🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tài Liệu Bồi Dưỡng Nghiệp Vụ Công Tác Tuyên Giáo Ở Cơ Sở (Dành Cho Cấp Uỷ Và Cán Bộ Tuyên Giáo Ở Cơ Sở)
Ebooks
Nhóm Zalo
(Xuất bản lần thứ hai)
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TKS. PHnM TH THINH
#JÐO UՀQ OՖJ EVOH ThS. Đ PH¡NG M$I TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
BÙI BỘI THU
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
/Ê TH Hj /$N
NG8<N Q8§NH /$N TK6. Đ PH¡NG M$I 9I
T Hj
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: -2020/CXBIPH/ - /CTQG. Số quyết định xuất bản: -QĐ/NXBCTQG, ngày / /2020. Nộp lưu chiểu tháng năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57- - .
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên giáo ở cơ sở: Dành cho cấp ủy và cán bộ tuyên giáo ở cơ sở. - Xuất bản lần thứ 2. - H.: Chính trị quốc gia, 2020. - 240tr.: hình vẽ, bảng; 19cm
ĐTTS ghi: Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng ISBN 9786045754696
1. Đảng Cộng sản Việt Nam 2. Công tác tuyên giáo 3. Tài liệu bồi dưỡng
324.2597075 - dc23
CTF0459p-CIP
(Xuất bản lần thứ hai)
CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
TS. BÙI TRƯỜNG GIANG
TẬP THỂ BIÊN SOẠN
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA ThS. VŨ HỮU PHÊ
TS. NGUYỄN KIM PHƯỢNG
TS. LÊ ĐỨC HOÀNG
CN. NGUYỄN MINH THỦY
ThS. MAI YẾN NGA
ThS. ĐÀO MAI PHƯƠNG
ThS. ĐINH VĂN BẮC
ThS. TRẦN THỊ THÙY
TS. LƯƠNG CÔNG LÝ
CN. TRƯƠNG NGỌC VINH
LỜI NÓI ĐẦU
Công tác tuyên giáo ở cơ sở là một bộ phận hợp thành trong hoạt động lãnh đạo của tổ chức đảng, một công tác trọng yếu của chính quyền và các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Công tác tuyên giáo ở cơ sở có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mỗi người dân; khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân nhằm biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực, thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng; góp phần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ
sở, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.
Nhằm cung cấp những kiến thức và kỹ năng cơ bản về nghiệp vụ công tác tuyên giáo ở cơ sở, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản cuốn sách: Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên giáo ở cơ sở (Dành cho cấp ủy và cán bộ tuyên giáo ở cơ sở).
5
Cuốn sách gồm 6 chuyên đề, phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn chung và các nội dung cụ thể về công tác tuyên giáo ở cơ sở: công tác giáo dục lý luận chính trị và giáo dục truyền thống cách mạng; công tác tuyên truyền, cổ động; công tác văn hoá, văn nghệ; nắm bắt dư luận xã hội và xử lý tình huống có vấn đề, “điểm nóng”; công tác khoa giáo. Mỗi chuyên đề được viết ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, đã phân tích những vấn đề lý luận chung và làm rõ một số công tác nghiệp vụ của từng nội dung trong công tác tuyên giáo ở cơ sở, được sơ đồ hóa và có các ví dụ minh họa giúp cho cán bộ tuyên giáo ở cơ sở dễ nắm bắt, có thể vận dụng được trong hoạt động thực tiễn.
Cuốn sách nhận được sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học: PGS.TS. Nguyễn Viết Thông, PGS.TS.NGND. Nguyễn Bá Dương, PGS.TS. Phạm Duy Đức, PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa, PGS.TS. Nguyễn Tài Đông.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, song cuốn sách khó tránh khỏi hạn chế. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách tới các đồng chí cùng đông đảo bạn đọc.
Tháng 02 năm 2020
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6
Chuyên đề 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO Ở CƠ SỞ
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Các khái niệm cơ bản
a) Tư tưởng và công tác tư tưởng
- Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện về quan hệ của con người với thế giới xung quanh1. Hệ tư tưởng là những tư tưởng, quan điểm, quan niệm đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành học thuyết về xã hội, phản ánh và bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định được giai cấp đó thừa nhận và truyền bá2.
_____________
1. Xem Ban Tuyên giáo Trung ương: Chương trình bồi dưỡng chuyên đề công tác tuyên truyền miệng, báo cáo viên, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2008, tr.7 (dẫn theo Từ điển triết học, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.877).
2. Xem Lương Khắc Hiếu: Cơ sở lý luận công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2017, tr.9.
7
- Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp đó trong quần chúng, làm cho hệ tư tưởng đó trở thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, thúc đẩy quần chúng tích cực, tự giác đi tới hành động xây dựng và bảo vệ chế độ của giai cấp đó.
+ Công tác tư tưởng trong chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa1.
+ Công tác tư tưởng gồm ba hình thái (bộ phận cấu thành): công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Ba hình thái này có mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau.
Công tác lý luận là quá trình hình thành, phát triển sáng tạo hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường lối, chiến lược, sách lược. Công tác tuyên truyền tiếp nối công tác lý luận, nhằm truyền bá lý luận,
_____________
1. Xem Lương Khắc Hiếu: Cơ sở lý luận công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.20.
8
xây dựng nhận thức mới, củng cố niềm tin và cổ vũ hành động. Công tác cổ động là khâu cuối cùng quyết định việc chuyển hóa lý luận đã được nhận thức, niềm tin đã được xây dựng và củng cố thành hành động cách mạng. Thiếu sự nối tiếp của công tác cổ động thì công tác lý luận và tuyên truyền không đạt tới mục đích thực tiễn là thay đổi hành vi, cổ vũ hành động tích cực, sáng tạo của con người.
Trong thực tiễn công tác tư tưởng không được lẫn lộn hình thái này với hình thái kia, nhất là giữa tuyên truyền và cổ động. Mặt khác, cần phối hợp sử dụng cả ba hình thái sao cho phù hợp với các quá trình tư tưởng đang diễn ra, phù hợp với đặc điểm riêng biệt của từng hình thái, đồng thời quan tâm chỉ đạo để cả ba hình thái hoạt động nhịp nhàng, cân đối, đồng bộ.
+ Nhận thức về công tác tư tưởng cần lưu ý một số điểm sau:
Công tác tư tưởng chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp, có hệ tư tưởng, các thiết chế tư tưởng và những người hoạt động tư tưởng. Không chỉ giai cấp vô sản tiến hành công tác tư tưởng mà mọi giai cấp có hệ tư
tưởng đều tiến hành công tác tư tưởng để phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp mình.
Công tác tư tưởng xuất hiện và tồn tại để thực hiện mục đích mà giai cấp thống trị đặt ra, đó là:
9
hình thành, truyền bá hệ tư tưởng và động viên, thúc đẩy con người hành động xây dựng và bảo vệ chế độ mà giai cấp đóng vai trò chủ thể hệ tư tưởng là giai cấp thống trị.
Công tác tư tưởng là một hoạt động xã hội mang tính quá trình, gồm 3 quá trình cơ bản, đó là: hình thành, sáng tạo hệ tư tưởng (công tác lý luận); truyền bá hệ tư tưởng - quá trình “tái sản xuất” hệ tư tưởng
(công tác tuyên truyền) và biến hệ tư tưởng thành hành động hiện thực thông qua vai trò của quần chúng nhân dân - quá trình “vật chất hóa” hệ tư tưởng (công tác cổ động).
b) Công tác tư tưởng - văn hóa
Trong các sách, báo, tạp chí và trong thực tiễn hoạt động công tác tư tưởng, cụm từ “công tác tư tưởng - văn hóa” được sử dụng rộng rãi, thường xuyên. Cụm từ này được sử dụng phổ biến khi Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương thành lập trên cơ sở hợp nhất Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Văn hóa - Văn nghệ
Trung ương.
Qua các giai đoạn lịch sử, từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng, công tác tư tưởng được bổ sung các nội dung mới về văn hóa, văn nghệ, gọi là công tác tư tưởng - văn hóa. Với quan điểm thống nhất, xuyên suốt các kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn hóa là nền tảng
10
tinh thần, là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội”, công tác tư tưởng - văn hóa chính là xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, làm cho hệ tư tưởng của Đảng ta trở thành hệ tưởng chi phối đời sống văn hóa, tinh thần của Nhân dân, trong mỗi sáng tác văn học nghệ thuật, quảng bá văn hóa, lễ hội và các hoạt động văn hóa khác... qua đó, thúc đẩy, cổ vũ Nhân dân xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Về thực chất thì khái niệm công tác tư tưởng và công tác tư tưởng - văn hóa thống nhất với nhau.
c) Công tác tuyên giáo
Khái niệm công tác tuyên giáo gắn với việc hợp nhất Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương với Ban Khoa giáo Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương, cùng với đó là sự hợp nhất và hình thành những cơ quan này tại các địa phương, tạo thành tổ chức, bộ máy ngành tuyên giáo từ Trung ương tới cơ sở. Theo đó, công tác tuyên giáo là sự thống nhất biện chứng giữa công tác tư
tưởng và công tác khoa giáo (bao gồm: khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y tế, thể dục, thể thao, dân số, gia đình, trẻ em)1.
_____________
1. Xem Quyết định số 144-QĐ/TW, ngày 08/8/2018 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tuyên giáo Trung ương.
11
Theo nghĩa rộng, công tác tuyên giáo là hoạt động có mục đích của chủ thể làm công tác tuyên giáo nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa chủ trương, quan điểm của Đảng về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y tế, thể dục, thể thao,
dân số, gia đình, trẻ em... vào cuộc sống; từ đó động viên, thúc đẩy toàn xã hội hành động một cách tự giác, tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nước nhằm xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Theo nghĩa hẹp hơn, công tác tuyên giáo dùng để chỉ hoạt động cụ thể, các mặt công tác của ngành tuyên giáo. Tuyên giáo là một ngành, một lĩnh vực công tác của Đảng, có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cơ sở.
Thực hiện công tác tuyên giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là các cấp ủy đảng, nòng cốt là ngành tuyên giáo. Công tác tuyên giáo được tiến hành tại tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị, trường học, lực lượng vũ
trang..., trong đó công tác tuyên giáo ở cơ sở đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
12
2. Khái quát chung về công tác tuyên giáo ở cơ sở a) Vị trí, vai trò
- Vị trí.
Công tác tuyên giáo ở cơ sở là một bộ phận hợp thành trong hoạt động lãnh đạo của tổ chức đảng, một công tác trọng yếu của chính quyền và các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Công tác tuyên giáo ở cơ sở có vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở cơ sở; xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.
- Vai trò.
Công tác tuyên giáo ở cơ sở trước hết nhằm xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao và không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Công tác tuyên giáo ở cơ sở có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mỗi người dân; khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự
lực, tự cường, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân nhằm biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân.
13
Công tác tuyên giáo ở cơ sở có vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự thống nhất cao trong tổ chức đảng, sự đồng thuận trong xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở
cơ sở.
b) Nội dung công tác tuyên giáo ở cơ sở
- Công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng ở cơ sở: Đây là nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm bồi dưỡng, nâng cao nhận thức lý luận chính trị, thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan cộng sản, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, bồi đắp lòng yêu nước, yêu quê hương, tình cảm cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ở cơ sở thông qua việc tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng của đảng bộ và nhân dân.
- Công tác tuyên truyền là hoạt động phổ biến, truyền bá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ phục vụ sản xuất, đời sống và chiến đấu. Thông tin kịp thời tình hình thời sự, chính trị..., định hướng tư tưởng trước các sự kiện tác động đến tư
tưởng, tình cảm, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở; đồng thời phê phán các
14
quan điểm sai trái, thù địch, tin đồn và tài liệu xấu lan truyền, phát tán tại cơ sở.
- Công tác cổ động là hoạt động cổ vũ, thúc đẩy sự chuyển biến nhận thức tư tưởng, niềm tin thành hành động cách mạng cụ thể, thành phong trào quần chúng rộng rãi một cách tích cực, tự giác.
- Công tác văn hóa - văn nghệ nhằm bảo đảm phản ánh đúng chủ trương, đường lối của Đảng, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua hoạt động văn hóa - văn nghệ, qua đó, không chỉ thỏa mãn nhu cầu của nhân dân mà hơn hết là trang bị thế giới quan cách mạng, nhân sinh quan cộng sản, giáo dục đạo đức, lối sống, lý tưởng, niềm tin vào chế độ, vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
- Công tác dư luận xã hội nhằm nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội và định hướng tư tưởng, dư luận xã hội ở cơ sở. Công tác dư luận giúp cung cấp thông tin, dự báo tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội để cấp ủy, chính quyền cơ sở giải quyết, không để thành các “điểm nóng”, bức xúc xã hội, khiếu kiện kéo dài; đồng thời có thêm cơ sở trong việc đấu tranh, phản bác các thông tin sai lệch, bịa đặt, thông tin trái chiều... hòng chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.
15
- Công tác khoa giáo nhằm tham mưu xây dựng quan điểm, chủ trương của Đảng về lĩnh vực khoa giáo (khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y tế, thể dục, thể thao, dân số, gia đình và trẻ
em); đồng thời tuyên truyền, phổ biến, đưa các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về các lĩnh vực khoa giáo vào cuộc sống; cổ vũ, thúc đẩy hệ thống chính trị và toàn xã hội tích cực, tự giác thực hiện các quan điểm, chủ
trương, chính sách đó. Thông qua đó, công tác khoa giáo góp phần trực tiếp phát huy nguồn nhân lực, xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng nền kinh tế tri thức; bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội...
c) Nhiệm vụ của công tác tuyên giáo ở cơ sở
Công tác tuyên giáo ở cơ sở có 6 nhiệm vụ cơ bản, cụ thể là:
Một là, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, từ đó xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, lý tưởng, lẽ sống, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên quyết bảo vệ
16
nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch.
Hai là, phổ biến, quán triệt sâu rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để nâng cao nhận thức và củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Không ngừng đổi mới nội dung, hình thức phổ biến, quán triệt, tuyên truyền để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Đây là nhiệm vụ phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Ba là, cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân chủ động, tự giác, tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong mỗi giai đoạn; chỉ đạo, hướng dẫn, cổ vũ thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước và các phong trào xã hội khác ở cơ sở; coi trọng công tác nêu gương, chú trọng việc bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình, nhân tố mới, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị trong từng giai đoạn.
Bốn là, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của địa phương, đơn vị, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
17
Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Năm là, điều tra, nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội, kịp thời xử lý tin đồn, giải quyết “điểm nóng”, các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, không để xảy ra khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện tập thể, “điểm nóng” ở cơ sở; giáo dục ý thức cảnh giác, chống các hoạt động “diễn biến hòa bình”, cơ hội chính trị, lôi kéo, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân ở cơ sở.
Sáu là, tích cực phổ biến, tuyên truyền, đưa nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về các lĩnh vực của công tác khoa giáo vào cuộc sống, thực hiện tốt công tác khoa giáo ở cơ sở; phát hiện những bất cập để đề xuất giải pháp khắc phục, góp phần hoàn thiện các quan điểm, chủ trương, chính sách về các lĩnh vực khoa giáo.
d) Nguyên tắc, phương châm của công tác tuyên giáo ở cơ sở
- Nguyên tắc.
+ Nguyên tắc tính đảng: Tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tuyên giáo. Công tác tuyên giáo
18
phải đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ động đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng thù địch, phản khoa học, đi ngược lại với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia, dân tộc. Công tác tuyên giáo ở cơ sở đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy đảng, phục vụ kịp thời công tác lãnh đạo của cấp ủy, sự quản lý của chính quyền; góp phần xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.
+ Nguyên tắc tính khoa học: Công tác tuyên giáo được tiến hành trên cơ sở khoa học, tuân theo các quy luật vận động, biến đổi của tự nhiên, xã hội, tư tưởng, bảo đảm tính khách quan, vừa cụ thể vừa toàn diện. Công tác tuyên giáo được tiến hành có kế hoạch, nội dung và hình thức phù hợp với từng đối tượng, đáp ứng nhu cầu giải đáp những vướng mắc và định hướng tư tưởng cho mọi đối tượng. Công tác tuyên giáo phải sử dụng các phương tiện tác động ngày càng hiện đại.
+ Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn: Công tác tuyên giáo phải xuất phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn; đồng thời phải được soi sáng, định hướng bằng lý luận, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách khoa học.
19
- Phương châm.
Phương châm công tác tuyên giáo là những định hướng có tính chỉ đạo trong hoạt động tuyên giáo. Tùy theo đặc điểm, nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đất nước, của ngành tuyên giáo, của địa phương mà xác định phương châm cho phù hợp, đem lại hiệu quả cao trong công tác. Có phương châm chung và phương châm cho từng lĩnh vực công tác trong từng thời điểm, nhiệm vụ cụ thể.
Phương châm công tác tuyên giáo ở cơ sở có thể khái quát như sau:
+ Gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phong trào cách mạng của quần chúng, với từng đối tượng ở cơ sở.
+ Kết hợp chặt chẽ ba nội dung giáo dục: (1) Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; (2) Giáo dục kiến thức khoa học, kiến thức thực tiễn, tình hình, nhiệm vụ của địa phương, cơ
sở; (3) Giáo dục phẩm chất và đạo đức cách mạng. + Kết hợp công tác tuyên giáo với công tác tổ chức và các mặt công tác khác.
+ Kết hợp giáo dục tư tưởng trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn cách mạng.
+ Kết hợp giáo dục tư tưởng trong nội dung sinh hoạt của tất cả các tổ chức, kết hợp công tác tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.
20
+ Kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán mạnh mẽ những biểu hiện tư tưởng sai trái; biểu dương những ưu điểm đi đôi với phê bình những khuyết điểm.
Ngoài ra, còn có nhiều cách diễn đạt về phương châm công tác tuyên giáo ở cơ sở như: “Công tác tuyên giáo đi trước, đi cùng, đi sau công tác thực tiễn”, “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”, “hướng về cơ sở, xây đi đôi với chống”, “nói đi đôi với làm, làm đúng những gì đã nói”, “không đánh trống bỏ
dùi”, “không trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “nhanh nhạy, hiệu quả, phù hợp, thuyết phục”...
II- LỰC LƯỢNG TIẾN HÀNH CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO Ở CƠ SỞ
Công tác tuyên giáo ở cơ sở do ban tuyên giáo đảng ủy xã/phường/thị trấn (sau đây gọi tắt là ban tuyên giáo đảng ủy xã) và cấp ủy cơ sở cùng các lực lượng phối hợp tiến hành công tác tuyên giáo đảm nhiệm.
1. Ban tuyên giáo đảng ủy xã
Ban tuyên giáo đảng ủy xã có cơ cấu bao gồm các thành viên trong đảng ủy xã được phân công kiêm nhiệm công tác tuyên giáo xã, chủ yếu theo mô hình sau: Trưởng ban (hoặc phụ trách) là đồng chí bí thư hoặc đồng chí phó bí thư thường trực cấp ủy. Phó trưởng ban
21
là đồng chí phó chủ tịch phụ trách văn hóa - xã hội của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, các thành viên của ban tuyên giáo đảng ủy xã còn bao gồm: các đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch Mặt trận Tổ
quốc; bí thư Đoàn Thanh niên; cán bộ phụ trách văn hóa; chủ tịch Hội cựu chiến binh cấp xã...
a) Chức năng
Ban tuyên giáo đảng ủy xã chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy cùng cấp, có chức năng tham mưu và giúp việc cho cấp ủy về các mặt công tác tư tưởng, văn hóa, khoa giáo, biên soạn, bổ sung lịch sử đảng bộ địa phương, đơn vị và trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động tuyên giáo trên địa bàn cơ sở.
b) Nhiệm vụ
Ban tuyên giáo đảng ủy xã giúp cấp ủy thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác giáo dục lý luận chính trị, nâng cao nhận thức và sự thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức, lối sống, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, ngăn chặn các tệ nạn xã hội.
