🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tại Tôi Ebooks Nhóm Zalo Table of Contents Mở đầu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Hồ Biểu Chánh Tại Tôi Chia sẻ ebook : http://downloadsach.com/ Follow us on Facebook : https://www.facebook.com/caphebuoitoi Mở đầu Cậu đã hiểu vì ngọn lửa ái tình nó đốt lòng cháu, nên cháu tự chuyên mà cưới vợ không chờ mạng lịnh của cha mẹ. Cháu lỡ phạm đến gia pháp, thì cháu đã lạy lục năn nỉ hết lời mà khẩn cầu má cháu tha lỗi cho cháu. Cháu thành tâm chịu lỗi, có trước mặt cậu nghe thấy rõ ràng. Tiếc vì má cháu thưộc về lớp lớn, cố chấp những thành kiến cũ của gia đình xã hội thái quá, không muốn thấu hiểu tâm hồn chủ hướng của lớp nhỏ, nên má cháu đành đoạn tình mẫu tử, đành đuổi vợ chồng cháu ra khỏi nhà. Cậu hiểu cái óc của lớp nhỏ, nên cậu đã không quở trách cháu mà cậu lại còn can gián giùm cho má cháu bớt giận. Thái độ của cậu đối với vợ chồng cháu thiệt là đáng kính đáng phục, nó khắc ghi trong đầu vợ chồng cháu dầu trăm ngàn năm cũng chẳng phai chẳng lợt. Hồi khuya hôm qua, lúc cháu đau lòng rơi lụy mà vác rương bước ra cửa ngõ, sắp lìa khỏi cái nhà của tổ phụ là chỗ ngày xưa cháu mở mắt lần đầu mà thấy đời là chỗ cháu đau đớn ôm cha cháu mà khóc khi cha cháu thở hơi cuối cùng, là chỗ chất chứa những kỷ niệm đầm ấm về đời thơ ngây của cháu, mà cũng là chỗ hiện nay đương ra vô châu mày một mẹ già mà vợ chồng cháu thương yêu kính trọng chẳng có chi bằng, thì vợ cháu có khuyên cháu nên ra nhà cậu mà trình cho cậu hay rồi sẽ di. Lúc ấy trí cháu bối rối, lòng cháu lạnh tanh, cháu chẳng còn biết quấy phải chẳng còn kể thân tộc, nên cháu lắc đầu rồi đi luôn, dường như cháu lật đật tránh xa cái luồng không khí nặng nề của đất Thới An vậy.... Hồ Biểu Chánh Tại Tôi Chương 1 Sớm mai bà Cả Kim ngồi tại bộ ván cẩm lai lót dựa cửa sổ mà uống trà. Con Tý, là đứa tớ gái của bà, hai tay cầm cây chổi cứ lum khum quét nhà, nó quét bụi bay ngang qua mấy ánh mặt trời dọi vô kẹt cửa coi như mấy lằn khói chứa trăm ngàn vi trùng nhảy múa tưng bừng. Còn chú Hưng, là đứa tớ trai, mặc có cái quần ngắn, ở trần đưa lưng đen cháy, chú ở ngoài vườn chú tát nước dưới mương lên đám trầu trồng bên trái nhà mà tưới, tiếng nước dội lên lá trầu nghe ào ào. Tuy tôi tớ trong nhà ra ngoài vườn làm nhộn nhịp như vậy, mà bà Cả tay bưng chén nước trà hớp mà uống, mắt ngó sững ra ngoài sân, bà không để ý đến con quét nhà với chú tưới trầu, mà bà cũng không thèm nói chuyện với Hữu Nhơn là cháu ngoại của bà, mới lên năm tuổi, đứng xẩn bẩn trước mặt bà mà dở ô trầu, xây bình vôi lộn xộn. Trí bà đương vẩn vơ cõi ngoài, thình lình tên Hứa, là lính trạm của Sở Dây thép Ô Môn, ngừng xe máy ngoài cửa ngõ, dựng cái xe dựa cánh cửa, rồi xăm xăm đi vô sân. Bà thấy mà bà tưởng lính trạm đến nói chuyện chi đó với rể của bà, là xã trưởng Trần Hữu Nghĩa, bởi vậy bà cũng không để ý đến. Tên Hứa bước lên thềm, tay ngả nón, tay móc túi, miệng nói: “Thưa bà, có dây thép gấp đánh lại cho bà đây”. Bây giờ bà Cả mới định tâm lại mà hỏi: - Dây thép của ai đó vậy? - Thưa nghe ông Chủ sự nói dây thép của ông Đốc học đánh về cho bà. - Ý, vậy hay sao! không biết nó đánh dây thép nói giống gì vậy kìa. - Ông Đốc học đánh dây thép cho bà hay rằng ông về tới, chớ chẳng có việc chi quan hệ. - À, vậy hả! Làm tôi tưởng có việc gì tôi hết hồn. Tên Hứa liền để một cái bao giấy màu xanh trên ô trầu, trước mặt bà Cả. Bà Cả hớn hở hỏi nữa: - Mỗi lần có thơ hay dây thép tôi thường thấy trạm làng Thới An đi phát mà, sao bữa nay em lại đem dây thép? -Thưa phải. Ở ngoài Rạch Gốc đây thuộc về làng, nên thơ từ thuộc về làng phát. Song ông Chủ sự thấy dây thép gấp, nếu để chờ tới trưa mà gởi theo trạm làng thì sợ trễ, nên ông sai tôi đem liền ra cho bà. - Ông chủ sự dây thép tử tế quá. Em về nói qua cám ơn Chủ sự nghe. - Dạ, thưa bà tôi về. - Ừ, qua cũng cám ơn em lắm. Tên Hứa vừa bước ra khỏi cửa, thì Hữu Nhơn thò tay lấy dây thép liền. Bà Cả lật đật giựt lại và nói: “Ý! đừng có lấy con. Dây thép của cậu ba con đánh về đó đa. Con vô buồng coi như cha con thức dậy rồi thì kêu ra đây coi giùm dây thép cho bà ngoại một chút. Đi đi con, dễ biểu rồi bà ngoại cưng”. Hữu Nhơn nói giọng chùng chừng: - Con đi kêu cha rồi ngoại cho con giống gì? - Con muốn giống gì ngoại cũng cho hết. - Ngoại biểu chị Tý bồng con vô chợ chơi nghe hôn. - Ừ, chiều mát rồi ngoại cho đi. Hữu Nhơn mừng nên đâm đầu chạy vô buồng. Cô Phụng là con gái thứ hai của bà Cả, mẹ của Hữu Nhơn, ở nhà sau đi lên, đầu tóc láng nhuốt, vừa gặp con thì cản lại nói: “Đừng có chạy con, chạy té chết”. Hữu Nhơn cười rồi gỡ tay mẹ mà chạy vô buồng. Cô Phụng ra trước thấy bà Cả ngồi có một mình thì hỏi: - Nghe má nói chuyện với trên này, mà sao không có ai hết vậy? - Ờ, có lính trạm của ông Chủ sự dây thép sai đem dây thép cho má, chớ có ai đâu. - Dây thép gì? - Dây thép của thằng Ba đánh nói nó về. Dây thép đây, con coi thằng Xã có thức dậy thì biểu nó coi thử coi thằng Ba nói về mà chừng nào về tới. Bà lấy dây thép trao cho con. Cô Phụng cầm đi vô buồng một chút, thì Trần Hữu Nghĩa ra, vì ngủ mới dậy, nên mặt mài còn bí sị, bộ đồ hàng trắng bận trong mình nhàu nhè hết. Hữu Nghĩa đứng mở dây thép ra mà coi, vợ con đứng một bên. Chàng coi rồi nói rằng: “Cậu Ba nói cậu về tới Sài Gòn rồi, buổi sớm mai cậu sẽ tới nhà. Dây thép đánh tại Sài Gòn hồi 6 giờ chiều hôm qua. Vậy thì nội buổi sớm mai nầy cậu sẽ về tới”. Bà Cả têm trầu mà ăn, bộ vui vẻ lắm. Bà nói: “Sớm mai, nó làm sao mà về tới được. Thường thấy họ đi Sài Gòn họ về xe đò, quá 12 giờ trưa họ về mới tới”. Hữu Nghĩa nói: “Thưa phải, xe thơ 10 giờ rưỡi xuống mới tới Cần Thơ. Như cậu Ba về tới đó, cậu mướn xe Location mà về liền, không chờ xe đò, thì chừng 11 giờ cậu về tới nhà được”. Bà Cả suy nghĩ rồi nói: “Vậy thì tới Sài Gòn nó mướn phứt một chiếc xe hơi nó về cho mau”. Hữu Nghĩa trở vô trong mà rửa mặt. Cô Phụng dắt con lại ngồi trên ván mà nói rằng: - Má tưởng mướn xe hơi trên Sài Gòn mà về dưới Ô Môn rẻ lắm hay sao? Tốn ít nào cũng 25 tới 30 đồng bạc. - Tốn bao nhiêu thì tốn chớ. Con Thình nó đi chợ rồi hay chưa? - Chị đi chợ hồi tảng sáng, đâu có để tới bây giờ mà hỏi. - Thôi, con tiếp đi vô chợ mua thêm thịt cá đặng nấu nướng cho nó về ăn. Để má sai bầy trẻ đi mời anh Chánh bái với cậu Hội đồng vô ăn cơm chơi mà mừng cháu. Nó ở ngoài Bắc Việt hơn một năm nay, nó ăn uống cực khổ, chắc nó thèm đồ trong mình lắm. Con bận áo mà đi chợ đi con. Con mua đồ thêm đặng cho con Thình nó bưng về luôn thể. Cô Phụng trở vô buồng đặng thay đồ đi chợ, mà sắc mặt cô không vui. Hữu Nghĩa rửa mặt rồi ra ngồi tại ghế giữa mà hút thuốc, Hữu Nhơn xẩn bẩn đứng một bên. Bà Cả vô nhà trong biểu con Tý nấu nước sôi rồi bắt một con vịt tơ cho thiệt mập mà làm thịt. Bà lại kêu chú Hưng mà sai đi mời ông Chánh bái Thành là anh chú bác với ông Cả và mời thầy Hội đồng Quyền là anh em ruột của bà. Bà dặn chú Hưng: “Mầy đi mời thì nói lát nữa đây có cậu Ba Đốc học về tới, nên mời hai ông vô ăn cơm nói chuyện chơi. Nhớ nói cho rành như vậy”. Bà Cả Kim góa chồng hơn mười năm rồi, bà làm chủ một sự nghiệp lớn của chồng để lại, mỗi năm huê lợi ruộng bà thâu góp trên 20 ngàn giạ lúa. Bà chỉ có 2 người con: Con gái lớn là Cô Phụng năm nay 28 tuổi, tuy có chồng song cũng ở chung với bà, con trai nhỏ là Lý Như Thạch, năm nay 24 tuổi, học trường Cao đẳng sư phạm ngoài Hà Nội, năm ngoái thi đậu rồi Nhà nước cấp bằng cho làm giáo sư tại Bắc Việt, bà thương nhớ con, lại nghĩ nhà giàu lớn, dầu con không làm việc cũng không đói rách mà lo, nên bà viết thơ biểu con xin đổi về Nam Việt, như xin đổi không được thì xin từ chức đặng về cưới vợ rồi ở nhà cai quản ruộng vườn. Như Thạch về đó là vì vưng lời mẹ, nên xin từ chức giáo sư mà về cho mẹ vui lòng. Bà Cả tin con về thì bà hớn hở trong lòng, nên cứ đi lên đi xuống nhà sau hoài, bà ngồi không yên chỗ. Còn Hữu Nghĩa thì cứ giỡn với con như hàng ngày, không thấy chàng lộ sắc vui hay là buồn chút nào hết. Ông Chánh bái Thành ở gần, nên được tin mời thì ông tới trước. Tuổi vừa quá 50, tóc đã bạc hoa râm, mà răng còn chắc, sức còn mạnh, ông mặc một cái áo xuyến đen dài, vai vắt khăn bàn lông, chơn mang giày hàm ếch. Ông vừa ngồi thì liền hỏi bà Cả: - Thằng Ba nó về tới hồi nào? - Nó chưa về tới. Nó đánh dây thép cho hay sớm mơi nầy nó tới mà chưa chắc giờ nào. - Bất nhân dữ hôn! Vậy mà thằng Hưng nó nói ấp úng, tôi tưởng thằng Ba đã về tới rồi chớ. - Chắc 11 hoặc 12 giờ nó về tới. Tôi sai đi mời anh lại trước đặng nói chuyện chơi. - Lúa của thiếm nó đã thâu góp xong hết hay chưa? - Thằng Xã nó coi thâu góp xong hết rồi. - Năm nay trong rạch Ba Rích coi thất bộn, vậy mà sở ruộng của thiếm nó ở trong đó góp lúa mướn có đủ hay không. - Sở đó nó góp thiếu chút đỉnh. Năm nay có sở đó góp thiếu, còn mấy sở ở Thái An, Phước Thới, Thới Thạch, Ô Môn, Định Môn, nó góp lúa đủ hết. - Lúa ruộng của thiếm nó trên 20 ngàn giạ, lại năm nay lúa coi mòi có giá, nên dầu có góp thiếu chút đỉnh củng chẳng thiệt gì lắm. Ông Chánh bái Thành thấy Hữu Nghĩa lại đứng rót nước trà trước mặt ông thì ông hỏi: - Cháu giao mộc cho xã mới xong rồi? - Thưa, xong rồi?. - Nghe nói Hội tề muốn cử cháu làm chức hương thân mà cháu chạy phải hôn? - Thưa phải, cháu làm xã trưởng tới 2 năm, mệt mỏi quá nên Cả Chủ cử cháu lên hương thân cháu chạy. Nhà đơn chiếc, trong, ngoài gì cũng một mình cháu. Cháu giúp việc làng 2 năm nghĩ cũng đủ rồi. Để cháu ở ngoài đặng thong thả mà lo việc nhà. - Có thằng Ba nó về đây, thì nó chia lo với cháu, chắc cháu khỏe được một chút. Bà Cả cười và đáp thế cho con rể: - Thằng Ba từ nhỏ chí lớn nó mắc đi học, có biết tới việc ruộng đất gì đâu. Dầu nó có về ở nhà, bất quá nó coi sóc trong nhà còn việc cho mướn ruộng hay là góp lúa thì tôi cũng phải giao cho vợ chồng thằng Xã, chớ giao cho nó sao được. - Nó học giỏi lại lớn rồi, có việc gì mà nó làm không được. Hồi mới tự nhiên nó bợ ngợ, mà làm chừng một hai năm thì nó quen chớ gì. - Ý! Anh không biết tánh ý nó. Thằng kỳ cục lắm, hễ ai năn nỉ nó thì nó xiêu lòng liền. Giao cho nó đi góp lúa, chẳng khỏi tá điền họ giựt họ ăn hết. - Thiếm nói chơi, chớ giựt sao được. Thằng Ba nó hay thương người ta, hễ thấy ai năn nỉ thì nó xiêu lòng, ấy là vì nó có lòng nhơn. Mà nó học giỏi, có phải nó khờ dại gì hay sao mà giựt của nó được. - Nó có tánh hễ thấy nhà nghèo thì nó thương. Ở đời nầy mà đụng đâu thương đó, họ lột da chớ phải chơi sao. Đang nói chuyện tới đó kế thầy Hội đồng Quyền bước vô. Thầy bận áo dài, mang giày tây, đội nón trắng, vóc cao lớn, mép có râu, nên tướng mạo coi mạnh mẽ lắm. Bà Cả, ông Chánh bái với Hữu Nghĩa đều chào mừng. Thầy Hội đồng ngồi tại ghế giữa với ông Chánh bái rồi nói: “Chắc thằng Ba nó xin từ chức được rồi nên nó mới về đó”. Bà Cả gật đầu mà đáp: - Ừ, nó xin thôi được rồi hôm tháng trước lận mà. Hôm trước nó có gởi thơ cho tôi hay, nên tôi biểu thằng Xã mua mandat gởi cho nó 200 đồng bạc đặng nó về đó. - Nó về tới Sài Gòn rồi nó đánh dây thép nói sớm mai nầy nó về tới nhà phải hôn? - Ừ. - Chắc nó mướn xe Location nó về. - Không biết nó mướn xe mà về hay là nó đi xe đò. Tánh nó lôi thôi lắm, sợ nó hà tiện đi xe đò nó về trễ quá. - Nếu đánh dây thép nói sớm mai về tới thì chắc không phải đi xe đò đâu. Thôi nó về thì chị lo cưới vợ phứt cho nó đặng nó coi sóc việc nhà cho chị. - Để thủng thẳng mà kiếm chỗ cho xứng đáng chớ hối tốc quá sao được. - Chị dắt nó đi coi con thầy Cai, như nó đành thì cưới liền cho nó đi. - Nghe nói con thầy Cai nước da không được trắng sợ nó chê chớ. - Ối! Cưới vợ mà cần gì đen trắng, nhơn nghĩa mới quí, chớ nước da mà quí gì. Nhà thầy Cai là nhà có đức, mà lại sang trọng nữa. Chị làm sui chỗ đó thì xứng đáng biết chừng nào. Ông Chánh bái cười mà nói: “Nội đây bà con mình mà thôi, nên mình nói lén mà nghe: thầy Cai làm coi rầm rộ như vậy chớ không giàu. Tôi nghe nói ông Chủ Hinh bên Bò Hút ổng có hai đứa con gái, mà ổng giàu lớn lắm. Thiếm Cả hỏi tuổi rồi đi coi như được thì làm sui chỗ đó, sau thằng Ba nó mới nhờ nhiều”. Thầy Hội đồng vuốt râu mép và trợn mắt ngó ông Chánh bái mà nói: - Gia tài của chị Cả đây, thằng Ba nó ăn cả đời cũng không hết, cần gì phải kiếm vợ giàu. Nó chọn chỗ rân rát, có nhơn đức, thiên hạ tùng phục, thì tốt hơn. - Mình giàu mà kiếm thế làm giàu thêm nữa thì càng quí, chớ có hại gì. - Phải. Giàu thêm chừng nào càng quí chừng nấy. Nhưng mà phải biết nhơn nghĩa, phải được lòng dân tùng phục thì mới sang, chớ giàu nhiều mà thiên hạ khinh thị, thì giàu có ích chi đâu. - Ối, đời nầy hễ có tiền nhiều thì quí, ai cũng phải kiêng nể hết thảy. Làm ông gì cũng không bằng “ông tiền”. Bà Cả thấy hai người cãi với nhau bà bèn xen vô mà nói đặng hết cãi nữa: “Hai người nói nghe phải hết. Giàu thì quí mà sang cũng quí, bởi vậy hổm nay tôi tính muốn kiếm chỗ giàu mà cũng sang nữa đặng làm sui, mà tôi kiếm chưa ra. Để thủng thẳng tôi dọ hỏi thêm nữa coi”. Thầy Hội đồng nói: “Nếu được như vậy thì quí biết chừng nào. Ngặt tôi sợ mình muốn đặng cả về chì về chài thì khó lắm chớ”. Cô Phụng đi chợ về tới, vì đi ngoài nắng nên mặt đổ mồ hôi, má ửng đỏ au. Cô chào bác với cậu, rồi đi thẳng vô trong mà thay áo rửa mặt. Thầy Hội đồng ngó theo cháu mà nói: “Chị Cả hà tiện quá, không dám mua một cái xe hơi để mà đi”. Bà Cả đáp: - Tôi ít hay đi, sắm xe hơi tốn hao chớ có ích gì. - Tại không có xe nên chị không đi được. Nếu có sẵn xe, tự nhiên chị đi chơi chớ gì. Sắm một cái xe hơi để đi Cần Thơ, hoặc chiều chiều đi vô chợ Ô Môn mà chơi, tốn bao nhiêu đó mà sợ. Chị thấy hôn, tại không có xe nên con Hai đi chợ về coi nó mệt nhừ. - Thôi, để thằng Thạch về rồi tôi sẽ mua một cái xe. - Nhà chị phải có một cái xe hơi coi mới được. Họ mới có năm bảy ngàn giạ lúa mà họ còn sắm xe rần rần, huống chi là chị huê lợi trên 20 ngàn, mà không dám sắm. Phải sắm xe hơi đi làm sui mới dễ coi. Đời nầy họ ưa lòe loẹt bề ngoài, mình phải làm theo thiên hạ, mới khỏi họ khi. - Sắm thì sắm chớ sao. Hữu Nghĩa ngồi tại bàn viết, nãy giờ không nói chuyện, chừng nghe mẹ vợ chịu mua xe, thì chàng day lại mà nói: “Mấy năm nay con muốn thưa với má mua một cái xe để má đi chơi cho thong thả, mà con không dám nói. Má mua xe để đi Sài Gòn chơi với người ta, tốn hao gì lắm đâu mà lo. Sắm xe rồi con tập cầm tay bánh con đi với má khỏi mướn sớp-phơ. Bà Cả cười mà đáp: “Để thằng Thạch về đây rồi sẽ hay”. Ông Chánh bái hỏi bà Cả: “Thằng Ba nó thôi làm Đốc học, nó về nhà ở vậy mà thiếm có tính cho hai vợ chồng thằng Xã ra ở riêng, hay là cũng để ở chung nữa...?” Bà Cả ngồi têm trầu, bà suy nghĩ một chút rồi mới đáp: - Việc đó tôi chưa tính. Nhà rộng minh mông, nó ở chung hết cũng được. - Thiếm nó có hai đứa con, để ở chung cũng được. Nhưng mà con một ngày một lớn, tôi tưởng cũng nên sắm nhà cửa cho mỗi đứa một ngôi riêng thì tốt hơn. - Tôi có một miếng đất ngoài rạch Bà Sự, lại có một miếng nữa trong rạch Cái Tắc. Hai miếng đất đó tốt lắm, rộng lớn, cao ráo mà lại dựa lộ nữa. Như con nó muốn ra riêng và muốn ở miếng đất nào thì tôi cất nhà cho nó ở, có khó gì. - Cuộc đất chỗ nhà đây cũng còn rộng, đốn bớt cây rồi cất thêm một cái nhà phía mặt trời lặn đây cũng được. - Ý! Không được đâu. Cất thêm nữa rồi chật hẹp quá tôi chịu không nổi. Cô Phụng ở trong bước ra nói: “Thằng Ba nó về, má cưới vợ cho nó rồi má cất nhà riêng cho nó ở. Con ở nhà nầy, chớ con không chịu đi ở chỗ nào khác”. Thầy Hội đồng Quyền châu mày ngó cô Phụng mà nói: - Nhà nầy là nhà tổ phụ để lại, thế nào sau cũng phải lập bàn thờ. Thằng Ba là trưởng nam, tự nhiên nó phải ở đây, chớ đi ở chỗ khác coi sao được. - Cháu ở đây từ nhỏ chí lớn đã quen rồi, cháu không chịu đi ở chỗ khác. - Cháu không chịu cũng không được. Con gái mà giành ở nhà thờ nỗi gì. Cô Phụng nghe mấy lời ấy thì xụ mặt, lộ sắc bất bình, cô bước lại đứng trước mặt mẹ têm trầu mà ăn. Bà Cả cười và nói: “Con nhỏ nầy nó có chịu rời tôi ra đâu. Không phải nó giành ở nhà thờ, tại nó không muốn xa tôi chớ”. Bà lại ngó cô Phụng và nói: “Con xuống bếp coi bầy trẻ nấu nướng riết đi, nghe hôn con. Chờ tới 11 giờ, như nó về chưa tới, thì cũng dọn cho bác và cậu con ăn trước, chớ nếu trễ quá sợ đói bụng”. Cô Phụng đi xuống nhà bếp. Thầy Hội đồng Quyền day qua ngó Hữu Nghĩa mà nói: - Xã, cháu nghĩ lời cậu nói đó nhằm chánh lý hay không, vậy mà coi bộ vợ cháu nó phiền cậu chớ. - Thưa, lời cậu nói đó đúng đắn lắm chớ, con gái mà ở nhà thờ sao được. Vợ cháu nó sợ xa má cháu nên nó cãi đó. - Như sợ xa thì kiếm mua thêm một miếng đất gần đây mà ở. Như sợ ở nhà khác không tốt bằng nhà nầy thì thưa với chị Cả cất cho một cái nhà khác cũng đẹp như vậy, chớ thằng Ba là trưởng nam mà biểu nó đi chỗ khác mà ở thì trái đạo quá. - Thưa, cậu nói phải lắm, như muốn ở gần thì có miếng đất của biện Hiệu sát một bên đây. Má cháu biểu biện Hiệu để miếng đất đó lại cho cháu đặng cất nhà cho vợ chồng cháu ở cũng được. Nếu biện Hiệu dục dặc bất quá mình trả giá mắc một chút. - Ừ, làm như vậy thì xong quá. Trong nhà đương nói chuyện bỗng nghe có tiếng xe ở phía trong chợ chạy ra. Ai nấy đều ngó chừng ngoài lộ. Cái xe hơi chạy chậm chậm rồi ngừng ngay cửa ngõ. Thầy Hội đồng Quyền nói: “Thằng Ba nó về tới kia. Chắc nó mướn xe trên Sài Gòn về, nên nó mới tới đây sớm chớ gì”. Thầy vừa nói vừa bước ra cửa. Ông Chánh bái Thành với Hữu Nghĩa cũng ra đứng mà ngó. Bà Cả với cô Phụng cũng tiếp ra nữa, lại có Hữu Nhơn chạy theo níu áo bà ngoại. Sớp-phơ mở cửa xe. Như Thạch bước ra, trong xe lại còn có một người đàn bà mặc áo xanh dương cũng sửa soạn bước ra. Như Thạch đợi người đàn bà xuống xe rồi, hai người mới kề vai nhau mà đi vô sân. Người đàn bà ấy hình dung tuấn tú, tướng đi dịu dàng, gương mặt sáng rỡ. Chừng hai ngưòi vô gần tới thềm nhà thì thầy Hội đồng Quyền hỏi: - Cháu mướn xe Location trên Sài Gòn cháu về hay sao, nên tới sớm dữ vậy? Như Thạch đáp: “Thưa, anh huyện Khoan là bạn học của cháu hồi trước, ảnh cho xe nhà của ảnh đưa cháu về”. Nãy giờ bà Cả đứng ngó cô bận áo xanh trân trân, chừng Như Thạch dắt cô ấy bước vô tới hàng ba nhà, chàng chưa kịp nói tiếng chi hết, thì bà hỏi rằng: - Cô nầy là ai? Như Thạch với cô nọ cúi đầu chào bà Cả, rồi Như Thạch đáp: “Thưa má, người nầy là vợ của con, tên Nhung, người Bắc Việt”. Bà Cả biến sắc, mà những người đứng đó ai nấy cũng đều ngẩn ngơ hết thảy. Bà Cả liền xây lưng trở vô, Như Thạch chỉ má nói nhỏ với cô Nhung: “Má đó”. Chàng lại day qua mấy người kia mà nói tiếp: “Còn đây là bác Hai, đây là cậu Năm, đây nữa là anh Hai với chị Hai mà qua thường nói với em đó”. Cô Nhung chấp tay cúi đầu chào mỗi người, cô có cái dáng yểu điệu cái vóc thanh nhã lại thêm gò má ửng hồng hai môi như thoa son đỏ, chơn mày cong vòng lại nhỏ rứt, nhưng mà cô chào thì ai nấy đều làm lơ, không có một tiếng ừ hử chi hết, rồi lại thủng thẳng rút đi vô nhà. Như Thạch thấy chú Hưng đứng xớ rớ trước sân thì kêu mà biểu ra xe vác cái rương và va ly đem vô nhà. Chàng lại kêu sơp-phơ vô rồi móc túi lấy ra hai tấm giấy bạc mà nói: “Xăng còn đủ về phải hôn? Thôi tôi cho anh 10 đồng bạc đây đặng anh qua chợ ăn cơm và về dọc đường trả tiền đò. Anh về thưa lại giùm với ông Huyện, bà Huyện rằng tôi cảm ơn hai ông bà lung lắm nghe”. Sớp-phơ lấy tiền rồi xá mà ra xe. Như Thạch dắt cô Nhung vô nhà, thấy mẹ ngồi tại bộ ván dựa cửa sổ thì bước lại nói rằng: ‘Thưa má, con cưới vợ mà con không thưa cho má hay trước thiệt con có lỗi với má nhiều lắm. Bây giờ má muốn hành phạt con nặng nề cách nào con cũng cúi đầu mà vưng chịu nhưng nếu mà má biết rõ tâm sự của hai con thì chắc má sẽ động lòng mà tha thứ. Để thủng thẳng rồi con sẽ thuật lại hết công chuyện của con cho má nghe”. Bà Cả khoát tay mà đáp: “Thôi, thôi, đừng có nói gì hết tôi không muốn nghe đâu”. Như Thạch tuy thấy mẹ giận, song chàng không ngã lòng cứ nói tiếp: “Thưa má, con có lỗi với má nên má giận, bởi vậy dầu má quở trách thế nào con cũng vưng chịu hết. Còn vợ con có lỗi thương con mà thôi, cái lỗi ấy cũng tại con mà ra, vậy con cúi xin má đừng giận lây tới nó mà tội nghiệp, má vui lòng để cho nó lạy má làm lễ ra mắt mẹ chồng”. Bà Cả xây lưng giẫy giụa đưng đửng trên ván và la lớn rằng: “Tôi không phải mẹ chồng của ai hết. Thôi đi, thôi đi, đừng có nhiều chuyện. Tôi không biết mặt nào hết. Ông Cả ơi, sao ông không sống đặng ông thấy công chuyện nhà, ông chết sớm như vậy hử!” Như Thạch đứng ngó cô Nhung, chàng lắc đầu rưng rưng nước mắt. Cô Nhung đợi bà Cả êm rồi, cô mới nhỏ nhẹ nói rằng: “Thưa má, phận con là gái, mà con lấy chồng, con không chờ mạng lịnh cha mẹ chồng mang trầu cau đến cưới, thì tánh tình con coi hèn mạt lắm. Nhưng vì hoàn cảnh áp bức, má ở xa xôi không thế nào ra đến Hà Nội mà chủ trương lễ cưới, tại con yêu anh Như Thạch không thể nào con lìa ảnh được, nên con chẳng quản tiếng thị phi, con đánh bạo theo ảnh vào đây con lạy má xin má tha thứ cho con”. Cô Nhung nói chưa dứt lời thì cô đã ngồi bẹp dưới gạch cúi đầu mà lạy. Bà Cả hứ một tiếng, rồi bà vội vàng đứng dậy mang giày ngoe ngoảy đi vô buồng. Cô Nhung đứng dậy liếc mắt ngó chồng, tỏ ý muốn hỏi coi còn phải làm cách nào nữa đặng cô làm cho mẹ chồng hết giận. Như Thạch bước lại chỗ ông Chánh bái và thầy Hội đồng ngồi và nói rằng: “Cháu xin bác với cậu làm ơn khuyên giải giùm cho má cháu hết giận. Việc vợ chồng cháu đã lỡ rồi, nếu má cháu kháng cự thì tội nghiệp cho vợ cháu”. Ông Chánh bái hỏi: - Cháu có vợ hồi nào ở đâu vậy? Sao cháu không cho thiếm Cả hay? - Thưa bác, hai cháu vì đồng tâm đồng chí, thương yêu nhau, không thể rời nhau được, nên mới kết nghĩa vợ chồng gần được một năm rồi. Khi cháu cưới vợ, cháu không dám cho má cháu hay, là vì cháu sợ má cháu ngăn cản, rồi trọn đời phải chịu đau đớn về ái tình, bởi vậy cháu tính lén cưới rồi sẽ dắt về lạy mà thú tội. - Cháu tính lếu quá! Muốn cưới vợ thì phải thưa cho cha mẹ hay trước chớ! Vợ của cháu là con của ai ở ngoải vậy? - Thưa, vợ cháu là con của một ông Phán Sở Bưu điện ngoài Hà Nội, nó làm nữ giáo sư trong trường con gái. - Chà! Làm “cô giáo” hay sao? Cháu làm Đốc học vợ cháu làm cô giáo thì phải quá. Ngặt mới hồi nãy đây, thiếm Cả bàn tính việc cưới vợ cho cháu. Tình cờ cháu về, cháu lại dắt vợ theo, cháu làm trái ngược với việc thiếm đương tính, bởi vậy thiếm giận quá, bây giờ biết làm sao khuyên giải cho được. - Má cháu tính cưới vợ cho cháu. Mà bây giờ cháu đã có vợ sẵn rồi, thì má cháu khỏi thất công tính nữa chớ có hại gì đâu. - Cháu nói như vậy sao được. Chớ chi cháu về trước một mình, thủng thẳng cháu òn ỷ mà thưa thiệt việc của cháu cho thiếm Cả hay. Thiếm có giận, thì bà con phụ vô mà năn nỉ thiếm, chừng thiếm hết giận rồi cháu sẽ đem vợ cháu về, thì tiện hơn. - Thưa, hồi còn ở ngoài Bắc, thì vợ cháu cũng có tính như vậy, bởi vì tánh cháu ngay thật, cháu không chịu làm việc mờ ám dối trá, lại cháu thương vợ cháu lắm, cháu không thế gì mà bỏ vợ cháu ở ngoải được, nên cháu mới dắt về một lượt. Nãy giờ thầy Hội đồng ngồi lóng tai mà nghe, bây giờ thầy mới nói: “Việc cháu làm đó thì trái với gia pháp thiệt. Nhưng mà đã lỡ rồi, thì chèo xuôi cho mát mái, giận giũi rầy rà thiên hạ chê cười chớ có ích gì. Thôi, cháu dắt con Ba vô nhà trong cho nó nghỉ, để thủng thẳng rồi cậu cắt nghĩa cho chị Cả nghe. Thằng Xã vô mời chị Cả ra đây cho cậu nói chuyện một chút, cháu”. Như Thạch nghe lời cậu, bèn dắt vợ đi vô nhà sau. Cách một lát, bà Cả ở trong buồng bước ra, bà xách một cái ghế để ngang mặt ông Chánh bái và thầy Hội đồng mà ngồi nói rằng: “Con cái đời nay nó vậy đó. Cho nó ăn học tốn hao bạc ngàn, rồi nó dắt thứ đồ gì ở đâu về nhà đặng làm xấu hổ cho tông môn. Tôi tức quá, nó đi đâu nó đi cho khuất con mắt tôi, chớ nó ở trong nhà, ra vô tôi thấy nó tôi giận chắc tôi phải đau”. Thầy Hội đồng tằng hắng mà nói: - Thôi, việc dĩ lỡ rồi chị giận hờn mà làm gì. Việc nhà để thủng thẳng mà tính. Chị làm tưng bừng đây thiên hạ họ đàm tiếu chớ có ích gì. - Tôi không tính giống gì hết nếu nó muốn thuận thì nó phải đuổi con đó đi. Tôi không cầm trầu cau tôi cưới, thì tôi không nhìn nhận là dâu của tôi được, không ai được phép kêu tôi là mẹ chồng. - Theo lời thằng Ba mới nói chuyện với hai anh em tôi đây thì con nọ cũng nhà tử tế, mà lại nó có học nữa. - Tử tế, có học, mà sao lại theo trai. - Theo lời nó nói, thì vợ chồng nó đồng tâm hiệp ý, thương yêu nhau lắm. Trong đạo vợ chồng có chi quý bằng thương yêu nhau. - Kẻ Nam người Bắc mà thương yêu nỗi gì. - Dầu Nam hay Bắc cũng là người Việt Nam hết thảy, một nòi một giống với nhau, kết vợ chồng có hại chi đâu. Vậy chớ có nhiều người đàn bà Việt Nam lấy Chà lấy Chệc, có nhiều trai Việt Nam lấy vợ đầm đó sao. - Tôi không chịu, con của tôi thì nó phải để cho tôi lựa chọn tôi cưới vợ cho nó, chớ nó không được phép làm ngang như vậy. - Theo lớp xưa thì phong tục gắt gao như vậy. Còn theo đời nầy mình phải rộng một chút, chớ bó buộc theo phong tục xưa quá sao được. Xin chị nghĩ lại mà coi, thằng Ba mồ côi cha sớm lắm. Chị là mẹ, chị thương nó, chị cho nó đi học, chớ chị không có thể dạy cho nó thông hiểu gia pháp của Việt Nam được. Từ nhỏ chí lớn nó ở nhà trường, nào phong hoá nào luân lý thì nó nhờ mấy cuốn sách nhờ mấy ông thầy dạy nó mà thôi. Mà sách hay là thầy cũng đều theo Tây hết thảy, tự nhiên nó phải cảm nhiễm theo phong hoá Âu Tây. Theo phong hoá Âu Tây thì về hôn nhân con trai con gái đều được tự do mà chọn bạn. Vì vậy nên tôi thấy thằng Ba nó làm trái gia pháp thì tôi buồn một chút nhưng mà tôi không nỡ trách nó. - Nó học giống gì nó học, chớ nó là Việt Nam mà nó bỏ lễ nghĩa Việt Nam, nó làm theo Tây sao được. Tôi nhứt định không chịu, nó đem đi đâu nó đem, tôi không cho nó ở trong nhà tôi. Như Thạch rón rén bước ra, rồi lại đứng một bên mẹ mà năn nỉ: - Con lạy má, con xin má thương giùm phận con. - Mầy đã không kể đến tao bây giờ mầy biểu tao thương nỗi gì. Thôi không còn mẹ con gì nữa mà nói. - Thưa má, tình mẹ con nặng lắm, còn cái lỗi của con có một chút xíu, có lẽ nào má vì cái lỗi nhỏ mọn nầy mà má đành dứt cái tình nặng nề kia. Con xin má xét lại. - Tao nhứt định như vậy. Nếu mầy muốn trọn đạo mẹ con, mầy phải đuổi con đó đi về xứ nó. Còn mầy đeo theo con đó thì tao không biết mẹ con gì nữa. Tao nói có trước mặt bác với cậu mầy, một người cũng như cha mầy, còn một người cũng như mẹ mầy, vậy mầy liệu lấy. Mầy muốn thế nào cũng được tao không ép. Như Thạch đứng cúi mặt ngó dưới gạch, nước mắt chảy ròng ròng. Rất đau đớn trong lòng nên chàng thỏ thẻ nói: “Thưa má, má nói như vậy cũng như má biểu con cắt họng mà chết cho rồi. Má banh da xẻ thịt mà đẻ ra con, có lẽ nào con phụ má cho được. Còn vợ chồng con ăn ở với nhau, vợ của con nó đã có thai nghén được 3, 4 tháng rồi, con có lòng nào mà bỏ nó cho đành. Nếu má định như vậy thì con cùng đường rồi, duy có một ngả chết mới trọn đạo mẹ con, mà cũng trọn niềm vợ chồng”. Ông Chánh bái với thầy Hội đồng nghe những lời ấy thì động lòng nên liếc mắt nhìn nhau, còn bà Cả thì bà ngồi trơ trơ, không nói nữa. Thầy Hội đồng muốn thừa lúc chị đương cảm mà khuyên giải cho dễ, nên thầy vội vã nói rằng: “Thưa chị, trước khi thằng Ba về, chị bàn tính việc cưới vợ cho nó, thì tôi đã tỏ ý muốn kiếm một chỗ vừa giàu sang đặng chị làm sui cho xứng đáng. Bổn tâm của tôi như vậy đó, chớ không phải tôi không biết lo cho cháu. Tại phần số của nó về hào vợ con thì nó định lấy, chớ không nhờ cha mẹ, nên trời mới khiến như vậy. Mà nó làm bạn với con nầy, nó cưới đủ lễ, chớ không phải cặp xách gì. Lại con nầy cũng là con nhà tử tế và vợ chồng ăn ở cùng nhau đã có thai nghén rồi nữa. Vậy tôi xin chị vuốt giận mà hỉ xả cho cháu, đặng mẹ con thuận hòa vợ chồng xum hiệp. Chị giàu lớn, chị có một đứa con trai mà thôi lại con của chị nó ăn học đúng lắm, nó đủ sức gìn giữ gia tài của chị và phụng tự ông bà. Chị chẳng cần phải giàu thêm nữa làm chi, mà tính kiếm chỗ giàu đặng cưới vợ cho nó. Thôi, chị đừng có buồn. Bắc Nam cũng vậy, giàu nghèo cũng vậy, vợ chồng thương nhau là quí hơn hết”. Bà Cả lắc đầu mà nói: - Không thể nào tôi hết giận cho được. - Nó trái ý chị một chút xíu, mà chị giận giống gì dữ vậy? - Tánh tôi khó lắm. Hễ trái ý tôi thì tôi không bao giờ quên được. - Không biết chừng nó làm trái ý chị, mà rồi may cho chị đa. - May giống gì? - Chị khỏi lo chọn lựa, chị khỏi làm đám hỏi, đám cưới, mà chị có dâu, lại không biết chừng dâu đó là “dâu ngọt”. Ấy là may chớ sao. - Biết sao mà cậu dám chắc là dâu ngọt? - Mà chị cũng chưa có thử, sao chị lại chê là dâu chua? Chị phải để nó ở ít ngày đặng chị coi tánh nết nó ra thế nào, như nó hư rồi chị sẽ quở trách chớ. Ông Chánh bái thấy ý bà Cả dịu rồi, ông mới dám xen vô mà nói: “Lời của cậu Hội đồng nói phải lắm. Thiếm nó vuốt giận: việc đã lỡ rồi, nếu thiếm có rầy rà thì xào xáo trong gia đình không tốt. Bề nào thằng Ba cũng là con trưởng nam của thiếm. Vậy thiếm hãy thương nó”. Bà Cả đứng dậy và đi lại ván ăn trầu và nói: “Con tôi sao lại không thương. Vì tôi thương nó lắm, nên nó làm việc xa xôi tôi không chịu được, tôi mới biểu nó từ chức mà về đặng mẹ con sum hiệp với nhau, cho tôi khỏi nhớ nó. Ai dè nó về, nó lại đem cái họa về đặng làm cho tôi buồn như vầy”. Thầy Hội đồng cười và nói: “Được con dâu đẹp quá, rồi ít tháng nữa đây lại có cháu nội mà bồng mà chị cho là cái họa chớ. Ba, cháu biểu vợ cháu xuống bếp phụ với con Hai riết rồi dọn cơm ăn. Trưa rồi cậu đói bụng, mà chắc anh Chánh bái cũng không no gì. Thằng Xã coi có rượu quinquina lấy đem đây uống chơi, cháu”. Như Thạch đi vô trong còn