🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tam Thể Ebooks Nhóm Zalo TAM THỂ (CUỐN SÁCH ĐƯỢC CẢ BARACK OBAMA VÀ MARK ZUCKERBERG TÌM ĐỌC) Tác giả: Lưu Từ Hân ♥ Dịch giả: Lục Hương ♥ Ebook Fun&Free – Lưu hành nội bộ https://www.facebook.com/groups/eff.eff/ ♥ Sách: Tram Cao ♥ Typer: Nguyen Hong Ngoc Thanh Thanh Violet Vy Loan Lương Nguyên Nhã Tuyet Van Nguyen Phuong Thao Luong ♥ Beta: Lan Hương Quỳnh Anh Vân Lâm Tran Nhung Bích Thủy Trần Hải Maibư Le Dinh ♥ Làm ebook: Mây ♥ Ebook được thực hiện dựa trên tiểu thuyết Tam thể do Nhã Nam phát hành. CHÚ Ý Ebook Tam thể được thực hiện phi thương mại bởi các thành viên nhóm Ebook Fun&Free vì niềm yêu thích, chỉ trao đổi giữa các thành viên, lưu hành trong nội bộ nhóm và khuyến khích mua sách đã được phát hành. Bản quyền truyện thuộc về tác giả và đơn vị phát hành. Nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân truyền bá, sao chép, chỉnh sửa và upload dưới mọi hình thức. Nếu yêu thích hãy mua sách xuất bản. Các cá nhân không hài lòng về group EFF và admin EFF vui lòng không đọc ebook này – tránh tự ngược. Xin cảm ơn! Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Giới thiệu Uông Diểu, vị giáo sư về vật liệu nano ngày nào cũng đăng nhập vào “Tam Thể”. Tại trò chơi online đó, anh đắm chìm trong một thế giới khác, nơi một nền văn minh có thể chỉ kéo dài vài ngày, bầu trời có thể xuất hiện ba mặt trời cùng lúc và con người còn phải biến thành xác khô để sinh tồn. Nhưng anh không thể ngờ, thế giới khắc nghiệt trong Tam Thể là có thực, chỉ cách trái đất chừng bốn năm ánh sáng, và trò chơi ảo kia lại là một cánh cửa để những sinh vật của thế giới ấy bước đến xâm chiếm địa cầu này. Kinh hoàng, Uông Diểu tìm mọi cách ngăn chặn điều đó. Nhưng anh, cũng như cả địa cầu, không biết rằng, cánh cửa nọ đã được mở toang, từ mấy chục năm về trước... Hùng tráng, kịch tính, triết lý, nên thơ, với những tri thức khoa học thú vị, Tam thể là phần mở đầu mang cảm hứng sử thi cho tam bộ khúc của Lưu Từ Hân. Sau tất cả những mưu toan ly kỳ, nham hiểm, những nỗ lực tưởng chừng tuyệt vọng để sinh tồn, câu hỏi còn đọng lại, không phải "Loài người nên làm gì để đối phó với sự xâm lăng của Tam Thể?", mà là "Loài người đã làm gì chính mình?" LƯU TỪ HÂN Sinh năm 1963, người Dương Tuyền, Sơn Tây, là công trình sư cấp cao, một trong những tác giả đại biểu cho dòng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Tác phẩm tiêu biểu: - Kỷ nguyên sao băng - Sét hòn - Tam thể Trong đó Tam thể đã được mua bản quyền chuyển thể thành phim. Mục lục 1. Biên giới Khoa học 2. Bi a 3. Xạ thủ và Chủ nông trại 4. Tam thể: Chu Văn Vương, Đêm dài 5. Diệp Văn Khiết 6. Vũ trụ nhấp nháy phần 1 7. Những năm tháng điên cuồng 8. Mùa xuân tĩnh lặng 9. Hồng Ngạn phần 1 10. Vũ trụ nhấp nháy phần 2 11. Sử Cường 12. Tam Thể: Mặc Tử, Lửa nóng 13. Hồng Ngạn phần 2 14. Hồng Ngạn phần 3 15. Hồng Ngạn phần 4 16. Tam Thể: Copernicus, Bóng bầu dục vũ trụ, Ba Mặt trời đồng hiện 17. Bài toán Ba vật thể 18. Tam Thể: Newton, John von Neumann, Tần Thủy Hoàng, Ba Mặt trời giao hội 19. Buổi gặp mặt 20. Tam Thể: Einstein, Con lắc đơn, Vụ Vỡ Lớn 21. Tam Thể: Viễn chinh 22. Quân phản loạn địa cầu 23. Hồng Ngạn phần 5 24. Hồng Ngạn phần 6 25. Phiến loạn 26. Cái chết của Lôi Chí Thành, Dương Vệ Ninh 27. Không người sám hối 28. Evans 29. Căn cứ Hồng Ngạn số 2 30. Phong trào Tam Thể trên Trái đất 31. Hai hạt proton 32. Chiến dịch Đàn Tranh 33. Nhân viên giám thính 34. Hạt trí tuệ 35. Sâu bọ 36. Vĩ thanh: Di chỉ 1. Biên giới Khoa học Uông Diểu cảm thấy nhóm bốn người đến tìm anh quả là một tổ hợp kỳ lạ: hai cảnh sát và hai quân nhân, nếu hai quân nhân kia là cảnh sát vũ trang thì cũng bình thường, nhưng đây lại là hai sĩ quan lục quân. Vừa gặp mặt, Uông Diểu đã không có thiện cảm với hai viên cảnh sát. Thực ra, người trẻ tuổi mặc cảnh phục kia cũng ổn, cử chỉ rất lịch thiệp, nhưng cái tay mặc thường phục thì thật đáng ghét. Gã cao lớn thô lỗ, mặt mũi hung tợn, mặc một chiếc jacker da bẩn thỉu, người nồng nặc mùi thuốc lá, nói năng thì oang oang, đây là loại người mà Uông Diểu khó chịu nhất. “Uông Diểu?” Cách gọi thẳng tên bỗ bã khiến Uông Diểu rất khó chịu, huống hồ khi gọi gã còn cúi đầu châm thuốc lá, chẳng buồn ngẩng lên. Không đợi Uông Diểu trả lời, gã đã ra hiệu cho người trẻ tuổi bên cạnh, anh ta liền giơ thẻ cảnh sát cho Uông Diểu xem, còn gã sau khi châm thuốc thì xăm xăm đi thẳng vào trong nhà. “Làm ơn không hút thuốc trong nhà tôi.” Uông Diểu ngăn gã lại. “Ồ, xin lỗi, thầy giáo Uông. Đây là đội trưởng Sử Cường của chúng tôi.” Viên cảnh sát trẻ mỉm cười nói, đồng thời đưa mắt ra hiệu với người họ Sử. “Được, vậy thì nói chuyện ở hành lang nhé.” Sử Cường nói, đoạn rít sâu một hơi, điếu thuốc trên tay ngắn đi gần nửa, nhưng gã không nhả khói ra. “Cậu hỏi đi.” Gã lại hất đầu về phía viên cảnh sát trẻ. “Thầy giáo Uông, chúng tôi muốn tìm hiểu một chút, gần đây anh đã tiếp xúc với thành viên của hội học thuật Biên giới Khoa học đúng không?” “Biên giới Khoa học là một tổ chức học thuật rất có ảnh hưởng trong giới học thuật quốc tế, thành viên đều là các học giả nổi tiếng. Đây là một tổ chức học thuật hợp pháp, sao tôi lại không thể tiếp xúc chứ?” “Cái anh này, nhìn lại mình đi!” Sử Cường lớn tiếng nói, “Chúng tôi có bảo nó không hợp pháp đâu hả? Đã ai bảo không cho anh tiếp xúc chưa?” Gã vừa nói, khói thuốc lúc nãy rít vào đều phả cả vào mặt Uông Diểu. “Được thôi, chuyện này là việc riêng, tôi không cần thiết phải trả lời câu hỏi của các anh.” “Cái gì cũng thành việc riêng hết cả thế này, anh là học giả nổi tiếng, phải có trách nhiệm với an ninh chung chứ.” Sử Cường ném điếu thuốc trên tay đi, lại rút trong bao thuốc bẹp gí ra một điếu nữa. “Tôi có quyền không trả lời, mời các anh đi đi cho.” Uông Diểu nói dứt lời, toan quay người vào nhà. “Đợi đã!” Sử Cường xẵng giọng nói, đồng thời vẫy tay bảo viên cảnh sát trẻ bên cạnh, “Đưa cho anh ta địa chỉ và số điện thoại, buổi chiều còn đến đó.” “Anh muốn làm gì hả!” Uông Diểu phẫn nộ chất vấn, nghe tiếng cãi vã, hàng xóm xung quanh cũng thò đầu ra xem có chuyện gì. “Đội trưởng Sử! Anh nói năng…” Viên cảnh sát trẻ tuổi tức giận kéo Sử Cường sang một bên, rõ ràng không chỉ một mình Uông Diểu khó chịu với thái độ thô lỗ của gã. “Thầy giáo Uông, xin chớ hiểu lầm.” Một sĩ quan mang quân hàm thiếu tá vội bước lên, “Chiều nay có một hội nghị quan trọng, cần mời mấy vị học giả và chuyên gia tham gia, thủ trưởng bảo chúng tôi đến mời anh.” “Chiều nay tôi rất bận.” “Việc này chúng tôi biết, thủ trưởng đã đánh tiếng với lãnh đạo của Trung tâm nghiên cứu nano, hội nghị này không thể thiếu anh được, nếu quả tình không ổn, chúng tôi đành phải hoãn lại để đợi anh vậy.” Sử Cường và đồng nghiệp của gã không nói gì nữa, quay người đi xuống nhà, hai viên sĩ quan nhìn họ đi xa dần, cơ hồ đều thở phào một tiếng. “Người này sao lại thế nhỉ.” Viên thiếu tá nói với cộng sự. “Gã này tai tiếng lắm, mấy năm trước trong một vụ bắt giữ con tin, gã đã mặc kệ sự sống chết của con tin, tự tiện hành động, dẫn đến một nhà ba người đều chết thảm trong tay tội phạm. Nghe nói gã còn qua lại thân thiết với bọn xã hội đen, dùng thế lực của băng đảng này để xử lý một băng đảng khác. Năm ngoái còn dùng cực hình ép cung, khiến một nghi phạm tàn phế, vì vậy đã bị đình chỉ công tác…” “Loại người này sao lại được vào trung tâm tác chiến?” “Thủ trưởng chỉ đích danh gã ta, chắc cũng phải có điểm gì đấy hơn người. Có điều, cấp trên rất hạn chế gã, ngoài những sự vụ của bên công an, họ gần như không cho gã biết chuyện gì cả.” Trung tâm tác chiến? Đó là gì vậy? Uông Diểu thắc mắc nhìn hai sĩ quan đứng trước mặt mình. Ô tô của Uông Diểu đi vào một khu nhà lớn ở ngoại thành, nhìn cánh cổng chỉ có số nhà mà không có biển tên đơn vị, Uông Diểu biết nơi này là địa bàn của quân đội chứ không phải của cảnh sát. Hội nghị được tổ chức trong đại sảnh, vừa bước vào, Uông Diểu đã kinh ngạc trước sự hỗn loạn ở đây. Xung quanh đại sảnh là một vòng các thiết bị máy tính bày bừa bãi, bàn nào để không vừa thì kê luôn máy xuống sàn nhà, dây điện và dây mạng quấn vào nhau dưới đất; một đống bộ chuyển mạch không lắp lên giá mà đặt luôn lên trên máy chủ; mấy màn hình chiếu lớn dựng bừa ở góc đại sảnh, mỗi cái quay một hướng, trông như lều của người digan; khói thuốc tạo thành một tầng lơ lửng trên không trung như màn sương buổi sớm… Uông Diểu không biết đây có phải là trung tâm tác chiến mà hai viên sĩ quan kia nhắc đến hay không, nhưng anh có thể khẳng định một điều: bất kể mọi người ở đây đang xử lý việc gì, thì hẳn nó cũng quan trọng đến nỗi họ quên cả giữ hình tượng. Trên chiếc bàn họp ghép tạm cũng chất đầy giấy tờ và các thứ linh tinh khác, người dự họp đa phần có vẻ mệt mỏi, quần áo nhăn nhúm, ai đeo cà vạt đều đã giật cả ra, hình như đã họp suốt cả đêm. Chủ trì cuộc họp là một vị thiếu tướng lục quân tên Thường Vĩ Tư, người dự họp có một nửa là quân nhân. Qua giới thiệu ngắn gọn, anh biết được người của cảnh sát chỉ chiếm một phần nhỏ, còn lại đều là các học giả và chuyên gia giống anh tham gia dự họp, trong đó có mấy nhà khoa học rất tiếng tăm, vả lại còn là những người nghiên cứu khoa học cơ bản. Điều khiến Uông Diểu bất ngờ là ở đây còn có bốn người nước ngoài, thân phận của những người này làm anh giật mình kinh ngạc: hai người trong số họ cũng là quân nhân, lần lượt là thượng tá không quân Hoa Kỳ và thượng tá lục quân Anh quốc, đảm nhiệm vai trò liên lạc viên của NATO; hai người khác là quan chức của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ, đóng vai trò quan sát viên gì đó. Từ gương mặt của tất cả mọi người ở đây, Uông Diểu đọc ra được một câu: chúng tôi đã cố hết sức rồi, mau kết thúc cha nó đi! Uông Diểu trông thấy Sử Cường, trái hẳn với thái độ thô lỗ hôm qua, gã ta vẫy tay chào anh, nhưng nụ cười nhăn nhở của gã làm Uông Diểu chẳng thể nào vui nổi. Anh không muốn ngồi cạnh Sử Cường, nhưng cũng chỉ còn một chỗ trống duy nhất đó, đành phải ngồi xuống, mùi thuốc vốn dĩ đã rất nồng nặc trong phòng nay càng nặng hơn. Lúc phát tài liệu, Sử Cường nhích lại gần Uông Diểu nói: “Thầy giáo Uông, hình như anh nghiên cứu… vật liệu mới gì đó hả?” “Vật liệu nano.” Uông Diểu trả lời ngắn gọn. “Tôi nghe nói, thứ đó rất bền, sẽ không bị dùng vào hành vi phạm tội chứ?” Từ vẻ mặt nữa giễu cợt nửa không ấy của Sử Cường, Uông Diểu không nhìn ra được gã có phải đang nói đùa hay không. “Nghĩa là sao?” “À, nghe nói thứ đó chỉ cần một sợi mảnh như sợi tóc là treo được cả cái xe tải lớn lên, nếu bọn tội phạm trộm đi một tí làm thành con dao, vậy thì chém một phát là cắt được xe hơi ra làm đôi còn gì.” “Hừ, cần gì phải làm dao, dùng loại vật liệu ấy làm thành một sợi dây mảnh bằng 1% sợi tóc, căng ra ngang đường là có thể cắt xe cộ đi qua đi lại thành hai nửa dễ như cắt bơ vậy… Thứ gì mà chẳng dùng để phạm tội được? Dao đánh vảy cá cũng được nữa là!” Sử Cường rút tập tài liệu trong túi trước mặt ra nửa chừng rồi lại nhét trở vào, rõ ràng là chẳng hứng thú gì. “Nói đúng lắm, cá cũng dùng để phạm tội được cơ mà! Tôi từng điều tra một vụ giết người, con mụ đó còn cắt phéng món đồ chơi của ông chồng đi. Biết dùng cái gì không? Cá rô phi đông lạnh trong tủ đá đấy! Cá sau khi để đông cứng lại, vây lưng sẽ sắc như dao vậy…” “Tôi không có hứng, sao hả, yêu cầu tôi đến họp chính là vì chuyện này à?” “Cá? Vật liệu nano? Không, không, không liên quan đến mấy thứ đó.” Sử Cường ghé tai Uông Diểu, “Đừng nể mặt bọn người này, bọn chúng kỳ thị chúng ta đấy, chỉ muốn moi thông tin từ chỗ chúng ta nhưng lại chẳng cho chúng ta biết gì cả. Như tôi đây này, lăn lộn ở đây hơn tháng trời mà vẫn như anh, chẳng biết cái quái gì cả.” “Các đồng chí, cuộc họp bắt đầu.” Tướng Thường Vĩ Tư nói, “Trong các vùng chiến sự trên toàn cầu, chỗ chúng ta giờ đã trở thành tiêu điểm. Trước tiên, sẽ giới thiệu qua một chút về tình hình trước mắt với các đồng chí dự họp.” “Vùng chiến sự”, thuật ngữ đặc biệt này làm Uông Diểu ngơ ngẩn, anh để ý thấy, vị thủ trưởng này hình như không có ý định giới thiệu đầu đuôi mọi chuyện với người mới đến như mình, điều này quả có thể chứng minh lời Sử Cường vừa nói. Trong lời mở đầu cuộc họp ngắn gọn của vị tướng họ Thường, ông đã hai lần nhắc đến “các đồng chí”, Uông Diểu liếc nhìn hai quân nhân NATO và hai quan chức CIA ngồi đối diện, cảm giác như tướng quân đã quên nhắc đến “các ngài”. “Họ cũng là đồng chí, nói chung người ở đây đều gọi như thế cả.” Sử Cường hạ giọng nói với Uông Diểu, đồng thời dùng điếu thuốc trên tay trỏ bốn người nước ngoài. Cùng với cảm giác ngỡ ngàng, Uông Diểu cũng có đôi phần ấn tượng với khả năng quan sát của Sử Cường. “Đại Sử, cậu tắt thuốc đi, mùi thuốc lá ở đây đã nặng lắm rồi.” Thường Vĩ Tư nói, đoạn cúi đầu lật giở tài liệu. Sử Cường cầm điếu thuốc vừa châm nhìn ngó xung quanh, không tìm thấy gạt tàn bèn bỏ luôn vào cốc trà đánh “xèo” một tiếng. Gã tranh thủ cơ hội này giơ tay phát biểu, rồi không đợi Thường Vĩ Tư tỏ thái độ, gã đã lớn tiếng nói: “Thủ trưởng, tôi có một yêu cầu, lúc trước đã nói đến rồi… chính là bình đẳng thông tin!” Thiếu tướng Thường Vĩ Tư ngẩng đầu lên, “Không có chiến dịch quân sự nào được bình đẳng thông tin cả, về điểm này cũng mong các vị chuyên gia và học giả tham gia hội nghị lượng thứ cho, chúng tôi không thể giới thiệu với các vị nhiều thông tin về bối cảnh hơn được.” “Nhưng chúng tôi thì khác.” Sử Cường nói, “Cảnh sát đã tham gia ngay từ khi trung tâm tác chiến mới thành lập, nhưng đến tận bây giờ chúng tôi thậm chí vẫn chưa biết tổ chức này rốt cuộc đang làm cái gì nữa. Vả lại, các vị đang gạt bỏ cảnh sát ra ngoài, các vị từng bước làm quen công việc của chúng tôi, sau đó lần lượt gạt chúng tôi ra, hết người này đến người khác.” Mấy sĩ quan cảnh sát dự họp khẽ giọng ngăn Sử Cường lại. Uông Diểu hơi ngạc nhiên, không ngờ Sử Cường lại dám nói năng như vậy với thủ trưởng cấp bậc cao như Thường Vĩ Tư, nhưng câu đáp trả của đối phương sau đó lại càng sắc nhọn hơn. “Sử Cường à, tôi bảo cậu này, giờ nhìn lại mới thấy tật cũ của cậu hồi còn trong quân đội vẫn chưa sửa được. Cậu có thể đại diện cho cảnh sát sao? Cậu đã bị đình chỉ công tác mấy tháng vì có hành vi sai trái rồi, sắp sửa bị loại khỏi đội ngũ công an đến nơi. Tôi điều cậu đến đây, là vì coi trọng kinh nghiệm của cậu trên phương diện nghiệp vụ cảnh sát ở đô thị, cậu phải trân trọng lấy cơ hội này chứ.” Sử Cường oang oang nói: “Vậy là tôi phải lập công chuộc tội chứ gì? Các anh chẳng đã nói đó đều là những kinh nghiệm bàng môn tả đạo cơ mà?” “Nhưng hữu dụng.” Thường Vĩ Tư gật đầu với Sử Cường, “Hữu dụng là được, giờ không lo được nhiều chuyện như vậy nữa rồi, đang là thời chiến.” “Chẳng thể lo được chuyện gì nữa đâu.” Một nhân viên tình báo CIA nói bằng tiếng phổ thông chuẩn, “Chúng ta không thể tư duy theo quy tắc thông thường nữa.” Viên thượng tá người Anh rõ ràng cũng hiểu được tiếng Trung, gật đầu: “To be or not to be…” “Anh ta nói cái gì vậy?” Sử Cường hỏi Uông Diểu. “Không có gì.” Uông Diểu máy móc trả lời. Những người này hình như đang nói mớ thì phải, thời chiến? Chiến tranh ở đâu? Anh ngoảnh đầu nhìn ra ô cửa sổ kiểu Pháp của gian đại sảnh, qua cửa sổ, có thể thấy thành phố xa xa bên ngoài khu nhà: dưới ánh mặt trời mùa xuân, trên đường xe cộ qua lại như mắc cửi, trên bãi cỏ có người đang dắt chó, còn có mấy đứa trẻ đang nô đùa… Thế giới bên trong và bên ngoài khu nhà này, đâu mới là chân thực? Thiếu tướng Tường nói: “Gần đây, thế công của kẻ địch rõ ràng đã tăng mạnh, mục tiêu vẫn là các nhân vật cấp cao trong giới khoa học, mời các vị xem danh sách trong tập tài liệu trước.” Uông Diểu rút tờ giấy trên cùng tập tài liệu ra, nội dung trên đó được in bằng cỡ chữ lớn, danh sách này rõ ràng được soạn rất gấp gáp, lẫn lộn cả tên tiếng Anh và tiếng Trung. “Thầy giáo Uông, nhìn bảng danh sách này, anh có ấn tượng gì?” Thường Vĩ Tư nhìn Uông Diểu hỏi. “Tôi biết ba người trong đó, đều là học giả nổi tiếng hàng đầu trong nghành vật lý.” Uông Diểu trả lời, nhưng tâm tư hình như lại để ở nơi nào khác, ánh mắt anh bị hút chặt vào cái tên cuối cùng, trong tiềm thức của Uông Diểu, màu sắc của hai chữ này khác hẳn mấy hàng chữ bên trên. Sao lại có tên cô ấy ở đây nhỉ? Cô ấy sao rồi? “Quen nhau à?” Sử Cường dùng đầu ngón tay to bè ám vàng khói thuốc chỉ vào cái tên đó trên danh sách, thấy Uông Diểu không đáp, gã nói ngay: “Ồ, không quen lắm. Muốn làm quen à?” Lúc này, Uông Diểu đã biết Thường Vĩ Tư điều chiến sĩ thuộc cấp của ông ta trước đây đến là có lý của ông ta, gã này trông bề ngoài có vẻ thô lỗ, mà mắt quan sát lại sắc như dao vậy.Có lẽ gã không phải một cảnh sát tốt, nhưng quả là một kẻ lợi hại. Đó là chuyện một năm về trước, Uông Diểu là người phụ trách các bộ phận linh kiện nano của dự án máy gia tốc hạt “Trung Hoa 2”. Chiều hôm ấy ở công trường Lương Tương, trong giờ nghỉ ngắn, anh bất ngờ bị bố cục trước mặt thu hút. Là một người thích chụp ảnh phong cảnh, những cảnh tượng hiện thực dưới mắt anh thường trở thành những bố cục nghệ thuật. Trọng tâm của bố cục ấy chính là cuộn dây siêu dẫn mà họ đang lắp ráp, cuộn dây to bằng tòa nhà ba tầng, đã lắp đặt được một nửa, thoạt trông như một con quái vật ghép từ những khối kim loại khổng lồ và đường ống dẫn chất làm lạnh nhiệt độ siêu thấp chằng chịt, hoặc tựa như một đống rác lớn của thời đại đại công nghiệp, nó toát lên một vẻ man dại của sắt thép và vẻ lạnh lùng của thứ kỹ thuật phi nhân tính. Trước mặt con quái thú khổng lồ bằng kim loại này, xuất hiện bóng hình một phụ nữ trẻ. Phân bố ánh sáng trong bố cục này cũng rất tuyệt diệu: quái thú khổng lồ bằng kim loại bị khuất trong bóng tối dưới trần tòa nhà dựng tạm, càng tô đậm thêm cảm giác lạnh lẽo, thô ráp; cột sáng vàng của vầng dương lúc chiều tà xuyên qua cái lỗ trên trần rọi đúng vào bóng dáng kia, ánh sang dịu dàng ấm áp chiếu lên mái tóc mềm mại của cô, lên chiếc cổ trắng ngần phía trên chiếc bảo hộ lao động, trông như thể một đóa hoa nở trên đống phế tích kim loại khổng lồ sau cơn dông tố dữ dội… “Nhìn gì mà nhìn, làm việc đi!” Uông Diểu giật thót mình, sau đó phát hiện người bị giám đốc Trung tâm nghiên cứu nano nhắc nhở không phải là anh, mà là một kỹ sư trẻ, cũng đang ngây người ra nhìn cô gái kia. Thoát khỏi không gian nghệ thuật trở về với hiện thực, Uông Diểu chợt nhận ra người phụ nữ đó không phải nhân viên bình thường, vì kỹ sư trưởng đi cùng với cô đang giới thiệu gì đó, có vẻ rất kính trọng. “Cô ấy là ai vậy?” Uông Diểu hỏi giám đốc. “Cậu hẳn phải biết cô ấy chứ,” giám đốc vừa nói vừa khoát tay, “sau khi máy gia tốc đầu tư 20 tỷ này xây dựng xong, lần vận hành đầu tiên có khả năng chính là để nghiệm chứng một mô hình siêu dây(*) mà cô ấy đề ra. Nói ra thì ở trong giới nghiên cứu lý thuyết rất coi trọng thâm niên và vai vế ấy, vốn dĩ không đến lượt cô ấy đâu, nhưng mấy lão già kia không dám làm trước, sợ mất mặt, nên mới để cô ấy tranh trước.” (*) Về lý thuyết dây, có thể đọc trong cuốn Các thế giới song song của Michio Kaku (NXB Thế Giới, 