22
- Xây dựng kế hoạch công tác tư tưởng của đảng bộ, chi bộ trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh. Ban tuyên giáo vừa xây dựng kế hoạch (theo nhiệm kỳ đại hội của chi bộ, đảng bộ; kế hoạch năm, quý, tháng; kế hoạch thực hiện chương trình hành động của cấp ủy...) vừa trực tiếp tác nghiệp trên các lĩnh vực sau:
+ Giữ vai trò nòng cốt trong việc tuyên truyền, giáo dục, vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ban tuyên giáo cùng với mạng lưới cộng tác viên từ xã, phường đến thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, tổ nhân dân tự
quản, các đoàn thể nhân dân, các nghiệp đoàn, hội... là lực lượng quan trọng trong công tác giáo dục cán bộ, đảng viên làm theo Điều lệ Đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh.
+ Phát hiện kịp thời những vấn đề tư tưởng mới nảy sinh để tham mưu giúp cấp ủy đưa ra các biện pháp giải quyết. Phát hiện kịp thời gương người tốt, việc tốt để tuyên truyền và nhân rộng trong Đảng, trong nhân dân.
+ Hướng dẫn, phối hợp, đôn đốc, kiểm tra các lực lượng trong xã, phường, thị trấn, thôn, làng, ấp, bản, khu phố... thực hiện nhiệm vụ công tác tư tưởng.
+ Trực tiếp chỉ đạo về nội dung chính trị, tư tưởng của các tài liệu phục vụ cho hoạt động tuyên truyền của mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên, đội văn nghệ, đài truyền thanh, nhà văn hóa, điểm bưu điện - văn hóa, thư viện, tủ sách, bản tin,...
23
+ Hướng dẫn nội dung sinh hoạt định kỳ hoặc đột xuất của đảng bộ, chi bộ.
- Tham mưu kế hoạch, nội dung tiến hành cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” về tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống... Ban tuyên giáo đảng ủy xã phải xây dựng kế hoạch, xác định rõ nội dung, phương pháp, phối hợp lực lượng, tiến hành sơ kết theo từng đợt, từng chủ đề; báo cáo cấp ủy theo định kỳ và không định kỳ
về tình hình diễn biến tư tưởng trong Đảng, trong nhân dân, đánh giá khả năng “đề kháng” của cán bộ, đảng viên, nhân dân trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, trong nước, địa phương; trước những khó khăn, biến động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
c) Phương thức thực hiện
- Xây dựng kế hoạch hoạt động: bao gồm kế hoạch dài hạn (theo nhiệm kỳ Đại hội của đảng bộ, chi bộ); kế hoạch năm, quý, tháng; kế hoạch theo các chủ đề... Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, làm cơ sở cho các mặt công tác khác.
- Lên lịch sinh hoạt: họp định kỳ; giao ban tư tưởng định kỳ với cấp ủy; mạng lưới cộng tác viên (các đoàn thể chính trị - xã hội, báo cáo viên, tuyên truyền viên, các nghiệp đoàn, các hội đoàn, các cơ quan giáo dục,
24
y tế...). Xây dựng chế độ báo cáo và phân công giải quyết công việc cho các thành viên của ban.
2. Các lực lượng phối hợp tiến hành công tác tuyên giáo ở cơ sở
- Ở xã, ngoài ban tuyên giáo đảng ủy xã theo cơ cấu nêu trên, công tác tuyên giáo còn có sự phối hợp tham gia của ban dân vận, ban công tác mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, cấp ủy các cơ quan, đơn vị như: trạm y tế, trường học, các đơn vị quân đội, công an, bộ
đội biên phòng đóng trên địa bàn,...
- Ở thôn, bản, làng, ấp, xóm, tổ dân phố, chi ủy chi bộ thực hiện các mặt công tác xây dựng đảng nói chung và công tác tuyên giáo nói riêng.
3. Cách thức phối hợp giữa các lực lượng tiến hành công tác tuyên giáo ở cơ sở
- Căn cứ vào nhiệm vụ công tác tuyên giáo của cấp trên, cấp ủy cấp xã xây dựng kế hoạch, chương trình triển khai thực hiện.
+ Ban tuyên giáo đảng ủy xã chủ trì phối hợp với các lực lượng làm công tác tuyên giáo ở xã tham mưu kế hoạch, chương trình công tác trình cấp ủy.
+ Cấp ủy thông qua kế hoạch, chương trình và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các lực lượng thực hiện.
25
+ Sau khi được cấp ủy thông qua, từng tổ chức, đơn vị phải cụ thể hóa kế hoạch, chương trình của mình. - Công tác phối hợp thể hiện trên các nội dung, nhiệm vụ cụ thể tại địa phương như: tổ chức các hội nghị học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các nghị quyết, chỉ thị thông qua nhiều hình thức, phương tiện như: tổ chức các cuộc sinh hoạt chính trị, phát động các phong trào thi đua yêu nước, tổ chức các ngày kỷ niệm, các sự kiện lớn của đất nước, thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền miệng,...
- Cấp ủy thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ công tác tuyên giáo của các đoàn thể chính trị - xã hội, các đơn vị trên địa bàn.
III- ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO Ở CƠ SỞ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
1. Tình hình công tác tuyên giáo ở cơ sở trong những năm qua
a) Những kết quả đạt được
Công tác tuyên giáo có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng. Trong những năm gần đây, trước những yêu cầu của tình hình mới, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết,
26
chỉ thị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tuyên giáo. Ngày 18/3/2002, Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TW về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Ngày 01/8/2007, Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TW về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và XII của Đảng tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò và những yêu cầu mới đối với công tác tuyên giáo: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên”1, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lý luận2, “tăng cường công tác tuyên truyền tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội”3; “tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
_____________
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.255, 22.
27
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả”1.
Trong những năm qua, công tác tuyên giáo đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được nâng lên. Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ
động phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh hơn2.
Đóng góp vào thành tựu chung đó, công tác tuyên giáo ở cơ sở đã được các cấp ủy đảng, ban tuyên giáo các cấp quan tâm, chỉ đạo sâu sát hơn, đầu tư lực lượng, cơ sở vật chất... ngày càng tốt hơn và đạt được những kết quả quan trọng:
- Tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống đấu tranh cách mạng hào hùng của quê hương, đất nước.
_____________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.202, 186.
28
- Tuyên truyền, triển khai, theo dõi, đôn đốc cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần đưa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách vào cuộc sống, tạo sự nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân để triển khai thực hiện. Nhiều chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng đến với nhân dân, được nhân dân hào hứng, phấn khởi đón nhận và tự giác thực hiện, đạt kết quả tốt.
- Cổ vũ tinh thần yêu nước, ý thức tự lực, tự cường; động viên các tầng lớp nhân dân phát huy tài năng, sáng kiến, mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, quyết tâm chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, vươn lên làm giàu, xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Những gương điển hình về phát triển sản xuất, khôi phục và phát triển làng nghề, giải quyết việc làm cho người lao động... ngày càng nhiều và được cổ vũ kịp thời, tạo nên sức sống mới ở nhiều địa phương, cơ sở.
- Nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn, giúp giải quyết tốt các yêu cầu, nhiệm vụ và những vấn đề bức xúc tại cơ sở. Nhiều địa phương đã làm tốt công tác tư tưởng cho nhân dân trong giải tỏa đất đai, nhà cửa, giải phóng mặt bằng để
xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa, động viên
29
nhân dân góp công, góp của xây dựng các công trình làm đẹp cho quê hương.
- Góp phần tích cực vào việc tham mưu, đề xuất và vận động nhân dân đóng góp tài năng, sáng kiến cho các cấp lãnh đạo, quản lý để giải quyết những vấn đề ở cơ sở như phòng, chống tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, công tác giáo dục, y tế trên địa bàn,...
- Góp phần trực tiếp trong việc tuyên truyền, định hướng tư tưởng cho nhân dân tại địa phương đấu tranh chống các âm mưu kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.
b) Những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh các kết quả đạt được, công tác tuyên giáo nói chung và công tác tuyên giáo ở cơ sở nói riêng còn những hạn chế, yếu kém nên tình hình tư tưởng ở một số nơi có diễn biến phức tạp. Đảng ta chỉ rõ: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”,
30
“tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý. Phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị còn lạc hậu”1.
Công tác tuyên giáo có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức, ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ; chưa được tổ chức và tiến hành chu đáo, chặt chẽ, có biểu hiện buông lỏng, coi nhẹ, do vậy trong những tình huống nhất định còn thiếu chủ động, kịp thời, chưa bám sát thực tiễn.
Phương thức tổ chức triển khai các nhiệm vụ công tác tuyên giáo chậm đổi mới; công tác phối hợp giữa các lực lượng tiến hành công tác tuyên giáo ở cơ sở thiếu chặt chẽ, chưa tạo được sự phối hợp chủ động, thường xuyên.
Việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng chưa đạt chất lượng và hiệu quả cao, còn nặng về hình thức. Công tác tuyên truyền, học tập gương tốt, điển hình tiên tiến ở cơ sở còn yếu; thông tin tình hình thời sự, chính trị, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.192-193.
31
và Nhà nước còn chậm. Ở nhiều thôn xóm, các vùng sâu, vùng xa, cán bộ, đảng viên và nhân dân thiếu thông tin nên dễ bị kẻ xấu tuyên truyền, kích động, lừa mị, lợi dụng...
Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chưa thực sự đi vào chiều sâu, có nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả của việc “làm theo” chưa đạt yêu cầu. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có mặt còn diễn biến phức tạp hơn.
Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân có lúc còn chậm, do đó chưa chủ động và kịp thời định hướng thông tin, tạo sự thống nhất; một số vấn đề bức xúc chưa được giải quyết thấu tình, đạt lý ngay từ chi bộ.
