🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tam Quốc Chí - Sách lược và mưu kế tranh hùng
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
Chương I:THỜI TAM QUỐC VÀ SÁCH LƯỢC TRANH HÙNG Chương II:MƯU KẾ TAM QUỐC CHÍ (48 MƯU KẾ) SÁCH THAM KHẢO
MỤC LỤC
AUTHOR
Chương1:THỜI TAM QUỐC VÀ SÁCH LƯỢC TRANH HÙNG.
A. KHÁI QUÁT THỜI TAM QUỐC:
Năm 190, Đổng Trác đốt thành Lạc Dương, vương triều Đông Hán chỉ còn trên danh nghĩa. Các vùng ở Quan Đông liên minh tôn Viên Thiệu làm minh chủ, cùng tiến công chống Đổng Trác.
Đổng Trác chạy về phía tây thì liên minh của Viên Thiệu cũng tan rã, các thế lực cát cứ thôn tính lẫn nhau, sau đó chỉ còn tám thế lực hùng mạnh :
Viên Thiệu chiếm cứ ba châu là Kí, Thanh, Tịnh.
Tào Tháo chiếm hai châu là Nghiễu, Dự.
Lưu Bị, Lữ Bố chiếm Từ Châu.
Tôn Sách chiếm cứ Giang Đông.
Công Tôn Toản chiếm cứ Từ Châu.
Lưu Biểu chiếm cứ Kinh Châu.
Mã Đằng, Hàn Toại chiếm cứ Lương Châu.
Công Tôn Cự chiếm cứ Liêu Đông.
Trong các thế lực cát cứ, Tào Tháo cướp được con bài Hiến đế, tập trung quyền hành chính trị, lấy đó làm ưu thế để sai khiến các chư hầu.
Năm 200, trong trận Quan Độ, Tào Tháo với hai, ba vạn quân đã đánh bại hai mươi vạn quân của Viên Thiệu, đặt nền móng thống trị ở vùng hạ du sông Hoàng Hà.
Trải qua thêm bảy năm chinh chiến ; năm 207, Tào Tháo bình định xong Ô Hoàn, thống nhất được miền Bắc.
Sau một thời gian nghỉ ngơi, năm 208, Tào Tháo dẫn quân xuống Giang Nam, định thôn tính Tôn Quyền. Tôn Quyền liên minh với Lưu Bị để chống Tào Tháo.
Trong trận Xích Bích, liên minh Tôn Quyền – Lưu Bị, với năm, sáu vạn quân đã đánh bại hai mươi vạn quân của Tào Tháo (Tam quốc chí nói 83 vạn ?), hình thành thế chia ba thiên hạ.
Các nhà quân sự cho rằng, Tào Tháo bại trận Xích Bích là do ba nguyên nhân :
Một, quân Tào Tháo bị dịch bệnh, không đủ sức chiến đấu.
Hai, sau trận chiến thắng lẫy lừng ở Quan Độ, quân đội Tào Tháo trở thành kiêu binh, khinh địch.
Ba, Tào Tháo không hiểu hết sự diễn biến của thời tiết, gió đông nổi lên, làm cho kế hoả công của Chu Du thành côngSau trận Xích Bích, Tào Tháo không còn đủ sức thôn tính khu vực lưu vực sông Trường Giang nữa, quay về đóng quân ở miền Bắc như cũ.
Sau chiến thắng Xích Bích, Lưu Bị chiếm được bốn quận ở Kinh Châu là Vũ Lăng, Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, mượn lại một phần Nam Quận của Tôn Quyền.
Cũng sau trận Xích Bích, Tôn Quyền củng cố lại căn cứ địa là Giang Nam. Năm 212, chiếm cứ Lĩnh Nam. Năm 219, đoạt Kinh Châu. Năm 212, Tôn Quyền đánh bại Lưu Bị ở trận Di Lăng. Sau đó Ngô – Thục lại hoà hoãn.
Thời Tam quốc kéo dài được nửa thế kỉ ; trong ba nước thì Nguỵ mạnh nhất và Thục là yếu nhất ; thế lực phá vỡ thế chân vạc là Nguỵ – Tấn ; Nguỵ diệt Thục, Tấn diệt Ngô.
B.SÁCH LƯỢC TRANH HÙNG THỜI TAM QUỐC:
1.TÀO THÁO- TẬN DỤNG THIÊN THỜI - THỐNG NHẤT PHƯƠNG BẮC.
a) Tào Tháo:
Tào Tháo tiểu tự là A Man, có tên nữa là Cát Lợi.
Lúc Tháo còn trẻ, thích săn bắn, ham múa hát, nổi tiếng là tay cơ biến, quyền mưu.
Người chú thấy Tháo chơi bời vô độ, giận mách với cha Tháo là Tào Tung. Bị cha trách mắng, Tháo nghĩ ra một kế (vô trung sinh hữu).
Thấy ông chú đến, Tháo vội nằm lăn ra đất làm như bị trúng phong.
Người chú thấy vậy, cả sợ vội đến báo với Tào Tung. Tung vội chạy lại xem, thấy Tháo chẳng bệnh gì cả, bèn hỏi :
- Chú mày nói mày trúng phong. Nay đã khỏi rồi chăng ?
Tháo nói :
- Thưa cha ! Từ thuở bé tới giờ con có bệnh ấy đâu. Chẳng qua chú thù ghét con, nên đặt điều đấy thôi. Tung tưởng thật.
Từ đấy, người chú có kể tội Tháo, thì Tào Tung cũng không buồn nghe. Nhân thể, Tháo càng phóng đãng hơn xưa.
Bấy giờ, có một người tên là Kiều Huyền, bảo Tháo :
- Thiên hạ sắp đại loạn, nếu không có người tài giỏi thì không dẹp được. Xem ra, người làm được việc này chỉ có ông !
Hà Ngung, người đất Nam Dương, cũng tán vào :
- Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chỉ có Tào Tháo.
Hứa Thiệu, đất Nhữ Nam, có tiếng là tài giỏi biết người. Tháo đích thân đến hỏi. Thiệu nói : - Anh là năng thần của đời trị và gian thần của đời loạn.
Tháo nghe nói, mừng lắm.
Năm 20 tuổi, Tháo thi đỗ Hiếu liêm, được bổ làm quan lang, sau lại được thăng chức Đô uý huyện Lạc Dương.
Lúc mới nhậm chức, Tháo sai treo hơn mười cái roi ngũ sắc ở bốn cửa huyện, không kể hào quý, hễ ai phạm pháp đều không tha.
Ngay chú của quan trung thường là Kiển Thạc vác giáo đi đêm, Tháo đi tuần bắt được, cũng đem nọc đánh ngay.
Bởi thế, trong ngoài kinh sợ, không ai dám làm trái phép.
Sau, Tháo lại được phong chức Lệnh doãn Đốn Kỉ.
Năm 184, Khăn Vàng nổi loạn, Tháo được thăng chức Đô uý, đem năm trăm ngàn quân kị mã và bộ binh
đến giúp Dĩnh Xuyên.
Tình cờ giữa đường gặp Trương Lương, Trương Bảo thua chạy, Tháo đón đánh một trận kịch liệt, chém hơn một vạn người, cướp được cờ, trống, ngựa, khí giới rất nhiều. Trương Lương, Trương Bảo liều chết mới chạy thoát.
Tháo vào hội kiến Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn, rồi lại dàn quân đuổi Trương Lương, Trương Bảo.
Hai năm sau, triều đình nội loạn, Đổng Trác đem quân về phế Thiếu đế, lập Hiến đế làm nhiều điều tàn bạo.
Trong tiệc rượu ở nhà Vương Doãn, các quan bàn việc trừ Đổng Trác. Tháo tự nguyện vào tận tướng phủ dùng bảo đao đâm Đổng Trác.
Việc ám sát không thành, Tháo chạy về Trần Lưu.
b) Giương cao ngọn cờ nhân nghĩa:
Sau khi ám sát hụt Đổng Trác, Tào Tháo chạy về Trần Lưu, làm tờ hịch phát đi các đạo, dựng ngọn cờ trắng đề hai chữ Nhân Nghĩa để chiêu tập binh mã trừ Đổng Trác.
Chỉ có mấy ngày, thiên hạ kéo đến đông như nước chảy. Tháo còn gửi hịch đi các trấn, các trấn đều khởi binh hưởng ứng.
Tào Tháo giết trâu, mổ ngựa, hội 18 chư hầu, bàn việc tiến binh. Các chư hầu tôn Viên Thiệu làm minh chủ.
Khi Đổng Trác bắt vua thiên đô từ Lạc Dương đến Trường An thì chư hầu không muốn tiến quân đánh Đổng Trác nữa.
Tào Tháo hỏi Viên Thiệu :
- Nay Đổng Trác đã kéo về Trường An, ta thừa thế đuổi theo mới phải, Bản Sơ đóng quân tại đây là ý làm sao ?
Viên Thiệu đáp :
- Chư hầu đều mỏi mệt, đuổi theo tôi sợ không được việc gì !
Tháo nói :
- Thằng giặc Đổng đổi cung thất, bức vua thiên đô ; trong nước rối động, dân không biết theo ai. Ấy là lúc
trời hại nó đấy. Nhân lúc này, đánh một trận là yên thiên hạ, sao các ông không đánh ? Chư hầu đều nói :
- Ta không nên kinh động.
Tháo nói :
- Đồ trẻ con, không đáng mưu việc lớn !
Nói xong, Tháo cùng các tướng tá ngày đêm đuổi theo Đổng Trác, nhưng bị thua ở Vinh Dương, đành phải trở về.
c) Liên minh tan rã, ai về nhà nấy:
Viên Thiệu sai người đón Tháo vào trong trại, mở tiệc giải sầu.
Trong lúc uống rượu. Tháo nói :
- Ta trước kia, khởi nghĩa lớn, cốt là vì nước trừ hại. Các ông đã có bụng trượng nghĩa đến với ta ; ý ta muốn phiền Bản Sơ đem quân Hà Nội sang đóng ở Mạnh Tân ; còn các quân Toan, Tào giữ cửa ải Ngao Thương, ngăn Hoàn Viên, Đại Cốc, khống chế những nơi hiểm yếu.
Công Lộ đem quân Nam Dương đóng ở Nam Triết, tiến vào cửa Vũ Quan để làm cho cái uy thế ở Tam Phụ lớn lên.
Nơi nào cũng thành cao, hào sâu, không đánh nhau chỉ giữ làm nghi binh để cho thiên hạ rõ hình thế, cho ta là kẻ thuận đi trừ gian thì việc lớn có thế định ngay được.
Thế mà các ông dùng dằng mãi, chẳng tiến quân, làm mất cả lòng mong đợi của thiên hạ, ta lấy làm xấu hổ quá !
Lũ Thiệu không nói gì.
Tháo thấy bọn Thiệu mỗi người một ý nghĩ, không làm được việc lớn, bèn tự kéo quân về Dương Châu. Chư hầu, ai cũng về nhà nấy.
d) Trọng thế dưỡng lực:
Lúc Tào Tháo quật khởi tuy thuận lợi, Duyện Châu là đất hiểm nhưng lại hẹp, lương thực thiếu thốn, binh lực ít, lực lượng yếu ; lại nhiều kẻ thù : Phía bắc có Viên Thiệu như cọp rình mồi ; phía nam có Lưu Biểu, Viên Thuật ; tây có Mã Đằng, Hàn Toại, Lưu Tú… Tào Tháo như lọt thỏm vào giữa bốn phương, tám hướng, đều có kẻ thù.
e) Bổ sung binh lực, chiêu hiền đãi sĩ:
Để giải quyết tình huống trên, Tháo tuân chiếu đem quân cùng Pháo Tín, tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương.
Pháo Tín chết, còn Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc hàng vài vạn người, Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu giặc hàng đến đấy.
Trong vòng một trăm ngày, Tháo chiêu an được bốn mươi vạn quân hàng ; đàn ông, đàn bà kéo theo hơn cả một triệu người. Tháo tuyển những quân tinh nhuệ đặt riêng cánh quân là Thạch Châu, còn bao nhiêu cho về làm ruộng.
Từ đó, uy danh Tào Tháo ngày càng lớn, tiếng đồn về tận kinh đô. Triều đình phong cho Tào Tháo làm Chấn đông tướng quân.
Tháo ở Duyện Châu, chiêu mộ, thu dùng những hiền sĩ. Từ bấy giờ, Tháo có nhiều văn tài, tướng giỏi ; uy danh lừng lẫy cả Sơn Đông.
f) Giữ hang ổ, đông tiến để nuôi quân:
Tào Tháo muốn đánh Từ Châu, vằm thây Đào Khiêm để trả thù cho bố. Mưu sĩ Tuân Úc can rằng :
- Xưa nay, Cao tổ giữ Quan Trung, vua Quang Vũ giữ Hà Nội, đều là mong sâu rễ bền gốc ; tiến lên thì đánh được giặc, lui về thì giữ được thành, cho nên có lúc nguy khốn, nhưng sau lại làm nên việc lớn.
Minh Công lúc đầu khởi sự ở Duyện Châu mà đất Hà, đất Tế là đất hiểm trong thiên hạ như Quan Trung, Hà Nội ngày xưa.
Nay, Minh Công sang lấy Từ Châu, thì Lữ Bố thừa cơ lấy mất Duyện Châu ; nếu không lấy được Từ Châu, thì Minh Công sẽ về đâu ?
Nay Đào Khiêm tuy chết nhưng đã có Lưu Bị, dân Từ Châu quy phục Lưu Bị, tất hết lòng vì Lưu Bị.
Minh Công bỏ Duyện Châu đánh Từ Châu, khác nào bỏ cái lớn, đi tìm cái nhỏ, bỏ gốc tìm ngọn, đem sự yên mà đổi lấy sự nguy.
Xin Minh Công xét lại.
Tháo nói :
- Năm nay mất mùa, thiếu lương ăn, quân sĩ cứ đóng ở đây cũng không xong.
Tuân Úc nói :
- Không bằng ta tiến về mặt đông, lấy đất Trần, cho quân sang ăn, ở đó.
Vả lại, dư đảng Khăn Vàng là Hà Nghi, Hoàng Thiệu ở Nhữ Nam và Dĩnh Xuyên cướp bóc vàng lụa các châu quận, lương thực nhiều nhưng giặc dễ phá.
Phá chúng nó, lấy lương thực nuôi quân sĩ, như thế triều đình cũng mừng, dân chúng cũng hả. Chính là việc thuận lòng trời !
Tháo mừng lắm, liền cho Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân ở lại giữ Nhân Thành, còn Tháo đem quân đi lấy đất Trần, Nhữ Nam và Dĩnh Xuyên.
g) Phụng Thiên tử, theo nguyện vọng dân chúng:
Năm 192, Hán Hiến đế về Trường An, Vương Doãn và Lữ Bố trừ được Đổng Trác. Không lâu, lại có loạn Lý Thôi và Quách Dĩ.
Hán Hiến đế lại chạy về Lạc Dương ; Thái uý Dương Bưu vào tâu với nhà vua nên truyền Tào Tháo vào chầu nhà vua. Nhà vua bằng lòng.
Tào Tháo ở Sơn Đông nghe tin xa giá vua về đến Lạc Dương, họp những mưu sĩ để bàn. Tuân Úc nói :
- Ngày xưa, Tấn Văn Công phụng Tương Vương làm vua, chư hầu ai cũng phục ; Hán Cao tổ để tang Nghĩa đế ai cũng theo.
Nay, Thiên tử mắc nạn, nhân dịp này tướng quân cất nghĩa binh phụng Thiên tử, theo nguyện vọng của dân chúng, sách lược ấy rất hay. Nếu không, người khác sẽ làm trước ta.
Tháo nghe được cả mừng, lại tiếp được chiếu của vua, Tháo liền cất quân.
Lý Thôi, Quách Dĩ bị Tào Tháo đánh tan tác, trốn về phía tây, hớt hơ hớt hải như chó lạc chủ, tự biết thân không còn nơi nương tựa, hai đứa liền trốn vào rừng làm giặc cỏ kiếm ăn.
Làm việc phi thường:
Sau khi thắng Lý Thôi, Quách Dĩ, Tào Tháo đem quân đóng ở thành Đại Lương. Đổng Chiêu hiến kế nên rước nhà vua về Hứa Đô, đó là việc phi thường để an bụng các tướng. Tháo nghe theo và tâu với Hiến đế.
Hiến đế cũng phải nghe Tào Tháo.
Khi đến Hứa Đô, Tháo cho sửa sang cung miếu, xã tắc, cùng các toà, các dinh, các nha môn, xây thành quách và lập kho tàng.
Tháo thưởng người có công, phạt người có tội, các việc đều do Tháo xem xét.
Tháo tự phong mình là Đại tướng quân Vũ Đình Hầu ; phong các quan chức, cắt đặt tướng tá.
Từ đó, quyền to trong nước đều rơi vào tay Tào Tháo ; các việc lớn của triều đình, trước trình Tào Tháo, sau mới tâu vua.
Thực túc binh cường:
Việc Tào Tháo bỏ Lạc Dương, không chỉ là để nắm chắc con bài chủ trong tay là Hiến đế, thâu tóm đại quyền mà còn giải quyết vấn đề lương thực.
Thành Lạc Dương lúc ấy được miêu tả như sau : Cửa nhà bị đốt cháy hết cả, đường sá rậm rạp, cỏ mọc cao lấp mắt, trong cung điện chỉ có tường đổ, vách nát.
Vua sai Dương Phụng cất tạm một cái cung nhỏ để ở, trăm quan vào mừng phải đứng trong gai góc.
Năm ấy, lại mất mùa luôn, dân Lạc Dương chỉ còn vài trăm nóc nhà cũng không có cái gì để ăn, phải ra ngoài thành bóc vỏ cây, đào rễ cỏ.
Các quan từ Thượng thư trở xuống phải ra thành hái rau ; có nhiều người bị đè chết ở chỗ tường vách nát.
Không chỉ ở Lạc Dương mà nhiều nơi dân chúng phải lưu vong, các thành ấp khác cũng không có người ở, đi xa hàng trăm dặm không thấy nhà dân, ruộng vườn bị bỏ hoang ; xương trắng đầy đồng, ngàn dặm không có tiếng gà gáy, chó sủa.
Kinh tế kiệt quệ, cứ như thế thì không đủ lương thực nuôi quân.
Sau khi về Hứa Đô, Tào Tháo liền áp dụng luật phân ruộng đất, chia làm hai loại gọi là quân đồn và dân đồn.
Dân đồn là mỗi mẫu đất gồm có 50 – 60 người canh tác, chiêu mộ các lưu dân trở lại và những người nguyên là giặc Khăn Vàng.
Tuỳ theo đất đai mà phối hợp với trâu bò, nông cụ. Hàng năm, căn cứ vào thực tế mà nạp tô thuế. Quân đồn là những vùng trú quân, quân sĩ thời bình thì cày cấy, khi có tác chiến thì đánh trận.
Áp dụng thuật phân điền thành công, sách sử ghi : Từ chỗ xương trắng đầy đồng, không có tiếng gà gáy, chó sủa ; nay từ Thọ Xuân đến Kinh Sư đâu cũng có quan nông, binh điền, vang tiếng chó sủa, gà gáy.
Thuật phân điền có ý nghĩa rất lớn về chiến lược, mỗi nơi đều có tích trữ lương thực, có thể chinh phạt bốn phương, từ yếu trở thành mạnh, từ yếu thế thành ưu thế.
h) Tránh thực, đánh hư, lần lượt đánh bại các đối thủ:
Tương tự lúc khởi binh, Tào Tháo chiếm ưu thế về chính trị lấy chiêu bài Thiên tử lệnh chư hầu (Gia Cát Lượng gọi là thiên thời) nhưng vẫn ở trong hoàn cảnh bất lợi về địa hình, gọi là tứ chiến chi địa, bốn mặt đều thọ địch :
Phía tây nam, có Lưu Biểu trấn Kinh Châu, đất rộng ngàn dặm, quân giáp trên mười vạn, như cọp dữ thủ thế, chờ thiên hạ có biến, thực hiện cái chí bốn phương của mình.
Phía chính nam thì có Viên Thuật, đất rộng lương nhiều, xưng hùng xưng bá ở Thọ Xuân. Đông nam thì có Lưu Bị, Lữ Bố ở Từ Châu. Lữ Bố dũng mãnh như hổ đói, chờ cơ hội là phản công.
Ở Nam Dương thì có Trương Tú, ở Quan Trung có Mã Đằng, Hàn Toại ; Ích Châu thì có Lưu Chương nhưng ở xa Tào Tháo, áp lực này không lớn lắm.