2015). Chú thích của người dịch. Từ đây về sau những chú thích không ghi rõ là tác giả thì đều là của người dịch. “Cái gì? Dương Đông là… phụ nữ?!” “Đúng thế, chúng tôi cũng mới biết lúc gặp cô ấy hôm kia.” Giám đốc nói. Tay kỹ sư hỏi: “Có phải cô ấy có trở ngại tâm lý gì không, nếu không tại sao chưa bao giờ xuất hiện trên truyền thông vậy? Đừng giống như Tiền Trung Thư (*) chứ, đến lúc chết người ta cũng không thể trông thấy ông ta trên ti vi một lần.” (*) Tiền Trung Thư (1910-1998) là một học giả và nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc. Ông là tác giả cuốn tiểu thuyết Vi thành. “Nhưng chúng ta cũng đâu tới nỗi không biết giới tính của Tiền Trung Thu đâu? Tôi cảm thấy thuở nhỏ nhất định cô ấy đã trải qua chuyện gì đó không bình thường, đến nỗi bị bệnh tự kỷ.” Uông Diểu nói, ít nhiều cũng có chút tâm lý “nho còn xanh lắm.” Dương Đông và kỹ sư trưởng đi ngang qua, cô mỉm cười gật đầu với họ, không nói câu nào, nhưng Uông Diểu đã nhớ kỹ đôi mắt trong veo ấy. Tối hôm đó, Uông Diểu ngồi trong phòng làm việc thưởng thức mấy tác phẩm chụp phong cảnh mà mình đắc ý nhất treo trên tường, ánh mắt anh dừng ở một bức chụp cảnh vùng núi phía Bắc Trường Thành… Đó là một khe núi hoang lương, sâu tít bên trong nhô lên một mỏm núi tuyết trắng xóa; phía bên này khe núi, nửa cành cây khô dãi dầu sương gió chiếm gần như một phần ba khung cảnh. Uông Diểu âm thầm tưởng tượng, lồng ghép bóng hình vẫn luẩn quẩn trong tâm trí mình lên tấm ảnh, đặt cô vào sâu trong khe núi, nhìn nhỏ xíu. Lúc này, Uông Diểu mới kinh ngạc nhận ra, cả bức hình chợt sống động hẳn lên, tựa hồ thế giới trong ảnh nhận ra bóng dáng ấy, như thể tất cả nhứng thứ này vốn dĩ đều tồn tại vì cô. Anh lại lần lượt dùng trí tưởng tượng đặt chồng hình ảnh đó lên mấy tác phẩm khác, có lúc còn dùng đôi mắt cô làm nền cho bầu trời mênh mang trong ảnh, những bức ảnh đó cũng đều sống dậy, lộ ra một vẻ đẹp mà Uông Diểu chưa bao giờ tưởng tượng ra. Lúc trước, Uông Diểu luôn có cảm giác những bức ảnh của mình thiếu linh hồn; giờ thì anh đã biết, thứ bị thiếu đi ấy, chính là cô. “Những nhà vật lý học trong dach sách này đều đã lần lượt tự sát trong thời gian chưa đầy hai tháng.” Thường Vĩ Tư nói. Như sét đánh ngang tai, đầu óc Uông Diểu trống rỗng. Sau đó, trong sự trống rỗng dần dần hiện ra hình ảnh, đó là những tấm ảnh đen trắng chụp phong cảnh của anh, mặt đất trong ảnh không còn bóng dáng của cô nữa, bầu trời đã xóa đi đôi mắt cô, thế giới ấy đã chết rồi. “Lúc… lúc nào vậy?” Uông Diểu đờ đẫn hỏi. “Trong vòng hai tháng gần đây.” Thiếu tướng Thường Vĩ Tư nhắc lại. “Anh muốn hỏi người cuối cùng à?” Sử Cường ngồi bên cạnh Uông Diểu đắc ý hỏi, sau đó hạ giọng đáp, “cô ấy là người tự sát cuối cùng, tối hôm kia, uống thuốc ngủ quá liều. Cô ấy chết rất nhẹ nhàng, không đau đớn gì.” Trong khoảnh khắc, Uông Diểu thoáng thấy biết ơn Sử Cường. “Tại sao?” Uông Diểu hỏi, những phong cảnh đã chết trong ảnh vẫn lần lượt hiện lên trong tâm trí anh, tựa như những ngọn đèn ma. Thường Vĩ Tư trả lời: “Giờ chỉ có thể khẳng định một điều: nguyên nhân đẩy họ đến chỗ tự sát là giống nhau. Nhưng bản thân nguyên nhân này lại rất khó nói rõ ở đây, hay nói cách khác là không thể giải thích rõ được với những người không chuyên như chúng tôi. Trong hồ sơ có kèm theo một phần nội dung di thư của họ, sau cuộc họp, các vị có thể xem kỹ lại.” Uông Diểu lật xem bản sao của những bức di thư ấy, toàn là những lời lẽ dài dòng đao to búa lớn. “Tiến sĩ Đinh Nghị, anh có thể cho thầy giáo Uông xem di thư của Dương Đông không? Cô ấy viết ngắn gọn và có tính khái quát nhất.” Người này nãy giờ vẫn cuối đầu im lặng, một hồi lâu sau mới có phản ứng, lấy ra một phong bì màu trắng vươn qua bàn đưa cho Uông Diểu, Sử Cường ở bên cạnh thì thào: “Anh ta là bạn trai của Đông Dương.” Uông Diểu giờ mới nhớ ra mình cũng từng gặp Đinh Nghị ở công trường xây dựng máy gia tốc hạt tại Lương Tương, anh ta là thành viên của nhóm lý thuyết, nhà vật lý này nổi tiếng nhờ phát hiện ra đại nguyên tử trong nghiên cứu sét hòn (*). Uông Diểu rút trong phong bì ra một thứ thoang thoảng mùi hương thanh mát, hình dạng nham nhở, chẳng phải giấy, mà lại là một mảnh vỏ cây bạch dương, bên trên có một hàng chữ rất đẹp: (*) Tham khảo cuốn Sét hòn xuất bản năm 2004 của tác giả. (TG) Tất cả của tất cả đều dẫn đến một kết quả như vậy: vật lý chưa từng tồn tại, trong tương lai cũng sẽ không tồn tại. Tôi biết mình làm như vậy là vô trách nhiệm, nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác. Thậm chí còn không ký tên, cô ấy đã ra đi rồi. “Vật lý… không tồn tại?” Uông Diểu hoang mang đưa mắt nhìn quanh. Thiếu tướng Thường Vĩ Tư gấp cặp tài liệu lại, “Có một số thông tin cụ thể có liên quan tới kết quả thí nghiệm của ba cỗ máy gia tốc hạt mới trên thế giới, rất chuyên môn, chúng ta không thảo luận ở đây. Điều chúng ta cần điều tra trước tiên là hội học thuật Biên giới Khoa học. UNESCO đã đặt 2005 là Năm Vật lý thế giới, tổ chức này đã dần dần hình thành qua những hội thảo học thuật và hoạt động giao lưu của giới nghiên cứu vật lý quốc tế được tổ chức liên tục trong năm đó, đây là một tổ chức học thuật quốc tế khá phân tán. Tiến sĩ Đinh, anh nghiên cứu chuyên nghành vật lý lý thuyết, có thể giới thiệu kỹ hơn một chút về tình hình của nó được không?” Đinh Nghị gật đầu: “Tôi không có liên hệ trực tiếp nào với Biên giới Khoa học, có điều tổ chức này rất có tiếng trong giới học thuật. Tôn chỉ của nó là: từ nửa sau của thế kỷ trước đến nay, tính chính xác và giản dị trong lý thuyết vật lý cổ điển đã dần dần biến mất, các mô hình lý thuyết hiện đại trở nên càng ngày càng phức tạp, mơ hồ và bất định, việc kiểm chứng bằng thực nghiệm cũng càng lúc càng khó, điều này chứng tỏ việc thăm dò mở đường của nghành vật lý dường như đang gặp phải chướng ngại và khó khăn rất lớn. Biên giới Khoa học toan tính mở ra một đường lối tư duy mới, nói một cách đơn giản là dùng phương pháp khoa học để tìm ra giới hạn của khoa học, có ý đồ xác định xem phải chăng, xét về chiều sâu và độ chính xác, nhận thức của khoa học đối với thế giới tự nhiên có tồn tại một ranh giới… bên kia ranh giới ấy là khu vực khoa học không thể tiến xa hơn. Sự phát triển của vật lý học hiện đại, dường như đã loáng thoáng chạm vào ranh giới này.” “Rất tốt.” Thường Vĩ Tư nói, “Theo những gì chúng ta tìm hiểu được, những học giả tự sát này hầu hết đều từng có liên hệ với Biên giới Khoa học, một số người còn là thành viên của nó nữa. Nhưng vẫn chưa phát hiện các hành vi phạm tội kiểu như tà giáo khống chế tinh thần hoặc sử dụng các loại thuốc trái pháp luật. Tức là, cho dù Biên giới Khoa học có gây ảnh hưởng tới những học giả đó thì cũng là thông qua con đường trao đổi học thuật hợp pháp. Thầy giáo Uông, gần đây họ có liên hệ với anh, chúng tôi muốn tìm hiểu một số chuyện.” Sử Cường thô lỗ cất tiếng oang oang: “Bao gồm cả họ tên người liên hệ, địa điểm và thời gian gặp mặt, nội dung cuộc nói chuyện, nếu có trao đổi tài liệu văn tự hoặc thư điện tử…” “Đại Sử!” Thường Vĩ Tư lớn tiếng ngăn anh ta lại. “Không lên tiếng thì không ai bảo anh bị câm đâu!” Một sĩ quan cảnh sát bên cạnh vươn người qua nói khẽ với Sử Cường, gã ta cầm cốc trà trên bàn lên, trông thấy đầu mẩu thuốc bên trong lại đặt xuống đánh “cạch” một tiếng. Sử Cường lại làm Uông Diểu có cảm giác khó chịu như nuốt phải một con ruồi, chút cảm kích khi nãy đã biến mất không còn tăm tích. Nhưng anh vẫn kiềm chế, trả lời: “Tôi tiếp xúc với Biên giới Khoa học bắt đầu từ lúc quen với Thân Ngọc Phi, cô ấy là một nhà vật lý người Nhật gốc Hoa, hiện nay đang làm việc cho một công ty có vốn đầu tư Nhật, cũng sống trong thành phố này. Cô ấy từng nghiên cứu vật liệu nano trong một phòng thí nghiệm thuộc công ty Mitsubishi, chúng tôi quen nhau trong một hội nghị nghiên cứu công nghệ đầu năm nay. Thông qua cô ấy, tôi lại quen thêm mấy người bạn trong ngành vật lý, đều là thành viên của Biên giới Khoa học, có cả trong nước lẫn nước ngoài. Lúc qua lại với bọn họ, câu chuyện đều là về một số vấn đề… Nói thế nào nhỉ, rất cấp tiến, chủ yếu là vấn đề về ranh giới của khoa học mà tiến sĩ Đinh vừa nhắc đến. “Thoạt đầu tôi không có hứng thú lắm với những vấn đề này, chỉ coi như một thú tiêu khiển. Tôi là người làm nghiên cứu ứng dụng, không am hiểu sâu về lĩnh vực này, chủ yếu là nghe họ thảo luận. Tư tưởng của những người này đều rất sâu sắc, quan điểm mới lạ, tôi cảm thấy giao lưu với họ, đầu óc mình cũng mở mang ra nhiều, dần dần bị cuốn vào. Nhưng vấn đề thảo luận chỉ giới hạn ở đó, toàn là lý thuyết thuần túy ở mãi tận đâu đâu, không có gì đặc biệt cả. Họ từng mời tôi gia nhập Biên giới Khoa học, nhưng nếu vậy thì việc tham gia các hội nghị nghiên cứu như thế sẽ trở thành một thứ nghĩa vụ, tôi tinh lực có hạn nên đã từ chối.” “Thầy giáo Uông, chúng tôi hi vọng anh nhận lời mời đó, gia nhập vào hội học thuật Biên giới Khoa học, đây cũng là mục đích chính mà chúng tôi mời anh đến hôm nay.” Thiếu tướng Thường nói, “Chúng tôi hi vọng có thể thông qua anh để có được một số thông tin nội bộ của tổ chức này.” “Ý ông là muốn tôi đi nằm vùng hả?” Uông Diểu lo lắng hỏi. “Ha ha ha, nằm vùng!” Sử Cường cười lớn. Thường Vĩ Tư liếc nhìn gã ta vẻ trách móc, đoạn nói với Uông Diểu: “Chỉ là cung cấp một số thông tin, chúng tôi cũng không còn kênh nào khác nữa.” Uông Diểu lắc đầu: “Xin lỗi, thủ trưởng. Tôi không thể làm chuyện này được.” “Thầy giáo Uông, Biên giới Khoa học là một tổ chức toàn các học giả hàng đầu thế giới, điều tra nó là chuyện cực kỳ phức tạp và nhạy cảm, thực tình, chúng tôi như đang bước đi trên lớp băng mỏng. Không được giới trí thức giúp đỡ, chúng tôi muốn nhích một bước cũng khó khăn, vì thế mới đưa ra yêu cầu đường đột như vậy, hy vọng anh thông cảm cho. Có điều, chúng tôi cũng tôn trọng ý nguyện của anh, nếu anh không đồng ý, chúng tôi cũng có thể hiểu được.” “Tôi… rất bận, cũng không có thời gian.” Uông Diểu thoái thác. Thường Vĩ Tư gật đầu, “Được rồi, thầy giáo Uông, vậy tôi không làm mất thời gian của anh nữa, cảm ơn anh đã đến tham gia cuộc họp này.” Uông Diểu ngẩn người ra mấy giây mới hiểu là mình cần phải rời khỏi đây. Trong khi Thường Vĩ Tư lịch thiệp tiễn Uông Diểu ra cửa phòng họp, Sử Cường ở phía sau lớn tiếng nói: “Thế này rất hay, tôi hoàn toàn không đồng ý với phương án này. Đã có bao nhiêu con mọt sách tìm lấy cái chết rồi, để anh ta đi thì khác gì mang bánh bao thịt ném chó đâu chứ?” Uông Diểu quay người lại, đi tới bên cạnh Sử Cường, cố nén cơn giận đang trào lên, “Anh nói năng như vậy thực sự không giống với một sĩ quan cảnh sát tiêu chuẩn đâu.” “Tôi vốn không phải mà.” “Nguyên nhân những học giả ấy tự sát vẫn còn chưa rõ ràng. Anh không nên nói về họ với giọng điệu khinh miệt như vậy, những cống hiến trí tuệ của họ cho nhân loại không một ai thay thế được đâu.” “Anh nói bọn họ giỏi hơn tôi hả?” Sử Cường ngồi trên ghế ngửa đầu nhìn Uông Diểu, “Tôi đây chẳng đến nỗi nghe người ta nói vài câu là đã đi tự tử đâu.” “Ý anh là tôi sẽ thế hay sao?” “Thì cũng phải có trách nhiệm với sự an toàn của anh chứ.” Sử Cường nhìn Uông Diểu, lại lộ ra nụ cười nhăn nhở cố hữu. “Trong tình huống đó, tôi còn an toàn hơn anh nhiều, anh cần phải biết, khả năng phân định đúng sai phải trái của một người tỷ lệ thuận với trí thức của người đó đấy.” “Thế thì chưa chắc, người như anh đây…” “Đại Sử, cậu còn nói thêm một câu nữa thì cũng ra khỏi chỗ này luôn đi!” Thường Vĩ Tư nghiêm giọng gắt lên. “Không sao, để anh ta nói,” Uông Diểu quay sang vị thiếu tướng, “tôi đổi ý rồi, tôi quyết định sẽ theo ý ông, gia nhập vào Biên giới Khoa học.” “Tốt lắm,” Sử Cường gật đầu lia lịa, “vào đó rồi thì lanh lợi một chút nhé, có một số việc quơ tay là làm được, ví dụ như liếc qua máy tính của bọn họ, nhớ lấy địa chỉ email hay địa chỉ trang web gì gì đó…” “Đủ rồi, đủ rồi! Anh hiểu lầm rồi, tôi không đi làm gián điệp, mà chỉ muốn chứng minh sự ngu xuẩn và vô tri của anh thôi!” “Nếu qua được trận này mà anh vẫn còn sống thì điều đó đương nhiên sẽ được chứng minh. Có điều, sợ rằng… hì hì.” Sử Cường ngửa đầu, nụ cười nhăn nhở biến thành điệu cười gằn ác độc. “Tất nhiên tôi sẽ sống tiếp, nhưng thực tình tôi không muốn gặp lại loại người như anh nữa đâu!” Thường Vĩ Tư tiễn Uông Diểu xuống tận cầu thang, rồi dặn xe đưa anh về, lúc từ biệt, ông nói: “Tính cách Sử Cường là vậy đây, kỳ thực anh ta là một cảnh sát hình sự và chuyên gia chống khủng bố rất giàu kinh nghiệm. Hơn hai mươi năm trước, anh ta từng là chiến sĩ trong đại đội của tôi.” Đi tới trước cửa xe, Thường Vĩ Tư lại nói: “Thầy giáo Uông, nhất định là anh có rất nhiều điều muốn hỏi.” “Những điều ông nói lúc nãy, có liên quan gì với quân đội không?” “Chiến tranh và quân đội tất nhiên là có liên quan rồi.” Uông Diểu ngẩn ngơ quan sát mọi thứ trong ánh nắng xuân rực rỡ xung quanh, “Nhưng chiến tranh ở đâu? Hiện giờ toàn cầu không có điểm nóng nào cả, có lẽ đây là những năm tháng hòa bình nhất trong lịch sử nhân loại rồi còn gì?” Thường Vĩ Tư nở một nụ cười bí hiểm: “Anh sẽ biết mọi thứ rất nhanh thôi, tất cả mọi người đều sẽ biết. Thầy giáo Uông, trong đời anh đã trải qua biến cố nào lớn chưa? Biến cố thay đổi hoàn toàn cuộc sống của anh, khiến cho đối với anh, cả thế giới này bỗng trở nên hoàn toàn khác biệt chỉ sau một đêm ấy.” “Không có.” “Vậy thì cuộc sống của anh là một sự may mắn lạ lùng, thế giới có bao nhiêu nhân tố biến ảo khó lường như vậy mà cuộc đời anh lại không có biến cố gì.” Uông Diểu ngẫm nghĩ hồi lâu vẫn không hiểu được. “Hầu hết mọi người đều như vậy mà.” “Thế thì cuộc đời của hầu hết mọi người đều may mắn lạ lùng.” “Nhưng… bao nhiêu đời nay người ta đều sống bình đạm như vậy mà.” “Đều là may mắn cả.” Uông Diểu lắc đầu bật cười, “Phải thừa nhận là năng lực lý giải của tôi hôm nay quá kém cỏi, thiếu tướng nói vậy chẳng phải là…” “Đúng thế, toàn bộ lịch sử nhân loại cũng là một sự may mắn lạ lùng, từ thời đại Đồ đá đến ngày hôm nay không có biến cố gì lớn lao, thật may mắn. Nhưng nếu đã là may mắn, bây giờ tôi nói cho anh biết, nó kết thúc rồi, hãy chuẩn bị sẵn tâm lý đi.” Uông Diểu còn muốn hỏi nữa, nhưng thiếu tướng đã bắt tay từ biệt, ngăn những câu hỏi kế tiếp của anh. Lên xe, tài xế hỏi địa chỉ nhà Uông Diểu, anh trả lời rồi thuận miệng hỏi: “Này, người đến đón tôi không phải là anh nhỉ? Tôi thấy xe giống nhau mà.” “Không phải tôi, tôi đi đón tiến sĩ Đinh.” Uông Diểu thoáng động tâm, liền hỏi tay tài xế chỗ ở của Đinh Nghị. Tối hôm đó, anh đã đi tìm Đinh Nghị. 2. Bi a Vừa đẩy cửa căn hộ ba phòng ngủ mới tinh của Đinh Nghị, Uông Diểu ngửi thấy mùi rượu xộc lên, trông thấy Đinh Nghị nằm trên xô pha, ti vi đang mở song hai mắt anh ta lại ngước lên trần nhà. Uông Diểu đưa mắt quan sát xung quanh, thấy căn hộ vẫn chưa sửa sang gì, cũng không có đồ đạc bày biện, phòng khách rộng rãi có vẻ rất trống trải, đập vào mắt là chiếc bàn bi a đặt ở góc phòng. Uông Diểu không mời mà đến nhưng Đinh Nghị cũng không tỏ ra khó chịu, hiển nhiên anh ta cũng muốn tìm người để nói chuyện. “Căn hộ này mới mua hồi ba tháng trước,” Đinh Nghị nói, “tôi mua nhà làm gì chứ? Lẽ nào cô ấy thật sự sẽ bước vào cuộc sống gia đình sao?” Anh ta ngà ngà say mỉm cười lắc lắc đầu. “Hai người…” Uông Diểu muốn biết mọi thứ về cuộc sống của Dương Đông, nhưng lại không biết nên hỏi như thế nào. “Cô ấy là một ngôi sao, lúc nào cũng xa xăm như thế, ánh sáng chiếu lên người tôi cũng luôn lạnh lẽo.” Đinh Nghị bước tới bên cửa sổ ngước nhìn bầu trời đêm, tựa như đang tìm kiếm ngôi sao đã khuất xa ấy. Uông Diểu cũng im lặng. Thật kỳ lạ, lúc này anh chỉ muốn nghe giọng cô, trong thời khắc vầng dương ngả về Tây một năm trước, khoảnh khắc ánh mắt giao nhau ấy, cô không nói gì, anh chưa bao giờ nghe thấy giọng của cô. Đinh Nghị xua tay như muốn xua thứ gì đó đi, giải thoát mình ra khỏi tâm trạng u uất. “Thầy giáo Uông, anh đúng đấy, đừng dây dưa với quân đội và cảnh sát làm gì, đó chỉ là một lũ ngu xuẩn tự cho mình là phải thôi. Việc những nhà vật lý kia tự sát chẳng liên quan gì đến Biên giới Khoa học cả, tôi đã nói với họ rồi nhưng không giải thích rõ được.” “Hình như họ cũng đã thực hiện một số cuộc điều tra.” “Đúng thế, vả lại còn là điều tra trên phạm vi toàn cầu nữa, vậy thì họ cũng phải biết rằng trong đó có hai người không hề dính dáng gì đến Biên giới Khoa học, bao gồm cả… Dương Đông.” Dường như Đinh Nghị phải rất cố gắng mới thốt ra được hai chữ ấy. “Đinh Nghị, anh biết đấy, bây giờ tôi cũng đã bị cuốn vào việc này rồi. Vì vậy, tôi rất muốn biết nguyên nhân khiến cho Dương Đông đưa ra lựa chọn ấy, tôi nghĩ anh nhất định biết được điều gì đó.” Uông Diểu vụng về nói, hòng che dấu tâm tư thật sự của mình. “Nếu biết rồi, anh sẽ chỉ lún sâu hơn mà thôi. Bây giờ, anh mới chỉ bị cuốn vào trên phương diện con người và công việc, biết được rồi, ngay cả tinh thần cũng bị cuốn vào theo, thế thì phiền phức to đấy.” “Tôi làm nghiên cứu ứng dụng, không nhạy được như phái lý thuyết bọn anh.” “Được rồi, anh chơi bi a bao giờ chưa?” Đinh Nghị bước tới trước bàn bi a. “Hồi đi học cũng chơi vui mấy lần.” “Tôi và cô ấy đều rất thích chơi, vì trò này làm chúng tôi nghĩ đến các hạt va đập nhau trong máy gia tốc.” Đinh Nghị vừa nói vừa cầm hai viên bi đen trắng lên, đặt bi đen bên cạnh lỗ, bi trắng cách bi đen khoảng 10cm, đoạn hỏi Uông Diểu: “Có thể đánh bi đen vào lỗ không?” “Gần như vậy ai mà chẳng đánh được.” “Thử đi.” Uông Diểu cầm gậy, gảy nhẹ vào viên bi trắng, đẩy viên bi đen chui tọt vào lỗ. “Rất tốt, nào, chúng ta đổi vị trí của cái bàn.” Đinh Nghị vẫy gọi Uông Diểu đang hoang mang ra mặt, hai người nhấc chiếc bàn bi a nặng nề lên chuyển nó ra cạnh cửa sổ trong phòng khách. Sau khi đặt vững, Đinh Nghị lấy viên bi đen trong lỗ ra, đặt nó bên cạnh miệng lỗ, rồi lại cầm viên bi trắng lên đặt xuống cách bi đen chừng 10cm, “Lần này còn có thể đánh vào lỗ không?” “Tất nhiên.” “Đánh đi.” Uông Diểu một lần nữa nhẹ nhàng đưa bi đen vào trong lỗ. “Khiêng nào.” Đinh Nghị vẫy tay ra hiệu, hai người lại khiêng bàn lên chuyển tới góc thứ ba trong phòng khách, Đinh Nghị lại đặt hai viên bi đen và bi trắng vào vị trí như lúc nãy, “Đánh đi.” “Tôi bảo này, chúng ta…” “Đánh đi.” Uông Diểu không biết làm sao, đành cười cười, lần thứ ba đưa bi đen vào lỗ. Họ lại kê bàn lại hai lần nữa, một lần khiêng đến chỗ góc cạnh cửa phòng khách, lần cuối cùng thì khiêng trở về vị trí ban đầu. Đinh Nghị lại đặt bi đen bi trắng ở trước miệng lỗ, Uông Diểu hai lần đánh bi đen vào trong. Lúc này, hai người đều đã toát mồ hôi. “Được rồi, thí nghiệm kết thúc, chúng ta phân tích kết quả một chút nhé.” Đinh Nghị châm một điếu thuốc, “Chúng ta tổng cộng tiến hành thí nghiệm năm lần, trong đó có bốn lần ở không gian và thời gian khác nhau, hai lần ở cùng một tọa độ không gian nhưng thời gian thì khác. Anh không kinh ngạc trước kết quả này à?” Đinh Nghị dang rộng hai tay vẻ khoa trương: “Năm lần, kết quả thí nghiệm va đập lại giống hệt như nhau!” “Rốt cuộc anh muốn nói điều gì vậy?” Uông Diểu thở hổn hển hỏi. “Giờ anh hãy giải thích kết quả khó mà tin nổi này đi, hãy dùng ngôn ngữ vật lý ấy.” “Ừm… trong năm thí nghiệm, khối lượng của hai viên bi không thay đổi; vị trí, tất nhiên là xét trên hệ quy chiếu là mặt bàn bi a, cũng không thay đổi; vector vận tốc của bi trắng va vào bi đen về cơ bản cũng không thay đổi, thế nên sự trao đổi động lượng giữa hai viên bi cũng không thay đổi, vì vậy trong năm lần thí nghiệm này, bi đen tất nhiên đều bị đánh lọt xuống lỗ.” Đinh Nghị cầm chai rượu brandy vứt trên sàn nhà lên, lần lượt rót đầy hai chiếc chén bẩn thỉu, đưa cho Uông Diểu một chén nhưng anh từ chối. “Phải chúc mừng một chút chứ, chúng ta đã phát hiện ra một quy luật vĩ đại: các định luật vật lý đều bất biến trong không gian và thời gian. Tất cả các lý thuyết vật lý trong lịch sử loài người, từ định luật Archimedes đến lý thuyết dây, cho đến tất cả những phát hiện khoa học và thành tựu tư tưởng của con người ở thời điểm này, đều là sản phẩm phụ của quy luật vĩ đại nói trên, so với chúng ta, Einstein và Hawking chỉ là những người làm ứng dụng tầm thường mà thôi.” “Tôi vẫn chưa hiểu anh muốn nói điều gì?” “Thử tưởng tượng ra một kết quả khác xem: lần đầu tiên, bi trắng đụng bi đen vào lỗ; lần thứ hai, bi đen chạy lệch; lần thứ ba, bi đen bay lên trần nhà; lần thứ tư, bi đen bay loạn xạ trong phòng như con chim sẻ hoảng hốt, rốt cuộc chui tọt vào túi áo anh; lần thứ năm, bi đen bay ra với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng làm mép bàn bi a thủng một lỗ, xuyên qua tường, sau đó bay khỏi Địa cầu, khỏi Thái dương hệ, giống như Asimov đã miêu tả ấy (*). Khi ấy anh sẽ nghĩ sao?” (*) Ở đây muốn nói đến truyện ngắn khoa học viễn tưởng “Bi a” của Issac Asimov. (TG) Đinh Nghị nhìn chằm chằm vào Uông Diểu, Uông Diểu im lặng một lúc lâu rồi mới hỏi: “Chuyện này đã thực sự xảy ra rồi, đúng không?” Đinh Nghị ngửa đầu dốc cả hai ly rượu trên tay vào miệng, mắt nhìn chằm chằm bàn bi a, như thể đó là một bóng ma, “Đúng thế, đã xảy ra. Những năm gần đây, điều kiện thực nghiệm kiểm chứng của nghiên cứu lý thuyết cơ sở đã dần dần thành thục, đã có ba chiếc ‘bàn bi a’ đắt giá được chế tạo ra, một chiếc ở Bắc Mỹ, một chiếc ở Châu Âu, còn một chiếc đương nhiên anh đã biết, ở Lương Tương, Trung Quốc, Trung tâm nghiên cứu nano của các anh cũng kiếm được từ đó không ít tiền. “Những máy gia tốc cực mạnh này truyền cho các hạt va chạm trong thí nghiệm một mức năng lượng lớn tới mức nhân loại chưa bao giờ làm được. Dưới tác dụng của mức năng lượng mới, cùng những hạt đó, cùng năng lượng va đập đó, tất cả mọi điều kiện thí nghiệm đều giống nhau, kết quả lại hoàn toàn khác biệt. Không những máy gia tốc khác nhau cho kết quả khác nhau, mà thí nghiệm trên cùng một máy gia tốc ở thời gian khác nhau cũng sẽ cho kết quả khác nhau, các nhà vật lý rối loạn, thực hiện đi thực hiện lại thí nghiệm va đập với năng lượng siêu cao này trong điều kiện tương đồng, nhưng kết quả lần nào cũng khác, cũng không có quy luật gì cả.” “Điều này có ý nghĩa gì?” Uông Diểu hỏi, thấy Đinh Nghị nhìn mình chằm chằm không lên tiếng, anh lại bổ sung thêm: “À, tôi nghiên cứu vật liệu nano, cũng tiếp xúc với cấu trúc vi mô của vật chất, nhưng so với các anh thì còn nông cạn hơn mấy bậc, xin chỉ giáo cho.” “Điều này có nghĩa là quy luật vật lý không bất biến trong không gian và thời gian.” “Thế thì có nghĩa gì?” “Tiếp sau chắc là anh có thể suy luận ra được rồi, vị thiếu tướng kia còn nghĩ ra được nữa là, ông ta đúng là một người thông minh.” Uông Diểu nhìn ra cửa sổ trầm tư, biển ánh đèn của thành thị bên ngoài rực rỡ sắc màu, hoàn toàn nhấn chìm những ngôi sao trên bầu trời đêm. “Điều này có nghĩa là quy luật vật lý phổ quát của vũ trụ không tồn tại, vậy thì bản thân vật lý… cũng không tồn tại nữa.” Uông Diểu dời mắt khỏi khung cửa sổ. “Tôi biết mình làm như vậy là vô trách nhiệm, nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác.” Đinh Nghị tiếp lời, “Đây là nửa sau di thư của cô ấy, trong lúc vô tình anh vừa nói ra nửa đầu tiên, hiện giờ anh ít nhiều đã hiểu được cô ấy rồi chứ.” Uông Diểu cầm viên bi trắng lúc nãy anh vừa chọc gậy năm lần trên bàn lên, mân mê một lúc rồi nhẹ nhàng đặt xuống. “Điều này đối với một người tìm kiếm lý thuyết tiên phong thì quả là một tai họa.” “Trong lĩnh vực vật lý lý thuyết này, nếu muốn có thành tựu thì cần phải có sự cố chấp như người theo đạo vậy, điều này rất dễ dẫn người ta xuống vực sâu.” Lúc từ biệt, Đinh Nghị đưa cho Uông Diểu một địa chỉ. “Nếu rảnh rỗi, nhờ anh đi thăm mẹ của Dương Đông. Dương Đông trước giờ luôn sống cùng bà ấy, con gái là toàn bộ cuộc đời của bà ấy, giờ chỉ còn có một mình, bà ấy rất đáng thương.” Uông Diểu nói: “Đinh Nghị, rõ ràng là anh biết nhiều hơn tôi, không thể tiết lộ thêm một chút sao? Anh thật sự tin rằng quy luật vật lý không bất biến trong không gian và thời gian ư?” “Tôi không biết gì cả…” Đinh Nghị nhìn vào mắt Uông Diểu một lúc lâu, cuối cùng nói: “Đó là vấn đề.” Uông Diểu biết, anh ta chẳng qua chỉ nối tiếp lời vị thượng tá quân đội Anh quốc kia: Tồn tại hay không tồn tại, đó là vấn đề. 3. Xạ thủ và Chủ nông trại Ngày hôm sau là cuối tuần, nhưng Uông Diểu lại dậy rất sớm, mang theo máy ảnh, đạp xe ra ngoài. Là một nhiếp ảnh gia nghiệp dư, đề tài mà anh ưa thích nhất là những vùng hoang dã vắng dấu chân người, nhưng dầu gì cũng đã bước vào tuổi trung niên, không còn tinh lực để hưởng thụ cái thú xa xỉ đó nữa, hầu hết thời gian chỉ có thể đi chụp phong cảnh trong thành phố mà thôi. Nửa vô tình nửa cố ý, anh thường chọn những góc toát lên vẻ hoang sơ trong thành phố, như đáy hồ cạn trong công viên, thửa đất mới đào ở công trường xây dựng, cỏ dại mọc trong những rảnh bê tông. Để loại trừ những sắc thái lòe loẹt của thành thị trong bối cảnh, anh chỉ dùng phim đen trắng, không ngờ lại thành một trường phái riêng, dần dần cũng có chút tiếng tăm nho nhỏ, tác phẩm hai lần được chọn tham gia triển lãm ảnh lớn, còn gia nhập cả hiệp hội nhiếp ảnh gia. Mỗi lần ra ngoài chụp, anh đều đạp xe đi tha thẩn trong thành phố, tìm bắt cảm hứng và bố cục cần thiết cho bức ảnh, có lúc đi lòng vòng cả ngày trời. Hôm nay, Uông Diểu cảm thấy hơi lạ. Lối chụp của anh dựa trên sự trầm ổn của phong cách cổ điển, nhưng hôm nay, anh lại thấy rất khó khăn khi tìm kiếm cảm giác ổn định cần thiết để tạo ra những bố cục kiểu như thế trong đầu, anh cảm thấy thành phố đang thức tỉnh giữa ánh ban mai này dường như được xây dựng trên nền cát chảy, sự ổn định của nó chỉ là hư ảo. Từ đêm trước, hai viên bi a nọ vẫn luôn chiếm cứ giấc mộng dài của anh, chúng bay loạn xạ không theo quy tắc nào trong không gian màu đen, trên nền đen, không nhìn thấy viên bi đen đâu, chỉ những lúc ngẫu nhiên va đập vào viên bi màu trắng nó mới thể hiện sự tồn tại của mình. Lẽ nào bản nguyên của vật chất là không có quy luật? Lẽ nào sự ổn định và trật tự của thế giới chỉ là điểm cân bằng động tạm thời trong cái góc vũ trụ này? Chỉ là một xoáy nước ngắn ngủi giữa dòng nước chảy hỗn loạn mà thôi? Bất giác, anh đã đạp xe đến chân tòa nhà CCTV mới xây xong. Anh dừng xe lại ngồi ở ven đường, ngước nhìn tòa kiến trúc hình chữ A nguy nga cao ngất, cố thử tìm lại cảm giác ổn định. Theo hướng đỉnh chóp đang lấp lóa dưới ánh Mặt trời buổi sớm, anh nhìn về phía bầu trời xanh sâu không thấy đáy kia, trong đầu chợt hiện lên hai từ: Xạ thủ, Chủ nông trại. Khi các học giả trong tổ chức Biên giới Khoa học tiến hành thảo luận, họ thường dùng một từ viết tắt: SF, từ này không phải chỉ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng (science fiction), mà là viết tắt của hai từ trên (shooter, farm owner). Chuyện này bắt nguồn từ hai giả thuyết, đều đề cập đến bản chất của hai quy luật vũ trụ. Giả thuyết “xạ thủ”: có một tay xạ thủ, cứ cách 10 cm lại bắn thủng một lỗ trên tấm bia. Giả sử trên bề mặt tấm bia này có một loài sinh vật có trí tuệ, tồn tại trong không gian hai chiều, các nhà khoa học của bọn họ sau khi tiến hành quan sát vũ trụ của mình đã phát hiện ra một định luật vĩ đại: “Cứ cách 10 cm, ắt hẳn phải có một cái hố.” Chúng đã coi hành vi tùy hứng của tay xạ thủ kia thành quy luật thép trong vũ trụ của mình. Giả thuyết “chủ nông trại” thì lại mang sắc thái kinh dị khiến người ta bất an: trong nông trại nọ có một đàn gà tây, 11 giờ trưa hằng ngày, chủ nông trại đều cho bọn chúng ăn. Một nhà khoa học gà tây quan sát hiện tượng này suốt gần một năm mà không có ngoại lệ nào, vì vậy nó cũng phát hiện ra một định luật vĩ đại trong vũ trụ của mình: “11 giờ trưa hằng ngày sẽ có thức ăn rơi xuống.” Buổi sáng sớm ngày lễ Tạ Ơn, nó tuyên bố định luật này cho lũ gà tây, nhưng 11 giờ trưa hôm đó lại không có thức ăn rơi xuống, chủ nông trại đi vào bắt bọn chúng làm thịt hết. Uông Diểu cảm thấy mặt đất dưới chân mình đang trôi đi như một vũng cát chảy, toàn nhà cao tầng hình chữ A tựa hồ cũng lung lay dao động, anh vội thu ánh mắt lại. Để thoát khỏi tâm trạng bất an, Uông Diểu ép mình chụp hết một cuộn phim rồi trở về nhà trước buổi cơm trưa. Vợ anh đã dẫn con đi chơi, buổi trưa không quay về. Thường ngày, Uông Diểu nhất định sẽ vội vàng đem cuộn phim đi tráng rửa luôn, nhưng hôm nay anh lại chẳng hứng thú gì. Ăn qua loa cho xong bữa trưa, anh nằm lăn ra ngủ, vì đêm qua cứ trằn trọc không yên giấc nên anh ngủ thẳng đến gần năm giờ chiều. Lúc này, anh mới nhớ ra cuộn phim chụp ban sang, bèn chui vào phòng tối chật hẹp được cải tạo từ chiếc tủ âm tường để tráng phim. Cuộn phim nhanh chóng được tráng hết, anh bắt đầu kiểm tra xem có tấm nào đáng để rửa phóng ra thành ảnh không, nào ngờ ngay bức đầu tiên anh đã phát hiện một việc kỳ lạ. Bức này chụp một bãi cỏ nhỏ bên ngoài khu chợ lớn, Uông Diểu thấy ở chính giữa tấm phim có dải gì đó màu trắng, nhìn kỹ thì là một dãy số: 1200:00:00. Tấm phim thứ hai cũng có số: 1199:49:33. Nguyên cả cuộn phim, tấm nào cũng có một hàng số nhỏ. Tấm thứ ba: 1199:40:18; tấm thứ tư: 1199:32:07; tấm thứ năm: 1199:28:51; tấm thứ sáu: 1199:15:44, tấm thứ bảy: 1199:07:38; tấm thứ tám: 1198:53:09… tấm thứ ba mươi tư: 1194:50:49; tấm thứ ba mươi sáu, cũng là tấm cuối cùng: 1194:16:37. Uông Diểu lập tức nghĩ cuộn phim có vấn đề. Anh dùng máy ảnh cơ Leica M2 sản xuất năm 1988, toàn bộ thao tác đều bằng tay, không có bất cứ tính năng tự động nào, càng không thể in chồng lên phim những con số kiểu như ngày tháng thế này. Chỉ tính riêng ống kính và kết cấu máy tuyệt vời, dù ở giữa thời đại kỹ thuật số, chiếc máy ảnh này cũng được xếp vào hàng quý tộc trong số máy ảnh chuyên nghiệp. Kiểm tra lại từng tấm phim một, Uông Diểu nhanh chóng phát hiện ra điểm kỳ dị đầu tiên của những con số đó: chúng tự động thích ứng với bối cảnh. Nếu cảnh nền là màu đen, con số sẽ là màu trắng, còn nếu bối cảnh màu trắng thì những con số sẽ là màu đen, như để tạo độ tương phản lớn nhất tiện cho người xem nhìn rõ được. Khi Uông Diểu xem lại tấm phim thứ mười tám, tim anh bỗng đập thìch thịch, cảm tưởng như trong phòng tối có một luồng khí lạnh dọc theo sống lưng mình đi lên. Tấm ảnh này chụp một cây khô trên nền bức tường cũ, bức tường lốm đốm từng mảng, trong ảnh cũng hiện lên những chỗ đen chỗ trắng đan xen nhau. Trên cảnh nền này, nếu vẫn ở vị trí bình thường, hàng số kia dù màu đen hay trắng đều không thể hiện thị rõ ràng, nhưng nó lại đã dựng lên, đồng thời uốn cong mình, hiện màu trắng men theo thân cây khô sẫm màu, thoạt trông tựa như một con rắn nhỏ bám trên thân cây vậy. Uông Diểu bắt đầu nghiên cứu quan hệ số học giữa những con số ấy, mới đầu anh cho rằng đó là một loại mã số nào đó, nhưng khoảng cách giữa mỗi nhóm số lại không giống nhau, anh nhanh chóng hiểu ra đây là những con số chỉ thời gian dùng giờ, phút, giây làm đơn vị tính. Anh lấy cuốn bút ký nhiếp ảnh của mình ra, trên đó có ghi chép tỉ mỉ thời gian chụp từng bức ảnh, chính xác đến từng phút. Anh nhận ra, chênh lệch giữa giá trị thời gian trên hai bức ảnh và khoảng thời gian cách quãng giữa hai lần chụp thực tế là đồng nhất. Rất rõ ràng, cuộn phim này đang ghi lại thời gian trôi đi với tốc độ bình thường trong hiện thực theo hướng nghịch đảo. Uông Diểu lập tức hiểu ra nó là cái gì. Một bộ đếm ngược thời gian. Bắt đầu từ 1200 tiếng đồng hồ, hiện tại vẫn còn lại 1194 tiếng. Hiện tại, không phải, đó là thời khắc chụp xong tấm ảnh cuối cùng trong cuộn phim. Bộ đếm ngược này vẫn còn tiếp tục chứ? Uông Diểu ra khỏi phòng tối, lấy một cuộn phim đen trắng mới lắp vào chiếc Leica, chụp nhanh vài bức trong nhà, cuối cùng lại ra ban công chụp mấy bức ngoại cảnh. Sau khi chụp hết cuộn phim, anh lấy nó ra khỏi máy, chui luôn vào phòng tối tráng rửa. Trên những tấm phim đã tráng, những con số ấy không ngừng hiển hiện trên nền phim như những bóng ma, tấm đầu tiên là 1187:27:39, từ lúc chụp tấm cuối cùng của cuộn phim trước đến tấm đầu tiên của cuộn phim này, vừa khéo cách chừng ấy thời gian. Những tấm sau đó, thời gian cách nhau chừng ba bốn giấy, 1187:27:35, 1187:27:31, 1187:27:27, 1187:27:24… là khoảng thời gian gián cách lúc anh chụp nhanh. Bộ đếm ngược vẫn đang tiếp tục. Uông Diểu lại lắp phim mới vào máy ảnh, chụp loạn xạ thật nhanh, có mấy tấm anh còn cố ý đậy nắp ống kính vào để chụp. Khi Uông Diểu chụp xong cuộn phim lấy ra, vợ con anh đã về. Trước khi đi tráng rửa, anh lắp cuộn phim thứ ba vào, đưa máy ảnh cho vợ: “Này, em chụp hết cuộn phim này đi.” “Chụp cái gì?” Vợ anh kinh ngạc nhìn chồng. Trước đây, anh tuyệt đối không cho phép bất cứ ai động vào máy ảnh của mình, tất nhiên vợ và con trai anh cũng chẳng hứng thú gì với món đồ chơi ấy, trong mắt bọn họ, đó chỉ là một món đồ cổ vô vị tốn mất hai vạn tệ mua về. “Cái gì cũng được, cứ chụp bừa đi.” Uông Diểu nhét máy ảnh vào tay vợ rồi chui vào phòng tối. “Được rồi, Đậu Đậu, mẹ chụp ảnh cho con nhé.” Vợ anh hướng ống kính về phía đứa con. Trong đầu Uông Diểu đột nhiên hiện lên những con số tựa bóng ma kia, như một sợi dây treo cổ vắt ngang gương mặt con trai mình, anh bất giác khẽ run lên. “Đừng, đừng chụp con, chụp cái gì khác đi.” Cửa trập “lạch xạch” một tiếng, vợ anh chụp tấm ảnh đầu tiên, sau đó kêu lên: “Sao không ấn được nữa thế này?” Uông Diểu dạy vợ gạt một cái cần, “Thế này, mỗi lần đều phải lên phim.” Sau đó, anh chui vào phòng tối. “Thật phiền phức.” Người vợ bác sĩ của anh không thể hiểu nổi, tại sao trong thời đại ngày nay, khi máy ảnh kỹ thuật số có khả năng chụp ảnh hàng chục megapixel đã đầy rẫy, lại có người dùng cái món đồ chơi đắt tiền đã hết thời này, vả lại còn chụp bằng phim đen trắng nữa. Cuộn phim đã được tráng ra, giơ lên ánh đèn đỏ mờ mờ, Uông Diểu thấy bộ đếm ngược thời gian như một bóng ma kia vẫn đang tiếp tục trên những tấm ảnh anh chụp bừa, bao gồm cả mấy tấm đã đóng nắp ống kính lại mà chụp đều hiển thị rõ ràng: 1187:19:06, 1187:19:03, 1187:18:59, 1187:18:56… Vợ anh gõ cửa phòng tối, báo rằng đã chụp xong, Uông Diểu ra cửa giật lấy máy ảnh, lúc tháo cuộn phim ra, tay anh rõ ràng đang run lên. Anh mặc kệ ánh mắt kỳ lạ của vợ, cầm cuộn phim lại quay vào phòng tối chốt cửa thật chặt. Anh làm rất lộn xộn, thuốc hiện ảnh, thuốc giữ ảnh vương vãi đầy đất, cuộn phim nhanh chóng được tráng ra, anh nhắm cả hai mắt lại thầm cầu khấn: đừng xuất hiện, cho dù là gì chăng nữa, cũng đừng xuất hiện lúc này, đừng đến lượt… Anh dùng kính lúp soi dọc theo cuộn phim ướt nhẹp, thấy bộ đếm giờ ngược đã biến mất, trên tấm phim chỉ có cảnh tượng trong nhà mà vợ anh chụp, do tốc độ cửa trập thấp, những tấm ảnh thao tác thiếu chuyên nghiệp do cô chụp ra đều mờ mịt, nhưng Uông Diểu lại cảm thấy đây là những tấm ảnh đẹp nhất mà anh từng được xem. Uông Diểu ra khỏi phòng tối, thở phào nhẹ nhõm, bấy giờ mới phát hiện mồ hôi lạnh đã đầm đìa khắp người. Vợ anh đã vào bếp nấu cơm, con trai cũng vào phòng nó chơi, anh một mình ngồi xuống xô pha, bắt đầu tĩnh tâm suy nghĩ. Trước tiên, những con số có dấu hiệu của trí tuệ nhân tạo, ghi lại chính xác dòng chảy thời gian trong những khoảng thời gian khác nhau giữa các lần chụp ảnh này không thể nào được ghi sẵn trên cuộn phim, mà chỉ có thể là sức mạnh nào đó đã khiến nó lộ sáng, vậy đó là gì? Máy ảnh có vấn đề ư? Hay một thiết bị nào đó, vô tình hoặc cố ý, đã được lắp vào trong chiếc máy? Anh tháo ống kính, mở máy ảnh ra, dùng kính lúp cẩn thận quan sát bên trong chiếc máy ảnh, kiểm tra từng bộ phận bóng loáng không dính một hạt bụi, nhưng không phát hiện ra điều gì khác thường. Vậy thì, liên tưởng đến mấy bức ảnh chụp khi đóng nắp ống kính lại, nguồn cảm quang rất có khả năng là loại tia bức xạ nào đó có lực xuyên thấu rất mạnh từ bên ngoài, nhưng điều này là không thể về mặt kỹ thuật: nguồn phát xạ ở đâu? Làm sao lại nhắm được chuẩn vào máy ảnh? Ít nhất với trình độ kỹ thuật hiện tại, loại lực lượng này là siêu nhiên. Để xác nhận lại là bộ đếm giờ ma quái kia đã biến mất, Uông Diểu lắp vào chiếc Leica một cuộn phim nữa, bắt đầu chụp bừa từng tấm từng tấm một. Lần này, khi cuộn phim được tráng xong, vừa bình tĩnh được đôi chút anh lại bị đẩy đến ranh giới của điên rồ: bộ đếm giờ ma quái kia lại xuất hiện, từ thời gian hiển thị trên tấm phim, có thể thấy nó không hề dừng lại, chỉ là không hiện ra trên cuộn phim vợ anh chụp mà thôi. 1186:34:13, 1186:34:02, 1186:33:46, 1186:33:35… Uông Diểu lao ra khỏi phòng tối, chạy ra khỏi nhà, gõ cửa nhà hàng xóm, người ra mở cửa là giáo sư Trương đã nghỉ hưu. “Bác Trương, nhà bác có máy ảnh không? Ừm, không cần loại máy kỹ thuật số, tôi muốn dùng loại chụp phim ấy!” “Nhiếp ảnh gia mà lại mượn máy của tôi hả? Cái máy hơn hai vạn tệ kia hỏng rồi à? Tôi chỉ có máy ảnh số thôi… cậu không khỏe à? Sắc mặt sao mà khó coi vậy.” “Cho tôi mượn một chút.” Ông Trương nhanh chóng lấy ra một chiếc máy ảnh kỹ thuật số hiệu Kodak rất bình thường. “Đây, mấy tấm bên trong đó xóa đi là được…” “Cảm ơn!” Uông Diểu hấp tấp cầm lấy máy ảnh và phim, vội vàng chạy về nhà. Thực ra, trong nhà anh còn có ba chiếc máy phim và một chiếc máy số, nhưng Uông Diểu cảm thấy mượn từ nơi khác về đáng tin cậy hơn. Anh nhìn hai chiếc máy ảnh và mấy cuộn phim đen trắng để trên xô pha, ngẫm nghĩ giây lát, rồi lại lắp cuộn phim vào chiếc Leica, sau đó đưa chiếc máy ảnh kỹ thuật số cho vợ đang dọn mâm cơm. “Nhanh lên, chụp vài tấm đi, giống như lúc nãy ấy!” “Làm cái gì vậy? Nhìn sắc mặt anh kìa… anh bị sao vậy ạ?!” Vợ Uông Diểu kinh hoàng nhìn anh. “Em không cần lo, chụp đi!” Vợ anh đặt đĩa thức ăn trên tay xuống, đi tới nhìn chồng, vẻ hoảng sợ trong ánh mắt lại nhuốm thêm phần lo âu. Uông Diểu dúi chiếc Kodak vào tay đứa con sáu tuổi đang đi tới chuẩn bị ăn cơm, “Đậu Đậu, con chụp hộ bố. Ấn cái nút này này, đúng, đây là một tấm; ấn thêm lần nữa, đúng rồi, lại thêm một tấm nữa; cứ vậy mà chụp liên tục, chụp chỗ nào cũng được.” Con trai anh nhanh chóng nắm bắt được, thằng nhỏ rất thích thú, chụp nhanh vèo vèo. Uông Diểu quay người cầm chiếc Leica đang để trên ghế xô pha lên rồi cũng bắt đầu chụp, hai bố con cứ “lạch xạch, lạch xạch” chụp như điên, bỏ lại bà mẹ lung túng giữa ánh đền flash chớp nháy, nước mắt trào ra. “Uông Diểu, em