Công tác tuyên giáo ở cơ sở chưa thể hiện rõ tính chiến đấu trong đấu tranh chống các tư tưởng và hành vi sai trái, thù địch, chống tệ nạn xã hội, chống quan liêu, tham nhũng và suy thoái đạo đức, lối sống.
Cán bộ tuyên giáo ở cơ sở là lực lượng kiêm nhiệm, đội ngũ còn mỏng, chưa thực sự nhiệt tình, chưa dành thời gian cho việc nghiên cứu, triển khai các nội dung công tác tuyên giáo. Năng lực của một bộ phận cán bộ
làm công tác tuyên giáo còn hạn chế.
32
Ở một số nơi, việc đầu tư cho công tác tuyên giáo ở cơ sở hạn chế cả về kinh phí, lực lượng và phương tiện.
c) Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Một là, nhận thức và quyết tâm của cấp ủy, ban tuyên giáo các cấp trong chỉ đạo, tổ chức, đầu tư và xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng chưa ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ. Ở nhiều nơi, các hạn chế, yếu kém được chỉ ra trong nhiều chỉ thị, nghị quyết nhưng thiếu biện pháp khắc phục có hiệu quả.
Hai là, việc thể chế hóa các quy định về công tác tuyên giáo ở cơ sở chưa được thực hiện đầy đủ, đồng bộ, thiếu quy chế phối hợp giữa các lực lượng làm công tác tuyên giáo ở cơ sở.
Ba là, nội dung, hình thức tiến hành công tác tư tưởng còn chậm đổi mới, đơn điệu, xơ cứng, thiếu sinh động, chưa tận dụng được ưu thế của các phương tiện thông tin, truyền thông hiện đại qua internet, mạng xã hội...
Bốn là, lực lượng làm công tác tuyên giáo ở cơ sở là các cán bộ, công chức kiêm nhiệm thực hiện, không có lực lượng chuyên trách. Công tác bồi dưỡng cán bộ làm công tác tuyên giáo về mọi mặt, nhất là về nghiệp vụ
chuyên môn còn yếu. Chế độ, chính sách, nguồn lực đầu tư chưa có tác dụng động viên, khuyến khích cán bộ
33
cơ sở tâm huyết với công việc, chưa động viên đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân cùng tham gia làm công tác tư tưởng.
Năm là, một số cấp ủy địa phương, đơn vị còn xem nhẹ, thiếu quan tâm chỉ đạo, buông lỏng khâu kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện công tác tuyên giáo.
d) Một số kinh nghiệm trong tổ chức và hoạt động công tác tuyên giáo ở cơ sở
Thứ nhất, thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy và ban tuyên giáo các cấp đối với công tác tuyên giáo ở cơ sở.
Cấp ủy và ban tuyên giáo các cấp phải thường xuyên chăm lo xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo; thường xuyên theo dõi, chỉ đạo và định kỳ kiểm tra, rút kinh nghiệm hoạt động của ban tuyên giáo và cán bộ tuyên giáo ở cơ sở. Phải phân công cán bộ theo dõi từng cơ sở, cụm cơ sở để chỉ đạo, hướng dẫn, đảm bảo cho công tác tuyên giáo ở các cơ sở hoạt động nhịp nhàng, đúng hướng, đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Đối với các cơ sở còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, ở các “điểm nóng”, ở vùng sâu, vùng xa... cần có cán bộ theo dõi, bám và nắm cơ sở thường xuyên để cùng với cấp ủy đảng, chính quyền và ban tuyên giáo cơ sở
34
tổ chức tiến hành công tác tuyên giáo đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Thứ hai, phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Ở cơ sở, xác định rõ cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp thống nhất các hoạt động công tác tuyên giáo; chính quyền (hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân) tham gia xây dựng nội dung, kế hoạch và tạo điều kiện cho các tổ chức hoạt động; ban tuyên giáo đảng ủy xã làm nòng cốt, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phân công cán bộ làm công tác tuyên giáo để
tổ chức, tiến hành các hoạt động công tác tuyên giáo ở cơ sở được đồng bộ và rộng khắp.
Thứ ba, bám sát thực tiễn, kịp thời giải đáp những vấn đề tư tưởng, những băn khoăn, bức xúc của nhân dân ở cơ sở; nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả của công tác tuyên giáo ở cơ sở.
Cấp ủy, ban tuyên giáo đảng ủy xã phải luôn bám sát đời sống, sản xuất và mọi mặt hoạt động, tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phân công cán bộ, đảng viên, cấp ủy và quần chúng bám sát tình hình, kịp thời phản ánh cho cấp ủy, cán bộ các cấp. Khi có dấu hiệu bất thường hoặc phát hiện vấn đề nảy sinh trong tư tưởng, tâm trạng, đời sống, khi có thắc mắc, đề nghị cần giải đáp, cấp ủy phải nghiên cứu, bàn bạc
35
và thống nhất cách giải quyết, đồng thời phân công cán bộ có đủ khả năng, kinh nghiệm giải quyết thật cụ thể, có sức thuyết phục, không để hình thành “điểm nóng” hay bức xúc về tư tưởng kéo dài, gây bất bình và mất ổn định trong nhân dân.
Thứ tư, phát huy nhân tố tích cực trong nhân dân, dựa vào nhân dân để tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân.
Trong công tác tuyên giáo, nhân dân luôn là lực lượng hùng hậu, họ không chỉ là đối tượng tuyên truyền, giáo dục, vận động mà còn là chủ thể tích cực tham gia giải quyết những vấn đề tư tưởng ở cơ sở. Một mặt, nhân dân là “tai, mắt” của Đảng trong nắm bắt và phản ánh tình hình tư tưởng. Mặt khác, nhân dân là chủ thể, là lực lượng tuyên truyền, giáo dục có sức mạnh to lớn và hiệu quả. Đặc biệt là trong đấu tranh chống tiêu cực, chống tệ nạn xã hội, trong giải quyết mâu thuẫn nội bộ nhân dân... cần phát huy tốt sức mạnh đoàn kết và vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội. Một khi toàn dân đã ủng hộ, tích cực tham gia công tác tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh chống tiêu cực, tạo nên dư luận xã hội lành mạnh thì công tác tuyên giáo có sức sống và hiệu quả rất lớn.
Để phát huy vai trò của nhân dân, nhiều địa phương, cơ sở đã có các sáng kiến, hình thức tập hợp lực lượng như thành lập các câu lạc bộ, các diễn đàn, các cộng tác viên,
36
các hội, tổ, nhóm... do cấp ủy lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tiến hành. Nội dung hoạt động do cấp ủy, ban tuyên giáo cấp xã chỉ đạo, điều hành, chính quyền và đoàn thể chính trị - xã hội trợ
giúp về vật chất.
2. Bối cảnh, tình hình tác động đến công tác tuyên giáo ở cơ sở hiện nay
Thứ nhất, công cuộc đổi mới đất nước trong hơn 30 năm qua đã mang lại “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”1, thể hiện ở những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền, an ninh quốc gia, khẳng định và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, đơn vị.
Đánh giá về thành tựu hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Văn kiện Đại hội XII khẳng định: “Những
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.65.
37
thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”1. Đó là nguồn động viên, cổ vũ lớn lao đối với toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Đại hội lần thứ XII cũng đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém: “Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động”; “phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường”; “nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội...; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội...”; “trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới”2. Mặt khác, một số vấn đề yếu kém trong công tác quản lý, điều hành, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân của một số cán bộ, đảng viên, công chức, các tiêu cực và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển đã tác động đến niềm tin của Nhân dân vào Đảng và chế độ, _____________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.66, 67-68.
38
đặc biệt tại cơ sở. Thực tế đó ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả công tác tuyên giáo.
Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường vừa tạo thời cơ thuận lợi vừa đặt ra những thách thức đối với sự phát triển đất nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng rộng mở của quá trình hội nhập đã tạo ra môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng, năng động, khơi dậy trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân tinh thần tích cực, chủ động thích ứng và phát huy tài năng, trí tuệ xây dựng đất nước. Nhiều tấm gương tiêu biểu có mặt trên khắp mọi miền của Tổ quốc, ở mọi cấp, mọi ngành đã có sức động viên, lôi cuốn đông đảo quần chúng vươn lên.
Mặt khác, hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức lớn về sự chồng lấn, xâm lăng của văn hóa ngoại lai đe dọa, phá vỡ những giá trị truyền thống, bản sắc, tinh hoa văn hóa dân tộc, thang giá trị đạo đức xã hội, chuẩn mực đạo đức, lối sống, lý tưởng, niềm tin... Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực. Tệ nạn xã hội, sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân vẫn là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay. Hiện tượng phai nhạt lý tưởng trong một bộ phận thanh niên, tư tưởng thực dụng, sùng ngoại trong nhân dân có chiều hướng gia tăng...
39
Điều đó đã đặt ra những thách thức và yêu cầu mới đối với công tác tuyên giáo, đòi hỏi phải có những thay đổi cả về nhận thức, nội dung và phương thức hoạt động. Tình hình đó cũng đòi hỏi yêu cầu ngày càng cao đối với công tác tuyên giáo ở cơ sở.
Thứ ba, sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin, truyền thông làm cho internet, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, đã tạo nên những phương thức tiếp cận thông tin mới, những xu hướng truyền thông mới, làm cho thông tin lan tỏa nhanh, phạm vi rộng, hiệu ứng mạnh.
Tuy nhiên, sự bùng nổ thông tin và tính phức tạp của các loại thông tin nếu không được định hướng kịp thời có thể làm cho người tiếp cận thông tin dễ dao động, hoài nghi, dễ bị lôi kéo, kích động. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch không ngừng chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với âm mưu “diễn biến hòa bình” bằng những chiêu thức, thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng internet để cung cấp thông tin bịa đặt, xuyên tạc gây mơ hồ về chính trị, ảo tưởng về chủ nghĩa tư bản, thiếu sự nhất trí và đồng thuận với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Do vậy, công tác tuyên giáo cần phải tiến hành các hoạt động nhanh nhạy, sắc bén, kịp thời, mang tính thuyết phục và thực chất.