Luận về anh hùng, Tào Tháo tự cho mình có chí nuốt cả trời đất, cho bọn Hàn Toại, Trương Tú, Trương Lỗ chỉ là bọn tiểu nhân nhung nhúc ; Viên Thuật chỉ là xương khô trong mả ; Lưu Biểu chỉ là hư danh, không có thực tài.
Quan trọng nhất ở phía bắc là Viên Thiệu, danh gia vọng tộc, bốn đời làm Tam công ; gồm Thanh Châu, U Châu, Tinh Châu, đất đai rộng lớn ; quân mặc áo giáp có vài trăm vạn, văn võ bá quan nhiều.
Viên Thiệu muốn tiến xuống Nam Hạ để thống nhất đất nước, nuốt cả thiên hạ.
Viên Thiệu là kẻ thù lớn nhất của Tào Tháo.
Mặc dù, dưới mắt Tào Tháo, Viên Thiệu không phải là anh hùng nhưng tạm thời phải hoà hoãn với Viên Thiệu.
Tháo theo sách lược viễn giao cận công, xa thì giao thiệp, gần thì tiến đánh ; để tự mình mạnh lên, chờ nội bộ Viên Thiệu mâu thuẫn mới tiến đánh.
Để tiêu diệt các đối thủ, Tào Tháo vận dụng sách lược tránh chỗ thực, đánh vào chỗ hư, chưa vội đối đầu với Viên Thiệu, mà diệt trừ những lực lượng chung quanh đang trực tiếp đe doạ Hứa Đô : Viên Thuật, Trương Tú, Lưu Biểu, Lữ Bố và Lưu Bị. Tháo thực hiện các mưu kế :
Nuôi Lữ Bố và diệt Lữ Bố :
Một mặt, Tào Tháo mượn danh Thiên tử phong cho Lữ Bố làm Tả tướng quân là cách nuôi hổ hoặc chim cắt để thanh toán cáo, thỏ là Viên Thuật, Viên Thiệu, Lưu Chương, Trương Lỗ.
Mặt khác, dùng mưu kế hai hổ tranh ăn, mật sai Lưu Bị giết Lữ Bố nhưng không thành ; tiếp đó là dùng kế xua hổ nuốt sói, xúi Lưu Bị và Viên Thuật đánh nhau.
Lữ Bố hoang mang lúc thì theo Lưu Bị, lúc phản Lưu Bị, lúc liên kết với Viên Thuật, Lưu Biểu ; khi thì theo Tào Tháo, phản phúc vô lường, nên bị cô lập.
Cuối cùng Tào Tháo bắt được Lữ Bố. Tháo trói thật chặt. Lữ Bố phàn nàn xin nới cho một tí. Tháo nói : Trói hổ phải trói cho chặt chứ. Rồi Tháo lệnh đem Lữ Bố xuống lầu thắt cổ.
Đánh Trương Tú và Lưu Biểu:
Năm 198, sau khi thắng Viên Thuật, Tào Tháo lại đem quân đánh Trương Tú ở Nam Dương và đánh Lưu Biểu ở Kinh Châu.
Ban đầu, Tháo thua nhưng sau đó đánh bại Trương Tú, lại dùng mưu phân hoá hai thế lực này, năm 199, Trương Tú đầu hàng Tào Tháo.
Đánh Lưu Bị:
Lữ Bố chết, Lưu Bị chiếm Từ Châu, năm 200 Tháo đem quân đánh Lưu Bị. Lưu Bị chạy sang cầu cứu Viên Thiệu. Tháo bắt Quan Vũ và vợ con Lưu Bị ; Quan Vũ đầu hàng, dưới danh nghĩa hàng Hán không hàng Tào.
Tóm lại, trong vòng hai năm, dưới chiêu bài Thiên tử lệnh chư hầu, tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, xa ngoại giao, gần tiến đánh, Tháo diệt Lữ Bố, Viên Thuật, buộc Trương Tú phải đầu hàng, đuổi Lưu Bị, Tháo làm chủ cả vùng Hoàng Hà, thoát khỏi cảnh bốn mặt thọ địch, càng ngày càng mạnh để đối địch với Viên Thiệu.
i) Chặt cành yếu cây, sách lược biến hoá, tử chiến với Viên Thiệu:
Năm 200, Viên Thiệu sai Trần Lâm thảo hịch gửi đi khắp nơi và dẫn 30 vạn quân, hàng vạn kị binh tiến vào Hứa Xương để trừ Tào Tháo.
Trước khi xuất binh, Viên Thiệu lôi kéo Trương Tú, Tôn Sách (Đông Ngô), Lưu Biểu, cùng liên kết đánh Tào.
Chặt cành yếu cây:
Tháo cũng xuất 34 vạn quân ra nghênh chiến.
Để cô lập Viên Thiệu, Tào Tháo dùng thuật chặt cành yếu cây, cho Trương Tú đầu hàng ; hẹn cùng với Tôn Sách (Đông Ngô) diệt Thiệu ; thuyết Lưu Biểu, nên Lưu Biểu hứa hẹn với Viên Thiệu nhưng lại không xuất binh.
Thành ra, Viên Thiệu xuất binh một mình để đánh Tào.
Tính toán:
Xét về thực lực, Viên Thiệu quân nhiều, lương thực sung túc ; Tào Tháo lương thực ít hơn, bất lợi về tình thế, cần phải đánh nhanh mới thủ thắng.
Trước khi xuất chinh, Tuân Úc phân tích quân sĩ, văn thần và võ tướng của Thiệu như sau : Thiệu binh nhiều mà không nghiêm chỉnh.
Điền Phong tính cương trực mà hay phạm người trên.
Phùng Kỉ tính quả quyết nhưng không làm được việc.
Thẩm Phối tự cho mình là phải nhưng không có mưu mẹo.
Nhan Lương, Văn Xú tuy khoẻ nhưng chỉ là đồ thất phu, chỉ đánh một trận.
Còn những đồ tầm thường nhung nhúc, dẫu có trăm vạn cũng chẳng kể vào đâu ! Tháo khen, Tuân Úc giỏi tính toán.
Viên – Tào ghìm nhau:
Tào Tháo dẫn quân đến Lê Dương đào hào, đắp luỹ, không tiến, chờ Viên Thiệu.
Tướng Hứa Du thì không bằng lòng Thẩm Phối cầm quân, Thư Thụ thì giận Viên Thiệu không dùng mưu của mình, nội bộ lục đục, không ai muốn tiến binh.
Viên Thiệu cũng nghi hoặc không tiến quân.
Hai bên ghìm giữ nhau từ tháng tám đến tháng mười.
Tào Tháo thấy thế, bèn phân các tướng chống giữ, còn mình về Hứa Đô.
Một hôm, nhân mùa xuân ấm áp, Viên Thiệu muốn tiến quân. Điền Phong can gián. Thiệu không nghe, sai Nhan Lương làm tiên phong tiến quân đánh xứ Bạch Mã.
Tháo dẫn 15 vạn quân, chia làm ba đội xuất phát ; Tháo dẫn trước 5 vạn đến Bạch Mã, dựa vào núi mà đóng quân.
Mượn đao giết người:
Trong trận đầu, Tào Tháo mất hai tướng là Tống Hiến và Nguỵ Tục.
Thấy Nhan Lương dũng mãnh, Tháo dùng kế mượn đao giết người và kích tướng, khiến Quan Vũ ra trận. Quan Vũ xông vào trận, chặt đầu Nhan Lương, buộc đầu vào cổ ngựa, cầm đao ra khỏi trận.
Quân Hà Bắc rối loạn, quân Tào thừa thế chém giết không biết bao nhiêu mà kể ; quân Tào thu được ngựa và khí giới rất nhiều.
Dụ địch và chém tướng
Viên Thiệu lại sai đại tướng Văn Xú sang sông Hoàng Hà, đóng quân ở bến Diên Tân để đánh quân Tào, trả thù cho Nhan Lương.
Tháo cho tiền quân làm hậu quân, hậu quân làm tiền quân, tức là cho chở lương thực đi trước. Lúc Văn Xú đến, quân Tào bỏ lương thực mà chạy. Tháo lại cho thả ngựa lung tung.
Quân Văn Xú tranh nhau cướp lương thực, ngựa, hàng ngũ rối loạn. Quân Tào vây bọc lại, quân Văn Xú tháo chạy.
Lần nữa, Tháo lại mượn Quan Vũ ra đối địch và chém Văn Xú. Văn Xú chết ngay dưới chân ngựa. Tháo thúc quân đánh, quân Hà Bắc ngã xuống sông chết quá nửa ; quân Tào lấy lại lương thực và ngựa. Viên Thiệu cất quân đến Quan Độ, Hạ Hầu Đôn cấp báo. Tháo khởi 7 vạn binh nghênh địch. Viên Thiệu hạ lệnh đem 70 vạn quân dàn ra bốn phía cắm trại, trại đóng liền nhau 90 dặm. Quân Tào nghe tin về báo, ai nấy đều run sợ.
Tháo cùng các mưu sĩ bàn bạc. Tuân Du nói :
- Quân Thiệu tuy nhiều nhưng không đáng sợ. Quân ta tinh nhuệ hơn, mỗi người có thể đánh được mười người nhưng cần đánh ngay, nếu kéo dài ngày, không đủ lương thực thật đáng lo.
Tháo truyền lệnh tiến quân.
Hai bên đối trận, Tháo thua chạy. Quân Thiệu thúc quân đuổi theo chém giết.
Tháo thua to lui về Quan Độ. Thiệu cũng đem quân đến gần Quan Độ hạ trại.
Hai bên lại ghìm giữ nhau hơn một tháng, thế lực của Tháo kém dần, lương thảo hết, muốn bỏ Quan Độ. Tháo cắt dạ dày Viên Thiệu:
Đang lúc lúng túng, Tháo nghe lời Hứa Du, vừa là bạn cũ vừa là bộ hạ của Viên Thiệu về hàng Tào ; đem quân đột kích đốt sạch kho lương Viên Thiệu ở Ô Sào.
Viên Thiệu mất các tướng (chết hoặc hàng Tào), mất lương thực, lòng quân rối loạn. Tháo thừa thế tấn công, phá vỡ 70 vạn quân Viên Thiệu.
Viên Thiệu chỉ còn 800 quân chạy đến phía bắc sông Lê Dương. Quân Thiệu nghe tin lại ùn ùn kéo về đông như kiến.
Thiệu về đến Kí Châu tập họp quân bốn châu của con cháu lại, được hai, ba mươi vạn, đóng quân ở Trường Bình.
Bối thuỷ nhất chiến:
Tào Tháo tiến quân, dùng kế bối thuỷ nhất chiến, bày trận ở bờ sông Hoàng Hà.
Thiệu trúng kế, quân Thiệu bị đánh tan tác ; Thiệu bị truy kích, con cháu đều bị thương, quân sĩ bị thương vong gần hết. Thiệu ôm ba con khóc lóc một hồi, bất giác ngã gục xuống. Mọi người xúm quanh cứu chữa. Miệng Thiệu chảy máu tươi ròng ròng, nói :
- Từng xông pha mấy mươi trận, không ngờ hôm nay đến nỗi này ! Đó là trời giết ta ! Các con ai về nhà nấy, thề cùng giặc Tào một trận sống mái.
Viên Thiệu về Kí Châu, ốm nằm liệt giường, đến năm 202 thì chết.
Kẻ thù số một của Tháo đã mất ; năm 207, Tháo thống nhất cả phương Bắc.
j) Giấc mộng chưa thành của Tào Tháo:
Mộng của Tào Tháo là nuốt cả trời đất, năm 208, Tháo định thôn tính Giang Nam.
Tháo đại bại ở trận Xích Bích, giấc mộng ấy chỉ là giấc mộng ; Tháo truyền lại giấc mộng ấy cho con, cháu.
Vì chính trị, Tháo không phế truất Hiến đế, nên cuối đời Tháo chưa phải là hoàng đế. Sau khi Tào Tháo chết, Tào Phi lên nối ngôi, phong tặng ông là Thái tổ hoặc Vũ đế. 2. TÔN QUYỀN -TẬN DỤNG ĐỊA LỢI, CỦNG CỐ ĐÔNG NGÔ.
a) Tôn Quyền:
Người sáng nghiệp Đông Ngô là Tôn Kiên, Tôn Sách, người nối nghiệp là Tôn Quyền.
Năm 200, Tào Tháo thống nhất phương Bắc, Tôn Sách mất, Tôn Quyền làm chủ Giang Đông, lúc ấy Quyền mới có 19 tuổi.
Diện mạo Tôn Quyền được miêu tả như sau : Cằm vuông, miệng lớn, mắt biếc, râu tía, hình dong kì vĩ, cốt cách dị thường.
Trước khi chết, Tôn Sách nói với Tôn Quyền : Quyết hơn thua giữa ta và địch, tranh hùng cùng thiên hạ thì em không bằng anh.
Nhưng cất người hiền, dùng người tài, khiến ai cũng hết sức khâm phục, giữ đất Giang Đông, thì anh không bằng em.
Lúc ấy, Quyền làm chủ sáu quận nhưng tình hình chính trị bất ổn, vì bộ tộc Việt Sơn ở vùng Giang Nam không phục Tôn Sách, thường hay gây bạo loạn.
Để ổn định tình hình, Tôn Quyền thực hiện hai sách lược là chiêu hiền đãi sĩ và thu phục bộ tộc Việt Sơn. b) Chiêu hiền đãi sĩ, thu phục Việt Sơn:
Tôn Quyền rất trọng vọng các cựu thần như Chu Du, Trương Chiêu, lại mời thêm được Lỗ Túc, Gia Cát Cẩn, Cố Ung.
Tôn Quyền cho mở một nhà tiếp khách ở Ngô Hội, sai Cố Ung, Trương Hoành ra đó đãi tân khách bốn
phương.
Suốt mấy năm liền, họ tiến cử lẫn nhau rất nhiều : Hám Trạch, Nghiêm Tuấn, Kính Văn, Trình Bỉnh … khách tứ phương tấp nập tới Giang Đông. Tôn Quyền trọng đãi rất trọng thể.
Lại được những tướng giỏi như Lã Mông, Lục Tốn, Từ Thịnh, Phan Chương, Đinh Phụng.
Lợi dụng lúc Tào Tháo và Viên Thiệu tranh hùng, Tôn Quyền đem toàn lực trấn áp, thu phục bộ tộc Việt Sơn, bổ sung thêm được trên 50 vạn nhân khẩu.
Tôn Quyền oai chấn Giang Đông và rất được lòng dân.
Sau khi Tào Tháo phá được Viên Thiệu, sai sứ sang Giang Đông bảo Tôn Quyền vào chầu vua, ý là bắt Quyền làm con tin. Tôn Quyền nghe lời Chu Du, khước từ sứ giả và không vào chầu. Từ đó, Tháo muốn đánh Giang Nam.
c) Kinh khẩu đối sách:
Một hôm, các quan về cả, Quyền mời Lỗ Túc ở lại uống rượu.
Đến tối, nằm cùng giường, gác chân lên nhau. Nửa đêm, Quyền hỏi Túc :
- Nay nhà Hán suy yếu, bốn phương rối loạn, ta nối nghiệp cha anh, muốn làm như Hoàn Công, Văn Công, ông có kế gì dạy bảo ta không ?
Túc nói :
- Xưa, Cao tổ nhà Hán muốn tôn Nghĩa đế mà không làm được, là vì Hạng Vũ làm trở ngại.
Nay, ví Tào Tháo như Hạng Vũ, tướng quân làm thế nào mà làm được những việc như Hoàn Công và Văn Công đã làm ?
Tôi nghĩ, nhà Hán không thể phục hưng, Tào Tháo cũng không thể trừ được tướng quân, tướng quân chỉ nên giữ Giang Đông, để xem những biến cố trong thiên hạ.
Nay nhân phương Bắc lắm việc, ta hãy trừ Hoàng Tổ, đánh Lưu Biểu, lấy hết các miền quanh Trường Giang, dựng hiệu đế vương để tính việc lớn. Đó là sự nghiệp Hán Cao tổ.
Tôn Quyền mừng lắm, mặc áo, đứng dậy và tạ ơn Lỗ Túc.
Quyền biết Lỗ Túc rất có hiếu với mẹ, hôm sau đưa quần áo, biếu mẹ của Lỗ Túc.
Đối sách của Tôn Quyền gồm ba bước : Thứ nhất, làm cho Giang Đông vững vàng ; thứ hai phát triển thế lực, mở rộng chiếm Kinh Châu, thượng du Trường Giang ; thứ ba, gồm thâu thiên hạ.
Trước mắt, Quyền nghe lời Gia Cát Cẩn, liên kết với Tào Tháo, không liên kết với Viên Thiệu. Các kế sách trên, gọi chung là kinh khẩu đối sách.
Diệt Hoàng Tổ:
Một hôm, Cam Ninh nói với Tôn Quyền :
- Nay, vận nhà Hán mỗi ngày một suy, Tào Tháo tất cướp ngôi vua và cướp Nam Kinh. Lưu Biểu không có chí lớn, con cái lại ngu hèn, không thể giữ nổi cơ nghiệp. Minh Công nên tính sớm, nếu chậm thì Tào Tháo nẫng tay trên mất.
Giờ đây, nên đánh Hoàng Tổ truớc. Hoàng Tổ già rồi nên lú lẫn, lại tham lam, xâm phạm của dân, ai cũng oán ghét, khí giới bỏ rỉ, quân không có kỉ luật.
Nếu Minh Công sang đánh, tất phá được Hoàng Tổ. Phá được Tổ rồi, khua trống vào phía tây, đánh lấy Ba Thục, như thế nhất định nghiệp bá tất thành.
Tôn Quyền mừng rỡ nói :
- Đó thật là những lời vàng ngọc !
Liền cử Chu Du làm Đại tướng, tổng chỉ huy lục quân, Lã Mông làm Tiền bộ tiên phong, Đổng Tập, Cam Ninh làm Phó tướng ; Quyền tự dẫn 10 vạn quân đi đánh Hoàng Tổ.
Hoàng Tổ đại bại, bỏ Giang Hạ chạy về Kinh Châu, lại bị Cam Ninh mai phục, bắt rồi chặt đầu Hoàng Tổ đem về cho Tôn Quyền.
Quyền muốn chia quân giữ Giang Hạ. Trương Chiêu bàn :
- Không nên giữ cái thành trơ trọi ấy làm gì ! Hãy rút quân về Giang Đông. Lưu Biểu được tin ta giết Hoàng Tổ, tất lại báo thù ; ta đem quân nghỉ ngơi đánh quân khó nhọc, chắc chắn Lưu Biểu sẽ thua, ta thừa thế đánh rấn thì Kinh Tương nhất định về tay ta.
Liên minh với Lưu Bị chống Tào:
Năm 208, sau khi thâu tóm phương Bắc, Tào Tháo nghe lời Tuân Du, một mặt mời Tôn Quyền hội săn ở Giang Hạ, cùng bắt Lưu Bị và chia sẻ Kinh Châu, mặt khác điểm binh mã, hư trương thanh thế, muốn
Quyền sợ hãi mà đầu hàng.
Lúc ấy Tôn Quyền đóng quân ở Sài Tang, được tin đại quân đến Tương Dương, Lưu Tôn đã ra hàng mà quân Tào sớm khuya sẽ đến Giang Lăng.
Quyền bèn họp các mưu sĩ để bàn kế phòng thủ. Lỗ Túc nói :
- Kinh Châu tiếp giáp với nước ta, giang sơn hiểm trở, nhân dân giàu có, nếu chiếm được đất ấy, thì đủ để dựng nghiệp đế vương.
Nay Lưu Biểu mới chết, Lưu Bị mới thua, tôi xin phụng mệnh sang Giang Hạ viếng tang, nhân tiện phủ dụ các tướng của Lưu Biểu đồng tâm hiệp lực, nếu Lưu Bị nghe theo thì việc lớn chắc xong.
Tôn Quyền nghe theo.
Khổng Minh nhân cơ hội đó sang Giang Đông thuyết Chu Du và Tôn Quyền liên minh cùng chống Tào.
Về Tào Tháo phạm sai lầm trong việc dùng binh : Quân đội không quen thuỷ thổ, nhiều người đau ốm ; quân sĩ không quen đánh thuỷ ; mùa đông rét mướt, ngựa không có cỏ khô mà ăn ; phía sau lưng còn có nhiều cái hoạ Mã Đằng, Hàn Toại.