biết gần đây áp lực công việc của anh rất lớn, anh đừng…” Uông Diểu chụp hết cuộn phim trong máy Leica, lại giằng chiếc máy ảnh kỹ thuật số trên tay con trai. Anh ngẫm nghĩ một lúc, rồi đi vào phòng ngủ để thoát khỏi sự quấy rầy của vợ, tự mình dùng máy kỹ thuật số chụp thêm mấy tấm. Lúc chụp, anh dùng ống ngắm quang học chứ không nhìn màn hình tinh thể lỏng, vì sợ nhìn thấy kết quả, tuy rằng sớm muộn gì cũng phải xem ảnh. Uông Diểu lấy cuộn phim ra khỏi máy Leica chui vào phòng tối, đóng chặt cửa lại rồi bắt đầu tráng rửa. Làm xong xuôi, anh nhìn kỹ lại mấy tấm phim, vì tay đang run rẩy, anh buộc phải dùng cả hai tay cầm kính lúp… Trên tấm phim, bộ đếm giờ ma quái vẫn đang tiếp tục. Uông Diểu xông ra khỏi phòng tối, bắt đầu kiểm tra ảnh trong chiếc máy kỹ thuật số, trên màn hình LCD, trong những tấm ảnh kỹ thuật số vừa chụp, phần con trai anh chụp thì không có bộ đếm giờ ngược; còn những tấm anh chụp, bộ đếm giờ lại hiện lên rõ mồn một, đồng thời thay đổi đồng bộ với những con số trên phim âm bản. Uông Diểu sử dụng các máy ảnh khác nhau để chụp, mục đích là muốn loại trừ khả năng vấn đề nằm ở máy ảnh hoặc phim, nhưng việc anh vô ý để con trai chụp ảnh, cộng với cuộn phim vợ anh chụp lúc trước, đã làm nảy ra một kết quả kỳ dị hơn: khi dùng máy ảnh khác nhau và các cuộn phim khác nhau để chụp, người khác chụp thì bình thường, chỉ có những bức ảnh do anh chụp mới xuất hiện bộ đếm giờ ma quái kia! Uông Diểu tuyệt vọng túm lấy đống phim, như tóm cả đàn rắn đang cuộn xoắn lại với nhau, hoặc như một sợi dây thong lọng khó lòng giằng ra nổi. Anh biết, chỉ với sức của mình thì không thể giải quyết được vấn đề này, nhưng phải đi tìm ai đây? Các đồng sự ở trường đại hoc và viện nghiên cứu thì không được, bọn họ cũng giống anh, đều là những người tư duy theo lối kỹ thuật; mà trực giác lại cho anh biết, chuyện này đã nằm ngoài phạm vi kỹ thuật rồi. Anh nghĩ đến Đinh Nghị, nhưng hiện tại, chính anh ta cũng đang có nguy cơ suy sụp tinh thần. Cuối cùng, anh nhớ đến Biên giới Khoa học, đó là một nhóm người có suy nghĩ sâu sắc, tư duy cởi mở. Nghĩ đoạn, anh bèn bấm số điện thoại của Thân Ngọc Phi. “Tiến sĩ Thân, tôi có chút chuyện cần phải tới chỗ cô một chuyến.” Uông Diểu gấp gáp nói. “Đến đi.” Thân Ngọc Phi nói xong hai chữ ấy liền dập máy luôn. Uông Diểu lấy làm kinh ngạc, bình thường Thân Ngọc Phi nói năng cũng rất vắn tắt, đến nỗi một số người trong tổ chức Biên giới Khoa học còn gọi cô ta là “nữ Hemingway”. Nhưng lần này, không ngờ cô ta còn chẳng buồn hỏi là chuyện gì, khiến Uông Diểu không biết nên cảm thấy được an ủi hay càng thêm bất an nữa. Anh bỏ đống phim âm bản vào một túi xách, mang theo cả máy ảnh kỹ thuật số, lao khỏi nhà trong ánh mắt lo âu của vợ. Vốn dĩ anh có thể lái xe tự đi, nhưng dù trong thành phố đèn đuốc sáng rực này, anh cũng muốn có người bầu bạn trên đường, nên đã gọi một chiếc tắc xi. Thân Ngọc Phi sống ở một khu biệt thự cao cấp gần tuyến tàu điện ngầm Tân Thành, ở đây ánh đèn đã thưa thớt hơn nhiều, các nhóm biệt thự quây xung quanh mấy hồ nhân tạo nhỏ có thể câu cá được, đêm về cũng có chút cảm giác thôn dã. Thân Ngọc Phi hiển nhiên rất giàu có, nhưng Uông Diểu bấy lâu vẫn không hiểu tài sản của cô ta ở đâu ra, vị trí nghiên cứu trước đây và cả chức vụ hiện tại của cô ta ở công ty đều không thể kiếm được nhiều tiền đến thế. Có điều, bên trong biệt thự của cô ta lại không có vẻ gì xa hoa, đó là một địa điểm tụ họp của Biên giới Khoa học, bài trí giống như một thư viện cỡ nhỏ, có cả phòng hội thảo. Trong phòng khách, Uông Diểu gặp chồng Thân Ngọc Phi là Ngụy Thành. Người đàn ông bốn mươi này có vẻ bề ngoài của một trí thức đôn hậu, hiểu biết của Uông Diểu về anh ta chỉ giới hạn ở họ tên, lúc giới thiệu, Thân Ngọc Phi cũng chỉ nói có thế. Hình như anh ta không đi làm, cả ngày chỉ ở nhà, hoàn toàn không hứng thú gì với các cuộc thảo luận của Biên giới Khoa học, cũng đã quá quen với việc đông đảo các học giả ra ra vào vào nhà mình. Nhưng anh ta không phải kẻ vô công rỗi nghề, rõ ràng cũng nghiên cứu thứ gì đó tại gia, cả ngày đều đắm chìm trong suy tư, thấy ai đến cũng chỉ hờ hững chào hỏi rồi trở về căn phòng trên gác, hầu hết thời gian trong ngày anh ta đều ở trong đó. Một lần, Uông Diểu lên lầu vô ý liếc nhìn vào qua cánh cửa hé mở, trông thấy một thứ kỳ lạ: một dàn máy tính cỡ trung hiệu HP(*). Anh không thể nhìn lầm được, vì thiết bị này giống hệt như dàn ở Trung tâm nghiên cứu nano nơi anh làm việc, vỏ máy màu xám đen, là mẫu RX8620 mới xuất xưởng bốn năm trước. Để thiết bị giá trị hơn triệu nhân dân tệ trong nhà có vẻ rất kỳ quặc, hằng ngày, Ngụy Thành ôm rịt lấy nó một mình, rốt cuộc là muốn làm gì? (*) Minicomputer hay midrange computer: đây là loại máy tính tầm trung, nhỏ hơn máy tính lớn (mainframe) nhưng tốc độ xử lý thì mạnh hơn máy tính cá nhân rất nhiều lần. “Ngọc Phi đang dở tay chút việc trên kia, anh đợi một lát nhé.” Ngụy Thành nói dứt lời bèn đi lên gác. Uông Diểu vốn định đợi, nhưng thực tình là anh không thể ngồi yên được nữa nên cũng lên theo, liền trông thấy Ngụy Thành đang định bước vào căn phòng để chiếc máy tính kia. Anh ta trông thấy Uông Diểu đi lên theo, dường như cũng không hề bực bội, chỉ tay vào một căn phòng đối diện nói: “Ừm, chính là ở trong phòng đó đó, anh vào tìm cô ấy đi.” Uông Diểu gõ cửa, nhưng cửa không khóa, còn hé ra một khe, anh nhìn thấy Thân Ngọc Phi đang ngồi trước máy vi tính chơi trò chơi, điều khiến Uông Diểu kinh ngạc là cô ta lại đeo một bộ thiết bị V. Đây là món đồ chơi rất phổ biến trong giới mê game, thứ này bao gồm một kính hiển thị panorama và một bộ trang phục cảm ứng có thể khiến cơ thể người chơi cảm giác được những đòn đánh, những cú đâm, lửa đốt trong trò chơi, có thể sinh ra cảm giác nóng bức và lạnh lẽo, thậm chí còn có thể mô phỏng chân thực cảm giác thân thể phơi trần trong gió tuyết. Uông Diểu bước tới sau lưng Thân Ngọc Phi, vì trò chơi hiển thị theo kiểu góc nhìn toàn cảnh trong kính đeo mắt nên anh không thấy gì trên màn hình. Lúc này, Uông Diểu nghĩ đến việc Sử Cường bảo anh ghi nhớ địa chỉ trang web và email, vô ý liếc qua màn hình, tên tiếng Anh trên giao diện đăng nhập của trò chơi rất đặc biệt, anh đã nhớ kỹ. Thân Ngọc Phi gỡ kính hiển thị panorama xuống, rồi cởi bộ đồ cảm ứng, đeo cặp kính to tướng lên gương mặt gầy đét, nét mặt vẫn không hề bộc lộ cảm xúc gì, chỉ im lặng gật đầu với Uông Diểu, như đang đợi anh lên tiếng. Uông Diểu lấy đống phim ra, bắt đầu kể lại chuyện kỳ lạ xảy ra với mình, Thân Ngọc Phi chăm chú lắng nghe, nhưng chỉ cầm đống phim lên liếc qua vài ba lượt, không hề xem kỹ, điều này khiến Uông Diểu rất kinh ngạc, hiện tại anh đã có thể tiến thêm một bước nữa, xác định được Thân Ngọc Phi rõ ràng biết chuyện gì đó. Điều này gần như khiến anh ngừng lời, có điều, Thân Ngọc Phi lại mấy lần gật đầu ra hiệu cho anh kể tiếp, anh mới kể đến hết câu chuyện. Lúc này, Thân Ngọc Phi mới nói ra câu đầu tiên kể từ lúc họ gặp mặt: “Dự án nano mà anh lãnh đạo đến đâu rồi?” Câu hỏi chẳng liên quan này lại khiến Uông Diểu hết sức ngạc nhiên. “Dự án nano? Nó thì có can hệ gì?” Anh chỉ đống phim. Thân Ngọc Phi không nói gì, chỉ lặng lẽ nhìn anh, đợi anh trả lời câu hỏi của mình. Đây chính là phong cách nói chuyện của cô ta, xưa nay chưa bao giờ nói thừa một chữ. “Ngừng việc nghiên cứu lại.” Thân Ngọc Phi nói. “Sao hả?” Uông Diểu ngỡ mình nghe nhầm, “Cô nói gì cơ?” Thân Ngọc Phi im lặng, không nhắc lại lời mình vừa nói. “Dừng lại? Đó là dự án trọng điểm của nhà nước đấy!” Thân Ngọc Phi vẫn không nói gì, chỉ nhìn anh bằng ánh mắt bình thản. “Cô cũng phải nói ra nguyên nhân chứ!” “Dừng lại thử xem.” “Rốt cuộc cô biết chuyện gì rồi? Nói cho tôi đi!” “Những gì tôi có thể nói với anh chỉ có vậy thôi.” “Dự án không thể dừng, cũng không có khả năng dừng lại.” “Dừng lại thử xem.” Cuộc trò chuyện ngắn gọn về bộ đếm giờ ma quái đến đây là chấm dứt, sau đó, cho dù Uông Diểu cố gắng đến mấy, Thân Ngọc Phi cũng không hé răng một chữ nào liên quan đến chuyện này nữa, chỉ lặp đi lặp lại câu đó: “Dừng lại thử xem.” “Giờ thì tôi hiểu rồi, Biên giới Khoa học không phải là một tổ chức giao lưu học thuật về nghiên cứu cơ sở như các người tuyên bố, quan hệ của nó với hiện thực còn phức tạp hơn tưởng tượng của tôi nhiều lắm.” Uông Diểu nói. “Ngược lại, anh có ấn tượng này là bởi vì thứ mà Biên giới Khoa học đề cập đến còn chuyên sâu hơn những gì anh tưởng tượng nhiều lắm.” Uông Diểu tuyệt vọng, không chào từ biệt mà đứng dậy đi luôn, Thân Ngọc Phi lẳng lặng tiễn anh đến tận cổng ngoài, nhìn anh lên tắc xi. Đúng lúc này, một chiếc khác lao vút tới, phanh kít lại ngay trước cổng. Một người đàn ông xuống xe, nhờ ánh đèn hắt ra từ bên trong biệt thự, Uông Diểu chỉ liếc nhìn đã nhận ra ngay. Người này là Phan Hàn, một trong những nhân vật nổi danh nhất của tổ chức Biên giới Khoa học. Là một nhà sinh vật, anh ta đã dự đoán thành công việc sử dụng thực phẩm biến đổi gien trong một thời gian dài sẽ dẫn đến biến dị gien di truyền của thế hệ sau, còn dự đoán rằng cây trồng biến đổi gien có thể sẽ gây nên thảm họa sinh thái. Khác với những học giả chỉ biết nói suông dọa nạt người đời, dự đoán của anh ta đầy những chi tiết cụ thể, vả lại đều lần lượt được chứng thực, chuẩn xác tới mức khiến người ta phải kinh hãi, đến nỗi còn có tin đồn rằng anh ta là người đến từ tương lai. Một sáng kiến khác khiến anh ta nổi danh là xây dựng được xã hội thực nghiệm đầu tiên trong nước. Khác với những xã đoàn kiểu Utopia, đặt tôn chỉ trở về với tự niên ở phương Tây, “Điền viên Trung Hoa” của anh ta không nằm ở những vùng hoang vu hẻo lánh mà nằm giữa thành phố lớn nhất. Xã đoàn không có tài sản gì, mọi vật phẩm cần cho cuộc sống, bao gồm cả thực phẩm đều đến từ rác thải thành thị. Khác với dự đoán của mọi người lúc ban đầu, “Điền viên Trung Hoa” chẳng những có thể sinh tồn, mà còn nhanh chóng phát triển lớn mạnh, thành viên cố định đã lên đến hơn ba nghìn người, những người thỉnh thoảng đến thể nghiệm cuộc sống lại càng nhiều không đếm xuể. Dựa vào hai thành tựu này, tư tưởng xã hội của Phan Hàn cũng ngày càng có sức ảnh hưởng. Anh ta cho rằng, cách mạng khoa học kỹ thuật là một thứ bệnh của xã hội loài người, sự phát triển mang tính bùng nổ của kỹ thuật tương đương với sự khuếch tán nhanh chóng của tế bào ung thư, kết quả cuối cùng đều là tiêu hao hết chất dinh dưỡng của vật chủ, phá hoại các cơ quan, dẫn đến các chết của vật chủ. Anh ta chủ trương loại bỏ những kỹ thuật “thô bạo” như năng lượng hóa thạch và năng lượng hạt nhân, duy trì các kỹ thuật “ôn hòa” như năng lượng Mặt trời và thủy điện nhỏ, đồng thời từng bước giải tán thành thị, phân bố đều nhân khẩu vào các thôn trấn tự cấp tự túc, lấy nền tảng là “kỹ thuật ôn hòa”, xây dựng một “xã hội nông nghiệp mới.” “Anh ta có nhà không?” Phan Hàn chỉ lên tầng hai hỏi. Thân Ngọc Phi không trả lời, im lặng chắn trước mặt anh ta. “Tôi cần cảnh cáo anh ta, đương nhiên cũng là cảnh cáo cô, đừng ép chúng tôi!” Phan Hàn lạnh lùng nói. Thân Ngọc Phi vẫn không trả lời anh ta, chỉ bảo với Uông Diểu đang ngồi trong tắc xi: “Đi đi, không có chuyện gì đâu.” Sau đó, cô ta ra hiệu bảo tài xế cho xe lăn bánh. Sau khi xe chạy, Uông Diểu cũng không nghe thấy họ nói gì nữa, anh ngoảnh đầu lại nhìn từ xa, dưới ánh đèn, Thân Ngọc Phi vẫn không cho Phan Hàn đi vào biệt thự. Về đến nhà thì đã là nửa đêm, Uông Diểu xuống tắc xi ở cổng tiểu khu, một chiếc Volkswagen Santana màu đen phanh lại sát cạnh anh, cửa sổ xe hạ xuống, khói thuốc phun ra, là Sử Cường, thân hình to cao của anh ngồi chật cứng cả ghế lái. “Này, thầy giáo Uông, viện sĩ Uông! Mấy hôm nay khỏe không?” “Anh đang theo dõi tôi à? Đúng là vô vị!” “Đừng hiểu lầm, nếu tôi cứ thế đi thẳng qua thì đã xong rồi, ra chào hỏi một câu cho phải phép anh lại hiểu lầm thành tâm địa xấu xa.” Sử Cường trưng ra điệu cười nhăn nhở thường thấy của gã, bộ dạng rất vô lại, “Sao hả, ở bên đó có thấy thông tin gì hữu dụng không, trao đổi một chút nhé?” “Tôi đã nói rồi, tôi và các anh không có liên quan gì cả, sau này xin đừng theo dõi tôi nữa!” “Phì…” Sử Cường cho xe chạy, “Làm như tôi thèm kiếm tiền làm thêm hai đêm nay lắm ấy, bỏ lỡ cả trận bóng rồi.” Uông Diểu đi vào nhà, vợ con anh đã ngủ, anh nghe thấy vợ mình trằn trọc trên giường, ú ớ tiếng gì nghe không rõ lắm, hành động quái dị của chồng hôm nay không hiểu đã mang đến cho cô cơn ác mộng gì. Uông Diểu uống hai viên thuốc an thần, nằm lên giường, phải mất một lúc lâu mới khó nhọc chìm vào giấc mộng. Giấc mộng của anh rất lộn xộn, nhưng trong đó có một thứ luôn luôn tồn tại: bộ đếm giờ ma quái. Kỳ thực, bộ đếm giờ ấy xuất hiện trong giấc mộng là điều mà Uông Diểu đã đoán được từ trước. Trong mơ, anh điên cuồng đánh vào bộ đếm giờ lơ lửng giữa không trung, xé nó, cắn nó, nhưng tất cả mọi đòn tấn công của anh đều xuyên qua nó, nó vẫn cứ lơ lửng giữa giấc mơ, trôi đi một cách kiên định. Uông Diểu thấy bức bối khó chịu vô cùng, rốt cuộc cũng tỉnh dậy khỏi giấc mơ. Anh mở mắt. nhìn lên trần nhà tối mờ, ánh đèn đường bên ngoài xuyên qua tấm rèm cửa sổ, hắt lên đó một quầng sáng ảm đạm. Nhưng có một thứ đã từ trong giấc mộng theo anh đến với thế giới hiện thực: bộ đếm giờ ma quái. Bộ đếm giờ ấy vẫn hiện ra trước đôi mắt mở to của anh, con số rất nhỏ, nhưng rất sáng, phát ra một thứ ánh sáng chói lòa. 1185:11:34, 1185:11:33, 1185:11:32, 1185:11:31… Uông Diểu gục gặc đầu, nhìn thấy mọi đồ vật lờ mờ trong phòng ngủ, xác nhận lại rằng mình đã tỉnh giấc, nhưng bộ đếm giờ vẫn không biến mất. Anh nhắm mắt lại, song bộ đếm giờ vẫn hiển thị trong tầm mắt tối đen như mực của anh, như thủy ngân phát sáng trên bộ lông của thiên nga đen. Anh lại mở mắt ra lần nữa, dụi dụi hai mắt, bộ đếm giờ vẫn không biến đi, dù anh nhìn đi đâu, chuỗi số ấy vẫn nghênh ngang chiếm vị trí chính giữa trường nhìn. Một nỗi sợ không tên khiến Uông Diểu ngồi bật dậy, bộ đếm giờ vẫn bám riết lấy anh. Anh nhảy xuống giường loa ra trước cửa sổ, kéo rèm, mở toang cánh cửa ra. Thành phố đang say ngủ bên ngoài vẫn rực rỡ ánh đèn, bộ đếm giờ vẫn tiếp tục hiển thị trên cảnh nền rộng rãi ấy, tựa như phụ đề trong phim vậy. Uông Diểu chợt thấy nghẹt thở, không kìm được la lên một tiếng kêu trầm trầm kinh hãi. Trước những lời hỏi han đầy hoảng hốt của người vợ vừa giật mình tỉnh giấc, anh cố gắng trấn tĩnh lại, an ủi vợ rằng không có chuyện gì, rồi lại nằm lên giường nhắm mắt, khó nhọc vượt qua nốt phần còn lại của đêm dưới ánh sáng từ bộ đếm giờ ma quái kia. Buổi sớm thức dậy, Uông Diểu cố gắng ép mình tỏ ra bình thường trước mặt người nhà, nhưng vợ anh vẫn nhận ra sự lạ, hỏi mắt anh có bị làm sao không? Có phải không nhìn rõ hay không? Sau bữa sáng, Uông Diểu xin nghỉ ở Trung tâm nghiên cứu nano, lái xe đến bệnh viện. Dọc đường, bộ đếm giờ ma quái kia vẫn lạnh lùng vắt ngang phía trước thế giới hiện thực trong mắt anh, còn biết tự động điều tiết độ sáng để hiện rõ trên mọi cảnh nền khác nhau. Uông Diểu thậm chí còn nhìn thẳng vào Mặt trời mới mọc, những mong bộ đếm giờ kia bị ánh sáng chói lòa làm cho tạm thời biến mất một lúc, nhưng vô hiệu, hàng số ma quỷ ấy vẫn hiện ra phía trên Mặt trời, lúc này nó không tăng độ sáng lên nữa, mà biến thành màu đen, trông còn đáng sợ hơn. Bệnh viện Đồng Nhân rất khó lấy số, Uông Diểu trực tiếp đến tìm một người bạn cùng lớp với vợ, đó là một chuyên gia về mắt rất nổi tiếng. Anh không nói bệnh tình, mà yêu cầu bác sĩ kiểm tra mắt mình trước. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng hai mắt của Uông Diểu, bác sĩ nói anh ta không phát hiện ra triệu chứng bệnh gì, mắt Uông Diểu hoàn toàn bình thường. “Mắt tôi cứ luôn nhìn thấy một thứ, dù nhìn vào đâu thì thứ ấy vẫn lù lù hiện ra.” Uông Diểu nói. Trong lúc anh nói, những con số cũng nằm vắt ngang trước mặt bác sĩ. 1175:11:34, 1175:11:33, 1175:11:32, 1175:11:31… “Bệnh ruồi bay trước mắt(*).” Bác sĩ nói, đồng thời rút tờ đơn thuốc ra kê toa, “Bệnh mắt thường gặp ở tuổi của chúng ta, thủy tinh thể bị đục mờ. Không dễ chữa cho lắm, nhưng cũng không có gì nghiêm trọng cả, tôi kê nước muối i ốt với vitamin D nhé, có lẽ sẽ thuyên giảm, nhưng hy vọng không lớn lắm đâu. Có điều, thực sự là không có gì nghiêm trọng cả, chỉ cần anh quen rồi là sẽ không để ý đến những tạp vật trong trường nhìn của mình nữa, cũng không ảnh hưởng gì nhiều đến thị lực.” (*) Hay còn gọi là bệnh nổ đom đóm, đục dịch kính. “Bệnh ruồi nay trước mắt mà anh nói đó, những thứ… thứ ấy trông như thế nào?” “Không có quy tắc, tùy mỗi người mỗi khác, có lúc là những điểm đen nhỏ, có lúc thì giống như con nòng nọc.” “Nếu trông thấy một dãy số thì sao?” Bác sĩ dừng bút. “Anh trông thấy một dãy số?” “Đúng thế, nằm vắt ngang chính giữa trường nhìn.” Bác sĩ đẩy giấy và bút ra, nhìn anh với vẻ quan tâm: “Anh vừa bước vào tôi đã nhìn ra được, anh mệt mỏi quá độ rồi. Lần trước đi họp lớp, Lý Dao có kể với tôi rằng áp lực công việc của anh rất lớn. Đến tuổi của chúng ta thì cũng phải chú ý đấy, sức khỏe không coi thường được đâu.” “Ý anh nói, tình trạng của tôi là do nhân tố tinh thần?” Bác sĩ gật đầu, “Nếu là bệnh nhân bình thường, tôi đã đề nghị đến khoa Thần kinh rồi, nhưng kỳ thực cũng không cần thiết, không có gì nghiêm trọng cả, chỉ là mệt mỏi thôi. Nghỉ ngơi vài ngày đi, đi chơi mấy ngày cùng Lý Dao, với thằng nhỏ nữa, tên là gì ấy nhỉ, Đậu Đậu phải không? Yên tâm, sẽ nhanh hồi phục thôi.” 1175:10:02, 1175:10:01, 1175:10:00, 1175:09:59… “Tôi nói anh biết tôi nhìn thấy gì nhé, một bộ đếm giờ ngược! Nó đang nhảy chính xác từng giây, từng giây một! Đây có thể là do nhân tố tinh thần sao?” Bác sĩ cười khoan dung: “Có muốn biết nhân tố tinh thần có thể ảnh hưởng đến thị lực tới mức độ nào không? Tháng trước, chúng tôi chữa cho một cô bé, khoảng mười lăm mười sáu, cô bé đang trong lớp học đột nhiên không nhìn thấy gì nữa, hoàn toàn mất thị lực. Nhưng sau khi kiểm tra mọi thứ, đôi mắt hoàn toàn bình thường về mặt sinh lý. Về sau, chuyên gia bên khoa Thần kinh đã tiến hành trị liệu tâm lý cho cô bé một tháng, mắt côn bé lại đột nhiên khôi phục thị lực bình thường.” Uông Diểu biết ở đây nữa chỉ lãng phí thời gian, bèn đứng dậy định ra về, trước khi về còn hỏi thêm một câu cuối cùng: “Được rồi, thôi không nói chuyện mắt tôi nữa, tôi chỉ có một câu hỏi muốn thỉnh giáo anh: có ngoại lực gì có thể tác động từ xa khiến người ta nhìn thấy một thứ gì đó không?” Vị bác sĩ suy nghĩ một lúc: “Có, đợt trước tôi từng tham gia tổ bác sĩ của tàu Thần Châu 19, một phi hành gia báo cáo rằng, lúc họ làm việc bên ngoài không gian đã trông thấy nhưng chớp sáng không hề tồn tại. Trước đó, những phi hành gia trên Trạm vũ trụ quốc tế ISS cũng báo cáo tình trạng tương tự, đều là vào những lúc Mặt trời hoạt động mạnh, những hạt cao năng lượng trong vũ trụ đập vào võng mạc, khiến người ta trông thấy những tia chớp ảo. Có điều, anh nói rằng mình trông thấy những con số, còn là một bộ đếm giờ ngược nữa thì nhất định không thể do nguyên nhân này được.” Uông Diểu ngơ ngẩn ra khỏi bệnh viện, bộ đếm giờ ở phía trước mặt anh, tựa như anh đang đi theo nó, đi theo một oan hồn cứ nhằng nhẵng quấn chặt lấy anh. Anh mua một cặp kính râm đeo lên để người khác không nhìn thấy ánh mắt mơ màng như người mộng du của mình. Uông Diểu đi vào phòng thí nghiệm chính của Trung tâm nghiên cứu nano, trước khi qua cửa, anh không quên gỡ cặp kính râm xuống, mặc dù vậy, những đồng nghiệp tình cờ chạm mặt đều lộ vẻ lo lắng trước trạng thái tinh thần của anh. Chính giữa phòng thí nghiệm lớn, Uông Diểu trông thấy hộp đen phản ứng vẫn đang vận hành. Trung tâm của thiết bị khổng lồ này là một khối cầu, từ đó mọc ra rất nhiều ống dẫn. Loại vật liệu nano siêu bền biệt danh “Phi Đao” đã sản xuất được, nhưng lại phải dùng kỹ thuật xây dựng phân tử để chế tạo, tức là dùng các đầu dò để tác động, lắp ghép các phân tử vật liệu lại như xếp chồng những viên gạch lên nhau, công nghệ này tiêu tốn rất lớn, sản phẩm có thể nói là báu vật quý nhất thế giới, không thể tiến hành sản xuất số lượng lớn được. Điều mà phòng thí nghiệm này đang làm, chính là thử tìm ra một loại phản ứng xúc tác để thay thế phương pháp xây dựng phân tử, khiến một lượng lớn phân tử sau phản ứng sẽ tự xếp thành cấu trúc hoàn chỉnh. Thí nghiệm được tiến hành trong hộp đen phản ứng, thiết bị này có thể tiến hành phản ứng với các tổ hợp phân tử có số lượng thành phần khổng lồ, những tổ hợp này nếu như thao tác bằng tay theo kiểu truyền thống thì có khi mất hơn trăm năm cũng làm không hết, nhưng lại có thể tiến hành tự động bên trong hộp đen phản ứng. Đồng thời, đây còn là một thiết bị kết hợp phản ứng thật với mô phỏng trên máy vi tính, khi phản ứng tổng hợp thực hiện đến một mức độ nhất định, máy tính sẽ dựa trên kết quả trong từng giai đoạn phản ứng để xây dựng mô hình mô phỏng của phản ứng tổng hợp, dùng mô hình mô phỏng thay thế tiến trình còn lại của phản ứng, nâng cao hiệu suất thí nghiệm lên đáng kể. Người phụ trách thí nghiệm trông thấy Uông Diểu vội vàng chạy tới, bắt đầu báo cáo một loạt các sự cố vừa xuất hiện với hộp đen phản ứng. Đây là chuyện dạo này anh luôn gặp phải mỗi lần đi làm. Hiện nay, hộp đen phản ứng đã liên tục vận hành hơn một năm, độ nhạy của rất nhiều thiết bị cảm biến bị suy giảm, sai lệch tăng cao,cần gấp rút dừng máy để duy tu bảo dưỡng. Nhưng Uông Diểu là nhà khoa học đứng đầu dự án này, lại kiên trì muốn làm xong nhóm tổ hợp thứ ba rồi mới dừng máy, các kỹ sư bất đắc dĩ đành phải thêm vào hộp đen phản ứng ngày càng nhiều các thiết bị bổ sung, đến nay thì bản thân những thiết bị bổ sung ấy cũng cần thu bổ sửa chữa, khiến cho cả nhóm dự án đều mệt nhoài. Nhưng người phụ trách vẫn dè dặt không nhắc đến chuyện dừng máy và tạm thời ngưng thí nghiệm, sợ Uông Diểu lại nổi giận đùng đùng như lần trước. Anh ta chỉ đem hết mọi khó khăn nói ra, song ý tứ đã rất rõ ràng. Uông Diểu ngẩng đầu nhìn hộp đen phản ứng, cảm thấy nó giống như một cái tử cung, các kỹ sư đang bận rộn quay xung quanh, cố gắng duy trì nó vận hành bình thường. In trên cảnh tượng này, là bộ đếm giờ ma quái kia. 1174:21:11, 1174:21:10, 1174:21:09, 1174:21:08… Dừng lại thử xem. Trong đầu Uông Diểu đột nhiên vang lên lời Thân Ngọc Phi. “Muốn thay đổi toàn diện hệ thống cảm biến ngoại vi cần bao lâu?” Anh hỏi. “Bốn đến năm ngày.” Người phụ trách thí nghiệm đột nhiên nhìn thấy hy vọng, vội vàng bổ sung thêm một câu: “Làm nhanh hơn, ba ngày là được, giám đốc Uông, tôi đảm bảo!” Mình không hề khuất phục, thiết bị quả thực cần bảo dưỡng, vì vậy mà thí nghiệm phải tạm thời dừng lại, không liên quan gì đến những chuyện khác. Uông Diểu thầm nhủ, sau đó quay sang nhìn người phụ trách qua những con số của bộ đếm giờ ma quái, “Dừng thí nghiệm lại, cho tắt máy để bảo dưỡng, cứ làm theo thời gian biểu mà anh nói.” “Vâng, giám đốc Uông, tôi sẽ nhanh chóng nộp cho anh phương án thay mới, đến chiều là có thể tắt máy được rồi.” Người phụ trách mừng rỡ nói. “Dừng luôn bây giờ đi.” Người phụ trách nhìn Uông Diểu như đang nhìn một người không quen biết, nhưng rồi lập tức lấy lại vẻ mừng rỡ, như sợ đánh mất cơ hội này vậy. Anh ta cầm điện thoại lên ra lệnh dừng máy. Vừa nghe lệnh, những nghiên cứu viên và kỹ sư đã mệt nhoài trong nhóm dự án bỗng chốc hăng hái lên, bắt đầu gạt hơn trăm công tắc phức tạp theo trình tự quy định, các màn hình giám sát lần lượt tối đen, cuối cùng, màn hình giám sát chính hiện ra trạng thái dừng máy. Gần như cùng lúc, bộ đếm giờ trước mắt Uông Diểu cũng ngừng nhảy số, con số cố định ở 1174:20:35. Mấy giây sau, dãy số nhấp nháy mấy lượt, rồi biến mất. Khi tái hiện trước mắt mình hiện thực không có bộ đếm giờ ma quái kia che phủ, Uông Diểu thở hắt ra như vừa thoát khỏi đáy nước. Anh uể oải ngồi xuống, nhưng ngay lập tức đã ý thức được bên cạnh còn có người đang nhìn mình. Anh nói với người phụ trách phòng thí nghiệm: “Nâng cấp hệ thống là nhiệm vụ của tổ thiết bị, người của tổ thí nghiệm các anh nghỉ ngơi mấy ngày cho thoải mái đi, đợt này mọi người đều vất vả rồi.” “Giám đốc Uông, anh cũng mệt mỏi quá rồi, ở đây có kỹ sư trưởng Trương trông chừng, anh về nhà nghỉ ngơi một chút đi.” “Đúng vậy, mệt quá rồi.” Uông Diểu uể oải nói, đợi anh ta đi khỏi, anh cầm điện thoại lên bấm số của Thân Ngọc Phi, chuông đổ một tiếng cô ta đã nghe máy. “Sau lưng các người là gì vậy?” Uông Diểu hỏi, cố gắng giữ giọng bình thản nhưng không được. Im lặng. “Khi bộ đếm giờ chạy hết sẽ có chuyện gì xảy ra?” Im lặng. “Cô có đang nghe không đó?” “Có.” “Vật liệu nano cường độ cao thì sao? Đây không phải là máy gia tốc hạt, chỉ là dự án nghiên cứu ứng dụng, đáng để chú ý thế sao?” “Cái gì đáng để chú ý không phải do chúng ta đoán định.” “Đủ rồi!” Uông Diểu gầm lên, cảm giác hoảng sợ và tuyết vọng trong lòng đột nhiên chuyển thành cơn giận điên cuồng, “Các người tưởng trò ảo thuật vớ vẩn này có thể gạt được tôi chắc? Có thể ngăn trở sự tiến bộ của công nghệ chắc? Tôi thừa nhận nhất thời không thể giải thích được về mặt kỹ thuật, nhưng đó là vì tôi vẫn chưa vòng ra được sau lưng cái tên ảo thuật gia đáng khinh bỉ kia mà thôi!” “Ý anh là, muốn nhìn thấy bộ đếm giờ ngược ấy ở cấp độ lớn hơn hả?” Câu nói của Thân Ngọc Phi làm Uông Diểu ngẩn ra giây lát, anh chưa chuẩn bị cho câu hỏi này, vì vậy đành cố ép mình bình tĩnh lại để khỏi lọt vào bẫy của đối phương. “Dẹp cái màn kịch ấy của cô đi. Cấp độ lớn hơn thì sao hả, các người cũng chỉ đang chơi trò ảo thuật mà thôi! Có thể chiếu ảnh toàn ký lên không trung, giống như NATO đã làm trong cuộc chiến lần trước, tia laser cường độ mạnh thậm chí còn có thể chiếu hình ảnh lên toàn bộ bề mặt mặt trăng nữa! Xạ thủ và Chủ nông trại thì phải có thể chơi đùa ở cấp độ mà sức người không thể vươn tới chứ, tỷ dụ như bộ đếm giờ ấy có thể hiển thị trên bề mặt của Mặt trời không hả?” Lời vừa dứt, Uông Diểu chợt kinh ngạc há hốc miệng, không ngờ trong lúc vô tình anh đã nói ra hai danh từ lẽ ra phải kiêng kỵ này, cũng may là anh chưa nói ra cái từ cần kiêng kỵ hơn nữa kia. Muốn tranh thủ thêm quyền chủ động, anh bèn tiếp lời: “Xét đến một số khả năng năng mà tôi còn chưa nghĩ đến, cho dù ở cấp độ Mặt trời, tên ảo thuật gia vô sỉ của các người vẫn có thể là đang diễn trò ảo thuật, sức mạnh ấy nếu muốn khiến người ta thực sự tin phục thì cấp độ hiển thị phải lớn hơn nữa kia.” “Vấn đề là anh có chịu đựng nổi hay không? Chúng ta là bạn, tôi muốn giúp anh thôi, đừng đi theo con đường của Dương Đông.” Nghe thấy cái tên này, Uông Diểu bất giác run lên, nhưng cơn giận bùng phát ngay sau đó lại khiến anh bất chấp tất cả: “Có thể chấp nhận lời khiêu chiến này không?” “Có thể.” “Cô muốn thế nào?” Giọng Uông Diểu trở nên yếu ớt. “Bên cạnh anh có máy tính lên mạng được không? Được, nhập địa chỉ này vào: http://www.qsl.net/bg3tt/zl/mesdm.htm, mở ra chưa hả? In trang web đó ra, mang theo bên người.” Uông Diểu thấy trên trang web chỉ có một bảng đối chiếu mã Morse. “Tôi không hiểu, đây là…” “Trong vòng hai ngày tới, nghĩ cách tìm ra một nơi có thể quan sát được bức xạ nền của vũ trụ. Cụ thể thì hãy đọc trong email tôi sẽ gửi cho anh ngay sau đây.” “Cái này… để làm gì?” “Tôi biết dự án nghiên cứu vật liệu nano đã đình lại, anh định khởi động lại nó à?” “Tất nhiên, ba ngày sau.” “Vậy thì bộ đếm giờ sẽ tiếp tục.” “Tôi sẽ nhìn thấy nó ở cấp độ nào?” Trầm mặc hồi lâu, người phụ nữ đang làm kẻ phát ngôn cho một sức mạnh nằm ngoài khả năng lý giải của con người kia lạnh lùng bịt kín mọi đường ra của Uông Diểu: “Ba ngày sau, tức là ngày 14, từ 1 giờ sáng đến 5 giờ sáng, cả vũ trụ sẽ nhấp nháy vì anh.” 4. Tam thể: Chu Văn Vương, Đêm dài Uông Diểu bấm số điện thoại của Đinh Nghị, sau khi đầu dây kia bắt máy, anh mới nhớ ra giờ đã là hơn một giờ sáng. “Tôi là Uông Diểu, thật xin lỗi, muộn thế này còn làm phiền.” “Không sao, tôi đang mất ngủ.” “Tôi… gặp phải một số chuyện, muốn nhờ anh giúp. Anh biết ở trong nước có nơi nào có thể quan trắc được bức xạ nền của vũ trụ không?” Uông Diểu khao khát được trút bầu tâm sự, nhưng ngay sau đó lại cảm thấy chuyện bộ đếm giờ ma quái kia lúc này vẫn không nên để nhiều người biết thì hơn. “Bức xạ nền vũ trụ, sao anh lại có nhã hứng với thứ này? Có vẻ như đúng là anh đã gặp phải một số chuyện rồi… Anh đi gặp mẹ Dương Đông chưa?” “À… thật xin lỗi, tôi quên mất.” “Không sao cả. Trong giới khoa học hiện nay, có rất nhiều người… cũng gặp phải một số chuyện như anh nói, tâm trí cứ để đâu đâu vậy, có điều tốt nhất anh vẫn nên đi thăm bà ấy, bà ấy tuổi cao rồi, lại không chịu thuê người giúp việc, nếu có việc gì phải tốn sức thì làm phiền anh giúp hộ… À, chuyện bức xạ nền vũ trụ ấy, anh có thể gặp mẹ của Dương Đông để hỏi, trước khi nghỉ hưu bà ấy là chuyên gia về vật lý thiên văn, rất thân thuộc với các cơ quan nghiên cứu ngành này ở trong nước.” “Được, hôm nay hết giờ làm tôi sẽ đi.” “Vậy tôi cảm ơn trước, tôi thật sự không thể nào đối mặt với bất cứ điều gì có liên quan đến Dương Đông nữa rồi.” Gọi xong cuộc điện thoại ấy, Uông Diểu ngồi trước máy tính, bắt đầu in bảng đối chiếu mã Morse đơn giản trên trang web đó ra. Lúc này, anh đã bình tĩnh lại, không tập trung vào bộ đếm giờ kia nữa mà dành thơi gian suy nghĩ về Biên giới Khoa học và Thân Ngọc Phi, nghĩ đến trò chơi trực tuyến mà cô ta đang tham gia. Về Thân Ngọc Phi, điều duy nhất mà anh có thể khẳng định là cô ta không phải loại người thích chơi game, ấn tượng duy nhất về người phụ nữ nói năng ngắn gọn như điện báo này là lạnh lùng, sự lạnh lùng của cô ta không giống với một số phụ nữ khác, không phải một tấm mặt nạ, mà là cái lạnh toát ra từ trong ra ngoài. Một cách vô thức, Uông Diểu luôn liên tưởng cô ta với hệ điều hành DOS đã biến mất từ lâu, một màn hình đen kịt trống rỗng, chỉ nhấp nháy một ký hiệu “C:\>” đơn giản đến không thể nào đơn giản hơn, bạn nhập cái gì vào nó sẽ trả về cái đó. Không thừa một chữ, cũng không thay đổi. Giờ đây, anh đã biết, phía sau ký hiệu “C:\>” ấy kỳ thực là một vực sâu không đáy. Cô ta thật sự có hứng chơi game, hơn nữa còn măc cả bộ thiết bị V vào chơi sao? Cô ta không có con cái, bộ thiết bị V ấy chỉ có thể là tự mua về để sử dụng, điều này thật sự hơi khó tin. Uông Diểu nhập địa chỉ trang web rất dễ nhớ của trò chơi đó vào trình duyệt: www.3body.xyz. Trên trang web nêu rõ trò chơi này chỉ chấp nhận phương thức chơi qua thiết bị V. Uông Diểu nhớ trong phòng giải trí dành cho nhân viên của Trung tâm nghiên cứu nano có một bộ thiết bị V, bèn ra khỏi phòng thí nghiệm trung tâm giờ này đã vắng tanh, lên phòng trực ban lấy chìa khóa rồi đi xuyên qua dãy bàn bi a cùng máy tập gym, tìm thấy bộ thiết bị V bên cạnh chiếc máy tính. Anh mất khá nhiều công sức mới mặc được bộ trang phục cảm ứng lên người, sau đó đội mũ chụp lên đầu và khởi động máy tính. Sau khi trò chơi khởi động, Uông Diểu thấy mình ở giữa một vùng đồng không mông quạnh vào lúc bình minh, cánh đồng hoang có màu nâu xám, không nhìn rõ được chi tiết, trên đường chân trời phía xa xa có một mảng sáng trắng nho nhỏ, phần bầu trời còn lại vẫn còn sao lấp lánh. Một tiếng nổ lớn, hai ngọn núi lớn phát ra ánh sáng đỏ rơi xuống mặt đất đằng xa, cả cánh đồng hoang bao trùm trong quầng sáng đỏ. Sau khi lớp bụi mù mịt cả đất trời tan đi, Uông Diểu thấy rõ hai chữ lớn cao từ trên trời: Tam Thể. Ngay sau đó, xuất hiện một giao diện đăng ký, Uông Diểu dùng ID “Hải Nhân” để đăng ký, rồi đăng nhập thành công vào trò chơi. Cánh đồng hoang vẫn y như cũ, nhưng thiết bị nén trên trang phục cảm ứng đã xì xì khởi động, Uông Diểu cảm thấy một luồng khí hơi lạnh ghê người. Phía trước mặt anh xuất hiện hai người đang đi, in hai cái bóng đen trên nền ánh rạng đông. Uông Diểu đuổi theo, anh thấy hai người này đều là nam giới, khoác áo dài rách tả tơi, bên ngoài còn choàng một tấm da thú bẩn thỉu, mỗi người đeo một thanh kiếm vừa rộng vừa ngắn từ thời kỳ đồ đồng, một trong hai người đeo trên lưng một chiếc hộp gỗ dài và hẹp cao bằng nữa người, quay đầu lại nhìn Uông Diểu. Mặt ông ta cũng bẩn và nhăn nheo như tấm da thú vậy, nhưng đôi mắt thì rất có thần, con ngươi ánh lên trong nắng ban mai. “Lạnh nhỉ.” Ông ta nói. “Ừ, lạnh thật.” Uông Diểu phụ họa. “Đây là thời đại Chiến Quốc, ta là Chu Văn Vương.” Người đó nói. “Chu Văn Vương đâu phải là người thời Chiến Quốc nhỉ?” Uông Diểu hỏi. “Ông ấy vẫn sống đến tận bây giờ đó, Trụ Vương cũng còn sống.” Người không đeo hộp gỗ kia nói, “tôi là tùy tùng của Chu Văn Vương, ID của tôi là ‘Tùy tùng của Chu Văn Vương’, ông ấy mới gọi là thiên tài.” “ID của tôi là ‘Hải Nhân’.” Uông Diểu nói, “Trên lưng ông có gì thế?” Chu Văn Vương đặt cái hộp gỗ hình chữ nhật xuống, mở một mặt đứng ra, tựa như mở cảnh cửa, để lộ năm tầng ô vuông, dưới ánh sáng buổi sớm, Uông Diểu thấy trong mỗi tầng đều có một đụn cát mịn nhỏ cao thấp không đều, mỗi ô đều có một dòng cát mảnh đang chảy từ ô trên xuống. “Đồng hồ cát, tám tiếng chảy hết một lượt, đảo ba lần thì là một ngày. Nhưng ta thường hay quên đảo chiều, phải chở Tùy tùng nhắc nhở.” Chu Văn Vương giới thiệu. “Các ông hình như đang thực hiện một chuyến đi dài, có nhất thiết phải cõng theo một thiết bị tính giờ nặng nề như vậy không?” “Thế tính giờ bằng cách nào?” “Mang một cái đồng hồ Mặt trời cỡ nhỏ thuận tiện hơn nhiều, hoặc không thì quan sát luôn Mặt trờ cũng có thể biết được thời gian đại khái mà.” Chu Văn Vương và Tùy tùng ngơ ngác nhìn nhau, sau đó cũng nhìn chằm chằm vào Uông Diểu, như thể anh là một tên đại ngốc, “Mặt trời? Nhìn Mặt trời làm sao biết được thời gian? Đây là kỷ nguyên Hỗn loạn đó.” Uông Diểu đang định hỏi hàm nghĩa của danh từ quái dị này thì Tùy tùng đã ai oán kêu lên: “Lạnh thật đó, lạnh chết tôi rồi!” Uông Diểu cũng cảm thấy lạnh, nhưng anh không thể tùy tiện cởi bỏ trang phục cảm ứng, thông thường, làm như vậy sẽ bị trò chơi xóa bỏ ID. Anh nói: “Mặt trời lên thì sẽ ấm hơn thôi.” “Anh đang giả mạo nhà tiên tri vĩ đại phải không hả? Đến Chu Văn Vương còn không tiên tri nổi đâu nhé!” Tùy tùng nhìn Uông Diểu lắc đầu vẻ khinh miệt. “Chuyện này mà cũng phải cần đến tiên tri sao? Ai mà không biết một hai tiếng nữa Mặt trời sẽ lên chứ.” Uông Diểu chỉ về phía chân trời. “Đây là kỷ nguyên Hỗn loạn!” Tùy tùng nói. “Kỷ nguyên Hỗn loạn là cái gì?” “Ngoại trừ kỷ nguyên Hằng định, tất cả đều là kỷ nguyên Hỗn loạn.” Chu Văn Vương nói, như thể đang trả lời câu hỏi của một đứa trẻ ranh vô tri. Quả nhiên, ánh nắng sớm cuối chân trời bắt đầu nhạt đi rồi nhanh chóng biến mất, màn đêm lại bao phủ lên tất thảy, trên bầu không, ánh sao lấp lánh. “Thì ra giờ là hoàng hôn chứ không phải sáng sớm?” Uông Diểu hỏi. “Đang là buổi sáng sớm, nhưng Mặt trời buổi sớm cũng chưa chắc mọc lên, đây là kỷ nguyên Hỗn loạn.” Cái lạnh khiến Uông Diểu rất khó chịu, “Tình hình này, Mặt trời còn rất lâu nữa mới lên.” Anh lẩm bẩm chỉ vào đường chân trời mơ hồ phía xa. “Sao anh lại nghĩ như thế rồi? Chuyện này không chắc đâu, đây là kỷ nguyên Hỗn loạn.” Tùy tùng nói đoạn quay sang phía Chu Văn Vương: “Cơ Xương, cho tôi ít cá khô ăn đi.” “Không được!” Chu Văn Vương quả quyết nói, “Ta cũng cố lắm mới tạm coi là no, phải đảm bảo rằng ta có thể đi tới Triều Ca, chứ không phải là cậu.” Trong lúc nói chuyện, Uông Diểu chú ý thấy đường chân trời ở một hướng khác lại xuất hiện ánh ban mai, anh không phân biệt được Đông Tây hay Nam Bắc, nhưng có thể khẳng định không phải là hướng mà nó xuất hiện lần trước. Ánh nắng sớm mạnh dần, một lúc sau đó Mặt trời của thế giới này đã lên, đó là một vầng Mặt trời nhỏ màu xanh lam, rất giống mặt trăng được tăng cường độ sáng, nhung vẫn làm cho Uông Diểu ấm lên, đồng thời nhìn rõ được các chi tiết của mặt đất. Nhưng ngày rất ngắn ngủi, Mặt trời vạch một đường cong nông choẹt phía bên trên đường chân trời rồi lặn luôn, màn đêm và cái lạnh một lần nữa bao trùm lên hết thảy. Ba người đứng trước một cái cây khô, Chu Văn Vương và Tùy tùng rút kiếm đồng thau ra chặt củi, Uông Diều nhặt củi vun lại thành một đống, Tùy tùng lấy mồi lừa, lẹt xẹt, lẹt xẹt một hồi, đốt lên một đống lửa. Phần ngực bộ trang phục cảm ứng của Uông Diểu trở nên ấm áp, nhưng sau lưng thì vẫn lạnh buốt. “Đốt vài người thoát nước đi, lửa mới mạnh được.” Tùy tùng nói. “Câm miệng! Việc đó chỉ tên Trụ Vương kia mới làm!” “Đằng nào thì những kẻ nằm rải rác trên đường kia cũng rách nát thế rồi, ngâm cũng không sống lại được đâu. Nếu lý luận của ông thật sự dùng được, đừng nói là đốt một vài tên, ăn mấy tên cũng được ấy chứ, so với lý luận đó, mấy cái mạng có đáng là gì?” “Nói bậy! Chúng ta là những học giả!” Sau khi đống lửa cháy hết, ba người tiếp tục lên đường. Vì họ nói chuyện rất ít, hệ thống đã đẩy nhanh tốc độ thời gian trôi trong trò chơi, Chu Văn Vương nhanh chóng đảo chiều chiếc đồng hồ cát trên lưng sáu lần, thoáng cái đã hai ngày trôi qua, Mặt trời vẫn chưa lên lấy một lần, thậm chí phía chân trời còn chẳng thấy bóng dáng ánh ban mai. “Xem ra Mặt trời không lên nữa rồi.” Uông Diểu nói, đồng thời bật ra giao diện trò chơi để xem HP (Health Point) của mình, chỉ số đang nhanh chóng giảm xuống vì lạnh giá. “Anh lại giả mạo tiên tri vĩ đại rồi…” Tùy tùng nói, Uông Diểu và anh ta cùng đồng thanh nói nửa câu sau: “Đây là kỷ nguyên Hỗn loạn.” Lời này vừa nói ra chưa được bao lâu, chân trời đã xuất hiện ánh nắng sớm, ánh sáng nhanh chóng mạnh lên, thoáng cái Mặt trời đã mọc, Uông Diểu phát hiện lần này là một vầng Mặt trời lớn, khi nó lên được nữa chừng, đường kính đã chiếm ít nhất một phần năm đường chân trời trong tầm mắt anh. Làn hơi ấm áp ập vào mặt khiến Uông Diểu thấy thoải mái dễ chịu, nhưng khi nhìn sang Chu Văn Vương và Tùy tùng, anh lại thấy bọn họ hết sức kính sợ, tựa như ma quỷ sắp giáng xuống vậy. “Nhanh lên, mau tìm chỗ bóng râm!” Tùy tùng hét lớn, Uông Diểu chạy như bay theo bọn họ đến sau một khối nham thạch thấp, ngồi thụp xuống. Cái bóng khối nham thạch từ từ thu ngắn lại, mặt đất xung quanh chói lòa nhức mắt như bị nung trắng lên, nền đất đông cứng dưới chân nhanh chóng tan chảy, đang cứng rắn như thép bỗng biến thành đất bùn mềm nhũn, sóng nhiệt cuồn cuộn, chẳng mấy chốc, Uông Diểu đã toát hết mồ hôi. Khi vầng Mặt trời lớn