu chúng ta còn thấy quí khác tiện khác là thấy hai bên. Thấy hai bên, kẹt ở hai bên thì không bao giờ thấy được Pháp thân. Đó là ý nghĩa Ngài chỉ rõ ràng nhưng vị Tăng lại thưa: học nhân không hiểu, nghĩa là câu Ngài trả lời con không hiểu gì cả. Ngài bảo: Chớ học thói hồđồ trả giá, Cười người chân thật dối lầm nhau. Có ph ải Ngài mắng vị Tăng không? Hồ đồ trả giá, trả giá tức là có đắt rẻ, hơn thua. Nếu còn thấy có đắt rẻ hơn thua thì không bao giờ thấy được Pháp thân, nghĩa là muốn nhận ra Pháp thân, thì đừng so sánh, phân biệt. Như câu chuyện ngài Hưng Hóa Tồn Tương khi vua Đường Trang Tông đi Hà Bắc, trở về Ngụy phủ, dừng tại Hành cung, nghe đồn Ngài là một vị Thiền sư nổi tiếng, nhà vua cho mời Ngài đến để hỏi đạo. Khi Ngài đến, nhà vua nói: Trẫm thâu trung nguyên nhận được hòn ngọc quí, chưa từng có người trả giá. Sư nói: Xin bệ hạ cho xem. Vua lấy hai tay vuốt từ đầu đến chân. Ngài Hưng Hóa nói: Ngọc quí của đấng quân vương ai dám trả giá. Nghĩa là nhà vua đã trình cái Thanh tịnh pháp thân, mà Thanh tịnh pháp thân là một hòn ngọc vô giá, nhà vua hỏi thử Thiền sư xem người thấu rõ được hòn ngọc đó hay chưa, nên nói: Mời Thiền sư đánh giá hòn ngọc. Ngài Hưng Hóa nói rõ rằng: Hòn ngọc của đấng quân vương ai dám trả giá. Nếu trả giá thì thuộc về hạng hồ đồ rồi. Hiểu như thế mới thấy được ý “chớ học thói hồ đồ trả giá”. Chúng ta quen thói gặp đâu đánh giá đó, trúng cũng được, sai cũng được. Nhưng đó là chỗ không đánh giá tức là không so sánh, không thấy có hơn thua v.v… Ngài nói thật, Ngài chỉ Pháp thân, nhưng vị Tăng không hiểu tưởng như Ngài giấu giếm. Vị Tăng hỏi thêm: Thế nào là Viên mãn báo thân? Th ường trong kinh nói Phật có ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Pháp thân là Thanh tịnh pháp thân cũng gọi là Tỳ-lô-xá-na. Báo thân là Viên mãn báo thân hay gọi là Lô-xá-na. Khi hỏi thế nào là Viên mãn báo thân, Ngài đáp: Cánh bằng bay bổng dừng cơn gió, Ly châu lắng lạnh biển trong ngần. Vị Tăng lễ bái. Ngài bảo: Nguyên lai đầy đủ nhiều công dụng, Bởi chú quàng xiên chẳng được thành. Côn lôn: 1. Mạch núi lớn nhất ở Trung Hoa, bắt đầu từ Thông Lãnh nơi cao nguyên Mạt mễ nhĩ chạy qua địa phận biên giới Tây Tạng, Tân Cương vào nội địa Trung Hoa. 2. Một ngọn núi ở Đông Bắc huyện Ung Ninh, Quảng Tây, trên đó có ải Côn Lôn, là nơi Địch Thanh nhà Tống phá Nùng Trí Cao. Theo Việt Nam Địa Dư Đồ Thuyết thì núi này chạy dài từ phía Nam Quảng Tây vào An Nam. 3. Tên m ột chủng tộc xưa. Theo truyện Nam Loan, Cựu Đường Thư nói: “Từ Lâm Ấp về phía Nam đều thân đen, tóc quăn, gọi chung là Côn Lôn.” Và ngày xưa cũng dùng để dụ cho những người thân thể đen đúa. Truyện Lý Thái Hậu trong Tấn Thư nói: “Hậu là cung nhân trong phường dệt, cao mà đen, cung nhân bảo là Côn Lôn.” Và truyện Mộ Dung Ngạn Siêu trong Ngũ Đại Sử nói: “Ngạn Siêu sắc đen, râu hồ, hiệu là Diêm Côn Lôn.” (Từ Hải) Tôi gi ải thích lại ba thân để quí vị thấu suốt được câu hỏi này. Thanh tịnh pháp thân là chỉ cho Pháp thân hoàn toàn thanh tịnh, không tướng mạo, Pháp thân đó không sanh diệt, là thể của tất cả thân. Báo thân là thân do quả báo, như thân người thế gian thì gọi là nghiệp báo, người tu gọi là phước báo. Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, đó là thân phước báo. Như vậy hỏi thế nào là Viên mãn báo thân, tức là thân phước báo của Phật. Thân thứ ba là Hóa thân, tức là tùy theo các loài chúng sanh cần gì thì hóa hiện theo đó, nó không thật. Thí dụ như kinh Phổ Môn kể lại: Nếu người cần được Tỳ-kheo độ thì Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân Tỳ kheo độ, nều cần được Tỳ- kheo ni độ thì Ngài hiện thân Tỳ-kheo ni, cần đồng nam độ thì hiện thân đồng nam, cần đồng nữ thì hiện thân đồng nữ, cho đến tướng tể quan v.v… tùy theo nhu cầu đương cơ mà hiện ra để hóa độ. Thân hóa độ đó gọi là Hóa thân chớ không phải là thân thật. Ở đây khi hỏi về Báo thân, ngài Điều Ngự trả lời: Cánh bằng bay bổng dừng cơn gió, Ly châu lắng lạnh biển trong ngần. Ngh ĩa là cánh chim đại bàng bay bổng lên không làm cho gió phải đứng lại, hạt châu ở dưới cằm con rồng (ly châu) có giá trị lắng hết cặn bã ở dưới biển làm cho nước biển được mát mẻ và trong ngần. Hai câu này nói gì về nghĩa Báo thân? Báo thân là thân do phước báo đầy đủ của chư Phật, thân đó có diệu dụng không thể lường, giống như con chim đại bàng cất cánh bay lên cao làm cho gió phải đứng lại, như hạt ly châu của con rồng khi ở sâu dưới đáy biển làm cho nước biển mát và trong. Vị Tăng nghe liền lễ bái, nhưng không biết hiểu hay chưa, nên Ngài nói thêm: Nguyên lai đầy đủ nhiều công dụng, Bởi chú quàng xiên chẳng được thành. Ai c ũng có Báo thân nhưng vì chúng ta không nhận ra, không sống được, không được thành, nên nói là quàng xiên. Những tâm tưởng lăng xăng nhớ việc này tưởng việc kia, chạy ngược chạy xuôi, tâm tưởng đó là quàng xiên. Chúng ta vẫn nuôi dưỡng nó nên không thấy được Báo thân đầy đủ công đức của chính mình. Đế n câu hỏi thứ ba: Thế nào là Thiên bách ức hóa thân? Nghĩa là thân ứng hóa trăm ngàn thứ, trăm ngàn loại là thế nào? Thân đó không cố định, tùy theo duyên chúng sanh mà hiện rất nhiều. Ngài đáp: Mây dồn sương phủ trời mù mịt, Tấc nước như xưa trước đỉnh đầu. Ba th ứ mây, sương, mù, mây che cả không gian, sương cũng rơi đầy, mù cũng khắp cả vùng. Nhưng cả ba gốc từ cái gì? Gốc từ tấc nước ở đỉnh đầu mà ra. Đó là để nói Hóa thân hiện trăm ngàn muôn thứ, bao nhiêu diệu dụng, tùy duyên hóa độ chúng sanh. Hóa thân đó không ngoài cái thể của Pháp thân, nó không có riêng cũng không phải tự thành, đều từ Pháp thân mà ra, cũng như từ nước biển thành mây, thành sương, thành mù che khắp trời đất, cả ba chẳng qua là một tấc nước ở đỉnh đầu ông, chớ không có gì lạ. Vị Tăng nói: đúng thế, tức là đúng rồi, con biết rồi! Ngài bảo: Cười ngất kẻ gom mây dưới đảnh, Bốn bề nuốt lấy hòn sắt tròn. Ngh ĩa là có kẻ ngu thấy mây phủ ở sườn núi, toan tính lên đó gom lại dồn vào bao đem về, nên cười ngất kẻ gom mây dưới đảnh. Như vậy ông sẽ không khỏi bị nuốt hòn sắt nóng ở địa ngục. Nói rằng đúng là xem như ông thấy, nhưng sự thật là chưa thấy gì, ông là kẻ ngớ ngẩn chưa được cái gì. Tuy nghe chê, nhưng ông Tăng vẫn lễ bái lui ra. Như thế Ngài giải rõ ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, giải rất là rõ nhưng rất là khó hiểu. Đế n ngài Pháp Loa hỏi: Nói huyền nói diệu, luận cổ bàn kim, đều thuộc thứ nói đùa, một câu không kẹt trong ngôn ngữ làm sao nói được? Nói xưa nói nay, nói gì cũng là nói đùa thôi, không đến lẽ thật. Nay một câu không kẹt trong ngôn ngữ làm sao nói, nói thử xem. Ngôn ngữ là lời chúng ta nói ra, mà nói không kẹt lời làm sao nói được! Ngài liền đáp: Gió đông dìu dịu ngàn hoa nở, Lách cách vành xe một tiếng vang. Câu đáp này vừa thi vị vừa hay đáo để. Gió đông là gió từ hướng đông về, tức là sang mùa xuân. Khi gió đông nhè nhẹ thổi mát thì các cành cây nở hoa, gió đông đâu có muốn vuốt ve cho hoa nở, nhưng gió thổi nhè nhẹ thì hoa nở. Lách cách vành xe m ột tiếng vang, vành xe lăn khua nghe lách cách, nó không muốn làm tiếng vang mà phát ra tiếng vang. Như vậy không phải vành xe muốn làm thành tiếng vang hay gió đông muốn an ủi cho hoa nở, nhưng vì gió đông thổi nên hoa nở, vì vành xe lách cách nên thành tiếng vang. Vậy câu không kẹt trong ngôn ngữ là câu gì? Có ngôn ngữ tức là có phân biệt, có suy tính, còn nói mà không phân biệt suy tính, thì tuy có nói nhưng không kẹt trong ngôn ngữ, cũng như gió đông thổi đúng thời tiết thì hoa nở, vành xe khua nghe tiếng vang. Những cái đó tuy có công dụng nhưng không có ý tạo tác, như thế đâu có lỗi lầm. Thế nên chúng ta thấy dù có ngôn ngữ nhưng không kẹt trong suy tính, thì không có lỗi lầm. Nếu bảo “không nói mới đúng” là sai. Nếu không nói làm sao đức Phật đã giảng bao nhiêu kinh điển, các Thiền sư để lại bao nhiêu quyển Ngữ lục? Như vậy để thấy rằng nói không kẹt trong ngôn ngữ thì lời nói không có lỗi. Vì thế Ngài dùng hai câu thơ này đáp rất rõ ràng. Pháp Loa toan mở miệng nói, Ngài liền bảo: Chim hót máu tuôn vẫn vô dụng, Non tây như trước phủ mây chiều. Khi Pháp Loa mu ốn hỏi thêm thì Ngài bảo: Dầu cho chim hót, hót mãi đến ra máu cổ cũng không ai quan tâm đến nó, ngọn núi phía tây buổi chiều mây đã phủ che. Đó là để nói chỗ cứu kính này ông cố hỏi, cố nói cũng không đến đâu, chỉ là luống công vô ích thôi. Ngài Pháp Loa li ền hỏi: Khi muôn dặm mây tạnh thì thế nào? Ngài đáp: Mưa tầm tã. Hỏi: Khi muôn dặm mây che kín thì thế nào? Ngài đáp: Trăng vằng vặc. Hỏi thêm: Cứu kính thế nào? Ngài nói: Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy. Những câu trả lời này thấy lạ nhưng không khó. Tại sao? Khi hỏi: khi muôn dặm mây tạnh thì thế nào, Ngài đáp: mưa tầm tã, tức là nói ngược lại. H ỏi: khi muôn dặm mây che kín thì thế nào, Ngài đáp: trăng vằng vặc, nghĩa là hỏi trắng lấy đen đáp, hỏi sáng lấy tối đáp. Đó là thuật mà Lục Tổ đã dạy(4), để thấy rằng mưa, mây, trăng… tất cả đều là những giả tướng từ duyên mà có, do tối nên có sáng, vì mây che mới nói trăng tối… Đó là những đối đãi không thật, vì thế khi hỏi cứu kính thế nào, Ngài đáp rằng: Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy. Nghĩa là chỗ cứu kính chân thật không dùng ngôn ngữ, không dùng trí suy nghĩ mà đến được. Nếu dùng ngôn ngữ, dùng trí suy nghĩ thì bị đòn. L ại hỏi thêm: Thế nào là Bản lai diện mục? Đây là câu hỏi mà người tu thiền thường chú ý và thắc mắc. Bản lai diện mục là mặt thật xưa nay của chính mình. Mặt hiện tại chúng ta đang mang là thật hay giả? Mặt này không thật nên lúc trẻ nó tươi hồng mịn màng, già thì nhăn nheo đen nám. Nếu thật thì nó đâu có đổi thay. Có đổi thay thì không thật. Như gương mặt của chúng ta thuở mười tám, mười chín tuổi, đến ba mươi năm sau những người quen gặp lại còn nhớ không? Hẳn là không. Tại sao? Tại mặt chúng ta đổi rồi. Nếu khoảng ba mươi năm sau gặp lại lần nữa thì hẳn là không nhớ nổi. Nó luôn luôn đổi thay, như vậy sao gọi là thật được? Còn mặt thật xưa nay thì ngàn đời không đổi, nghĩa là ai nhận được thì thấy nó không đổi thay bao giờ. Hỏi Bản lai diện mục như thế nào, đến chỗ đó thì Ngài im lặng giây lâu, nhưng không phải im lặng rồi thôi, mà Ngài hỏi lại: Hiểu chăng? Pháp Loa thưa chẳng hiểu, liền bị đánh đòn. Như vậy Ngài đã chỉ mặt thật xưa nay chưa? Nếu đã biết có chỉ rồi thì phải thấy, nếu không thấy cũng như chưa chỉ. Chỗ này phải ráng thấy chớ tôi cũng không chỉ được. Pháp Loa hỏi: Thế nào là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp? Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp là chỉ Báo thân hay Ứng thân Phật. Phật do tu nên có những phước báo, hiện thân có tướng tốt. Ngài đáp: (4)Lục Tổ dạy ba mươi sáu pháp đối: - Ngoại cảnh vô tình có năm đối: Trời cùng đất đối, mặt trời cùng mặt trăng đối, sáng cùng tối đối, âm cùng dương đối, nước cùng lửa đối. - Pháp tướng ngữ ngôn có mười hai đối: Ng ữ cùng pháp đối, có cùng không đối, có sắc cùng không sắc đối, có tướng cùng không tướng đối, hữu lậu cùng vô lậu đối, sắc cùng không đối, động cùng tịnh đối, trong cùng đục đối, phàm cùng Thánh đối, tăng cùng tục đối, già cùng trẻ đối, lớn cùng nhỏ đối. - Tự tánh khởi dụng có mười chín đối: Dài cùng ng ắn đối, tà cùng chánh đối, si cùng tuệ đối, ngu cùng trí đối, loạn cùng định đối, từ cùng độc đối, giới cùng lỗi đối, thẳng cùng cong đối, thật cùng hư đối, hiểm cùng bình đối, phiền não cùng bồ-đề đối, thường cùng vô thường đối, bi cùng hại đối, hỉ cùng sân đối, xả cùng bỏn sẻn đối, tiến cùng thối đối, sanh cùng diệt đối, pháp thân cùng sắc thân đối, hóa thân cùng báo thân đối. N ếu dùng sắc thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta, Người ấy hành đạo tà, Không thể thấy Như Lai. Đ ây là Ngài dẫn trong kinh Kim Cang ở đoạn Phật giải thích về Pháp thân. Chữ “ta” trong bài kệ là chỉ cho Như Lai, mà Như Lai là chỉ cho Pháp thân. Chúng ta học đạo là cốt đạt được Pháp thân chớ không phải trọng tâm ở Báo thân hay Hóa thân, vì hai thân này có tướng nên thuộc về sanh diệt. Dù tướng tốt như Phật, hiện nay cũng không còn, chỉ có những tượng trên bàn chúng ta thờ lạy. Pháp thân mới là không sanh không diệt. Thế nên ngài Pháp Loa hỏi về ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Báo thân thì Ngài liền dẫn kinh Kim Cang giải thích về Pháp thân. Nghĩa là nếu còn nặng về Báo thân Hóa thân đó là hành đạo tà, không thấy được Phật pháp thân. Pháp Loa hỏi: Thế nào là Phật? Ngài đáp: Tấm cám ở dưới cối. Câu nói nghe thật lạ lùng. Nếu là chúng ta chắc hẳn sẽ giải thích rõ Phật là giác, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Chúng ta trả lời có vẻ thông suốt hơn Ngài. Ngài đáp nghe lạ, không dính với câu hỏi. Tại sao hỏi Phật lại trả lời tấm cám ở dưới cối? Nếu hỏi gạo trắng gạo lức mới chỉ như thế. Thật ra từ lâu chúng ta thường quen định nghĩa mà không nhận chân cái thật. Như đoạn trước đã nói nếu ngộ, nếu thấy được thì không có gì ngoài Phật, tức là ngoài tâm. Ngoài tâm không có Phật, ngoài tâm cũng không có vật. Vật không ngoài tâm, tâm không rời vật, tâm vật không hai, nên nói tấm cám dưới cối tức là nói đến tâm, mà tâm đó là tâm Phật. Đó là đã trả lời về ý Phật. L ại hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn sang? Ngài đáp: Bánh vẽ. Bánh vẽ có no bụng không? Chúng ta cứ tìm ý Tổ sư từ Ấn Độ sang mà không tìm lại nơi mình xem cái gì là chân thật, nên Ngài bảo: Bánh vẽ. Pháp Loa h ỏi thêm: Thế nào là đại ý Phật pháp? Ngài đáp: Cùng hầm, đất không khác. N ếu hỏi ngài Hoàng Bá câu này thì bị đánh ba gậy. Ngài Trúc Lâm Đại Đầuđà trả lời: Cùng hầm, đất không khác. Câu này nói điều gì? Như chúng ta đào đất dưới hầm, thì trong hầm hòn đất thứ nhất, thứ hai, thứ ba không khác nhau. Cũng như vậy hai câu hỏi “thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang” và “thế nào là đại ý Phật pháp” không khác nhau, đều là bánh vẽ. Cả hai câu hỏi giống như đất cùng một hầm, không có ý nghĩa khác, chỉ câu trả lời bánh vẽ ở trên là đủ. Ngài Pháp Loa lại hỏi thêm: Xưa có vị Tăng hỏi Triệu Châu “con chó có Phật tánh không”, Triệu Châu nói “không”, ý chỉ thế nào? Ngài đáp: Chất muối ở trong nước, Keo xanh ở trong sắc. N ước biển mặn, chất mặn không ở ngoài nước biển. Trong các thứ màu pha trộn để vẽ, màu được dính bền lâu là nhờ chất keo trộn ở trong. Vậy trong nước biển có sẵn chất muối, trong màu sẵn có chất keo. Câu trả lời “không” đó không phải là cái không suông mà đã ẩn sẵn cái có giống như trong nước biển không thấy chất muối nhưng đã ẩn sẵn chất muối, trong sắc không thấy chất keo nhưng đã ẩn sẵn chất keo, không cần tìm ở đâu khác. Đó là để chỉ tất cả sự vật, tất cả các pháp không có hai bên, không thuộc về có, không thuộc về không. Trong cái không có cái có, trong cái có đã có cái không. Như vậy đúng là tinh thần Bát-nhã. Ngài Pháp Loa hỏi thêm: Hữu cú vô cú như bìm leo cây, khi ấy thế nào? Nguyên ngài Sơ Sơn đến hỏi ngài Qui Sơn: Hữu cú vô cú như bìm leo cây, khi cây ngã bìm khô thì thế nào? Ngài Qui Sơn cười ha hả rồi thôi. H ữu cú là câu có, vô cú là câu không. Tất cả ngôn ngữ của chúng ta đều lập trong đối đãi, hoặc có không, hoặc phải quấy, hơn thua, xấu tốt… Quí vị thử nói một câu không đối đãi nghĩa là đừng mắc kẹt bên này, bên kia, thử nói xem! Chúng ta luôn luôn có bệnh khi nói thì hỏi “phải không”, tức là phải đối với quấy, hoặc hỏi “có không” là có đối với không, “đúng không” là đúng đối với sai. Nghĩa là ai nói chuyện với chúng ta cũng đều trông đợi mình đáp lại hoặc là đồng hoặc không đồng với quan niệm của họ, nhưng trả lời đồng hay không đồng cũng đều không đúng. Như vậy tất cả chúng ta cả ngày luôn luôn là nói hai bên, mà càng nói hai bên thì càng xa chân lý, nhưng vì quen trong đối đãi nên chúng ta cứ nói theo lối hai bên. Thế nên Ngài làm một bài kệ dài để chê trách lối nói này: Âm: H ữu cú vô cú Đằng khô thọ đảo Cơ cá nạp tăng Chàng đầu khái não. H ữu cú vô cú Thể lộ kim phong Hằng hà sa số Phạm nhẫn thương phong. H ữu cú vô cú Lập tông lập chỉ Đả ngõa toản qui Đăng sơn thiệp thủy. H ữu cú vô cú Phi hữu phi vô Khắc chu cầu kiếm Sách ký án đồ. H ữu cú vô cú Hỗ bất hồi hỗ Lạp tuyết hài hoa Thủ chu đãi thố. H ữu cú vô cú Tự cổ tự kim Chấp chỉ vong nguyệt Bình địa lục trầm. H ữu cú vô cú Như thị như thị Bát tự đả khai Toàn vô bả tỹ. H ữu cú vô cú Cố tả cố hữu A thích thích địa Náo quát quát địa. H ữu cú vô cú Đao đao phạ phạ Tiệt đoạn cát đằng Bỉ thử khoái hoạt. H ữu cú vô cú Bìm khô cây ngã Mấy kẻ nạp tăng U đầu sứt trán. H ữu cú vô cú là câu có câu không. Nói có nói không là đại biểu cho tất cả lời nói đối đãi có không, phải quấy, hơn thua… những gì hai bên đều nằm trong nghĩa có và không này. Bìm khô cây ngã, câu có câu không giống như dây bìm leo trên cây vì nó chỉ là tạm không phải thật. Nếu cây ngã thì thế nào? Bìm và cây đều tiêu tan, nhưng mấy kẻ nạp tăng tức là những người xuất gia u đầu sứt trán vì cây ngã trúng! Chúng ta lúc nào cũng đeo dây có, dây không, nên nó ngã rồi u đầu sứt trán. Vì kẹt nơi có, nơi không mà đời tu của chúng ta phải nhọc nhằn khổ sở, khó thành công. Nếu cả ngày từ sáng đến chiều chúng ta đừng nói câu nào kẹt vào hai bên có không thì chúng ta thảnh thơi như là sống với Niết-bàn hiện tại, Niết bàn ngay trước mắt. Trái lại thì Niết-bàn ở tít mù xa tìm không