Hữu Nghĩa lại tủ rượu lấy ve quinquina và ly đem lại rót mời khách. Thầy Hội đồng kiếm chuyện khác mà nói đặng bà Cả khuây lãng việc dâu con. Nhưng mà bà ngồi sắc mặt hầm hầm, không vui vẻ như hồi sớm mơi nữa. Cơm dọn lên bàn, bà Cả mời khách ngồi lại, bà nói bà không đói, nên bà không ăn, bởi vậy ông Chánh bái, thầy Hội đồng ăn với Hữu Nghĩa và Như Thạch thôi. Ăn cơm rồi khách mới từ giã về nghỉ trưa. Thầy Hội đồng kêu Như Thạch lại nói: - Chiều mát vợ chồng cháu ra thăm cậu, nghe hôn. Dắt vợ cháu ra cho nó biết nhà. - Dạ, để chiều rồi cháu sẽ đi thăm bà con. - Hơn một năm rồi cháu mới về đây phải hôn? - Dạ, 18 tháng. - Dữ hôn! Cháu ra chơi, vườn của cậu bây giờ khác hơn hồi trước xa lắm. Quít đã có trái đều hết. Cau dừa cũng sung lắm, ra mà coi. Như Thạch đưa khách ra tới lộ. Thầy Hội đồng nói nhỏ rằng: “Coi bộ chị Cả bớt giận rồi. Cháu cứ năn nỉ riết chắc êm. Không sao đâu mà sợ”. Như Thạch cúi đầu chào cậu với bác rồi thủng thẳng trở vô nhà. Hồ Biểu Chánh Tại Tôi Chương 2 Bà Cả Kim có cái danh cự phú trong làng Thới An. Tuy bà góa bụa song nhà cửa nguy nga, dãy ngang, dãy dọc, lại trong nhà bà sắm những bàn ghế, tủ, ván thứ nào cũng mắc tiền, nên thứ nào coi cũng đẹp. Đã vậy mà bà nhờ rể của bà, là Hữu Nghĩa có tánh sạch sẽ kỹ lưỡng ngày nào cũng coi cho bạn bè quét tước trong nhà, dọn dẹp ngoài sân, bởi vậy nhà đã nguy nga lại thêm có vẻ ngộ nghĩnh nữa. Nhưng từ hôm nay dường như có một bầu không khí nặng nề bao trùm từ ngoài sân vô tới trong nhà, nên ở ngoài coi mất vẻ vui, còn vô trong lại thêm mờ mịt nữa. Như Thạch đưa khách rồi, chàng trở vô nhà thì không thấy mẹ ngồi ngoài nữa, chỉ có một mình Hữu Nghĩa đương sắp ghế lại cho ngay hàng. Chàng bước lại hỏi nho nhỏ: “Má đi đâu, anh Hai?” Hữu Nghĩa chỉ tay vô buồng đáp: “Má đang nằm nghỉ trong buồng”. Như Thạch le lưỡi, rồi nhón gót đi nhẹ xuống nhà sau. Chàng thấy chị đang nằm trên võng đưa con, còn vợ ngồi ghé đầu ván đằng chái không ai nói tới ai hết. Chàng bèn hỏi chị; - Sao chị không biểu dọn cơm cho má ăn? - Qua mới lên hỏi má thì má nói má không đói, má biểu đừng có dọn. - Khổ quá! Má giận em đến nỗi má không chịu ăn cơm, bây giờ biết làm sao. - Ai biết làm sao. Tại em làm cho má giận, thì em làm sao đó em làm. - Bây giờ má còn đương giận, nếu em lên năn nỉ nữa, chắc má rầy. Chị Hai, chị làm ơn lên năn nỉ má giùm cho em. - Ý! Ai dám. Qua xen vô rồi má giận luôn tới qua nữa a. - Chị không thương em hay sao chị Hai? - Sao lại không thương. - Nếu chị thương thì chị phải hết lòng lo điều đình giùm cho vợ chồng em được an thân mới phải chớ. - Em làm việc quá trời, qua biết làm sao điều đình cho được. - Em biết má cưng chị lắm, chị nói giống gì má cũng nghe hết. Vậy em xin chị làm ơn khuyên giải má cho má đừng có giận nữa, thì vợ chồng em mới gần gũi với chị được. Cô Nhung bước lại tiếp nói: “Thưa chị Hai, vì em thương chồng, nên em bỏ cha bỏ mẹ theo chồng vào đây. Từ rày dầu em sống hay thác em cũng nhờ cha mẹ chị em bên chồng. Chẳng những là xác thịt mà thôi, đến tâm hồn của em cũng thuộc về nhà họ Lý cả. Vậy em khẩn cầu chị thương giùm em, chị nói hộ cho má hết giận em, chị làm việc ấy là làm cái phước đức lớn lắm vậy”. Cô Phụng chúm chím cười rồi day mặt chỗ khác, không trả lời. Như Thạch hỏi vợ: - Em ăn cơm chưa? - Thưa, em không đói. Như Thạch day lại hỏi chị: - Chị Hai, sao chị không biểu bầy trẻ dọn cơm cho chị ăn, đặng vợ của em nó ăn với? - Hồi nãy qua biểu cô lên nhà trên ăn, cô không chịu lên. - Trời đất ơi, vợ của em sao chị kêu bằng cô. Mắc mỏ chi vậy chị Hai? - Vậy chớ ai biết kêu bằng giống gì. - Sao lại không biết. Còn chị biểu nó lên nhà trên ngồi ăn cơm, biểu cái gì kỳ cục vậy? - Chớ ăn dưới nhà bếp coi sao được. Như Thạch rùn vai cười, tỏ ý không vui. Cô Nhung ngó chồng và nói: “Em xin anh đừng bận lòng lo cho em. Bao giờ má ăn cơm thì em mới dám ăn”. Như Thạch châu mày bước ra hàng ba nhà bếp đi lên đi xuống coi bộ suy nghĩ lắm. Cô Nhung lại đứng dựa cửa. Cô Phụng cứ nằm trên võng đưa con, mắt nhắm lim dim. Bạn bè người lo rửa chén, người đứng quét bếp, không ai nói chuyện chi hết, song một lát họ liếc mắt ngó cô Nhung rồi chúm chím cười, làm cô ngột ngạt khó chịu quá. Như Thạch đi lên nhà trên một chút lại trở xuống kêu vợ biểu lấy cây dù đi thăm bà con. Cô Nhung muốn trình với chị đặng đi theo chồng, song thấy cô Phụng nhắm mắt nằm êm, chắc cô đã ngủ nên không dám nói. Lên nhà trên thì vắng hoe, Hữu Nghĩa nằm trên ván cũng ngủ nữa. Vợ chồng Như Thạch đi rồi. Lập tức cô Phụng nhẹ nhẹ lén con đứng dậy và lên nhà trên. Cô bước vô buồng dở mùng kêu mẹ và nói: “Má ăn cơm, nghe hôn má. Hai đứa nó dắt nhau đi đâu mất rồi, má dậy rồi con biểu chị Thình nấu cơm nóng cho má ăn”. Bà Cả dậy hỏi con: - Nó dắt nhau đi đâu? - Con nghe thằng Ba kêu con nọ biểu lấy dù đi thăm bà con với nó. Đi thăm ai đó không biết. - Đã vậy còn không biết xấu lại dắt đi chưng cùng xóm cùng làng. - Coi bộ thằng Ba nó mê lắm. - Họ nói người Bắc có cái văn nói hay lắm, không mê sao được. Bà Cả đi ra ngoài rót nước trà uống. Cô Phụng bước nhà bếp biểu chị Thình nấu một nồi cơm nhỏ đặng dọn lên cho bà ăn. Cô trở lên ngồi chung trên ván với mẹ rồi nói: - Má, con nhỏ đó coi ngộ thiệt chớ má há? - Ngộ với mầy, chớ ngộ với ai. - Hứ má nói! Tại má giận nên má không thèm ngó kỹ chớ. Con nhỏ đó đi tướng tốt lắm. Mặt mày sáng rỡ, tay chơn dịu nhiễu, tiếng nói ngọt xớt. - Thứ đồ đó tự nhiên nó phải sửa hình sửa dạng phải chuốt ngót lời nói, nó rũ quyến trai mới được chớ. - Đâu để nó làm dâu rồi coi tài con gái Bắc ra sao cho biết. - Làm dâu ai? Tao có chịu đâu mà làm dâu. - Lỡ rồi, nếu má không chịu rồi làm sao? - Làm sao nó làm, tao biết đâu. - Con coi bộ cậu Năm ưa nó lắm. - Tánh cậu Năm mầy cứ xuôi xuôi, ai làm sao nó cũng chịu hết thảy. Nó có học tây chút đỉnh rồi nó không kể phong hoá chi hết. Với tao có được như vậy đâu. Hồi nãy nó nói lùa theo quân đó, tao phát ghét. - Thằng Ba nó cậy con năn nỉ giùm với má đặng má đừng ghét con đó nữa. Con không chịu. Nó dắt con đó đi, chắc nó ra năn nỉ với cậu Năm nói giùm chớ gì. - Tao làm việc gì cũng tại ý tao, chớ tao có nghe lời ai đâu mà cậy nói giùm. - Má làm gắt quá sợ nó nổ chớ. - Nổ thì nổ chớ sợ giống gì. Cô Phụng cười rồi cô đi xuống nhà bếp coi dọn cơm cho mẹ ăn. Đến nửa chiều, có con của thầy Hội đồng Quyền vô thưa cho bà Cả hay rằng thầy Hội đồng cầm vợ chồng Như Thạch ở lại ăn cơm tối, nên xin trong nhà đừng đợi chờ. Bà Cả cười gằn và nói: - Tao có chờ ai đâu mà dặ. Cô Phụng ngó mẹ cười: - Làm dâu mới một ngày coi đã dở hơn con gái trong nầy rồi đa! Làm dâu phải lo nồi cơm chĩnh mắm, chớ làm dâu gì muốn đi thì đi, không thưa trình cho ai hay hết, tới bữa cơm cũng không thèm về lo nữa. - Hứ! Tao biểu mầy đừng có nói tới tiếng “làm dâu” mà. Tao không nhìn biết ai là dâu tao hết. - Nói chuyện nghe chơi, chớ ai biểu má nhìn. Má là cha mẹ, việc cưới vợ cho con, má định thế nào là quyền tự nơi má, ai dám nói vô nói ra. Tối một lát vợ chồng Như Thạch trở về. Bà Cả vừa thấy mới vô tới sân, tức khắc bà đi vô buồng tránh mặt. Cô Phụng cũng dắt con đi dỗ ngủ. Hữu Nghĩa thấy Như Thạch bước vô liền hỏi: - Cậu ăn cơm ngoài nhà cậu Hội đồng phải hôn? - Phải, tôi đi thăm bà con, ra tới cậu Năm, cậu bắt ở lại ăn cơm, không cho về. Cậu Năm có sai thằng Thế vô trong nhà cho hay mà. - Có. - Ở nhà má có ra ăn cơm hay không? - Có. - Coi bộ má bớt giận tôi hay không? - Coi cũng vậy. Vợ tôi có năn nỉ nói giùm, song má gạt ngang. - Thiệt khổ hết sức. Như Thạch biểu vợ mở va-ly lấy đồ mát cho chàng thay, rồi đi vòng vô mấy cái buồng, thấy mẹ với chị ai nằm theo phòng nấy, trong nhà không ai dọn dẹp một chỗ nào cho vợ chồng chàng ngủ. Chàng mới lấy một cái chổi lông, bổn thân đi quét bộ ván gần cái bàn viết đặng nằm nghỉ lưng. Cô Nhung thấy vậy bèn giành lấy cây chổi đi quét, đoạn cô mở rương lấy mền gối để tử tế trên ván cho chồng nằm. Hữu Nghĩa muốn đóng cửa đi ngủ. Như Thạch nói: “Anh chừa cho tôi một cái cửa đặng tôi ra vô cho tiện. Anh có buồn ngủ thì ngủ trước đi. Tôi chưa ngủ đâu”. Hữu Nghĩa đóng các cửa, song chừa cái cửa chỗ bàn viết, rồi chàng vô buồng ngủ. Như Thạch vặn đèn lu lu rồi lại ván nằm, biểu vợ nằm một bên mà nghỉ. Cô Nhung lắc đầu, lại ngồi gần bên mình chồng rồi cầm quạt, quạt cho chồng. Kẻ nằm gác tay qua trán mắt lim dim, người ngồi lặng lẽ, tay quạt hơi cho chồng mát, không ai nói tới ai, nhưng mà, có lẽ lúc ấy trong trí mỗi người đều lăng xăng những đường kia nẻo nọ, bối rối với những cảnh vừa ngó thấy, lo lắng về mối tương lai mịt mù chưa biết sẽ ra thế nào. Môt lát hai người ngó nhau một cái, tuy bóng đèn lu mờ, song thấy rõ cái lần ngó đó chứa đầy những tình thương yêu những ý cương quyết dầu sóng gió thế nào cũng không đành rã được khối chung tình, dầu thảm khổ đến đâu cũng không làm tiêu được lời thệ ước. Đồng hồ gõ một giờ rồi gõ hai giờ, mà cô Nhung cũng cứ ngồi quạt cho chồng. Như Thạch nắm tay vợ kéo xuống và biểu nằm nghỉ. Cô Nhung nhẹ nhẹ gỡ tay chồng nói nhỏ nhỏ: “Anh cứ nghỉ cho khỏe thôi, đừng lo cho em, có anh ở bên cạnh chẳng bao giờ em biết mệt”. Như Thạch ngồi dậy rồi thủng thẳng đi ra ngoài sân. Vừng trăng khuyết hết phân nửa lửng đửng treo giữa trời dọi yếng dư xuống nên cây cỏ lờ mờ, làm cho cảnh vật đều có vẻ buồn bực. Đã vậy lại thêm đêm khuya vắng vẻ, tứ hướng im lìm, làm cho cái cảnh buồn ấy pha lộn cái vẻ huyền bí, khiến lòng người dễ sinh cảm động. Như Thạch nhìn trăng ngắm cảnh, đương đứng bâng khuâng bỗng thấy cô Nhung cũng rón rén ra đứng một bên chàng, cái gương mặt hiền từ trung hậu của cô thuở nay bây giờ nó đổi ra gương mặt thảm sầu nhưng nghiêm trọng. Cô nắm tay chàng thủng thẳng dắt lần đi ra cửa ngõ, thấy có một cái băng bằng cây lót phía trong rào, dưới bóng hai cây mít nhành lá rậm rạp. Cô mời chàng ngồi lại đó cô ngồi một bên, tay vịn chàng, nghiêng mặt ngó và nói: “Đôi ta thương nhau, nên kết bạn trăm năm đặng chung bước trên đường đời, em tưởng sự quyết định của chúng ta là cái hạnh phúc to tát chẳng có gì sánh kịp. Chẳng dè dự định của em là mộng ảo, không giống với sự thật. Lòng em thương anh thì sung sướng cho em, song nó làm khổ não, nó gây họa cho anh. Vì em mà trong gia đình anh phải xào xáo rối loạn, vì em mà gây ra một mối ác cảm giữa má với anh. Em trông thấy em lấy làm hối hận lắm. Tuy nhiên niềm vợ chồng thì nặng, nhưng mà đạo mẫu tử cũng chẳng nên khinh. Em muốn thà đôi ta chịu đau đớn trong niềm chồng vợ, chớ không nên để phai lợt tình mẫu tử. Vậy em xin anh cho em tạm trở về Bắc, đặng cho anh khỏi lỗi với má anh, em trở vào Sở Giáo huấn dạy học lãnh lương để nuôi thân. Em đương có mang mểnh, chừng nào sanh con thì em nuôi, em sẽ nuôi tử tế, em sẽ dạy nó thờ anh. Vì dầu đất trời khiến đôi ta không được tái hiệp, em phải cô thân, độc lập trọn đời đi nữa, chút con ấy, là cái dấu tích ân ái trót một năm của chúng ta cũng đủ làm cho em sung sướng mà vui với sự sống đầy những hy vọng tái hiệp”. Như Thạch lắc đầu, tay choàng ngang cổ, mắt ngó ngay mặt vợ, đoạn nghiêm nghị nói: - Em đừng có nói chuyện ngông cuồng. Anh hứa làm chồng em, thì chẳng bao giờ anh lìa em được, duy có sự chết mới phân rẽ nhau thôi. Nếu anh để em về ngoài Bắc, còn anh ở lại trong Nam, thì anh thương nhớ em, chẳng bao lâu chắc anh phải chết, rồi sự em muốn làm vui lòng má đó đã không có ích cho má, lại còn hại tới anh nữa. Em hiểu chưa? - Hiểu!... - Anh khuyên em, nếu em thiệt thương anh, thì em hãy ráng chịu nhục nhã khổ não một lúc, hãy ráng làm cho má hết giận mình; đó là một phương chước hay nhứt. - Vâng, anh dạy thế nào em cũng vâng hết, dầu anh biểu em chết em cũng vâng nữa. Miễn được gần anh, dầu em phải nhục nhã khổ cực đến thế nào em cũng chẳng nề hà. - Hồi chiều cậu Hội đồng có hứa cậu sẽ tận tâm khuyên má đừng có giận hai đứa mình nữa. Vậy có lẽ lần lần việc nhà sẽ hết rối được. - Em mong mỏi lắm anh ạ! Hôm nay mặt trăng tuy khuyết, mà đêm rằm tới đây nó sẽ tròn lại, nó tròn một cách khả ái quá anh ơi! Cái hạnh phúc của đời chúng ta hôm nay nó cũng khuyết như mặt trăng kia, sau nầy nó có được tròn lại như mặt trăng chăng? Như Thạch nghe mấy lời tha thiết ấy thì cảm động nên ngồi im một chút rồi trợn mắt quả quyết rằng: “Nó sẽ đầy lại. Nó sẽ tròn lại, qua nhứt định làm cho nó sẽ tròn như mặt trăng vậy. Em tin qua không?” Cô Nhung ngó chồng rất hữu tình và nói nhỏ nhỏ: “Em tin, em vẫn tin anh luôn”. Như Thạch liền ôm mặt vợ vào lòng; vợ chồng đương dan díu dưới bóng trăng, bỗng có dạng cô Phụng đứng lấp ló trong cửa dòm ra, rồi cô đi mất. Như Thạch không để ý đến. Cách một lát, thấy đèn trong nhà vặn sáng lên, rồi lại thấy bà Cả bước ra cửa đứng trên thềm. Vợ chồng Như Thạch vùng đứng dậy. Chừng hai người sắp bước chân lên thềm, thì bà Cả la lớn rằng: “Con nầy, tao nói cho mầy biết nhà tao hẳn hòi, chớ không phải cái thói đĩ điếm, mà mầy dám tới đây làm trò trên bộc trong dâu. Hèn chi thằng Thạch nó mê mầy thì phải lắm. Đồ khốn nạn, mầy phải đi ra khỏi nhà tao, ra liền bây giờ, không cho mầy ở một phút nào hết”. Như Thạch cứ kéo vợ lên tới hàng ba, chàng quì gối chấp tay lạy mẹ và nói: - Con xin má vuốt giận, đừng mắng chửi vợ con tội nghiệp. Nó có cái lỗi thương chồng chớ chẳng lỗi chi hết. Má muốn đánh chửi con bao nhiêu cũng được, xin má đừng nói động tới nó rất oan cho nó. - Còn mầy nữa! Cha chả! Mầy binh hả? Nếu vậy thì mầy coi con khốn nầy trọng hơn tao rồi! Đi, mầy cũng đi cho khỏi nhà tao. Tao không biết mẹ con nào nữa. - Tội nghiệp con lắm má ơi! Vợ chồng con thương yêu nhau lắm, má nỡ nào phân rẽ cho đành. - Tao biểu đừng có kêu tao bằng má đa. Đồ hư, mê sa đĩ điếm như mầy, thì là yêu quỉ, chớ không phải con tao. - Vợ của con nó đã có thai nghén ba bốn tháng rồi má à. - Ố! Tao có màng đâu. Đồ đó sanh con đẻ cháu cũng nhục cho tông môn tao, chớ có ích gì. Mầy coi nó lớn hơn tao thì dắt nhau đi phứt cho rồi, tao không cho vô nhà tao nữa, đi đi... Thằng Hưng đâu, Hưng à! Mầy vác rương của quân nầy mà quăng ra ngoài lộ cho tao. Làm cho mau đặng nó đi, kẻo gai con mắt tao lắm. Bây giờ cô Nhung ngồi dưới gạch, cô mới thỏ thẻ nói: - Con lạy má xin thương con... - Nín, tao không cần ai lạy tao hết. - Từ ngày con lấy chồng thì con đã thuộc về họ Lý, sống con làm vợ họ Lý, mà thác con làm ma họ Lý. Bề nào con cũng ở đây chớ biết đi đâu. - Cha chả! Bây giờ tính liều mạng với tao hả. Tao biểu mầy đi! Nếu mầy còn nói ráng, tao la làng rồi hương chức bắt đóng trăn càng thêm mang xấu đa. Đi cho mau đi đi... Bà Cả vừa nói vừa cúi xuống đưa hai tay xô cô Nhung té lăn cù dưới thềm gạch. Như Thạch lật đật nhảy xuống ôm vợ đỡ đứng dậy, rồi nói rằng: “Vợ chồng con đã năn nỉ cạn lời, mà má không động lòng, má cứ đuổi vợ con hoài. Thôi, má đuổi thì vợ chồng