lên đến đỉnh đầu, ba người dùng da thú che kín đầu, nhưng ánh nắng gay gắt vẫn xói vào từ mọi khe hở và lỗ thủng, tựa như những mũi tên sắc bén. Ba người đi vòng qua tảng nham thạch di chuyển sang phía bên kia, nấp vào bóng râm mới xuất hiện bên đó… Sau khi Mặt trời khuất núi, không khí vẫn nóng bức dị thường, ba người mồ hôi đầm đìa ngồi trên tảng đá, Tùy tùng ủ rũ nói: “Du hành trong kỷ nguyên Hỗn loạn quả là đi giữa địa ngục, tôi không chịu nổi nữa rồi; vả lại, tôi cũng chẳng có gì ăn cả, ông không chia cá khô cho tôi, lại không cho tôi ăn nhứng người thoát nước, chậc…” “Vậy thì cậu chỉ còn cách thoát nước thôi.” Chu Văn Vương nói, một tay dùng miếng da thú quạt gió. “Sau khi thoát nước, ông sẽ không bỏ rơi tôi chứ?” “Tất nhiên là không, ta đảm bảo sẽ đưa cậu tới Triều Ca.” Tùy tùng cởi bỏ chiếc áo dài bị mồ hôi thấm ướt, mình trần nằm xuống bùn, dưới ánh tà dương còn sót lại, Uông Diểu thấy Tùy tùng đột nhiên vã mồ hôi đầm đìa. Nhưng chẳng mấy chốc, anh nhận ra đó không phải mồ hôi, mà là nước trong cơ thể người này đang tiết xuất ra triệt để, chảy thành những dòng nhỏ trên nền cát, cơ thể Tùy tùng tựa như một cây nến tan chảy, dần dần mềm nhũn, mỏng đi… Khoảng mười phút sau, nước đã tiết ra hết, thân thể biến thành một miếng da mềm hình người nằm bất động trên nền đất bùn, mắt mũi tai miệng trên gương mặt đều trở nên mơ hồ nhăn nhúm. “Anh ta chết rồi hả?” Uông Diểu hỏi. Anh nhớ ra, trên đường thỉnh thoảng cũng trông thấy những miếng da mềm hình người như thế này, có tấm đã rách nát không còn nguyên vẹn nữa, đó chính là những người thoát nước mà cách đây không lâu Tùy tùng đã muốn dùng để đốt lửa. “Không.” Chu Văn Cương nói, nhấc tấm da mà Tùy tùng biến thành, phủi bụi đất bám bên trên rồi đặt lên mặt tảng đá để cuộn anh ta (nó) lại, như cuộn một quả bóng da bị xì hơi, “Ngâm vào nước một lúc, cậu ta sẽ khôi phục nguyên trạng và sống lại, kiểu như ngâm nấm khô vậy.” “Xương cốt anh ta cũng mềm ra à?” “Đúng thế, đều thành sợi khô hết, như vậy mới tiện mang theo.” “Người nào trong thế giới này cũng có thể thoát nước à?” “Tất nhiên, anh cũng có thể, nếu không thì không thể sống được trong kỷ nguyên Hỗn loạn.” Chu Văn Vương đưa Tùy tùng đã cuộn lại cho Uông Diểu, “Anh mang theo cậu ta nhé, vứt ở bên đường thì không bị đốt cũng bị ăn mất.” Uông Diểu nhận lấy miếng da mềm, nay chỉ còn là một cuộn rất nhẹ. Anh kẹp vào cánh tay, cũng không thấy có cảm giác gì lạ. Uông Diểu kẹp theo Tùy tùng đã thoát nước, Chu Văn Vương đeo đồng hồ cát trên lưng, hai người lại tiếp túc hành trình gian nan. Cũng như mấy ngày trước, Mặt trời trong thế giới này vận hành hoàn toàn không theo quy luật nào cả, sau mấy đêm dài lạnh lẽo, có thể đột nhiên xuất hiện một ngày nóng tàn bạo, hoặc là ngược lại. Hai người nương tựa lẫn nhau, ngồi bên đống lửa chống lại giá lạnh, ngâm trong hồ nước cầm cự cho qua cơn nóng bức. Cũng may trong trò chơi, thời gian có thể tăng nhanh. Một tháng có thể trôi qua trong nửa giờ đồng hồ, điều này khiến hành trình trong kỷ nguyên Hỗn loạn vẫn còn ở mức độ có thể chịu đựng được. Hôm ấy, đêm dài đằng đẵng đã kéo dài gần một tuần (tính theo thời gian đồng hồ cát), Chu Văn Vương đột nhiên chỉ bầu trời đêm reo lên mừng rỡ: “Sao bay! Sao bay! Hai ngôi sao bay!!” Kỳ thực, trước đó Uông Diểu đã chú ý đến loại thiên thể kỳ lạ ấy, nó lớn hơn ngôi sao thường một chút, hình tròn, trông to như quả bóng bàn, tốc độ di chuyển rất nhanh, mắt thường cũng thấy được rõ ràng, hiện giờ nó đang di động trên bầu trời đầy sao, chỉ là lần này lại xuất hiện hai cái cùng lúc. Chu Văn Vương giải thích: “Hai ngôi sao bay xuất hiện, chứng tỏ rằng kỷ nguyên Hằng định sắp sửa bắt đầu!” “Lúc trước có thấy rồi.” “Lúc đó chỉ có một.” “Nhiều nhất chỉ có hai thôi à?” “Không, có lúc có ba, nhưng không nhiều hơn nữa.” “Ba ngôi sao bay xuất hiện, có phải là báo trước một kỷ nguyên tốt đẹp hơn nữa không?” Chu Văn Vương trừng mắt lên nhìn Uông Diểu, ánh mắt ngập tràn vẻ sợ hãi, “Anh đang nói gì vậy, ba ngôi sao bay… cầu mong nó đừng bao giờ xuất hiện.” Chu Văn Vương nói không sai, kỷ nguyên Hằng định mà họ mong đợi sắp sửa bắt đầu, Mặt trời mọc và lặn bắt đầu trở nên có quy luật, một ngày đêm dần dần cố định trong khoảng mười tám tiếng, ngày đêm thay phiên nhau có quy luật khiến không khí cũng ấm áp hơn phần nào. “Kỷ nguyên Hằng định có thể kéo dài bao lâu?” Uông Diểu hỏi. “Một ngày hoặc một thế kỷ, không ai nói chính xác được.” Chu Văn Vương ngồi trên đồng hồ cát, ngửa mặt nhìn vầng dương chính ngọ. “Theo ghi chép, Tây Chu từng có kỷ nguyên Hằng định kéo dài hai thế kỷ, ừm, người sinh ra ở thời đại đó thật có phúc.” “Vậy kỷ nguyên Hỗn loạn sẽ kéo dài bao lâu?” “Không phải đã nói rồi sao, ngoại trừ kỷ nguyên Hằng định thì đều là kỷ nguyên Hỗn loạn, hai kỷ nguyên xen kẽ lẫn nhau.” “Vậy có nghĩa đây là một thế giới hỗn loạn hoàn toàn chẳng có quy luật gì?!” “Đúng thế, văn minh chỉ có thể phát triển trong kỷ nguyên Hằng định có khí hậu ôn hòa trong thời gian tương đối dài. Hầu hết thời gian, nhân loại đều thoát nước tập thể để tồn trữ, khi kỷ nguyên Hằng định tương đối dài xuất hiện, sẽ lại tập thể ngâm nước phục sinh, sản xuất và xây dựng.” “Thế làm sao để dự đoán lúc kỷ nguyên Hằng định xuất hiện và độ dài của nó?” “Không thể làm được, xưa nay chưa bao giờ làm được, khi kỷ nguyên Hằng định xuất hiện, quốc gia có ngâm nước phục sinh hay không đều dựa vào trực giác của đại vương, thường thường là: ngâm nước phục sinh, trồng trọt hoa màu, bắt đầu xây dựng thành thị thôn trấn, cuộc sống vừa mới bắt đầu, kỷ nguyên Hằng định liền kết thúc. Lạnh giá và nóng bức hủy diệt tất thảy.” Chu Văn Vương nói tới đây, chỉ một tay về phía Uông Diểu, hai mắt sáng bừng lên: “Được rồi, anh đã biết được mục tiêu của trò chơi này rồi đó: chính là vận dụng trí lực và ngộ tính của chúng ta, phân tích, nghiên cứu các hiện tượng, nắm bắt quy luật vận hành của Mặt trời, sự sinh tồn của nền văn minh đều gắn với điểm này.” “Theo tôi thấy, Mặt trời vận hành hoàn toàn không có quy luật gì cả.” “Đó là vì anh chưa thể ngộ ra được bản nguyên của thế giới.” “Ông đã ngộ ra rồi?” “Đúng thế, đây chính là mục đích mà ta đến Triều Ca, ta sẽ hiến lên Trụ Vương một cuốn lịch vạn niên chuẩn xác.” “Nhưng cả chặng đường, tôi không thấy ông có năng lực này.” “Dự đoán quy luật vận hành của Mặt trời chỉ có thể thực hiện ở Triều Ca, vì nơi đó là điểm giao hội của Âm Dương, chỉ có ở nơi đó thì quẻ bói mới chuẩn xác được.” Hai người lại cất bước đi trong kỷ nguyên Hỗn loạn tàn khốc một thời gian rất dài, giữa chừng lại trải qua một kỷ nguyên Hằng định ngắn ngủi, cuối cùng cũng đến được Triều Ca. Uông Diểu nghe thấy tiếng ầm ầm như sấm vang lên không ngớt, âm thanh này do rất nhiều thứ kỳ quái trên mặt đất ở Triều Ca phát ra, đó là những con lắc đơn khổng lồ, mỗi con lắc đều cao đến mấy chục mét, quả lắc là những khối đá lớn, buộc vào một sợi dây chão treo trên cầu đá bắc ngang hai tháp đá cao. Mỗi con lắc đơn đều đang dao động. Làm chúng dao động là những đội binh sĩ mặc khôi giáp, đồng thanh hô vang những khẩu hiệu kỳ quái, hợp sức kéo sợi dây treo quả lắc đá khổng lồ, đảm bảo cho dao động của con lắc không đổi. Uông Diểu phát hiện, dao động của tất cả các con lắc này đều đồng bộ với nhau, nhìn từ xa, cảnh tượng quái dị đến nỗi khiến người ta mê mẩn, trông như có vô số đồng hồ quả lắc đang đồng thời chạy, lại như rất nhiều ký hiệu khổng lồ, trừu tượng từ trời cao giáng xuống. Trong vòng tròn các con lắc lớn ấy, có một tòa kim tự tháp khổng lồ, tựa hồ một ngọn núi đen ngòm nhô cao giữa màn đêm, đây chính là cung điện của Trụ Vương. Uông Diểu theo Chu Văn Vương đi vào một ô cửa không cao lắm ở tầng trệt kim tự tháp, mấy binh sĩ canh gác cạnh cửa lặng lẽ đi qua đi lại như những bóng ma trong đêm tối. Họ men theo một đường hầm dài, chật hẹp và tăm tối, cách một quãng rất xa mới có một cây đuốc. “Trong kỷ nguyên Hỗn loạn, cả nước đều ở trong trạng thái thoát nước, nhưng Trụ Vương luôn thức bầu bạn với mảnh đất không còn sự sống này. Muốn sinh tồn trong kỷ nguyên Hỗn loạn, thì phải sống bên trong kiến trúc có vách tường cực dày như thế này, gần như là sống dưới lòng đất, mới tránh được lạnh giá và nóng bức.” Chu Văn Vương vừa đi vừa giải thích cho Uông Diểu. Đi một quãng đường rất dài, họ mới vào đến đại điện ở trung tâm kim tự tháp của Trụ Vương, kỳ thực nơi này cũng không lớn lắm, lại giống như một hang núi. Người khoác một tấm da thú hoa ngồi trên đài cao kia hiển nhiên chính là Trụ Vương, nhưng thu hút ánh mắt của Uông Diểu trước tiên lại là một người áo đen, tấm áo đen cơ hồ hòa làm một với bóng tối dày đặc bên trong đại điện, gương mặt trắng nhợt ấy như thể lơ lửng giữa không trung. “Đây là Phục Hy.” Trụ Vương giới thiệu người áo đen với Chu Văn Vương và Uông Diểu mới bước vào, cứ như họ đã ở đó từ bao giờ, còn người áo đen mới là kẻ mới đến, “Y cho rằng, Mặt trời là một vị thần vĩ đại trái tính trái nết, lúc ngài tỉnh giấc thì hỉ nộ thất thường, đó là kỷ nguyên Hỗn loạn; lúc ngài ngủ thì hô hấp đều đặn, đó là kỷ nguyên Hằng định. Phục Hy đề nghị dựng những con lắc lớn ngoài kia, ngày đêm không ngừng dao động, nói rằng làm vậy có tác dụng thôi miên mạnh mẽ với Thần Mặt trời, có thể khiến thần chìm sâu vào giấc ngủ. Nhưng đến giờ, chúng ta thấy Thần Mặt trời vẫn tỉnh táo, cùng lắm chỉ là chốc chốc lại chợp mắt một chút thôi.” Trụ Vương khoát tay, có người bưng lên một chiếc vò gốm đặt trên bàn đá trước mặt Phục Hy… Uông Diểu sau đó biết được, đó là một vò canh pha lẫn đủ thứ gia vị. Phục Hy thở dài, bưng vò lên uống, âm thanh ừng ực ừng ực nghe như thể một quả tim khổng lồ đang đập ở sâu trong bóng tối. Uống được một nửa, y rưới chỗ canh còn lại lên người mình, sau đó ném vò đi, bước về phía một cái đỉnh lớn bằng đồng thau đặt trên ngọn lửa phía góc đại điện, leo lên mép đỉnh; y nhảy vào trong, làm bốc lên một luồng hơi nước. “Cơ Xương ngồi xuống đi, một lát nữa sẽ mở tiệc.” Trụ Vương chỉ vào cái đỉnh lớn. “Trò phù thủy ngu xuẩn.” Chu Văn Vương hất đầu về phía cái đỉnh, nói với giọng khinh miệt. “Ông đã ngộ ra điều gì về Mặt trời rồi?” Trụ Vương hỏi, ngọn lửa nhảy nhót trong đôi mắt ông ta. “Mặt trời không phải thần thánh gì, Mặt trời là Dương, đêm đen là Âm, thế giới vận hành trong sự cân bằng của Âm Dương, điều này không nằm trong sự khống chế của chúng ta, nhưng có thể dự đoán.” Chu Văn Vương nói, đoạn rút thanh kiếm đồng thau ra, vạch trên mặt đất chỗ có ánh đuốc soi tới một đôi Âm Dương Ngư to tướng, sau đó thoăn thoắt vẽ sáu mươi tư quẻ xung quanh khiến người ta nhìn mà hoa cả mắt, trông như một vòng năm lớn khi ẩn khi hiện dưới ánh lửa, “Đại vương, đây chính là mật mã của vũ trụ, dựa vào nó, tôi sẽ hiến cho vương triều của ngài một cuốn lịch vạn niên chuẩn xác.” “Cơ Xương à, giờ điều ta cần biết nhất, là kỷ nguyên Hằng định dài tiếp theo bao giờ mới đến.” “Tôi sẽ lập tức bói cho ngài.” Chu Văn Vương nói, đoạn bước tới chính giữa đồ án Âm Dương Ngư ngồi xếp bằng xuống, ngẩng đầu nhìn lên trần đại diện, ánh mắt như thể xuyên thấu bức tường dày của kim tự tháp trông thấy bầu trời sao, hai tay ông ta cùng lúc tiến hành những động tác phức tạp, tạo thành một máy tính vận hành tốc độ cao. Trong không gian tĩnh mịch, chỉ có tiếng sôi lục bục của món canh trong cái đỉnh lớn, tựa hồ thấy mo trong nồi canh ấy đang nói mớ. Chu Văn Vương đứng phắt dậy giữa đồ án Âm Dương, đầu vẫn ngẩng lên trần: “Tiếp sau là một kỷ nguyên Hỗn loạn dài bốn mươi mốt ngày, sau đó sẽ xuất hiện kỷ nguyên Hằng định dài năm ngày, tiếp sau nữa là một kỷ nguyên Hỗn loạn hai mươi ba ngày và kỷ nguyên Hằng định mười tám ngày, sau đó là kỷ nguyên Hỗn loạn tám ngày, khi kỷ nguyên Hỗn loạn này kết thúc, Đại vương, kỷ nguyên Hằng định này sẽ duy trì trong ba năm bốn tháng, trong khoảng thời gian đó, khí hậu ôn hòa, là một kỷ nguyên vàng.” “Chúng ta trước tiên cần phải chứng thực những suy đoán trước đó của ông đã.” Trụ Vương bình thản nói. Uông Diểu nghe thấy phía trên có tiếng động ầm ầm, rồi một phiến đá trên trần đại điện trượt ra, để lộ một cái hốc hình vuông, Uông Diểu điều chỉnh lại phương hướng, trông thấy cái hốc vuông này thông ra bên ngoài kim tự tháp, phía đầu bên kia, anh nhìn thấy vài ngôi sao đang nhấp nháy. Thời gian trong trò chơi lại tăng nhanh, chiếc đồng hồ cát mà Chu Văn Vương mang đến do hai binh sĩ canh giữ cứ vài giây lại đảo chiều một lần, biểu thị tám tiếng đã trôi qua, ô cửa bên trên chớp sáng không theo quy luật nào cả, chốc chốc lại có ánh Mặt trời của kỷ nguyên Hỗn loạn rọi vào đại điện, có lúc yếu ớt như ánh trăng, có lúc lại hết sức gay gắt, đốm sáng hình vuông trên nền đất trắng rực lên, khiến tất cả các bó đuốc xung quanh đều mờ nhạt. Uông Diểu đếm số lần đồng hồ cát đảo chuyển, khi lật đến khoảng lần thứ một trăm hai mươi, khoảng thời gian gián cách giữa nhưng lúc ánh Mặt trời chiếu vào qua ô vuông đã trở nên có quy luật, kỷ nguyên Hằng định đầu tiên mà Chu Văn Vương dự đoán đã đến. Đồng hồ cát lại đảo chiều mười lăm lần nữa, ánh sáng nhấp nháy nơi cửa sổ trở nên rối loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn lại bắt đầu. Sau đó, lại là kỷ nguyên Hằng định, rồi lại là kỷ nguyên Hỗn loạn, thời gian bắt đầu và kéo dài tuy có một chút sai lệch nhỏ, nhưng cũng đã tương đối trùng khớp với dự đoán của Chu Văn Vương. Khi kỷ nguyên Hỗn loạn kéo dài tám ngày cuối cùng kết thúc, kỷ nguyên Hằng định dài trong lời dự đoán của ông ta bắt đầu. Uông Diểu đếm số lần đồng hồ cát đảo chiều, hơn hai mươi ngày đã trôi qua, ánh Mặt trời chiếu vào đại điện vẫn theo một tiết tấu chuẩn xác. Lúc này, tốc độ trôi của thời gian trong trò chơi đã được điều chỉnh về bình thường. Trụ Vương gật đầu với Chu Văn Vương: “Cơ Xương à, ta sẽ lập cho ông một tấm bia phong thưởng cao hơn cả cung điện này.” Chu Văn Vương khom người đáp: “Đại vương, hãy để vương triều của ngàu thức tỉnh và phồn vinh đi!” Trụ Vương đứng dậy trên bậc đá, dang rộng hai cánh tay như thể muốn ôm trọn cả thế giới, ông ta lớn tiếng hét lên bằng âm điệu kỳ quặc gần như hát: “Ngâm nước…” Nghe thấy hiệu lệnh này, mọi người trong đại điện đều chạy ra cửa. Được Chu Văn Vương ra hiệu, Uông Diểu theo ông ta men theo đường hầm dài đằng đẳng chạy ra bên ngoài kim tự tháp. Lúc ra khỏi cửa, Uông Diểu nhận ra đang là buổi trưa, Mặt trời giữa không trung chiếu rọi khắp mặt đất, gió thổi hiu hiu, anh cơ hồ còn ngửi thấy cả mùi của mùa xuân. Chu Văn Vương và Uông Diểu cũng đến bên một hồ nước cách không xa kim tự tháp, băng trên mặt hồ đã tan chảy, ánh nắng nhảy nhót trên làn sóng nước lăn tăn. Một nhóm binh sĩ ra trước đang hô vang: “Ngâm nước! Ngâm nước!”, tất cả đều chạy về phía một kiến trúc cao to bằng đá trông như kho thóc bên cạnh hồ. Trên đường tới đây, thỉnh thoảng Uông Diểu cũng nhìn thấy kiến trúc này ở xa xa, Chu Văn Vương nói với anh đó là “kho khô”, là loại nhà kho lớn để tồn trữ người thoát nước. Các binh sĩ mở cánh cửa kho bằng đá, khiêng ra từng cuộn từng cuộn da bám đầy bụi đất, mỗi người ôm, kẹp nách mấy cuộc da đi về phía bờ hồ, ném vào trong nước. Những cuộn da ấy vừa chạm vào nước lập tức duỗi ra, thoáng chốc mặt hồ đã nổi lềnh bềnh một đám hình nhân mỏng như thể được cắt ra. Mỗi tấm “da người” đều nhanh chóng hút nước phình to, dần dần, biến thành thân thể đầy đặn trên mặt hồ. Những thân thể ấy chẳng mấy chốc đã có dấu hiệu của sự sống, từng người từng người một vùng vẫy đứng dậy trong hồ nước ngập đến thắt lưng. Họ mở to cặp mắt như vừa ngủ say tỉnh giấc nhìn thế giới gió nhẹ nắng chan hòa này. “Ngâm nước!” Một người cao giọng hô vang, lập tức làm dấy lên một tràng tiếng hoan hô theo: “Ngâm nước! Ngâm nước!!”… Những người này từ dưới hồ chạy lên bờ, trần truồng lao về phía kho, mang thêm nhiều cuộn da nữa bỏ vào hồ nước, từng đám từng đám người được ngâm nước phục sinh chạy ra khỏi hồ, cảnh tượng này cũng xảy ra ở những hồ nước và ao đầm phía xa hơn, cả thế giới đều đang sống lại. “Ối, trời ơi! Ngón tay của tôi…” Uông Diểu nhìn theo hướng tiếng la, thấy một người vừa ngâm nước sống lại đứng trong hồ nước, giơ tay lên gào khóc, bàn tay ấy thiếu mất ngón giữa, máu từ chỗ đứt chảy ra nhỏ xuống hồ, nhưng những người vừa sống dậy khác lần lượt đi qua bên cạnh anh ta, hào hứng chạy lên bờ, không ai buồn chú ý. “Được rồi. Phải biết đủ đi chứ!” Một người vừa sống lại đi qua nói, “Có người còn mất cả cẳng chân ấy chứ, có người bị gặm thủng cả đầu, nếu còn không ngâm nước, sợ rằng chúng ta đều bị lũ chuột ở kỷ nguyên Hỗn loạn gặm nhấm hết cả rồi!” “Chúng ta thoát nước được bao lâu rồi?” Một người khác vừa sống lại hỏi. “Nhìn bụi đất tích tụ trên cung điện của đại vương dày bao nhiêu là biết, vừa nghe nói đại vương bây giờ đã không phải là vị đại vương lúc trước khi chúng ta thoát nước nữa rồi, không biết là con hay cháu ngài ấy nữa.” Việc ngâm nước kéo dài liên tiếp tám ngày mới hoàn toàn kết thúc, lúc này tất cả những người thoát nước đều đã sống lại, thế giới lại một lần nữa có được sức sống mới. Trong tám ngày này, mọi người được hưởng cảnh Mặt trời mọc lặn theo chu kỳ chuẩn xác, mỗi ngày hai mươi tiếng. Tắm mình trong không khí mùa xuân, tất cả đều hết lòng ca ngợi Mặt trời, ca ngợi các vị thần cai quản vũ trụ này. Đêm ngày thứ tám, những đống lửa trên mặt đất còn nhiều hơn sao trên trời, những thành thị hoang phế trong kỷ nguyên Hỗn loạn lại tràn ngập ánh lửa và tiếng ồn ào huyên náo. Cũng như vô số lần ngâm nước trước của nền văn minh này, mọi người đều hoan lạc suốt đêm, đón mừng cuộc sống mới sau khi Mặt trời lên. Nhưng Mặt trời không mọc lên nữa. Các thiết bị tính giờ đều thể hiện thời gian Mặt trời mọc đã trôi qua, nhưng đường chân trời ở các hướng vẫn là một vùng tối đen như mực. Lại mười tiếng nữa trôi qua, vẫn không thấy bóng dáng mặt trời đâu, thậm chí một tia nắng sớm yêu ớt nhất cũng không thấy. Một ngày trôi qua, màn đêm vẫn tiếp tục bao phủ chân trời; hai ngày trôi qua, cái lạnh như một bàn tay khổng lồ đè nặng xuống mặt đất tối tăm. “Xin đại vương tin tôi, đây chỉ là tạm thời, tôi thấy khí Dương đang tụ tập trong vũ trụ, Mặt trời sắp mọc lên rồi, kỷ nguyên Hằng định và mùa xuân sẽ tiếp tục!” Trong đại điện giữa kim tự tháp, Chu Văn Vương quỳ bên dưới thềm đá mà Trụ Vương đang ngồi, cầu khẩn. “Đốt đỉnh lên đi!” Trụ Vương thở dài. “Đại vương! Đại vương!” Một vị đại thần từ cửa đường hầm tập tểnh chạy vào, khóc rống lên: “Trên trời, trên trời có ba ngôi sao bay!!” Tất cả mọi người trong đại điện đều kinh hãi đờ người ra, không khí như đông đặc lại, chỉ có Trụ Vương vẫn không biểu lộ cảm xúc. Ông ta quay sang Uông Diểu mà từ đầu đến giờ chẳng buồn để mắt, “Ngươi vẫn chưa biết ba ngôi sao bay cùng xuất hiện có ý nghĩa gì phải không? Cơ Xương à, nói cho hắn biết đi.” “Có nghĩa là ngày tháng lạnh giá kéo dài, sẽ lạnh đến mức làm đá đông thành bột vụn.” Chu Văn Vương thở dài, nói. “Thoát nước…” Trụ vương hét lên bằng giọng như đang hát. Kỳ thực, trên mặt đất bên ngoài, mọi người sớm đã bắt đầu lục tục thoát nước, biến trở lại trạng thái khô để sống qua đêm dài đằng