40
Thứ tư, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra một lực lượng sản xuất mới, về lôgích sẽ dẫn đến sự thay đổi quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, làm biến đổi quan hệ sản xuất dẫn tới những thay đổi về đời sống tinh thần, văn hóa, tư tưởng, pháp luật... Đó đều là những vấn đề mới đòi hỏi công tác tuyên giáo phải có những dự báo kịp thời để phát triển lý luận, góp phần đưa ra các giải pháp để hoàn thiện chủ trương, chính sách đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
3. Một số định hướng đổi mới công tác tuyên giáo ở cơ sở đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới
Với phương châm hướng về cơ sở, xây dựng cơ sở vững mạnh, tạo tiền đề tiến hành công tác tuyên giáo có chiều rộng, chiều sâu và sức sống bền vững trong toàn xã hội, trong bối cảnh có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, vấn đề đổi mới công tác tuyên giáo ở cơ sở đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới là đòi hỏi hết sức cần thiết.
a) Đổi mới nhận thức của cấp ủy và cán bộ, đảng viên đối với công tác tuyên giáo ở cơ sở
Cần thống nhất quan điểm, nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng, tác dụng to lớn của công tác tuyên giáo đối với mọi hoạt động ở cơ sở. Khắc phục những biểu hiện
41
coi nhẹ, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, khoán trắng, coi đó là nhiệm vụ của ban tuyên giáo đảng ủy xã. Thực tế chỉ ra rằng, chỉ khi nào cấp ủy cơ sở, cán bộ, đảng viên nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác tuyên giáo, xác định rõ trách nhiệm của mình, tự giác, tích cực tham gia làm công tác tuyên giáo thì mới tạo nên sự chuyển biến và hiệu quả thật sự của công tác này ở cơ sở. Muốn vậy, cần phát huy vai trò của cán bộ chủ chốt ở cơ sở, trước hết là bí thư và ban thường vụ, người đứng đầu bộ máy chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội, đồng thời, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của cấp ủy và cơ quan cấp trên, giúp cho cơ sở có sự chuyển biến kịp thời, đổi mới nhận thức và hành động tích cực hơn.
b) Đổi mới nội dung công tác tuyên giáo ở cơ sở
- Trước hết, cần có sự đổi mới trong tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở cần phải đặt trọng tâm là dựa trên quan điểm, chủ trương, chính sách chung để xem xét đánh giá cụ thể tình hình của địa phương, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, vai trò của từng tập thể, cá nhân trong tổ chức
42
thực hiện. Xây dựng chương trình hành động cụ thể để thực hiện tốt nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sau học tập, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng phải thực hiện nghị quyết bằng việc làm và đạt kết quả cụ thể, khắc phục tình trạng học tập nghị quyết mang tính hình thức, học chưa đi đôi với hành, nghị quyết chậm đi vào cuộc sống, chương trình hành động của cấp ủy, của các tổ chức chính trị - xã hội còn chung chung.
- Trong bối cảnh thực tiễn sinh động, diễn biến phức tạp, mau lẹ hiện nay, cần đổi mới nội dung tuyên truyền đối với cấp cơ sở.
Nội dung tuyên truyền ở cơ sở thường tập trung vào các thông tin sau: đẩy mạnh tuyên truyền những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của địa phương; xây dựng niềm tin và lòng tự hào của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới đất nước; vạch trần các luận điệu phản tuyên truyền của các thế lực thù địch và các phần tử tiêu cực, làm cho trận địa tư tưởng ở cơ sở luôn lành mạnh, trong sạch, vững mạnh.
Đổi mới về nội dung tuyên truyền đối với cấp cơ sở trong điều kiện hiện nay cần chú ý bảo đảm yêu cầu: thông tin phải ngắn gọn, dễ nhớ, thiết thực, cụ thể, tin cậy, thuyết phục; thông tin phải đi trước một bước;
43
thông tin thời sự chính sách phải đa dạng, cập nhật thường xuyên, tạo ra nhu cầu tinh thần ở cơ sở sôi động, lành mạnh, đẩy lùi và lấn át các loại thông tin nhiễu loạn, tiêu cực; phải bảo đảm các quy định của Luật tiếp cận thông tin...
- Tăng cường giáo dục, học tập, làm theo tấm gương tiêu biểu của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong lao động, học tập, công tác. Xây dựng các điển hình và tuyên truyền điển hình một cách tích cực, mạnh mẽ, làm cho cái tích cực, tiến bộ được nhân rộng, trở thành phổ biến, “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu; lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”.
c) Đổi mới phương thức tiến hành công tác tuyên giáo ở cơ sở
Đa dạng hóa các hình thức tiến hành công tác tuyên giáo ở cơ sở, làm cho công tác này luôn phong phú, sinh động, đáp ứng yêu cầu của mọi đối tượng, trong mọi hoàn cảnh.
Tùy theo đặc điểm về địa lý, phân bố dân cư, tổ chức, biên chế, lực lượng cán bộ, đảng viên ở từng cơ sở mà xác định, lựa chọn các hình thức học tập, tuyên truyền, cổ động, thông tin thời sự, chính trị...
Sử dụng mọi phương tiện, mọi lực lượng sẵn có, tận dụng mọi thời gian, không gian và cơ hội để
44
tuyên truyền giáo dục. Đặc biệt tận dụng sự phát triển của internet, mạng xã hội để tiến hành công tác tuyên giáo như: viết bài tuyên truyền trên mạng xã hội; tổng hợp tin tức, dư luận xã hội, nắm bắt tư
tưởng của nhân dân thông qua mạng xã hội; sử dụng mạng xã hội để đấu tranh phản bác với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch; tăng cường chia sẻ thông tin tích cực qua mạng xã hội, đẩy lùi các thông tin tiêu cực...
Khắc phục khuynh hướng “hành chính hóa” công tác tuyên giáo, đây là khuynh hướng đã và đang làm cho công tác này ở nhiều nơi trở nên xơ cứng, gò ép, thiếu sức sống.
Hiện nay, nhiều địa phương, cơ sở đã có những hình thức tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khá phong phú, hấp dẫn và hiệu quả (như sân khấu hóa hình thức tuyên truyền các chủ trương, chính sách; tổ chức các buổi kể chuyện, tọa đàm, diễn đàn; tổ chức các cuộc thi; thông tin lưu động; các hoạt động văn hóa, thể thao lồng ghép với nội dung tuyên truyền, giáo dục...), động viên đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia làm công tác tuyên giáo.
Trên cơ sở lực lượng nòng cốt đủ mạnh, cấp ủy và ban tuyên giáo đảng ủy xã cần động viên, tập hợp
45
đông đảo cán bộ, đảng viên có khả năng làm công tác tuyên giáo thuộc mọi lứa tuổi, trên mọi địa bàn thôn, xóm, tổ dân phố, kể cả các chức sắc tôn giáo và những người có uy tín cao trong nhân dân tham gia. Trong đó, tập trung bồi dưỡng, phát huy vai trò nòng cốt của cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực. Mạnh dạn chọn người, giao việc, xây dựng nòng cốt ở mọi cơ sở, mọi ngành nghề trong địa phương, đơn vị. Xây dựng đội ngũ cộng tác viên đông đảo, rộng khắp trên địa bàn, làm cho hoạt động công tác tuyên giáo luôn sôi nổi, rộng khắp, có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời, có tính nhân dân sâu rộng.
Định kỳ tổ chức khảo sát, điều tra, đánh giá kết quả và tổ chức rút kinh nghiệm về công tác tuyên giáo. Hằng tháng, hằng quý tiến hành hội nghị giao ban công tác tuyên giáo ở cơ sở với phạm vi và quy mô phù hợp. Thông qua sinh hoạt chi bộ, tổ dân phố, sinh hoạt các đoàn thể để điều tra, đánh giá, rút kinh nghiệm và bổ sung nội dung, hình thức mới cho phù hợp. Cấp ủy, ban tuyên giáo đảng ủy xã phải thường xuyên gặp gỡ cán bộ, đảng viên và lực lượng nòng cốt trong các đoàn thể chính trị - xã hội để nắm tình hình, trao đổi kinh nghiệm hoạt động và đánh giá kết quả hoạt động công tác tư tưởng ở cơ sở, kịp thời chỉ đạo, giải quyết tốt những vấn đề mới nảy sinh trong nhân dân.
46
d) Đổi mới cơ chế, chính sách đối với công tác tuyên giáo
Trước hết, cần tăng cường đầu tư điều kiện vật chất, phương tiện làm công tác tuyên giáo ở cơ sở, như: sách, báo, tài liệu, phương tiện nghe nhìn, hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin truyền thông, phương tiện thông tin, cổ động... Đảm bảo mỗi thành viên của ban tuyên giáo xã có đủ các tài liệu bồi dưỡng về nghiệp vụ
và được cung cấp thông tin kịp thời. Có chế độ bồi dưỡng nghiệp vụ hằng năm (theo định kỳ) do ban tuyên giáo cấp huyện tổ chức. Về chế độ đãi ngộ, cần có chế độ trợ cấp, phụ cấp hợp lý đối với lực lượng làm công tác tuyên giáo ở cơ sở để động viên, khuyến khích, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày khái niệm công tác tư tưởng và các bộ phận cấu thành công tác tư tưởng; khái niệm và các bộ phận cấu thành công tác tuyên giáo.
2. Trình bày nội dung, nhiệm vụ của công tác tuyên giáo ở cơ sở.
3. Để đổi mới công tác tuyên giáo ở cơ sở đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, cần phải chú ý những nội dung gì?
47
(1) Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản.
(2) Phổ biến, quán triệt nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
(3) Cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân chủ động, tự giác,
tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị.
(4) Giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa
của địa phương, đơn vị, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam.