ra nên u đầu sứt trán. Đây là chỗ dứt ngôn ngữ vậy. H ữu cú vô cú Thể lộ gió thu Hằng hà sa số Va đao chạm bén. Ở các nơi thời tiết rõ ràng có bốn mùa xuân hạ thu đông, mùa thu là mùa lá đổ, gió thu thổi lá vàng rơi, thân cây bày ra trơ trọi trước gió thu nên nói thể lộ gió thu. Khi chấp câu có câu không tức là chấp hai bên, thì cái chân thật hiện tiền người ta không bao giờ thấy, cũng như vào mùa thu lá rụng hết thân cây bày trơ trọi nhưng không ai thấy rõ. Rồi hằng hà sa số, bao nhiêu hạng người luôn kẹt bên này bên kia nên gọi là va đao chạm bén, tức là bị sầy da không được bình an lành lặn. H ữu cú vô cú Lập tông lập chỉ Đập ngói dùi rùa Trèo non lội nước. L ập tông lập chỉ: Trong đạo Phật có nhiều vị tu cũng lập tông nói về hữu (Hữu tông) nói về vô (Không tông). Như vậy lập tông lập chỉ để thừa nhận lý lẽ đối đãi như là chân thật. Nếu làm như thế chẳng khác nào kẻ đập ngói dùi rùa là hành động ngu xuẩn không bao giờ được kết quả, chỉ là khổ sở thôi, nên nói là trèo non lội nước để chỉ sự cực nhọc mà không có lợi ích. Vậy bốn câu này nói nếu đứng bên có bên không rồi chủ trương tông chỉ của mình là có là không… thì chỉ những chuyện nhọc công vô ích. Thuở xưa khi muốn nấu cơm người ta lấy cây dùi dùi thanh củi cho nó nóng phát khói rồi để bổi vào cho cháy. Dùi củi khô lấy lửa thì được, nếu dùi mai rùa để lấy lửa là việc làm tốn công vô ích. Lại muốn nấu cơm người ta phải giã gạo, nếu bỏ ngói vào cối giã hẳn không thành gạo. H ữu cú vô cú Chẳng có chẳng không Khắc thuyền tìm kiếm Tìm ngựa cứ hình (bản đồ). Ngày x ưa người ta thường dùng tứ cú bách phi. Tứ cú là “có không, chẳng phải có chẳng phải không, cũng có cũng không, cũng chẳng phải có cũng chẳng phải không”. Trong bài chỉ dẫn hai vế đầu: có không, chẳng có chẳng không. Chẳng có tức thuộc về không, chẳng không thuộc về có, nên nói có không là đủ rồi, những vế sau chỉ làm rối thêm thôi. Nếu chúng ta mắc kẹt hai bên, hoặc thấy có, hoặc thấy không thì chẳng khác nào người khắc thuyền tìm kiếm. Trong sách Lã Thị Xuân Thu ghi: Có một người ngồi trên thuyền qua sông, khi thuyền đến giữa sông anh múa kiếm, sẩy tay rớt kiếm xuống nước, anh khắc vào mạn thuyền làm dấu. Khi thuyền đến bờ anh nhảy xuống nước, ngay chỗ khắc dấu để mò tìm cây kiếm. Như vậy làm sao tìm được. Đó là chỉ hạng người cố chấp ngu si. Tìm ng ựa cứ hình, hình là bản đồ. Sách xưa kể Bá Nhạc là một người giỏi xem tướng ngựa, ông viết một quyển sách tên là Tướng Mã Kinh nói về tướng ngựa. Khi ấy con ông muốn mua một con ngựa giỏi, nên theo lời chỉ dẫn trong quyển sách để đi tìm mua ngựa, cứ đối chiếu theo những gì trong sách tả, rốt cuộc chỉ mua được một con ngựa tồi. Ông cha thấy vậy mới bảo con ông là kẻ “án đồ sách ký”, tức là căn cứ bản đồ mà tìm ngựa là ngu. Hai điển tích này nói lên sự sai lầm của người cố chấp khờ dại. H ữu cú vô cú Hồi hỗ hay không Nón tuyết giày hoa Ôm cây đợi thỏ. H ồi hỗ là cái này lẫn cái kia, cái kia lẫn cái này. Nếu ai chấp chặt vào câu có câu không, có lẫn hay không lẫn nhau, cả hai giống như nón tuyết giày hoa, ôm cây đợi thỏ. Ở các nước có tuyết nhiều như Canada chẳng hạn, chúng ta hốt tuyết làm thành nón, hoặc lấy hoa sứ v.v… kết làm giày, có bền không? Nón tuyết giày hoa, nghe có giày, nón chúng ta tưởng là thật nhưng chỉ là hư dối tạm bợ. Ôm cây đợi thỏ, trong sách Hàn Phi Tử kể câu chuyện: Có anh nông dân đi làm ruộng, một hôm chợt có con thỏ từ trong rừng chạy ra gấp, đụng phải gốc cây, nhào xuống chết, anh mừng quá lượm đem về làm thịt. Anh nghĩ chuyện ấy có thể sẽ xảy ra nữa, nên ngồi chờ ở gốc cây suốt mấy ngày, rốt cuộc không được con thỏ nào cả. Đó là để nói sự việc hi hữu bất thần xảy ra một lần, kẻ ngu lại tưởng là chuyện thường rồi bám vào đó chờ đợi, rốt cuộc chỉ là vô ích thôi. Chúng ta thường có bệnh ôm cây đợi thỏ. Như những người mua vé số được trúng một lần, đó là việc bất thần, nhưng lại đi mua tiếp để đợi trúng nữa, có khi suốt đời không trúng thêm lần nào. Tóm l ại đoạn này nói người chấp có chấp không hoặc lẫn có lẫn không, giống như kẻ đội nón tuyết, mang giày hoa, hay kẻ ngồi chờ thỏđụng vào gốc cây chết. Đó là những người rất khờ dại. H ữu cú vô cú Tự xưa tự nay Chấp tay quên trăng Đất bằng chết chìm. Ng ười chấp câu có câu không hoặc chấp xưa chấp nay, cũng giống như người chấp ngón tay mà quên mặt trăng. Câu này xuất xứ từ hai bộ kinh Viên Giác và Lăng Nghiêm. Trong kinh Viên Giác có câu: “Tuđa-la giáo như tiêu nguyệt chỉ.” Tất cả kinh Phật dạy giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Câu này chỉ có đạo Phật dám nói chớ tôn giáo khác không dám. Câu nào của các vị Giáo chủ nói ra, người tín đồ đều xem như khuôn vàng thước ngọc, không bao giờ dám xem thường, thế mà Phật dạy tất cả kinh Phật nói ra giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Vào đêm mùng ba mùng bốn, mặt trăng lưỡi liềm ở hướng tây, có người nghe nói đêm nay có trăng liền nhìn bốn phía nhưng không thấy, hỏi trăng ở đâu, người thấy mới lấy tay chỉ, người muốn tìm mặt trăng không phải nhìn đầu ngón tay mà phải nương đầu ngón tay nhìn thấy mặt trăng ở chân trời. Như vậy ngón tay không phải là mục đích mà là phương tiện hướng cho người nhìn theo để thấy mặt trăng, mặt trăng mới là cứu kính. Cũng thế không phải chúng ta chấp lời Phật dạy làm cứu kính mà phải nương lời dạy để thấy được cái chân thật của chính mình. Cái chân thật đó không nằm trong kinh mà ở ngay nơi con người, nơi Bản tâm Bản tánh của chúng ta. Như vậy ai chỉ thấy kinh là cứu kính thì lầm ý Phật. Thế mà ngày nay đa số người tu chỉ biết tụng kinh, cho tụng kinh là tu, chớ không nhân nơi kinh để nhận ra cái Phật muốn chỉ. Đó là một điều lầm lẫn. Việc này đã sẵn trong lời Phật dạy, không phải mới đặt ra sau này. Nếu chúng ta chấp có chấp không, chấp xưa chấp nay cũng giống như người chấp ngón tay là mặt trăng nên không thấy được mặt trăng thật. Như vậy là “đất bằng chết chìm”. Người ta xuống sông xuống biển bị chết chìm, còn người chấp chặt có không ngay trên đất bằng đã chết chìm rồi, cũng như giữa ban ngày mà không thấy được ánh sáng vì đã bị mù. H ữu cú vô cú Như thế như thế Chữ bát mở ra Sao không nắm mũi? Ch ữ bát mở ra nguyên chữ Hán là bát tự đả khai. Bát tự là chữ bát nhưng có chỗ giải nghĩa bát tự là tám chữ, rồi dẫn kinh Niết-bàn câu “sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”. Đây là một lầm lẫn vì không hiểu được ý nhà thiền. Hai chân mày chúng ta nằm hai bên, ở giữa hở giống hình chữ “bát” của chữ Hán. Chữ bát mở ra là hai chân mày đã mở trống, liền đó chụp lấy lỗ mũi, tức là phương tiện đã bày ra rồi thì phải nhận ra chỗ cứu kính. Lỗ mũi là nguồn sống của chúng ta, nó nằm sẵn trên mặt nhưng ít ai thấy rõ lỗ mũi mình, chỉ lo nhìn người, nhìn vật, nhìn tất cả bên ngoài. Mũi là cái chân thật, là sự sống của thân này mà chúng ta không thấy, chỉ thấy những vật bên ngoài rồi tưởng là hay, là đủ, nhưng sự thật mạch sống của mình lại không thấy. Trong đoạn này Ngài muốn nói câu có câu không, những cái đó như thế như thế, tức là đã chỉ bày ở trên rồi, đã thấy rõ nó là không thật, chấp có không là khờ dại, là không đúng… Biết rõ như thế thì phương tiện đã chỉ bày giống như chữ bát đã mở liền nắm mũi tức là ngay đó nhận ra chân lý, không phải tìm kiếm ở đâu nữa. Đó là Ngài nhắc cho chúng ta thấy rõ Ngài đã chỉ bày cụ thể rồi. H ữu cú vô cú Ngó tả ngó hữu Lau chau mồm mép Ồn ào náo động. Ch ấp có chấp không, ngó bên này bên kia, bên phải bên trái..., bày ra các thứ ngôn ngữ lăng xăng, cãi vã nhau phải quấy, hay dở nên ồn ào náo động. Hiện nay chúng ta hay cãi nhau, hay phân trần là tại chấp hai bên, tôi phải người quấy… Thế nên ai nói mình quấy người phải thì nổi giận phân trần với người này người khác thành ồn ào cả ngày. Nếu người nào không chấp phải quấy có không thì hẳn là không cãi rầy với ai. Trái lại nếu chấp phải quấy có không thì khờ dại đến độ nào? Hiện nay tất cả chúng ta là người tu, người tỉnh giác, không lẽ lại khờ dại đến độ giống như kẻ ôm cây đợi thỏ, khắc thuyền mò kiếm? Sở dĩ thiên hạ cãi nhau ồn ào cũng là vì có không phải quấy. Nếu biết những cái đó không thật là nón tuyết, là giày hoa thì cười thôi. Giả sử hai người cãi nhau rồi hỏi ai đúng ai sai, chúng ta sẽ nói thế nào? Hẳn là cười trừ chớ không nói đúng nói sai được, nhưng nếu chúng ta chỉ cười thì thiên hạ nói mình ba phải. Thiên hạ đều bắt chúng ta ở một bên, hoặc đồng quan niệm với họ hoặc là phía đối nghịch, mà một bên nào cũng là không đúng. Vì thế trong cuộc sống, một người mê dẫn những người khác đi theo trong mê, nên bao nhiêu thưa kiện, bao nhiêu cãi vã đi đến đánh nhau