con đi hết, chớ không thể nào con bỏ vợ con được”. Cô Nhung lật đật đưa tay bụm miệng chồng mà nói: - Anh! Anh không nên to lời bất hiếu với má. Má đuổi em, thì em đi, em lạy anh đừng đi theo em rồi làm phiền lòng má. - Từ sớm mơi tới bây giờ, anh nói nhiều lần rằng anh không thể lìa em được. Nay má quyết đuổi em, tức thì má cũng không muốn anh ở trong nhà nầy nữa, thế thì anh ở sao được. Như Thạch thấy chú Hưng đứng xớ rớ gần đó bèn kêu biểu vô nhà vác rương và va ly đem giùm qua chợ Ô Môn. Chàng lại thấy bà Cả xây lưng trở vô nhà thì chàng vội vã nói: “Vợ chồng con cầu chúc cho má ở nhà mạnh giỏi. Con chắc một ngày kia má sẽ nhìn nhận cho vợ chồng con có lỗi, song lỗi ấy chưa đáng cho má dứt tình mẫu tử như vậy, rồi má sẽ tự hối về sự má hà khắc con dâu”. Chú Hưng vác rương và va ly đem ra, lại còn ôm quần áo mền gối của Như Thạch ra nữa. Như Thạch ở ngoài sân thay đồ y phục, biểu vợ thâu xếp mền gối, quần áo, bỏ vào rương rồi cậy chú Hưng vác đi. Ra khỏi cửa ngõ cô Nhung nói với chồng : - Cậu Hội đồng thương vợ chồng mình quá. Anh nghĩ thử coi có nên ra trình cho cậu hay và tạ ơn cậu rồi mình sẽ đi. - Thôi, còn quyến luyến chỗ nầy mà làm chi. Để lên tới Sài Gòn rồi anh sẽ viết thư tạ ơn cậu cũng được. - Vâng. Đến sáng chú Hưng mới trở về. Cô Phụng thấy chú bước vô thì hỏi: - Mượn chú vác rương đi đâu vậy? - Thưa, chắc là đi Sài Gòn. Vác vô tới chợ Ô Môn, cậu Ba biểu tôi đem để trên xe hơi đò đi Cần Thơ, rồi tôi ở đó coi chừng. Hai ông bà dắt nhau đi lên đi xuống nói chuyện, chừng xe gần chạy mới lên xe. - Xe chạy chưa? - Chạy rồi tôi mới về đây. Mặt trời mọc một lát, thầy Hội đồng Quyền lơn tơn vô nhà chị. Thầy vừa ngồi yên thì hỏi Hữu Nghĩa: “Thằng Ba còn ngủ sao mậy Xã?” Bà Cả rước đáp rằng: “Tôi đuổi nó đi hết rồi’. Thầy Hội đồng chưng hửng, thầy day qua hỏi chị: - Đi hồi nào? - Đi hồi khuya. - Chị lếu quá! Chị đuổi hết hai vợ chồng nó hay sao? - Đuổi hết. - Chị gắt gao quá lẽ. - Không phải gắt. Nhà tôi giàu có, tôi không có tiền đặng cưới vợ cho con hay sao, nên con nó làm như vậy. - Theo quan niệm về phong hoá đời nay, thằng Thạch nó làm như vậy, có quấy đâu chị. Tại chị thủ cựu quá, nên chị tưởng nó hư chớ. - Tôi không biết xưa nay gì hết. Con thì phải chờ lịnh cha mẹ cưới gả tôi mới chịu. Thầy Hội đồng thấy vợ chồng Hữu Nghĩa đi qua đi lại thì châu mày hỏi: “Sao chị Cả đuổi hai vợ chồng nó đi, thằng Xã không biểu đứa nào chạy ra cho cậu hay?” Cô Phụng rước đáp liền: - Tại cậu không có dặn, ai dám cho hay. - Dặn giống gì? Cậu biết rồi, cháu không thương thằng Thạch nên cháu muốn má cháu đuổi nó đi cho rảnh. Xấu lắm! Xấu lắm! - Đâu có! - Hứ... Thầy Hội đồng vội vàng đứng dậy từ bà Cả ra về, không thèm nói tới vợ chồng Hữu Nghĩa. Hồ Biểu Chánh Tại Tôi Chương 3 Ông Huyện Khoan làm quan tại Sài Gòn, ông ở một cái nhà bánh ếch nơi đầu đường Mayer, nhà tuy nhỏ song có nhà bếp, nhà xe kèm hai bên, lại trước nhà có vài cây xoài lớn che làn mát mẻ, chính giữa sân có xây bồn trồng nhiều thứ bông. Ông còn trẻ, mới bước chân vào hoạn lộ, mà được một ngôi nhà đẹp đẽ như vậy, là vì năm trước ông cưới vợ, rồi cha mẹ vợ của ông muốn cho bề ăn ở của con rể xứng với địa vị thượng lưu nên mua cái nhà ấy để cho ông ở. Gần 12 giờ trưa, xe hơi xuống sở làm rước ông về, xe vô sân vừa ngừng, thì ông mở cửa nhảy xuống gọn gàng, rồi xăm xăm đi riết vô nhà. Ông thấy bà ngồi một mình tại phòng khách, đương xem nhựt trình thì ông bước vô, hai tay ôm mặt bà mà nựng. Bà Huyện tuổi vừa mới đôi mươi, vóc lớn, môi dày, trán thấp, bà buông nhựt trình đứng dậy, xô chồng nhẹ nhẹ và nói: “Làm giống gì kỳ cục vậy nà”. Ông cười hịt hạt, rồi cất nón đi vô buồng thay đồ. Bà bước ra cửa sau, kêu bồi bếp biểu dọn cơm, bà nói tiếng rộn ràng, lại đứng tay chống nạnh, nên coi oai nghiêm lắm. Cơm dọn rồi thì ông thay đồ cũng rồi, nên vợ chồng ngồi lại bàn ăn, một tên ngồi khoanh tay đứng sau lưng bà mà chờ lịnh. Ông vui vẻ hỏi bà: - Hồi sớm mơi mình có xuống Bến Thành không? - Có. Tôi có đi một lát. - Đi chơi vui hôn? - Sớm mơi thiên hạ lo mua bán, chớ có gì mà vui. - Tối nay mình muốn đi đâu chơi đặng tôi dắt đi? - Vậy chớ mình không đi hội nữa hay sao? - Không, mình muốn đi Thủ Đức chơi, hay là muốn đi coi hát bóng? - Để tối rồi sẽ hay. Tôi muốn đi Chợ Lớn kiếm đồ mua. - Muốn đi Chợ Lớn thì đi. Bỗng ông Huyện dòm ra cửa thì thấy có hai cái xe kéo chạy vô sân. Ông nói lớn: - Ủa! Vợ chồng anh Đốc Thạch mới mượn xe về Ô Môn hôm qua, sao bữa nay lại trở lên kia kìa? - Thiệt quả Như Thạch với cô Nhung bước vô cửa. Cô Nhung chắp tay xá và nói: Em chào quan, em chào bà . Ông Huyện hỏi: Sao mau lên như vậy?" Như Thạch cười đáp: Ừ, trở lên". Chàng kêu xa phu bảo vác rương với va-ly đem vô để trước hàng ba rồi móc túi lấy bạc cắc mà trả tiền xe. Bà Huyện nói: Gặp bữa tôi xin mời hai ông bà ngồi lại ăn cơm luôn thể. Vợ chồng tôi mới ăn đây . Cô Nhung vui vẻ đáp: - Mời bà với quan ăn. Vợ chồng em đã dùng cơm rồi. - Ăn ở đâu? - Xe ghé chỗ gì đó nghỉ lâu. Hành khách ai cũng xơi cơm. Vợ chồng tôi vừa đói bụng, nên cũng làm như họ cho vui. - A! Ghé Cai Lậy phải hôn? - Thưa phải, Cai Lậy ạ. - Té ra đi xe đò hay sao? - Vâng, đi xe đò. - Hèn chi lên trưa dữ. Thôi, hai ông bà ăn cơm rồi thì ngồi đó uống nước. Bồi, lau vài cái tách rồi rót nước trà bưng ra đây. Như Thạch cứ đi qua lại, chớ không ngồi. Ông Huyện thấy vậy mới hỏi: - Mà sao toa mới về hôm qua, rồi bữa nay lại trở lên? Có việc gì hay sao? - Ôi! Việc nhà của moa rối lắm toa ôi! Để thủng thẳng rồi moa sẽ thuật hết cho toa nghe. - Moa chắc toa bị bà già tán toa rồi chớ gì. Phải như vậy hay không? - Toa đoán trúng lắm, bà già rầy quá. - Mấy bà già gắt lắm. "Bất cáo nhi thú kỳ tội chi trọng", mấy bả có chịu đâu. Hôm qua toa dắt madame đi về Ô Môn, moa muốn cản mà moa không dám. Chớ chi toa về trước một mình, toa òn ỷ cho êm, rồi toa sẽ đem madame về sau, có lẽ khỏi bị rầy. - Cái đời của moa dầu làm việc gì cũng vậy, lấy lòng thành thật làm gốc. Mưu sự giả dối moa làm không được. - Ở đời có kinh mà cũng có quyền. Mình phải tùy thời mà làm, thì mới nên việc chớ. Bà già rầy thì toa phải ráng mà chịu, sao lại bỏ đi? Moa đã ráng hết sức rồi ráng không nổi nữa, nên moa phải đi đây. Mới đút đầu vô nhà, vợ moa lạy mà làm lễ ra mắt. Bà già giẫy dựng đứng, la om sòm. Moa năn nỉ hết sức mà cũng không hết giận. Hồi khuya nầy lại đánh chửi xô đuổi vợ moa nữa, từ rày sắp lên không biết moa là con. Bà già moa không thương thì moa đi, chớ ở làm gì. - Toa bậy quá. Giận nên nói vậy, chớ mẹ con sao lại không thương. Bà già mắng chửi toa phải nhịn, toa chịu lỳ ở đó mới phải. Giận hoài hay sao? Bất quá bà già giận năm mười bữa, nguôi ngoai rồi thôi, chớ không lẽ giận trọn đời. - Toa làm Huyện moa làm giáo sư, mà toa trở lại toa dạy moa về tâm lý thì trái đời quá. Moa vẫn biết tánh ý bà già moa, bởi vậy trước khi về moa đă sắp đặt cách hành động thế nào cho xuôi thuận chớ moa làm con, lại lấy theo cái thành kiến gia đình thì moa có lỗi thiệt, ấy vậy có lẽ nào moa không chịu nhục. Ngại vi bà già gắt quá đánh đuổi không cho vô nhà thì làm sao mà ở được. Nếu toa ngồi cái địa vị của moa, thì toa mới biết giảng tâm lý. Vợ chồng ông Huyện ăn cơm rồi, bèn mời khách ra salon ngồi uống nước. Ông Huyện hỏi Như Thạch Toa không ở dưới Ô Môn được, bây giờ toa tính đi đâu?” Như Thạch châu mày ngẫm nghĩ một hồi rồi thở dài mà đáp: Moa đương bối rối quá, nên chưa biết đi đâu... Tôi xin hai ông bà làm ơn cho vợ chồng tôi ở đậu đây ít bữa rồi tôi sẽ tính . Ông Huyện ngó vợ. Bà Huyện cười mà đáp: Anh Đốc đương bối rối việc nhà. Anh chị muốn ở đây bao lâu, vợ chồng tôi cũng vui lòng mà tiếp đãi. Tôi lo có một điều là nhà không được rộng rãi cho lắm, sợ anh chị bực bội bất tiện chớ . Ông Huyện tiếp mà nói: - “Toa lên đây thì ở đây chớ đi đâu. Chật hẹp cũng ở đỡ với nhau ít bữa rồi sẽ tính. Toa đã từ chức rồi mà toa lại nghịch với bà già nữa, bây giờ toa phải lo tổ chức cái đời tương lai của toa, việc đó là một việc khó”. Cô Nhung nói: - Từ hồi sớm mai cho tới bây giờ em theo năn nỉ với anh Đốc, em xin anh trở ra Bắc. Em làm Nữ giáo sư, em được phép nghỉ sáu tháng chớ em không có từ chức. Về Bắc em xin vào Sở Giáo huấn mà dạy học lại, em làm để nuôi sự sống của vợ chồng em được, em tính như vậy mà anh Đốc không chịu. Em xin quan với bà làm ơn nói hộ đặng anh Đốc xiêu lòng mà trở ra Bắc với em. - Madame tính nghe phải quá, sao toa không chịu nghe. Toa về ở dưới Ô Môn không được, thì toa còn có một đường đi, là trở ra Bắc, chớ toa ở Sài Gòn làm cái gì. Ra Bắc rồi toa làm đơn xin phục chức đặng làm việc đỡ mà nuốt sự sống. Như Thạch lắc đầu đáp rằng: - Moa nghĩ trở ra ngoài Bắc không tiện. Hôm trước moa xin nghỉ một năm. Quan trên không cho. Moa giận moa làm đơn từ chức. Thì Quan trên đòi moa quở trách, nói nếu từ chức sau đừng có xin trở vô nữa. Moa giận moa nói moa không màng cái lớp giáo sư, cởi bỏ được thì moa mừng lắm, moa không thèm mang lại đâu mà sợ. Đã có cái ác cảm trước như vậy, bây giờ còn mặt mũi nào xin phục chức lại. - Ở đời lắm lúc mình phải chịu lòn một chút cho được việc của mình có hại gì. - Sao lại không hại? Hại lắm chứ. Ai cũng có cái nhơn phẩm riêng, nếu mình để mất nhơn phầm của mình, thì còn gì mà làm người cho được. Thà moa chịu chết đói chớ không bao giờ moa chịu lòn cúi. - Có lòn cúi gì đâu. Mình chịu khó năn nỉ một chút cho người ta vui lòng người ta giúp mình nên việc, có gì đâu mà sợ xấu hổ. - Cám ơn mấy lời toa khuyên. Tiếc vì moa không quen năn nỉ, nên moa không thể làm theo lời toa khuyên đó được. - Toa cứ ôm ấp mấy cái thói hủ lậu, nên toa nói hơi nghe cũ xì. Đời nầy là đời vật chất có ai còn những “cử chỉ cao thượng”, những “tánh tình chánh trực”. Những đồ ấy là đồ trái mùa không hợp với thời thế nữa, nên người ta đã đem bỏ dẹp hết ngoài xó hè. Cái căn cứ để hành vi của người đời nay chỉ có một tiếng “được”, mà thôi. Toa phải ở theo đời, chớ toa ở theo sách, moa chắc toa không “được” gì hết. - Cám ơn toa vạch giùm con mắt cho moa đặng moa thấy thế thái. Nhưng mà thấy thì thấy, thấy thế tình cũng như đi coi hát thấy hề giễu trên sân khấu, moa thấy đặng cười chơi vậy thôi, chớ moa không thể xen vô đó mà làm như vậy được. - Tánh ý toa kỳ quá, hèn chi bà già toa rầy toa chịu không được toa bỏ toa đi. Bây giờ toa không chịu trở ra Bắc, vậy toa ở đây toa làm việc gì, toa nói cho moa nghe thử coi. - Năm moa được cấp bằng làm giáo sư ngoài Bắc moa muốn bỏ không thèm đi. Moa có ghé trường Tư thục Vân Thế ở Tân Định mà hỏi thử ông Cai Trường coi chịu cho moa dạy hay không. Ông lấy làm vui lòng cho moa dạy. Vậy để sáng mai moa xuống trường moa hỏi lại, nếu bây giờ đối với moa còn cái hảo ý ấy, thì moa sẽ đi dạy học để lấy tiền lương mà nuôi vợ moa. Bà Huyện cười mà nói: - Anh Đốc tính như vậy tôi coi không tiện. Dạy trường tư anh lãnh mỗi tháng có năm bảy chục đồng bạc, mà lại không có danh vọng gì hết. Anh học giỏi mà bác dưới nhà lại giàu lớn, anh đi làm như vậy coi sao được. - Tôi xin phép trả lời theo mỗi ý của chị. Lương nhiều hay là ít không quan hệ gì, như nhiều thì xài nhiều như ít thì xài ít, nhiều ít gì cũng được, miễn đời được sung sướng, trí được thong thả thì thôi. Còn danh vọng... Danh vọng là gì? Có phải được ngồi ở cái địa vị giàu sang, bầy thù phụng theo ngợi khen đó mà gọi là danh vọng hay không? Theo tôi tưởng thì chí mình cao, lòng trong sạch không bợ đỡ trên, không khinh ở dưới, biết xét mình biết coi đời, không cầu ai trọng, vì cái trọng của kẻ ngu không quí gì, không màng ai chê vì cái chê của kẻ dại không mấy hại, làm người được như vậy thì đủ rồi, cần gì thứ danh vọng giả, nó đã không làm cao cho giá trị của mình, mà nó còn làm giảm cái chí hướng của mình nữa. - Anh nói giống gì thì nói, mà bác dưới nhà mỗi năm thâu lúa huê lợi trên hai chục ngàn giạ lúa, bây giờ anh phải xuất thân đi làm mướn thì tức quá. - Chị nói lời ấy tôi kính phục chị lắm. Tôi ái ngại một chút, là ái ngại chỗ đó. Mà nếu xét cho kỹ, thì cũng không nên buồn. Tuy cha mẹ mình giàu, song tài sản là tài sản của cha mẹ, chớ không phải của mình làm ra, bởi vậy dầu mình không được hưởng, mình cũng không nên phiền trách. Ví như cha mẹ mình nghèo thì mình lấy gì mà trông mong. - Mà cha mẹ giàu thì con hưởng nhờ chớ. Nếu tôi gặp cảnh như anh, chắc tôi không làm như anh vậy đâu. - Chớ chị làm sao? . - Nếu bà giận mà đuổi thì tôi đến nhà bà con tôi ở đậu, hay là mướn phố tôi ở riêng, song cũng ở gần đó. Mình ở đó mình kiếm thế làm ăn. Trong làng trong xóm ai cũng biết mình là con nhà giàu, bề nào ngày sau mình cũng có gia tài, bời vậy mlnh cậy họ giúp vốn cho mình làm ăn thì chắc ai cũng sẵn lòng hết thảy. Mình nương náu một ít lâu nguôi ngoai, bà già hết giận, rồi mình trở về nhà. Nếu mình phiền, mình bỏ nhà mà đi thì gia tài của cha mẹ, chị em mình họ hưởng cũng uổng lắm chớ. Như Thạch ngồi ngẫm nghĩ không nói nữa. Cô Nhung thấy vậy cô mới nói với bà Huyện: - Vợ chồng em buồn là buồn về sự má em giận, chớ gia tài vợ chồng em không sá gì. - Sao mà không sá? Có của sẵn, khỏi làm cực khổ, ấy là cái phước riêng của mình. Mình được phước thì mình hưởng, sao mà chê. Gia tài lớn quá, chớ phải ít ỏi gì sao. Ông Huyện đứng dậy vỗ vai Như Thạch mà nói: - Madame nói phải lắm. Toa phiền bà già, toa bỏ nhà mà đi, thì hại cho quyền lợi của toa nhiều. - Moa lo là lo về tình nghĩa, chớ quyền lợi có nghĩa lý gì đâu mà toa nói quyền lợi. - Ở đời phải coi quyền lợi trọng hơn hết mới được. Tình nghĩa hay là giống gì nữa cũng đều đứng sau hết. - Lý thuyết kim tiền. - Phải, sanh nhằm cái đời người ta xem trọng con bò vàng, thì mình phải theo cái lý thuyết kim tiền chớ sao. - Chớ chi toa làm giáo sư thì có ích cho dân chúng nhiều lắm, bởi vì toa lấy cái lý thuyết đó toa dạy, thì chắc học trò của toa ngày sau giàu hết. - Moa làm quan, moa dạy dân cũng được vậy. - Ý! Được đâu. Toa làm quan nếu toa thi hành cái thuyết đó, moa sợ dân nghèo hết chớ. Ai nấy đều cười rộ, ông Huyện cũng cười. Ông Huyện ngồi lại rồi nói tiếp: - Thôi đừng có giễu cợt nữa. Phải tính việc của toa lại cho kỹ coi phải làm thế nào bây giờ. Theo ý moa thì toa nên làm như vầy: toa phải đưa madame về ngoài Bắc mà ở tạm... - - Moa đã nói moa không thể trở ra Bắc được. - Toa đưa madame về Bắc rồi toa trở vô liền. - Không được. Moa không thể rời vợ moa được. - Thôi thì toa kiếm chỗ trong nầy mà để cho madame ở yên, rồi toa trở về Ô Môn mà ở với bà già. - Toa muốn nói cái gì vậy? - Theo ý moa thì thế nào toa cũng phải thuận với bà già mới được, chớ nếu toa nghịch thì hại cho toa lắm. Toa cho madame về Bắc, hoặc toa gởi ở đâu đó rồi toa trở về một mình mà ở với bà già. Toa nói dối rằng toa sợ bà già buồn rầu nên toa đã bỏ madame rồi. Bà già nghe như vậy chắc bà hết