Hơn nữa, Tháo lại liên tiếp trúng kế của Khổng Minh và Chu Du : Kế liên hoàn của Bàng Thống, kế phản gián của Chu Du, khổ nhục kế của Hoàng Cái ; đặc biệt là hoả công và mượn ngọn gió đông của Khổng Minh. Kết cục, tám mươi vạn quân Tào tan rã, Tháo suýt chết về tay Hoàng Cái và Quan Vũ.
Khổng Minh dùng kế thuận thuỷ hành châu, sau trận Xích Bích, Lưu Bị chiếm được bốn quận ở Kinh Châu là Vũ Lăng, Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng, dưới danh nghĩa là mượn Kinh Châu.
Sau chiến thắng Xích Bích, Tôn Quyền củng cố Giang Đông. Năm 212 chiếm Lĩnh Nam. d) Kế đoạt Kinh Châu:
Lưu Bị lấy Kinh Châu, trên danh nghĩa là mượn nhưng muốn nuốt không, cho Quan Vân Trường trấn thủ.
Quyền nhiều lần cho người đòi, rồi mưu tính lấy lại nhưng không xong ; có lần Tôn Quyền và Chu Du bàn tính mưu mẹo thế nào, vừa mất cô em gái xinh đẹp, vừa không lấy lại được Kinh Châu. Quyền vô cùng tức tối.
Sau đó, Quyền nghe lời Lữ Mông, trao quyền làm tướng cho Lục Tốn. Lục Tốn vừa trẻ vừa ra vẻ khúm núm làm cho Quan Vân Trường chủ quan, kiêu ngạo, không phòng bị.
Quan Vân Trường trúng kế điệu hổ li sơn, rút hết quân Kinh Châu ra Phàn Thành đối chọi với quân Tào. Lục Tốn thừa cơ đánh úp Kinh Châu.
Vân Trường bị quân Nguỵ và quân Ngô đánh chạy dài ; cuối cùng bị quân Đông Ngô bắt. Tôn Quyền cho giết Vân Trường.
Vân Trường chết, thế liên minh Ngô – Thục lung lay.
e) Trả Kinh Châu cầu hoà:
Năm 220, sau khi lên ngôi, Lưu Bị không nghe lời Triệu Vân đem quân đến thành Bạch Đế, chuẩn bị đánh Đông Ngô.
Tôn Quyền nghe tin, sai Gia Cát Cẩn đi sứ cầu hoà, trả lại Kinh Châu cho Lưu Bị. Bị không nghe. Gia Cát Cẩn nói :
- Tôi đem cái lẽ lớn nhỏ, nặng nhẹ bàn với bệ hạ ! Bệ hạ là hoàng thúc nhà Hán. Nay vua Hán bị Tào Phi cướp ngôi, lại không nghĩ đến việc tiễu trừ, mà vì một người anh em khác họ, khó nhọc đến thân tôn quý muôn cỗ xe, thế là bỏ việc lớn, làm điều nghĩa nhỏ.
Trung nguyên là khu đất to nhất trong bốn bể, hai đô thành là chỗ nhà Hán xây dựng cơ nghiệp, bệ hạ không lấy chỗ ấy mà chỉ tranh một xứ Kinh Châu, thế là bỏ chỗ nặng, tìm chỗ nhẹ.
Thiên hạ ai cũng tưởng bệ hạ lên ngôi thế nào cũng dựng nhà Hán, lấy lại giang sơn. Nay, bệ hạ không hỏi đến nước Nguỵ mà cứ muốn đánh nước Ngô, thiết tưởng bệ hạ có điều gì chưa nghĩ tới chăng ?
Lưu Bị nổi giận nói :
- Cái thù giết mất em trẫm, trẫm thề không đội trời chung ! Thà chết thì thôi, chớ trẫm không thể bãi binh được ! Nếu trẫm không nể Thừa tướng thì chém đầu nhà ngươi trước đó ! Nhà ngươi hãy về nói với Tôn Quyền rửa cổ trước đi mà chịu chết !
Gia Cát Cẩn nghe nói vậy, bất đắc dĩ phải lủi thủi ra về.
f) Xưng thần, liên minh với Nguỵ:
Không cầu hoà được, Tôn Quyền một mặt viết biểu xưng thần liên minh với nhà Nguỵ (Tào Phi), mặt khác, cử các tướng chống lại Lưu Bị.
Lưu Hoa khuyên Tào Phi nhân đó mà đánh Ngô, không nên phong cho Tôn Quyền chức lớn như chắp cánh cho hổ.
Phi nói :
- Không phải thế ! Trẫm chẳng giúp gì Ngô mà cũng chẳng giúp Thục. Ta đợi xem hai nước đánh nhau, khi một nước mất, bấy giờ ta trừ nốt thì có khó gì ? Ý trẫm đã quyết, ngươi đừng nói lôi thôi nữa.
Tào Phi phong cho Tôn Quyền làm Ngô vương.
Lại nói, Lưu Bị đem quân thuỷ bộ đều tiến. Tướng tiên phong là Ngô Ban, từ khi cất quân, đi đến đâu giặc hàng đến đấy như cỏ lướt theo chiều gió, gươm chưa vấy máu mà đã thẳng đến Nghi Đô.
Ngô Ban đánh bại tướng Tôn Hoàn vây khốn ở Di Lăng, bắn chết Cam Ninh.
Bấy giờ oai danh của Lưu Bị lừng lẫy xa gần, người Giang Nam khiếp vía kêu khóc ngày đêm. Trả kẻ thù, trả vợ, trả đầu, trả đất:
Thấy Tôn Quyền kinh sợ, Bộ Trắc hiến kế :
- Thục chủ căm thù bọn Lữ Mông, Phan Chương, Mã Trung, Mi Phương, Phó Sĩ Nhân, nay những người ấy đã chết rồi !
Còn lại chỉ có Phạm Cương, Trương Đạt, hiện hai người này ở Đông Ngô, ta bắt đem trả Thục cùng đầu lâu Trương Phi, trao Kinh Châu, đưa phu nhân về, dâng biểu cầu hoà, kết tình hiếu cũ, tự nhiên quân Thục sẽ rút về.
Tôn Quyền nghe lời, sai người đóng cái hòm gỗ bằng trầm hương, bỏ đầu Trương Phi vào ; trói Trương Đạt, Phạm Cương vào giam trong cũi, sai Trình Bỉnh đi sứ, mang quốc thư đến Hào Đình.
Lưu Bị không cho, tuyệt tình với Ngô, còn nói là trước diệt Ngô, sau sẽ diệt Nguỵ. Tôn Quyền phải cử một thư sinh làm tướng chống quân Thục.
Lưu Bị coi thường Lục Tốn, cho mình là cầm quân già đời, chẳng ngán thằng ranh con miệng còn hơi sữa. Lưu Bị khiêu chiến không ngừng. Còn Lục Tốn cứ bịt tai lại không nghe, không ra đánh.
Lợi dụng, lúc trời nắng, Lưu Bị đóng quân liên tiếp bảy mươi dặm gần núi, cây cối um tùm, Lục Tốn dùng hoả công đánh Lưu Bị, bảy mươi vạn quân Thục tan rã.
Lưu Bị thoát khỏi biển lửa, chạy dài về thành Bạch Đế.
Sau khi thua trận, Lưu Bị hối hận, lâm bệnh nặng và chết.
g) Mãnh hổ trước mặt, giao long sau lưng:
Lục Tốn không đuổi theo Lưu Bị mà rút quân, chưa được hai ngày thì quân Nguỵ ba mặt kéo đến.
Tướng Ngô là Chu Hoàn phân tích : Binh pháp có nói, quân khách dù nhiều gấp hai lần chủ thì cũng có thể đánh được. Nay, Tào Nhân từ ngàn dặm xa xôi đến đây, người ngựa đều mỏi mệt. Ta ngồi giữ thành cao, mé nam trông ra mặt sông to, mé bắc dựa vào núi hiểm, thế là mình nhàn nhã đánh kẻ tất tưởi. Mình làm chủ chế kẻ địch là khách. Đó là cái thế trăm trận trăm thắng.
Quả nhiên, quân Ngô thắng ba đạo quân Nguỵ.
h) Lại hoà với Thục:
Sau khi Lưu Bị chết, Khổng Minh sai sứ sang Đông Ngô để thuyết hoà. Tôn Quyền cũng sai sứ sang Thục. Từ đó, hai bên lại hoà hiếu, liên minh với nhau.
Ưu thế của Giang Đông là địa lợi, đất hiểm ; có nhiều mưu sĩ, nhiều tướng tài ; sách lược ngoại giao rất uyển chuyển : khi liên minh với Thục, lúc lại liên minh với Tào (Nguỵ) ; bản thân Tôn Quyền là một người xuất sắc, anh hùng, đương thời ai cũng khen ngợi là sinh con phải được như Tôn Trọng Mưu (thân phụ Tôn Quyền).
Tôn Quyền nắm giữ Giang Đông năm mươi năm, làm vua hai mươi bốn năm, mất năm 71 tuổi. 3. LƯU BỊ NHÂN HOÀ - LONG TRUNG ĐỐI SÁCH.
a) Lưu Bị:
Lưu Bị (161-223), tự Huyền Đức, người huyện Trác, thuộc một chi xa trong hoàng tộc, hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng.
Lúc còn nhỏ, cha là Lưu Hoằng mất sớn, Lưu Bị cùng mẹ buôn giày, dệt chiếu để sống.
Năm Lưu Bị 28 tuổi, nhân lúc nhà Đông Hán loạn lạc, được bạn bè, bà con giúp đỡ, bèn chiêu binh mãi mã, liên kết với bạn bè và kết nghĩa với Quan Vân Trường, Trương Phi, ba người thân thiết như ruột thịt, gọi là vườn đào kết nghĩa.
Lưu Bị không mấy thích đọc sách, tính ôn hoà, ít nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, có chí lớn, thích kết giao với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ.
Dáng người phong độ, mình cao bảy thước, hai tai dài xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mắt trông thấy được tai, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son.
Khi loạn Hoàng Cân (Khăn Vàng) nổi lên, Lưu Bị chiêu quân toàn anh em bạn bè tham gia đánh Hoàng
Cân.
Một thời gian, Lưu Bị không có đất cắm dùi, lang thang như kẻ không nhà, hết nhờ vả người này đến người khác, từ Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Lữ Bố đến Tào Tháo, Viên Thiệu, Lưu Biểu.
Năm 196, bị Viên Thuật đánh, Lưu Bị nhờ Lữ Bố, đánh thắng Viên Thuật, được Lữ Bố phong làm Sách sử Dự Châu, nên gọi là Lưu Dự Châu.
Ba năm sau, Lưu Bị lại theo Tào Tháo đánh Lữ Bố. Lữ Bố thua trận, bị Tháo bắt trói chặt như trói hổ. Tháo chưa muốn giết Bố, hỏi Lưu Bị. Bị cho rằng để Bố khác nào nuôi hổ. Tháo liền giết Bố.
Trước khi chết, Bố năn nỉ Lưu Bị nói giúp với Tháo một lời nhưng Bị tảng lờ. Lữ Bố chửi rầm lên : Mày thật là thằng bất tín ! Thằng tai to kia, mày quên mất công tao bắn kích ở nha môn. Lữ Bố chửi cứ chửi. Lưu Bị lơ thì cứ lơ.
Năm 199, nhân cơ hội Tháo sai quân đánh Viên Thuật, Lưu Bị mừng quá, sắm sửa hành trang bôn tẩu, như hổ về rừng như cá về biển.
Lưu Bị chiếm được Từ Châu, hình thành thế đối đầu với Tào Tháo.
Năm sau, Tháo tiến đánh, Lưu Bị bỏ chạy sang nhờ Lưu Biểu, Tháo bắt được vợ con Lưu Bị và tướng Vân Trường.
Lúc này, Lưu Bị như người bệnh trầm kha, quân không đầy một ngàn, không luyện tập, chạy ăn từng bữa. May nhờ Từ Thứ tiến cử Gia Cát Lượng, Lưu Bị mới có sách lược rõ ràng.
b) Long Trung đối sách:
Sau ba lần lui tới lều tranh, Lưu Bị đã được Gia Cát Lượng đưa ra Long Trung đối sách, còn gọi là Long Trung quyết sách gồm tám chữ : Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo.
Theo Khổng Minh, nhường thiên thời cho Tào Tháo, địa lợi cho Tôn Quyền, riêng Lưu Bị phải lấy nhân hoà làm gốc, nhân hoà là cốt tuỷ của Long Trung quyết sách.
Lưu Bị nói, sách lược của Khổng Minh đã mở sáng chỗ tối tăm, gạt đám mây đen trông thấy trời xanh cho Lưu Bị.
Nhân hoà:
Có lần Huyền Đức nói : Nay ta đánh nhau với Tào Tháo, như nước địch với lửa, Tháo gấp thì ta chậm rãi ; Tháo tàn bạo thì ta nhân nghĩa ; Tháo quỷ quyệt thì ta thực thà ; việc gì ta cũng khác với Tháo thì mới thành công. Nếu vì một chút lợi nhỏ mà bỏ cả tín nghĩa thì ta không làm.
Câu nói trên, thể hiện toàn bộ sách lược của Huyền Đức đối với Tào Tháo.
Lưu Bị bị Tào Tháo đuổi đánh phải chạy sang Kinh Châu nhờ Lưu Biểu. Lưu Biểu cho Lưu Bị ở Tân Dã.
Quân Tào lại ồ ạt kéo đến. Khổng Minh khuyên Lưu Bị nhân Lưu Biểu bệnh nặng, cướp Kinh Châu. Lưu Bị không nghe.
Khi Lưu Biểu chết, Y Tịch hiến kế, nên bắt Lưu Tôn, con Lưu Biểu, cướp lấy Kinh Châu. Lưu Bị cũng không chịu.
Quân Tào đông như kiến cỏ, kéo đến Tân Dã, buộc Lưu Bị phải bỏ Tân Dã chạy đến Phàn Thành ; rồi phải bỏ Phàn Thành đến Tương Dương.
Dân chúng chạy theo Lưu Bị, trăm họ khóc lóc ra đi, già trẻ dắt díu, trai gái bế bồng, lũ lượt sang đò ; hai bờ sông tiếng khóc như rên rỉ.
Các tướng khuyên Lưu Bị nên bỏ dân mà chạy. Lưu Bị nói : Ta mưu việc lớn, chẳng qua lấy dân làm gốc. Nay người ta theo mình, sao nỡ bỏ được ?
Trăm họ nghe nói ai cũng cảm động. Chứng tỏ Lưu Bị rất được lòng dân.
Thuật dùng người theo sách lược nhân hoà:
Các nhà nghiên cứu cho rằng, xét về Tào Tháo, Tôn Quyền và Lưu Bị có chỗ khác biệt trong việc dùng người.
Tào Tháo dùng quyền thuật để chế ngự các mưu sĩ và các tướng tài.
Tôn Quyền kết làm anh em với những người tài giỏi, những người ý hợp tâm đầu.
Lưu Bị, ngoài nghĩa quân thần còn là tình thầy trò, là anh em kết nghĩa, cùng đồng sinh đồng tử, cũng là một cách nhân hoà ; xem trọng tướng tá hơn là ruột thịt (Lưu Bị ném A Đẩu, thu phục lòng Triệu Vân).
Vì thế, Gia Cát Lượng suốt đời tận tuỵ, đem thân khuyển mã, gan óc đền ơn tri ngộ với Lưu Bị.
Quan Vân Trường được Tào Tháo trọng vọng, đãi đằng rất hậu : Ba ngày mở tiệc nhỏ, bảy ngày mở tiệc lớn, biếu nhiều vàng bạc, thấy áo cũ tặng áo mới, thấy râu dài tặng túi the, thấy ngựa gầy biếu ngựa ; nhưng Quan Vân Trường vẫn không xiêu lòng, chạy cả ngàn dặm về với Lưu Bị.
Trương Phi tính tình nóng như lửa, hét một tiếng quân Tào vỡ mật nhưng nghe huynh trưởng Lưu Bị nói thì im thin thít.
Triệu Vân cho rằng gan óc lầy đất vẫn chưa trả hết ơn của Lưu Bị. Từ Thứ về Tào lòng vẫn hướng về Lưu Bị, không hé môi hiến kế cho Tào Tháo.
Với thuật giỏi dùng người, Lưu Bị thu nạp được nhiều văn thần, võ tướng trung thành : Gia Cát Lượng, Quan Vân Truờng, Trương Phi, Triệu Vân, Bàng Thống, Giản Ung.
Lấy Kinh Châu, Lưu Bị thu phục được nhiều nhân tài như Mã Lương, Hoàng Quyền, Nguỵ Diên.
Ai cũng khen Lưu Bị là người có đức khoan dung, đại độ và cho rằng đất Thục là đất của những người trứ danh hiếu khách.
c) Liên minh với Tôn Quyền để hưởng lợi:
Như đã nói, năm 208, Tào Tháo cất tám mươi ba vạn quân đánh Đông Ngô, Khổng Minh mượn cánh buồm thuận gió sang Giang Đông thuyết phục Tôn Quyền, Chu Du đánh Tào.
Trong lúc ngọn lửa Xích Bích nổi lên, Tôn Quyền, Chu Du ham truy sát quân Tào, Lưu Bị, Khổng Minh đã nhanh chân chiếm Nam Quận, Tương Dương và Kinh Châu.
Chu Du nghe tin, tức tối, hậm hực nói với Lỗ Túc : Chúng ta dùng mưu lập mẹo, hao binh tổn tướng, tốn kém tiền lương ; bọn hắn ngồi ăn cỗ, ta chịu sao được ?
Nhưng việc đã rồi, Chu Du tức cũng đành ngậm bồ hòn, phải tìm mưu kế khác.
Lưu Bị nghe lời Y Tịch lấy thêm bốn quận là Võ Lăng, Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng .
Từ đó, Lưu Bị có đất dụng võ, hồi phục được căn bệnh ngặt nghèo, không còn sống vất vả như kẻ vô gia cư nữa.
Chu Du bị Khổng Minh chọc tức mấy lần : Không chiếm được Kinh Châu, Nam Quận, Tương Dương ; mấy bận mưu tính lấy lại Kinh Châu đều thất bại, còn bị Lưu Bị cuỗm mất cô em gái của Tôn Quyền, bèn tức giận vỡ nhọt mà chết.
Trước khi chết, Chu Du than : Trời sinh Du sao còn sinh Lượng ?
Gia Cát Lượng nghe tin Du chết, cùng Triệu Vân sang Đông Ngô viếng tang.
Lỗ Túc ra nghênh tiếp tử tế ; còn bọn tay chân bộ hạ Chu Du đều muốn giết Khổng Minh cho hả giận nhưng thấy Triệu Vân đeo gươm đi kèm, không ai dám ra tay.
Khổng Minh sai bày lễ vật trước linh vị Chu Du, đích thân rót rượu, rồi quỳ xuống đọc bài văn tế rất thảm
thiết.
Khổng Minh tế xong, gục xuống đất khóc, nước mắt giàn giụa như suối, đau đớn vô cùng. Các tướng bảo nhau :
- Người ta nói, Khổng Minh không hoà với Công Cẩn, nay xem tình thương xót thế này, mới biết là họ toàn nói nhảm cả !
Lỗ Túc thấy Khổng Minh thương khóc, cũng ứa nước mắt, nghĩ :
- Khổng Minh là người tử tế. Chỉ vì Công Cẩn hẹp hòi, tự rước lấy cái chết đó thôi ! Lỗ Túc đặt tiệc khoản đãi Khổng Minh.
Tiệc xong, Khổng Minh từ biệt ra về.
Sắp bước xuống thuyền, bỗng có một người mặc áo đạo sĩ, một tay nắm Khổng Minh, cười ha hả nói :
- Ngươi làm cho Chu Du tức mà chết, lại còn đến viếng tang. Rõ ràng coi thường Đông Ngô không còn ai nữa chăng ?
Khổng Minh quay lại, thì ra là bạn cũ Bàng Thống.
Hai người cùng cười lớn !
d) Ích Châu – căn cứ địa của Long Trung quyết sách:
Lưu Chương ở Ích Châu, vốn đã giết mẹ và em của Trương Lỗ, nghe tin Trương Lỗ cất quân vào lấy Tây Xuyên, lấy làm lo lắng.
Trương Tùng hiến kế, nên cầu cứu Tào Tháo để Tháo cử binh đánh Trương Lỗ giải nạn cho Tây Xuyên. Lưu Chương nghe theo.