đẵng, những người may mắn trong số họ được mang trở lại vào kho, song vẫn có một số lớn bị bỏ lại nơi đồng không mông quạnh. Chu Văn Vương chậm rãi đứng dậy, đi về phía đỉnh đồng thau trên đống lửa, ông ra leo lên mép đỉnh, trước khi nhảy xuống còn ngập ngừng vài giây, có lẽ là nhìn thấy gương mặt bị đun nát nhừ của Phục Hy bên trong đang mỉm cười với mình. “Dùng lửa liu riu thôi.” Trụ Vương uể oải nói, sau đó bảo với những người còn lại, “Ai nên EXIT thì EXIT đi, trò chơi đến đây cũng chẳng còn gì nữa rồi.” Phía trên cửa đường hầm xuất hiện biểu tượng EXIT phát ra ánh sáng đỏ, mọi người lần lượt đi về phía đó, Uông Diểu cũng bám theo, băng qua cửa và đường hầm dài để ra bên ngoài kim tự tháp, chỉ thấy trong đêm đen tuyết lớn đang bay lả tả, gió lạnh thấu xương khiến anh run lên. Một góc bầu trời hiển thị rằng thời gian trong trò chơi đang tăng nhanh. Mười ngày sau, tuyết vẫn rơi, những bông tuyết to và nặng nề, như thể bóng đêm ngưng kết lại. Có người thì thầm bên tai Uông Diểu: “Đây là khi cacbonic đóng thành băng khô rồi.” Uông Diểu ngoảnh đầu lại nhìn, hóa ra là Tùy tùng của Chu Văn Vương. Mười ngày nữa trôi qua, tuyết vẫn rơi, nhưng hoa tuyết đã biến thành mỏng và trong suốt, mang một màu xanh nhạt siêu phàm thoát tục dưới ánh đuốc hắt ra từ cửa hầm kim tự tháp, giống như vô số con sứa đang bay múa. “Hoa tuyết này là ôxy và nitơ hóa rắn, bầu khí quyển đang biến mất trong độ 0 tuyết đối.” Kim tự tháp bị tuyết vùi lấp, tầng dưới cùng là tuyết từ nước, tầng giữa là băng khô, tầng trên là tuyết do ôxy và nitơ ở trạng thái rắn tạo thành. Bầu trời đêm trở nên trong trẻo dị thường, còn tinh tú thì tựa như một quầng lửa màu bạc. Một hàng chữ xuất hiện trên nền trời sao ấy: Đêm này sẽ kéo dài 48 năm, nền văn minh số 137 bị hủy diệt trong lạnh giá, nền văn minh này tiến hóa đến thời kỳ Chiến Quốc. Hạt giống văn minh vẫn còn, sẽ được khởi động lại, một lần nữa tiến hóa trong vận mệnh khó lường của thế giới Tam Thể. Hoan nghênh bạn đăng nhập lần sau. Trước khi đăng xuất, thứ cuối cùng mà Uông Diểu chú ý đến là ba ngôi sao bay trên bầu trời đêm, chúng cách nhau rất gần, quay xung quanh nhau, nhảy một điệu vũ kỳ dị giữa vũ trụ sâu thẳm. 5. Diệp Văn Khiết Uông Diểu tháo bộ thiết bị V ra, phát hiện áo lót của mình đã ướt sũng mồ hôi, như thể vừa tỉnh dậy khỏi một cơn ác mộng lạnh buốt. Anh ra khỏi Trung tâm nghiên cứu nano, xuống nhà lấy xe, đến nhà mẹ của Dương Đông theo địa chỉ mà Đinh Nghị đưa cho. Kỷ nguyên Hỗn loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn… Khái niệm này cứ vẩn vít trong đầu Uông Diểu. Tại sao Mặt trời của thế giới đó lại vận hành không theo quy luật nào? Một hành tinh, cho dù quỹ đạo là hình tròn hay hình elip, thì hoạt động quay xung quanh ngôi sao của nó nhất định phải mang tính chu kỳ, không thể vận hành hoàn toàn không theo quy luật gì như vậy được… Uông Diểu đột nhiên cảm thấy rất bực bội với bản thân, anh lắc mạnh đầu, muốn xua hết mọi thứ đó ra khỏi tâm trí, chẳng qua chỉ là một trò chơi thôi mà, nhưng anh đã thất bại. Kỷ nguyên Hỗn loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn, kỷ nguyên Hỗn loạn… Khốn khiếp! Đừng nghĩ đến nó nữa!! Tại sao cứ nhất thiết phải nghĩ đến nó! Tại sao?! Rất nhanh sau đó, Uông Diểu đã tìm được đáp án. Đã nhiều năm nay anh không chơi trò chơi điện tử nào rồi, độ này, kỹ thuật phần cứng và phầm mềm của trò chơi điện tử rõ ràng đã được nâng cấp rất nhiều, những trò anh đã chơi thời học sinh không thể nào so sánh được với cảnh tượng mô phỏng hiện thực và hiệu ứng phụ gia trong đó. Nhưng Uông Diểu cũng hiểu, sự chân thực của Tam Thể không nằm ở chỗ đó. Anh còn nhớ trong một bài giảng về lý thuyết thông tin hồi đại học năm thứ ba, giáo sư đã treo lên hai bức tranh lớn, một bức là Thanh minh thượng hà đồ của Trương Trạch Đoan phức tạp tinh tế, bức còn lại là ảnh chụp bầu trời mênh mông, trên nền trời xanh thẳm trống trải chỉ có một vạt mây trắng tựa như có lại tựa như không. Giáo sư đã hỏi trong bức tranh này, bức nào bao hàm lượng thông tin lớn hơn, đáp án là bức sau lớn hơn bức trước từ một đến hai bậc độ lớn (*)! (*) Hai số hơn/kém nhau n bậc độ lớn nghĩa là gấp nhau 10nlần. Một đến hai bậc độ lớn nghĩa là gấp 10 đến 100 lần. Tam thể chính là như vậy, lượng thông tin nhiều vô số kể của nó ẩn sâu bên dưới, Uông Diểu cảm nhận được, nhưng lại không thể nói rõ ra. Anh đột nhiên tỉnh ngộ, điểm đặc biệt của Tam Thể là ở chỗ, so với những trò chơi khác, người thiết kế ra nó đã đi ngược với lẽ thường… Những nhà thiết kết game thông thường đều cố gắng tăng lượng thông tin hiển thị lên hòng tạo ra cả giác chân thực; còn người thiết kế ra trò chơi Tam Thể này lại cực lực nén lượng thông tin lại hòng ẩn giấu sự thực lớn lao nào đó, giống như bức ảnh chụp bầu trời thoạt nhìn tưởng như trống trải kia vậy. Uông Diểu thả lỏng sợi dây trói buộc suy nghĩ của mình, để mặc cho nó quay lại thế giới của Tam Thể. Sao bay! Mấu chốt nằm ở những ngôi sao bay không có gì nổi bật kia, một ngôi sao bay, hai ngôi sao bay, ba ngôi sao bay… điều này có nghĩa gì? Trong lúc ngẫm ngợi, chiếc xe đã tới cổng của tiểu khu mà anh muốn đến. Ở cầu thang tòa nhà mình cần tìm, Uông Diểu trông thấy một phụ nữ đeo kính, gầy gó, tóc bạc, chừng sáu mươi tuổi đang xách một giỏ thức ăn lớn khó nhọc leo lên. Anh đoán có lẽ đây chính là người mình muốn tìm, vừa hỏi, quả nhiên bà già đó chính là mẹ của Dương Đông, Diệp Văn Khiết. Sau khi nghe Uông Diểu nói về nguyên nhân mình tìm đến, bà lộ vẻ cảm động tự đáy lòng. Diệp Văn Khiết là dạng trí thức cao tuổi mà Uông Diểu thường gặp, gió sương của năm tháng đã bào mòn mọi sự cương ngạnh và nóng nảy trong tính cách của họ, chỉ còn lại sự nhu hòa như nước. Uông Diểu xách làn cùng bà đi lên lầu, vào nhà mới phát hiện, nơi này không quạnh quẽ như anh tưởng tượng: có ba đứa trẻ con đang chơi đùa, đứa lớn nhất chắc chỉ tầm năm tuổi, đứa nhỏ thì vừa mới biết đi. Bà Dương nói với Uông Diểu, lũ trẻ này đều là con nhà hàng xóm. “Chúng nó thích sang đây chơi. Hôm nay là Chủ nhật, bố mẹ chúng nó phải đi làm thêm, bèn gửi chúng nó cho tôi… Nào, Nam Nam, cháu vẽ tranh xong chưa hả? Ừm, đẹp quá, đặt tên cho nó nhé! Vịt con trong nắng, được, bà để vào cho cháu, viết thêm ngày 9 tháng 6, tác phẩm của Nam Nam nữa nhé… Trưa nay các cháu thích ăn gì? Dương Dương? Cà rán? Được rồi, Nam Nam? Đậu Hà Lan mà hôm qua cháu ăn? Được, còn cháu? Mi Mi? Thịt hả? Không, mẹ cháu dặn rồi, đừng ăn nhiều thịt thế, không tiêu hóa được đâu, ăn cá nhé? Xem bà mua về con cá to chưa này…” Chắc chắn bà ấy muốn có cháu trai hoặc cháu gái, nhưng dù Dương Đông còn sống, liệu cô ấy muốn có con không? Nhìn bà Dương chăm chú nói chuyện với lũ trẻ, Uông Diểu thầm nhủ. Bà Dương xách giỏ vào bếp, lúc quay ra, bà bảo với Uông Diểu: “Tiểu Uông à, tôi đi ngâm rau trước đã, giờ rau cỏ nhiều dư lượng thuốc trừ sâu lắm, cho trẻ con ăn ít nhất phải ngâm hai tiếng trở lên… cậu có thể vào phòng của Đông Đông mà xem.” Đề nghị có vẻ như vô ý của bà Dương khiến cho Uông Diểu rơi vào trạng thái căng thẳng và bất an. Hiển nhiên, bà đã nhận ra mục đích thực sự của chuyến viếng thăm này mà Uông Diểu giấu trong lòng. Bà nói dứt lời, liền quay vào trong bếp, không nhìn Uông Diểu lấy một lần, dĩ nhiên cũng không thấy bộ dạng lúng túng của anh, thái độ thấu hiểu gần như toàn bộ của bà khiến Uông Diểu không khỏi cảm động. Uông Diểu quay người đi qua lũ trẻ đang vui đùa, bước về phái căn phòng mà bà Dương vừa chỉ. Anh dừng chân trước cửa, đột nhiên bị nhấn chìm trong một thứ cảm giác kỳ dị, tựa như vừa quay lại thời thiếu niên nhiều mộng tưởng, một cảm giác mong manh trong veo như giọt sương sớm từ sâu thẳm trong hồi ức bỗng trào dâng, trong đó bao hàm cả sự thương cảm và nỗi đau ban sơ nhất, nhưng tất cả đều nhuốm một màu hồng. Uông Diểu nhẹ nhàng đẩy cửa, bất ngờ lại ngửi thấy mùi hương nhàn nhạt. Đó là mùi của rừng già, khiến anh có cảm tưởng như bước vào một căn nhà nhỏ của người kiểm lâm trong rừng sâu. Vách tường che phủ bằng từng mảng từng mảng vỏ cây màu nâu, ba chiếc ghế đều là những gốc cây đơn sơ, bàn viết được ghép lại từ ba gốc cây tương đối lớn, còn cả chiếc giường kia nữa, rõ ràng cũng được trải bằng cỏ u la của vùng Đông Bắc. Mọi thứ đều rất thô sơ, tự nhiên, không hề cố ý biểu hiện ra một thứ mỹ cảm nào cả. Với chức vị của Dương Đông, thu nhập của cô rất cao, có thể mua nhà ở bất cứ khu vực cao cấp nào, nhưng cô vẫn luôn sống chung với mẹ ở đây. Uông Diểu bước đến bên bàn làm việc bằng gốc cây, bài trí bên trên cũng rất đơn giản, chẳng có thứ gì liên quan đến học thuật cả, cũng không có đồ dùng của phái nữ; có lẽ là đã được mang đi hết rồi, cũng có thể là chúng chưa từng có ở đây. Thứ đầu tiên anh chú ý đến là một tấm ảnh đen trắng lồng trong khung gỗ, ảnh chụp chung của hai mẹ con Dương Đông, trong ảnh Dương Đông đang ở tuổi thiếu niên, người mẹ ngồi xuống vừa khéo cao đúng bằng cô. Gió rất lớn, thổi tung mái tóc của hai người đan vào nhau. Cảnh nền của bức ảnh rất kỳ lạ, bầu trời hình lưới, Uông Diểu xem xét tỉ mỉ kết cấu sắt thép chống đỡ tấm lưới ấy, suy đoán rằng đó là một ăng ten parabol hoặc thứ gì đó tương tự, vì kích cỡ quá lớn, viền của nó nằm ngoài khung hình. Trong tấm ảnh, đôi mắt to của cô bé Dương Đông toát lên một nỗi kinh sợ khiến Uông Diểu thầm run rẩy, tựa như thế giới bên ngoài tấm ảnh làm cô bé vô cùng sợ hãi. Món đồ thứ hai mà Uông Diểu chú ý đến là cuốn sổ lớn dày cộm đặt ở góc bàn. Thoạt tiên, anh bị mê hoặc bởi chất liệu của cuốn sổ, mãi đến lúc nhìn thấy hàng chữ nguệch ngoạc kiểu trẻ con trên bìa sổ: “Sổ vỏ bạch hoa của Dương Đông” mới biết cuốn sổ này được làm bằng vỏ bạch hoa(*), thời gian đã làm vỏ cây trắng bạc biến thành vàng sậm. Anh đưa tay chạm vào cuốn sổ, do dự giây lát rồi lại rụt tay trở về. (*) Một giống bạch dương. “Cậu xem đi, đấy là tranh của Đông Đông hồi nhỏ.” Bà Dương đứng ở cửa nói. Uông Diểu nâng cuốn sổ bằng vỏ cây lên, nhẹ nhàng lật xem từng trang. Trên mỗi bức tranh đều có ngày tháng, rõ ràng là bà mẹ đã chú thích vào cho con gái, giống như anh thấy lúc vừa đến nhà. Uông Diểu phát hiện ra một điều hơi khó hiểu: nhìn ngày tháng trên bức tranh, lúc này Dương Đông đã hơn ba tuổi, đứa trẻ tuổi này thông thường đều có thể vẽ ra người hoặc vật thể có hình dáng tương đối rõ ràng; nhưng tranh của Dương Đông vẫn chỉ là những đường nét rối rắm tùy tiện, Uông Diểu thấy ở trong đó một nỗi giận dữ và tuyệt vọng dữ dội khi muốn biểu đạt điều gì đó mà bất lực, những đứa trẻ bình thường ở độ tuổi này không thể nào có thứ cảm giác ấy. Bà Dương chầm chậm ngồi xuống mép giường, đờ đẫn nhìn cuốn sổ bằng vỏ cây trên tay Uông Diểu, chính ở nơi này, con gái bà đã tự kết thúc sự sống của mình trong giấc ngủ. Uông Diểu ngồi xuống bên cạnh bà, chưa bào giờ anh thấy khao khát mãnh liệt muốn được chia sẻ nỗi đau với người khác như lúc này. Bà Dương cầm lấy cuốn sổ trên tay Uông Diểu, ôm vào lòng rồi khẽ nói: “Sự giáo dục của tôi dành cho Đông Đông có hơi lệch lạc, để nó tiếp xúc với những thứ quá trừu tượng và cực đoan sớm quá. Lần đầu tiên nó tỏ ra hứng thú với những lý thuyết trừu tượng đó, tôi đã bảo nó rằng phụ nữ rất khó bước vào thế giới ấy. Nhưng nó nói, bà Curie chẳng phải đã bước vào rồi đấy sao? Tôi lại nói cho nó biết, bà Curie căn bản vẫn chưa bước vào được, thành công của bà ấy chỉ là do siêng năng và cố chấp mà thôi, không có bà ấy, những người khác cũng hoàn thành những công việc đó, ngược lại bà Ngô Kiện Hùng(*) đi được xa hơn, nhưng đó thật sự không phải là thế giới của phụ nữ. Phương Thức tư duy của phụ nữ không giống với đàn ông, điều này không phải là phân biệt ai cao ai thấp, mà là một điều tất yếu của thế giới. (*) Ngô Kiện Hùng (Chien-Shiung Wu) là một trong những nhà vật lý xuất sắc đương đại, có thành tựu rất lớn trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý thực nghiệm. Bà là người đầu tiên chứng minh được bằng thực nghiệm suy đoán lý thuyết về sự vi phạm bảo toàn chẵn lẻ trong tương tác yêu của Lý Chính Đạo và Dương Chấn Ninh, dẫn đến giải Nobel Vật lý 1957 cho hai nhà nghiên cứu này. (TG) “Đông Đông không phản bác. Sau này, tôi thật sự phát hiện ra nó có những điểm đặc biệt, ví dụ khi giảng giải cho nó về một công thức, bọn trẻ con khác sẽ nói ‘công thức này thật tài tình’, còn nó lại nói ‘công thức này thật đẹp, thật ưa nhìn’, nét mặt nó lúc ấy giống như trông thấy một bông hoa dại xinh đẹp vậy. Bố nó để lại một đống đĩa hát, nó nghe một hồi, cuối cùng chọn ra một đĩa của Bach để nghe đi nghe lại, đó là thứ âm nhạc rất khó khiến người ta, đặc biệt là một đứa con gái nhỏ nghe đến nỗi mê mẩn. Mới đầu, tôi tưởng là nó chọn bừa, nhưng lúc hỏi nó cảm nhận thế nào, con bé đáp: nó thấy một người khổng lồ đang xây nên một căn nhà rất lớn, rất phức tạp, người khổng lồ đắp từng chút từng chút một, khi khúc nhạc kết thúc, căn nhà cũng đã xây xong…” “Cô giáo dục con gái rất thành công.” Uông Diểu cảm khái thốt lên. “Không, tôi đã thất bại! Thế giới của nó quá đơn giản, chỉ toàn những lý thuyết kỳ ảo đó. Một khi những thứ đó sụp đổ, thì chẳng còn gì có thể giữ cho nó sống tiếp được nữa.” “Cô giáo Diệp, theo cháu cô nghĩ vậy cũng không đúng, hiện nay đã xảy ra một số việc mà chúng ta khó lòng tưởng tượng nổi, đây là một thảm họa lý thuyết xưa nay chưa từng có, những nhà khoa học lựa chọn làm thế cũng không chỉ có mình cô ấy.” “Nhưng chỉ có mình nó là phụ nữ, phụ nữ lẽ ra phải giống như nước, nới nào cũng có thể chảy qua được.” … Lúc từ biệt, Uông Diểu mới nhớ ra mục đích còn lại của chuyến viếng thăm, bèn hỏi bà Dương về việc quan trắc bức xạ nền vũ trụ. “Ừm, trong nước có hai nơi đang thực hiện, một là cơ sở quan sát ở Ürümqi, hình như là dự án của Trung tâm quan trắc môi trường không gian của Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc. Một nơi nữa rất gần, chính là đài quan trắc thiên văn vô tuyến ngoại thành Bắc Kinh, do Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc kết hợp với Trung tâm vật lý thiên văn liên hợp của Đại học Bắc Kinh xây dựng. Cái đầu tiên là quan sát thực tế trên mặt đất, cái ở Bắc Kinh thì chỉ dựa trên số liệu nhận được từ vệ tinh, nhưng số liệu thì chuẩn xác hơn, toàn diện hơn. Bên đó tôi có một học sinh, để tôi giúp cậu liên hệ nhé.” Bà Dương nói, rồi đi tìm số điện thoại, sau đó gọi điện cho người học sinh đó, hình như rất thuận lợi. “Không vấn đề gì đâu, tôi cho cậu địa chỉ, cậu đến thẳng đó là được. Cậu ấy tên là Sa Thụy Sơn, ngày mai cậu ấy trực ca đêm… Hình như cậu không nghiên cứu ngành này thì phải?” Bà Dương đặt điện thoại xuống hỏi. “Cháu làm về vật liệu nano, chuyện này là vì… một số công việc khác.” Uông Diểu rất sợ bà Dương sẽ hỏi tiếp, nhưng bà cũng không hỏi gì thêm. “Tiểu Uông à, sao sắc mặt cậu xấu thế, có phải sức khỏe không được tốt không?” Bà Dương nói với vẻ quan tâm. “Không có gì đâu ạ, cháu cứ vậy suốt thôi.” Uông Diểu ấp úng đáp. “Cậu đợi chút.” Bà Dương lấy trong tủ ra một chiếc hộp gỗ nhỏ, Uông Diểu thấy bên trên có đề là nhân sâm. “Một chiến sĩ già ở căn cứ ngày xưa đến thăm tôi hai hôm trước, mang cho cái này… Không, không, cậu cầm đi, đây là loại do người trồng, không quý giá gì đâu, tôi bị huyết áp cao, không dùng được. Cậu có thể cắt lát ngâm vào trà mà uống, nhìn sắc mặt cậu kìa, cứ như bị thiếu máu ấy. Người trẻ tuổi phải biết chăm sóc bản thân chứ.” Uông Diểu chợt thấy ấm lòng, hai mắt ươn ướt, quả tim hai ngày nay đã căng ra hết mức của anh giống như được đặt lên một lớp lông thiên nga mềm mại. “Cô Diệp, cháu sẽ thường đến thăm cô.” Nói rồi, anh nhận lấy hộp gỗ. 6. Vũ trụ nhấp nháy phần 1 Uông Diểu lái xe dọc đường Kinh Mật đến huyện Mật Vân, rồi rẽ vào đầm Hắc Long, đi thêm một đoạn đường vòng quanh núi nữa là đến cơ sở quan trắc thiên văn vô tuyến của Trung tâm quan trắc thiên văn Quốc gia thuộc Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc. Anh thấy hai mươi tám chiếc ăng ten parabol đường kính mỗi chiếc khoảng 9 mét xếp thành hàng ngang dưới ánh chiều tà, trông như một thể một hàng cây kim loại lừng lững, hai ăng ten kính viễn vọng vô tuyến khổng lồ đường kính 50 mét hoàn thành năm 2006 đứng sừng sững ở hai đầu dãy ăng ten 9 mét, lúc lái xe đến gần chúng, Uông Diểu không khỏi liên tưởng đến cảnh nền tấm ảnh hai mẹ con Dương Đông chụp chung kia. Nhưng dự án mà học sinh của bà Diệp Văn Khiết đang thực hiện lại không liên can gì đến kính thiên văn vô tuyến này, phòng thí nghiệm của tiến sĩ Sa Thụy Sơn chủ yếu là thu thập dữ liệu quan trắc của ba vệ tinh: vệ tinh thăm dò bức xạ nển vi sóng vũ trụ COBE được phóng lên từ tháng 11 năm 1989 nay đã sắp sửa bị đào thải, tàu thăm dò dị hướng vi sóng Wilkinson hay WMAP phóng năm 2003 và tàu thăm dò bức xạ nền vi sóng vũ trụ độ nhạy cao Planck do Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) phóng năm 2007. Về tổng thể, phổ phân bố của bức xạ nền vi sóng vũ trụ đồng nhất chính xác với phổ phát xạ của một vật đen tuyệt đối có nhiệt độ 2,726 độ K và bức xạ đó có tính đẳng hướng với độ chính xác cao, nhưng xét về cục bộ, cũng tồn tại sai số trong khoảng cộng trừ 5 phần triệu. Công việc của Sa Thụy Sơn chính là dựa vào số liệu quan trắc được của vệ tinh, vẽ lại một bức bản đồ bức xạ nền vi sóng của vũ trụ một cách chi tiết hơn. Phòng thí nghiệm này không lớn lắm, trong phòng máy tính chất đầy các thiết bị thu nhập số liệu vệ tinh, có ba thiết bị đầu cuối lần lượt hiển thị số liệu từ ba vệ tinh khác nhau. Sa Thụy Sơn thấy Uông Diểu, lập tức tỏ thái độ nhiệt tình của kẻ làm việc đơn độc suốt thời gian dài mới có khách đến thăm, hỏi han xem anh muốn tìm hiểu số liệu quan trắc về phương diện nào. “Tôi muốn xem dao động tổng thể của bức xạ nền vũ trụ.” “Anh… nói cụ thể hơn một chút được không?” Ánh mắt Sa Thụy Sơn bỗng trở nên kỳ lạ. “Thì là, dao động tổng thể đẳng hướng của bức xạ nền vi sóng 3K, biên độ dao động từ 1% đến 5%.” Sa Thụy Sơn cười cười, từ đầu thế kỷ này, đài thiên văn vô tuyến Mật Vân đã mở cửa cho du khách tham quan để kiếm thêm thu nhập, Sa Thụy Sơn thường hay làm hướng dẫn hoặc đảm nhiệm việc thuyết giảng, đây là nụ cười của anh ta khi trả lời các câu hỏi của du khách (anh ta đã thích ứng với sự mù khoa học đến phát sợ của họ rồi). “Anh Uông, anh… không nghiên cứu chuyên ngành này đúng không?” “Tôi nghiên cứu về vật liệu nano.” “Ồ, vậy thì đúng rồi. Có điều, anh cũng có tìm hiểu qua loa về bức xạ nền vũ trụ 3K đúng không?” “Những gì tôi biết không nhiều. Giả thiết về nguồn gốc vũ trụ hiện nay cho rằng, vũ trụ sinh ra trong một vụ nổ lớn vào khoảng 14 tỷ năm trước, vào thời kỳ đầu khi mới sinh ra, nhiệt độ của vũ trụ cực cao, sau này bắt đầu nguội dần, hình thành nên một thứ ‘than hồng’ được gọi là bức xạ nền vi sóng. Loại bức xạ này còn sót lại trong khắp vũ trụ, với đỉnh nằm trong dải bước sóng vi ba. Hình như là vào năm một chín sáu mấy thì phải, có hai người Mỹ khi điều chỉnh ăng ten thu nhận tín hiệu vệ tinh độ chính xác cao đã tình cờ phát hiện ra bức xạ nên vũ trụ này…” “Đủ rồi.” Sa Thụy Sơn xua tay ngắt lời Uông Diểu, “Vậy chắc