🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tài Liệu Tham Khảo Bồi Dưỡng, Cập Nhật Kiến Thức Cho Cán Bộ, Đảng Viên Ở Cơ Sở Ebooks Nhóm Zalo (Xuất bản lần thứ hai) Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH Biên tập nội dung: ThS. BÙI THỊ ÁNH HỒNG TS. HOÀNG MẠNH THẮNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: LÊ THỊ HÀ LAN LÂM THỊ HƯƠNG NGUYỄN MAI THẢO NHUNG VIỆT HÀ Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4854-2020/CXBIPH/25-347/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5633-QĐ/NXBCTQG, ngày 01/12/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 12 năm 2020. Mã số ISBN: 978-604-57-6285-1. Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm cña Th­ viÖn Quèc gia ViÖt Nam Tµi liÖu tham kh¶o båi d­ìng, cËp nhËt kiÕn thøc cho c¸n bé, ®¶ng viªn ë c¬ së. - XuÊt b¶n lÇn thø 2. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2020. - 240tr. ; 19cm §TTS ghi: Ban Tuyªn gi¸o Trung ­¬ng §¶ng ISBN 9786045754719 1. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam 2. Tµi liÖu båi d­ìng 324.2597075 - dc23 CTF0462p-CIP (Xuất bản lần thứ hai) CHỈ ĐẠO NỘI DUNG TS. BÙI TRƯỜNG GIANG TẬP THỂ BIÊN SOẠN PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA TS. NGUYỄN TIẾN HOÀNG ThS. VŨ HỮU PHÊ TS. LÊ ĐỨC HOÀNG ThS. ĐINH VĂN BẮC TS. NGUYỄN KIM PHƯỢNG ThS. MAI YẾN NGA ThS. ĐÀO MAI PHƯƠNG ThS. TRẦN THỊ THÙY CN. TRƯƠNG NGỌC VINH LỜI NÓI ĐẦU Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đội ngũ cán bộ, đảng viên có vai trò hết sức quan trọng trong lãnh đạo, quản lý, tổ chức và điều hành mọi công việc, trong triển khai thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do vậy, việc giáo dục, bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao, một lòng kiên định, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Nhằm nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng yêu cầu phải “có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương”. Thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 và Hướng dẫn số 64-HD/BTGTW ngày 10/5/2018 của Ban Tuyên giáo Trung ương về thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 5 trong tình hình mới; nhằm giúp các cấp ủy đảng, các địa phương triển khai chương trình bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng tái bản cuốn sách Tài liệu tham khảo bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Cuốn sách gồm 6 bài: Bài 1: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Bài 2: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Bài 3: Về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bài 4: Về đảng cầm quyền và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong điều kiện mới. Bài 5: Về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bài 6: Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Cuốn sách nhận được sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học: PGS.TS. Nguyễn Viết Thông, PGS.TS.NGND. Nguyễn Bá Dương, PGS.TS. Phạm Duy Đức, PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa, PGS.TS. Nguyễn Tài Đông. Xin giới thiệu tài liệu với cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Tháng 02 năm 2020 BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 Bài 1 CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY I- KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1. Chủ nghĩa Mác - Lênin và các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin a) Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ của loài người * Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin Trong quá trình phát triển của nhân loại, nhất là từ khi xuất hiện các giai cấp và đấu tranh giai cấp, áp bức, bóc lột, quần chúng lao động bao giờ cũng mơ ước được sống trong một xã hội bình đẳng, công bằng, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Nhiều tư tưởng tiến bộ và nhân đạo đã hình thành, phát triển trong lịch sử nhân loại để dẫn dắt cuộc đấu tranh của quần chúng cần lao. 7 Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nhiều nước Tây Âu, nhất là ở nước Anh, phát triển mạnh mẽ. Giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị, cần có lý luận khoa học để dẫn dắt cuộc đấu tranh nhằm giải phóng mình khỏi những áp bức, bất công xã hội. Trong thời điểm đó, trên thế giới đã xuất hiện các tiền đề kinh tế - xã hội, khoa học, lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Một là, tiền đề kinh tế: Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội đã ở trình độ xã hội hóa. Mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng phát triển đã trở nên gay gắt và trở thành mâu thuẫn chủ yếu của xã hội. Hai là, tiền đề chính trị - xã hội: Sự phát triển của nền đại công nghiệp chủ nghĩa tư bản gắn liền với sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân. Trong xã hội tồn tại hai giai cấp đối lập nhau về lợi ích là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ngày càng lan rộng, phát triển từ tự phát tới tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi phải có sự dẫn dắt của lý luận khoa học và cách mạng. Lý luận của Mác ra đời đã đáp ứng những đòi hỏi ấy. 8 Ba là, tiền đề khoa học và lý luận: Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó có ba phát minh quan trọng: Thuyết tiến hóa; Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; Thuyết tế bào. Các phương pháp nhận thức khoa học như: quy nạp, phân tích, thực nghiệm, tổng hợp... đã hình thành thế giới quan duy vật. Về lý luận, có những thành tựu của triết học cổ điển Đức (đại biểu là Cantơ, Hêghen, Phoiơbắc); kinh tế chính trị cổ điển Anh (Ađam Xmít và Đavít Ricácđô); chủ nghĩa xã hội không tưởng (Xanh Ximông, Phuriê ở Pháp; Ôoen ở Anh...). C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 - 1895) đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tiền đề lý luận trên để sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng cho giai cấp vô sản, đó là chủ nghĩa Mác. Trong học thuyết của mình, hai ông đã hình thành nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản và vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác ra đời đáp ứng đòi hỏi cấp bách của phong trào cách mạng thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác không chỉ là sự phản ánh của thực tiễn xã hội, 9 nhất là tình hình thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, mà là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển hợp lôgích của lịch sử tư duy nhân loại, là thành tựu trí tuệ của loài người. * V.I. Lênin đã bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo toàn diện lý luận của Mác - Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới, giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều hòa được, dẫn tới chiến tranh đế quốc. Trong điều kiện đó, cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một vài nước, thậm chí ở một nước tư bản kém phát triển. Do sự xâm chiếm và đô hộ các nước thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, trên thế giới đã xuất hiện phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh chống đế quốc giành lại nền độc lập ở các nước thuộc địa. Vì vậy, cách mạng vô sản ở các nước đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc có mối quan hệ khăng khít với nhau, cùng chống một kẻ thù chung. Trong hoàn cảnh đó, V.I. Lênin (1870 - 1924) đã vận dụng và phát triển sáng tạo toàn diện học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. 10 V.I. Lênin đã phân tích chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra những mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục được của chủ nghĩa tư bản, đi đến khẳng định khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản, về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc. Với thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, V.I. Lênin đã phát triển một loạt vấn đề lý luận mới về: xây dựng chính quyền Xôviết; phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới; tiến hành công nghiệp hóa, điện khí hóa toàn quốc; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa... Đó chính là sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù của chủ nghĩa Mác, đồng thời kịch liệt phê phán chủ nghĩa xét lại, cơ hội, tả khuynh, hữu khuynh, giáo điều, bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Những cống hiến lý luận của V.I. Lênin trong việc phát triển sáng tạo học thuyết Mác đã tạo nên một hệ thống lý luận thống nhất của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác đã gắn liền với tên tuổi và cống hiến của V.I. Lênin, cũng từ đây, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản được gọi là chủ nghĩa Mác - Lênin. 