Trương Tùng vốn người xấu xí, trán gồ nhọn, mũi tẹt, răng vẩu, mình lùn không đầy năm thước, tiếng nói oang oang.
Tùng đến Hứa Đô, chờ đợi ba ngày, phải đút cho lính canh mới ra mắt Tào Tháo.
Tháo thấy Tùng xấu xí, ăn nói lí sự, lại xúc phạm Tháo. Tháo sai người nện cho Tùng một trận nên thân và
đuổi về.
Trương Tùng phải sang Kinh Châu gặp Lưu Bị.
Lưu Bị biết tin Tùng đến, cho Triệu Vân ra tận Kinh Châu để đón, dâng cơm và rượu.
Vừa đến địa đầu Kinh Châu, lại có Quan Vân Trường, phụng mệnh Lưu Bị, lo quán xá, rượu cơm. Sáng hôm sau, Tùng mới đi mấy dặm, lại thấy Lưu Bị, Khổng Minh đã xuống ngựa đứng chực.
Lưu Bị mở tiệc ba ngày, đãi đằng Tùng, không hề nói động đến chuyện Tây Xuyên.
Lúc từ biệt về, Lưu Bị lại tiễn ra ngoài mười dặm, đặt tiệc tiễn đưa, ra chiều lưu luyến. Thấy vậy, Trương Tùng khuyên Lưu Bị lấy Tây Xuyên làm cơ sở và dâng địa đồ Tây Xuyên cho Lưu Bị. Khổng Minh sai Vân Trường tiễn Trương Tùng hai mươi dặm mới quay lại.
Trương Tùng về bàn bạc với Pháp Chính, Mạnh Đạt, khuyên Lưu Chương viết thư mời Lưu Bị vào Tây Xuyên giúp đỡ chống Trương Lỗ.
Hoàng Quyền đòi chém Trương Tùng, tuyệt giao với Lưu Bị và khuyên Lưu Chương đắp thành cao hào sâu để phòng thủ. Hiệp Luỹ thì phân tích :
- Trương Lỗ xâm phạm bờ cõi chẳng qua là cái mụt ghẻ ngoài da, nhưng mời Lưu Bị vào Tây Xuyên thì khác nào bệnh ở trong lục phủ, ngũ tạng.
Huống chi Lưu Bị là con thú dữ ở đời, trước kia theo Tào Tháo rồi muốn hại Tháo ; sau nhờ Tôn Quyền, liền cướp Kinh Châu. Xem tâm địa như thế, thì ở với nhau làm sao được. Nếu Bị vào đây, chắc Tây Xuyên hỏng mất !
Chương mắng :
- Chớ nói càn ! Huyền Đức là họ hàng với ta, có đâu nỡ cướp cơ nghiệp của ta !
Nói xong đuổi Hoàng Quyền, Hiệp Luỹ ra ; sai Pháp Chính đi sứ.
Mùa đông năm ấy, Lưu Bị đem năm vạn quân, rầm rộ tiến vào Tây Xuyên. Bàng Thống làm quân sư, Hoàng Trung làm Tiền bộ, Nguỵ Diên làm Hậu quân, còn Lưu Bị với Quan Bình, Lưu Phong đi trung quân.
Lưu Bị ra lệnh rất nghiêm, quân sĩ ai xâm phạm một chút của dân là bị chém.
Nhân dân dắt già, ẵm trẻ, đứng xem chật đường, đốt hương lễ bái. Lưu Bị dùng lời lẽ ôn tồn uỷ lạo. Pháp Chính đem quân ra đón. Sau đó, Lưu Chương cũng đem ba vạn quân mã và hơn ba ngàn xe lương
thực ra Bồi Thành đón Lưu Bị.
Hiệp Luỹ tự treo mình ở cửa thành, viết thư can ngăn Lưu Chương. Chương không nghe. Luỹ tự cắt dây, rơi xuống chết.
Trong ba năm cùng đánh Trương Lỗ, Lưu Chương khi tin Lưu Bị, lúc thì không tin ; Chương khi nghe phe Trương Tùng sau lại giết Trương Tùng ; lúc lại nghe theo Hoàng Quyền.
Thế là, Chương và Bị sinh sự đánh nhau.
Rốt cuộc Chương hàng Lưu Bị. Bị cho Chương làm Trấn Oai tướng quân, ở huyện Công An, bên Kinh Châu ( !).
Lưu Bị lấy được Tây Xuyên, nghe lời Triệu Vân, trả ruộng đất cho dân. Còn Gia Cát Lượng thì đặt ra pháp luật cai trị. Từ đó, quân dân yên ổn, Lưu Bị chia quân giữ khắp 41 châu, đâu đấy an cư lạc nghiệp.
Lưu Bị khởi binh, không có đất cắm dùi, sau được Kinh Châu nhưng chưa phải chốn yên thân, mé Đông có Tôn Quyền như hổ nhe nanh, mé Bắc có Tào Tháo như kình há miệng ; lúc được Tây Xuyên thì như cất cánh bay lên, không sợ ai đè nén nữa.
e) Sai lầm cuối đời:
Năm 119, Tào Phi xưng đế. Hai năm sau, Lưu Bị cũng xưng đế ở Thành Đô, phong Gia Cát Lượng làm Thừa tướng, lấy quốc hiệu là Hán, sử sách gọi là Thục Hán.
Như đã nói, năm 223, sau khi đem quân đánh Ngô, phục thù cho Vân Trường, bị thất bại, Lưu Bị hối hận, ốm và mất.
Chương 2:MƯU KẾ TAM QUỐC CHÍ.
A. KHÁI QUÁT VỀ MƯU KẾ:
1. TAM THẬP LỤC KẾ (BA MƯƠI SÁU KẾ):
Chúng ta thường nói trăm mưu ngàn kế, Quỷ Cốc thì quy về 72 đấu pháp tâm thuật hoặc 47 quỷ kế, nhưng theo sách vở cổ quy về 36 kế căn bản, cuốn sách được hệ thống rất mạch lạc là cuốn Tam thập lục kế (Ba mươi sáu kế).
Theo các sách Nam Tề thư, Nam sử, thì cuốn Tam thập lục kế ra đời từ thời Nam Bắc triều nhưng mãi đến nửa đầu thế kỉ XX (1941) mới được phát hiện và xuất bản thành sách.
Tam thập lục kế nguyên có tên là Tam thập lục kế mật bản binh pháp, sách không chia thành những quyển nhỏ, đầu sách có lời tổng luận và lời bạt nhưng lời bạt chưa được hoàn thiện. Lời tổng luận, cho rằng là Tôn Tử rất tinh thông binh pháp và tinh thông 36 mưu kế.
Các nhà nghiên cứu mưu kế giải thích, sở dĩ số 6 là số thái âm, thái âm biến hoá thành số 36 ; số 36 đã hàm chứa, mưu kế chính là sự biến hoá.
Tên gọi mỗi kế thường có 3 chữ hoặc 4 chữ (phần nhiều là bốn chữ), là thành ngữ hoặc lời nói thông thường, nêu bật được nội dung của mưu kế, dễ nhớ, dễ áp dụng.
Ví dụ : Man thiên quá hải, Hỗn thủy ma ngư, Tẩu vi thượng …
Mỗi kế đều có ba phần khá rõ : nêu tên của kế ; lời trích từ Kinh Dịch và giải thích ngắn gọn ; phần nữa gọi là án ngữ (giải thích sâu hơn và đưa ra ví dụ).
Về văn phong trong mỗi kế thiếu sự đồng nhất, phần trước mang phong cách cổ, dựa vào nguyên lí âm dương Kinh Dịch để suy diễn, ý tứ rất sâu ; nhưng phần sau phong cách rất gần với cuộc sống ; ý tứ không sâu bằng phần trước.
Chứng tỏ sách Tam thập lục kế không phải là một người viết, mà nhiều người khác thời đại cùng tham gia viết sách.
2. TƯ DUY ÂM DƯƠNG VÀ TƯ DUY MƯU KẾ:
Tam thập lục kế có ba mươi sáu kế, trong đó đã có hai mươi bảy kế dẫn lời từ Kinh Dịch, lấy Kinh Dịch làm lí luận căn bản, đặc biệt là nguyên lí học thuyết âm dương.
Đạo đức kinh của Lão tử viết : Vạn vật đều cõng âm, bồng dương, xung nhau để hoà với nhau (Vạn vật phụ âm nhi bảo dương, xung khí khí dĩ vi hoà).
Tức âm dương là hai mặt phát triển tồn tại của một sự vật, hai mặt này đối lập, mâu thuẫn nhau trong một thể thống nhất. Trong âm có dương, trong dương có âm, âm thịnh thì dương suy, dương thịnh thì âm suy.
Âm dương quyết định sự tồn tại, biến hoá và phát triển của sự vật, từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp đều có sự tham dự của âm dương.
Mặc tử viết : Tất cả xoay trong trời đất, bao trong bốn biển, mối tình của trời đất, sự hoà hợp của âm dương, hết thảy đều có đủ.
Vì vậy, muốn hiểu rõ sách Tam thập lục kế hoặc hiểu một mưu kế cần biết những cặp âm dương cơ bản, còn gọi là tư duy âm dương :
Bảng 1: Dương Càn (quẻ Càn, trời) thiên (trời) nhật (Mặt Trời) trú (ngày) tinh (sáng) can (khô) cương (cứng) cường (mạnh).
Âm Khôn (quẻ Khôn, đất), địa (đất), nguyệt (Mặt Trăng), dạ (đêm), âm (tối), thấp (ẩm) nhu (mềm), nhược (yếu).
Bảng 2:
Dương, trị, sinh (sống), tồn (còn), ngoại (ngoài), động tốc, kì, trực (thẳng).
Bảng 3:
Âm, loạn, tử (chết), vong (mất), nội, tĩnh, hoãn (chậm) ngẫu (nhiên), khúc (cong). Bảng 4:
Dương, thực, chủ, công, động, thắng, đắc (được), an (ổn).
Âm, hư, khách, thủ, động, bại, thất, (mất), nguy.
Bảng 5:
Dương, chính, diện, tiền (trước), tả (bên trái), thượng (trên), hiển (rõ ràng), quân (vua). Âm, phản, bối (lưng), hậu (sau), hữu (bên phải) hạ (dưới), ẩn (che dấu), thần (bề tôi). Bảng 7:
Dương, tướng, tôn (tôn quý), quân tử, sơn nam, hà bắc.
Âm, binh, ti (thấp, ti tiện) tiểu nhân, sơn bắc, hà nam.
3. Ý TẠI NGÔN NGOẠI:
Như đã nói, sở dĩ ba mươi sáu kế, hàm ý mưu kế là sự biến hoá, cho nên những ví dụ, những câu chuyện nói về mưu kế là ý ở ngoài lời (ý tại ngôn ngoại) ; chữ nghĩa, văn chương chỉ là phương tiện ; hiểu được nghĩa lí thâm sâu, áp dụng được vào trong cuộc sống thành công, đó chính là sự biến hoá của mưu kế.
Chuyện kể, một vị thiền sư nọ, chặt đứt một ngón tay của đệ tử thường dùng để chỉ trăng ; đệ tử mới ngộ ra được đâu là cái đích và đâu chỉ là phương tiện.
Suy ra, văn chương, chữ nghĩa chỉ là ngón tay chỉ Mặt Trăng, Mặt Trăng chính là cái đích của mưu kế ; vượt qua bức tường chữ nghĩa mới thấy được chân trời bát ngát, cái diệu dụng vô song của mưu kế.
Nói cho cùng, mưu kế là sự yếm trá là những nguỵ kế, là kì kế, người dùng mưu kế phải bảo mật, nếu tiết lộ sẽ thất bại.
4. CÁC NHÓM MƯU KẾ:
Ba mươi sáu kế, được chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm có 6 mưu kế, sự chia nhóm căn cứ vào tình hình mạnh yếu của ta và địch, căn cứ vào tình hình của chiến trường (tiến công hoặc hỗn chiến hoặc cùng phối hợp tiến công), sự phân chia này có tính chất tương đối, có thể áp dụng trên nhiều lãnh vực khác nhau như quân sự, ngoại giao, kinh tế, thương trường.
a) Thắng chiến kế (Có điều kiện chiến thắng đối phương):
Man thiên quá hải
Vi Nguỵ cứu Triệu
Tá đao sát nhân
Dĩ dật đãi lao
Sấn hoả đả kiếp
Thanh đông kích tây
b) Địch chiến kế (Lực lượng ta và địch tương đương):Vô trung sinh hữu; Ám độ Trần Thương;Cách ngạn quan hoả;Tiếu lí tàng đao;Lí tại đào cương;Thuận thủ khiên dương
c) Công chiến kế (Mưu kế để tiến công đối phương):Đả thảo kinh xà;Tá thi hoàn hồn;Điệu hổ li sơn;Dục cầm cố túng;Phao chuyên dẫn ngọc;Cầm tặc cầm vương.
d) Hỗn chiến kế (Kế mưu dùng để đánh hỗn chiến):Phủ để trừu tân;Hỗn thủy ma ngư’;Kim thiền thoát xác;Quan môn tróc tặc;Viễn giao cận công;Giả đồ diệt Quắc.
e) Tính chiến kế (Tính toán, suất các cánh quân cùng tác chiến):Thâu lương hoán trụ;Chỉ tang mạ hòe;Giả si bất điên;Thượng ốc trừu thê;Thụ thượng khai hoa;Phản khách vi chủ.
f) Bại chiến kế (Những mưu kế áp dụng vì ta yếu hơn đối phương):Mĩ nhân kế; Không thành kế; Phản gián kế;Khổ nhục kế; Liên hoàn kế;Tẩu vi thượng.
5. NHỮNG NHÂN TỐ VÀ THUỘC TÍNH CỦA MƯU KẾ:
Theo Trung Quốc lịch đại mưu lược, tác giả Trần Minh nêu định nghĩa và các thuộc tính của mưu kế như sau :
Sách Thuyết văn cho rằng, cái gì khó mà nghĩ ra hoặc giỏi hỏi, giỏi bàn gọi là mưu, đã trải qua, kinh qua, gọi là lược.
Có học giả giải thích, mưu là kế thích nghi với quyền (lực), lược là sách lược lâu dài, là phương pháp, thủ đoạn để vượt qua khó khăn, thông thường ta gọi là mưu kế.
Mưu lược gồm có bốn nhân tố hoặc bốn yếu tố là chủ thể, khách thể (đối tượng), bản thể và trường thể. Chủ thể là người phát minh ra mưu lược, phương pháp, thủ đoạn.
Ví dụ : Gia Cát Lượng phát minh Không thành kế, Dục cầm cố túng.
Khách thể hoặc đối tượng, tức mưu lược được dùng trong lĩnh vực nào, quân sự hay chính trị, ngoại giao hay kinh doanh ; được áp dụng với người nào, khách thể phân chia thành bản thể và trường thể :
Bản thể là khi áp dụng mưu kế, thủ đoạn, đối phương với những đối tượng khác nhau thì tác dụng cũng khác nhau, nói cách khác là tuỳ theo từng đối tượng mà áp dụng mưu kế.
Ví dụ : Mưu kế Khổng Minh đối với Chu Du, khác mưu kế của Khổng Minh đối với Mạnh Hoạch.
Trường thể là mưu lược, thủ đoạn, phương pháp được áp dụng trong hoàn cảnh địa lí cụ thể, hoàn cảnh địa lí khác nhau thì mưu kế cũng khác nhau.
Ví dụ : Khổng Minh mưu lược dùng hoả công nhưng hoả công trận Tân Dã khác với hoả công trận Xích
Bích.
Nói chung, một mưu lược hoàn chỉnh phải hội đủ bốn yếu tố là chủ thể, khách thể, bản thể và trường thể. Mưu lược cần hội đủ ba tính chất là tính khoa học, tính không gian và thời gian, tính nghệ thuật.
Mưu lược là một loại hình tư duy, là hành vi, là ngôn ngữ, là phương pháp, thủ đoạn dùng để vượt qua khó khăn, phải thuận ứng với quy luật của sự vận động sự vật, sự việc, đo lường được sự biến hoá của sự vật, sự việc nên phải có tính khoa học.
Mưu lược là phương pháp, thủ đoạn để vượt qua tình huống khó khăn, đã nói đến tình huống tức là đề cập đến thời gian và không gian nhất định, không gian và thời gian là thuộc tính của mưu lược.
Thời gian thì luôn trôi qua, mọi việc không thể lặp lại y như cũ trên cùng một địa điểm, nên không thể có một công thức hoá mưu lược, nên khó có một công thức nhất định cho mưu lược.
Tuy có thể cùng một phương pháp, phương tiện nhưng các ứng dụng phải linh hoạt và khác nhau.
Ví dụ : Khổng Minh nhiều lần dùng hoả công để đánh Tào – Nguỵ nhưng trận hoả công ở Tân Dã khác với trận hoả công dùng với Chu Du ở trận Xích Bích.
Một người có kĩ xảo đạt đến trình độ cao trong lĩnh vực nào đó thì gọi là nghệ thuật, ví dụ nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chính trị,... mưu lược phải đến trình độ cao, có tính nghệ thuật, mới có thể thắng được đối phương.
Một mưu lược thường được truyền đạt hoặc thể hiện bằng hai phương thức là ngôn ngữ hoặc hành vi.
Dùng hành vi để khống chế đối phương, giành thắng lợi hoặc dùng ngôn ngữ để thuyết phục hoặc có khi vận dụng cả hai phương thức, thống nhất giữa hành vi và ngôn ngữ.
Hành vi thường thể hiện trên hai phương thức là kì và chính :
Chính là quang minh chính đại, từ kẻ đại trí đến người ít học hành cũng có thể hiểu và thấy được, thường biểu hiện là khoan dung đại độ với mọi người kể cả đối phương, chính là một phương pháp, nghệ thuật dùng thu phục nhân tâm.
Kì là làm cho đối phương không lường được, tiến thoái lưỡng nan, lúng túng ... ta thừa cơ giành thắng lợi, kì là một phương pháp, nghệ thuật giành chiến thắng.
Mưu lược thường được thể hiện bằng ngôn ngữ, lời nói, nhưng một trong những phương tiện hữu hiệu để thể hiện mưu lược là ngôn ngữ u mặc, tức là dùng cách gây cười, hài hước, khôi hài trào lộng để thể hiện mưu lược.
Phương thức u mặc tuy dùng biện pháp khoa trương nhưng lại hàm súc, linh hoạt, người nghe dễ tiếp thu. Vì vậy, những người mưu lược rất hay dùng phương thức u mặc vào trong mưu lược.
Nói chung, mưu lược là phương pháp, thủ đoạn để người ta vượt khó khăn, tránh điều xấu, tìm được điều tốt hoặc chuyển điều xấu thành điều tốt,... trong nhiều lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao, giao tiếp và cạnh tranh trong thương trường.
B. MƯU KẾ TAM QUỐC CHÍ (48 MƯU KẾ):
1. TÙY CƠ ỨNG BIẾN - TÀO THÁO DÂNG BẢO ĐAO.
Các quan họp bàn về việc giết gian thần Đổng Trác nhưng không có người nào tìm ra được kế gì, các quan ngồi khóc hu hu.
Bỗng trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng :
- Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, xem khóc có chết được thằng Đổng Trác không ?
Doãn ngoảnh lại xem ai, thì là Kiêu kị hiệu uý Tào Tháo. Doãn giận nói rằng :
- Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, sao nhà ngươi không biết nghĩ cách báo quốc, lại còn cười à ? Tháo nói :
- Tôi cười, có phải cười gì đâu ! Cười là cười các quan không biết nghĩ kế gì trừ được thằng Ðổng Trác. Tháo nay tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt được đầu thằng Đổng Trác, treo ở cửa phủ để tạ thiên hạ.
Doãn liền đứng dậy hỏi rằng :
- Mạnh Đức có kế gì tài thế ?
Tháo nói :
- Tôi lâu nay sở dĩ nép mình thờ Đổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó rất tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan Tư đồ có con đao thất bảo, xin cho tôi mượn.
Tôi nguyện phen này vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Đổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì. Vương Doãn mừng lắm nói rằng :
-Nếu Mạnh Đức có bụng như thế, thực là may cho thiên hạ lắm !Doãn thân hành rót chén rượu mời Tào Tháo. Tháo đổ rượu, cất lời thề.
Doãn bèn đem đao thất bảo đưa cho. Tháo uống rượu xong, dắt đao đứng dậy đi ra. Các quan ngồi một lát rồi cũng về cả.