(5) Điều tra, nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội, kịp thời xử lý tin đồn, giải quyết “điểm nóng” ở cơ sở, chống các hoạt động “diễn biến hòa bình”.
(6) Đưa chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực khoa giáo vào cuộc sống, thực hiện tốt công tác khoa giáo ở cơ sở; phát hiện bất cập, đề xuất giải pháp khắc phục.
48
Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn
chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”.
Công tác tuyên giáo có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức, chậm đổi mới phương
thức, công tác phối hợp chưa thật chặt chẽ, có biểu hiện buông lỏng.
Việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng chưa đạt chất lượng
và hiệu quả cao, còn nặng về hình thức.
Việc thực hiện Chỉ
thị số 05-CT/TW chưa thực sự đi vào chiều sâu, còn mang tính hình thức, việc “làm theo” chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có mặt còn diễn biến phức tạp.
Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân còn chậm, chưa chủ động, kịp thời giải quyết bức xúc, điểm nóng. Chưa thể hiện rõ tính chiến đấu trong đấu tranh chống tư tưởng và hành vi sai trái, thù địch, chống tệ nạn xã hội,...
Cán bộ tuyên giáo ở cơ sở là lực lượng kiêm nhiệm, mỏng về số lượng, hạn chế về chất lượng. Đầu tư cho công tác tuyên giáo ở cơ sở hạn chế về kinh phí, lực lượng, phương tiện.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy và ban tuyên giáo các cấp đối với công tác tuyên giáo ở cơ sở.
Phát huy vai trò của cấp ủy chính quyền và các
đoàn thể nhân dân trong hệ
thống chính trị
cơ sở.
Bám sát thực tiễn, kịp thời giải quyết những bức xúc ở
cơ sở; nâng cao tính chiến đấu, thuyết phục, hiệu quả của công tác tuyên giáo.
Phát huy nhân tố tích cực trong nhân dân, dựa
vào nhân dân để tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân.
Đổi mới nhận thức của cấp ủy và cán bộ, đảng viên đối với
công tác tuyên giáo ở cơ sở.
Đổi mới nội dung
công tác tuyên giáo ở cơ sở.
Đổi mới phương thức tiến hành, đa dạng hóa các hình thức, sử dụng
mọi phương tiện, lực lượng sẵn có, khắc phục khuynh hướng “hành chính hóa” công tác tuyên giáo.
Đổi mới cơ chế, chính sách, tăng cường điều kiện vật chất, phương
tiện, tài liệu; bồi dưỡng nghiệp vụ, chế độ, chính sách cho lực lượng làm công tác tuyên giáo ở cơ sở.
Chuyên đề 2
CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG Ở CƠ SỞ
I- KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ
1. Công tác giáo dục lý luận chính trị
a) Khái niệm
- Công tác lý luận là một bộ phận của công tác tư tưởng, hướng vào việc nghiên cứu, phát triển sáng tạo hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo cách mạng - giai cấp công nhân, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn cách mạng nhằm xây dựng hệ thống quan điểm lý luận và cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, chính sách, các quyết định của Đảng và Nhà nước, đấu tranh, phê phán các trào lưu tư tưởng sai trái, thù địch.
Công tác lý luận là nhiệm vụ trung tâm của công tác tuyên giáo, bao gồm: công tác nghiên cứu, phát triển lý luận; công tác quán triệt nghị quyết; công tác
49
giáo dục lý luận chính trị; công tác lịch sử đảng và giáo dục truyền thống cách mạng; công tác đấu tranh, phản bác với các quan điểm sai trái, thù địch.
- Công tác giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận quan trọng của công tác lý luận, công tác tư tưởng của Đảng, thực hiện việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cộng sản, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ
phát triển của đất nước.
Công tác giáo dục lý luận chính trị bao gồm hoạt động giáo dục lý luận chính trị theo chương trình giáo dục tại các cơ sở giáo dục quốc dân và hoạt động giáo dục lý luận chính trị thường xuyên của Đảng.
b) Vai trò của công tác giáo dục lý luận chính trị
- Đối với sự nghiệp cách mạng.
Công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, được thể hiện rõ ở hai vấn đề cơ bản sau đây:
50
+ Xuất phát từ vai trò của lý luận chính trị đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định vai trò của lý luận chính trị đối với vận động của cách mạng. Để lật đổ được chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới thì cần phải có sự lãnh đạo của một chính đảng được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết mang bản chất khoa học và cách mạng, vừa phản ánh đúng đắn những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, vừa chỉ ra mục tiêu, con đường, lực lượng, chiến lược, sách lược, phương pháp đấu tranh cách mạng.
Chính đảng của giai cấp công nhân không ra đời một cách tự phát. Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước là cơ sở thực tiễn, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Không có sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân thì không thể có sự ra đời của Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp giai cấp công nhân hiểu được quy luật phát triển của xã hội. Chủ nghĩa
51
Mác - Lênin chính là cơ sở lý luận khoa học để các đảng cộng sản đề ra đường lối, chính sách và những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết đúng đắn những vấn đề nảy sinh trong quá trình cách mạng. Vì vậy, các đảng cộng sản phải coi trọng công tác giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên cũng như tất cả các lực lượng cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại1.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Nội dung chủ yếu của công tác giáo dục lý luận chính trị là giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
+ Công tác giáo dục lý luận chính trị giữ vai trò quan trọng trong mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. _____________
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.88.
52
Từ khi ra đời đến nay, công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc làm cho lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng, trở thành “lực lượng vật chất” đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Công tác giáo dục lý luận chính trị trang bị cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng cho mọi người nhận thức đúng đắn và niềm tin vững chắc vào lý tưởng cộng sản, vào con đường và biện pháp do Đảng vạch ra để thực hiện lý tưởng đó. Chủ nghĩa xã hội là kết quả hoạt động cách mạng tự
giác của hàng triệu người lao động. Chính công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần quan trọng trong việc nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng, thúc đẩy họ hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị cụ thể mà các tổ
chức, đoàn thể chính trị - xã hội giao cho họ. - Đối với công tác xây dựng Đảng.
+ Công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, xây dựng con người mới.
+ Công tác giáo dục lý luận chính trị giúp trang bị và nâng cao nhận thức về thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; đồng thời góp phần thống nhất nhận thức
53
về mục tiêu lý tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần xây dựng bản lĩnh chính trị, niềm tin, ý thức tự giác tu dưỡng đạo đức cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân, khắc phục mọi biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng; đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Từ đó, công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo gồm những người kiên định lập trường, có năng lực tổ chức, tập hợp, động viên, giáo dục, thuyết phục quần chúng; có năng lực tổ
chức hoạt động thực tiễn.
+ Công tác giáo dục lý luận chính trị còn giúp nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ phát triển của đất nước.
c) Yêu cầu, nhiệm vụ của công tác giáo dục lý luận chính trị hiện nay
- Yêu cầu.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới hết sức nặng nề.
54
Bên cạnh những thuận lợi chúng ta còn phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động rất phức tạp. Trong khi đó, không ít những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình đổi mới đất nước chưa được tổng kết kịp thời hoặc chưa đủ sáng tỏ, còn những ý kiến khác nhau cả trên vấn đề cụ thể cũng như trên một số vấn đề cơ bản.
Mặt khác, các thế lực thù địch đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta trên cả lĩnh vực lý luận và thực tiễn. Chúng triệt để sử dụng kinh tế làm điều kiện ép ta thay đổi về chính trị; tìm cách móc nối với các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn trong nước; lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, “chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực” để kích động chống đối, chia rẽ nội bộ, xuyên tạc, phủ định mục tiêu lý tưởng, con đường của cách mạng Việt Nam, tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ định sự lãnh đạo của Đảng.
Trong tình hình ấy, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn vững vàng về tư tưởng chính trị, thống nhất nhận thức, ý chí và hành động trên nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và toàn dân phải không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả.
55
Chính vì vậy, công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau đây:
Một là, tạo ra sự nhất trí cao đối với đường lối của Đảng, có ý chí nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, xây dựng con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách; xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ; nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập.
Ba là, phát huy tinh thần cách mạng, tiến công, giữ vững và tăng cường chủ động trên trận địa tư tưởng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tuyên giáo.
56
- Nhiệm vụ.
Một là, tiếp tục giáo dục trong Đảng và Nhân dân kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, làm cho ý chí kiên định đó trở thành lập trường chính trị không thể lay chuyển, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Kiên định nhưng phải sáng tạo, phát triển không ngừng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ quan điểm: “Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”1.
Theo chủ trương đó, Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, _____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.201-202.
57
tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới xác định nhiệm vụ, giải pháp như sau:
+ Các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt việc học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Thật sự coi trọng việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc định hướng phát triển và hoạt động thực tiễn ở địa phương, cơ quan, đơn vị một cách thiết thực và hiệu quả; bám sát thực tiễn, định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết, nhân rộng mô hình tốt, cách làm hay. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng trên lĩnh vực lý luận chính trị.
+ Tiếp tục đổi mới phương thức triển khai, phương pháp tiếp cận nghiên cứu trong công tác lý luận. Khẳng định mạnh mẽ và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn nước ta. Trên nền tảng đó, nghiên cứu, xây dựng và phát triển hệ
thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trong thời kỳ mới; làm rõ những vấn đề bổ sung, phát triển; tập trung nghiên cứu để giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta đã được Đại hội XII
58
của Đảng chỉ ra. Làm rõ một số vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đổi mới, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Phát huy dân chủ trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; tôn trọng tính sáng tạo và nâng cao ý thức trách nhiệm của nhà khoa học, tăng cường trao đổi, đối thoại trong nghiên cứu lý luận. Đổi mới cơ chế và tăng cường đầu tư cho tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Rà soát, bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ
các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
+ Đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và phương pháp công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Tiếp tục đổi mới nội dung giáo trình theo hướng giảng dạy, truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những học thuyết đương đại, vận dụng sáng tạo, tăng cường liên hệ thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, ứng dụng các phương pháp hiện đại, hấp dẫn
59
người học, tạo hứng thú tìm tòi, nghiên cứu. Đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá thực chất kết quả học tập lý luận chính trị theo hướng thực chất. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong học tập lý luận chính trị.