11 Với bản chất khoa học và cách mạng, ngày nay chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang và sẽ tiếp tục được bảo vệ, vận dụng, bổ sung và phát triển trong thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, phát triển và chủ nghĩa xã hội. b) Các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất được hình thành từ ba bộ phận: triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. - Triết học Mác - Lênin: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về tự nhiên, xã hội và con người; về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại và vai trò của con người trong thế giới. Triết học Mác - Lênin là giai đoạn cao trong sự phát triển tư tưởng triết học, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Mác - Lênin đem lại cho con người thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới. - Kinh tế chính trị Mác - Lênin: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Mặt khác, quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc thượng tầng, nhất là các quan hệ về 12 chính trị, pháp lý... có tác động trở lại mạnh mẽ đối với quan hệ sản xuất. Vậy đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; những quy luật kinh tế chủ yếu hình thành, phát triển và đưa chủ nghĩa tư bản tới chỗ diệt vong. Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội không có áp bức, bất công, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. - Chủ nghĩa xã hội khoa học: Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa và phương hướng xây dựng xã hội mới. Nó chứng minh rằng việc xã hội hóa lao động trong chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội; động lực trí tuệ và tinh thần của sự chuyển biến đó là chủ nghĩa Mác - Lênin; lực lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến đó là giai cấp vô sản và nhân dân lao động. c) Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin - Phép biện chứng duy vật Phép biện chứng duy vật là cơ sở hình thành phương pháp biện chứng của C. Mác. Phương pháp biện 13 chứng theo Ph. Ăngghen “là phương pháp xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng vào tư tưởng, chủ yếu theo sự liên hệ qua lại, sự móc nối, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng...”1. Mặc dù thực tiễn đã có nhiều sự thay đổi, khoa học có nhiều thành tựu vĩ đại nhưng phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên giá trị phương pháp luận. Những thành tựu của khoa học hiện đại chỉ rõ tính đúng đắn của phương pháp biện chứng. Khoa học hiện đại đạt được những thành tựu như ngày nay chính là nhờ đã sử dụng phương pháp biện chứng, dù sự sử dụng đó diễn ra một cách tự giác hay tự phát. - Chủ nghĩa duy vật lịch sử Chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch ra được căn nguyên của những động cơ vật chất, đặc biệt là động cơ lợi ích kinh tế trong hoạt động lịch sử của loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử xuất phát từ trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất xã hội để lý giải những quan niệm, tư tưởng cũng như những điều kiện xã hội của đời sống nhân dân cùng vai trò của họ trong lịch sử; đồng thời, xem xét xã hội như một chỉnh thể, nhìn nhận một cách toàn diện quá trình phát sinh, phát triển và suy vong của các hình thái kinh tế - xã hội. ___________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.298. 14 Thông qua các xu hướng, các mâu thuẫn khác, sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành..., từ đó tìm ra cơ sở của các quá trình từ điều kiện sinh hoạt và sản xuất vật chất của xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử xuất phát từ đời sống vật chất để lý giải đời sống tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, quan điểm duy vật lịch sử của C. Mác khác với quan điểm duy kinh tế, quan điểm duy vật thuần túy - chỉ nhấn mạnh một chiều yếu tố kinh tế, yếu tố vật chất trong quan hệ với yếu tố tinh thần. Quan điểm duy vật lịch sử đòi hỏi trong khi xem xét vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, kinh tế đối với chính trị không được hạ thấp sự tác động trở lại của đời sống tinh thần đến đời sống vật chất, của chính trị đối với kinh tế, của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội... Mặc dù các quy luật xã hội chỉ có thể nảy sinh, tồn tại, vận động thông qua hoạt động có ý thức của con người, nhưng con người không thể tùy tiện thay thế hay xóa bỏ các quy luật. Đồng thời, thông qua nhận thức và hoạt động một cách tự giác, con người có thể tác động để các quy luật xã hội diễn ra nhanh hoặc chậm, với những biểu hiện khác. - Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trình bày về các quy luật vận động cơ bản của xã hội loài người trong lịch sử. 15 Sự phát triển của lịch sử nhân loại hết sức phức tạp, quanh co, khúc khuỷu, nhưng vẫn diễn ra theo quy luật khách quan, là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Lịch sử loài người là sự thay thế tất yếu của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Sự thay thế này tuần tự, có cả sự đan xen, tiếp nối lẫn nhau. Chính điều này làm cho lịch sử thế giới phát triển thêm phức tạp, khó nhận thức. Tuy vậy, dòng chảy của lịch sử nhân loại vẫn diễn ra theo sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao. Điều này do những mâu thuẫn trong lòng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội quy định. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,... Những mâu thuẫn này được giải quyết sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội mới. - Học thuyết giá trị thặng dư Học thuyết giá trị thặng dư cho thấy bản chất bóc lột của xã hội tư bản và một nguồn gốc cơ bản sinh ra sự giàu có của xã hội là sản xuất giá trị thặng dư. Ngày nay, sản xuất giá trị thặng dư vẫn là cơ sở phát triển của xã hội tư bản hiện đại. Trong khi nghiên cứu các quy luật sản xuất giá trị thặng dư, C. Mác đã phát kiến ra các quy luật sản xuất sản phẩm thặng dư trong các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. 16 Cùng với lý luận giá trị thặng dư, lý luận về sở hữu, về chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, về sự ra đời tất yếu của sở hữu xã hội là những giá trị bền vững của lý luận kinh tế chính trị học của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Giai cấp công nhân là một giai cấp cách mạng, lực lượng tiên tiến có sứ mệnh lịch sử giải phóng cho giai cấp mình, đồng thời giải phóng nhân dân lao động và toàn nhân loại khỏi chế độ người bóc lột người, áp bức, bất công, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Hệ tư tưởng của giai cấp vô sản vẫn là tiến bộ nhất, động lực cho sự phát triển của nhân loại. - Chủ nghĩa xã hội khoa học Lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định tính tất yếu thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là do tất yếu kinh tế quy định và đều tất yếu như nhau; cách thức khác nhau của các quốc gia, dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội là kết quả phát triển tổng hợp của tinh hoa mọi thời đại, mọi dân tộc... 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh a) Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,17 Đảng ta đã vận dụng những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tại Đại hội VII (tháng 6/1991) Đảng ta lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định: “cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh”1. Đến Đại hội IX (2001), Đảng ta đưa ra định nghĩa: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”2. Kế thừa định nghĩa này, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr.29. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.130. 18 thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”1. b) Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh - Chủ nghĩa Mác - Lênin Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người đã có nhiều phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đó là truyền ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88. 19 thống yêu nước, ý chí độc lập, tự cường; đoàn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng; lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo... Trong đó, chủ nghĩa yêu nước đã trở thành giá trị cốt lõi, là nền tảng tinh thần to lớn và là nguồn sức mạnh để dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù. Từ thực tiễn của lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”1. Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước trước khi trở thành một chiến sĩ cộng sản. Chính lòng yêu nước đã thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng dân tộc. - Tinh hoa văn hóa nhân loại Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của cả phương Đông và phương Tây. Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, học hỏi và tiếp thu, chắt lọc những giá trị tinh túy nhất trong các trường phái triết học, ___________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.38. 