Hôm sau, Tháo dắt đao đến tướng phủ, hỏi :
- Thừa tướng ở đâu ?
Đầy tớ nói :
- Trong gác.
Tháo vào, thấy Trác ngồi trên giường ; Lữ Bố đứng hầu bên cạnh.
Trác thấy Tào Tháo vào, hỏi rằng :
- Sao hôm nay Mạnh Đức đến chậm thế ?
Tháo nói :
- Thưa, ngựa tôi gầy hoá đi chậm.
Trác ngoảnh lại bảo Lữ Bố rằng :
- Ta có ngựa tốt ở Tây Lương mới tiến. Phụng Tiên đi chọn một con đem lại đây cho Mạnh Đức. Bố vâng lời đi lấy ngựa. Tháo thấy còn một mình Trác, bụng đã bảo dạ rằng :
- Thằng này số nó đến lúc chết đây ! Lập tức muốn rút đao đâm ngay, nhưng lại sợ Trác khoẻ chưa dám đâm vội. Trác mình mẩy to béo, xưa nay không ngồi được lâu, bèn ngả mình nằm xuống ; ngoảnh mặt vào trong. Tháo lại nghĩ rằng :
- Thằng này thực số chết !
Liền rút đao ra, chực đâm.
Không ngờ Trác trông vào trong cái gương, thấy bóng Tào Tháo rút đao ra ở sau lưng, vội vàng quay đầu lại hỏi :
- Mạnh Đức làm gì thế ?
Bấy giờ Lữ Bố vừa dắt ngựa đến ngoài gác. Tháo tay đương cầm con đao, vội quỳ xuống thưa : - Tháo tôi có con đao quý xin dâng Thừa tướng.
Trác cầm lấy đao xem, thấy đao dài hơn một thước, cán bằng ngọc thất bảo, lưỡi thực sắc, quả là dao quý, bèn đưa cho Lữ Bố cất đi.
Tháo còn đeo vỏ đao ở lưng, liền cởi ra, đưa nốt cho Lữ Bố. Trác đem Tháo ra xem ngựa. Tháo tạ rồi xin phép đem ngựa ra cưỡi thử.
Trác sai đem yên cương đóng ngựa cho Tháo.
Tháo dắt ngựa ra ngoài cửa tướng phủ, lên yên, rồi ra roi phi nước đại thẳng hướng đông nam mà chạy. Tào Tháo đi khỏi.
Lữ Bố nói với Trác rằng :
- Vừa rồi tôi trông Tào Tháo hình như có ý muốn đâm trộm Thái sư ! Vì Thái sư trông thấy, hắn mới nói lảng ra là đến dâng đao. Trác nói :
- Ta cũng hơi nghi.
Đang nói chuyện thì Lý Nho ở đâu đến.
Trác hỏi Lý Nho. Nho nói :
- Tháo không có vợ con gì ở kinh, chỉ trọi một mình ở quán trọ, nay nên sai người đến gọi. Hắn đến ngay thì quả là hắn dâng đao thật, nếu thoái thác không đến, thì đích là thích khách. Lúc bấy giờ ta sẽ bắt mà hỏi.
Trác liền sai bốn người coi ngục đi gọi Tào Tháo.
Lính đi một hồi lầu rồi trở về trình rằng :
- Tháo không về nhà trọ. Có người gặp hắn cưỡi ngựa ra cửa đông. Lính canh hỏi đi đâu thì hắn nói rằng Thừa tướng sai đi có việc kíp, rồi tế ngựa đi thẳng.
Nho nói :
- Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa, hắn chột dạ chạy trốn, tất là có bụng hành thích. Trác nói :
- Ta tin dùng hắn thế, sao hắn lại muốn hại ta ?
Nho thưa :
- Tất nhiên có người đồng mưu. Bắt được Tào Tháo thì ra cả.
Trác liền tự đi các nơi, chỗ nào cũng vẽ hình ảnh Tào Tháo ai bắt được sẽ thưởng ngàn vàng, lại phong cho làm Vạn hộ hầu ; ai chứa chấp sẽ bị trị tội.
Trong khi ấy, Tháo cắm đầu cắm cổ chạy.
LẠM BÀN
1. Tôn Tử binh pháp, thiên Hư thực viết : Tướng giỏi là thích ứng tình hình của địch, khi gặp địch thì phải tuỳ cơ ứng biến, sử dụng chiến pháp, chiến thuật thích hợp, làm cho địch tuy đông nhưng không có cách nào chiến thắng.
Tuỳ cơ ứng biến là trí tuệ, là tố chất của một người mưu lược và được xem như là một mưu kế.
2. Tào Tháo ứng biến từ chỗ muốn dùng thất bảo đao giết Đổng Trác thành thất bảo đao hiến cho Đổng Trác ; cưỡi ngựa thử đến chỗ phi ngựa đào tẩu.
3. Nhờ tuỳ cơ ứng biến, tuỳ thời, theo thời, theo địch mà hành động nên Tào Tháo đã thoát chết, chạy là thượng sách (tẩu vi thượng sách) chạy càng nhanh, càng xa càng tốt.
2. ĐỐT NHÀ CƯỚP CỦA VIÊN THIỆU ĐOẠT KÍ CHÂU.
Bấy giờ, Viên Thiệu đóng quân ở Hà Nội, lương thảo thiếu hụt, không tìm đâu ra để chu cấp cho binh lính. Quan Thứ sử Kí Châu là Hàn Phúc thỉnh thoảng cho người chở lương thực đến giúp.
Mưu sĩ Phùng Kỷ thấy vậy, bảo nhỏ với Viên Thiệu :
- Đại trượng phu phải tự mình tung hoành thiên hạ cho phỉ chí, cần gì nhờ vả kẻ cho lương ? Kí Châu đất rộng dân giàu, sao tướng quân không đem quân chiếm quách cho rồi ?
Viên Thiệu nói :
- Ta cũng nghĩ thế, nhưng chưa có kế hay.
Phùng Kỷ nói :
- Nay ngầm sai người mang mật thư gởi cho Công Tôn Toản, bảo Công Tôn Toản kéo quân đánh Ký Châu và hẹn sẽ giúp sức rồi chia đôi mảnh đất ấy. Tôi chắc thế nào Công Tôn Toản cũng hưng binh.
Còn Hàn Phúc là đứa vô mưu, nếu bị Công Tôn Toản đem quân đánh, thế nào cũng mời tướng quân đem binh vào Ký Châu giúp sức.
Chừng ấy tướng quân sẽ tự lĩnh mọi việc, rồi chỉ trở bàn tay là lấy được, có khó gì ? Viên Thiệu cả mừng, liền thảo một bức mật thư sai người đem đến cho Công Tôn Toản.
Công Tôn Toản xem thư thấy Viên Thiệu hẹn cùng đánh Hàn Phúc và chia đất Kì Châu, lòng mừng lắm, lập tức khởi binh.
Trong lúc đó, Viên Thiệu lại ngầm sai người đến báo cho Hàn Phúc biết.
Phúc hoảng sợ, triệu hai mưu sĩ là Tuân Thầm và Tân Bình vào thương nghị.
Tuân Thầm bàn :
- Công Tôn Toản thống lãnh quân hai nước Yên, Đại, đông lắm, nếu kéo binh đến đây, Kí Châu chúng ta ắt mất. Vả lại, Công Tôn Toản lại có ba anh em Huyền Đức giúp sức thì chúng ta chống sao nổi ?
Nay có Viên Bản Sơ trí dũng hơn người, dưới trướng có nhiều danh tướng. Vậy bây giờ Tướng quân nên mời Viên Bản Sơ đến đây để cùng coi việc cai trị châu quận với ta. Ông ấy sẽ hậu đãi Tướng quân, và như thế không sợ gì Công Tôn Toản nữa.
Hàn Phúc nghe theo, liền sai viên biệt giá là Quan Thuần đi mời Viên Thiệu.
Quan Trưởng sử Cảnh Vũ vội can :
- Không nên ! Hiện nay Viên Thiệu là kẻ cô thế, quân lương cùng quẫn, phải nhờ đến chúng ta mà sống, chẳng khác nào đứa hài nhi trong tay, không cho bú nữa là chết.
Sao chúng ta lại đem việc châu quận mà giao cho hắn ? Làm như thế chẳng khác nào dẫn cọp vào chuồng dê.
Hàn Phúc nói :
- Ta vốn là môn hạ cũ của họ Viên, tài ba kém cỏi, may được trấn giữ châu quận này. Người xưa có nói : Lựa người tài đức mà nhường ngôi. Huống hồ, ta với Viên Bản Sơ nghĩa trọng, dẫu hai người có cai trị một châu cũng chẳng sao.
Cảnh Vũ than :
- Tướng quân đã có ý như vậy thì Kí Châu coi như đã mất rồi !
Hay được việc ấy, trong số bộ hạ của Hàn Phúc có hơn ba mươi người bỏ đi nơi khác. Chỉ còn Cảnh Vũ với Quan Thuần ở lại, phục sẵn ngoài thành để đợi Viên Thiệu.
Vài ngày sau, Viên Thiệu dẫn quân tới. Cảnh Vũ và Quan Thuần bất thần nhảy ra, vung đao chém Viên Thiệu. Nhưng nhanh như cắt, Nhan Lương đã chém chết Cảnh Vũ, và Văn Xủ giết ngay Quan Thuần, Viên Thiệu vào thành Kí Châu, cho Hàn Phúc làm Phấn uy tướng quân, rồi cắt đặt cho bọn Ðiền Phong, Thư Thụ, Hứu Du, Phùng Kỷ chia nhau nắm giữ việc châu.
Thế là Viên Thiệu đoạt hết quyền hành của Hàn Phúc.
Hàn Phúc hối hận thì đã muộn, bực mình, bỏ cả nhà cửa, vợ con lên ngựa sang Trần Lưu, nương nhờ Thái thú Trương Mạc.
LẠM BÀN
1. Kinh Dịch, quẻ Quải viết : Địch gặp tai hoạ lớn, ta nhân đó tìm thế để thủ lợi, dùng cương để thắng nhu (Địch chi hại đại, tựu thế thủ lợi, cương quải nhu dã).
Tôn Tử binh pháp trong thiên Thủy kế gọi là lúc địch loạn, ta thừa cơ đánh lấy và giành thắng lợi (loạn nhi thủ chi).
Nước địch loạn bên trong thì cướp đất ; nước địch loạn ở bên ngoài thì cướp dân (tranh thủ dân tâm) ; nước địch vừa loạn trong và ngoài thì cướp nước.
2. Sấn hoả đả kiếp, nghĩa hẹp là người ta bị cháy nhà xông vào để hôi của, cướp của ; nghĩa rộng là nước địch gặp nguy cơ thì thừa cơ cướp đoạt để giành thắng lợi.
3. Sách lược này xuất hiện từ thời Xuân thu, nhân Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Tề và hội liên minh ở Hoàng Trì, đất nước bị bỏ trống ; Việt vương nhân đó đánh Ngô và tiêu diệt nước Ngô.
4. Kí Châu đất rộng, dân giàu nhưng Hàn Phúc vô mưu, khiếp nhược, là miếng mồi ngon của Viên Thiệu.
5. Viên Thiệu hẹn với Công Tôn Toản đánh Kí Châu là gọi người đốt lửa, nhân Hàn Phúc cầu cứu, Thiệu cướp luôn Kí Châu.
3. NỮ SẮC NHƯ DAO - MỐI TÌNH TAY BA
Đến đêm khuya, trăng sáng vằng vặc, Doãn chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi, ngẩng mặt lên trời mà khóc. Chợt nghe có tiếng người thở dài ở bên cạnh đình Mẫu Đơn. Doãn rón rén lại nhìn xem ai thì là một con hát trong phủ, tên là Điêu Thuyền.
Điêu Thuyền từ thuở nhỏ được kéo vào phủ, học múa học hát, bấy giờ mới mười sáu tuổi, đủ cả tài sắc. Doãn thương yêu như con đẻ.
Doãn đứng nghe một hồi lâu, mắng rằng :
- Con này đã có tư tình gì đây ?
Thuyền quỳ xuống thưa rằng :
- Lạy cha, con đâu có dám tư tình.
Doãn hỏi :
- Không có tư tình thì việc gì canh khuya lại ra đứng đây mà thở vắn than dài ?
Thuyền nói :
- Lạy cha ! Xin cho con bày tỏ nỗi lòng.
Doãn nói :
- Con không được giấu giếm, phải nói cho thực.
Thuyền nói :
- Con nhờ ơn cha nuôi nấng, dạy bảo múa hát, lại được hậu đãi, dù thịt nát xương tan, cũng không báo được muôn một.
Gần đây con thấy cha mặt thảm mày chau, tất cha có lo việc lớn gì trong nước, con vẫn không dám hỏi.
Nhân chiều hôm nay con thấy cha đứng ngồi không yên, cho nên con cũng buồn rầu mà thở dài, không ngờ cha nghe thấy. Nếu cha có việc gì cần sai bảo đến con, dù chết con cũng không ngại.
Doãn đập gậy xuống đất, nói rằng :
- Ai ngờ cơ đồ nhà Hán lại ở trong tay con ! Hãy theo cha đến nhà gác cha bảo !
Doãn đến đó, đuổi hết tì thiếp ra. Dắt Điêu Thuyền ngồi lên trên sập, rồi thụp xuống lạy. Điêu Thuyền sợ hãi, cúi rạp xuống đất, thưa rằng :
- Sao cha lại làm thế ?
Doãn nói :
- Con hãy thương lấy sinh linh nhà Hán !
Nói rồi khóc như nước suối chảy. Thuyền thưa :
- Vừa rồi con đã thưa, cha có việc gì sai khiến, dẫu chết con cũng không từ. Doãn lại quỳ xuống nói :
- Hiện nay trăm họ như bị treo ngược, vua tôi ngất ngưởng như trứng chồng, thật nguy cấp, phi con không ai cứu được.
Tặc thần Đổng Trác sắp cướp ngôi vua. Văn võ trong triều không ai nghĩ được kế gì. Đổng Trác có một đứa con nuôi là Lữ Bố, sức khoẻ lạ thường. Ta xem hai tên ấy cùng là tuồng hiếu sắc. Nay ta muốn dùng một kế liên hoàn : Trước đem con gả cho Lữ Bố, sau lại đem con dâng cho Đổng Trác.
Con ở trong, tùy cơ lập kế, li gián hai bố con hắn, xui khiến thế nào cho Lữ Bố giết Đổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Đó là nhờ ở sức con, con nghĩ thế nào ?
Điêu Thuyền thưa :
- Con xin thưa, dẫu chết con cũng không từ. Xin đem ngay con dâng cho chúng, con sẽ lập mưu ở trong. Doãn nói :
- Việc này nếu tiết lộ, họ nhà ta sẽ chết hết !
Thuyền thưa rằng :
- Xin cha chớ lo. Nếu con không báo đền được nghĩa lớn, con sẽ chết dưới muôn vàn ngọn giáo. Doãn lạy tạ.
Hôm sau, Doãn sai người đem ngọc minh châu, xưa nay vẫn cất kĩ một nơi, gọi thợ khéo, làm một cỗ mũ vàng, mật sai người đem biếu Lữ Bố. Bố mừng rỡ, thân đến nhà Doãn tạ ơn.
Doãn làm sẵn của ngon vật lạ đợi Bố đến.
Doãn ra cửa đón rước vào hậu đường, mời ngồi lên trên.
Bố nói :
- Tôi là một tiểu tướng ở trong phủ, Tư đồ là một vị đại thần trong triều, sao lại quá tôn kính như vậy ? Doãn nói :
- Nay thiên hạ không có ai là anh hùng, tôi chỉ thấy duy có tướng quân mà thôi. Tôi tỏ lòng tôn kính, không phải là tôn kính cái chức tước của tướng quân mà là tôn kính cái tài của tướng quân đó.
Bố mừng lắm. Doãn khẩn khoản mời rượu, khen lấy khen để mãi cái đức Đổng Thái sư và cái tài Lữ Bố. Bố cười vang và uống rượu thoả thích.
Bấy giờ Doãn mới đuổi đầy tớ lui ra, chỉ để vài người tì thiếp đứng hầu rượu.
Khi Bố ngà ngà say, Doãn mới truyền rằng :
- Gọi con em nó ra đây !
Một lát hai thị tì đỡ Ðiêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy bước ra.
Lữ Bố trông thấy giật mình, hỏi :
- Người nào vậy ?
Doãn nói :
- Đó là con gái nhỏ của lão, tên là Điêu Thuyền. Lão nay được ơn tướng quân có lòng hạ cố mà coi như chỗ chí thân, nên lão sai nó ra để chào tướng quân.
Liền sai Ðiêu Thuyền bưng chén rượu mời.
Thuyền nâng chén rượu mời Bố. Hai bên nhìn nhau, đầu mày cuối mắt. Vương Doãn giả tảng say, nói : - Con cố mời tướng quân uống vài chén con nhé ! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân đấy. Bố mời Thuyền ngồi. Thuyền giả cách thẹn thùng, muốn lui vào. Doãn nói :
- Tướng quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại.
Thuyền khép nép, ngồi bên cạnh Doãn. Lữ Bố nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài chén. Doãn mới trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lữ Bố rằng :
- Lão vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tì thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ cố thương đến không ?
Bố nghe nói vội vàng đứng dậy, ra ngoài chiếu, tạ mà nói rằng :
- Nếu được như thế, tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu.
Doãn nói :
- Nay mai xin chọn ngày lành tháng tốt, đưa nó đến phủ tướng quân.
Lữ Bố mừng hớn hở, đưa mắt nhìn Điêu Thuyền.
Điêu Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp lại. Một chốc tiệc tan, Doãn nói :
- Lão phu muốn mời tướng quân nghỉ lại đây chơi, nhưng sợ Thái sư sinh nghi.
Bố hai ba lần tạ đi tạ lại, rồi lui về.
Được vài hôm, Vương Doãn ở trong triều gặp Đổng Trác, nhân thể không có Lữ Bố ở đấy bèn thụp xuống đất lạy, nói rằng :
- Tôi muốn rước Thái sư quá bước lại nhà tôi xơi chén rượu, nhưng không biết Thái sư có lòng hạ cố chăng ?
Trác nói :
- Được quan Tư đồ mời, tôi xin đến ngay.
Doãn lạy tạ, về nhà trang hoàng nhà cửa lịch sự, bày đủ các món sơn hào hải vị ; giữa gian sảnh, kê một cái sạp, gấm vóc rải cả xuống đất, trong ngoài trướng rủ màn che.
Buổi trưa hôm sau, Đổng Trác đến.
Doãn mặc áo đại trào ra đón, lạy hai lạy rồi mời vào. Trác xuống xe, tả hữu hơn một trăm người vác kích đi thẳng vào nhà, đứng xếp thành hai hàng.
Doãn xuống dưới thềm lạy hai lạy. Trác sai người dắt Doãn lên ngồi bên cạnh.
Doãn nói :
- Công đức Thái sư to lắm ! Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng !
Trác mừng lắm.
Doãn sai tấu nhạc và dâng rượu, rất là cung kính.
Đến chiều, Trác uống rượu đã say, Doãn mời Trác vào nhà trong.
Trác quát giáp sĩ lui ra. Doãn bưng một chén rượu, mừng Trác rằng :
- Chúng tôi thuở nhỏ có học thiên văn, đêm xem tượng trời, thấy khí số nhà Hán đã hết. Thái sư công đức đã vang lừng cả thiên hạ.
Ngày xưa, vua Thuấn nối ngôi vua Nghiêu, vua Vũ nối ngôi cho Thuấn. Thế là hợp lòng trời và lòng người lắm. Trác nói :
- Ta có đâu dám mong như thế !
Doãn nói :
- Xưa nay người có đạo thay người vô đạo, người không có đức nhường người có đức, có gì là không đúng. Trác cười và nói rằng :
- Nếu mệnh trời về ta, Tư đồ phải làm nguyên huân.
Doãn lại tạ.
Bấy giờ đèn nến đốt sáng choang, chỉ có mấy đứa hầu gái đứng hầu rượu và dâng đồ ăn. Doãn nói :
- Phường nhạc không đáng đem ra cung phụng Thái sư. Nay có một con hát của nhà, xin Thái sư cho phép được gọi ra hầu.
Trác nói :
- Hay lắm ! Doãn mới sai kéo bức màn ra, đàn sáo vang lừng.
Điêu Thuyền đứng ở ngoài mành lượn múa dịu dàng, ở ngoài trông vào thực là ngoạn mục. Điêu Thuyền múa xong. Trác gọi lại gần.