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng chương trình học tập theo hướng phân biệt rõ cấp học và đối tượng học; đồng thời tăng cường, bảo đảm tính liên thông trong đào tạo các trình độ lý luận chính trị, phân cấp rõ ràng, hạn chế tối đa sự chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống các cơ sở đào tạo lý luận chính trị để nâng cao hiệu quả việc học tập, đào tạo, bồi dưỡng và tránh lãng phí về thời gian, kinh phí. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phù hợp với nhu cầu quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ.
+ Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền về giá trị, những nội dung cơ bản, cốt lõi và những nội dung được Đảng ta vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh tổng hợp của báo chí, truyền thông, kết hợp chặt chẽ với tuyên truyền miệng và các kênh thông tin khác.
+ Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh phản bác có hiệu quả, kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch. Đa dạng hóa hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế phối hợp và
60
trao đổi thông tin, chủ động nắm bắt âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch, đối tượng cơ hội chính trị; chú trọng xây dựng luận cứ đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc; tạo sự thống nhất trong phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành có liên quan. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ để cập nhật về nội dung và phương pháp đấu tranh; có cơ chế, chế độ phù hợp cho đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí hoạt động và hiện đại hóa các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu thường xuyên và kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chú trọng trao đổi, đối thoại, thuyết phục; lắng nghe, tiếp thu các góp ý mang tính xây dựng để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách cho phù hợp.
Hai là, tiếp tục giáo dục sâu rộng trong Đảng và Nhân dân đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung quán triệt và thực hiện có hiệu quả các phương hướng, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
61
Ba là, giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bốn là, giáo dục, nâng cao cảnh giác, chống các âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hòa bình” gây bạo loạn, lật đổ và răn đe quân sự của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu rõ bản chất trong đấu tranh chống lại âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đồng thời, phải tăng cường phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, không ngừng củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
2. Công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
a) Đối tượng, nội dung giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
- Công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở thuộc hệ giáo dục phổ cập, vì vậy phải quan tâm đến mọi thành viên
62
ở cơ sở, trước hết là cán bộ, đảng viên và đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ngoài diện đào tạo, bồi dưỡng do trường chính trị tỉnh, thành phố phụ trách và các đoàn viên, hội viên của các đoàn thể nhân dân ở cơ sở.
- Nội dung cơ bản của giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở là những vấn đề cơ bản, thiết thực nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước... theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương.
b) Tổ chức lực lượng làm công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
Theo đối tượng được phân cấp, tổ chức lực lượng làm công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở bao gồm những lực lượng chủ yếu sau:
- Ban tuyên giáo và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện có nhiệm vụ mở các lớp bồi dưỡng theo Quyết định số 100-QĐ/TW, ngày 03/6/1995 của Ban Bí thư (khóa VII) về tổ chức trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện và Quyết định số 185-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư (khóa X) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện,
63
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và những quy định liên quan khác1.
- Ban Tuyên giáo cấp xã là cơ quan tham mưu và là lực lượng chủ yếu trực tiếp giúp cấp ủy tổ chức học tập các nghị quyết và chỉ thị của Đảng.
- Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tuyên truyền và tổ chức học tập chính trị cho hội viên, đoàn viên các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Giáo viên của hệ thống trường học ở cơ sở tuyên truyền, giáo dục chính trị cho học sinh theo các chương trình thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
c) Một số vấn đề nghiệp vụ công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở
- Về giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Xây dựng quy hoạch, kế hoạch bồi dưỡng lý luận chính trị hằng năm cho các đối tượng: bí thư đảng ủy, chi bộ, cấp ủy viên; trưởng thôn, trưởng bản; đảng viên mới; đối tượng phát triển Đảng; trưởng các ban, ngành,
_____________
1. Hiện nay, Ban Tuyên giáo Trung ương đang tiến hành tổng kết việc thực hiện Quyết định số 185-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư (khóa X) để tham mưu, đề xuất về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của mô hình này trong tình hình mới.
64
đoàn thể chính trị - xã hội... Kế hoạch được cấp ủy thông qua rồi gửi lên trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện để đưa vào kế hoạch mở lớp.
Những cơ sở có điều kiện và khả năng cần chủ động xây dựng kế hoạch mở lớp tại chỗ. Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện hỗ trợ về giảng viên, tài liệu, thủ tục mở lớp và cấp chứng chỉ cho học viên...
+ Thực hiện các hình thức tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị sinh động, thiết thực, như tổ chức lớp học kết hợp tổ chức thi tìm hiểu về lịch sử truyền thống dân tộc, về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về đường lối, chính sách, pháp luật; tổ chức các cuộc thi bí thư chi bộ, trưởng thôn, trưởng bản giỏi.
+ Tổ chức cho cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị học tập các chương trình chuyên đề liên quan đến đường lối, quan điểm của Đảng do Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành, giới thiệu nhân các ngày lễ lớn...
Trong những năm qua, các cuộc thi tìm hiểu về Đảng quang vinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bí thư chi bộ giỏi, báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi (tiêu biểu như cuộc thi “Ánh sáng soi đường”, “Giảng viên lý luận chính trị giỏi” do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức)... là hình thức giáo dục lý luận chính trị thể hiện sự hấp dẫn và mang lại hiệu quả. Để mỗi cuộc thi đạt kết quả tốt cần phải có kế hoạch cụ thể,
65
xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, các bước tiến hành. Phải tạo được sự hưởng ứng và tham gia tích cực của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân ở cơ sở. Những người dự thi cần được quan tâm, giúp đỡ để có sự chuẩn bị chu đáo. Cần kết hợp cả thi viết và trả lời miệng (vấn đáp). Nội dung thi vấn đáp cần nêu ra các tình huống có vấn đề, đòi hỏi người dự thi vận dụng kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để trả lời. Ban giám khảo phải lựa chọn, đưa ra các tình huống để người dự thi nâng cao kiến thức, nghiệp vụ công tác, năng lực xử
lý các vấn đề thực tế đặt ra...
- Về triển khai học tập nghị quyết của Đảng. + Tổ chức học tập nghị quyết cho đảng viên. Xây dựng kế hoạch học tập nghị quyết, chuẩn bị tài
liệu và những điều kiện vật chất khác, thông báo sớm để đảng viên sắp xếp công việc đến dự đông đủ, nghiêm túc. Cần sắp xếp tổ chức để tất cả đảng viên trong đảng bộ tham gia học tập. Nếu số lượng đảng viên đông có thể phân chia thành hai, ba lớp nối tiếp nhau, hoặc tổ
chức học tập kỹ cho đội ngũ đảng ủy viên, bí thư chi bộ, chi ủy viên để về truyền đạt, hướng dẫn lại cho đảng viên trong chi bộ.
Lựa chọn, bố trí báo cáo viên nắm chắc nội dung cơ bản của nghị quyết và có phương pháp trình bày, phân tích dễ hiểu, dễ nhớ để giúp người học hiểu đúng, hiểu rõ nghị quyết.
66
Trong mỗi lần học nghị quyết nhất thiết phải có báo cáo của cấp ủy về chương trình hành động thực hiện nghị quyết của cơ sở.
Cố gắng bảo đảm cho mỗi chi bộ có ít nhất một cuốn văn kiện nghị quyết và cuốn tài liệu học tập nghị quyết (tài liệu dành cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở) để giúp cho đảng viên trong chi bộ nghiên cứu sâu và kỹ hơn.
Khi đã triển khai học nghị quyết, đã có chương trình hành động thì phải tập trung chỉ đạo có hiệu quả để tạo ra sự chuyển biến thực sự, đảm bảo nói đi đôi với làm. Đảng viên nào không làm, làm không đầy đủ hoặc làm trái nghị quyết của Đảng phải bị phê bình, xử lý nghiêm túc.
+ Giáo dục, phổ biến nghị quyết trong nhân dân. Việc giáo dục, phổ biến nghị quyết trước hết thông qua các hình thức sinh hoạt của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở, chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để họ phát huy được vai trò tích cực trong việc tổ chức học tập và thực hiện nghị quyết trong tổ chức, đoàn thể của mình.
Gắn nội dung giáo dục, phổ biến nghị quyết với nội dung các kỳ sinh hoạt xóm, thôn, tổ dân phố. Sử dụng có hiệu quả hệ thống truyền thanh xã, phường để giúp nhân dân hiểu được những điểm cốt lõi trong nghị quyết.
67
Tài liệu phổ biến rộng rãi dành cho nhân dân là Tài liệu hỏi - đáp về những nội dung của nghị quyết do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn. Chương trình hành động của đảng bộ phải được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi và trở thành các phong trào hoạt động cụ thể để nhân dân hưởng ứng và làm theo nghị
quyết của Đảng.
- Về giáo dục chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chính sách, pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng. Vì vậy, giáo dục chính sách, pháp luật chính là nội dung, hình thức giáo dục lý luận chính trị. Cần có kế hoạch tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu về các chính sách, pháp luật hiện hành, nhất là các chính sách, pháp luật có quan hệ trực tiếp đến đời sống của nhân dân, như Luật đất đai, Luật bảo vệ rừng, Luật hợp tác xã, Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật nghĩa vụ quân sự, Luật giáo dục, Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Luật hôn nhân và gia đình, v.v..
Mọi đảng viên phải học, nắm vững và thực hiện nghiêm túc, đồng thời phổ biến sâu rộng và vận động nhân dân chấp hành đúng chính sách, pháp luật hiện hành của Nhà nước.
Hình thức giáo dục chủ yếu là thông qua sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt đoàn thể, thôn xóm, tổ dân phố...