20 quan điểm tư tưởng, văn hóa, tôn giáo cổ, kim, đông, tây; học thuyết cách mạng, tinh thần độc lập, tự do của các dân tộc; kinh nghiệm của các cuộc cách mạng... để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Như vậy, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước, là cơ sở ban đầu và là động lực thúc đẩy Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có nội dung mới, tầm cao mới: “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách mạng đúng đắn. Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và chủ yếu là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tinh hoa văn hóa nhân loại làm phong phú và sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Hồ Chí Minh. - Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh Những điều kiện trên cũng đã đến với nhiều người cùng thời với Hồ Chí Minh, nhưng chỉ có ở Người, những nhân tố khách quan đó mới kết hợp với các 21 phẩm chất cá nhân của Người, trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là: + Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với sự nhận xét, phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu. + Sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân loại, học tập kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế. + Ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào. Cùng với năng lực bẩm sinh, những phẩm chất cá nhân cao quý trên đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp thu, phát triển truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp giữa dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình. c) Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) đã nêu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, gồm: - Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; - Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại; 22 - Tư tưởng về sức mạnh của Nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; - Tư tưởng về quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; - Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; - Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; - Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; - Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; - Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của Nhân dân1. II- NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU, VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa ___________ 1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.130. 23 Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cần thực hiện tốt một số nội dung sau: 1. Mục tiêu Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực sự hiệu quả, thiết thực trong việc học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Hai là, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết và chỉ đạo thực tiễn để giải quyết hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra; thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Ba là, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. 2. Quan điểm - Học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ 24 nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nội dung quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Ðảng về mặt tư tưởng, vừa có vai trò nền tảng, vừa có vị trí then chốt trong tình hình hiện nay. - Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo phương châm cơ bản, hệ thống, thực tiễn và hiện đại. - Vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách biện chứng, sáng tạo và cầu thị; đồng thời phòng, chống có hiệu quả các nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". 3. Một số nhiệm vụ, giải pháp cần triển khai thực hiện trong thời gian tới Thứ nhất, các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt việc học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào định hướng hoạt động thực tiễn ở địa phương, cơ quan, đơn vị một cách thiết thực và hiệu quả; bám sát thực tiễn; định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết, nhân rộng mô hình tốt, cách làm hay. Tăng cường kiểm tra, giám sát 25 việc tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng trên lĩnh vực lý luận chính trị. Thứ hai, tiếp tục đổi mới phương thức triển khai, phương pháp tiếp cận nghiên cứu trong công tác lý luận. Khẳng định mạnh mẽ và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn nước ta. Nghiên cứu, xây dựng và phát triển hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trong thời kỳ mới; làm rõ những vấn đề bổ sung, phát triển; tập trung nghiên cứu để giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta đã được Ðại hội XII của Ðảng chỉ ra. Làm rõ một số vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đổi mới, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát huy dân chủ trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; tôn trọng tính sáng tạo và nâng cao ý thức trách nhiệm của nhà khoa học, tăng cường trao đổi, đối thoại trong nghiên cứu lý luận. Ðổi mới cơ chế và tăng cường đầu tư cho tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Rà soát, bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. 26 Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và phương pháp công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Tiếp tục đổi mới nội dung giáo trình theo hướng giảng dạy, truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật có chọn lọc những học thuyết đương đại phù hợp với điều kiện của Việt Nam, vận dụng sáng tạo, tăng cường liên hệ với thực tiễn. Ðổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, ứng dụng các phương pháp hiện đại, hấp dẫn người học, tạo hứng thú tìm tòi, nghiên cứu. Ðổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lý luận chính trị theo hướng thực chất. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong học tập lý luận chính trị. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng chương trình học tập theo hướng phân biệt rõ cấp học và đối tượng học; đồng thời bảo đảm tính liên thông trong đào tạo các trình độ lý luận chính trị, phân cấp rõ ràng, hạn chế tối đa sự chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống các cơ sở đào tạo lý luận chính trị để nâng cao hiệu quả việc học tập, đào tạo, bồi dưỡng và tránh lãng phí về thời gian, kinh phí. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận 27 chính trị phù hợp với nhu cầu quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ. Thứ tư, đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền về giá trị, những nội dung cơ bản, cốt lõi và những nội dung được Ðảng ta vận dụng, phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh tổng hợp của báo chí, truyền thông, kết hợp chặt chẽ với tuyên truyền miệng và các kênh thông tin khác. Thứ năm, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch một cách hiệu quả, kịp thời. Ða dạng hóa hình thức đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế phối hợp và trao đổi thông tin, chủ động nắm bắt âm mưu, thủ đoạn, phương thức, chiêu bài chống phá của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị; chú trọng xây dựng luận cứ đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc; tạo sự thống nhất sức mạnh tổng hợp trong phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, lực lượng liên quan. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ để cập nhật về nội dung và phương pháp đấu tranh; có cơ chế, chế độ phù hợp cho đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí hoạt động và hiện đại hóa các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật. 28 Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu thường xuyên và kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước. Chú trọng trao đổi, đối thoại, thuyết phục; lắng nghe, tiếp thu các góp ý mang tính xây dựng để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách cho phù hợp. 29 Bài 2 ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM I- CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ TÍNH TẤT YẾU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM 1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa Từ cuối thế kỷ XVIII đến nay, trong lịch sử đã diễn ra công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Các hình thức công nghiệp hóa này, xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa học và công nghệ là giống nhau, song chúng khác nhau về mục đích, về phương thức tiến hành, về sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị. Công nghiệp hóa diễn ra ở các nước khác nhau, vào những thời điểm lịch sử khác nhau, trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, do vậy nội dung khái niệm có sự khác nhau. Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của nhân loại về công nghiệp hóa vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta, Đảng ta đã đưa ra những quan 30 niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tại Đại hội lần thứ VIII (tháng 6/1996) của Đảng ta đã xác định: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa”1. Tới Đại hội XII (năm 2016), Đảng chỉ rõ: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý, phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có văn minh công nghiệp chiếm ưu thế trong sản xuất và đời ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.55, tr.316. 