giận, rồi trở thương toa lại. Toa là trưởng nam, được bà già thương thì tự nhiên toa có quyền trong nhà, có quyền rồi mới có tiền mà nuôi madame chớ. Toa ở đó, lâu lâu toa kiếm chuyện mà đi chơi, rồi toa tới lui với madame cũng được vậy. Làm thế ấy thì toa trọn đạo với mẹ, mà cũng trọn nghĩa với vợ nữa. - Giả dối! Đạo nghĩa như vậy là đạo nghĩa giả dối, sao toa lại bày cho moa? Ông Huyện rùn vai mà nói: “Làm như vậy thì hay quá, mà toa không chịu thì thôi, chớ moa biết tính thế nào nữa được. Thôi, toa thay đồ nghỉ trưa một chút, rồi thủng thẳng sẽ tính lại. Hai ông bà ở cái phòng phía trước đó. Cái phòng đó rất mát mẻ”. Vợ chồng ông Huyện vô buồng phía sau mà nghỉ. Vợ chồng Như Thạch qua cái phòng phía trước. Tối, ăn cơm rồi vợ chồng ông Huyện mời khách đi Chợ Lớn chơi. Như Thạch nói: “Cám ơn, hai ông bà cho phép vợ chồng tôi ở nhà đặng sắp đồ trong rương lại và viết thơ về nhà”. Xe hơi đi rồi, vợ chồng Như Thạch mới dắt nhau ra trước sân đi qua đi lại mà hứng mát. Đi một hồi Như Thạch mới hỏi vợ. - Em có ăn năn chút nào không? - Ăn năn thế nào? - Ăn năn về sự đôi ta phối hiệp đó. - Ồ! Sao anh hỏi thế? Sao mà ăn năn? Em được gần anh thì bao giờ em cũng sung sướng lắm ạ. - Hồi anh cưới em, thì anh chắc anh sẽ đem hạnh phúc mà dưng cho em hưởng trọn đời, anh sẽ làm cho em vui vẻ sung sướng luôn luôn. Anh không dè hôm nay xảy ra việc bối rối trong gia đình khiến cho vợ chồng ta phải vất vả như vầy, bởi vậy anh sợ em buồn quá. - Không ạ. Em có buồn là buồn vì thấy má giận anh mà thôi, chớ làm vợ anh mà thân em phải khổ cực đến thế nào em cũng không buồn. - Theo công việc em đã thấy đó, thì rõ ràng từ nay cái đời của anh là đời vất vả không gia đình, không thân tộc. Anh muốn biết coi em thấy như vậy em có giựt mình mà hối hận chút nào hay không. - Anh thương yêu em thì đủ cho em sung sướng lắm rồi. Nếu cái đời của vợ chồng ta mà phải bị vất vả nghèo nàn thì cái sung sướng ấy càng thắm nồng nàn, em vui lắm, chớ sao lại hối hận. - Cám ơn em. Mấy lời em nói đó làm cho anh phấn chí mà đương đầu với mọi sự khó khăn của chúng ta trong lúc nầy. Em nghe vợ chồng ông Huyện nói chuyện hồi trưa, thì em đã thấy trí lý của vợ chồng ông không hạp với trí ý của anh chút nào hết. Anh không muốn ở đây lâu vì ở đây lâu sợ cái lẽ rồi sanh mích lòng. Vậy sáng mai anh sẽ đi kiếm chỗ mà dạy học liền. Hễ có chỗ làm thì mình mướn phố dọn ở riêng cho thong thả. - Vâng. Ở yên chỗ rồi, em cũng sẽ kiếm công việc em làm đặng em giúp anh. - Thôi em có thai nghén mệt nhọc, phải lo dưỡng sức, không nên làm việc, một mình anh làm có lẽ cũng đủ tiền nuôi nhau sống được. Em vô nhà mở rương sắp đồ đạc cho tử tế, để anh viết một bức thơ mà cáo lỗi với cậu Năm. - Em sắp nhắc anh chuyện ấy. Anh viết thơ, anh chẳng nên tỏ ý phiền má, bởi vì làm con chẳng nên phiền cha mẹ, dầu cha mẹ không thương cũng vậy. - Anh có phiền đâu. Vợ chồng dắt nhau trở vô nhà, vợ lo mở rương sắp áo quần, còn chồng ngồi lại bàn viết mà viết thơ. Chừng Như Thạch viết thơ rồi thì vợ sắp đồ cũng rồi, chàng kêu vợ lại ngồi một Bên rồi đọc thơ lại cho vợ nghe, đọc thư vầy: Thưa cậu Khi cậu tiếp được thơ nầy thì chắc cậu đã hay biết công việc của cháu rồi, cháu phải bỏ mẹ lìa nhà mà đi, chẳng phải ý cháu muốn như vậy. Ấy là tại má cháu đánh đuổi không cho cháu ở. Cậu đã hiểu vì ngọn lửa ái tình nó đốt lòng cháu, nên cháu tự chuyên mà cưới vợ không chờ mạng lịnh của cha mẹ. Cháu lỡ phạm đến gia pháp, thì cháu đã lạy lục năn nỉ hết lời mà khẩn cầu má cháu tha lỗi cho cháu. Cháu thành tâm chịu lỗi, có trước mặt cậu nghe thấy rõ ràng. Tiếc vì má cháu thưộc về lớp lớn, cố chấp những thành kiến cũ của gia đình xã hội thái quá, không muốn thấu hiểu tâm hồn chủ hướng của lớp nhỏ, nên má cháu đành đoạn tình mẫu tử, đành đuổi vợ chồng cháu ra khỏi nhà. Cậu hiểu cái óc của lớp nhỏ, nên cậu đã không quở trách cháu mà cậu lại còn can gián giùm cho má cháu bớt giận. Thái độ của cậu đối với vợ chồng cháu thiệt là đáng kính đáng phục, nó khắc ghi trong đầu vợ chồng cháu dầu trăm ngàn năm cũng chẳng phai chẳng lợt. Hồi khuya hôm qua, lúc cháu đau lòng rơi lụy mà vác rương bước ra cửa ngõ, sắp lìa khỏi cái nhà của tổ phụ là chỗ ngày xưa cháu mở mắt lần đầu mà thấy đời là chỗ cháu đau đớn ôm cha cháu mà khóc khi cha cháu thở hơi cuối cùng, là chỗ chất chứa những kỷ niệm đầm ấm về đời thơ ngây của cháu, mà cũng là chỗ hiện nay đương ra vô châu mày một mẹ già mà vợ chồng cháu thương yêu kính trọng chẳng có chi bằng, thì vợ cháu có khuyên cháu nên ra nhà cậu mà trình cho cậu hay rồi sẽ di. Lúc ấy trí cháu bối rối, lòng cháu lạnh tanh, cháu chẳng còn biết quấy phải chẳng còn kể thân tộc, nên cháu lắc đầu rồi đi luôn, dường như cháu lật đật tránh xa cái luồng không khí nặng nề của đất Thới An vậy. Nay trí cháu bình tĩnh nên cháu vội vã viết bức thơ nầy mà cáo lỗi với cậu và xin cậu tin chắc rằng bắt đầu từ nay thân cháu bơ vơ vất vả, phận cháu trở ra một đứa vô gia dình, vô thân tộc mà chẳng bao giờ cháu quên được cái đời cháu vẫn còn một bà mẹ banh da xẻ thịt đẻ cháu ra, vẫn còn một người chị thuở nay cháu vẫn hết lòng yêu mến, vẫn còn một ông cậu thấu hiểu tâm hồn cháu nên biết thương cháu. Thưa cậu, từ nay cháu bước chân vào một cảnh đời mới, tuy còn lờ mờ song cõi thế rộng rãi. Cháu chưa biết được cảnh đời ấy vui hay buồn hay hay dở thế nào, nhưng mà cháu vẫn hăng hái mà bước tới, không ngần ngại một chút nào hết. Ví dầu cảnh đời ấy chứa dầy những khe sâu hố hiểm. Ví dầu cháu với người bạn đồng tâm đồng chí của cháu nắm tay nhau đi trong cảnh đời ấy mà phải sụp té từng bước, phải đuối sức dọc dường, thì cháu cũng cam tâm vâng chịu chẳng dám phiền trách ai hết. Cháu bạo gan dám trái thế tục, dám phạm gia pháp, ấy là vì cháu muốn tìm hạnh phúc phi thường cao thượng, khác hơn các hạnh phúc của các bạn đồng thời, nếu rủi hạnh phúc ấy là cái bóng không có hình, hoặc đổi ra hoạn họa, thì tức cười mà thôi, tức cười cái óc lãng mạn của cháu không hạp với ý người, mà cũng không thuận với lòng trời. Hai cháu đồng cúi đầu chào cậu và kinh gởi lại má cháu mỗi đứa hai lạy mà xin má cháu quên cái tội bất hiếu của con và dâu”. LÝ NHƯ THẠCH Bái thơ. Như Thạch đọc thơ lại, rồi hỏi vợ có câu nào không vừa ý vợ chăng. Cô Nhung cười và đáp: “Anh tỏ cho cậu Hội đồng biết tâm hồn của chúng ta một cách rõ rệt như thế, mà nhứt là trong thơ anh chẳng có viết câu nào phiền má, thì em vừa lòng lắm. Anh cứ bỏ vào bì rồi sáng mai em dán tem em gởi cho”. Vợ chồng ông Huyện đi Chợ Lớn về, chủ khách đàm luận chơi một chút rồi từ nhau mà nghỉ. Hồ Biểu Chánh Tại Tôi Chương 4 Buổi sớm mai, lối 8 giờ rưỡi, trời nắng chang chang dọi xuống đường tráng nhựa làm bốc hơi nóng nực khó chịu hết sức. Như Thạch đạp xe máy trên khúc đường từ nhà gare xe điện Bà Chiểu vô nhà việc Bình Hòa xã. Chân đạp nhẹ nhẹ tay mặt nắm xe mà kềm, tay trái cầm một gói ngoài bao giấy trắng. Tuy xe chạy chậm chậm, nhưng vì bị trời nắng nên chàng đổ mồ hôi chảy từ trên mái tóc xuống tới hai bên gò má. Về gần tới nhà việc Bình Hòa chàng nghe phía sau lưng có tiếng kèn xe hơi, nên lật đật ép xe qua phía tay mặt mà tránh. Xe hơi chạy ngang qua, thì chàng nghe có tiếng kêu tên chàng rồi lại thấy xe thắng lại và ngừng phía trước, cách ít chục thước mà đợi chàng. Như Thạch đạp xe tới, thấy vợ chồng ông Huyện Khoan ngồi trên xe hơi, thì ngừng xe nhảy xuống mà chào. Ông Huyện đưa tay ra cửa xe, nắm tay Như Thạch và cười và hỏi: - Mạnh giỏi hả? Toa đi đâu đây? - Moa đi về nhà moa. - Nhà toa ở đâu? - Ở phía sau rạp hát thầy Cai đây. - Á. Mấy tháng nay nghe toa về ở trong Bà Chiểu mà có dè toa ờ chỗ nầy đâu Toa mướn nhà mà ở hay là ở phố? - Ở phố. - Đằng sau rạp hát có phố hay sao? - Có phố vách ván nho nhỏ. - À! Mà bữa nay chúa nhật toa đi đâu đây? - Ra ngoài Dakao mua thuốc về cho mafemme uống. Bà huyện nghe như vậy mới hỏi. - Bà Đốc đau hay sao? - Thưa phải. Hơn một tháng nay nhà tôi đau rề rề hoài, không ra thăm bà được, xin bà tha lỗi. - Bà Đốc đau bịnh gì? - Gần ngày sanh rồi, nên trong mình mệt nhọc ăn ngủ không được. Chiều hôm qua nó đi cho coi mạch thì Đốc-tơ nói trái tim nó yếu lắm, nên phải mệt hoài. - Khổ chưa! Anh phải ráng lo thuốc men chớ gần ngày sanh mà bịnh như vậy không tốt. - Tôi lo lắm chớ. Ông huyện tiếp: - Mà toa coi bộ cũng không được mạnh, lúc nầy toa ốm hơn hồi trước nhiều. - Moa mạnh, chớ có đau gì đâu. - Toa dạy trường Vân Thế mà toa làm việc nhiều hay ít? - Moa xin dạy nửa chừng, mấy lớp đều có sẵn thầy rồi hết. Ông hiệu trưởng vị tình cho moa dạy phụ mỗi tuần lễ có 6 giờ nên có công việc gì nhiều lắm đâu. - Trời ơi! Toa dạy một tuần có 6 giờ, rồi làm sao có đủ lương cho toa xài. - Mỗi tháng chừng bốn năm chục. Có nhiều thì xài nhiều, có ít thì xài ít, không hại gì. Có lẽ chừng khai trường năm tới, ông hiệu trưởng sắp đặt giáo sư lại rồi moa mới dạy nhiều giờ được. - Moa coi đó không phải là cách sanh hoạt rồi. - Không, đó cũng là một cách sanh hoạt chớ. - Theo ý moa, thì toa cũng đứng lập ra một nhà trường của toa, rồi toa làm Cai trường coi mới được. - Tiền! - A! Đó là một vấn đề, toa thấy chưa? - Moa thấy lắm chớ. - Nếu toa thấy thì toa phải công nhận lời moa khuyên toa hồi trước không phải là lời nói bậy. - Phải lời toa khuyên đúng lắm chớ, song đúng với người thường, mà không hạp với óc của moa. Ông Huyện rún vai rồi ngó vợ mà cười. Bà Huyện nói: - Bữa nay vợ chồng tôi mắc đi Gò Vấp có chuyện gấp, để bữa nào rảnh tôi sẽ vô thăm hai ông bà. Anh về nói giùm tôi có lời chúc bà Đốc mạnh nghe. - Cám ơn. Xe hơi chạy đi, Như Thạch leo lên xe máy đạp mà về nhà. Mấy tháng nay Như Thạch dạy học tại trường “Vân Thế” vì lương ít nên phải mướn mà căn phố nhỏ, mỗi tháng có 5 đồng mà ở sau rạp hát thầy Cai gần ngả ba đường vô đồng ông Cộ. Nhờ miền ấy cao ráo lại có cây nhiều, nên chỗ ở sạch sẽ mát mẻ, nhưng mà phố chật hẹp quá, lại bữa nào đi dạy, phải đạp xe máy ra tới Tân Định, đường đi xa nên ở trong nhà thì tù túng, còn đi làm việc thì mệt nhọc. Như Thạch về tới cửa, thì nhảy xuống xe gọn gàng, rồi dắt xe đem vô nhà mà dựng dựa vách. Cô Nhung đương nằm tại bộ ván dầu nhỏ lót phía sau cái bàn viết, cô thấy chồng về thì cô lồm cồm ngồi dậy, ngó chồng với cặp mắt trõm lơ, song cũng cười mà nói: anh đi nắng mệt nên đổ mồ hôi quá Thằng bé đi chợ chưa về, vậy anh cởi áo đi để em múc nước đặng anh rửa mặt cho mát”. Như Thạch xua tay mà đáp: “Em khỏi nhọc lòng. Em cứ nằm nghỉ, để rồi anh đi ra sau anh rửa. Chàng để nón trắng trên bàn viết rồi cầm gói thuốc đưa cho vợ mà nói tiếp: - Bữa nay em khoẻ hơn hôm qua hay là cũng vậy. - Em khoẻ ạ. - Anh coi sắc mặt em cũng mệt quá, chớ có khoẻ dâu. Em mở thuốc mà uống liền đi. Cô Nhung mở gói thuốc, còn Như Thạch đi vô buồng cởi áo rồi đi thẳng ra sau bếp mà rửa mặt. Chừng chàng trở ra, cô Nhung hỏi: - Anh mua hết bao nhiêu tiền? - Ve thuốc tới 3 đồng rưỡi, còn cái hộp đó có một đồng tám. - Tốn hao nhiều quá! Hôm qua Đốc-tơ coi mạch hết 3 đồng, bữa nay mua thuốc hết 5 đồng mấy nữa. - Đau thì phải tốn tiền thuốc chớ sao em. Em đừng có lo như vậy, phải để trí bình tĩnh cho khoẻ, chớ em lo thì em mệt, rồi bịnh càng thêm nữa. - Nhà mình không tiền, em không lo sao được. - Em để mặc anh lo, em cứ nằm nghỉ cho khỏe đừng lo gì hết, Đốc-tơ đã nói em đau trái tim. Vậy em không nên lo. - Em trông đẻ cho mau đặng em mướn vú nuôi em nhỏ rồi em đi kiếm công việc làm mà giúp với anh. - Đẻ rồi em phải ở nhà nuôi con, chớ đi làm giống gì. Như Thạch rót một ly nước trà bưng lại đưa cho vợ và nói: “Em mở cái hộp lấy một viên thuốc mà uống trước đi. Chừng gần ăn cơm rồi em sẽ uống ve thuốc kia”. Cô Nhung vâng lời chồng, lấy một viên thuốc mà uống. Như Thạch biểu vợ nằm xuống mà nghỉ, rồi chàng ngồi một bên và nói rằng: - Anh mới gặp hai vợ chồng anh huyện Khoan hồi nãy đây. - Anh gặp ở đâu? - Gặp trước nhà việc Bình Hòa. - Thế không đi kiếm thăm mình ạ? - Không. Đi đâu trong Gò Vấp. Gặp hỏi lơ là rồi đi luôn. - May a! Nếu ghé thăm mình càng khổ. - Khổ cái gì? - Nhà mình lôi thôi, nếu Vợ chồng quan Huyện ghé thì em hổ quá. - Sao mà hổ? Em còn theo thường tình quá! Mình nghèo thì tự nhiên nhà mình lôi thôi. Mà mình không nhơ bẩn, lương tâm mình vẫn thư thái, thì mình dám ngó ngay mọi người, không sợ ai hết, có hổ chi đâu hở em. Họ ở nhà tốt mà chắc gì cái óc họ hơn mình được. - Vâng. - Nếu anh chịu làm như họ, thì anh cao sang hơn họ nhiều lắm. Tại anh không thèm làm chớ. Như Thạch ngó ra lộ thì thấy anh Tự Cường là một vị giáo sư dạy chung một trường với mình, dạy về khoa sử-ký với địa-dư, đương đi thẩn thơ, tay có ôm hai cuốn sách, đi mà cứ dòm vô dãy phố, chàng bèn bước ra cửa mà kêu hỏi: “Chào anh, anh đi vô trong nầy có việc chi?” Tự Cường niên kỷ có lẽ hơn Như Thạch cũng vài tuổi mà thôi, chớ không lớn hơn nhiều, nhưng mà vóc cao, người mập, trán rộng, da đen cặp mắt có vẻ nghiêm nghị và kiêu ngạo, y phục lôi thôi nên không có mòi chưng diện. Chàng vừa thấy Như Thạch thì nhích miệng cười, giở nón chào rồi thủng thẳng và đi vô cửa nói: - May có anh ở nhà đây. Tôi đi kiếm anh mà thăm anh và đàm luận chơi. - À, nếu vậy thì mời anh vô nhà. Tôi rất cám ơn anh có tình chiếu cố. Sao anh biết nhà tôi ở đây? - Bữa hổm nói chuyện anh có chỉ chừng, nên tôi mới biết mà vô đây chớ. Tự Cường bước vô nhà. Cô Nhung ráng đứng dậy chấp tay cúi đầu chào. Như Thạch chỉ vợ mà nói với bạn: “Vợ của tôi”. Tự Cường cúi đầu đáp lễ và nói: “Tôi lấy làm vinh hạnh mà được biết bà và cúi xin bà tín nhiệm cái ý thành kính của tôi”. Như Thạch day lại nói với vợ: “Đây là anh Tự Cường, bạn đồng nghiệp của tôi đi Pháp học lấy được bằng cử nhân về khoa văn chương hiện đang dạy một trường với tôi”. Cô Nhung cúi đầu thi lễ và nói: “Chồng em được làm bạn với ông thì em vinh hạnh lắm. Em kính chúc cho ông mỗi ngày một thêm cao sang thêm hạnh phúc. Em xin mời ông ngồi. Vợ chồng em không có nhà tử tế mà tiếp rước ông, thật em ái ngại quá. Thiệt trong nhà chẳng có vật chi xứng đáng, phía trước ngay cửa thì có một cái bàn viết bằng cây dầu với một cặp ghế bằng mây, dựa vách buồng thì lót một bộ ván dầu nhỏ giá chừng năm đồng bạc, còn trong buồng thì chỉ có một cái giường cây để ngủ. Như Thạch kéo một ghế để trước bàn viết mời Tự Cường ngồi, chàng cũng ngồi cái ghế để phía trong, rồi cười và nói: - Thật là nhà cửa lôi thôi lắm, xin anh chớ chấp. - Tại sao mà tôi chấp? Trước khi vô đây tôi vẫn biết anh không phải là ở nhà lầu, bởi vì nếu anh ở nhà lầu, thì bao giờ anh thèm đi dạy học lãnh lương mỗi tháng có ít chục đồng bạc. Anh có được căn phố mà ở mát mẻ như vầy thì anh sung sướng hơn tôi nhiều quá, tôi không có nhà cửa, phố xá chi hết mới nói làm sao. - Vậy chớ anh ở đâu. - Tôi mướn một căn phòng khách sạn tôi ở, mỗi ngày tôi đi ăn cơm quán. Cô