68
Mặt khác, cần thường xuyên theo dõi kiểm tra, kịp thời biểu dương những tấm gương chấp hành tốt; nhắc nhở, phê bình những trường hợp làm sai, nhất là những việc cố ý làm trái quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sử dụng có hiệu quả tủ sách pháp luật của xã, phường, đơn vị.
- Về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra công tác giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở.
Học tập lý luận chính trị là trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ các cấp. Kết quả học tập lý luận chính trị là một trong những tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ, đánh giá tư cách đảng viên và tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quy định về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng như: Quy định số 54-QĐ/TW, ngày 12/5/1999 của Bộ Chính trị (khóa VIII) quy định về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Kết luận số 69-KL/TW, ngày 14/4/2010 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Quy định số 54-QĐ/TW, ngày 12/5/1999 của Bộ Chính trị (khóa VIII); Quy định số 164-QĐ/TW, ngày 01/02/2013 của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp; Kết luận số 57-KL/TW, ngày 08/3/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục
69
đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý,... Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã đề ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, trong đó nhấn mạnh: “Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ”.
Thực hiện các quy định của Đảng về nhiệm vụ học tập lý luận chính trị của đảng viên, Đảng ủy cơ sở cần thường xuyên kiểm tra cán bộ, đảng viên thực hiện các quy định nêu trên, kịp thời biểu dương những tấm gương học tập tốt; nhắc nhở, phê bình những trường hợp lười học, ngại học. Hằng năm, khi phân tích chất lượng đảng viên, chi bộ cần lấy kết quả học tập, nhất là học tập lý luận chính trị làm một trong những tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá.
Nhiệm vụ kiểm tra công tác giáo dục lý luận chính trị còn được tiến hành trong các trường tiểu học, trung học cơ sở... trên địa bàn xã, phường, thông qua tổ chức
70
đảng của trường trong việc giảng dạy môn giáo dục đạo đức, giáo dục công dân theo đúng phương hướng chính trị tư tưởng của Đảng.
II- KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG
VÀ BIÊN SOẠN LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ CƠ SỞ
1. Công tác giáo dục truyền thống cách mạng ở cơ sở
a) Mục đích của giáo dục truyền thống cách mạng
- Truyền thống là thói quen được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống có tính cộng đồng và tính lịch sử; có tính ổn định và bền vững tương đối; có thể trở thành những chuẩn mực, định hướng hành động cho các cá nhân và cộng đồng.
- Truyền thống cách mạng là truyền thống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Giáo dục truyền thống cách mạng nhằm nâng cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho quần chúng nhân dân là một nhiệm vụ thường xuyên, cần thiết đối với Đảng Cộng sản cầm quyền trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước.
- Giáo dục truyền thống cách mạng là nhằm xây dựng những con người và thế hệ Việt Nam gắn bó
71
thiết tha với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị
của văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công
nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
b) Nội dung chủ yếu của giáo dục truyền thống cách mạng
- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước là giá trị truyền thống cao quý nhất của Nhân dân ta, được hun đúc trong suốt quá trình hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành cội nguồn sức mạnh của dân tộc. Ngày nay, giáo dục truyền thống yêu nước cần gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, đó là mục tiêu lý tưởng của Đảng ta và của dân tộc ta.
- Giáo dục truyền thống đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng dân tộc. Lòng nhân ái “thương người như thể thương thân”, truyền thống đoàn kết hợp tác, giúp nhau
72
trong khó khăn, hoạn nạn... là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, ngày nay được Đảng ta kế thừa và phát huy trên tinh thần của chủ nghĩa nhân đạo mácxít, trên tinh thần quốc tế vô sản cao cả.
- Truyền thống anh hùng, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta được Đảng ta phát huy và phát triển thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu và lao động sáng tạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay.
- Cần cù và sáng tạo trong lao động là nét đẹp truyền thống của Nhân dân ta. Trong cách mạng, truyền thống ấy được kế thừa và phát huy trên tinh thần tự hào và tự tôn dân tộc, trở thành thái độ lao động mới, lao động sáng tạo, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất lao động cao, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Tinh thần lạc quan cách mạng trong cuộc sống và trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc được Đảng ta phát huy và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Trong quá trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với những truyền thống vốn có của dân tộc thì nhiều giá trị tinh thần mới được hình thành và
73
phát triển, trở thành truyền thống tốt đẹp của Nhân dân ta như tinh thần dân chủ, thi đua yêu nước, “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, tinh thần quốc tế thủy chung trong sáng...
c) Hình thức giáo dục truyền thống cách mạng
Tùy theo nội dung và điều kiện cụ thể của từng cơ sở mà có thể lựa chọn các hình thức phù hợp, có một số hình thức sau:
- Tổ chức míttinh tuyên truyền cổ động ở cơ sở vào dịp các ngày lễ lớn của dân tộc và cách mạng. - Tổ chức tốt công tác tuyên truyền miệng, thông tin cổ động về đề tài này qua hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương.
- Tổ chức sinh hoạt chính trị tư tưởng; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu các đề tài về truyền thống cách mạng, những gương điển hình,...
- Sử dụng các loại hình văn học nghệ thuật, thể dục, thể thao,...
Cần tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác giáo dục truyền thống theo định kỳ hằng tháng, hằng quý, hằng năm. Tổ chức rút kinh nghiệm sau mỗi đợt phát động phong trào, tổ chức các hội thi. Đây là việc làm cần thiết góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống cách mạng.
74
2. Công tác biên soạn lịch sử đảng bộ cơ sở
a) Ý nghĩa, vai trò của công tác biên soạn lịch sử đảng bộ cơ sở
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam - do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, đã lãnh đạo Nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, viết nên những trang sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Cùng với chặng đường vẻ vang của Đảng là sự ra đời, phát triển và củng cố ngày càng vững mạnh của hệ thống tổ chức cơ sở đảng. Lịch sử đảng bộ cơ sở gắn liền với từng chặng đường phát triển và minh chứng cho lịch sử vẻ
vang của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Biên soạn lịch sử đảng bộ cơ sở là nhiệm vụ rất quan trọng, nhằm làm rõ các chặng đường lịch sử và hoạt động đấu tranh của đảng bộ địa phương, cơ sở, từ đó tổng kết thực tiễn lịch sử, nêu bật những thắng lợi, những thành tựu của cách mạng và cả những sai lầm, khuyết điểm, làm sáng tỏ những bài học, những vấn đề lý luận nhằm rút kinh nghiệm, tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Việc biên soạn lịch sử đảng bộ địa phương, cơ sở còn giúp giáo dục truyền thống cách mạng, bồi đắp
75
tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào về truyền thống địa phương, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn.
b) Tình hình công tác biên soạn lịch sử đảng bộ cơ sở
Sau 15 năm thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 28/8/2002 của Ban Bí thư (khóa IX) về tăng cường nâng cao chất lượng nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tổng kết thực tiễn lịch sử cách mạng qua các thời kỳ, rút ra những kinh nghiệm, bài học, quy luật của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo; giáo dục truyền thống cách mạng, bồi đắp tinh thần yêu nước và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trong đó, công tác biên soạn lịch sử đảng bộ cơ sở đạt nhiều kết quả quan trọng.
- Những kết quả đạt được.
Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội và cán bộ về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng ngày càng sâu sắc, cụ thể.
Nhiều cấp ủy đảng đã đưa nội dung nghiên cứu, biên soạn, xuất bản lịch sử Đảng vào nghị quyết đại hội đảng và coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
76
Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng đã được triển khai nghiêm túc, tích cực, khoa học. Các công trình và ấn phẩm lịch sử tăng lên cả về số lượng và chất lượng, cụ thể như sau1:
Trong giai đoạn 2013 - 2015, cả nước đã xuất bản được trên 1.847 công trình nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng, trong đó cấp tỉnh, thành phố là 341 công trình.
Ở cấp quận, huyện, thị xã, đã có 356 công trình lịch sử đảng bộ, lịch sử truyền thống được xuất bản, trong đó, nhiều đơn vị đã biên soạn, xuất bản lịch sử đảng bộ đến năm 2015. Nhiều quận, huyện đã đạt tỷ lệ 100% đơn vị biên soạn và xuất bản lịch sử địa phương.
Ở cấp xã, phường, thị trấn, đã có hơn 1.000 công trình lịch sử đảng bộ, lịch sử truyền thống cách mạng có chất lượng được xuất bản.
- Một số khó khăn, hạn chế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác biên soạn lịch sử đảng bộ cơ sở vẫn còn những khó khăn, hạn chế sau:
Một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, nhất là cấp xã, phường, thị trấn chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác này.
_____________
1. Xem http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory. aspx?distribution=38051&print=true.
77
Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, biên soạn lịch sử đảng bộ ở các quận, huyện, thị xã còn mỏng, trình độ chưa đồng đều; tổ chức, biên chế nhiều nơi chưa ổn định.
Việc sưu tầm tài liệu khó khăn do tư liệu lịch sử bị hư hỏng bởi chiến tranh kéo dài, nhân chứng lịch sử ngày một ít đi.
Chất lượng một số công trình biên soạn chưa cao, thậm chí phản ánh chưa đầy đủ thực tế lịch sử vốn có. Nhiều công trình tập trung phản ánh sự kiện, chưa chú trọng làm rõ bài học kinh nghiệm, liên hệ với thực tiễn trong điều kiện mới và ý nghĩa đối với công tác giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay.
Việc đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn; chế độ, chính sách đãi ngộ cho đội ngũ làm công tác lịch sử Đảng còn hạn chế; việc khen thưởng, động viên chưa kịp thời.
- Một số định hướng và giải pháp.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác biên soạn lịch sử Đảng, trong đó có lịch sử đảng bộ cơ sở, ngày 18/01/2018, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng. Chỉ thị nêu rõ các giải pháp đối với công tác lịch sử Đảng nói chung và cũng là những định hướng, giải pháp đối với công tác nghiên cứu, biên soạn, giáo dục lịch sử Đảng ở cơ sở nói riêng:
78