31 sống xã hội; phát triển nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn”1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được tiến hành qua ba bước: tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2. Tính tất yếu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam Công nghiệp hóa là xu hướng mang tính quy luật của các nước từ nền sản xuất nhỏ đi lên nền sản xuất lớn. Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại cũng là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, tùy từng nước khác nhau, có điểm xuất phát khác nhau, nên mục tiêu, cách thức tiến hành phát triển không giống nhau. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa nhằm: Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; tiến hành mở rộng sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, tích lũy về lượng mới để xây dựng thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; tăng cường phát triển giai cấp công nhân. ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.90. 32 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu để đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn và cũng là một trong những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Ở Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được xác định ngay từ Đại hội III của Đảng năm 1960. Chủ trương đó luôn được nhất quán, song có sự điều chỉnh về nội dung, mô hình, mục tiêu cho phù hợp với từng giai đoạn, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Xét về mặt tích cực, nó tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế của các quốc gia cũng như kinh tế thế giới. Không chỉ thế, toàn cầu hóa kinh tế còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu và chuyển giao những thành tựu mới trong khoa học và công nghệ, trong tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh; đưa tri thức và kinh nghiệm mới đến với các quốc gia; tạo tiền đề và điều kiện cho các quốc gia đi sau có thể “rút ngắn” lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bằng chiến lược phát triển có khả năng “bắt kịp” và “thích nghi” với xu hướng phát triển hiện đại. Có thể nói, đây là một cơ hội thuận lợi đối với mọi quốc gia, nhất là với các nước đang phát triển. 33 Mặt khác, cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra với tốc độ vũ bão, dẫn đến sự ra đời của hàng loạt công nghệ mới và ngày càng hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Khoa học và công nghệ ngày càng thể hiện rõ vai trò là nền tảng, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế: từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, kinh tế số; đưa xã hội loài người bước vào một giai đoạn phát triển mới. Đến lượt mình, kinh tế tri thức, kinh tế số lại tạo điều kiện và đóng vai trò mở đường cho các nền kinh tế đang phát triển tiếp nhận công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, để cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 3. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức cải tạo của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. - Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát 34 triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. - Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh, đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế. Giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với lực lượng sản xuất có mối quan hệ gắn bó trực tiếp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xã hội hóa sản xuất về mặt kinh tế - kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng, ý nghĩa quan trọng và toàn diện. Vì vậy, Đảng ta xác định: “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại... là nhiệm vụ trung tâm”1. II- NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1. Quá trình phát triển nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng lãnh đạo toàn dân thực hiện sự nghiệp xây ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.135. 35 dựng đất nước với điểm xuất phát rất thấp, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Kế thừa quan điểm cách mạng và khoa học của C. Mác, V.I. Lênin, nhận thức được rõ vai trò và tính tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Đại hội III của Đảng (năm 1960) đã xác định: Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta. Điểm mấu chốt trong công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng1. Tuy nhiên, lúc đó Đảng ta tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ, khép kín, thiên về phát triển công nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; xác định chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; cơ chế ___________ 1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.544. 36 phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa, chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch tập trung của Nhà nước và giao cho doanh nghiệp nhà nước làm. Nhưng thực tế cho thấy, con đường công nghiệp hóa đó đã không thành công. Công cuộc đổi mới đã tạo ra những tiền đề mới, con đường, cách thức mới cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đề ra mục tiêu đến năm 2020 nước ta sẽ trở thành “Một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại”1. Tại Đại hội IX của Đảng (năm 2001), mục tiêu này được xác định là: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”2. Đại hội X của Đảng (năm 2006), một lần nữa khẳng định: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”3. Đại hội XI tiếp tục mục tiêu ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.55, tr.310. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.133. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.87. 37 “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”1. Tuy nhiên, Đại hội XII của Đảng đánh giá: “Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được”2. Để khắc phục tình trạng đó, phương hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong 5 năm (2016 - 2020) được xác định linh hoạt hơn là: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”3. Hiện nay, ở nước ta chưa có một bộ tiêu chí nào làm thước đo cho mục tiêu “nước công nghiệp”, “cơ bản trở thành nước công nghiệp” và đặc biệt là “nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Vì thế, xây dựng hệ tiêu chí “nước công nghiệp theo hướng hiện đại” là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng để đánh giá kết quả đã đạt được một cách cụ thể, rõ ràng, khắc phục tình trạng ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.103. 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.60, 76. 38 chủ quan, duy ý chí; là cơ sở để xác định mức độ tiếp cận hay hoàn thành, phát hiện những bất cập, hạn chế, từ đó định hướng và đề ra các mục tiêu, giải pháp thực hiện trong bước đi, giai đoạn kế tiếp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình lâu dài, cần được thực hiện thông qua nhiều bước hay nhiều giai đoạn. Tuy nhiên, từ trước đến nay “những tư tưởng, quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về cơ bản, mới chỉ mang tính định hướng chung..., lộ trình, bước đi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những nhiệm vụ trọng tâm ở từng giai đoạn chưa được xác định rõ”1. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng đã có sự bổ sung về việc phân chia các bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách phù hợp, theo đó: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến hành qua ba bước: tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong 5 năm tới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,...”2. Đây là sự bổ sung rất cần thiết, có ý nghĩa to lớn trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. ___________ 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 90. 