Nhung nghe như vậy thì hỏi: - Thế thì ông chưa có vợ à? - Thưa chưa, mà chắc chẳng bao giờ có. - Em không hiểu sao ông lại nói thế. Thủy chung gì rồi ông cũng phải có gia thất với người ta chớ. - Thưa không, tôi sẽ độc thân cô lập trọn đời. - Thế à! Chắc là ông chê phụ nữ đời nay chẳng có ai đáng làm bạn trăm năm với ông. - Thưa không phải vậy. Phụ nữ đời nào cũng vậy, có kẻ xấu mà cũng có người tốt, tôi đâu dám chê. Tôi tự quyết không lấy vợ là vì tôi thấy nhân tình giả dối, dua nịnh, tham lam thái quá, những việc đáng khinh bỉ thiên hạ lại tranh đua mà làm, những việc đáng tôn trọng thiên hạ lại ngó lơ bỏ dẹp. Nếu tôi lập gia thất thì tôi phải đem thân mà lăn lộn trong cái vòng nhơn tình tanh hôi ấy. Tôi phải buộc mình làm những việc tôi không muốn làm, tôi phải ép trí mà vui với những việc tôi chê tôi ghét, thành ra đời của tôi là đời lại cái(#1), người của tôi là người hai lòng, không có chủ hướng, không có nhân phẩm gì hết, vì vậy đó nên tôi nhứt định không lập gia thất, để một mình đặng hưởng tự do hoàn toàn, muốn thì làm, trái thì cãi, không sợ ai, không vị ai, không dính dấp một chút chi với xã hội hết! - Té ra ông là người chán đời. - Không phải tôi chán đời. Tôi muốn giải thoát cái thói thấp hèn của đời chớ. - Vưng em hiểu rồi, ý muốn thoát tục. Em mong cho ông đạt được cái mục đích cao thượng ấy. - Tôi rất cám ơn bà. Thằng Sung là đứa tớ, đi chợ về, tay xách một cái giỏ vô cửa, rồi đi thẳng xuống nhà bếp. Cô Nhung đi theo coi bộ mệt nhọc ột ệt lắm. Tự Cường ngó theo cô và nói: - Tôi coi bộ madame mệt nhọc lắm. Anh phải lo thuốc men, chớ có thai nghén mà mệt nhọc như vậy chắc là không tốt. - Hơn một tháng nay nhà tôi ăn ngủ không được cứ mệt hoài. - Sao anh không rước Đốc-tơ coi mạch cho madame rồi mua thuốc cho madame uống? - Chiều hôm qua tôi có đem đi Đốc-tơ. Ổng coi mạch rồi nói nhà tôi đau trái tim. - Cha chả! Nếu vậy thì anh phải đem vô nhà thương nằm nghỉ, hoặc đem ra mé biển cho hứng gió mới được: - Tôi cũng muốn như vậy, ngặt vì nhà tôi nó không chịu, nó nói đi nhà thương hay đi hứng gió đều tốn hao lung quá. - Phải tốn chớ sao. - Anh cũng biết tôi dạy mỗi tuần có sáu giờ nên số lương ít quá. Tốn hao nhiều tôi chịu sao nổi. Tự Cường gật đầu ngồi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi nói rằng. - Phải, anh lương ít quá xài lớn sao đặng... Tôi chắc lúc nầy anh phải chịu khổ tâm lắm. - Phải tôi khổ tâm lắm, khổ đủ mọi phương diện. Tự Cường châu mày, ngó ra ngoài sân rồi thở dài nói rằng: “Tại muốn lập gia thất nên mới có những cái khổ ấy. Nếu độc thân cô lập thì có khổ như vậy đâu”. Như Thạch trợn mắt đáp rằng: - Không, tuy khổ, song tôi có ăn năn chút nào đâu. Về gia thất thì chí của tôi vẫn còn hăng hái luôn luôn, mà vợ tôi cũng không buồn, không ngã lòng. Vợ chồng tôi mà thương yêu nhau hoài, thì khổ gì cũng không sợ. - Tôi khen anh lắm, khen cái đức tính của anh về sự bền dai của gia thất. - Anh chưa có vợ, nhứt là anh chưa có một người đồng tâm đồng chí, nên anh chưa được nếm mùi ngọt bùi trong gia thất. Có khổ cái mùi ấy càng thêm thơm tho, bởi vậy khổ mà tôi vui, chớ tôi không nao núng chi hết. - Anh nói hữu lý! Nhưng theo tôi nghĩ vì tôi không muốn chịu khổ, mà cũng không muốn nếm ngọt bùi, tôi chỉ muốn trí thơ thới, thân tự do cho khỏi sa vào nhơn tình thế tục. - Anh tu hay sao? - Tu làm chi? Tôi có tu đâu, tôi lập chí chớ. - Nếu anh lập chí, tôi e một ngày kia anh gặp một người đàn bà đồng chí với anh rồi anh cũng phải bước chân vào vòng gia thất như tôi vậy. - Có lẽ, nhưng mà đàn bà có chí lập gia thất thì nhiều, còn đàn bà có chí tuyệt gia thất thì ít. Tôi tưởng trọn đời tôi cũng chưa gặp ai đồng chí với tôi. - Biết chừng đâu. Nếu anh có chí đó, thì người khác cũng có vậy chớ. Đàn bà đời nay họ có học thức, họ không triết lý cũng như mình, chứ không phải lù mù như hồi xưa vậy đâu. - Để rồi coi. Chưa thí nghiệm thì chẳng nên nói quả quyết. Lấy việc của anh mà suy thì đủ thấy gặp người đồng chí không phải dễ. Anh phải ra Bắc mới gặp được. - Anh nói lầm. Đồng tâm đồng chí không phải dễ kiếm, bởi vậy gặp rồi làm sao mà bỏ được. Tiếc cho cái đời nầy còn có nhiều người không thấu hiểu việc ấy. - Người ta không đồng chí với anh thì thế nào người ta hiểu được. Như Thạch gật đầu, ngồi suy nghĩ. Tự Cường đứng dậy thọc tay vào túi quần, đi tới đi lui, đi một hồi rồi cười và nói: “Quen với nhau đã mấy tháng rồi, vô trường thường hay bàn luận với nhau. Tôi biết ý anh cũng như ý tôi, ghét nhơn tình, khinh thế tục. Nhưng mà tôi không dè chúng ta có chỗ nghịch nhau, là anh ưa gia thất còn tôi ghét gia thất. Trong khi hai đứa mình, ai phải, ai quấy? Ai cũng giành phải hết, không ai chịu quấy. Thôi, chúng ta phải cung kính cái đức tin, chẳng nên cãi với nhau làm chi. Phải hay là quấy để sau có đủ kinh nghiệm rồi chúng ta sẽ thấy. Bây giờ chúng ta nói chuyện hiện tại nghe chơi. Nghe nói hồi trước anh làm giáo sư, dạy trường nhà nước ngoài Bắc Việt anh được một cái địa vị an ổn quá, tại sao anh bỏ đi, rồi về trong nầy dạy trường tư, lương bổng ít mà phải chịu khổ cực như vậy?” Như Thạch thở dài đáp: - Việc nhà của tôi kỳ cục lắm. nói ra nghe thêm buồn. - Thấy chưa? Tại ban đầu anh đi sái đường nên mới có sự kỳ cục làm anh buồn đó. - Mỗi người có một ý riêng nên đi riêng một đường, chớ nào phải đi sái. Phận anh thì anh khinh bỉ nhơn tình thế tục, anh quyết thoát ra ngoài vòng mà đứng một mình, anh không muốn chung lộn với người đời. Còn phận tôi thì tôi cũng khinh bỉ nhơn tình thế tục như anh, song tôi lại muốn đem thân chung chạ với người đời, chung chạ mà tôi không làm những việc thấp hèn như họ. Trái lại, tôi công kích những việc thấp hèn ấy, tôi nêu một thái độ thanh cao, tôi giữ một cử chỉ chánh trực, làm cho người đời mở mắt mà thấy những thành kiến quấy của gia đình, những phong tục xấu của xã hội, rồi sửa đổi cho đời trở nên vui vẻ cao thượng. - Khó lắm! Cái mục đích của anh tôi coi khó đạt được. - Phải làm thử coi, chớ thấy khó rồi do dự không làm, làm sao mà thành được. - Đời thấp hèn dơ dáy, mình lánh thì hay hơn, mình giữ phận mình cho cao, ai thấp mặc kệ họ, hơi đâu mà lo. - Nói như anh thì vị kỷ quá. - Nếu mỗi người đều làm như tôi hết, đời cũng trở nên vui vẻ cao thượng chớ. - Làm như anh đã không thấy chỗ nào vui, thử hỏi đời vui làm sao được. - Tại anh không thấy cái vui của tôi. Tôi vui lắm chớ, tôi vui về tinh thần nên người ngoài khó thấy, chớ không phải vui về vật chất như anh mà dễ thấy. Như Thạch ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi mới đáp: - Anh nói phải, tôi vui về vật chất, tại vui như vậy nên mới có chỗ buồn. - À bây giờ anh mới thấy rõ cái chủ nghĩa của anh là một món khí giới hai lưỡi. Nó làm anh vui, mà nó cũng làm anh buồn được. - Phải. Mà bây giờ tôi không thể bỏ chủ nghĩa hiểm nghèo ấy được. Đã nếm lỡ nước đời rồi thì phải uống cạn ly, chớ không phép thối thoát. - Thối thoát sao được chớ. Cô Nhung bưng ra hai tách nước trà mời khách với chồng uống, làm cho câu chuyện đàm luận của hai người phải dứt. Tự Cường uống nước rồi nói nữa: - Tôi coi bề của anh khó quá. Phải liệu thế nào, chớ để như vầy không được. - Tôi nói thiệt với anh, bà già tôi giàu lớn, nhưng vì tôi trái phong tục. Tôi kết hôn tự do, nên bà già tôi giận mà từ tôi. Cái khổ của tôi tự tôi làm ra, chớ nếu tôi quật lụy phong tục thì thân tôi sung sướng lắm. - A vậy hả? Té ra anh bị hại vì cái phong tục. - Phải. Tự Cường không nói chuyện nữa, bước ra cửa đứng ngó mông một hồi rồi từ giã vợ chồng Như Thạch và ôm hai cuốn sách đi về. Chiều bữa sau Như Thạch đi dạy học về, thấy vợ cũng còn mệt như mấy bữa trước, nhưng mà hỏi thì cô Nhung lại nói khỏe. Chàng thay đồ ra ngồi một bên với vợ mà nói: - Có một việc kỳ quá, làm cho anh bối rối hết sức. - Có việc gì xin anh nói cho em biết? - Hồi chiều nay anh đang dạy học, anh có tiếp được cái thơ của nhà thơ phát, có dán cò hẳn hòi. Anh xé bao thì không có thơ mà lại có cái măn-đa năm chục đồng bạc. Anh coi con dấu đóng ngoài bao thì gởi tại nhà dây thép chính Sài Gòn. Măn-đa cũng mua tại Sài Gòn để tên họ anh rõ ràng song không có biên tên người gởi. Anh không hiểu ai làm việc cắc cớ như vậy. Gởi bạc cho anh làm gì? - Em tưởng có lẽ má hay cậu Hội đồng gởi cho anh đó chăng. - Không phải, má với cậu Hội đồng có biết anh ở Sài Gòn đâu mà gởi. Anh nghi anh Tự Cường lắm. Hôm qua ảnh có vô thăm mình. Ảnh thấy em bịnh, mà ảnh lại nghe anh than túng. Ảnh ăn lương tới một trăm rưỡi, mà ảnh không có vợ con. Ảnh xài tiền không hết. Ảnh muốn giúp đỡ mình, song ảnh sợ đưa tiền ra thì mình ái ngại không chịu lấy, nên ảnh làm như vậy chớ gì. - Thế thì anh đi kiếm hỏi ảnh coi phải bạc của ảnh gởi hay không? - Hồi nãy tan học, anh có gặp ảnh tại trường. Anh thuật chuyện anh được cái măn-đa kỳ cục cho ảnh coi nữa. Coi bộ ảnh không lấy chuyện ấy làm lạ mà ảnh lại nói: “Bây giờ có biết ai gởi đâu mà trả, thôi cứ lãnh bạc mà xài, chừng nào biết được người gởi sẽ hay”. - Nếu thiệt anh Tự Cường muốn giúp mình, mà dùng cách kín đáo như vậy thì ảnh cao thượng quá. - Thiệt lúc nầy em đau, nếu có tiền cho em nằm nhà thương dưỡng bịnh thì tốt lắm. Ngặt vì người ta giúp mình cao thượng như vậy, nếu mình nhận lãnh thì mình thấp hèn. - Vâng, lãnh thì mình hèn lắm. Mà bây giờ mình biết ai gởi mà trả . - Hồi nãy đi về dọc đường anh có nghĩ: “Ở Sài Gòn mấy người anh quen nhiều là ông huyện Khoan còn người biết cái khổ của anh trong lúc nầy là anh Tự Cường, ấy vậy hai người đó gởi bạc cho anh, chớ không lẽ người nào khác. Vậy anh kiếm hai người đó mà hỏi gắt, nếu họ từ chối thì anh sẽ đến nhà dây thép xin coi tên người mua măn-đa, tự nhiên phải lòi ra ai gởi. - Anh tính như thế đúng lắm. Sáng bữa sau Như Thạch không có dạy học nhưng chừng tan học, thì chàng đạp xe máy đi ra đường đón Tự Cường. Gặp nhau chào hỏi rồi hai người thủng thẳng đi bộ nói chuyện. Như Thạch hỏi: - Anh phải nói thiệt cho tôi biết coi cái măn-đa tôi đưa cho anh hồi chiều hôm qua đó phải của anh gởi hay không? - Không, tôi gởi làm chi? Tại sao anh hỏi kỳ cục vậy? - Gia đạo của tôi duy có một mình anh biết mà thôi, tôi chắc anh muốn giúp tôi nên anh làm như vậy, chớ không phải ai khác. Nếu anh chối thì tôi sẽ xuống nhà dây thép tôi xin coi tên người mua măn-đa rồi tôi trả lại. Tự Cường nghe Như Thạch nói hơi quả quyết quá thì cười ngất mà đáp: - Anh lanh quá! Anh làm như vậy thì tôi phải chịu phép chớ chối sao được. Tôi xin anh tha cái lỗi giả dối cho tôi tuy hai đứa mình bất đồng chủ nghĩa nhưng hôm qua tôi thấy chị bịnh n0hiều, còn anh túng rối, tôi chịu không được. Tôi muốn trao tiền cho anh đặng anh đem chị đi nhà thương nằm dưỡng bịnh mà tôi sợ anh ái ngại không chịu lấy, nên tôi làm như vậy đó, chớ không phải tôi giả dối đặng khinh bỉ anh đâu. - Anh biết thương tôi như vậy, tôi cảm ơn anh lắm. Thiệt lúc nầy vợ tôi đau mà tôi không có tiền. Nếu anh giúp tôi ân nghĩa lớn lắm. Ngặt vì tôi thọ của anh, rồi biết chừng nào mới trả lại cho anh được. - Ối! Hơi nào mà lo việc đó. Anh còn lo như vậy tức nhiên anh chưa thoát thường tình. Tôi dư, anh thiếu tôi sớt bớt cho anh. Anh cứ lãnh măn-đa đó đi rồi đem đóng tiền nhà thương cho chị nằm, đừng ngại chi hết. Anh ăn lương ít, nếu anh cần dùng, thì mỗi tháng tôi sớt bớt cho anh năm bảy chục đồng bạc được. - Anh thiệt t0ình đãi tôi, nếu tôi theo thường tình ái ngại hoài té ra tôi xưa quá. Vậy tôi chịu lấy và tôi thay mặt cho vợ tôi mà cám ơn anh, nếu nó hết bịnh ấy là nhờ anh. - Thôi, thôi, đừng có bắt chước thế tình mà nói những tiếng “Cám ơn” những tiếng “Nhờ cậy” nghe kỳ cục quá. Bọn mình phải nói, phải làm khác hẳn thiên hạ chớ, những câu đặt sẵn từ đời thượng cổ để nói mà chơi chớ không có ý nghĩa gì đọc lại làm chi. Anh đi lãnh măn-đa rồi đem chị vô nhà thương liền đi. Tự Cường bắt tay từ giã Như Thạch rồi đi tuốt. Như Thạch đi lãnh măn-đa rồi về thuật lại cho vợ nghe. Cô Nhung cười và nói: “Anh Tự Cường cao quá, mà anh làm ra cho rõ rệt thì anh cũng khỏi thấp”. Chiều bữa đó Như Thạch đem vợ vô nhà thương Bà Chiểu nằm... Chú thích: (1-) đồng tính luyến ái Hồ Biểu Chánh Tại Tôi Chương 5 Lối 12 giờ khuya. Như Thạch đứng tại hàng ba nhà bảo sanh Bà Chiểu, tay vịn lan can mắt ngó cửa phòng ngay trước mặt. Vì cửa phòng khép khít nên chàng không thấy được, trong phòng chỉ nghe tiếng cô Nhung rên mà thôi, chàng đứng trân trân không cựa quậy, mặt tái xanh, ngực hồi hộp. Cách một lát, cửa phòng mở hé rồi một cô mụ lách mình bước ra. Như Thạch chận hỏi: “Sanh rồi hay chưa vậy cô?” Cô mụ lắc đầu mà đáp: - “Cô yếu quá nên không dám cho rặn. Để cho cô nghỉ một chút rồi tôi sẽ cho rặn thử coi, nếu không được thì phải kêu ông thầy, chớ biết làm sao”. Cô mụ đi rột rẹt rồi xách một bầu nước trở vô phòng, khép cửa lại. Như Thạch trong lòng lạnh ngắt, day mặt ngó ra sân thấy cây cỏ lờ mờ, còn ngoài đường thì hàng đèn khí nối nhau mà chiếu, song không có dạng người qua lại. Chàng vì lo, vì sợ, vì buồn, bởi vậy trong trí bối rối ngó cây cỏ, ngó đèn mà không để ý đến cảnh vật chút nào hết. Thình lình nghe trong phòng có tiếng rặn một hơi rất dài. Như Thạch càng thêm bối rối, nên nín hơi lóng tai nghe. Rặn rồi thở hổn hển, thở rồi rặn nữa, rồi lại nghe tiếng con nít oa oa. Như Thạch nửa mừng nửa sợ ngổn ngang mừng con đã sanh, mà lo sợ vợ đuối sức. Chàng nóng nảy, trông cho họ mở cửa phòng đặng vô mà hỏi thăm, nhưng trông hoài không thấy mở. Cách một hồi rất lâu, một cô mụ già mở bét cánh cửa ra vừa thấy Như Thạch thì nói: “Sanh rồi, con gái. Con nhỏ mạnh lắm tới ba ký lô rưỡi. Còn cô thì mệt quá, để tôi đi kêu thầy điều dưỡng tiêm cho cô một mũi thuốc khỏe cho cô nghỉ. Ông vào mà thăm cô, bây giờ ông vô được”. Cô mụ nói rồi quày quả đi liền. Như Thạch bước vô phòng, thấy vợ nằm trong giường, mắt nhắm khít, ngực hoi hóp, mặt mét xanh, coi bộ mệt lắm. Chàng nắm tay vợ mà nước mắt rưng chảy. Cô Nhung day mắt ngó chồng, lắc đầu rồi nhắm mắt lại, Như Thạch thấy cô mụ bồng con nhỏ bước lại gần thì chàng đứng nhìn con. Cô mụ nói: “Con nhỏ này chừng lớn nó ngộ lắm”. Cô mụ già trở vô phòng lại dắt theo một ông thầy điều dưỡng còn ngây ngủ, nên mặt sật sừ. Thầy điều dưỡng tiêm cho cô Nhung một mũi thuốc, rồi bỏ đi ra, không nói mội tiếng chi hết. Hai cô mụ lo sắp đặt cái nôi đặng để em nhỏ nằm. Cô Nhung thở dài rồi mở mắt ngó chồng, miệng chúm chím cười. Cô mụ già bước lại rờ trán cô và hỏi: “Khỏe rồi hả?”