Điêu Thuyền ở ngoài thềm đi vào, lạy hai lạy.
Trác thấy Điêu Thuyền dung nhan xinh đẹp bèn hỏi Doãn :
- Con bé này là thế nào ?
Vương Doãn thưa :
- Bẩm, nó là con hát ở phủ, tên là Điêu Thuyền.
Trác hỏi :
- Biết hát không ?
Doãn sai Điêu Thuyền gõ nhịp hát một bài.
Đổng Trác khen nức nở. Doãn sai Thuyền dâng rượu.
Trác cầm lấy chén rượu hỏi rằng :
- Xuân xanh năm nay bao nhiêu ?
Thuyền thưa :
- Tuổi tiện thiếp vừa đôi tám.
Trác cười nói rằng :
- Thật là người chốn thần tiên !
Doãn đứng dậy thưa rằng :
- Chúng tôi có ý định muốn dâng lên Thái sư, không biết Thái sư có nhận cho không ? Đổng Trác nói :
- Ơn ấy ta biết lấy gì báo lại ?
Doãn nói :
- Nếu nó được hầu hạ Thái sư thì thực phúc cho tôi lắm.
Trác cảm tạ hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Điêu Thuyền đến tướng phủ.
Trác đứng dậy cáo từ.
Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về.
Doãn cưỡi ngựa về đến xấp nửa đường, trông thấy hai bên đường có đèn đỏ, ở giữa là Lữ Bố, cưỡi ngựa cầm kích đi lại.
Lúc Vương Doãn đến, Bố dừng ngựa, một tay nắm lấy áo Vương Doãn rồi hỏi to rằng : - Tư đồ đã gả Điêu Thuyền cho ta, nay lại đem Điêu Thuyền dâng cho Thái sư, sao lại đùa như thế ? Doãn vội vàng ngăn Lữ Bố, nói rằng :
- Nói chuyện ở đây không tiện, xin ngài hãy quá bước lại nhà lão phu.
Bố theo Doãn về.
Hai người dắt nhau vào nhà trong. Chào hỏi xong, Doãn nói :
- Sao tướng quân lại trách lão ?
Bố nói :
- Có người nói lại ta rằng Tư đồ dùng xe đưa Điêu Thuyền vào tận tướng phủ, là cớ làm sao ? Doãn thưa :
- Rõ khổ, tướng quân không biết ! Hôm qua ở triều, Thái sư bảo tôi rằng : Ta có một việc phải đến nhà ngươi. Vậy tôi mới sửa soạn tiệc nhỏ đón tiếp.
Trong khi uống rượu, Thái sư hỏi : Ta nghe ngươi có con gái tên là Điêu Thuyền, đã gả cho con ta là Lã Phụng Tiên. Có thực không ? Đem con lão ra đây cho ta coi !
Tôi không dám không vâng lệnh, phải gọi Điêu Thuyền ra lạy bố chồng. Thái sư lại truyền rằng : - Hôm nay tốt ngày, để ta đem Điêu Thuyền về cho Phụng Tiên !
Tướng quân thử nghĩ xem, Thái sư thân hành đến nơi truyền bảo, lão phu sao dám gàn trở ? Lữ Bố nói : - Quan Tư đồ không có lỗi gì, tôi trót nghĩ lầm, ngày mai tôi xin mang roi đến chịu tội. Doãn lại nói :
- Con tôi có ít nhiều đồ nữ trang. Khi nào nó về phủ tướng quân, tôi sẽ mang đến.
Lữ Bố tạ, rồi về.
Sáng hôm sau, Bố ở nhà nghe ngóng, chẳng thấy tin tức gì ; bèn sang tướng phủ, vào thẳng nhà trong hỏi tin những người hầu.
Một người thưa :
- Đêm qua Thái sư cùng nghỉ với người hầu mới, bây giờ chưa dậy.
Bố giận lắm, lẻn vào sau buồng nằm của Đổng Trác để dò xem.
Bấy giờ Điêu Thuyền đã dậy rồi, đang ngồi trong cửa sổ chải đầu, chợt trông xuống ao trước cửa sổ, thấy bóng người cao lớn, đầu đội mũ bịt tóc, biết ngay là Lữ Bố, Điêu Thuyền cố ý chau ngay đôi mày, làm ra dáng buồn bã, tay cầm khăn thỉnh thoảng nâng lên lau nước mắt.
LẠM BÀN
1. Kinh Dịch, quẻ Tiệm (tượng hào cửu tam) viết : Theo ý riêng của mình mà bỏ mất bạn tốt (Phu chinh bất phục, li quân xú dã).
Sách Lục thao viết : Dùng loạn thần để cho (quân chủ nước địch) lú lẫn, tiến mĩ nữ để mê hoặc.
Sách Tam thập lục kế giải thích : Đối với kẻ địch mạnh, thì đánh vào tướng suý ; kẻ địch có trí lực, thì đánh vào tình cảm.
Mưu thần Văn Chủng hiến kế với Việt vương Câu Tiễn : Con chim bay cao chết ở mồi ngon, con cá ở dưới suối sâu, cũng chết vì mồi ngon. Muốn phục quốc rửa nhục, cần dâng đồ quý của lạ, để làm suy giảm ý chí, làm như vậy, có thể đặt Phù Sai vào đất chết.
2. Nữ sắc như dao, tức sắc đẹp của phụ nữ còn nguy hiểm hơn đao kiếm ; kế này còn có tên gọi là mĩ nhân kế ; Vương Doãn còn gọi là liên hoàn kế, tạo mối tình tay ba : Điêu Thuyền - Đổng Trác và Lữ Bố.
Nguyên tắc của mưu kế là dùng người đẹp hoặc tiền bạc để tạo ra sự nứt rạn giữa quan hệ người với người, vết rạn càng ngày càng lớn, cuối cùng là đổ vỡ.
Vương Doãn dùng lời nịnh bợ, tâng bốc, rượu và gái đẹp để chia rẽ giữa Đổng Trác và Lữ Bố, chia rẽ giữa quyền lực và sức mạnh.
Đổng Trác, Lữ Bố đều theo ý riêng, tình cảm riêng, lú lẫn, bị mê hoặc, đánh mất sự quan hệ, tàn sát lẫn nhau, đưa nhau vào đất chết.
3. Mĩ nhân kế được lặp lại nhiều lần trong lịch sử : Trụ vương với Đát Kỉ, Ngô Phù Sai với Tây Thi. 4. DỐI TRỜI QUA BIỂN - ĐIÊU THUYỀN DỐI ĐỔNG TRÁC.
Một bữa, Trác đang ngồi bàn việc với vua Hiến đế, Bố vác kích lẻn ra cửa sau, lên ngựa chạy đến tướng phủ, buộc ngựa ở cửa phủ, cầm kích vào thẳng hậu đường, để tìm Điêu Thuyền. Thuyền bảo :
- Hãy ra vườn sau bên đình Phượng Nghi đợi thiếp !
Bố vác kích đi trước, đứng bên bao lơn ở dưới đình chờ một hồi lâu, thấy Điêu Thuyền rẽ hoa gạt liễu đi đến, chẳng khác gì tiên trên cung trăng. Thuyền sụt sùi khóc bảo Bố rằng :
- Tiện thiếp tuy không phải Vương tư đồ sinh ra, nhưng tư đồ coi thiếp như con đẻ. Từ khi gặp tướng quân được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn nguyện lắm.
Ngờ đâu Thái sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận không chết ngay được, chỉ vì chưa gặp được tướng quân để từ giã lần cuối cùng, cho nên còn nhịn nhục sống đến bây giờ. Nay may được gặp nhau, thế là hả rồi !
Tấm thân đã nhơ nhuốc này không xứng đáng thờ người anh hùng, thiếp xin chết ở trước mặt chàng để tỏ rõ tấm lòng thiếp ! Điêu Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống. Lữ Bố vội vàng ôm ngay lấy Điêu Thuyền, khóc nói rằng :
- Lòng nàng tôi biết đã lâu, chỉ hiềm chưa được nói với nhau đấy thôi !
Điêu Thuyền gạt tay Lữ Bố ra, nói rằng :
- Kiếp này thiếp không được làm vợ chàng, xin hẹn để kiếp sau !
Lữ Bố nói :
- Nếu kiếp này không lấy được nàng, tôi không phải là người anh hùng nữa.
Điêu Thuyền nói :
- Thiếp coi một ngày dài bằng một năm, xin chàng thương mà cứu vớt.
Bố nói :
- Tôi lên đến đây, sợ thằng giặc già nó nghi, tôi phải đi ngay.
Thuyền lôi áo Lữ Bố lại nói rằng :
- Chàng còn sợ thằng giặc già như thế, thiếp này không còn mong có ngày nào được trông thấy trời và đất nữa !
Bố dừng lại nói rằng :
- Đừng vội vàng, để tôi nghĩ cách đã.
Nói rồi vác kích định đi ra.
Điêu Thuyền níu lại nói rằng :
- Khi tôi ở chốn buồng the đã được nghe tiếng tướng quân lừng lẫy như sấm rót vào tai, tưởng rằng ở đời này chỉ có một người như thế chớ không có hai.
Ai ngờ tướng quân lại chịu dưới quyền áp chế của người khác ?
Nói rồi, nước mắt chảy xuống như mưa.
Lữ Bố thẹn đỏ cả mặt, dựa kích một chỗ, quay lại ôm lấy Điêu Thuyền, dỗ dành an ủi. Hai người quấn quấn quýt quýt không nỡ buông nhau ra.
Đổng Trác ở trên điện, bỗng ngoảnh lại không thấy Lữ Bố trong bụng nghi ngay, vội vàng xin cáo từ lên xe về phủ.
Thấy ngựa của Bố buộc trước cửa phủ. Trác bèn hỏi lính canh cửa. Lính canh nói : - Ôn Hầu vào nhà sau.
Trác mắng quân canh cửa, đi thẳng ngay vào hậu đường, không thấy Lữ Bố, Trác gọi Điêu Thuyền cũng không thấy thưa. Trác hỏi người hầu gái. Người hầu gái thưa :
- Điêu Thuyền ở trong vườn sau ngắm hoa.
Trác vào vườn sau tìm, thấy Lữ Bố và Điêu Thuyền đang nói chuyện với nhau ở bên đình Phượng Nghi, hoạ kích dựng một bên.
Trác giận quát to một tiếng.
Bố thấy Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy.
Trác vớ ngay lấy ngọn hoạ kích đuổi theo.
Bố chạy nhanh. Trác béo phục phịch, đuổi không kịp, bèn cầm kích ném theo Lữ Bố. Bố gạt rơi xuống đất. Trác nhặt kích lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa.
Trác đuổi ra tận cửa vườn, thì một người xăm xăm chạy đến, đâm sầm ngay vào Đổng Trác. Trác ngã quay xuống đất.
Người đi va vào Đổng Trác, tức là Lý Nho.
Nho thấy Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện.
Trác hỏi Lý Nho :
- Ngươi đến đây làm gì ?
Lý Nho thưa :
- Tôi chợt qua cửa phủ, thấy nói Thái sư giận đi vào vườn sau tìm Lữ Bố, tôi vội vàng chạy vào, thì gặp Lữ Bố chạy ra, kêu lên rằng :
- Thái sư giết ta !
Bởi thế tôi hấp tấp vào đây để can ngăn Thái sư, chẳng may chạm phải Thái sư, thật đáng tội chết ! Trác nói :
- Không thể tha được thằng nghịch tặc ấy ! Hắn dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta cũng giết chết hắn mới nghe.
Lý Nho can rằng :
- Thái sư không nghĩ cho chín ; ngày xưa vua Trang vương nước Sở, trong bữa tiệc Dứt dải mũ đã tha tội
cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu ; đến sau bị binh nhà Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết cứu thoát được.
Nay Điêu Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lữ Bố là một mãnh tướng tâm phúc của Thái sư, nếu Thái sư nhân dịp này đem Ðiêu Thuyền cho Bố, chắc Bố cảm ơn lắm, lấy chết báo lại Thái sư, xin Thái sư nghĩ đi nghĩ lại.
Trác nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói rằng :
- Ngươi nói cũng phải, để ta nghĩ kĩ xem.
Lý Nho từ tạ rồi ra.
Trác vào ngay hậu đường gọi Điêu Thuyền ra hỏi rằng :
- Sao ngươi có tư tình với Lữ Bố ?
Điêu Thuyền khóc thưa rằng :
- Thiếp đang đứng xem hoa, bỗng Lữ Bố đột ngột ở đâu đến. Thiếp vội vàng toan tránh. Bố nói :
- Tôi là con Thái sư, việc gì phải tránh ?
Rồi y cầm kích ép thiếp đến đình Phượng Nghi. Thiếp thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tại mình thiếp, định đâm đầu xuống ao sen tự vận, nhưng lại bị y ôm chặt lấy.
Đang lúc giằng co không biết sống chết thế nào, may có Thái sư chạy lại cứu được tính mệnh. Trác lại hỏi :
- Nay ta đem ngươi gả cho hắn, ngươi có thuận không ?
Điêu Thuyền giật mình, khóc rằng :
- Thiếp đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thiếp thà chết chứ không chịu được nhục này !
Bèn rút ngay thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn.
Trác vội vàng giằng lấy thanh kiếm, ôm chặt lấy Điêu Thuyền và nói rằng :
- Ta nói bỡn đấy mà !
Thuyền nằm vào lòng Trác, bưng mặt khóc rằng :
- Đây hẳn là mẹo của Lý Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên Nho mới bày ra mẹo này, không kể gì đến thể diện của Thái sư và tính mệnh của tiện thiếp, thiếp phải xẻ thịt chúng nó ra.
Trác nói :
- Ta sao nỡ bỏ nàng.
Điêu Thuyền lại nói :
- Thái sư dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lữ Bố làm hại. Trác dỗ dành Điêu Thuyền rồi nói rằng :
- Ngày mai chúng ta về Mi Ổ, cùng hưởng sung sướng, đừng lo gì nữa.
Thuyền mới lau nước mắt lạy tạ.
Hôm sau Lý Nho vào ra mắt, nói rằng :
- Hôm nay tốt ngày, Thái sư nên đem Điêu Thuyền gả cho Lữ Bố.
Trác nói :
- Chuyện ấy ta đã nghĩ rồi. Lữ Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố, thế là được rồi ! Nho nói :
- Thái sư đừng dễ mê hoặc vì một người đàn bà.
Trác giận đổi sắc mặt, mắng rằng :
- Thế thì vợ con ngươi, ngươi có đem cho hắn không ? Việc Điêu Thuyền cấm được nói động đến nữa, còn nói ta sẽ chém đầu.
Lý Nho trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng :
- Lũ chúng ta chết cả về tay người đàn bà !
Ngày hôm ấy Ðổng Trác hạ lệnh về Mi Ổ, trăm quan đều đi tống tiễn.
Điêu Thuyền ngồi trên xe, xa trông thấy Lữ Bố đứng ở trong đám đông người, mắt nhìn vào trong xe. Thuyền giả cách che mặt làm ra dáng đau khổ bi thảm.
Xe đã đi xa. Lữ Bố còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù mịt, than tiếc bực dọc. LẠM BÀN
1. Mưu kế xuất phát từ sách Tiết Nhân Quý chinh Liêu sự lược. Theo truyền thuyết, năm 643 Đường Thái Tông suất 30 vạn quân chinh phạt Liêu Tây, khi đến bờ biển, thấy sóng gió dữ dội, ông ta muốn trở về.
Tổng quản cuộc hành quân là Trương Sĩ Quý áp dụng mưu kế của Tiết Nhân Quý làm một cái thuyền lớn, mời Đường Thái Tông đến uống rượu nghe nhạc, y như ở trên bộ.
Lúc thuyền đi xa, ông mới biết mình đang ở trên biển.
Đến khi thuyền cập bến, ông ta gọi Tiết Nhân Quý đến, nói : Ta là hoàng đế, hoàng đế là trời, nhà ngươi dối luôn cả trời qua biển (man thiên quá hải).
2. Cốt lõi của mưu kế : Chuẩn bị chu đáo (bị chu). Bên ngoài giả trang làm cho đối phương nhìn quen mà không nghi ngờ (thường kiến tắc bất nghi), mê hoặc đối phương. Trong dương có âm, âm không đối lập với dương (âm tại dương chi nội, bất tại dương chi đối) ; tức bên ngoài (dương) công khai, bên trong (âm) chứa âm mưu.
3. Điêu Thuyền dùng mưu man thiên quá hải để lừa Đổng Trác, vừa kết hợp với kế kích tướng, nói khích Lữ Bố, mục đích gây mâu thuẫn giữa Đổng Trác và Lữ Bố.
5. DỤ CỌP LÌA RỪNG - VƯƠNG DOÃN DỤ ĐỔNG TRÁC.
Đổng Trác cùng Điêu Thuyền về Mi Ổ. Lữ Bố nhìn theo, chợt nghe sau lưng có người hỏi rằng :
- Ôn hầu sao không theo Thái sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở ?
Bố quay đầu lại xem ai, thì ra là Tư đồ Vương Doãn.
Chào hỏi xong, Doãn nói :
- Tôi mấy bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa có dịp gặp tướng quân.
Bữa nay Thái sư về Mi Ổ, nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin hỏi tướng quân làm sao lại đứng đây thở than ?
Bố nói :
- Chỉ vì con gái ông đấy !
Doãn giả cách thất kinh, hỏi rằng :
- Từ hôm ấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à ?
Bố nói :
- Thằng giặc già ấy lấy làm thiếp của hắn đã lâu rồi !
Doãn lại giả cách thất kinh :
- Không ngờ lại như thế ?
Bố bèn đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe.
Vương Doãn mặt ngửa lên trời, chân dẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì.
Mãi hồi lâu, Doãn mới nói rằng :
- Không ngờ Thái sư lại làm việc cầm thú ấy !
Rồi kéo tay Lữ Bố, nói rằng :
- Xin tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện.
Bố theo Doãn về.
Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản đãi.
Bố lại đem việc gặp Điêu Thuyền ở đình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn nghe. Doãn nói :
- Thái sư làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho, nhưng người ta không chê cười Thái sư đâu mà người ta chỉ chê cười tướng quân và tôi thôi.
Tôi già yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh hùng tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này.
Bố nghe nói, cơn giận bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to. Doãn vội vàng nói rằng :
- Lão trót lỡ lời, xin tướng quân nguôi giận !
Bố nói :
- Ta thề sẽ giết chết thằng giặc già ấy để rửa nhục.
Doãn vội vàng lấy tay bưng miệng Bố can rằng :
- Tướng quân chớ nói, nhỡ ra có liên luỵ đến lão.
Bố nói :
- Đại trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ đâu lại cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ người khác mãi ru ! Doãn nói thêm một câu rằng :
- Tài như tướng quân thì sao Thái sư có thể kìm hãm được.
Bố lại nói :
- Tôi muốn giết thằng giặc già ấy, nhưng ngại rằng còn vương tình cha con, sợ người sau chê cười chăng ? Doãn tủm tỉm cười nói rằng :
- Tướng quân họ Lữ, mà Thái sư họ Đổng, thử hỏi lúc Thái sư cầm kích lao tướng quân ở đình Phượng Nghi, liệu còn có tình cha con không ?
Bố hăng hái đứng lên nói rằng :
- Nếu Tư đồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm.
Doãn thấy Lữ Bố đã quyết tâm giết Trác bèn bảo Lữ Bố rằng :
- Giúp nhà Hán, tướng quân mới thực là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu tướng quân giúp Đổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời.
Bố đứng dậy lạy Vương Doãn, nói rằng :
- Ý tôi đã quyết rồi. Tư đồ không nên nghĩ nữa.
Doãn nói :
- Tôi sợ việc không xong thì vạ to.
Bố liền rút con dao đeo ở mình, đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề. Doãn quỳ xuống lạy tạ, nói rằng :
- Hương hoả nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng quân biết.
Bố khẳng khái nhận lời rồi trở ra.
Doãn lập tức mời quan Bộc sa là Sĩ Tôn Thuỵ, quan Tư lệ hiệu uý là Hoàng Uyển đến để bàn việc ấy.
Thuỵ nói :
- Nay vua mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến Mi Ổ mời Trác vào đây để bàn việc nước.
Một mặt lấy mật chiếu của Thiên tử trao cho Lữ Bố, sai phục quân trong cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ giết đi. Chước ấy là hơn cả.
Uyển nói :
- Nhưng có ai dám đi mời không ?