39 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, gắn với phát triển kinh tế tri thức. 2. Nhận thức của Đảng về con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa Có thể khái quát những nhận thức mới của Đảng ta về tiền đề, về con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta qua hơn 30 năm đổi mới là: + Dựa vào chính mình, với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng tối đa sức sản xuất, thực hiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là tiền đề quyết định quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. + Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ kinh tế quốc tế, làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng quyền độc lập và cùng có lợi, chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, tranh thủ mọi khả năng để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. + Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải nhằm tăng trưởng và phát triển nền kinh tế với tốc độ nhanh, bền vững; đồng thời tăng trưởng, phát triển nhanh và bền 40 vững nền kinh tế lại là điều kiện, cơ sở để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để phát triển nhanh, bền vững, chúng ta phải xác định những ngành, những lĩnh vực có lợi thế, có điều kiện để ưu tiên đầu tư phát triển. + Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các ngành, các doanh nghiệp, các lĩnh vực kinh tế; của cả thành thị và nông thôn, của Trung ương và địa phương... chứ không chỉ của Nhà nước. + Chuyển giao công nghệ, tiếp nhận công nghệ hiện đại qua con đường thương mại và đầu tư trực tiếp của nước ngoài là con đường ngắn nhất để đổi mới kỹ thuật - công nghệ của nước ta. + Kết hợp vốn trong nước với vốn từ bên ngoài cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Với một nền kinh tế còn nghèo, chưa có tích luỹ từ nội bộ thì không thể có đủ vốn để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy phải dựa một phần quan trọng vào nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời huy động tối đa nguồn vốn trong nước của các doanh nghiệp, của Nhân dân, cùng với nguồn vốn tập trung của Nhà nước cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Huy động nguồn vốn bên ngoài một mặt vừa tạo ra cú hích cho sự chuyển động của nền kinh tế, mặt khác đó là nội dung kinh tế của việc tiếp nhận công nghệ và 41 các cơ sở kinh doanh hiện đại vào nền kinh tế. Về lâu dài, khi nền kinh tế đã phát triển, vốn cho tái sản xuất mở rộng sẽ do chính nền kinh tế tạo ra, khi đó, không chỉ tiếp nhận vốn mà còn có đầu tư vốn ra nước ngoài. Vấn đề vốn cho công nghiệp hóa không chỉ là thu hút được ngày càng nhiều vốn vào nền kinh tế mà còn phải huy động được các nguồn vốn trong Nhân dân để trở thành những nguồn vốn đầu tư có hiệu quả, đem lại một cuộc cách mạng thật sự trong sản xuất và hiện đại hóa được nền kinh tế. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên cơ sở của nền kinh tế thị trường hiện đại sẽ cung cấp một hệ thống tín dụng, ngân hàng và một hệ thống tài chính hiện đại giúp cho các nguồn vốn trong nước tập trung lại và phân bổ cho các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả hơn, tạo ra các động lực tăng trưởng nhanh. Đây là một sức mạnh kinh tế mạnh mẽ nhất trong việc tạo lập vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. III- ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM 1. Bối cảnh quốc tế tác động tới quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam Kinh tế thế giới đang phát triển trong những điều kiện và bối cảnh mới với nhiều biến động, thay đổi, 42 trong đó hai xu hướng lớn bao trùm là toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Theo đó, nền kinh tế thế giới đang chuyển đổi sâu sắc và toàn diện cả về trình độ công nghệ, cơ cấu sản phẩm và thể chế kinh tế. Tính chất toàn diện và sâu sắc của quá trình này cho phép chuyển sang một thời đại phát triển kinh tế mới của loài người, trên phạm vi toàn thế giới - thời đại kinh tế tri thức - toàn cầu hóa. Có thể khái quát ba xu hướng quốc tế có tác động mạnh đến công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong giai đoạn tới là: Thứ nhất, kinh tế tri thức làm xuất hiện lợi thế mới và thời cơ phát triển "nhảy vọt" cho các nền kinh tế đi sau, nhất là trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hiện nay, một lực lượng sản xuất mới về chất có vai trò quyết định quá trình phát triển của thế giới hiện đại là tri thức - trí tuệ con người (công nghệ cao là một dạng kết tinh vật chất của sức mạnh này). Trong nền kinh tế tri thức, lợi thế phát triển cơ bản của bất cứ chủ thể kinh tế nào - nền kinh tế quốc gia, doanh nghiệp hay cá nhân - cũng đều là trí tuệ con người. Trong tiến trình phát triển của các thời đại kinh tế, sự xuất hiện lợi thế mới của phương thức sản xuất đồng nghĩa với việc định vị lại nguyên lý phát triển. Đối với bước chuyển từ thời đại công nghiệp cơ khí lên thời đại kinh 43 tế tri thức, người nào có lợi thế về tri thức và công nghệ cao, người đó sẽ thắng trong cuộc đua tranh phát triển. Mở rộng nguyên lý đó ra, có thể thấy: nước nào chuyển nhanh và mạnh sang các ngành công nghệ cao, sang việc sản xuất tri thức - công nghệ cao, nước đó sẽ tạo ra bước tiến thần kỳ. Đây chính là khả năng bùng nổ và phát triển nhảy vọt quan trọng nhất trong lịch sử, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi nền sản xuất dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; đặc biệt là những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn như công nghệ in 3D trong chế tạo sản phẩm, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, rôbốt, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật,... làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới. Việc nắm bắt kịp thời các thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể coi là chìa khóa, cơ hội để tạo bước phát triển mang tính đột phá cho nền kinh tế nước ta trong thời gian tới nhằm thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa. Ngoài ra, trong thế giới hiện đại, tốc độ cao là một thuộc tính chi phối. Các quá trình đều diễn ra với tốc độ ngày càng cao, mở ra nhiều cơ hội; nhưng mặt khác nó đi liền với sự bất thường (khó dự đoán) của các quá trình. Điều đó đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải có những 44 năng lực mới để đáp ứng được yêu cầu tốc độ. Đó là năng lực tư duy ở cấp độ chiến lược quốc gia, năng lực phản ứng nhanh của toàn bộ hệ thống thể chế cơ chế và khả năng đáp ứng của các cá nhân trước sự thay đổi nhanh chóng của hoàn cảnh. Tốc độ cao của quá trình biến đổi đồng nghĩa với xu hướng dịch chuyển cơ cấu và công nghệ nhanh. Đặc trưng này vừa chứa đựng khả năng, vừa đặt ra yêu cầu phát triển “nhảy vọt cơ cấu” cho các nền kinh tế và các công ty. Trước sự thay đổi nhanh của công nghệ, một nền kinh tế hay một công ty có điều kiện đón đầu công nghệ bằng phát triển nhảy vọt cơ cấu (bỏ qua một số nấc thang công nghệ để tiến lên nấc thang công nghệ cao hơn). Đây chính là cơ hội để các nước đi sau thực hiện cách phát triển “đi trước để đuổi kịp” các nước đi trước. Tuy vậy, việc “đón đầu” bằng cách đi tắt, nhảy vọt cũng chứa đựng rủi ro bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa một bên là những đòi hỏi “không bình thường” của sự nhảy vọt (tiềm lực tài chính lớn, trình độ và khả năng tiếp cận công nghệ - kỹ thuật cao, nhà nước thông minh và hiệu lực, hệ thống doanh nghiệp mạnh...) và một bên là năng lực đáp ứng yêu cầu chưa cao của các nền kinh tế đi sau. Về thực chất, đó là rủi ro bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa cơ hội bùng nổ và sự hạn chế năng lực. Ở những bước đi càng sớm của quá trình công nghiệp hóa, 45 hiện đại hóa, mức độ rủi ro càng lớn. Điều này, sẽ tác động không thuận tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Thứ hai, xu hướng hội nhập, liên kết kinh tế đa tầng nấc gia tăng mạnh và sự toàn cầu hóa đã tác động đến hệ thống phân công lao động quốc tế mới. Hiện nay, xu hướng hội nhập, liên kết kinh tế đa tầng nấc, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới phát triển nhanh hơn, ngày càng sâu rộng, gắn kết với phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức toàn cầu. Châu Á - Thái Bình Dương đóng vai trò đầu tàu trong tăng trưởng và liên kết toàn cầu. Hàng loạt các FTA thế hệ mới tạo ra những bước ngoặt trong liên kết kinh tế ở hầu khắp các khu vực, tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới, mà tiêu biểu là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định Đối tác thương mại - đầu tư xuyên Đại Tây Dương Hoa Kỳ - EU (TTIP); Hiệp định Ðối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Việc nước ta chủ động tham gia các hiệp định FTA thế hệ mới sẽ giúp chúng ta nâng tầm hội nhập quốc tế trên các tầng nấc, cơ chế liên kết theo hướng đẩy mạnh chủ động đóng góp, tiếp cận đa ngành, đa phương, đề cao nội hàm phát triển, nhất là trong các khuôn khổ đa phương và trong các vấn đề mà ta quan tâm, có lợi ích 46 như đối tác phát triển, giảm nghèo, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, an ninh hàng hải... Các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những thuận lợi lớn chưa từng có để mở rộng thị trường xuất khẩu, với tư cách là một đối tác bình đẳng, không bị phân biệt đối xử, mức thuế ưu đãi, thậm chí là 0% với các đối tác mà ta có hiệp định FTA. Ðây là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ, tạo thêm việc làm, góp phần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tuy nhiên, việc hội nhập quốc tế sâu rộng và trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra nhu cầu cấp bách phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin truyền thông, rôbốt, trí tuệ nhân tạo... Điều này sẽ có sự chuyển dịch mạnh mẽ trong thị trường lao động theo hướng từ nguồn nhân lực giá rẻ - trình độ thấp sang nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi đó, Việt Nam có cơ cấu lao động lạc hậu, trình độ thấp, thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhân lực trình độ cao (từ đại học trở lên) chiếm số lượng ít, chất lượng nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu của công nghệ hiện đại. Trong khi đó, trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh là bình đẳng. Các nền kinh tế, 47 không phân biệt trình độ và năng lực, đều cạnh tranh trên một mặt bằng và theo các quy tắc chung. Trong bối cảnh đó, các nền kinh tế đi sau thường kém thế cạnh tranh hơn, do đó, chịu nhiều bất lợi và thách thức, trong đó có Việt Nam. Thứ ba, sự trỗi dậy của Trung Quốc, Ấn Độ và xu thế phát triển mới ở Đông Á. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc và Ấn Độ đang tạo ra cơ hội phát triển to lớn cho cả thế giới. Trước hết là cơ hội thị trường mở ra từ sự bùng nổ tăng trưởng của hai nền kinh tế có quy mô dân số tới 2,5 tỉ người và tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt 8 - 9%. Đây là sự bùng nổ thị trường lớn chưa từng thấy, tạo động lực tăng trưởng cho cả thế giới. Dự đoán cơ hội này vẫn tiếp tục được duy trì và mở rộng ít nhất trong vài thập niên tới. Lý do chính là dư địa cải cách thể chế theo hướng thị trường - mở cửa và hội nhập của Trung Quốc và Ấn Độ còn rất rộng. Thêm vào đó, không gian công nghệ cho sự phát triển nhảy vọt cơ cấu của hai nền kinh tế này, trong bước chuyển lên kinh tế tri thức, hầu như không bị giới hạn. Bên cạnh đó, sự bùng nổ kinh tế của Trung Quốc và Ấn Độ kéo theo sự dịch chuyển mạnh dòng vốn FDI, cả về khối lượng lẫn cơ cấu. Trung Quốc và Ấn Độ là hai yếu tố chủ chốt đang tái định hướng dòng FDI toàn cầu. Hai nền kinh tế này thu hút nguồn vốn đầu tư FDI, 48 đồng thời, tạo sức lan tỏa đầu tư cho cả khu vực Nam Á và Đông Á. Chắc chắn Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ sự dịch chuyển dòng đầu tư này, mức độ hưởng tùy thuộc vào đường lối phát triển, chính sách và nỗ lực tạo môi trường kinh doanh của Việt Nam. 2. Đặc điểm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, thành tựu mới của khoa học, công nghệ, những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học, công nghệ cao. Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và xu thế kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ. Chúng ta có thể và không cần thiết phải trải qua các bước phát triển tuần tự từ 49 kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau chứ không phải là nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội XII chỉ rõ: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”1. Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Khác với công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế, mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.90. 50 Ba là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu phải tích cực và chủ động hội nhập quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn. Bốn là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố con người là cơ bản. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình 51 độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Năm là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển, tiềm lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với nền kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức thiết. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. Sáu là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải nhằm phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải 52 phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ có như vậy mới có khả năng xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng... Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi người đều được hưởng thành quả của phát triển. Sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững có quan hệ chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Môi trường tự nhiên và sự đa dạng sinh học là môi trường sống và hoạt động kinh tế của con người. Bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học chính là bảo vệ điều kiện sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững. 3. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam Hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nghề nông, đến nay đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng được cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển toàn bộ mọi hoạt động của nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền kinh tế có tư duy công nghiệp. Quy mô của nền kinh tế tăng nhanh, thu nhập đầu người vượt khỏi ngưỡng thu nhập 53 thấp, Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những thành tựu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa đất nước ngày càng phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng. Những năm qua, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng bước đầu đạt được một số kết quả nhất định. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả đã đem lại nhiều nguồn lực bên ngoài cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta; đồng thời hệ thống chính sách, pháp luật, thể chế và quá trình thực thi có bước tiến quan trọng, ngày càng hiệu quả. Nước ta có thế và lực lớn hơn nhiều so với trước. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Đây chính là những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, đất nước còn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen lẫn nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong giai đoạn vừa qua đã bị suy giảm cho thấy mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta còn có những điểm chưa phù hợp, dễ bị tác động bởi các cú sốc 54 từ bên ngoài; công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển chưa bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang chững lại; hiệu quả sử dụng nguồn lực còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực thấp so với yêu cầu; một số vấn đề xã hội chậm được giải quyết. Trong khi đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm, tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Tất cả những vấn đề đó ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra, đang có khoảng cách giữa nhận thức về lý luận và thực tiễn bởi các nghị quyết thường bao hàm quá nhiều nội dung nhưng thiếu những giải pháp có tính khả thi và cụ thể, tổ chức thực hiện chưa tốt, nên dẫn tới tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả; các định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong từng thời kỳ chưa có trọng tâm, trọng điểm; các giải pháp còn thiếu đồng bộ, nhất là trong mối quan hệ hoàn 55 thiện thể chế, xây dựng chính sách đi đôi với giải pháp, cân đối các nguồn lực. Mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn có sự thiên lệch về cơ cấu ngành, dựa nhiều vào khai thác và bán tài nguyên, phát triển theo chiều rộng, sử dụng nhiều vốn hơn là sử dụng lao động và công nghệ cao nên làm cho tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra chậm, bộc lộ một số hạn chế, đặt ra nhiều vấn đề cần phải nghiêm túc xem xét để giải quyết. Cụ thể như sau: Về mặt lý luận: - Mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam còn phải tiếp tục hoàn thiện nhằm thể chế hóa phương thức, chưa được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể của một nước công nghiệp. - Các khái niệm về công nghiệp phụ trợ chưa được xác định đúng theo nghĩa nội hàm của nó, theo đó việc xây dựng các chính sách chưa sát với những yêu cầu phát triển trong nước và hội nhập quốc tế. - Tư duy công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo yêu cầu “rút ngắn” cũng chưa làm rõ được những nội dung cơ bản và động lực để thực hiện quá trình rút ngắn. - Cần làm rõ nội hàm tư duy phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội và phải đạt được cả hai mục tiêu quan trọng đó, tránh sự kiềm chế lẫn nhau. 56 - Coi trọng mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong phát triển kinh tế - xã hội. Về các vấn đề thực tiễn: - Nền kinh tế Việt Nam đang ở trình độ phát triển thấp, hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém, có nguy cơ tụt hậu xa so với các nước khác có cùng điều kiện. - Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua đề ra quá nhiều mũi nhọn, nhưng lại thiếu trọng tâm, trọng điểm cần thiết cho từng giai đoạn, dẫn đến việc đầu tư bị dàn trải, kém hiệu quả trong điều kiện kinh tế và nguồn lực hạn hẹp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa phát huy lợi thế của liên kết vùng, chưa có sức lan tỏa để thúc đẩy phát triển kinh tế và huy động các nguồn lực xã hội; trình độ công nghệ lạc hậu so với khu vực và thế giới, tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị thấp. - Công nghiệp vật liệu và