đều tại chấp hai bên. H ữu cú vô cú Đau đáu lo sợ Cắt đứt sắn bìm Đó đây vui thích. Nếu còn kẹt ở có không thì luôn hồi hộp lo âu sợ sệt. Nay cắt đứt sắn bìm tức là cắt đứt có không thì tự nhiên đó đây vui thích, mình vui, người cũng vui. Nh ư vậy chúng ta thấy việc tu hết sức là giản đơn. Nói thì nhiều kinh sách nhưng đều gốc ở không chấp hai bên có không phải quấy. Vậy nếu trong chúng có ai làm gì trái ý nhau, lên thưa kiện nhờ phân xử, người lớn phải xử thế nào cho đúng đạo lý? Chỉ xử một câu: “hai gã ngu đi xuống đi” là xong việc. Câu đó là đúng nhất chớ không còn xử thế nào nữa, vì đó là những kẻ khắc thuyền mò kiếm, ôm cây đợi thỏ, xử làm sao được! Thi ết nghĩ khi người đến tham vấn, chỉ hỏi một câu mà ngài Trúc Lâm Đầuđà đọc một mạch cả bao nhiêu câu như thế này, nếu không thông minh sáng suốt làm sao Ngài nói được như vậy. Chúng ta giỏi lắm chỉ nói bốn câu là hết ý. Như vậy mới thấy khi giác ngộ rồi thì ngôn ngữ không có giới hạn. Nói đến đây Ngài bèn bước xuống tòa. THI PHÚ HÁN NÔM Đ ây là phần thi phú của ngài Trúc Lâm Đại Đầuđà, phần thi phú này tôi chọn lọc những bài có tính cách Phật pháp để học hiểu tinh thần đạo đức của Ngài. Còn chuyện xử thế, chuyện trong triều chánh chúng ta không cần học. Bài đầu trong phần thi phú này là “Đăng Bảo Đài Sơn”. ÂM: ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN Đị a tịch đài du cổ, Thời lai xuân vị thâm. Vân sơn tương viễn cận, Hoa kính bán tình âm. Vạn sự thủy lưu thủy, Bách niên tâm ngữ tâm. Ỷ lan hoành ngọc địch, Minh nguyệt mãn hung khâm. DỊCH: LÊN NÚI BẢO ĐÀI Đấ t vắng đài thêm cổ, Ngày qua xuân chửa nồng. Gần xa mây núi ngất, Nắng rợp ngõ hoa thông. Muôn việc nước trôi nước, Trăm năm lòng nhủ lòng. Tựa lan, nâng ống sáo, Đầy ngực ánh trăng lồng. Ngô Tất Tố GIẢNG: Bài này v ừa tả cảnh Bảo Đài Sơn, vừa nói lên tâm hồn đạo đức của một con người đã sống trong đạo. Bảo Đài Sơn, theo sử ghi có ba chỗ: 1. Bảo Đài Sơn thuộc về Bảo Lộc ở Châu Ái, 2. Bảo Đài Sơn ở xã Đông Mạc huyện Vọng Danh, 3. Bảo Đài là một ngọn trong dãy núi Yên Tử. Theo đây chúng ta có thể hiểu Bảo Đài Sơn này, là một ngọn trong dãy núi Yên Tử, thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh hiện nay. Lời dịch của ông Ngô Tất Tố được các nơi công nhận là hay, nên chúng ta không cần sửa lại. Đất vắng đài thêm cổ, Ngày qua xuân chửa nồng. Hai câu này nói lên c ảnh vắng vẻ tô điểm thêm cho đài. Nếu đài xưa nằm ở chỗ nhộn nhịp sẽ mất đi vẻ cổ kính của nó. Và khi Ngài lên thăm Bảo Đài Sơn chưa phải vào cuối mùa xuân. Gần xa mây núi ngất, Nắng rợp ngõ hoa thông. Ngh ĩa là mây phủ trên đầu núi, ở xa trông thấy mờ mịt và khi trời nắng những con đường leo lên núi, hoa nở nhiều rợp bóng. Đó là bốn câu diễn tả hình ảnh đẹp của Bảo Đài Sơn. Muôn việc nước trôi nước, Trăm năm lòng nhủ lòng. Khi nhìn xu ống dòng nước hay dòng suối chúng ta sẽ thấy từng đợt nước chảy qua, đợt sau nối tiếp liên tục không dừng. Sự việc ở đời cũng vậy, cứ việc này nối tiếp việc khác liên miên trôi mãi không bao giờ dừng lại một chỗ. Con người của chúng ta cũng vậy, như ngay giờ phút này chúng ta đang như thế này, qua một, hai phút sau nó đã đổi thay, rồi hai, ba phút sau lại đổi, đổi mãi, từ con người trẻ lần đến già, ai cũng như ai đều như thế cả. Như vậy mọi sự vật trên thế gian này luôn luôn biến chuyển, biến chuyển tức là không dừng đứng ở một chỗ nào, nhưng chúng ta cứ nghĩ mình trẻ mãi chớ không dám nghĩ mình đang già và từ từ đi đến chỗ cuối cùng là chết. Vì v ậy tôi thường dùng thí dụ “Chiếc xe định mệnh”: Có một số người bước lên chiếc xe lửa tự động, mà cuối đường xe lửa chạy là biển. Lúc đầu xe chạy chúng ta thấy cảnh thành phố, nhà cửa, người, vật… nên cảm thấy vui. Khi xe chạy gần biển mới hốt hoảng muốn nó dừng, nhưng xe tự động làm sao dừng được. Nó cứ chạy, chạy mãi và đến cuối đường là rơi xuống biển, thế là hết một đời. Chuyến xe định mệnh đó cũng giống câu “muôn việc nước trôi nước” là muôn sự việc cứ trôi qua mãi, muốn dừng lại cũng không được. Con người cũng vậy, đang sống an ổn bình thường, cảm thấy đời cũng vui, không có gì phải lo sợ. Nhưng khi già yếu bệnh hoạn mới bắt đầu lo cái chết sắp đến, lúc đó lại muốn sống. Cầu trời khẩn Phật sao cho sống thêm năm, mười tuổi nữa, nhưng cầu vẫn không được. Đến phút chót cũng phải đành tắt thở thôi, không ai thối thác, không ai trốn tránh được sự việc như thế cả. Vậy mà trong lúc xe đang chạy chưa gần biển, ai cũng hỉ hả vui cười, còn giành chỗ ngồi của nhau nữa chứ. Thấy chỗ ngồi người khác tốt hơn lại muốn giành. Người bị ngồi dưới sập, dưới gầm xe thì trách hờn, chửi rủa, người được chỗ tốt thì ngồi tréo chân nhịp đùi, hát chơi. Nhưng trong số người bước lên xe đó, có vài người sáng suốt biết số phận mình sớm chầy cũng rơi xuống biển. Vì ý thức được như thế nên khi lên xe, dù có ai giành chỗ, ai cãi vã, ai chê ngu cũng mặc, họ cứ cặm cụi tìm những miếng nylon kết lại thành phao. Những người ngồi tréo chân ở trên cho những người này ngu si kỳ lạ, không ngồi chơi ngắm cảnh có phải sướng hơn là cặm cụi kết phao làm gì. Đến khi xe chạy gần biển, họ mới hoảng sợ mong nó đừng chạy tới nữa, nhưng nó vẫn chạy và cuối cùng phải rơi xuống biển. Khi ấy những người biết lo kết phao, nhờ ôm phao họ nổi và trôi giạt vào bờ, còn những người chỉ lo ăn chơi cười giỡn khi rớt xuống biển thì không cứu được. Như vậy thí dụ những người biết lo kết phao đó giống như ai? Không biết quí vị có chịu ngồi cặm cụi kết phao, hay nghe ai nói trái ý, hoặc chê mình ngu dại rồi cũng nổi giận cãi lại với họ, thì thời giờ kết phao đã muộn, phao kết không kịp lúc xe rớt xuống biển không làm sao thoát nguy được. Vì vậy chúng ta tu là đã thấy xa, biết số phận mình dài lắm cũng chỉ tám, chín mươi tuổi thôi, nhưng bây giờ nhìn lại mỗi người thì có người được một phần tư, người được phân nửa, có người đã hai phần đường rồi. Thế mà có người biết lo, người chưa biết lo, chưa biết được số phận của mình. Do đó người tu là người biết lo xa có cái nhìn tường tận thấy rõ thân phận con người từ buổi đầu cho đến lúc cuối, nên chuẩn bị những gì sắp đến cho mình chớ không phải tu là tiêu cực, là buồn nản. Nếu chúng ta giỏi kết được nhiều phao, khi gần xuống biển thấy ai sợ thì bố thí cho họ, như vậy là tiếp cứu thêm một số người chung quanh. Còn nếu dở chỉ kết được một phao thì chỉ giúp mình thoát nạn cũng là quí rồi. Đó là dẫn ý câu “vạn sự thủy lưu thủy” hay “muôn việc nước trôi nước”. Tr ăm năm lòng nhủ lòng: nghĩa là mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm khi thấy việc gì ở thế gian có vẻ quyến rũ, chúng ta liền tự nhủ: Ta là người xuất gia tu đạo giải thoát, là người có trách nhiệm cứu vớt chúng sanh, thì không nên vướng bận chuyện tầm thường thế tục. Những gì làm cho ô nhiễm, làm cho chúng ta lơi lỏng trên con đường tu, chúng ta phải dừng, phải ngăn chận không cho tiến tới nữa. Chúng ta phải tự nhắc nhở mãi như vậy, chớ không đợi Thầy Tổ nhắc. Giả sử chúng ta đi đâu xa, gặp duyên lôi kéo, nếu chờ thầy nhắc e muộn mất đi. Vì vậy chúng ta phải ghi nhớ những gì đã phát nguyện và phải quyết tâm thực hành không nên xao lãng. Vừa có một chút lơi lỏng là phải cảnh tỉnh ngay, không để nó trôi qua mất đi một đời vô ích. Như vậy hai câu này đã mang hết ý nghĩa nhắc nhở đời tu của chúng ta rồi. Tựa lan nâng ống sáo, Đầy ngực ánh trăng lồng. Ngài tu sao th ấy nhàn quá! Đứng tựa lan can, cầm ống sáo thổi, trong lúc đó nhìn ánh trăng rọi sáng đầy cả ngực. Đây Ngài diễn tả, khi đứng trên ngọn núi, tựa lan can, nâng ống sáo thổi, nhìn lại ánh trăng đã rọi sáng đầy cả lồng ngực mình. Đó là hình ảnh đẹp đẽ sau hình ảnh đen tối ở trước. Hình ảnh đen tối ở trước đưa chúng ta đến đường cùng, ngõ cụt. Hai câu này diễn tả trên chỗ an tịnh của ngọn núi, tựa lan can, nâng ống sáo thổi, đó là một hiện tượng vui vẻ. Không phải thổi sáo để cho tâm hồn phiêu diêu nơi này nơi kia, mà khi cầm sáo lên thổi, thấy cả lồng ngực sáng ngời. Đây để diễn tả tâm người đạt đạo nhìn thấy muôn sự muôn vật bị vô thường cuốn hút mà các ngài vẫn an nhiên tự tại. Các ngài được an nhiên tự tại vì nội tâm các ngài đã sáng ngời, đã giác. Cho nên ng ười đến chỗ này không còn sợ vô thường, không còn phải nhắc nhở ráng tu nữa. Vì đã giác ngộ nên mới tự tại. Ở đây người nào được như vậy có cầm sáo thổi cũng không tội, còn chưa được thì xin miễn, vì thổi sáo thì phải nhịp ca, mà ca toàn những bài tình tứ thế gian là có lỗi làm cho tâm mình phiêu bạt, phóng túng. Vì vậy nếu thật giác ngộ, thật thấy đạo thì trước cảnh vô thường chúng ta vẫn thong dong tự tại vì tâm hồn đã trong sáng rồi. Tóm lại bài này chúng ta thấy tuy Ngài tả cảnh mà rất là đạo lý. ÂM: ĐẠI LÃM THẦN QUANG TỰ Th ần Quang tự yểu hứng thiên u, Sanh thố phi ô thiên thượng du. Thập nhị lâu đài khai họa trục, Tam thiên thế giới nhập thi mâu. Tục đa biến thái vân thương cẩu, Tùng bất tri niên tăng bạch đầu. Trừ khước chú hương tham Phật sự, Tá dư niệm liễu tổng hưu hưu. DỊCH: CHÙA THẦN QUANG NÚI ĐẠI LÃM Th ần Quang chùa vắng hứng u nhàn, Thỏ ngọc, vầng ô dạo khắp trời. Mười mấy lâu đài bày tranh vẽ, Ba ngàn thế giới mắt thơ trùm. Thói đời thay đổi dường mây nổi, ẳ Tùng chẳng biết năm, sư bạc đầu. Ngoài tuần hương đốt tham Phật sự, Bao nhiêu niệm lự thảy thôi thôi. GIẢNG: M ỗi bài tả cảnh, Ngài dùng bốn câu để tả cảnh, còn bốn câu có ý nghĩa đạo lý. Tựa bài Đại Lãm Thần Quang Tự là chùa Thần Quang ở trên núi Đại Lãm thuộc huyện Quế Dương, được xây dựng từ thời vua Lý Nhân Tông. Vua Trần Nhân Tông, hay nói cách khác là Điều Ngự Giác Hoàng hoặc ngài Trúc Lâm Đại Đầuđà, lên viếng. Khi đến viếng ngôi chùa này Ngài nhìn thấy cảnh u tịch của nó nên tức cảnh đề thơ. Thần Quang tự yểu hứng thiên u, Sanh thố phi ô thiên thượng du. Hai câu này diễn tả cảnh chùa u tịch làm cho lòng người cảm thấy thích thú, thêm vào trí tưởng tượng là cỡi mặt trăng, mặt trời ngao du trong cõi hư không. Thập nhị lâu đài khai họa trục, Tam thiên thế giới nhập thi mâu. Họa trục là bức tranh vẽ. Mười hai lâu đài mở bày bức tranh vẽ. Ba ngàn thế giới vào trong con mắt của nhà thơ. Tục đa biến thái vân thương cẩu, Thế tục có nhiều đổi thay kỳ lạ giống như mây hiện ra hình chó xanh. Ý nói sự đời thay đổi không lường. Tùng b ất tri niên tăng bạch đầu. Cây tùng không biết bao nhiêu tuổi mà nhìn vị Tăng đã bạc đầu rồi. Trừ khước chú hương tham Phật sự, Nghĩa là trừ bỏ việc thắp hương để thưa hỏi Phật sự. Tá dư niệm liễu tổng hưu hưu. Nghĩa là bao nhiêu niệm lự hãy buông đi. Nh ư vậy chúng ta thấy bốn câu đầu Ngài diễn tả Thần Quang chùa vắng hứng u nhàn. Cảnh chùa Thần Quang là nơi vắng vẻ u nhàn. Thỏ ngọc, vầng ô dạo khắp trời. Mặt trăng, mặt trời qua lại trong hư không, Ngài tưởng như được cỡi trên mặt trăng mặt trời dạo khắp bầu hư không. Mười mấy lâu đài bày tranh vẽ. Những lâu đài ở trên chùa hiện ra giống như một bức tranh vẽ. Ba ngàn thế giới mắt thơ trùm. Tam thiên đại thiên thế giới nằm trong con mắt của nhà thơ. Đây là nói lên tâm hồn thi sĩ của Ngài. Thói đời thay đổi dường mây nổi. Chỗ nói vân thương cẩu là khi những cụm mây trắng tụ lại chúng ta thấy nó như con chó, cái nhà, hoặc cây cối. Như khi mây mờ hiện trên nền trời xanh thì giống hình con chó xanh, khi mây trắng nổi thì giống như con chó trắng, tùy theo sự thay đổi của cụm mây. Ở đây muốn nói tình đời thay đổi dường như mây nổi lúc thấy hình này, khi thì dạng khác không cố định, không dừng một chỗ. Quí vị thấy tình đời có đổi thay không? Chúng ta thấy những người chung quanh có khi rất thương mến chúng ta có khi lại không thương. Nếu ôn lại bao nhiêu năm qua chúng ta sẽ thấy tình đời đổi thay. Khi mình ở địa vị quyền thế thì người chung quanh đối với chúng ta rất tốt, khi thất thời thất vận không làm gì được, thì những người chung quanh sẽ đối xử với mình ra sao? Chắc là tình thương và sự quí kính của ngày xưa biến thành ghét và khinh thường của ngày nay, chẳng khác nào chùm mây nổi đổi thay luôn luôn. Nghe như thế quí vị sẽ trách đời sao không có thủy chung, một lòng một dạ, nhưng quí vị trách vậy có được không? Trách đời hay trách mình, mình có vậy không? Mình tự hỏi mình có đổi thay hay không? Ngay như tôi đã khác xưa lắm rồi, nhờ có khác nên mới tiến bộ. Như vậy đứng trên lãnh vực người tu khi mới xuất gia tâm hồn mình khác. Tỷ dụ lúc mới tu nghe bà con thân nhân đến thăm thì mừng vì được người thân đến thăm, khi tu lâu rồi mới thấy càng bị trói buộc trong tình thế gian, tình gia đình thì sự tu hành bị ngưng trệ. Vì một người thân đến thăm có bao giờ nói thầy tu tốt lắm, ráng tu đi, chẳng lẽ chỉ nói câu đó thôi sao. Ban đầu hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm ba má anh em. Sau được nghe kể người này giận người kia làm sao, xử sự tốt xấu thế nào, mình nghe rồi cũng bận lòng không yên. Như vậy càng được thăm càng rối rắm. Thế nên, ngày xưa mình muốn được nhiều người thân thăm viếng, nhưng lâu rồi không muốn ai thăm để an ổn tu hành cho có kết quả, đó là đổi thay rõ ràng. Chính lòng người tu cũng đổi thay huống nữa người đời. Tuy nhiên người tu đổi thay theo chiều tiến, còn người đời đổi thay bất thường. Mới ngày nào thân, bất thần có sự việc gì xảy ra rồi trở thành thù. Do đó người ta hay trách nhân tình thế thái là như vậy. Còn người tu luôn luôn chuyển hướng từ chỗ sơ cơ tầm thường tiến đến chỗ thâm thúy cao siêu, đó là chuyện thường của người tu. Tóm lại lòng người luôn luôn thay đổi kể cả lòng người tu, chớ không phải dừng ở một chỗ mãi. Tùng ch ẳng biết năm sư bạc đầu. Như những cây thông đâu biết nó bao nhiêu tuổi, chỉ thấy những vị tu ở đây đầu bạc trắng. Như vậy tất cả sự vật chung quanh tuy có đổi thay nhưng nó không ý thức được nó đổi thay, chỉ có con người biết nhìn lại mới thức tỉnh, biết rằng thân này sẽ đi lần đến cái già, cái chết. Vì vậy chỉ có người tu mới biết được sự chuyển biến đó. Hai câu kết thật là lý thú: Ngoài tuần hương đốt tham Phật sự, Bao nhiêu niệm lự thảy thôi thôi. Nghĩa là ngoài tuần hương đốt để tham vấn hay học kinh ra, còn bao nhiêu niệm lự khác xin hãy thôi đi, đừng nuôi dưỡng chứa chấp nó. Quí vị có ưng ý câu đó không? Nh ư vậy chúng ta thấy cái nhìn hay đường lối tu của vua Trần Nhân Tông tức Trúc Lâm Đại Đầuđà thật rõ ràng, Ngài dạy hay Ngài nói lên tâm niệm tu hành, ngoài sự lễ bái, tọa thiền, lúc nào có một niệm lự dấy lên đều phải thôi, phải dừng, phải buông, không nên giữ, không nên chứa chấp. Đó là lời Ngài nhắc nhở sự tu hành cho chúng ta. ÂM: XUÂN HIỂU Th ụy khởi khải song phi, Bất tri xuân dĩ qui. Nhất song bạch hồ điệp, Phách phách sấn hoa phi. DỊCH: BUỔI SỚM MÙA XUÂN Ng ủ dậy mở cửa sổ, A, xuân về rồi đây! Kìa một đôi bướm trắng, Nhằm hoa phơi phới bay. Trần Lê Văn Bài này nói về buổi sáng mùa xuân, Ngài diễn tả rất hay, rất khéo nhưng chỉ tả cảnh chớ không có ý nghĩa đạo lý nên tôi không phải giảng. ÂM: XUÂN CẢNH D ương liễu hoa thâm điểu ngữ trì, Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi. Khách lai bất vấn nhân gian sự, Cộng ỷ lan can khán thúy vi. DỊCH: D ương liễu hoa dày, chim hót thưa, Bóng thềm, nhà vẽ, cụm mây chiều. Khách sang chẳng hỏi việc nhân thế, Cùng tựa lan can ngắm bầu trời. Ả GI ẢNG: Dương liễu hoa dày chim hót thưa, Cảnh xuân này thật là xuân đạo vị, chẳng phải xuân thường. Nhìn thấy cảnh xuân qua cây dương liễu trổ hoa dày mịt với tiếng chim hót trên cành thưa từng tiếng. Bóng thềm, nhà vẽ, cụm mây chiều. Mùa xuân đã về có dương liễu trổ hoa, có chim hót chung quanh là bóng thềm, nhà vẽ với cụm mây chiều là những hiện tượng vô thường giả tạm, không thật có. Khách sang chẳng hỏi việc nhân thế, Cùng tựa lan can ngắm bầu trời. N ếu có khách đến thăm không đem việc đời ra hỏi, chẳng hạn hỏi huynh đệ ở nhà có mạnh khỏe không, năm nay làm ăn có phát đạt không, thường gặp chuyện như ý không v.v… mà chỉ cùng khách đứng ngắm bầu trời đủ rồi. Nhưng ít ai chịu như thế, nếu khách đến mình chỉ dẫn lên lan can để ngắm bầu trời thì chắc người đó ra về sẽ không bao giờ trở lại thăm nữa. Họ sẽ cho mình không biết lịch sự, tiếp khách mà không nói được một câu nào! Nhưng thật ra tất cả cảnh đã nói hết rồi, nào là hoa liễu nở, nào là chim hót, thêm vào đó những hình bóng tạm bợ vô thường không có gì thật hết, nhìn thấy cảnh liền tỉnh, nói chi nữa cho dư. Đó là ý nghĩa rất thâm trầm mà người đời ít ai chấp nhận. Khi gặp khách đến tiếp đón nồng hậu cười nói líu lo họ mới chịu, nếu không họ sẽ không vui. ÂM: XUÂN VÃN Niên thi ếu hà tằng liễu sắc không, Nhất xuân tâm sự bách hoa trung. Như kim khám phá Đông hoàng diện, Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng. DỊCH: CUỐI XUÂN Thu ở bé chưa từng rõ sắc không, Xuân về hoa nở rộn trong lòng. Chúa xuân nay bị ta khám phá, Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng. GIẢNG: Bài này nói theo từ ngày xưa là đắc ý nhất, nói theo từ thời nay là tâm đắc nhất của tôi, nên tôi đã từng giải thích nhiều lần rồi. Thuở bé chưa từng rõ sắc không, Ý nói lúc còn nhỏ về lý Bát-nhã “sắc tức thị không, không tức thị sắc” mình chưa biết, cho nên: Xuân về hoa nở rộn trong lòng. Mùa xuân đã về thấy hoa nở lòng mình cũng rộn ràng thích thú, cũng vui tươi cười giỡn mừng đón xuân. Chúa xuân nay bị ta khám phá, Chúa xuân là d ịch chữ Đông hoàng diện, là chỉ vị thần của mùa xuân, nhưng nói chúa xuân thì nghe rõ hơn. Chúa xuân đây không phải là vị thần ở bên ngoài mà để chỉ Tâm chân thật của chính mình, ngày nay mình đã nhận ra được nó rồi. Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng. Khi đã nhận ra có cái chân thật ở ngay nơi mình, thì lúc đó trải chiếu ngồi trên giường thiền ngắm bao nhiêu thứ hoa nở hoa tàn rơi rụng từng cánh lòng vẫn an nhiên không động. Quí vị thấy cũng cảnh xuân đó mà khi mê thì có những thích thú, vui mừng nhộn nhịp theo cảnh xuân. Khi đạt được đạo lý chân thật rồi, thì dù cho thấy hoa nở hoa tàn, lòng mình vẫn bình thản không rộn rã, không dính kẹt nó nữa. Nghĩa là không vì cảnh đẹp xấu, hoa nở hay tàn mà tâm xao xuyến. Chẳng qua khi mê tâm bị cảnh chuyển, lúc tỉnh cảnh phải tùy tâm. Quí vị thấy có được phần nào điều này hay chưa? Hay là xuân đến cũng vui mừng rộn rã, xuân tàn cũng buồn bã, cũng se thắt trong lòng chớ không thản nhiên nhìn hoa nở hoa tàn. Vì vậy chúng ta tu khi mê với lúc tỉnh có khác, cùng một cảnh mà hai cái nhìn khác nhau. Thế nên cổ nhân có câu: Như nhau dọc mũi ngang mày, Lòng phàm, lòng Thánh khác nhau muôn trùng. V ề hình thức thì ai cũng như ai, nhưng trong lòng khi mê khi ngộ có khác. Không những người này khác với người kia mà chính bản thân mình lúc mê lúc ngộ cũng khác. Đó là để nói lên tâm hồn của con người khi chưa hiểu đạo thấy cuộc đời cách khác, lúc hiểu đạo rồi lại thấy khác hơn. Như vậy quí vị đã tu chắc nhìn đời phải hơn người chưa tu chứ! Nếu chúng ta đã tu mà nhìn cuộc đời không khác với người chưa tu thì tâm chưa đổi chút nào, vì nếu tâm đã đổi thì phải thấy khác. Bài này tôi thích nhất là ngài Trúc Lâm Đại Đầuđà diễn tả hai tâm trạng lúc còn nhỏ và khi đã hiểu đạo, hết sức cụ thể chỉ trong bốn câu thơ ngắn gọn. Hồi chưa rõ lý sắc không là chưa hiểu đạo cho nên khi xuân về nhìn thấy hoa nở rộ, lòng mình cũng rộn rã, bồi hồi. Ở đây tuy nói mùa xuân nhưng cũng muốn nói lên tất cả. Khi gặp cảnh vui, cảnh ưa thích thì tâm hồn cũng xao xuyến loạn động. Ngày nay đã đạt đạo rồi thì tất cả những gì ngày xưa mến thích bây giờ đến, mình vẫn thản nhiên, giả sử nó có bị tàn phai cũng không bận bịu, bồn chồn. Đó là tâm hồn của người tu. Làm sao trong một, hai, ba hoặc năm mười năm tất cả Tăng Ni đều được như hai câu cuối của bài thơ này. Ngồi trên giường thiền nhìn cảnh đến, đi, vui buồn mà lòng vẫn bình thản không vướng bận, không rộn rã nữa. ÂM: SƠN PHÒNG MẠN HỨNG I. Thùy ph ược cánh tương cầu giải thoát, Bất phàm hà tất mích thần tiên. Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão, Y cựu vân trang nhất tháp thiền. II. Th ị phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn. Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch, Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn. DỊCH: PHÒNG NÚI KHỞI HỨNG I. Ai trói l ại mong cầu giải thoát, Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên. Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão, Như cũ vân trang một chõng thiền. II. Ph ải quấy niệm rơi hoa buổi sớm, Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm. Mưa tạnh, hoa trơ non vắng lặng, Chim kêu một tiếng lại xuân tàn. GI ẢNG: Hai bài thơ này tôi cho là rất lý thú và thật thiết yếu đối với người tu. Thùy phược cánh tương cầu giải thoát, “Thùy ph ược” là ai trói buộc, “cánh” là lại, “tương cầu giải thoát” là tìm cầu giải thoát. Nghĩa là ai trói buộc, mình lại đi tìm cầu giải thoát. Quí vị tu có phải cầu giải thoát không? Chúng ta tu là để cầu giải thoát. Như vậy giải thoát là nghĩa gì? Giải là mở, thoát là ra khỏi trói buộc, cho nên giải thoát là mở trói cho mình. Vậy thì chúng ta bị ai trói mà mong cầu mở? Thí dụ như mắt thấy sắc đẹp, thích sắc đẹp bị sắc đẹp trói. Tai nghe tiếng hay, thích tiếng hay, bị tiếng hay trói, mũi ngửi mùi thơm thích mùi thơm, bị mùi thơm trói, lưỡi nếm vị ngon thích vị ngon, bị vị ngon trói, thân xúc chạm vật mềm mại ưa thích, bị cái mềm mại trói. Nghĩa là tất cả sáu căn bị sáu trần trói buộc. Như vậy sáu trần trói buộc mình hay mình tự trói buộc? Hầu hết mọi người thường nói: “Tôi bị nghiệp trói, nên tu để giải nghiệp.” Nghiệp trói bằng cách nào quí vị có thấy không? Nếu mắt thấy sắc đẹp không nhiễm thì nó có trói được không? Tai nghe tiếng hay không dính mắc, bận bịu nó có buộc được không? Đâu có gì trói buộc, trói buộc là do lòng mình nhiễm trước. Phật Tổ thì mở còn Ma vương trói chỉ là lối nói do tưởng tượng. Thực tế không ai trói mà mình tự trói nên ở đây nói: Ai trói lại mong cầu giải thoát. Như vậy chúng ta tu cầu giải thoát hay cầu không nhiễm? Cầu giải thoát là thực tế hay cầu không nhiễm là thực tế? Nghĩa là chính chúng ta nhiễm thì bị trói, không nhiễm thì ai trói? Vì vậy chúng ta không thể cầu bên ngoài cứu mình mà chỉ cầu sao mình thường tỉnh không bị nhiễm sáu trần, đó là gốc. Đây tôi dẫn câu chuyện Tổ Tăng Xán gặp một Sa-di mới mười bốn tuổi là ngài Đạo Tín. Ngài Đạo Tín biết Tổ là người đạt đạo liền chắp tay bạch: Bạch Hoà thượng dạy cho con pháp môn giải thoát. Tổ Tăng Xán nhìn thẳng vào mặt ngài Đạo Tín nói: Ai trói buộc ngươi? Câu hỏi của Tổ làm cho ngài Đạo Tín sửng sốt, tìm kỹ lại một lúc rồi Ngài thưa với Tổ: Không ai trói buộc con. Tổ bảo: Không ai trói buộc cầu giải thoát làm gì? Ngay câu nói đó ngài Đạo Tín ngộ đạo. Thật giản đơn làm sao! Quí vị thấy rõ chưa? Không ai trói buộc, mình không cầu giải thoát, có giải thoát được không? Nếu không nhiễm thì không cần cầu, còn nhiễm dù ít vẫn bị trói, vì vậy phải cầu giải thoát. Từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta cái nào nhiễm đều bị trói, nếu không nhiễm thì được giải thoát tự tại. Như vậy trọng tâm của giải thoát là do mình, không nhiễm, không bị trói buộc mà cầu giải thoát là dư, là thừa, nên nói: Ai trói buộc mong cầu giải thoát. Bất phàm hà tất mích thần tiên. Ngh ĩa là không phải phàm thì đâu cần tìm kiếm thần tiên làm gì? Như vậy quí vị nghĩ tất cả chúng ta có mặt ở đây là phàm hay Thánh? Ai cũng nói tôi là kẻ phàm phu, nếu tu thì nói là Phàm tăng, không ai dám nói là Thánh tăng cả. Mình đã nhận mình là phàm tại sao Ngài lại nói bất phàm tức là không phàm? Trên thực tế thấy mình là phàm nhưng xét kỹ đến chỗ cứu kính thì tất cả chúng ta không ai phàm hết. Nếu nói như thế quí vị sẽ thầm nghĩ mình là Thánh, nhưng nếu nói là Thánh ắt có tội vì mình còn nhiều xấu xa phiền não. Vậy tại sao Ngài nói “bất phàm hà tất mích thần tiên”? Phật dạy: Chỉ sạch phàm tình không cầu thánh giải. (Đản tận phàm tình bất cầu thánh giải.) Thế nên chúng ta tu chỉ dứt hết những cái xấu dở của tình phàm. Khi sạch hết rồi tức hết phàm là Thánh. Như vậy Thánh đâu ngoài con người phàm này. Đây tôi nói thực tế cho quí vị thấy như chúng ta hiện nay thấy cái gì tốt thì ham muốn gọi đó là tham. Ai nói trái tai nổi giận gọi đó là sân. Thấy ai hơn thì ganh tị, thấy ai có tài có đức hơn, mình không ưa v.v… Tất cả những thứ tham, sân, si, ganh tị, oán hờn… đó là phàm tình. Bây giờ quí vị chịu khó bỏ đi, bỏ từng cái, khi những cái đó hết sạch thì quí vị là Thánh rồi. Như vậy Thánh không ở ngoài đến với mình, Thánh là do hết tâm phàm trở thành Thánh. Thế nên đâu cần tìm thần tiên làm gì. Chính mình hãy gạt bỏ sạch hết những thứ xấu dở hư của con người hay của tâm niệm phàm tục thì cái sáng suốt trong lành của tâm Thánh hiện ra. Như vậy tâm Thánh đã có sẵn nơi mình. Do đó Ngài không nói Thánh mà nói bất phàm. Vì vậy chúng ta có thể tạm nói mình là nửa phàm nửa Thánh, nếu sống với nửa phàm thì Thánh ẩn, Thánh đã sẵn trong con người chúng ta chớ không phải từ nơi nào đến. Thế nên chúng ta tu không cần bên ngoài, bên ngoài không làm cho chúng ta thành Thánh, chính chúng ta bỏ được cái phàm thì chúng ta là Thánh chớ không tìm đâu xa. Trong nhà thiền không nói chúng ta tu phải cầu được cái này cái kia, nếu cầu mà được là không phải chúng ta rồi. Chỉ cần dẹp bỏ những cái phàm thì Thánh hiện, đó mới thật là chính mình. Như vậy quí vị có dám tự hào chúng ta là bất phàm hay vẫn cho mình là phàm phu không khác? Thật ra mỗi người đều có phàm Thánh lẫn lộn. Vì vậy người tu mà nói chờ ai điểm đạo cho mình mới thành Thánh là nói gạt. Nếu có người điểm đạo mà mình còn tham, sân, si, tật đố, kiêu mạn… mà được thành Thánh là chuyện vô lý vì không có ông Thánh nào còn tham, sân… chẳng lẽ điểm đạo cho mình hết tham, hết sân liền sao? Mà chính mình phải dẹp sạch những tham, sân, si, xấu dở của mình rồi thì tự cái Thánh sẽ hiện bày ra không cần tìm ở đâu. Như vậy chúng ta mới thật hiểu được Phật pháp, nếu khác đi là hiểu sai lầm. Vậy thì chỉ cần hai câu chúng ta thấy bao nhiêu đạo lý trong đó: Không ai trói buộc thì không cần cầu giải thoát, chẳng phải phàm thì tìm thần tiên làm gì? Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão, Y cựu vân trang nhất tháp thiền. “Viên nhàn” là v ượn nhàn, “mã quyện” là ngựa mệt, “nhân ưng lão” là người đã già. Vượn nhàn đây tức là mỏi mệt được dừng nghỉ, ngựa thì nhọc, người thì già. Vượn, ngựa, người tất cả đều hiện tướng nhọc nhằn, mệt mỏi do sự biến chuyển đưa đến gần chỗ cuối cùng là tướng già. Nói tóm lại ba hình ảnh trên nói lên sự vô thường của cuộc đời. Tuy cuộc đời luôn luôn bị vô thường thúc bách con người đến chỗ già, chỗ chết, nhưng “y cựu” là như xưa, “vân trang” tức là cái nhà ở trên núi, “nhất tháp thiền” là một giường thiền, dù cho cuộc đời biến chuyển, dù cho con người bị đổi thay từ trẻ đến già, nhưng nơi vân trang người ngồi trên giường thiền như xưa không có gì đổi thay. Đó là để nói mặc cho cuộc đời có muôn ngàn biến chuyển, nhưng người đạt được Tâm chân thật thì trước sau như một không chút đổi thay, như xưa ở vân trang không có gì thay đổi. Đó là tinh thần của người tu. Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn. “Th ị phi” là phải quấy, “niệm trục” là niệm đi theo, “triêu hoa lạc” là sáng sớm hoa rơi rụng. Nghĩa là sáng sớm nhìn ở ngoài sơn phòng thấy các đóa hoa rơi từng cánh xuống đất thì niệm thị phi của chúng ta cũng theo đó mà rụng. Tâm danh lợi cũng theo trận mưa đêm lạnh mà lạnh đi. Nh ư vậy hai câu này Ngài diễn tả ở trên sơn phòng tức là căn phòng trên núi để tu, khi sáng ra thấy hoa trước cửa thất rơi rụng thì tâm thị phi cũng theo đó mà rụng. Tối mưa đêm lạnh thì tâm danh lợi cũng lạnh theo mưa đêm. Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch, Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn. Hoa đã hết, mưa đã tạnh núi vẫn lặng lẽ. Một tiếng chim kêu mùa xuân đã qua. Hai câu này nghe khó hiểu nhưng ý nghĩa rất thâm trầm. Bởi vì khi niệm thị phi của chúng ta rơi rụng hết, tâm danh lợi của chúng ta tan nát rồi lúc đó cũng giống như là hoa hết, mưa tạnh chỉ còn ngọn núi lặng lẽ. Như vậy khi tâm thị phi hết, tâm danh lợi cạn thì lúc đó còn một Tâm thể nguyên vẹn lặng lẽ, cho nên dùng hình ảnh một ngọn núi lặng lẽ dường như vô tình, nhưng đây: Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn, trong ngọn núi tịch tĩnh đó lại có tiếng chim hót lên là mùa xuân đã qua. Như vậy để thấy niệm thị phi đã sạch, tâm danh lợi đã hết thì chúng ta còn một Tâm thể thanh tịnh, Tâm thể không phải vô tri, vô giác mà Tánh giác bừng khởi ở trong đó không còn bị chi phối bởi thời gian cho nên nói mùa xuân tàn. Đó là chỗ kỳ đặc của Ngài chỉ cho chúng ta thấy vậy. Nói tóm lại hai bài thơ này Ngài chỉ dạy thật thiết yếu cho người tu. ÂM: NGUYỆT Bán song đăng ảnh mãn sàng thư, Lộ trích thu đình dạ khí hư. Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ, Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ. DỊCH: TRĂNG Đ èn song chếch bóng, sách đầy giường, Đêm vắng sân thu lác đác sương. Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết, Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương. Đào Phương Bình GIẢNG: Bài này t ả cảnh ban đêm có trăng, đêm vắng có sương mù lác đác rồi nghe có tiếng chày nện vải từ đâu đưa lại, nhìn ra thấy bóng trăng rọi sáng chung quanh. Như vậy bài này Ngài chỉ tả cảnh. ÂM: ĐỀ PHỔ MINH TỰ THỦY TẠ Huân t ận thiên đầu mãn tọa hương, Thủy lưu sơ khởi bất đa lương. Lão dung ảnh lý tăng quan bế, Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường. D ỊCH: ĐỀ NHÀ THỦY TẠ, CHÙA PHỔ MINH Nghìn h ương thắp hết ngát đầy tòa, Làn nước nhẹ nhàng gió lạnh qua. Dưới bóng đa già chùa cửa đóng, Ve ngâm dấy khởi tứ thu xa. GIẢNG: Khi ra Hà N ội chúng tôi có đến viếng chùa Phổ Minh. Ngày nay cảnh chùa còn nguyên vẹn kể cả tháp. Chùa nằm bên cạnh cánh đồng chớ không ở chỗ thị tứ. Đây Ngài diễn tả cảnh chùa ở phía trước có cây đa lớn và một cái hồ. Khi trong chùa đốt hương thì nghe mùi thơm tỏa ngát đầy tòa. Dưới mặt hồ gió thổi nhẹ nước gợn sóng rọi bóng cội đa già nằm cạnh bên tháp. Một tiếng ve ngâm, ý thu mênh mang. ÂM: THIÊN TRƯỜNG PHỦ L ục ám hồng hi bội tịch liêu, Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu. Trai đường giảng hậu tăng qui viện, Giang quán canh sơ nguyệt thượng kiều. Tam thập tiên cung hoành dạ tháp, Bát thiên hương sát động xuân triều. Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc, Phảng phất canh tường nhập mộng nhiêu. D ỊCH: PHỦ THIÊN TRƯỜNG L ục rậm, hồng thưa cảnh quạnh hiu, Mây quang, mưa tạnh đất tan rêu. Phòng trai giảng đoạn, sư về viện, Cầu bến canh đầu, bóng nguyệt treo. Ba chục cung tiên, giường ngủ đặt, Tám nghìn bóng tháp, nước triều reo. Phổ Minh phong cảnh chùa như cũ, Trong giấc mơ màng Thuấn thấy Nghiêu. Theo Ngô Tất Tố GIẢNG: Bài này Ngài t ả cảnh phủ Thiên Trường. Phủ Thiên Trường là quê hương của nhà Trần, nơi đó các ngài làm hành cung. Chùa Phổ Minh cũng nằm trong vùng này. Bài này tôi y theo bản dịch của Ngô Tất Tố. Trong câu “phảng phất canh tường nhập mộng nhiêu” là lấy sự tích nói theo Hậu Hán Thư. Theo tục xưa vua Nghiêu mất, vua Thuấn để tang ba năm để tưởng nhớ, vì thế lúc ngồi thấy hình dáng vua Nghiêu trên tường, khi ăn thấy hình dáng vua Nghiêu trong bát canh. Ý nói khi về chùa Phổ Minh, Ngài luôn luôn nhớ đến các vị vua tiền triều Tổ phụ của Ngài thuở trước, các ngài thường về đây nghỉ ngơi. Vì vậy mỗi khi nhìn cảnh trí ngôi chùa gợi Ngài nhớ tưởng đến người xưa. Như vậy bài này Ngài chỉ tả cảnh. ÂM: THIÊN TRƯỜNG VÃN VỌNG Thôn h ậu thôn tiền đạm tự yên, Bán vô bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lý qui ngưu tận, Bạch lộ song song phi hạ điền. DỊCH: NGẮM CẢNH CHIỀU Ở THIÊN TRƯỜNG Tr ước xóm sau thôn tựa khói lồng, Bóng chiều dường có lại dường không. Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết, Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Theo Ngô Tất Tố GIẢNG: Ở đây Ngài ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường, bên cạnh cánh đồng. Ngồi ở trong nhìn ra thấy mục đồng cỡi trâu về chuồng, thấy cò trắng từng đôi bay xuống đồng. Nhìn cảnh đẹp nên thơ, Ngài diễn tả bằng lời thơ. Sở dĩ những bài tả cảnh này được chúng tôi đưa lên đây là để cho quí vị thấy tâm hồn thơ của Ngài rất đặc biệt, rất sống động. Như vậy Ngài là con người có tài về võ lẫn văn thơ. ÂM: TẢO MAI I Ng ũ xuất viên ba kim niễn tu, San-hô trầm ảnh hải lân phù. Cá tam đông bạch chi tiền diện, Tá nhất biện hương xuân thượng đầu. Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh, Dạ quang như thủy khát cầm sầu. Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ, Quế lãnh thiềm hàn chỉ má hưu! II Ng ũ nhật kinh hàn lãn xuất môn, Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn). Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn, Hoa áp chi đầu noãn vị phân. Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt, Họa long xuy thấp Ngọc quan vân. Nhất chi mê nhập cố nhân mộng, Giác hậu bất kham trì tặng quân. DỊCH: HOA MAI SỚM I N ăm cánh hoa tròn, vàng nhị phô, Nổi nênh vảy cá, chìm san-hô. Đông ba tháng trải, cành khoe trắng, Xuân một làn thơm, nhánh nhẹ đưa. Đêm ngỡ nước trong, chim cháy cổ, Sương lừng hương ngát, bướm tan mơ. Hằng Nga như biết đây hoa đẹp, Quế lạnh cung Thiềm, há mến ưa? II N ăm ngày ngại rét, lười ra cửa, Gốc lẻ nào ngờ đã gió xuân. Mặt nước băng tan, cây bóng ngả, Đầu cành hoa trĩu, ấm chưa phân. Trăng chìm xóm núi, lời ca bổng, Mây ướt quan hà, tiếng sáo ngân. Lạc tới chiêm bao, hoa một nhánh, Muốn đem tặng bạn, khó vô ngần! Trần Lê Văn GIẢNG: Ở Bài th ơ thứ nhất nói về hoa mai buổi sớm. Ở đây Ngài diễn tả hoa mai buổi sớm ở Việt Nam hay ở thế gian này vừa đẹp, vừa thơm. Nếu Hằng Nga ở trên cung trăng biết nơi đây có hoa mai đẹp đẽ như thế, chắc cũng bỏ cung quế để xuống thăm. Đó là lối diễn tả khéo của Ngài. Bài th ứ hai cũng diễn tả hoa mai, nhưng vì mùa đông rét mướt nên năm ngày Ngài không ra khỏi cửa, lúc bước ra thì thấy một gốc mai đã có gió xuân đưa đến. Khi nước băng tan, trên cành có những cánh mai nở tròn đầy, kế là những tiếng ca trong xóm núi, những tiếng sáo ngâm, những bước đi quan hà. Rồi trong mộng thấy một cành hoa mai đẹp, muốn đem tặng bạn nhưng không sao tặng được. ÂM: LẠNG CHÂU VÃN CẢNH C ổ tự thê lương thu ái ngoại, Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ. Thủy minh, sơn tĩnh bạch âu quá, Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ. DỊCH: CẢNH CHIỀU Ở LẠNG CHÂU Chùa x ưa lạnh lẽo khói thu mờ, Chiều quạnh thuyền câu, chuông vẳng đưa. Núi lặng, nước quang, âu trắng lượn, Tạnh mây, im gió, đỏ cây thưa. Trần Lê Văn GIẢNG: L ạng Châu là một tỉnh ngày xưa. Bài này tôi cũng theo bản dịch của ông Trần Lê Văn. Đây Ngài tả cảnh chiều ở Lạng Châu. Bài thơ chỉ tả cảnh nên tôi không thể giải thích theo đạo lý được. ÂM: VŨ LÂM THU VÃN H ọa kiều đảo ảnh trám khê hoành, Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh. Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc, Thấp vân như mộng viễn chung thanh. DỊCH: CHIỀU THU Ở VŨ LÂM Lòng khe in ng ược bóng cầu hoa, Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà. Lặng lẽ nghìn non, rơi lá đỏ, Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa. Băng Thanh GIẢNG: Bài này Ngài tả cảnh chiều thu ở Vũ Lâm, cũng không có ý nghĩa đạo lý nên tôi không giảng giải rộng thêm. Tóm l ại buổi giảng hôm nay tôi có ít lời nhắc nhở Tăng Ni và Phật tử qua hai bài “Sơn Phòng Mạn Hứng”. Hai bài này Tăng Ni cần phải học thuộc lòng, bởi vì trong đó có hai đặc điểm mà tôi muốn nhắc cho quí vị nhớ. Đặc điểm thứ nhất, trong bài đầu Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ trọng tâm giải thoát nằm ở chỗ nào. Đặc điểm thứ hai, chỉ cho chúng ta thấy rõ tu cầu thành Phật, thành Thánh là cầu nơi mình hay cầu nơi ai khác? Đó là hai đặc điểm mà Phật tử chúng ta hiện nay hay sai lầm. Mu ốn được giải thoát sanh tử thì tâm sanh tử chúng ta phải dừng. Vậy tâm sanh tử là tâm nào quí vị có biết không? - Tâm là cái biết, cái giác, mà cái biết cái giác nào dấy động là nhân sanh diệt, còn cái giác biết không dấy động thì không sanh diệt. Khi chúng ta khởi nghĩ thương, ghét, buồn, giận v.v.. đó là những cái nghĩ động nên nó là nhân sanh tử. Như vậy chúng ta muốn giải thoát sanh tử hay không sanh tử thì phải dừng cái nhân sanh tử. Nhân sanh tử dừng lặng thì quả không sanh tử sẽ đến, không phải cầu, không phải tìm kiếm. Bởi giáo lý nhà Phật rất thâm sâu nên nhiều người học Phật không hiểu thấu đáo dễ bị mắc kẹt hoặc hiểu lầm, đi kiếm tìm, cầu xin ai khác bên ngoài cứu độ cho mình được giải thoát, đó là việc làm không hợp với Phật pháp. Muốn giải thoát là tự mình phải dừng những ý niệm dấy động tạo nghiệp, ý niệm dấy động tạo nghiệp dừng thì nghiệp quả đâu còn, vì không có nghiệp nhân làm gì có nghiệp quả, mà không có nghiệp cái gì lôi mình đi trong luân hồi sanh tử nữa, tức là tự mình đã giải thoát rồi. Thế nên bao nhiêu phương tiện tu hành của Phật Tổ dạy chúng ta đều cốt dừng tâm sanh tử, mà muốn dừng tâm sanh tử thì phải chịu khó ngày đêm ngồi thiền mấy thời, tận lực hạn chế không cho dấy động tạo nghiệp. Khi tâm đã dừng lặng thì mầm sanh tử không còn, do đó nhân không tạo thì quả không có. Đây là gốc của sự tu hành, chớ không phải tu là cầu xin. Đ a số chúng ta hiện nay nặng về cầu xin. Giả sử trong gia đình có chuyện gì sầu muộn buồn khổ, lại cầu Phật thương con, gia hộ cho con qua khỏi nghiệp chướng để được giải thoát sanh tử. Như vậy tất cả mọi việc đều trông cậy vào chư Phật, chư Tổ cứu giúp cho, nhưng nếu không dừng ý nghiệp thì không ai giúp cho chúng ta được. Chẳng hạn như tôi hiện nay, có vị Tăng hay Ni nào khởi tâm nghĩ rằng cha mẹ mình già, để cha mẹ ở nhà buồn, mình nên về nuôi dưỡng cho tròn bổn phận con hiếu. Khi khởi nghĩ như thế rồi cứ để tăng trưởng mãi trong lòng và có ý muốn rời khỏi Thiền viện. Vị Tăng ấy đến thưa với tôi hết sự tình và nhờ tôi gia hộ cho chú ở lại Thiền viện tu hành. Trong trường hợp này tôi phải làm sao? Nếu tôi không cho thì vị Tăng cũng lén trốn đi thôi. Cho nên việc này chỉ tự vị Tăng dừng cái tâm nghĩ tưởng của mình, chớ không có cách nào khác. Tôi đơn cử ví dụ trên để cho quí vị thấy liên hệ đến bao nhiêu việc khác cũng như vậy. Nếu chúng ta lặng sạch hết những tâm danh lợi, thị phi thì không muốn giải thoát, giải thoát cũng đến. Ngược lại, tâm danh lợi thị phi còn thì chúng ta muốn giải thoát bằng cách cầu xin Phật, Tổ, thiện hữu tri thức cứu giúp mình cũng không làm sao giải thoát được. Việc tu hành rõ ràng như vậy. Thêm m ột điều nữa, chúng ta không nên tự khi mình nghiệp nặng, tu hành không thể thành Phật được. Hiện nay, đa số Tăng, Ni, Phật tử thường mặc cảm mình thấp kém, tội lỗi… làm sao thành Phật nổi. Chúng ta không nên nghĩ như vậy. Vì sao? Vì tất cả những thứ này là cái bên ngoài, tham sân si v.v… đều là những niệm bên ngoài, chớ không phải cái gốc. Cái gốc của chúng ta rất trong sạch. Như hình ảnh trong đây đã nói “hoa rụng, mưa tạnh”. Hoa thì có nở có rụng, mưa thì có tuôn có tạnh. Nhưng tất cả đều tạm có, đều ở bên ngoài, nó sẽ hết, sẽ qua đi, còn núi vẫn nguyên vẹn như xưa không đổi thay. Tham sân si c ủa chúng ta theo duyên dấy khởi, chợt đến chợt đi, không thật có. Riêng Tánh biết bình tĩnh sáng suốt an nhiên lúc nào cũng hiện tiền. Tại sao chúng ta quên, lại bỏ qua? Vì vậy, Tổ Lâm Tế có dạy: “Các ông muốn được biết Phật Tổ chăng? Chính trước mặt các ông hiện nghe pháp ấy vậy!” Tổ muốn chỉ cho chúng ta nhận ra cái chân thật nó đang hiện tiền không cần tìm cầu nơi khác. Thế nên, nếu chúng ta theo tham sân si, lệ thuộc vào nó thì chúng ta là phàm. Ngược lại, chúng ta thắng nó, không theo nó thì chúng ta là Thánh. Cái Thánh đã sẵn ngay nơi mình, chỉ tại chúng ta tự chối bỏ, tự quên mất mà thôi. Vì vậy, hình ảnh “hoa rụng, mưa tạnh” hiển bày một ngọn núi xanh thật đẹp vô cùng. Chớ bảo rằng ngọn núi chỉ là một hiện hữu vô tình mà ở đó còn có tiếng chim hót, lá reo… làm cho tất cả đều thức tỉnh. Việc tu hành theo đó cũng thật hay, thật quí báu nếu chúng ta rõ biết đâu là gốc, đâu là ngọn. CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ (Phú Ở Cõi Trần Vui Đạo) HỘI THỨ NHẤT Mình ng ồi thành thị; Nết dùng sơn lâm. Muôn nghiệp lặng an nhàn Thể tánh; Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí; Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm. Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý; Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm. Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng; Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sanh tuệ nhật sâm lâm. Lo hoán cốt, ước phi thăng, đan thần mới phục; Nhắm trường sanh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đâm. Sách dịch xem chơi, yêu tánh sáng yêu hơn châu báu; Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim. HỘI THỨ HAI Bi ết vậy! Miễn được lòng rồi; Chẳng còn phép khác. Gìn tánh sáng tánh mới hầu an; Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác. Dứt trừ nhân ngã thì ra tướng thật kim cang; Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác. Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Diđà là tánh sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc. Xét thân tâm, rèn tánh thức, há rằng mong quả báo phô khoe; Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác. Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay; Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc. Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quí nữa thiên cung; Dầu hay mến thửa nhân nghì, ba phiến ngói u hơn lầu gác. HỘI THỨ BA N ếu mà cốc, Tội ắt đã không; Phép học lại thông. Gìn tánh sáng, mựa lạc tà đạo; Sửa mình học, cho phải chánh tông. Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ; Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng công. Áng tư tài tánh sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử; Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am Sạn non Đông. Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc; Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công. Nguyền mong thân cận minh sư, quả bồ-đề một đêm mà chín; Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa ưuđàm mấy kiếp đơm bông. HỘI THỨ TƯ Tin xem; Miễn cốc một lòng; Thì rồi mọi hoặc. Chuyển tam độc mới chứng tam thân; Đoạn lục căn nên trừ lục tặc. Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan; Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc. Biết Chân như, tin Bát-nhã, chớ còn tìm Phật Tổ Tây Đông; Chứng thật tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc. Xem Tam tạng giáo, ắt học đòi Thiền uyển thanh qui; Đốt ngũ phần hương, chẳng tốn đến chiênđàn chiêm-bặc. Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích-ca; Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thật ấy là Di-lặc. HỘI THỨ NĂM V ậy mới hay! Bụt ở cong nhà; Chẳng phải tìm xa. Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt; Đến cốc hay chỉn Bụt là ta. Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng cong quê Hà hữu; Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La. Trong đạo nghĩa, khoảng cơ quan, đà lọt lẫn trường Kinh cửa Tổ; Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa. Đức Bụt từ bi, mong