. Cô Nhung gật đầu đáp nhỏ: “Em khỏe. Em cám ơn hai cô”. Hai cô mụ bước ra ngoài rồi khép cửa phòng lại. Như Thạch nhắc một cái ghế đem để bên cạnh giường ngồi và nói chuyện với vợ: - Em mệt nhọc quá! Vậy em ngủ một chút cho khỏe. Để anh ngồi đây anh coi chừng con cho. - Bây giờ em khỏe rồi. - Hồi nãy anh sợ quá. - Thật anh ạ! Hồi nãy em mệt lắm, em tưởng đã không xong rồi. - Em muốn uống nước hay không? - Xin anh làm ơn rót cho em một chén. Như Thạch rót nửa ly nước trà bưng lại cho vợ uống, rồi vén tóc, bao mền cho vợ, bộ lo lắng lắm. Bây giờ cô Nhung thiệt khỏe nên cô nói: - Em chưa trông thấy mặt con. Nghe nói con gái phải không? - Con gái. Em muốn anh bồng con cho em coi hay không? - Em muốn lắm, song sợ anh không quen bồng rồi anh đánh rơi con. - Anh bồng được. Để anh bồng con lại cho em coi. Mặt dễ thương quá. Như Thạch bước lại giở cái nôi mà bồng con nhỏ đem để nằm một bên mình vợ. Cô Nhung day qua nhìn con, Như Thạch cũng đứng một bên mà ngó. Con nhỏ mở mắt rồi nhắm mắt lại một lát nó quơ hai tay, làm cho cha mẹ nó vui vẻ vô cùng. Như Thạch nói: - Gương mặt con giống hệt mặt em. - Đây là dấu tích của vợ chồng ta, có con tình vợ chồng ta càng thêm khắng khít. - Để ngày mai anh sẽ đi khai sanh cho con. Em muốn đặt tên gì? - Em không dám. Việc ấy tự ý anh định. - Anh muốn đặt con là Thanh Nguyên, vừa ý em hay không? - Tên ấy tốt lắm ạ. - Thanh Nguyên nghĩa là nguồn nước trong. Anh không muốn cho con mình nhiễm trần tục chút nào hết, nên anh mới đặt tên ấy. - Vâng, em bằng lòng lắm. - Thôi, để anh đem con trở lại nôi, đặng em thong thả mà ngủ một chút. - Anh để con nằm đây với em được. Em để con nằm một mình trong nôi sợ con lạnh. - Em muốn như vậy cũng được, song để cho anh bỏ mùng xuống kẻo muỗi cắn con. Như Thạch bọc mùng kín đáo rồi ngồi ngoài coi chừng cho vợ ngủ. Cô Nhung sợ chồng mệt nên khuyên chồng về mà nghỉ. Nhưng chàng không nỡ về cứ ngồi đó cho tới sáng, có mấy cô mụ vô phòng rồi, chàng mới chịu từ giã vợ về thay đồ đặng lập tức đi khai sanh cho con. Mỗi bữa Như Thạch đều có mặt tại nhà bảo sanh mà săn sóc vợ con luôn, trừ ra tới bữa cơm và tới giờ đi dạy học thì chàng mới chịu về. Cô Nhung nằm tại nhà bảo sanh mười bữa, tuy vậy trái tim của cô vẫn không dứt nên cô hay yếu và mệt, song cô xin chồng đem cô về nhà đặng cô nằm cho thong thả. Về nhà vợ chồng vui vẻ hết sức, cứ thay phiên nhau mà bồng con, nhứt là cô Nhung thương con quá, nhiều khi chồng đi dạy học, cô ở nhà bồng con ngồi nhìn trót giờ mà không biết mỏi, nhìn rồi cô lại cảm xúc nên ứa nước mắt. Tại cô thấy con là kết quả rõ ràng về cái ái tình của cô mà cô cảm, hay là tại cô thấy con rồi cô lo sợ về cái đời tương lai của con nên cô cảm. Nếu lúc ấy ai cắc cớ hỏi cô như vậy thì cô không biết sao để trả lời, cô chỉ biết rằng hễ cô ở nhà một mình với con, hoặc ban đêm cô thức dậy cho con bú, cô nhìn một hồi thì cô hồi hộp trong lòng, lo sợ buồn thương lẫn lộn. Vì trong mình đã có bịnh sẵn lại thêm sanh sản, mà cũng vì tiền bạc khiếm khuyết nên thuốc men luốt lát, bởi vậy thân thể cô Nhung ngày một thêm ốm, mặt mày của cô ngày một coi thêm mệt. Tuy cô biết trong mình có bịnh nhiều, sợ không thể sống lâu được nhưng mà cô không dám nói cho chồng biết, trước mặt chồng cô cứ làm ra vui cười luôn luôn. Tuy vậy Như Thạch vì thương vợ nên không cần vợ nói chàng cũng đã hiểu biết, bởi vậy trong bụng chàng lo sợ lung lắm. Một đêm cô Nhung để con Thanh Nguyên nằm ngoài ván rồi cô ngồi một bên coi chừng muỗi cho con ngủ. Như Thạch bưng đèn lại gần và chàng ngồi phía bên này ngó con với vợ. Vợ chồng nhìn con rồi nhìn nhau, bỗng sanh trong lòng mối cảm tình nồng nàn thiệt là khó chịu, song nói ra không được. Cách một hồi lâu Như Thạch day mặt vô vách mà nói: - Thanh Nguyên còn nhỏ quá mà em bịnh một ngày một thêm nhiều, anh nghĩ tới đường tương lai anh buồn hết sức. - Anh sợ em chết à? Em không chết đâu, xin anh đừng lo. Em thương chồng thương con, có lẽ nào em đành chết mà bỏ hai cục thương của em đó cho được. - Sống thác đều tại số mạng, có phải em muốn mà được đâu em. - Số mạng là gì? Ấy là hai chữ để kẻ yếu trí đặt ra đặng khỏa lấp che đậy thói nhu nhược của họ. Anh phải cương quyết, phải dạn dĩ đặng chống cự với cuộc đời, chẳng nên thấy khổ mà ngã lòng thối chí. - Không, anh có ngã lòng thối chí đâu, dầu đến chừng nào anh cũng còn can đảm đối phó với nhân tình thế cuộc luôn luôn. Tiếc vì bịnh hoạn mình biết làm sao chiến thắng nó cho được, vì vậy nên anh mới lo sợ chớ. - Ví dầu em phải chết đi nữa, xin anh cũng cứ vững lòng mạnh dạn bước tới, đừng buồn rầu đừng nhút nhát. - Không nhút nhát thì được, chớ không buồn rầu sao được! Hai đứa mình đồng tâm quyết chí nắm tay nhau đồng bước trong một đường mới, ví như một đứa ngã, đứa kia bơ vơ không nhớ thương buồn rầu sao được. - Như em có chết, thì còn con Thanh Nguyên đó nó là dấu tích của em, có lẽ nó cũng đủ làm cho anh vui với sự sống tự do, cứng cỏi, ngay thẳng, trong sạch được vậy chớ. Mà em phải sống đặng giúp anh nuôi con rồi dạy cho nó kế chí của vợ chồng mình, em không chết đâu. - Anh van vái cho được như lời em nói đó. Như Thạch ngó vợ ngó con rồi chảy nước mắt. Tuy cô Nhung nói cứng cỏi như vậy, mà sự muốn không thắng nổi chứng bịnh. Bởi vậy con đẻ vừa đầy mấy tháng thì bịnh cô trở nặng, mỗi ngày mệt đến mấy lần, và mỗi lần mệt thì tưởng cô phải tắt hơi. Một đêm, biết trong mình cô đã hấp hối, cô bèn kêu chồng bồng con đem lại cho cô hun. Cô nằm một tay ôm con, một tay níu chồng, cô hun con hai ba cái, rồi cô hướng mặt nhìn con và chồng trân trân, giọt lệ tuôn ra chảy ướt hai gò má cô. Cô mệt lắm, song ráng nói nho nhỏ: “Em xin anh tha lỗi cho em... Em đã hứa đi với anh cho cùng đường, mà nay em phải bỏ anh giữa chừng, ấy tại bịnh hoạn nó giết em, chớ không phải em sợ khổ cực hay là thấy sự nguy hiểm mà trốn lánh... Em chết thiệt em tức lắm, tức vì không được tiếp với anh mà phá hủy những chế độ hẹp hòi của gia đình xã hội, tức vì không được dạy cho con biết kế chí của vợ chồng ta...” Cô Nhung nói đến đó, thì mệt quá, nói không được nữa. Như Thạch đau đớn chịu không được, chàng cúi mặt xuống hun vợ, bốn giọt nước mắt hòa lộn với nhau. Đến khuya cô Nhung tắt hơi. Sáng bữa sau Tự Cường hay tin vội vã vô thăm. Chàng chắc Như Thạch túng tiền, nên đưa một trăm đồng bạc cho Như Thạch lo liệu tống táng cho cô Nhung. Chôn vợ rồi Như Thạch kiếm vú mướn nuôi Thanh Nguyên. May lúc ấy chị Thì ở gần, mới sanh con được ba tháng kế con chết, nên chị mới còn sữa, Như Thạch cậy chị đem Thanh Nguyên về nuôi giùm mỗi tháng trả tiền cho chị 6 đồng bạc. Vợ chết rồi thì sự sống của Như Thạch chẳng còn một chút gì vui vẻ nữa. Mỗi ngày chàng kêu chị Thì đem Thanh Nguyên lại cho chàng bồng giây lát, đặng nhìn mặt con cho giảm bớt nỗi buồn, té ra ngó con chừng nào thì càng nhớ vợ thêm chớ không giảm được. Có khi chàng nhớ tới mẹ thì chàng đau đớn về sự chàng làm cho mẹ giận hờn. Nhưng đau đớn về cái lỗi của chàng, lại cũng đau đớn về sự nghiêm khắc của mẹ, nên chàng ôm lòng mà chịu, không tính trở về thú tội. Vì trong mình đã mang sẵn bịnh lao, nay gặp sự buồn rầu dồn dập, nên bịnh càng ngày càng thêm hoài. Cô Nhung chết chưa được 5 tháng thì Như Thạch ốm như tàu lá, không thể đi dạy học được nữa. Chàng biết không sống lâu được nên một đêm chàng nằm thao thức, trong trí nhớ đường kia nẻo nọ, rồi chàng ngồi dậy đốt đèn viết một bức thơ gởi về cho mẹ mà thưa cho mẹ hay rằng mình sắp chết và xin mẹ tha lỗi. Thơ gởi đi rồi thì bịnh càng nặng thêm hoài. Cách 10 bữa sau, Như Thạch nằm liệt, Tự Cường có đến thăm thì chàng nằm nói chuyện chớ không dậy nổi. Một buổi chiều, chị Thì bồng Thanh Nguyên lại thăm. Như Thạch ngó con rồi khóc, chớ không bồng con được. Đêm ấy chàng ráng ngồi dậy rồi đi lại bàn viết lấy giấy viết, ngồi viết trót hai giờ đồng hồ. Viết rồi chàng lấy một cái bao thơ lớn bỏ vô, lại soạn giấy tờ trong tủ lấy 3 tờ khác và đút chung vô đó nữa. Dán bao thơ kín đáo, lại lấy bánh kiến gắn thêm phía sau cho chắc chắn rồi mới viết mấy hàng chữ ngoài bao. Chàng viết rồi thì mệt đuối, nên lần đi lại bộ ván mà nằm, để cái bao thơ hồi nãy dựa bên mình. Qua ngày sau, Như Thạch biểu thằng Sung, là đứa tớ, ra trường “Vân Thế” đón mời Tự Cường vô cho chàng nói chuyện. Tự Cường mỗi ngày đều có vô một lần đặng lo thuốc men cho bạn, biết bạn không còn sống lâu nữa được, nên được tin mời thì lật đật vô liền. Như Thạch thấy Tự Cường thì sai thằng Sung đi kêu chị Thì bồng Thanh Nguyên lại. Tự Cường kéo ghế ngồi một bên Như Thạch và hỏi: - Bữa nay anh nghe trong mình có khỏe hơn hôm qua hay không? - Tôi mệt lắm, chắc giờ chết đã gần tới rồi! - Tôi coi anh còn tinh thần nhiều. Chưa chết đâu. Xin anh hãy vững lòng đừng lo sợ. - Nếu tôi còn tinh thần nhiều, ấy là vì tôi còn chút nợ đời bận lòng tôi, nên tôi nhắm mắt chưa được. Như Thạch nói mới mấy câu mà đã mệt, nên nằm yên. Tự Cường thấy vậy không muốn nói chuyện nữa, nên định đứng dậy. Như Thạch khoát tay tỏ ý muốn Tự Cường cứ ngồi đó, chàng nằm nghỉ một chút rồi nói tiếp: - Tôi mời anh vô đây là vì tôi có một tâm sự cần phải tỏ gấp với anh. - Anh cứ nói đi, tôi sẵn lòng nghe. - Khi mới quen nhau tôi có tỏ cho anh biết rằng vì tôi theo cái thuyết tự do kết hôn nên bà già tôi giận, không thèm nhìn tôi là con. - Phải. Anh có nói với tôi rồi. - Cách mười bữa trước tôi biết tôi sẽ chết gấp, nên tôi có viết thơ từ giã và xin lỗi bà già tôi. Tôi có nói tôi có một đứa con, như bà già tôi còn nghĩ tình máu thịt, thì cho người lên đem về mà nuôi, chớ hễ tôi chết rồi con tôi nó sẽ bơ vơ, vô gia đình, vô thân tộc... Tới bữa nay mà không thấy tin tức gì hết... Chắc bà già tôi bỏ đứt tôi, mà cũng không thèm nhìn con tôi. - Sợ thơ lạc, hoặc dưới nhà không biết anh ở đâu mà kiếm. - Thơ không thể lạc được. lại trong thơ tôi biên chỗ tôi rành rẽ... Chắc bà già tôi còn giận nên tuyệt luôn... Có lẽ xưa nay anh đã thấy rõ thái độ của tôi. Tôi thung dung chờ ngày chết. Chẳng lo sợ chút nào hết. Tôi chỉ buồn có một việc là khi tôi chết đi rồi con Thanh Nguyên của tôi đây rồi tôi bỏ nó cho ai. - Xin anh đừng thêm lo, đến giờ cuối cùng phải để chí cho bình tịnh. Nếu không ai nhìn nhận con Thanh Nguyên thì tôi lãnh nuôi cho. Như Thạch mở cặp mắt chỏi hỏi mà ngó Tự Cường rồi cười nói tiếp: - Tôi cảm tình anh lắm. Nếu được vậy thì tôi chẳng còn chút gì bận lòng nữa. Tôi mời anh vô đây là có ý muốn nói chuyện đó với anh. Hổm nay tôi không nói là vì tôi còn tưởng má tôi hoặc chị tôi lên đem nó về nuôi. Hồi chiều hôm qua chị vú bồng con tôi lại, tôi thấy mặt nó, rồi tôi nhớ ở dưới nhà không ai lên, thì tôi cảm động hết sức. Đêm hồi hôm tôi không ngủ được, tôi ráng ngồi viết một tờ di ngôn mà để lại cho con. Nếu anh sẵn lòng thế cho tôi mà nuôi giùm con tôi, thì tôi giao giấy tờ trong bao thơ nầy cho anh. Xin anh cất giùm, chừng nó được 18 tuổi có đủ trí khôn rồi anh sẽ trao cho nó. - Tôi hứa chắc với anh rằng tôi sẽ hết lòng nuôi con Thanh Nguyên cũng như anh nuôi vậy. Anh hãy an tâm, đừng lo chi hết. - Cám ơn anh. Như Thạch lấy cái bao thơ niêm hồi hôm đưa cho Tự Cường rồi ngoắt chị vú biểu đem Thanh Nguyên lại, chàng với ôm đầu con hun và nói: “Thôi, cha từ giã con, tên con là Thanh Nguyên vậy chừng con khôn lớn con phải trong sạch như nước trong nguồn, đừng nhiễm một chút bụi trần nào hết, tuy cha chết, nhưng mà con đã có cha khác lãnh nuôi con, dạy con, cũng như cha còn sống vậy. Con không đến nỗi thất dưỡng thất giáo đâu mà lo”. Như Thạch nói dứt rồi, bèn xô con lại cho Tự Cường mà nói: “Đây tôi giao con tôi cho anh đây, xin anh lãnh lấy”. Tự Cường đưa tay ra bồng Thanh Nguyên và để cái bao thơ trước ngực con nhỏ mà nói: “Con đừng có buồn, ba sẽ thương yêu con bảo hộ con, cũng như cha đẻ của con vậy”. Con Thanh Nguyên không hiểu chi hết, nó thấy lộn xộn thì nó ngó Như Thạch rồi ngó Tự Cường ngó quanh quất, rồi lại chành miệng cười hịt hạt. Như Thạch phỉ tình, nên nằm thơ thới, bộ bớt mệt. Thanh Nguyên đòi bú nên chị vú lãnh lại và bồng đi ra ngoài. Tự Cường hỏi Như Thạch: - Anh còn muốn dặn điều gì nữa hôn? - Còn. Tôi xin anh hai điều này: 1. Hễ tôi chết rồi, thì anh phải giấu con Thanh Nguyên mà nuôi, dầu bà con thân tộc của tôi năn nỉ thế nào anh cũng đừng cho họ lãnh. 2. Nuôi con Thanh Nguyên, thì anh đừng cho nó biết căn nguyên của nó, anh cứ xưng anh là cha đẻ nó, chừng nào nó đúng mười tám tuổi anh sẽ đưa cái bao thơ cho nó. Nó đọc tờ di ngôn của tôi rồi nó liệu định thế nào tự ý nó. - Tôi sẽ làm y theo lời anh dặn. Còn về cách giáo dục như anh có dặn điều gì chăng? Như Thạch nằm ngẫm nghĩ một chút rồi mới đáp: “Anh quang thông triết lý, tâm lý học. Vậy dạy dỗ con Thanh Nguyên, tôi ưng để cho anh tự do mà liệu định. Tuy vậy mà tôi xin anh, dầu anh khiến cho nó đi đường nào, anh cũng ra công sửa vỗ cái óc nó cho trong sạch, cho cao thượng, đừng cho nhiễm những thành kiến hủ bại của xã hội”. Tự Cường gật đầu vừa cười vừa nói: “Tôi khen anh lắm. Đến ngày cuối cùng mà anh không nao lòng không đổi chí. Tôi sẽ ráng sửa chí con Thanh Nguyên giống như chí của anh”. Như Thạch nghe mấy lời thì hớn hở, tuy hấp hối mà mặt còn tỉnh táo lắm. Tự Cường không nỡ lìa bạn, nên viết giấy rồi sai thằng Sung đem ra trường xin phép ông hiệu trưởng đặng ở lại đó cho Như Thạch vui lòng. Đêm đó Như Thạch tắt hơi. Tự Cường đứng lo tống táng. Chàng cậy ông hiệu trưởng trường “Vân Thế” đứng cáo phó giùm cho thiên hạ hay Như Thạch chết, bởi vậy tờ ai phó nầy không giống với tờ ai phó khác thường không có biên tên cha mẹ, anh em, vợ con. Nhờ tờ ai phó ấn hành trong nhựt báo, nên ông huyện Khoan hay, bữa tống chung có ông đến dự lễ với ông hiệu trưởng và các giáo sư trường “Vân Thế”. Hồ Biểu Chánh Tại Tôi Chương 6 Hội đồng Quyền ăn cơm trưa rồi thầy ra đứng trước thềm xỉa răng và ngắm cảnh vật. Tên trạm làng đem tờ nhựt trình “Lục tỉnh” lại phát cho thầy. Thầy lấy tờ nhựt trình rồi thủng thẳng trở vô nhà. Thầy đốt một điếu thuốc rồi kéo ghế ngồi và mở nhựt trình ra coi. Thầy mới coi một chút thì vùng đứng dậy ngó cô Hội đồng đương ngồi trên ván phía trong mà la lớn rằng: “Trời đất ơi! Thằng Thạch chết rồi!”