hệ thống các sản phẩm chủ lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn rất nhỏ bé, chưa có nhiều thương hiệu có giá trị trên thị trường khu vực và quốc tế; tỷ lệ nội địa hóa thấp, ưu thế trong xuất khẩu hiện nay thuộc về các nhà đầu tư nước ngoài; giá trị gia tăng của công nghiệp chủ yếu tăng nhờ sự phát triển theo bề rộng, tốc độ tăng giá trị sản xuất cao hơn tốc độ tăng giá trị tăng thêm. - Sự phát triển của các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, như điện, cơ khí, tự động, vật liệu... còn 57 thấp, chưa đủ khả năng tham gia quá trình toàn cầu hóa và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy các ngành kinh tế, dịch vụ khác. - Mặc dù hệ thống kết cấu hạ tầng là một trong những khâu đột phá, song tính kết nối giữa các phương thức vận tải chưa cao, là điểm nghẽn của quá trình phát triển. Quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh nhưng chất lượng cung cấp dịch vụ kém, phân bố dân cư không đồng đều, chưa đáp ứng tốt cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. - Trong thời gian tới, tình hình chính trị và kinh tế thế giới sẽ còn có nhiều bất ổn gây ra tác động đa chiều, song kinh tế vẫn là vấn đề chủ đạo bảo đảm sự ổn định và phát triển. Toàn cầu hóa với kinh tế tri thức vẫn là xu thế chủ yếu trong phát triển kinh tế. Nền kinh tế thế giới sẽ chuyển dịch theo theo chiều hướng từ Tây sang Đông, từ “nâu” sang “xanh”, biến đổi sâu sắc về thể chế lẫn trình độ công nghệ và cơ cấu sản phẩm, với những đặc điểm nổi bật sau: + Trong quá trình toàn cầu hóa, các chuẩn mực, nguyên tắc và các định chế quốc tế sẽ trở thành một trong những chủ thể vận hành nền kinh tế thế giới. Theo đó, sự cạnh tranh giữa các quốc gia về nguồn lực và công nghệ ngày càng gay gắt hơn. + Sự tùy thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế trên thế giới ngày càng lớn. 58 + Sự trỗi dậy của một số nền kinh tế mới nổi (nhất là Trung Quốc và Ấn Độ) làm dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, chuỗi sản xuất và dịch vụ, chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực. + Tiến bộ của khoa học và công nghệ, sự phát triển của kinh tế tri thức tạo cơ hội cho các nước đi sau bắt nhịp, tham gia chuỗi kinh tế toàn cầu và là thời cơ để “rút ngắn” quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. IV- MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM 1. Mục tiêu Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đưa nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Từ nay đến 59 giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 2. Nhiệm vụ, giải pháp cơ bản thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường; đồng thời, thực hiện tốt chính sách xã hội. Có hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế; bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tạo lập sự đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Hai là, phát triển mạnh công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh. Phải đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế tri thức, 60 bảo đảm tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hóa chất, công nghiệp quốc phòng. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ; từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường. Đồng thời, chú ý phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn và hiệu quả cao. Ba là, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh. Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP là một hướng quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cần tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, như: du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế...; hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, logistic và 61 các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác; phát triển mạnh dịch vụ khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm và an sinh xã hội. Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo, tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý. Phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và 62 cán bộ quản lý giáo dục; ưu tiên đầu tư xây dựng một số trường sư phạm, trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; khắc phục tình trạng phân tán trong hệ thống các cơ sở đào tạo nhà giáo. Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để tuyển chọn được những người có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạm. Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp. Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Có chế độ ưu đãi và quy định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà giáo có trình độ cao; có cơ chế miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng. Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu khoa học. Bảo đảm bình đẳng giữa nhà giáo trường 63 công lập và nhà giáo trường ngoài công lập về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ... Tạo điều kiện để chuyên gia quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước. Triển khai các giải pháp, mô hình liên thông, liên kết giữa các cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học với các tổ chức khoa học và công nghệ, đặc biệt là các viện nghiên cứu. Năm là, tập trung phát triển khoa học và công nghệ, bảo đảm thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Cần hướng trọng tâm hoạt động khoa học và công nghệ vào phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là công nghệ thông tin, bảo đảm phát triển theo chiều sâu, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ. 64 Bài 3 VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM I- KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM LÀ TẤT YẾU TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA Xà HỘI 1. Khái niệm Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã được Đại hội IX của Đảng (năm 2001) nêu rõ: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”1. Tới Đại hội XII của Đảng, khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tiếp tục được làm ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.181. 65 sáng tỏ hơn, theo đó: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””1. 2. Tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xôviết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng do muốn xóa bỏ ngay kinh ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.102. 66 tế hàng hóa, áp dụng cơ chế kinh tế phi thị trường, không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên đã không thành công. Khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, do điều kiện thù trong giặc ngoài, tình hình nước Nga rất nguy cấp, V.I. Lênin đã thực hiện “Chính sách cộng sản thời chiến”. Sau khi thắng lợi của cuộc chiến chống thù trong giặc ngoài, phát hiện ra những bất cập của “Chính sách cộng sản thời chiến”, Lênin đã thực hiện “Chính sách kinh tế mới” (NEP) với nội dung cơ bản là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường. Theo V.I. Lênin, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn, nhưng NEP đã đem lại những kết quả tích cực: nước Nga đã hồi phục và phát triển nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Sau khi V.I. Lênin qua đời, tư tưởng của Người về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp tục thực hiện. Sự thành công và sự phát triển mạnh mẽ suốt một thời 67 gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hóa đất nước bằng mô hình kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế hoạch hóa tập trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường bị loại bỏ đã có sức hấp dẫn lớn đối với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế, lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển tuyệt đối hóa, biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới lý luận ở một số nước đã thấy có sự “bất ổn” nên đã đưa ra những kiến nghị, đề xuất, như quan điểm “chủ nghĩa xã hội thị trường”,... nhưng không được chấp nhận. Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của mô hình kinh tế Xôviết bộc lộ rất rõ; cùng với sự yếu kém trong lãnh đạo, quản lý đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Một số nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “tư duy chính trị mới”, nên đã phạm sai lầm cực đoan, phiến diện, dẫn tới sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở 68 Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường. Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và Nhân dân Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, để trả lời được không hề đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xôviết, phát triển kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng mô hình này đã bộc lộ nhiều khuyết điểm; trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam. Trên cơ sở đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Hội nghị 69 Trung ương 6 khóa VI (tháng 3/1989), phát triển thêm một bước khi đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”1. Đến Đại hội VII (tháng 6/1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nêu rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là con đường chiến lược đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”2. Đại hội VIII của Đảng đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: Sản xuất hàng hóa... tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Nhưng phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.595. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.135. 70 hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam1. II- NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1. Quá trình đổi mới tư duy lý luận và thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam a) Giai đoạn trước Đại hội IX (năm 2001) - Giai đoạn trước Đại hội VI (năm 1986) Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (năm 1979) đã thông qua Nghị quyết về lưu thông - phân phối, mở đường áp dụng cơ chế “kế hoạch ba phần” trong các doanh nghiệp nhà nước, cho phép doanh nghiệp nhà nước vươn ra thị trường tự do với phần vượt ra ngoài kế hoạch pháp lệnh. Năm 1981, Chỉ thị số 100-CT/TW (gọi tắt là Khoán 100) đã mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã ___________ 1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.181-182. 71 nông nghiệp. Hộ nông dân được nhận khoán sản phẩm và được quyền bán sản phẩm vượt khoán trên thị trường tự do. Đây thực sự là hai điểm đột phá thị trường đầu tiên ở hai lĩnh vực kinh tế chủ chốt, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho doanh nghiệp, tập thể và người lao động. Tuy đây là sự chuyển biến nhận thức và thực tiễn quan trọng, mang tính đột phá, song vẫn chưa đủ để tạo ra một bước ngoặt căn bản trong quan điểm lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Thị trường chỉ được coi là công cụ bổ sung. Công cụ chủ yếu để quản lý, điều hành và tổ chức kinh tế vẫn là kế hoạch pháp lệnh với các chỉ tiêu định lượng cụ thể giao xuống từng doanh nghiệp (xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã). Về thực chất, đó là những cải tiến, cải cách cục bộ trong khuôn khổ cơ chế cũ (kế hoạch hóa tập trung) và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế vận hành thông qua cơ chế đó. - Giai đoạn 1986 - 2001 + Đại hội VI (năm 1986): Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó nhấn mạnh yêu cầu đổi mới tư duy. Tư tưởng coi việc “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý” (sau tính kế hoạch), đòi hỏi “sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị 72 kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng”1... là đột phá quan trọng về tư tưởng và đường lối phát triển kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Năm 1987, Luật đất đai và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành. Chính sách tỷ giá được tính sát với tỷ giá thị trường; mở cửa cho xuất khẩu các loại nông sản, đặc biệt là gạo. + Những năm 1988 - 1990, Việt Nam tiến hành đổi mới một cách có hệ thống, tương đối đồng bộ và triệt để trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Chế độ hai giá bị xóa bỏ, áp dụng hệ thống giá thị trường, thống nhất hệ thống tỷ giá và thực hiện chế độ lãi suất dương để chống lạm phát; thông qua Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Pháp lệnh ngân hàng hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính; sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; ban hành Luật công ty, cho phép các công ty tư nhân trực tiếp xuất, nhập khẩu. + Những năm 1991 - 1996, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh đổi mới thể chế và định hình khung cấu trúc thể chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.397. 73 nghĩa xã hội. Cương lĩnh khẳng định đường lối: Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo... Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác1. Tiếp đó, Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1992, chính thức thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; bãi bỏ nhiều loại giấy phép xuất khẩu và chế độ quản lý bằng hạn ngạch. + Những năm 1996 - 2000, tuy đổi mới thể chế có phần chững lại, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, nhưng nền kinh tế vẫn có tăng trưởng. b) Giai đoạn thực hiện các mục tiêu của Đại hội IX (2001 - 2006) Trong giai đoạn này, nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế đã chuyển sang coi thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời đặt ra vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. ___________ 1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.137-138. 74 Đại hội IX khái quát mô hình nền kinh tế thị trường thể hiện sự phát triển tư duy hệ thống về mô hình tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”1. - Đại hội xác định một loạt yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế thị trường: + Bổ sung “dân chủ” vào hệ mục tiêu phát triển tổng quát: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. + Xác nhận chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế. + Coi “từng bước phát triển kinh tế tri thức” là một nội dung của chiến lược phát triển kinh tế. + Kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (nhà nước xã hội chủ nghĩa). + Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác... Tăng trưởng kinh tế gắn liền và bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.181. 75 trong từng bước phát triển, đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục. - Ba mũi đột phá chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội được lựa chọn là: + Xây dựng đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách nhằm giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; + Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; + Đổi mới bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Với sự xác định như vậy, Đại hội IX đã tiến một bước dài trong việc cụ thể hóa mô hình phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam: Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (tháng 12/2001) phát huy tác dụng tích cực, mở ra nhiều cơ hội phát triển to lớn cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam; chứng tỏ việc giải phóng thể chế mang lại sức thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Luật doanh nghiệp tiếp tục phát huy tác dụng, có sức lan toả mạnh mẽ, tạo nên làn sóng phát triển mới trong khu vực tư nhân. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh: thực hiện các cam kết của Khu vực mậu 76 dịch tự do (AFTA), đẩy mạnh quá trình liên kết kinh tế ASEAN theo hướng xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), ký Hiệp định bảo hộ đầu tư với Nhật Bản; thúc đẩy quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... Nền kinh tế đã khôi phục lại nhịp độ tăng trưởng, giữ vững được ổn định. Tuy nhiên, từ sau Đại hội IX đã nảy sinh thêm nhiều vấn đề mới trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nền kinh tế hội nhập sâu và nhanh hơn vào nền kinh tế thế giới, song các vấn đề về chất lượng tăng trưởng (như cơ cấu, thể chế, sức cạnh tranh) là rất nghiêm trọng. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng tụt hậu xa hơn. Tăng trưởng vẫn thấp hơn mức tiềm năng. Một số vấn đề cơ bản trong nhận thức lý luận, quan điểm, tư tưởng và chính sách về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - vấn đề về sở hữu, về cơ cấu thành phần, về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò của Nhà nước, về quan hệ giữa tăng trưởng và đói nghèo, giữa các yếu tố kinh tế - xã hội và kiến trúc thượng tầng... đòi hỏi phải được giải quyết triệt để để định hình khung lý luận cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. c) Giai đoạn thực hiện các mục tiêu của Đại hội X (2006 - 2011) Tại Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định: “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ 77 bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt”1. Có thể khái quát các thành tựu mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đạt được như sau: Một là, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định. Hai là, tạo dựng được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học công nghệ phát triển khá, thể chế kinh tế thị trường đã từng bước được hình thành và phát triển. Ba là, cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực để phát huy tiềm năng của từng ngành, từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Bốn là, kinh tế đối ngoại được mở rộng và phát triển, khả năng hội nhập khu vực và thế giới được tăng cường. Năm là, thành tựu trong công tác xoá đói, giảm nghèo. Nguyên nhân của những thành tựu nêu trên là do chúng ta đã: “Phát huy được sức mạnh của toàn dân ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.67. 78