Thuỵ nói :
- Có quan Kỵ đô uý Lý Túc là người cùng quận với Lữ Bố. Vì Trác không thăng chức cho, vẫn mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ.
Doãn cho là phải, bèn mời Lữ Bố đến nhà bàn bạc.
Bố nói :
- Ngày xưa xui ta giết Đinh Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta sẽ chém ngay trước. Các quan mật sai mời Lý Túc đến. Bố bảo Túc :
- Xưa ông xui tôi giết Ðinh Kiến Dương để về với Ðổng Trác. Nay Ðổng Trác trên dối Thiên tử, dưới hại sinh linh, tội ác đã nhiều, cả người và thần đều giận.
Vậy ông hãy mang chiếu Thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh giết nó đi, cố giúp nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa sĩ, ông tính thế nào ?
Túc nói :
- Tôi cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lòng. Nay tướng quân có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng ?
Nói đoạn Túc bẻ một cái tên ra thề.
Doãn nói :
- Ông làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng.
Hôm sau, Túc dẫn vài mươi tên kị mã đến Mi Ổ, sai người báo tin cho Trác rằng có chiếu Thiên tử đến. Trác cho mời vào, Lý Túc vào lạy, Trác nói :
- Thiên tử có chiếu gì ?
Túc thưa :
- Thiên tử vừa mệt khỏi, muốn hội văn võ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho Thái sư, nên sai tôi cầm chiếu này đến đây.
Trác hỏi :
- Ý Vương Doãn thế nào ?
Túc thưa :
- Vương Tư đồ đã sai người đắp đền thụ thiện, chỉ mong đợi Thái sư về.
Trác mừng rỡ nói rằng :
- Thảo nào đêm ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có tin mừng. Dịp này không nên để lỡ.
Bèn sai bốn tướng tâm phúc là Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba ngàn quân phi hùng giữ Mi Ổ rồi ngay hôm ấy sắp xe kiệu vào kinh.
Trác ngoảnh lại bảo Lý Túc :
- Hễ ta làm vua thì cho ngươi làm chức Chấp kim ngô.
Túc lạy tạ, xưng thần.
Trác vào từ giã mẹ. Mẹ Trác bấy giờ đã hơn chín mươi tuổi, hỏi Trác :
- Con đi đâu ?
Trác nói :
- Con sắp đi nối ngôi vua nhà Hán. Nay mai mẹ sẽ lên làm Hoàng Thái hậu đấy. Mẹ Trác nói :
- Ta mấy hôm nay cứ nóng ruột giật mình, sợ không phải điềm hay !
Trác nói :
- Mẹ sắp làm quốc mẫu, chẳng trách giật mình !
Nói rồi từ giã mẹ.
Đến lúc đi, bảo Điêu Thuyền rằng :
- Ta làm Thiên tử, sẽ lập nàng làm quý phi.
Điêu Thuyền đã biết rõ mọi chuyện, giả cách hớn hở mừng rỡ, lạy tạ.
Trác lên xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng.
Đi chưa được ba mươi dặm, tự nhiên xe gẫy một bánh.
Trác xuống xe cưỡi ngựa, đi chưa được mười dặm, ngựa tự dưng lồng lên gầm thét dữ tợn, lôi đứt dây cương.
Trác hỏi Lý Túc :
- Xe gẫy bánh, ngựa đứt dây cương, là điềm thế nào ?
Túc nói :
- Thế là cái điềm Thái sư nối ngôi nhà Hán, thay cũ đổi mới. Từ nay Thái sư sẽ ngồi kiệu ngọc yên vàng. Trác nghe lấy làm lọt tai.
Hôm sau, đương đi bỗng có cơn gió dữ nổi lên ầm ầm, mây kéo nghịt trời, Trác lại hỏi Túc :
- Thế là điềm gì ?
Túc nói :
- Chúa công sắp lên ngôi rồng, cho nên mới có những ráng hồng mây tía, để thêm oai trời. Trác lại mừng không lo gì nữa.
Khi Đổng Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rước, duy có Lý Nho cáo bệnh ở nhà không ra đón. Trác đến tướng phủ, Lữ Bố vào mừng.
Trác nói :
- Hễ ta làm vua, Phụng Tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ.
Bố lạy tạ rồi nghỉ ngay ở dưới trướng.
Đêm hôm ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong, gió đưa tiếng hát vào tận màn. Tiếng hát nghe thực ai oán.
Trác nghe thấy mới hỏi Lý Túc :
- Trẻ hát như thế, hay dở thế nào ?
Túc thưa :
- Thế nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Đổng sắp lên.
Mờ mờ sáng hôm sau, Trác sai bày nghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong triều.
Bỗng thấy một đạo quân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài trên buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu.
Trác lại hỏi Lý Túc :
- Người ấy là người thế nào ?
Túc nói :
- Hắn là một thằng rồ.
Rồi bảo tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi.
Trác vào đến triều, các quan đều mặc áo trào, đứng đón cả hai bên đường.
Lý Túc tay cầm thanh bảo kiếm, vịn xe Đổng Trác đẩy đi.
Đến cửa Bắc Dịch, quân sĩ đều bị ngăn cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được đẩy xe đi vào. Trác vào khỏi cửa, thấy bọn Vương Doãn, ai nấy đều cầm kiếm đứng ở điện, sợ hỏi Lý Túc : - Họ cầm kiếm là ý gì ?
Lý Túc không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào.
Vương Doãn bấy giờ mới thét to lên rằng :
- Phản tặc đã đến đây, võ sĩ đâu ?
Hai bên hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm, kẻ vác dao, cùng đổ xô lại đâm Đổng Trác. Trác mặc áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, ngã xuống xe, Trác gọi to lên rằng : - Con ta Phụng Tiên đâu ?
Lữ Bố đứng ở đằng sau, nghe thấy gọi đến tên, bèn thét to lên một tiếng rồi chạy ra nói rằng : - Nay ta vâng chiếu vua giết thằng giặc này !
Một ngọn kích đâm trúng ngay cổ họng Đổng Trác.
Lý Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách lên.
LẠM BÀN
1. Kinh Dịch, thể quẻ Kiển là Khảm (nước) trên, Cấn (núi) dưới, trước mặt bị sông đón, sau lưng bị núi ngăn, lui tới khó khăn.
Tức là làm cho đối phương lâm vào cảnh bất lợi, mất địa lợi, hoặc dụ địch ra khỏi địa lợi sa vào trận địa của ta.
Tương tự, cọp là oai linh của rừng thẳm, là chúa của muôn loài, là vua của bóng cả cây già nhưng cọp ra khỏi núi thì mất đi địa lợi.
Tôn Tử cho rằng : Dùng mưu kế thắng địch là thượng sách, công thành là hạ sách (hạ sách tài thị công thành). Điệu hổ li sơn là mưu kế, là thượng sách.
2. Vương Doãn bày mưu định kế để Đổng Trác rời khỏi Mi Ổ (điệu hổ li sơn), cô lập Đổng Trác (quân lính đều ở ngoài), đưa Đổng Trác vào cửa Bắc Dịch để cho quân sĩ và Lưu Bố hạ thủ Đổng Trác.
3. Do muốn làm hoàng đế Trác ra khỏi Mi Ổ, những điều mà người thường cho là điềm gở nhưng cách lí giải của Lý Túc thành những điềm lành, mắt mờ vì ngai vàng Trác nghe cũng hợp lí, liền dẫn thân vào đất chết. Phải chăng lòng tham đẻ ra mù quáng, mù quáng là nơi ẩn náu của hoạ sát thân ?
4. Người xưa gọi là cái tâm mê làm quan (quan mê tâm khiếu), cái tâm đã mê, đã mờ mịt thì không còn thấy mọi vật một cách khách quan. Chức, quyền, tiền, gái đẹp dụ người ta xa bản tính của mình, dần dần rơi vào cạm bẫy mà không hay.
6. MƯỢN LÁ CỜ DA HỔ - TÀO THÁO ẴM CON BÀI CHỦ HIẾN ĐẾ.
Tào Tháo ở Quảng Đông, nghe tin xa giá vua Hiến đế đã về đến Lạc Dương, họp những mưu sĩ để bàn. Tuân Úc nói :
- Ngày xưa, Tấn Văn công phụng Tương Vuơng vào làm vua, chư hầu ai cũng phục. Hán Cao tổ để tang Nghĩa đế, ai cũng theo. Nay Thiên tử mắc nạn, tướng quân nhân dịp này, cất nghĩa binh, phụng Thiên tử, theo nguyện vọng dân chúng, sách lược rất hay. Nếu ta không làm ngay, người khác sẽ làm trước ta.
Tháo mừng rỡ, thu xếp cất quân, đánh thắng Lý Thôi, Quách Dĩ (đang muốn cướp nhà vua). Đổng Chiêu hiến kế cho Tào Tháo :
- Minh quân cất nghĩa binh để trừ bạo loạn, vào triều giúp Thiên tử, ấy là công nghiệp của ngũ bá. Nhưng các tướng mỗi người một bụng, vị tất đã theo và phục cả, nay Minh Công ở mãi đây e có điều bất tiện. Chỉ có cách rước vua về Hứa Đô là hơn. Nhưng triều đình xiêu dạt mãi, mới về được kinh đô, xa gần trông mong, ai cũng muốn được yên ổn một chút. Nay lại rời xa giá đi nơi khác, chắc lòng người cũng không phục. Nhưng ở đời, có làm việc phi thường mới có công phi thường. Xin Minh Công quyết kế cho !
Tháo cầm tay Chiêu, cười, nói rằng :
- Ấy vẫn là chí tôi đó ! Nhưng tôi e rằng Đại Lương có Dương Phụng, ở trong triều có các đại thần, đã chắc đâu không sinh biến.
Chiêu nói :
- Lo chi việc ấy ! Minh Công nên đưa thư sang cho Dương Phụng để cho hắn yên tâm, rồi nói cho các đại thần rằng, kinh đô bây giờ không có lương. Rước xa xá sang Hứa Đô, gần Lỗ Dương, vận lương cho tiện, không đến nỗi xa xôi thiếu thốn như ở đây. Các đại thần sẽ vui lòng nghe theo.
Tháo nghe Chiêu nói hết sức mừng rỡ.
Khi đem nhà vua về Hứa Đô, Tháo tự phong mình làm đại tướng, mọi việc đều do Tào Tháo coi xét ; từ đấy, quyền to trong nước đều vào tay Tào Tháo ; nội các việc lớn trong triều, trước trình Tào Tháo, sau mới tâu vua.
LẠM BÀN
1. Tào Tháo cướp lấy thời cơ để cướp con bài chủ chốt là vua Hiến đế, lại đưa Hiến đế sang Hứa Đô, tránh xa các thế lực tranh chấp ; thực hiện sách lược mượn Thiên tử hiếp chư hầu.
2. Kế mượn lực còn có tên là giả thiên mệnh (mượn uy danh của Thiên tử để ra hội hoặc ra lệnh cho chư hầu) hoặc còn gọi là mượn lực, kế này được Tề Hoàn Công dùng trong thời Đông Chu.
3. Cũng nhờ kế mượn lực, mượn lá cờ da hổ, Tháo đã ở đỉnh cao quyền lực, nắm mọi quyền lực ; Gia Cát Lượng cho rằng Tháo nắm được thiên thời.
7. XUA HỔ NUỐT SÓI - TÀO THÁO GIẾT LỮ BỐ.
Tào Tháo hỏi các mưu sĩ :
- Lưu Bị đóng quân ở Từ Châu, tự lĩnh chức, coi việc ở đó. Mới rồi, Lữ Bố bị ta đánh thua cũng chạy về đó. Nếu hai người đồng tâm kéo đến xâm phạm vào Hứa Đô, cũng là điều nguy. Các ông có kế gì trừ được hai người ấy không ?
Hứa Chữ nói :
- Tôi xin lĩnh năm vạn tinh binh đi chém đầu Lưu Bị, Lữ Bố đem về dâng Thừa tướng. Tuân Úc can rằng :
- Tướng quân khoẻ thì khoẻ thực nhưng tướng quân không biết dùng mẹo. Nay, Hứa Đô mới dựng, chưa được vững vàng, chưa nên hấp tấp cất quân ; tôi xin hiến một kế hai hổ tranh ăn.
Lưu Bị bây giờ lĩnh ở Từ Châu nhưng chưa có chiếu mệnh, vậy Minh Công nên tâu hoàng thượng hạ chiếu cho y thực thụ làm chức mục Từ Châu, nhân thể đưa mật thư sai y giết Lữ Bố. Nếu Lưu Bị giết Lữ Bố thì y mất tay phù tá, nếu y không giết Lữ Bố thì giết y.
Tháo làm theo kế ấy. Nhưng Lưu Bị không giết Lữ Bố. Tháo lại hỏi Tuân Úc :
- Kế ấy không xong thì làm thế nào ?
Úc nói :
- Tôi còn một kế nữa, gọi là kế xua hổ nuốt sói.
Tháo hỏi :
- Kế ấy thế nào ?
Úc nói :
- Tướng quân nên sai người hỏi thăm Viên Thuật, rồi mật bảo Thuật : Lưu Bị dâng biểu muốn lấy Nam Quận. Thuật giận, tất đánh Lưu Bị. Minh Công lại đưa chiếu rõ ràng, sai Lưu Bị đánh Viên Thuật. Hai bên đánh nhau, Lữ Bố sẽ sinh lòng khác, thế gọi là xua hổ nuốt sói.
Tháo ưng ý lắm, thực hành theo kế ấy. Lưu Bị không có cách nào khác, cất quân đánh Viên Thuật. Viên Thuật tức giận cũng đem quân nghênh chiến. Lữ Bố nhân đó đánh chiếm Từ Châu.
LẠM BÀN
1. Tuân Úc đã đưa ra hai độc chiêu : hai hổ tranh ăn, xua hổ nuốt sói. Lưu Bị tránh được chiêu thứ nhất nhưng không thể tránh được chiêu thứ hai.
2. Kế này tương tự kế toạ sơn quan hổ đấu (ngồi trên núi, nhìn hai cọp đánh nhau) hoặc kế cò trai tranh nhau, ngư ông đắc lợi.
3. Sau này, Lữ Bố bị bắt, Tào Tháo trói Lữ Bố thật chặt. Bố xin nới dây trói. Tháo nói : Trói hổ phải trói thật chặt chứ ! Bố xin Lưu Bị nói giúp Tháo tha chết cho y. Lưu Bị quay mặt nhìn chỗ khác. Bố chửi rầm trời. Bố bị thắt cổ chết.
4. Có sách bàn rằng, Lưu Bị và Tào Tháo đều muốn tranh người, giành Lữ Bố để củng cố sức mạnh. Nay Bố đã lọt vào tay Tào Tháo, thì Lưu Bị tìm cách để giết đi, không cho Tào Tháo thêm vây cánh. Tháo là người đưa ra sách lược có tài thì cử (duy tài thị cử), dùng người không kể những thói hư tật xấu của con
người ; nay Tháo lại bị Lưu Bị lừa, giết Lữ Bố.
5. Trung Quốc có câu : Không độc không phải trượng phu (vô độc bất trượng phu), xúi Tào Tháo giết Lữ Bố là kế độc của Lưu Bị.
8. MƯỢN ĐAO GIẾT NGƯỜI - TÀO THÁO MƯỢN ĐAO LƯU BIỂU.
Tháo sai người triệu Nễ Hành tới.
Nễ Hành vào lễ xong, Tào Tháo lờ đi không mời ngồi, Nễ Hành ngước mặt lên than : - Than ôi ! Trời đất rộng thế này sao không có lấy một người ?
Tào Tháo nói :
- Thủ hạ ta có cả mấy mươi người đều là anh hùng đời nay, sao ngươi nói không có người ? Nễ Hành hỏi :
- Những người ấy là ai ? Xin nói cho nghe ?
Tào Tháo nói :
- Này là Tuân Úc, Tuân Du, Quách Gia, Trình Dục cơ thâm trí viễn, dẫu Tiêu Hà, Trần Bình cũng chưa kịp. Trương Liêu, Hứa Chữ, Lý Điển, Nhạc Tiến sức khoẻ vô địch, dẫu Sầm Bành, Mã Vũ cũng không bằng. Chức tùng sự như Lữ Kiền, Mãn Sủng ; tướng tiên phong như Vu Cấm, Từ Hoảng đều lỗi lạc hơn người.
Hạ Hầu Đôn lừng danh là phúc tướng thế gian, Tào Nhân nổi tiếng là kì tài trong thiên hạ. Sao dám nói là không người ?
Nễ Hành cười lớn nói :
- Ông nói sai rồi. Mấy nhân vật này, tôi biết rõ lắm : như Tuân Úc thì có thể sai đi điếu tang thăm bệnh, Tuân Du có thể dùng giữ mả canh mồ, Trình Dục có thể coi nhà giữ cửa, Quách Gia có thể sai đọc văn ngâm thơ, Trương Liêu thì đánh chuông đánh trống, Hứa Chử có thể giữ ngựa chăn trâu, Nhạc Tiến thì nên sai đọc chiếu đọc trướng, Lý Điển có thể sai đi truyền hịch tống thư, Lã Kiền biết mài dao đúc kiếm, Mãn Sủng có tài uống rượu ăn tấm,Vu Cấm có thể sai vác gạch xây tường, Từ Hoảng nên sai mổ lợn giết chó ! Hạ Hầu Đôn có thể gọi là Tướng quân hoàn thể và đến như Tào Nhân thật đáng mặt Thái thú vòi tiền. Ngoài ra đều là hạng giá áo túi cơm, lọ rượu bị thịt hết mà thôi !
Tào Tháo vặn hỏi :
- Còn ngươi có tài gì ?
Hành nói ngay :
- Thiên văn, địa lí, không gì không biết ; tam giáo, cửu lưu, không gì không tường.
Trên có thể giúp vua được như Nghiêu, Thuấn, dưới có thể sánh với đức Khổng, thầy Nhan, há thèm nghị luận với bầy tục tử sao ?
Trương Liêu nghe nói, nổi giận toan rút gươm chém Hành.
Tháo đưa mắt ngăn lại, rồi nói :
- Ta đang thiếu một chức cổ lại để sớm tối đánh trống hầu những buổi triều hạ, yến hưởng. Vậy ngươi hãy giữ chức này.
Hành không từ chối, nhận lời ngay, rồi bước ra ngoài.
Trương Liêu hỏi Tháo :
- Tên ấy ăn nói ngạo mạn, sao Thừa tướng không giết đi ?
Tháo nói :
- Vì nó vốn có cái hư danh xa gần đồn đại. Nếu giết nó, thiên hạ sẽ bảo ta hẹp lượng không dung được người. Nó đã cậy mình tài giỏi, thì ta sai làm tên đánh trống cho mà nhục !
Hôm sau, Tào Tháo mở yến tiệc để thết tân khách, rồi sai Nễ Hành ra đánh trống. Nễ Hành bước ra, tên đánh trống cũ bảo Hành rằng :
- Đánh trống thì phải mặc áo mới vào !
Hành không thèm nghe, cứ mặc áo cũ mà vào, xắn tay đánh ba hồi trống nhịp. Ngư dương, âm tiết tuyệt diệu, nghe văng vẳng như có tiếng đá, tiếng vàng ngân theo ai oán.
Khách trên tiệc nghe qua, không khỏi bùi ngùi rơi lệ.
Bỗng tả hữu quát nạt Hành :
- Sao không thay áo ?
Hành bèn cởi áo, tụt quần trước bàn tiệc, đứng lõa thể trơ trơ như con nhộng, chẳng che đậy gì hết. Trên tiệc, kẻ lấy tay che mặt, người vội vã quay đi.
Bấy giờ Hành mới từ từ cúi xuống kéo quần lên, sắc mặt thản nhiên, không hề thay đổi. Tháo quát mắng :
- Trên chỗ miếu đường, sao mi quá vô lễ ?
Hành mắng lại :
- Dối trên lừa dưới mới là vô lễ ! Chớ ta để lộ cả thân hình thanh bạch của cha mẹ sinh ra, sao gọi là vô lễ được ?
Tháo vặn hỏi :
- Ngươi xưng là thanh bạch, thế ai là nhơ bẩn ?
Hành đáp :
- Mày nhơ bẩn chứ ai ! Mày không thấy rõ kẻ hiền người ngu là mắt bẩn ; không đọc thi, thư là miệng bẩn ; không nghe lời phải là tai bẩn ; không thông chuyện cổ kim là thân bẩn ; không dung chư hầu là bụng bẩn ; thường nghĩ mưu soán nghịch là tim bẩn !