anh biết, khác với những biến thiên nhỏ mà ta thấy khi quan trắc những vị trí cục bộ khác nhau, dao động tổng thể của bức xạ nền vi sóng vũ trụ phụ thuộc vào sự dãn nở của vũ trụ, nó thay đổi chậm tới mức phải tính bằng tuổi vũ trụ, với độ chính xác của tàu thăm dò Plank, một triệu năm sau cũng chưa chắc có thể phát hiện ra sự thay đổi này, vậy mà tối này anh lại muốn phát hiện nó dao động tận 5%?! Có biết thế nghĩa là gì không? Thế tức là cả cái vũ trụ này sẽ nhấp nháy như cái đèn tuýp bị hỏng ấy!” Chẳng những thế, lại còn là nhấp nháy vì tôi nữa. Uông Diểu thầm nhủ. “Cô Diệp đang đùa trò gì vậy.” Sa Thụy Sơn lắc đầu. “Chỉ mong đúng là trò đùa.” Uông Diểu nói, anh vốn định bảo với anh ta Diệp Văn Khiết không biết chuyện gì cả, nhưng lại sợ vì thế mà bị anh ta từ chối, có điều, những lời vừa nói ra cũng đúng là những điều trong lòng anh nghĩ. “Nếu cô Diệp đã có lời, vậy thì anh cứ quan sát đi, đằng nào cũng không tốn công, độ chính xác 1% thì dùng món đồ cổ COBE là được rồi.” Sa Thụy Sơn vừa nói, vừa thao tác trên thiết bị đầu cuối, thoáng cái trên màn hình đã xuất hiện một đường màu xanh lục thẳng tắp, “anh nhìn xem, đây chính là đường sóng thể hiện dao động thời gian thực của tổng thể bức xạ nền vũ trụ trong từng thời điểm này, ừm, nên gọi là đường thẳng mới chính xác, trị số là 2,726 ± 0,01 K, sai số đó là hiệu ứng Doppler(*) sinh ra khi hệ Ngân Hà vận động, đã được lọc đi rồi. Nếu xảy ra dao động mà biên độ sóng vượt quá 1% như anh nói, đường thẳng này sẽ chuyển sang màu đỏ và thể hiện dao động sóng. Tôi dám đánh cược cho đến ngày tần cùng thế giới, nó vẫn là một đường thẳng màu xanh, muốn trông thấy nó thể hiện ra thay đổi mà mắt thường nhìn thấy được, có khi còn phải đợi lâu hơn cả đợi Mặt trời bị tắt lụi ấy chứ.” (*) Hiệu ứng Doppler: là một hiệu ứng vật lý, đặt tên theo Christian Andreas Dopper, trong đó tần số và bước sóng của sóng âm, sóng điện tử hay các sóng nói chung bị thay đổi khi nguồn phát sóng có chuyển động tương dối với người quan sát. “Chuyện này có ảnh hưởng đến công việc thường ngày của anh không?” “Tất nhiên là không, độ chênh lệch lớn như vậy, dùng số liệu quan trắc đồng nát của COBE là đủ rồi. Được rồi, bắt đầu từ bây giờ, nếu có biến động lớn xuất hiện, số liệu sẽ tự động lưu lại vào đĩa.” “Có thể phải đợi đến một giờ sáng.” “Ồ, chính xác vậy à? Không sao, đằng nào tôi cũng trực đêm mà. Anh ăn cơm chưa? Vậy được, tôi dẫn anh đi tham quan một chút nhé.” Đêm nay không có trăng, họ chậm rãi bước dọc theo dãy ăng ten dài. Sa Thụy Sơn chỉ vào cột ăng ten nói: “Hoành tráng không? Đáng tiếc đều là tai của người điếc cả.” “Tại sao?” “Từ lúc chúng xây dựng xong đến nay, dải tần quan trắc đã liên tục bị gây nhiễu, trước tiên là đài phát thanh liên lạc hồi cuối những năm 80 thế kỷ trước, đến nay thì là hệ thống thông tin di động đang phát triển điên cuồng. Những hạng mục mà các kính viễn vọng vô tuyến có khẩu độ tổng hợp sóng ngắn này có thể làm được như là: tuần tra bầu trời bằng sóng ngắn, phát hiện các nguồn sóng điện biến thiên, nghiên cứu di tích sao siêu mới… hầu hết đều không thể triển khai bình thường. Chúng tôi đã nhiều lần tìm đến Ủy ban quản lý vô tuyến điện quốc gia, nhưng không có tác dụng, chúng tôi có thắng được China Mobile, China Unicom, China Netcom không? Không có tiền, sự huyền ảo của vũ trụ là cái đinh gì! Cũng may, dự án của tôi dựa vào số liệu vệ tinh gửi về, không liên quan gì đến những ‘cảnh quan du lịch’ này.” “Những năm gần đây, nhiều nghiên cứu cơ sở được vận hành thương mại hóa vẫn rất thành công, ví dụ như ngành Vật lý hạt. Xây cơ sở quan sát ở nơi xa thành thị một chút hẳn là đỡ hơn chứ?” “Vẫn là vấn đề tiền thôi. Hiện tại, chỉ có thể ngăn chặn nhiễu loạn bằng biện pháp kỹ thuật. Chậc, cô Diệp mà ở đây thì tốt quá, về phương diện này, cô ấy rất uyên thâm.” Sau đó, họ đến một quán bar mở thâu đêm dành cho du khách. Sa Thụy Sơn uống hết cốc bia này đến cốc bia khác, càng lúc càng nói nhiều. Chủ đề câu chuyện tập trung vào Diệp Văn Khiết. Qua lời người học sinh, Uông Diểu biết được nửa trước cuộc đời đã trải lắm gió sương của bà. 7. Những năm tháng điên cuồng Trung Quốc, năm 1967. Cuộc tấn công của Liên hiệp Đỏ vào tòa nhà Tổng bộ Binh đoàn 428 đã kéo dài hai ngày, cờ xí của bọn họ phấp phới bay lượn xung quanh tòa nhà, tựa như những mồi lữa đang thèm khát củi khô. Viên chỉ huy của Liên hiệp Đỏ lòng như lửa đốt, y không hề sợ đám lính phòng thủ trong tòa nhà, hơn hai trăm chiến sĩ của 428 so với Liên hiệp Đỏ ra đời từ đầu năm 1966, đã trải qua Đại duyệt binh (*) và Nối vòng tay lớn(**) thì non nớt hơn nhiều lắm. Thứ mà y sợ hãi là mười mấy cái thùng sắt lớn nhét đầy thuốc nổ mạnh, được nối với nhau bằng kíp nổ điện trong tòa nhà ấy, y không nhìn thấy chúng, nhưng lại cảm nhận được sự tồn tại như những khối nam châm của chúng, nhưng lại cảm nhận được sự tồn tại như những khối nam châm của chúng, công tắc bật lên là ngọc đá cùng tan, mà bọn Hồng vệ binh của Binh đoàn 428 ấy thừa sức mạnh tinh thần để làm được việc này. So với những Hồng vệ binh thế hệ đầu đã trưởng thành hơn nhiều trong mưa bão, phái Tạo phản mới nổi này giống như bầy sói trên đống than hồng, ngoài điên cuống ra thì chỉ biết có điên cuồng. (*) Trong năm 1966, Mao Trạch Đông đã tiến hành tám lần tổng duyệt binh và tiếp kiến Hồng vệ binh. (**) Chỉ một hoạt động vào giai đoạn đầu của Cách mạng văn hóa, từ nửa cuối năm 1966 đến đầu năm 1967, khi Hồng vệ binh ở các trường đại học, trung học bãi khóa, đi khắp cả nước tiến hành hoạt động giao lưu, trao đổi, tuyên truyền tạo phản, gây ra hỗn loạn nghiêm trọng về giao thông và trật tự xã hội trên phạm vi toàn quốc. Trên nóc toàn nhà xuất hiện vóc dáng nhỏ nhắn của một cô gái xinh đẹp đang phất lá cờ của Binh đoàn 428, sự xuất hiện của cô lập tức làm dấy lên một loại tiếng súng hỗn tạp, đủ các loại vũ khí cùng bắn ra, có súng carbin kiểu Mỹ cũ rích, có cả súng máy Tiệp Khắc ZB vz. 26(*) và súng trường Shiki 38(**), cũng có cả súng trường tiêu chuẩn và súng tiểu liên mới tinh – mấy loại mới này là trộm trong quân đội sau khi “Xã luận Tháng Tám” được đăng lên – những thứ này cùng với những vũ khí lạnh như lưỡi mác và đại đao, đã viết nên một bộ lịch sử cận đại cô đọng. Người của Binh đoàn 428 lúc trước đã chơi trò này rất nhiều lần, người đứng trên nóc nhà ngoài phất cờ ra, có lúc còn bắc loa hò hét hoặc rải truyền đơn xuống dưới, lần nào bọn chúng cũng an toàn rút lui trong làn mưa đạn, giành lấy vinh dự lớn lao về cho mình. Cô gái xuất hiện lần này rõ ràng cũng tin rằng mình vẫn may mắn như thế. Cô phất cao lá chiến kỳ, phất cao tuổi trẻ đang bốc cháy ngùn ngụt của mình, kẻ địch sẽ bị thiếu đốt thành tro tàn trong ngọn lửa ấy, thế giới lý tưởng sẽ sinh ra trong nhiệt huyết sôi trào của cô vào ngày mai… Cô say đắm trong ảo mộng đỏ thắm rực rỡ ấy, cho đến khi bị một viên đạn xuyên qua lồng ngực, ngực của thiếu nữ tuổi mười lăm mềm mại nhường nào, viên đạn sau khi xuyên qua hoàn toàn không hề giảm tốc, bật ra khỏi lưng cô còn rít lên một tiếng bay vụt đi. Nữ Hồng vệ binh trẻ tuổi cũng lá cờ của cô rơi xuống khỏi nóc nhà, thân hình mảnh mai nhẹ nhàng rơi thậm chí còn chậm hơn lá cờ, tựa như con chim nhỏ đang quyến luyến bầu trời. Kỳ thực, so với một số người khác, cô vẫn còn may mắn, ít nhất cô đã chết đi trong xúc cảm tráng lệ, vì lý tưởng mà hiến dâng thân mình. (*) ZB vz. 26 là loại súng trường do Tiệp Khắc phát triển trong những năm 1920. Loại súng này kết hợp nhiều thiết kế của các loại súng khác nhau như Berthier, Browning BAR M1918, Darne, Hotchkiss, Madsen và St.Etienne cùng các thiết kế riêng. (**) Súng trường Shiki 38 là loại súng trường lên đạn từng viên. Đây là loại súng trường tiêu chuẩn của bộ binh Nhật Bản trong thời gian dài. Những điểm nóng như thế này trải khắp thành phố, giống như vô số CPU đang vận hành cùng một lúc để kết nối Đại cách mạng văn hóa thành một chỉnh thể. Sự điên loạn giống như một cơn lũ vô hình nhấn chìm thành phố bên trong nó, thẩm thấu đến từng ngóc ngách và khe rãnh nhỏ nhoi. Trên sân vận động của trường đại học nổi tiếng ở ngoại ô thành phố, một buổi đại hội phê đấu có mấy nghìn người tham gia đã tiến hành được hai giờ đồng hồ. Ở cái thời đại bè phái mọc lên như rừng này, bất cứ nơi nào cũng có những bè phái đối lấp phức tạp đấu đá với nhau. Trên san trường, Hồng vệ binh, tổ công tác Cách mạng văn hóa, đội tuyên truyền công nhân và đội tuyên truyền quân đội đang xung đột dữ dội, mà bên trong các bè phái này lại không ngừng phân hóa ra thành các bè phái đối lập mới, bảo vệ và giữ gìn những nền tảng và cương lĩnh khác nhau, làm bùng lên những cuộc giao đấu tàn khốc hơn gấp bội. Nhưng những vị quyền cao chức trọng trong giới học thuật phản động bị phê đấu lần này lại là mục tiêu đấu tranh mà không phe phái nào dị nghị gì, bọn họ đành phải cùng lúc nhận lấy những đòn công kích tàn nhẫn từ nhiều hướng khác nhau. So với những hạng “ngưu quỷ xà thần” khác, giới học thuật phản động có đặc điểm của họ: khi đả kích mới bắt đầu, biểu hiện của họ luôn cao ngạo và ngoan cố, đây cũng là giai đoạn mà tỷ lệ thương vong của họ cao nhất; có người vì không chịu nhận tội mà bị đánh chết ngay tại chỗ, có người thì lựa chọn tự sát để bảo vệ sự tôn nghiêm của mình. Những người may mắn sống sót qua giai đoạn này, sẽ dần dần trở nên tê liệt, đây là một lớp vỏ tinh thần để tự bảo vệ mình, khiến họ tránh khỏi sụp đổ hoàn toàn. Trong đại hội phê đấu, họ thường rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, chỉ có một tiếng quát lớn mới làm họ giật mình sực tỉnh, máy móc lặp lại những lời nhận tội mình đã nói vô số lần. Sau đó, một bộ phận trong số họ sẽ đi vào giai đoạn thứ ba, những lời phê phán liên tục dài ngày sẽ đổ hình ảnh chính trị rõ nét vào trong ý thức của bọn họ như đổ thủy ngân, làm tòa nhà tư tưởng được xây dựng bằng tri thức và lý tính của họ sụp đổ triệt để, họ thật sự tin rằng mình có tội, thật sự thấy những tổn hại mình đã tạo ra cho sự nghiệp vĩ đại, đồng thời khóc lóc gào thét trong đau đớn, sự hối hận của họ bao giờ cũng sâu sắc hơn, chân thành hơn những phần tử không phải là tri thức rất nhiều. Đối với Hồng vệ binh, phê phán những đối tượng đã tiến vào hai giai đoạn sau là vô vị nhất, chỉ có những đối tượng “ngưu quỷ xà thần” ở giai đoạn đầu mới khiến thần kinh vốn đã bị hưng phấn quá độ của bọn chúng nảy sinh kích thích mạnh mẽ, giống như tấm vải đỏ trên tay võ sĩ đấu bò vậy. Nhưng những đối tượng như vậy càng lúc càng hiếm hoi, ở trường đại học này có lẽ chỉ còn lại một người, vì sự hiếm hoi ấy mà ông ta được giữ lại cho đến cuối buổi phê đấu mới đưa ra. Diệp Triết Thái đã sống từ đầu Cách mạng văn hóa đến bây giờ, vả lại còn luôn ở trong giai đoạn thứ nhất, ông không nhận tội, không tự sát, cũng không tê liệt. Khi vị giáo sư ngành vật lý này bước lên bục phê đấu, vẻ mặt ông rõ ràng đang nói: hãy chất thêm gánh nặng lên cây thập tự giá ta cõng trên lưng đi! Những thứ đám Hồng vệ binh bắt ông đeo trên người quả thật rất nặng nề, nhưng không phải là cây thập giá. Mũ cao cho các đối tượng phê đấu khác đều làm khung bằng thanh tre, còn chiếc mũ mà ông đội lại hàn từ những thanh sắt to cỡ đầu ngón tay, tấm bảng ông đeo trước ngực kia cũng không phải bảng gỗ như người khác, mà là một cánh cửa sắt dỡ ra từ chiếc lò nung trong phòng thí nghiệm, bên trên dùng mực đen viết tên ông rõ mồn một, còn vẽ một dấu X lớn màu đỏ dọc theo hai đường chéo. Số lượng Hồng vệ binh áp giải Diệp Triết Thái cũng đông gấp đôi những đối tượng phê đấu khác, có đến sáu người, hai nam bốn nữ. Hai nam thanh niên sải bước nhanh nhẹn mạnh mẽ, toát lên hình tượng của người thanh niên Bolshevik đã trưởng thành, bọn họ đều là sinh viên năm thứ tư chuyên ngành Vật lý lý thuyết của khoa Vật lý, Diệp Triết Thái từng là thầy giáo của họ. Bốn cô gái kia trẻ hơn nhiều, toàn là học sinh lớp 7 của trường trung học trực thuộc đại học. Những chiến sĩ nhỏ mặc quân trang, đeo thắt lưng vũ khí này bừng bừng sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ, tựa như bốn ngọn lửa xanh bao vây lấy Diệp Triết Thái. Sự xuất hiện của ông làm đám người bên dưới hưng phấn hẳn lên, những tiếng hô khẩu hiệu vừa nãy đã bắt đầu hụt hơi nay lại dâng cao như một đợt sóng triều mới, nhấn chìm hết thảy. Sau khi kiên nhẫn đợi cho tiếng hô khẩu hiệu lắng xuống, một trong hai Hồng về binh nam trên bục quay sang phía đối tượng bị phê đấu: “Diệp Triết Thái, ông thông hiểu các loại lực học, hẳn cũng đã nhìn thấy hợp lực vĩ đại mà ông đang kháng cự lớn mạnh nhường nào, cứ tiếp tục ngoan cố thì chỉ có con đường chết mà thôi! Hôm nay sẽ tiếp tục nghị trình của đại hội lần trước, không nói những lời thừa thãi nữa. Hãy mau thành thực trả lời câu hỏi dưới đây: trong bài giảng Cơ sở từ khóa 62 đến khóa 65, có phải ông đã tự tiện thêm vào một lượng lớn nội dung của Thuyết tương đối không?!” “Thuyết tương đối đã trở thành lý luận kinh điển của vật lý, bài giảng Cơ sở sao có thể không nói đến nó chứ?” Diệp Triết Thái trả lời. “Láo toét!” Một nữ Hồng vệ binh bên cạnh gằn giọng quát, “Einstein là tên học giả phản động, ai cho ăn thì bám đít, đi làn bom nguyên tử cho bọn đế quốc Mỹ! Muốn xây dựng nền khoa học cách mạng thì phải đánh đổ ngọn cờ đen lý thuyết của giai cấp tư sản mà đại diện chính là Thuyết tương đối!” Diệp Triết Thái im lặng, ông đang gắng gượng chịu đựng sự đau đớn mà cái mũ bằng sắt trên đầu và tấm biển sắt trước ngực gây ra, những câu hỏi nào không đáng trả lời thì ông đều im lặng. Sau lưng ông, những sinh viên của ông cũng nhíu mày. Cô bé vừa lên tiếng là người thông minh sáng láng nhất trong bốn Hồng vệ binh học sinh trung học, hơn nữa rõ ràng đã chuẩn bị từ trước, khi nãy trước khi lên bục còn trông thấy cô học thuộc lòng bài phê đấu, nhưng muốn đối phó với Diệp Triết Thái, chỉ dựa vào mấy câu khẩu hiệu đó của cô thì không được. Bọn họ quyết định rút ra vũ khí mới đã chuẩn bị riêng cho thầy giáo của mình ngày hôm nay, một người trong bọn vẫy tay xuống phía dưới. Vợ của Diệp Triết Thái, Thiệu Lâm, cũng là giáo sư vật lý dạy cùng khoa, đứng dậy từ hàng đầu tiên bên dưới, bước lên bục. Bà mặc một bộ đồ màu xanh lục không vừa người, rõ ràng là muốn kéo gần khoảng cách với màu sắc của Hồng vệ binh, nhưng những người quen biết Thiệu Lâm liên tưởng đến người phụ nữ thường mặc những bộ xường xám tinh tế giảng bài trước đây, cứ cảm thấy không quen mắt. “Diệp Triết Thái!” Thiệu Lâm chỉ vào chồng quát lên, rõ ràng bà ta không quen với cảnh này, gắng hết sức để cao giọng, nhưng lại càng lộ rõ sự run rẩy, “Ông không ngờ tôi lại đứng lên để vạch trần ông, phê phán ông phải không? Đúng thế, trước đây tôi bị ông lừa gạt, ông đã dùng thế giới quan và cái quan điểm khoa học phản động kia để che mắt tôi! Giờ tôi tỉnh ngộ rồi, được các tiểu tướng cách mạng giúp đỡ, tôi phải đứng về phía cách mạng, về phía nhân dân!” Bà ta quay mặt xuống dưới bục: “Các đồng chí, các tiểu tướng của cách mạng, các giáo chức cách mạng, chúng ta cần phải nhận rõ được bản chất phản động của Thuyết tương đối Einstein, bản chất này được thể hiện rõ nhất trong Thuyết tương đối rộng: nó đưa ra mô hình vũ trụ ở trạng thái tĩnh, phủ định tính vận động của vật chất, đây là ngược với phép biện chứng! Nó cho rằng vũ trụ có giới hạn, rõ ràng là chủ nghĩa duy tâm phản động từ đầu đến cuối…” Nghe vợ mình thao thao bất tuyệt, Diệp Triết Thái chỉ cười khổ não. Lâm, tôi che mắt bà ư? Kỳ thực, trong lòng tôi, bà luôn là một bí ẩn. Một lần, tôi khen ngợi thiên tư của bà với cha bà – ông ấy rất may mắn, ra đi sớm, tránh được kiếp nạn này – ông già lắc đầu, nói con gái bố không thể có thành tựu gì trong học thuật cả; kế đó, ông còn nói ra một câu rất quan trọng với nửa đời sau của tôi: Lâm Lâm quá thông minh, nhưng nghiên cứu lý thuyết cơ bản thì không ngốc không làm được đâu. Suốt nhiều năm về sau, tôi không ngừng lĩnh hội được thâm ý của câu nói này. Lâm, bà thật sự là quá thông minh, từ mấy năm trước bà đã đánh hơi được xu hướng chính trị của giới trí thức, làm ra một số hành động vượt quá quy định, ví dụ như trong khi dạy học, bà đã đổi tên hầu hết các định luật và tham số vật lý, Định luật Ohm thì đổi thành Định luật điện trở, Phương trình Maxwell thì đổi thành Phương trình điện tử, Hằng số Plank đổi thành Hằng số lượng tử… Bà giải thích với các sinh viên rằng: tất cả thành quả khoa học đều là kết tinh của nhân dân lao động, những tên học phiệt giai cấp tư sản kia chẳng qua chỉ ăn cắp những trí tuệ này mà thôi. Nhưng dù vậy, bà vẫn không được “chủ lưu cách mạng” chấp nhận, nhìn bà bây giờ mà xem, cánh tay áo không có băng đỏ mà “Giáo chức công nhân viên cách mạng” đều đeo; bà đi hai tay không lên đây, đến một quyển Ngữ lục(*) cũng chẳng có tư cách cầm theo… Ai bảo bà ra đời trong một gia đình hiển hách thời chế độ cũ, cha mẹ bà lại đều là những học giả nổi tiếng như thế kia chứ. (*) Tức Mao Trạch Đông ngữ lục, cuốn sách nhỏ trích lời Mao Trạch Đông. Nói đến Einstein, bà còn có nhiều điều phải khai báo hơn tôi ấy chứ. Mùa đông năm 1922, Einstein đến Thượng Hải, cha bà rất giỏi tiếng Đức nên được sắp xếp làm một trong những người đi theo đoàn tiếp đãi. Bà từng nhiều lần nói với tôi, cha bà được Einstein đích thân dạy dỗ mà bước vào con đường nghiên cứu vật lý, còn bà chọn ngành này do chịu ảnh hưởng của cha, vì vậy Einstein cũng có thể coi như người thầy gián tiếp của bà, bà cảm thấy vô cùng tự hào và hạnh phúc vì điều ấy. Sau này tôi mới biết, cha bà đã nói dối, một lời nói dối đầy thiện ý, ông ấy và Einstein chẳng qua chỉ có một cuộc trao đổi ngắn đến không thể nào ngắn hơn được nữa. Đó là ngày 13 tháng 11 năm 1922, ông ấy theo Einstein tản bộ ở đường Nam Kinh, cùng đi hình như còn có hiệu trưởng Đại học Thượng Hải Vu Tả Nhậm, giám đốc tờ Đại Công Báo Tào Cốc Băng… đi qua một chỗ đang duy tu nền đường, Einstein dừng lại bên cạnh một công nhân đập đá, lặng lẽ nhìn cậu thiếu niên mặt mũi tay chân lem luốc, mặc chiếc áo rách rưới trong gió rét ấy, rồi hỏi cha bà: một ngày cậu kiếm được bao nhiêu tiền? Sau khi hỏi chú bé phụ việc ấy, cha bà trả lời: năm hào. Đây là cuộc nói chuyện duy nhất của ông ấy với nhà khoa học vĩ đại đã thay đổi thế giới này, không hề nhắc đến vật lý, cũng không nhắc đến Thuyết tương đối, chỉ có hiện thực lạnh giá mà thôi. Cha bà kể rằng, Einstein nghe xong câu trả lời của ông lại lặng lẽ đứng ở đó một lúc lâu, nhìn chú bé ấy đờ đẫn làm việc, tẩu thuốc trên tay đã tắt lụi mà không hút hơi nào. Hồi tưởng lại chuyện này, cha bà từng cảm thán với tôi rằng: ở Trung Quốc, bất cứ tư tưởng độc đáo bay bồng nào cũng sẽ rơi bịch xuống đất thôi, lực hấp dẫn của hiện thực thật quá nặng nề. “Cúi đầu xuống!” Một nam Hồng vệ binh lớn tiếng ra lệnh. Đây có lẽ là chút thương hại còn sót lại của sinh viên dành cho thầy giáo, người bị phê đấu đều phải cúi đầu, nhưng nếu Diệp Triết Thái làm vậy, cái mũ cao bằng sắt nặng nề kia sẽ rơi xuống, sau này chỉ cần nôg cúi đầu thì không có lý do gì để bắt ông đội nó lên nữa. Nhưng Diệp Triết Thái vẫn ngẩng cao đầu,