. Cô Hội đồng chung hửng hỏi rằng: - Thạch nào? - Thằng Thạch của chị Cả chớ Thạch nào? - Úy! Cha chả! Chết hồi nào ở đâu? - Nhựt trình nói chết tại Bà Chiểu, chết đêm hai tây, qua bốn tây chôn. - Bữa nay mấy tây? - Bữa nay năm tây. Chôn hôm qua rồi. Khốn nạn quá! - Tôi sợ Thạch nào đó, chớ thằng Ba còn nhỏ, lại nếu nó có đau nó cũng cho mình hay chớ. - Nó mà! Nhựt trình nói rõ rằng: Lý Như Thạch giáo sư trường “Vân Thế” thì là nó chớ ai. - Bất nhơn dữ hôn! Vậy mà xưa rày tưởng nó giận chị Cả nó trở ra ngoài Bắc chớ. - Thì lúc nó mới đi, nó có gởi về cho tôi một cái thơ. Nó không có nói nó sẽ đi đâu. Tôi cũng tưởng nó dắt vợ nó ra Bắc, chớ ai dè nó ở trên Bà Chiểu. - Không biết chị Cả hay rồi chưa? - Chắc là chỉ chưa hay. Nếu hay lẽ nào chỉ không cho mình hay. Để tôi vô trong chỉ coi. - Cha chả, chỉ hay đây chắc chỉ rầu lắm. - Vậy cho sáng con mắt chỉ. Có một đứa con trai mà ở nghiêm khắc với nó quá lẽ. - Mình đi vô trỏng tôi cũng đi nữa. Vô thăm chỉ một chút. Thầy Hội đồng không kịp thay đồ. Thầy lấy nón trắng đội lên đầu rồi cầm tờ nhựt trình ra đi. Cô Hội đồng che dù đi theo, cũng không thay áo đổi quần kịp. Buổi trưa, bà Cả Kim nằm ngửa trên bộ ván dựa cửa sổ phía trước biểu con Tý nhổ tóc ngứa. Hữu Nghĩa ăn cơm rồi dắt vợ con xuống ghe đi vô làng Định Môn thăm ruộng. Tôi tớ đều làm công việc ở nhà sau, nên phía trước vắng teo. Từ ngày Như Thạch bị đuổi đi rồi, thầy Hội đồng Quyền phiền bà Cả và ghét vợ chồng Hữu Nghĩa nên thầy ít vô. Bữa nay thầy buồn mà lại bực tức nữa, nên bước lên thềm thầy đi mạnh chân, tiếng giày kêu lớn. Bà Cả giật mình lồm cồm ngồi dậy. Bà thấy dạng vợ chồng Hội đồng thì bà mừng nên lật đật bới đầu và nói lớn rằng: “Vô chơi sao mà đi trưa nắng quá vậy?” Thầy Hội đồng đứng ngó ngay chị mà hỏi: “Thằng Thạch nó chết rồi! Chị hay chưa?” Bà Cả biến sắc hỏi lại: - Hả? Chết ở đâu sao cậu nó lại hay? - Tôi đọc nhựt trình đây tôi mới hay chớ. Để tôi đọc cho chị nghe: “Ông hiệu trưởng và các giáo sư trường tư thục Vân Thế lấy làm đau đớn báo cáo rằng ông Lý Như Thạch, giáo sư tại trường ấy, đã tỵ trần tại biệt xá của ông, ở Bà Chiểu, trong đêm 2 Janvier 19... hưởng được 25 tuổi. “Lễ an táng cử hành ngày 4 Janvier 19... đúng 7 giờ sớm mơi tại căn phố phía sau rạp hát thầy Cai”. Thầy Hội đồng đọc dứt rồi, thầy ngó bà Cả mà nói: “Rõ ràng hay chưa Lý Như Thạch, giáo sư là thằng Ba chớ ai!” Bà Cả sửng sốt, bà ngồi trân trân, không nói được tiếng chi hết, lõ cặp mắt chao oãu, nhỏ hai giọt nước mắt chảy dài xuống hai gò má. Cô Hội đồng để cây dù trên ván, rồi cô vén áo ngồi sau lưng chị lấy khăn lau nước mắt, cô cũng không nói được một lời. Trong nhà nằng nặng chứa đầy không khí buồn thảm, làm cho sự đau đớn ba chị em càng thêm nặng nề khó chịu. Thầy Hội đồng quăng tờ nhựt trình trên bàn, kéo một cái ghế ngồi ngang đó rồi thủng thẳng nói rằng: “Đã biết mạng số cùng rồi thì ở đâu cũng phải chết. Nhưng mà chết ở đất khách quê người, cha mẹ bà con không được thấy mặt, thiệt tức quá. Chớ chị nghe lời tôi thì đâu có tai họa khốn nạn như vầy!” Bà Cả thở một hơi dài rồi nói: “Tại tôi, tại tôi nên con tôi mới chết!”. Thầy Hội đồng thấy chị đã tự hối, thầy không nỡ trách nữa, song trong lòng thầy vẫn còn đau đớn quá, nên thầy hỏi rằng: - Bây giờ chị tính sao đây? - Cậu tính làm sao thì tính giùm, chớ tôi còn biết làm sao mà tính. - Nó chết đã chôn hồi sớm mơi hôm qua rồi... Tuy vậy mà mình cũng phải lên Bà Chiểu, hỏi thăm coi nó đau bịnh gì mà chết, mồ mả nó nằm ở đâu, chớ bây giờ tính bỏ luôn hay sao. - Đi thì đi. Cậu nó đi giùm với tôi, chớ tôi đi một mình lên trển tôi có biết chỗ nào đâu mà hỏi thăm. - Vợ chồng thằng Xã đi đâu mà nãy giờ không thấy mặt? Hay tin thằng Thạch chết, ai buồn thì buồn, chớ con Phụng có buồn đâu. Thương yêu gì mà buồn. - Vợ chồng nó mới đi vô trong đồn điền Định Môn. Thầy Hội đồng ngẫm nghĩ một chút rồi nói: “Thế nào tôi cũng phải đi. Tưởng có thằng Xã ở nhà, tôi biểu nó đi với tôi. Nó đi khỏi thì thôi. Còn chị đi, tôi tưởng không ích gì. Thôi, chị ở nhà, để tôi đi lên trển tôi hỏi thăm coi công chuyện ra làm sao, tôi tìm vợ nó đặng tôi biểu chỉ mồ mả cho tôi biết, rồi sau tôi sẽ dắt chị lên đặng mướn làm mả cho nó”. Cô Hội đồng tiếp nói: “Ở nhà em nói phải lắm. Thôi, để ổng đi trước một mình lên hỏi thăm coi, rồi chị sẽ đi. Chừng chị đi, em sẽ đi với chị”. Bà Cả ngồi lặng thinh một hồi rồi mới nói: “Cậu tính như vậy cũng được. Thôi, đi trước một mình lên trển coi, chớ tôi đi theo, lên đó chắc là tôi không chịu nổi. Cậu phải ráng kiếm giùm con vợ nó mà dắt về đây đặng tôi hỏi thăm cho rõ ràng, chớ chết như vậy thì tức quá”. Thầy Hội đồng đứng dậy nói: “Thôi để tôi đi thẳng vô chợ Ô Môn mướn một cái xe hơi rồi tôi chạy về nhà thay đồ đặng đi liền”. Thầy Hội đồng đội nón ra đi. Bà Cả kêu nói: - Cậu nó lấy bạc bỏ theo lưng đặng trả tiền xe chớ. - Thôi, tôi có bạc sẵn đây, chị đừng lo. - Cậu nó đi thì về mau mau, ở nhà tôi trông lắm. - Bề nào cũng ngày mai tôi về mới tới chớ. - Nhớ kiếm con vợ nó, nghe hôn. - Việc đó là việc cần nhứt, quên làm sao được. Thầy Hội đồng đi rồi, thì cô Hội đồng ở lại đó mà hú hí với chị cho chị bớt rầu. Tôi tớ trong nhà nghe tin chẳng lành ấy thì xì xầm truyền ngôn với nhau, cách một giờ sau chòm xóm hay hết, nên tựu lại hỏi thăm. Cô Hội đồng ở tới tối, vợ chồng Hữu Nghĩa đi Định Môn về rồi, cô mới chịu về nhà. Sáng bữa sau cô trở vô sớm mà đón chồng về coi công chuyện ra thế nào. Ông Chánh bái Thành cũng lại ngồi đó mà chờ tin. Đến chiều, thầy Hội đồng về mới tới. Bà Cả thấy thầy bước vô nhà có một mình, bà chảy nước mắt mà hỏi: - Nó đau bịnh gì mà chết vậy? Kiếm không được vợ nó hay sao? - Vợ nó đâu mà kiếm! - Nó về ngoài Bắc rồi hay sao? - Nó đã chết năm sáu tháng nay rồi. - Úy cha chả, vợ nó cũng chết nữa. - Chớ sao? Công chuyện nghe thảm thiết hết sức, để rồi tôi thuật lại cho chị nghe. Thầy Hội đồng ngồi tại bàn giữa với ông Chánh bái, kêu sơp-phơ vô trả tiền xe, trong nhà lặng trang, ai nấy đều ngồi im lìm chờ nghe tin tức, duy chỉ có Hữu Nghĩa đi rót một tách nước trà bưng lại để trước mặt thầy Hội đồng. Sơp-phơ lấy tiền đi rồi, thầy Hội đồng mới nói: “Hôm qua 4 giờ chiều. Tôi lên mới tới Bà Chiểu. Tôi đi lại dãy phố ở phía sau rạp hát thầy Cai mà hỏi thăm. Họ chỉ căn phố của thằng Ba ở cho tôi coi, mà họ nói chôn nó rồi thì có một ông giáo sư trường Vân Thế chở đồ đạc đi hết rồi trả phố lại cho chủ, nên bây giờ phố bỏ trống. Tôi hỏi thăm vợ nó, thì họ nói cách năm sáu tháng trước vợ nó đẻ một đứa con gái, đẻ được đâu chừng một tháng thì vợ nó đau tim mà chết. Nó mướn một người vú nuôi con nhỏ, người vú tên Thì, hồi trước cũng ở gần đó. Hôm kia chôn nó rồi, thì vợ chồng người vú dọn đồ đi chỗ khác, không biết ở đâu”. Bà Cả khóc và nói: “Té ra nó có con”. Thầy Hội đồng gật đầu. Ông Chánh bái nói: “Vợ chồng nó chết hết, mà nó có con, thì mình phải đem con nó về nuôi chớ. Người vú dọn nhà ở chỗ khác, nên mình ráng hỏi thăm, thì có lẽ cũng phải ra mối. Họ nói có ông giáo sư nào dọn đồ đạc của nó chắc ông cũng lãnh nuôi giùm con nó chớ gì. Sao cậu Hội đồng không kiếm giáo sư đó hỏi rồi đem con nhỏ về cho thiếm Cả. Thầy Hội đồng đáp: “Tôi có đi kiếm chớ. Nhờ có đi kiếm nên tôi mới biết nhiều việc đáng buồn lắm”. Bà Cả hỏi: - Mà thằng Ba tôi nó đau bịnh gì nó chết gấp vậy? - Đau lâu lắm mới chết, chớ có chết gấp đâu chị? Nó mang chứng bịnh ho lao đã lâu rồi, vì buồn rầu, vì không có tiền uống thuốc, lần lần thân thể gầy mòn nên mới chết chớ. - Bất nhơn quá! Chớ chi nó đau nó cho mình hay, thì có lẽ nào chết như vậy. - Có! Nó có cho hay. Để tôi thuật lại hết công chuyện cho chị nghe. Hỏi trong Bà Chiểu rồi tôi trở ra Tân Định kiếm trường Vân Thế. Tôi hỏi thăm thì ông hiệu trưởng nói thằng Ba dạy trường ông hơn 10 tháng rồi. - Từ ngày nó đi cho tới bữa nay thiệt đã hơn 10 tháng. Té ra lên Sài Gòn rồi nó vô trường đó mà dạy, chớ có trở ra ngoài Bắc đâu. - Phải, chị đuổi nó thì nó lên đó xin dạy học liền. Tới bây giờ tôi mới hay, chớ xưa rày tôi cũng tưởng nó ra Bắc. Tôi hỏi ông hiệu trưởng vậy vợ chồng nó đau bịnh gì, mà chết hết, còn con của nó, nó có gởi cho ai nuôi giùm. Ông hiệu trưởng nói có ông giáo sư Tự Cường là bạn thân thiết của nó, lúc nó đau ổng săn sóc, lúc nó chết ổng lo tống táng, vậy tôi phải hỏi ông ấy mới rõ được. May lúc ấy mãn giờ học, ông hiệu trưởng bèn cho ông Tự Cường lại phòng khách cho tôi hỏi thăm. Ban đầu ổng dè dặt, tôi hỏi ông nói lơ là, coi bộ không chịu nói rành việc gì hết. Tôi mới nói tôi là cậu ruột của Như Thạch, tôi thương nó lắm, hồi nó dắt vợ nó về Ô Môn, chị rầy rà thì tôi can gián hết sức. Bữa chị đuổi nó đó tôi không hay mà xưa rày tôi vẫn tưởng vợ chồng nó trở ra Bắc, chớ chi tôi hay nó lên Sài Gòn mà dạy học thì tôi đã đem vợ chồng về tôi nuôi, rồi tôi bao bọc cho nó làm ăn. Nghe nói vậy ông Tự Cường mới chịu nói thiệt. Ông nói thằng Ba bị chị đuổi thì nó lên Sài Gòn xin vô trường Vân Thế liền. Vì ăn lương ít nên vợ chồng phải vô ở một căn phố chật hẹp trong Bà Chiểu. Nó nghèo cực lung lắm, vợ nó có nghén mà lại đau tim nữa. Đẻ một đứa con gái đâu được một tháng thì vợ nó chết. Nó phải mướn vú nuôi con, mà nó cũng đã mang bịnh ho mấy tháng trước rồi. Phần buồn việc gia đình, phần không có đủ tiền uống thuốc, nên bịnh càng ngày càng thêm nặng rồi mới chết, nó chết thì anh em đồng nghiệp hùn tiền mà chôn cất nó. Vì không biết bà con nó ở đâu đặng cho hay, nên anh em mới cậy ông hiệu trưởng ấn hành tờ ai phó trong nhựt trình, lại xin chở bàn ghế chút đỉnh đem về trường mà gởi. Như tôi muốn lãnh đồ ấy thì nói với ông hiệu trưởng lãnh về, ông Tự Cường lại dắt tôi vô trong ngã năm Gia Định chỉ mồ mả của vợ chồng nó cho tôi biết, ổng có mướn làm trụ đá cắm trên đầu mả rành rẽ lắm. Bà Cả nghe nói tới đó thì bà khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Ông Chánh bái với vợ chồng thầy Hội đồng cảm động nên cũng chảy nước mắt. Ông Chánh bái hỏi: “Sao cậu không hỏi ông Tự Cường coi bây giờ con nó ở đâu?”. Thầy Hội đồng trợn mắt đáp: “À, nãy giờ tôi thuật chuyện lại mà tôi bỏ sót việc ấy”. - Tôi có hỏi chớ. Ông Tự Cường nói cách 10 ngày trước thằng Ba nó biết nó sẽ chết, nên nó có viết thơ về mà xin lỗi chị Cả. Trong thơ nó có nói chuyện đứa con của nó. Nó đợi hoài, không thấy bà con ai lên hết, nó chắc chị Cả bỏ đứt nó, nên nó phải kêu người ta mà cho đứa nhỏ. Nó cho ai ông Tự Cường không hiểu, nên ông không biết đâu mà chỉ. Ông Tự Cường nói quả quyết với tôi rằng cách mười bữa trước ngày thằng Ba chết, nó có gởi thơ về cho chị Cả. Vậy chớ chị Cả không có được cái thơ đó hay sao? Bà Cả đáp: “Từ ngày nó ra đi cho tới bây giờ, tôi có được cái thơ nào của nó đâu?” Thầy Hội đồng châu mày nói: “Không, mới mười mấy bữa rày đây chị không có được thơ của nó hay sao? Thơ nó gởi có lý nào lạc được. Hay là thơ lại, chị không có ở nhà, rồi vợ chồng thằng Xã bỏ dẹp đâu đó chớ gì. Con Hai a, hổm nay có thơ nào gởi lại cho chị Cả hay không vậy cháu. Cháu nhớ lại coi?”. Cô Phụng đương ngồi phía sau lưng bà Cả, nghe hỏi thì cô đứng dậy nói không có, nhưng mà lời nói nghe yếu xịu, lại bộ tịch bợ ngợ lắm. Thầy Hội đồng trợn mắt nói: - Không lý không có, ông Tự Cường nói thằng Ba có trối với ổng, nó nói cách mười bữa trước nó có gởi thơ về cho chị Cả hay nó gần chết và xin chị Cả lên đem con nó về nuôi. Nó đợi hoài không thấy ai hết nên nó phải kiếm người mà cho con nó. Cháu nhớ lại coi, chừng mười mấy bữa rày đây có được cái thơ nào hay không? - Thưa... cháu không thấy. - Hứ? Kỳ quá, đâu cháu kêu hết bầy trẻ ở trong nhà ra đây cho cậu hỏi coi, kêu hết ra đây. Cô Phụng vâng lời kêu con Tý, chú Hưng, chị Thình ra đủ mặt. Thầy Hội đồng hỏi: “Cách chừng mười bữa rày hoặc nửa tháng nay, đứa nào có thấy trạm đem thơ lại đây hay không? Bây nhớ coi”. Chú Hưng nhanh nhẩu nói: “Thưa có. Hôm trước tôi đứng ngoài cửa ngõ, trạm có đưa tôi một cái thơ. Tôi đem vô nhà, cậu Xã đi khỏi, bà mắc nghỉ trưa nên tôi đưa cho cô Hai”. Thầy Hội đồng ngó cô Phụng, cô ngó chú Hưng hỏi: - Đưa hồi nào đâu? - Cô đương nằm trên võng tôi đưa thơ cho cô đó, cô quên hay sao? - Ờ ợ? Chuyện đó lâu rồi mà. - Không, mới chừng mười mấy bữa rày đây mà. - Ơ ờ. Tôi nhớ rồi, hôm trước cha thằng Nhơn đi khỏi, chú Hưng đưa cho tôi một cái thơ. Tôi bỏ vô trong tủ, tôi tính để cha thằng Nhơn về tôi sẽ biểu đọc coi thơ của ai, hổm rày tôi quên. Để tôi kiếm lại coi cái thơ còn đó hay không. Cô Phụng đi vô buồng. Hữu Nghĩa ngồi tại bàn viết gục mặt, không nói chi hết. Thầy Hội đồng nóng nảy ngồi không được, thầy đứng dậy ngó bà Cả mà nói: Chắc cái thơ đó rồi! Ăn ở như vầy thì giết người ta được! Khốn nạn quá!”. Bà Cả kêu nói: “Hai ạ, lấy đem ra đây cho mau đặng đọc nghe coi. Nếu bỏ trong tủ thì còn đó, chớ ai vô đây lấy”. Cô Phụng cầm cái thơ đem ra thì thơ đã xé bao rồi. Thầy Hội đồng biểu đưa cho thầy. Thầy cầm coi ngoài bao rồi nói: “Phải rồi chữ của thằng Ba đề bao đây. Mà thơ ai đã xé coi rồi đây mà”. Bà Cả muốn nghe coi con gởi nói việc gì, nên bà biểu: “Đâu cậu nó đọc thơ nghe coi mà”. Thầy Hội đồng rút thơ ra đọc: THƯA MÁ “Mấy tháng nay con mang một chứng bịnh không thể trị được, là chứng bịnh ho lao. Bịnh đã nặng lắm rồi, nên sự sống của con chắc chẳng còn bao lâu nữa. Vợ của con cũng đã chết rồi, chết cách năm tháng trước, ấy vậy trong ít ngày nữa đây thì hai đứa ngỗ nghịch dám trái chế độ gia đình, đều phải bị trời phạt không cho ở thế gian nầy mà phản ngược với thành kiến của xã hội nữa. Trước khi lìa cõi dương trần con viết thơ nầy kính gởi đôi lạy mà từ giã má và cúi xin má tha tội cho con là đứa không kể ơn sanh thành, làm cho má buồn má giận. Sau nầy con xin thưa cho má hay: vợ chồng con có sanh một đứa con gái, hiện nay nó vừa mới được sáu tháng. Nếu má nhìn nhận nó có một phần máu thịt của má, hoặc là di tích của dòng họ LÝ thì má cho người lên đem nó về mà nuôi dưỡng chớ hễ con chết rồi thì nó sẽ trở nên một đứa vô gia đình, vô thân tộc. Con cúi đầu vĩnh biệt má, ơn sanh thành con xin để kiếp sau con sẽ đền đáp”. LÝ NHƯ THẠCH ở phố phía sau rạp hát thầy Cai tại Bà Chiểu (GIA ĐỊNH) BÁI THƠ Thầy Hội đồng đọc thư rồi thì thầy châu mày đỏ mặt, la lớn rằng: “Phụng, thiệt rõ ràng vợ chồng mầy hiệp nhau mà giết em mầy. Ngày thằng Thạch dắt vợ nó về, chị Cả giận đuổi nó, vợ chồng mầy không có được một lời can gián. Khi nó gần chết, nó viết thơ nói như vầy, mà vợ chồng mầy giấu biệt không cho chị Cả hay. Bây ăn ở như vầy thì khốn nạn quá. Nếu bây cho chị Cả hoặc cho tao hay thì tao lên tao rước em bây về dưới nầy mà nuôi nó, ví dầu nó phải chết đi nữa, thì cũng khỏi chết nơi đất khách quê người, lại con nó cũng khỏi phiêu lạc. Bây giờ biết con nó đâu mà tìm!... Tao hiểu hết. Bây muốn cho thằng Thạch chết mà lại tuyệt tộc nữa đặng bây muốn ăn gia tài cho trọn. Không được đâu, thái độ của bây như vậy trời không cho bây trọn hưởng giàu sang đâu. Tao hứa chắc với bây tao sẽ cản đường bây. Tao sẽ kiếm con của thằng Thạch cho được tao mới nghe. Để tao cất cái thơ nầy đặng ngày sau tao đưa cho con của thằng Thạch nó coi cho nó biết lòng dạ của cô nó”. Thầy Hội đồng xếp thơ mà bỏ vô bốp phơi, bộ thầy giận lung lắm. Hữu Nghĩa với cô Phụng mặt mày tái xanh, ngồi nín thinh, không chối cãi một lời nào hết. Bà Cả cứ ngồi khóc, nước mắt tuôn dầm dề. Bà nói bệu rằng: “Thôi, tại tôi hết thảy. Cậu nó nóng giận rầy rà, bây giờ thằng Thạch cũng không sống lại được. Thôi để giúp tôi mà lo làm mồ mả cho vợ chồng nó hoặc xin lấy cốt đem hết về dưới nầy cho nó nằm một bên cha nó. Tôi cũng còn cậy cậu nó làm sao kiếm giùm cho được con nhỏ đặng cho tôi nuôi. Máu thịt của tôi lẽ nào tôi bỏ cho đành”. Thầy Hội đồng cười gằn mà đáp: “Chị không cậy tôi cũng làm”.