Như ta là danh sĩ thiên hạ mà mày lại dùng làm tên đánh trống, thì cũng giống như Dương Hoá khinh đức Trọng Ni, Tang Thương dèm thầy Mạnh Tử.
Mày muốn gây nghiệp vương bá mà lại khinh người thế này à ?
Bây giờ Khổng Dung ngồi trên tiệc, sợ Tháo giết mất Nễ Hành bèn khoan thai nói : - Nễ Hành tội đáng làm thằng tù không đủ để Minh Công trông đến.
Tháo trỏ mặt Hành mà bảo :
- Nay ta sai ngươi đi sứ qua Kinh Châu, nếu thuyết được Lưu Biểu về hàng, sẽ được chức công khanh. Hành không chịu đi.
Tháo bắt đóng yên ba con ngựa, sai hai người áp hai bên, bế xốc Hành lên lôi đi. Lại bảo bọn văn võ tay sai đem rượu ra cửa đông tống tiễn.
Khi ra chờ ngoài thành, Tuân Úc dặn đồng bọn rằng :
- Khi Nễ Hành tới, cứ ngồi im, đừng ai đứng dậy nhé !
Hành đến nơi, xuống ngựa bước vào.
Bọn Tuân Úc ngồi lặng thinh. Hành bèn ngả người khóc rống lên.
Tuân Úc hỏi :
- Vì sao mà khóc ?
Hành nói :
- Ôi chao ! Vào chỗ cái quan tài người chết, không khóc sao được ?
Cả bọn cùng nói :
- Bọn ta là thây ma, thì mày là thằng cuồng quỷ không đầu !
Hành ngạo nghễ :
- Tao là bề tôi nhà Hán, không thuộc đảng thằng Tào Man, sao lại không có đầu. Bọn chúng muốn giết đi, Tuân Úc vội ngăn lại :
- Đồ chim sẻ chuột đồng ấy, giết làm gì cho bẩn đao ?
Hành mắng lại :
- Tao là chim chuột, còn có tính chất người. Chứ tụi chúng bay chỉ là giun dế, sâu bọ hết ! Bọn chúng tức giận, liền đứng lên giải tán.
Nễ Hành đến Kinh Châu ra mắt Lưu Biểu, miệng tuy ca tụng tài đức mà lời vẫn ngụ ý chê bai, châm biếm. Lưu Biểu mất lòng nhưng không nói ra, chỉ sai Hành đến Giang Hạ để ra mắt Hoàng Tổ. Có người hỏi Biểu :
- Nễ Hành xấc láo với cả Chúa công, sao không giết đi ?
Lưu Biểu nói :
- Nễ Hành lăng nhục Tào Tháo biết bao nhiêu, Tháo không giết là sợ mất lòng người. Nay sai đến đây, ý muốn mượn tay ta giết giùm, để ta mang tiếng hại người hiền ấy. Vậy ta sai Hành sang gặp Hoàng Tổ, để Tháo biết rằng ta không phải là kẻ khờ ! Mọi người đều phục là cao kiến.
Lúc ấy lại có sứ của Viên Thiệu sai đến chiêu an Lưu Biểu.
Lưu Biểu liền hỏi Hàn Tung :
- Hai bên đang đối địch, lại đều sai sứ đến đây chiêu an. Vậy ta nên theo bên nào ? Hàn Tung thưa :
- Nay hai bên đang xích mích với nhau. Nếu Tướng quân muốn nên việc lớn thì phải cử quân đi đánh mới mong thành công được.
Nay Tào Tháo giỏi dùng binh, người hiền tuấn về theo rất nhiều. Thế tất phải diệt Viên Thiệu trước, rồi kéo quân xuống Giang Đông. Lúc bấy giờ e Tướng quân không ngăn nổi. Chi bằng đem Kinh Châu này về đầu Tháo. Tháo ắt trọng đãi Tướng quân.
Lưu Biểu nói :
- Ngươi hãy đến Hứa Đô xem động tĩnh thế nào rồi về đây sẽ bàn lại.
Tung nói :
- Chúa, tôi, ai có phận nấy. Nay Tung thờ Tướng quân, dù bắt vào chỗ nước sôi, lửa bỏng cũng xin vâng mệnh.
Nhưng Tướng quân hãy xét mình, nếu có thể trên thờ Thiên tử, dưới thuận Tào công thì hãy sai tôi đi.
Nếu còn trì nghi chưa quyết, một khi đến kinh sư, vua phong cho một chức quan thì Tung sẽ thành bề tôi Thiên tử, không còn được tận tuỵ sống chết vì Tướng quân nữa !
Nhưng Biểu vẫn nói :
- Ngươi hãy cứ đi một chuyến xem thế nào ? Ta đã có chủ ý.
Tung bèn từ biệt Biểu, đến Hứa Đô, vào ra mắt Tháo.
Tháo phong ngay Tung làm Thị trung kiêm Linh lăng Thái thú.
Tuân Úc hỏi nhỏ Tháo :
- Hàn Tung tới đây chỉ có ý dò động tĩnh, chưa chút công lao, sao Thừa tướng lại phong cho chức trọng ? Nễ Hành ra đi cũng chưa có tin gì về. Sao Thừa tướng không hỏi xem đã ?
Tháo nói :
- Nễ Hành làm nhục ta thái quá, nên ta mượn tay Lưu Biểu giết đi.
Còn hỏi đến nó làm gì ?
Bèn sai Hàn Tung trở về thuyết Lưu Biểu.
Tung về đến Kinh Châu, ra mắt Biểu, xưng tụng thịnh đức triều đình và khuyên Biểu vào chầu. Biểu nổi giận mắng :
- A ! Mày dám hai lòng như thế sao ?
Rồi toan chém.
Tung kêu lớn lên rằng :
- Tự tướng quân phụ tôi, chứ tôi đâu dám phụ Tướng quân !
Khoái Lương khuyên giải :
- Lúc chưa ra đi, Tung đã nói trước như thế rồi.
Biểu mới tha cho Tung.
Bỗng có người vào báo :
- Hoàng Tổ đã chém Nễ Hành rồi.
Lưu Biểu hỏi :
- Vì cớ gì ?
Người ấy đáp :
- Hôm ấy Hoàng Tổ uống rượu với Nễ Hành, cả hai cùng say.
Tổ hỏi Hành :
- Ông ở Hứa Đô, có thấy nhân vật nào đáng kể không ?
Hành đáp :
- Có thằng Cu lớn Khổng Văn Cử với thằng Cu nhỏ Dương Đức Tổ là tạm được. Ngoài hai tên ấy, chẳng có nhân vật nào nữa !
Tổ lại hỏi :
- Như ta đây thế nào ?
Hành đáp :
- Ông như vị thần trong miếu, tuy hưởng đồ cúng tế, mà chẳng linh thiêng chút nào ! Tổ đùng đùng nổi giận :
- A ! Mày dám bảo tao là hạng người gỗ, tượng đất à !
Rồi sai chém đầu. Hành đến chết vẫn chửi Hoàng Tổ không ngớt miệng.
Lưu Biểu nghe nói than tiếc vô cùng, sai người đem chôn Nễ Hành nơi sông Anh Vũ. Nói về Tào Tháo ở Hứa Đô, nghe tin Nễ Hành bị hại, thì cười rằng :
- Đồ hủ nho múa gươm lưỡi ! Nay lưỡi mình lại giết mình nhé !
LẠM BÀN
1. Kinh Dịch, quẻ Tốn, dưới là Đoài (chằm), trên Cấn (núi), muốn núi cao mà đào chằm đắp lên là tổn, tổn dưới ích trên là nguy hiểm.
Tổn cũng có nghĩa là bớt đi (bớt lạm dụng uy quyền, hình luật bớt hà khắc, tiêu pha bớt xa xỉ, bớt kẻ địch …), đôi khi phải mượn lực bên ngoài để bớt, mượn dao để bớt.
2. Dựa vào Tôn Tử binh pháp, thiên Hoả công, các nhà nghiên cứu binh thư cho rằng : Trong chiến tranh cần phải biết mượn lực lượng thiên nhiên (lửa, nước) và mượn sức người để đánh bại quân địch.
3. Mượn sức lực con người bao gồm : hiệp trá (mượn nhân vật, lực lượng thứ ba) ; kiến công thỉ trợ (lấy lực lượng của ta đánh vào chỗ không phòng thủ của đối phương để giải cứu đồng minh – vây Nguỵ, cứu Triệu) ; mượn ngoại lực để nâng cao giá trị của mình (ví dụ, có thỏ thì cần chó săn, có chim thì cần ná, có quỷ thì
cần thầy phù thuỷ)) ; mượn mưu kế, lực lượng địch để đánh địch (tương kế tựu kế, dĩ độc trị độc) ; mượn phương tiện của địch để đánh địch (cách sông mượn ngựa, cách sông mượn tên).
4. Tào Tháo muốn giết Nễ Hành mượn tay Lưu Biểu, Lưu Biểu mượn tay Hoàng Tổ. Lưu Biểu khôn ngoan né tránh mưu của Tháo ; Hoàng Tổ mắt không ngươi nên không biết mưu của Tháo và Biểu nên dùng dao giết Nễ Hành.
5. Người sau có thơ rằng :
Hoàng Tổ vô tài, mắt thiếu ngươi
Nễ Hành vong mạng, hận muôn đời
Đến nay qua bãi sông Anh Vũ
Chỉ thấy vô tình ngọn nước trôi.
9. CHE DẤU VẾT THƯƠNG - LƯU BỊ SỢ SẤM RƠI ĐŨA.
Một ngày kia, Quan, Trương đều đi vắng, chỉ còn một mình Huyền Đức ở nhà, đang tưới rau ngoài vườn, bỗng thấy Hứa Chử, Trương Liêu dẫn vài chục tên quân đi thẳng vào báo rằng :
- Thừa tướng sai chúng tôi mời Sứ quân đến ngay !
Huyền Đức trong lòng kinh hãi, vội hỏi :
- Có việc gì mà khẩn cấp thế ?
Hứa Chử nói :
- Không biết là việc gì. Chỉ thấy sai chúng tôi đến mời.
Huyền Đức đành phải theo hai tướng vào phủ ra mắt Tháo.
Vừa thấy mặt Huyền Đức, Tháo đã cười, hỏi :
- Hừ ! Ông ở nhà lo toan việc lớn ghê nhỉ ?
Huyền Đức nghe qua, mặt tái như gà cắt tiết.
Nhưng Tháo đã nắm lấy tay, dắt thẳng vào hậu viên, hỏi rằng :
- Huyền Đức học làm vườn có khó không ?
Bấy giờ Huyền Đức mới hiểu ra, bèn ung dung đáp :
- Vì chẳng có việc gì làm, nên bày trò tiêu khiển đấy ạ.
Tháo trỏ tay lên những cây mai xanh tốt nói :
- Vừa rồi, nhân ngắm rặng mai, thấy đầu cành quả xanh đâm mơn mởn, bỗng xúc cảm nhớ lại năm qua, khi đem quân đi đánh Trương Tú.
Hôm ấy giữa đường hết nước uống, tướng sĩ đều khát cháy cổ, ta bỗng nghĩ ra một kế, bèn lấy roi ngựa trỏ bừa về phía trước mà nói lớn : Kìa ! Trước mặt chúng ta có rừng mai đầy quả đấy !
Quân sĩ nghe nói tới quả mai, đều thèm ứa nước miếng. Thế là ai nấy đỡ khát.
Nay thấy mai tươi phô quả ngọt, không thể không thưởng thức. Nhân lại mới cất được ít rượu, nên mời Sứ quân tới tiểu đình cùng uống cho vui.Tâm thần Huyền Đức đã yên định, bèn thong dong theo Tháo vào tiểu đình, thấy đã bày sẵn vò chén ; những quả mai tươi mơn mởn đặt trong đĩa giữa mâm, bên cạnh là một vò rượu mới cất thơm tho.
Hai người ngồi xuống, cùng nhau nâng chén khề khà thưởng thức.
Rượu được nửa chừng, bỗng trên không mây kéo đen kịt, sắp đổ cơn mưa.
Người đứng hầu dưới thềm trỏ tay lên không nói :
- Có rồng lấy nước !
Tháo cùng Huyền Đức ra vịn lan can nhìn xem.
Tháo hỏi :
- Sứ quân có rõ phép biến hoá của rồng chăng ?
Huyền Đức thưa :
- Bẩm, chưa hiểu thế nào cả !
Tháo đang sẵn hứng rượu, thao thao nói :
- Con rồng biến hoá có khi to, khi nhỏ, lúc bay cao, lúc ẩn kín ; khi vươn mình to lớn thì cuộn mây, phun mù ; khi thu hình nhỏ bé để tàng hình ẩn tích. Lên cao thì bay lượn khắp vũ trụ. Tạm ẩn thì chìm lặng dưới ba đào.
Nay đang tiết xuân, rồng thừa thời mà biến hoá, cũng như con người gặp khi đắc chí, tung hoành.
Con rồng trong loài vật cũng ví như người anh hùng trong đám người. Sứ quân từng lịch duyệt hồ hải, chơi khắp bốn phương, ắt rõ những ai là anh hùng thời nay ? Xin nói cho biết ?
Huyền Đức thong thả nói :
- Bị này mắt thịt, làm sao nhận biết anh hùng ?
Tháo nói :
- Thôi ! Xin đừng quá khiêm như thế !
Huyền Đức nói :
- Bị vô tài thiển học, từ lâu sống trong tăm tối, nay nhờ ơn Thừa tướng, Bị được vào triều làm quan. Quả thật chẳng biết những ai là anh hùng trong thiên hạ.
Tháo gặng hỏi :
- Dù không biết mặt đi nữa, cũng có nghe tiếng chứ ?
Bấy giờ, Huyền Đức mới làm bộ suy nghĩ, rồi kể ra :
- Kìa như Viên Thuật ở Hoài Nam, binh nhiều lương đủ, chiếm cứ một phương, có thể gọi là anh hùng ? Tháo cười nói :
- Hắn chỉ là bộ xương khô trong mả ! Sớm tối rồi ta bắt sống cho mà xem !
Huyền Đức lại nói :
- Thế thì Viên Thiệu ở Hà Bắc kia, nhà bốn đời làm đến Tam công, quan lại tay chân, cùng môn hạ đầy dẫy khắp nơi, nay chiếm Kí Châu như hổ cứ nhất phương, văn quan võ tướng rất nhiều, có thể gọi là anh hùng ?
Tháo lại cười nữa :
- Viên Thiệu mặt béo mà gan non, háo mưu mà vô đoán, gánh việc lớn thì tiếc thân, thấy lợi nhỏ lại quên mệnh, không phải là anh hùng !
Huyền Đức lại suy nghĩ giây lát rồi nói :
- Có người kia nổi tiếng là một trong tám tay tài tuấn, uy trấn chín châu : đó là Lưu Cảnh Thăng, có thể gọi là anh hùng ?
Tháo lắc đầu :
- Lưu Biểu chỉ có hư danh, không có thực tài. đâu phải là anh hùng !
Huyền Đức nói :
- Thế thì có người này đang độ huyết khí hăng hái, trí dũng kiêm toàn, hiện làm lãnh tụ toàn cõi Giang Đông như Tôn Bá Phù đã đáng mặt anh hùng vậy.
Tháo vẫn chưa chịu :
- Tôn Sách nhờ tiếng của cha mà được thế. Chưa phải là anh hùng !
Huyền Đức nói :
- Thế thì Lưu Quý Ngọc ở Ích Châu có thể gọi là anh hùng chăng ?
Tháo nói :
- Lưu Chương tuy là thuộc dòng Tôn Thất, nhưng chỉ làm con chó giữ nhà mà thôi ! Anh hùng gì ? Huyền Đức nói :
- Vậy còn những người như Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn Toại thì thế nào ?
Tháo vỗ tay cười ha hả :
- Chao ôi ! Cái lũ tiểu nhân lúc nhúc ấy, đếm xỉa đến làm gì !
Huyền Đức kết thúc :
- Vậy thì ngoài những người vừa kể, Bị chẳng biết có ai nữa.
Tháo dõng dạc nói :
- Người anh hùng ấy à ? Phải là người nuôi chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả vũ trụ trong lòng, có chí nuốt trời mửa đất, ấy mới đáng mặt anh hùng chứ ?
Huyền Đức hỏi :
- Ai là người được như thế ?
Tháo chẳng úp mở gì nữa, trỏ tay sang Huyền Đức, rồi lại trỏ về ngực mình mà nói thẳng ra rằng : - Anh hùng trong thiên hạ ngày nay, chỉ có Sứ quân với Tháo này thôi !
Huyền Đức nghe qua, giật nẩy mình lên ! Đôi đũa cầm trên tay bất giác rơi xuống đất ! May thay, lúc ấy trời sắp đổ mưa, vừa vặn có tiếng sấm nổ ran !
Huyền Đức mới từ từ cúi xuống, vừa lượm đôi đũa vừa nói rằng :
- Oai trời to thật ! Vừa nghe một tiếng, đã đến nỗi này !
Tháo cười hỏi :
- Trượng phu mà cũng sợ sấm à ?
Huyền Đức nghiêm trang nói :
- Đến thánh nhân xưa kia, nghe sấm rền gió thét cũng còn biến sắc mặt nữa là tôi ! Thế là Huyền Đức kịp thời thác ra chuyện sợ sấm mà che đậy được cái sợ thực của mình. Tháo thì cho rằng Huyền Đức còn tầm thường, từ đó không nghi ngờ nữa.
LẠM BÀN
1. Nguyên văn là yễm thương thống, che dấu vết thương đau đớn, che dấu nhược điểm của mình, hoặc che dấu tài năng của mình, không cho đối phương biết ; kế này còn có tên là yểm thương lão, che dấu tuổi tác, sự suy lão, già nua.
Thời Đông Chu, Nguỵ Thù biết nếu mình tỏ ra bị thương nặng, không sống được sẽ bị xử tội, mạnh khoẻ sẽ
thoát chết và đã vận dụng mưu yễm thương thành công, che được mắt Triệu Thôi. 2. Kế tương tự là giả si bất điên, giả ngu, giả bệnh, giả cuồng nhưng không phải điên. Ví dụ : Tôn Tẩn giả điên qua mắt Bàng Quyên, Tư Mã Ý giả bệnh, giả nghễnh ngãng, lừa Tào Sảng.
3. Lão tử dạy : Biết như con trống, làm như con mái ; khoe tài, khoe thông minh thì dễ, dấu tài, dấu thông minh thì rất khó.
Lưu Bị che dấu chí lớn của mình là bằng cách trồng rau, che dấu kiến thức của mình là anh hùng trong thiên hạ, giả kẻ tầm thường, ngu dại, che dấu mưu mô, mục đích của mình, che mắt đối phương.
Ẩn kín sâu xa, im lặng như sấm sét tự dấu mình trong mây những ngày đông giá ; như rồng ẩn náu vực sâu.
4. Chuyện dân gian, một cô gái có cái mũi rất xấu không dám ra mắt chàng trai, liền tâm sự với bà lão mai mối.
Bà mối lập kế, bảo cô gái ngày mai, đứng trước cửa cầm bó hoa đẹp giả bộ ngửi.
Chàng trai, cưỡi ngựa đi qua, thấy cô gái đẹp, cầm bó hoa e ấp lại càng thêm hấp dẫn, anh ta rất vui, đòi cưới liền tay !
Các cô gái thích trang điểm hoặc nói bớt tuổi cũng là kế yễm thương để câu các chàng trai. 5. Kế trông mơ đỡ khát (vọng mai chỉ khát) của Tào Tháo là phương pháp ám thị trị liệu trong y học. 10. THANH ĐÔNG KÍCH TÂY - MẠNH ĐỨC THẢ CỌP VỀ RỪNG.
Nghe tin Công Tôn Toản đã chết, Huyền Đức nhớ tới công ơn tiến cử mình ngày trước, lòng bồi hồi thương cảm. Lại không biết Triệu Tử Long ra sao, lưu lạc về đâu, lòng càng áy náy không yên, nhân nghĩ thầm rằng :
- Nay mình không thừa cơ hội, tìm kế thoát thân, thì biết đợi tới bao giờ ?
Bèn đứng dậy nói với Tháo :
- Viên Thuật nếu chạy sang với Thiệu, ắt phải qua lối Từ Châu. Xin cho Bị một đạo binh kéo đi triệt đường, có thể bắt được Thuật !
Tháo cười nói :