🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sức Mạnh Dân Tộc Của Cách Mạng Việt Nam Dưới Ánh Sáng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: VŨ PHƯƠNG HÀ ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. VŨ HỒNG THỊNH BÙI BỘI THU Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: NGUYỄN MẠNH HÙNG HOÀNG MINH TÁM VŨ PHƯƠNG HÀ BÍCH LIỄU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4854-2020/CXBIPH/19-347/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5627-QĐ/NXBCTQG, ngày 01/12/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 12 năm 2020. Mã số ISBN: 978-604-57-6279-0. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Lê Mậu Hãn Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh / Lê Mậu Hãn. - Tái bản lần thứ 4. - H. : Chính trị quốc gia, 2020. - 364tr. ; 21cm ISBN 9786045760208 1. Đoàn kết dân tộc 2. Cách mạng giải phóng dân tộc 3. Tư tưởng Hồ Chí Minh 323.1597 - dc23 CTL0228p-CIP 4 “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” HỒ CHÍ MINH LỜI NHÀ XUẤT BẢN Phó Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Lê Mậu Hãn là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử Đảng, lịch sử Quốc hội, Chính phủ và tư tưởng Hồ Chí Minh, được độc giả đánh giá cao. Cuốn sách Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh tập hợp những chuyên luận khoa học của ông đã được đăng trên các sách và tạp chí khoa học. Với tư duy độc lập, tác giả đã trình bày một cách khái quát những vấn đề cơ bản của sức mạnh dân tộc Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi Người ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc rồi bắt tay vào sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến ngày nay. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, trên con đường hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được sức mạnh dân tộc. Ngay từ năm 1924, Người đã từng tổng kết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”, “Phát động chủ nghĩa dân tộc (là) một chính sách hiện thực tuyệt vời”. Những tư tưởng này đã được thể hiện 7 rõ trong nhiều tác phẩm của Người, đặc biệt là trong bản Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 - một cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn. Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trong bài diễn văn quan trọng: Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI đã khẳng định: “chủ nghĩa dân tộc hướng tới chủ nghĩa cộng sản (là) sự đóng góp lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với hệ tư tưởng Mác - Lênin và phong trào cách mạng thế giới”. Nếu như chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là động lực quyết định tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, thì nguồn động lực dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân... là những động lực lớn quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 90 năm qua, vẫn tiếp tục là những hành trang vô giá để dân tộc ta tiến vào thế kỷ XXI. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, những tư tưởng đúng đắn của Người trong bản Cương lĩnh đầu tiên mới được xác lập trở lại vào đầu năm 1941 khi Người trở về nước cùng với những đồng chí, những học trò xuất sắc của mình trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người xác định cách mạng ở nước ta lúc này không phải là cách mạng tư sản dân quyền có tính chất phản đế và điền địa mà là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Sự “thay đổi chiến lược” này đã tập hợp được sức mạnh 8 toàn dân tộc trong một mặt trận chung, xác định đúng kẻ thù, có chiến lược và sách lược linh hoạt, mềm dẻo, tạo lực, tạo thời cơ và tận dụng thời cơ để tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, có Quốc hội, Chính phủ đoàn kết và thống nhất với một bản Hiến pháp tiến bộ, dân chủ và công bằng cho các giai cấp, các tầng lớp và toàn dân tộc. Từ đây, dưới ngọn cờ “không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vô cùng anh dũng suốt 30 năm, bằng hai cuộc kháng chiến thần thánh, lần lượt đánh thắng thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ xâm lược, đem lại hòa bình trong độc lập, tự do và thống nhất, xác lập con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội VI và xác định Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội VII, tiếp tục bổ sung, phát triển tại Đại hội XI của Đảng. Những thắng lợi to lớn và rất quan trọng qua hơn 30 năm đổi mới dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một bảo đảm vững chắc cho dân tộc ta tiếp tục tiến vào kỷ nguyên mới. Nhân dịp kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản cuốn sách với mong muốn mang đến cho bạn đọc một tài 9 liệu tham khảo bổ ích trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, vững tin ở Đảng và dân tộc ta trong tiến trình đổi mới và hội nhập. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 5 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT10 PHẦN THỨ NHẤT CƯƠNG LĨNH, CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐƯA DÂN TỘC TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN ĐỘC LẬP, TỰ DO 11 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH*, TỪ CÁCH NHÌN TỔNG QUÁT Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng cách mạng, lãnh tụ thiên tài và vô cùng kính yêu của Đảng ta, của nhân dân và của cả dân tộc ta. Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta. Dưới ngọn cờ chói lọi Hồ Chí Minh, một kỷ nguyên mới trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam đã được mở ra: kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng và lý luận cách mạng của Người để lại cho dân tộc ta và nhân loại là một di sản vô cùng quý giá. Thế giới vần xoay và biến đổi, song tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn trường tồn, được kế thừa và vươn mãi lên tầm cao mới. Từ bình diện thế giới, nhiều chính khách, nhiều nhà nghiên cứu về tư tưởng, về triết học, về lịch sử... ở nước ngoài đã sớm nhìn nhận và khẳng định, Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, một nhà lý luận cách mạng độc đáo, đặc sắc. Đảng ta, nhân dân ta nguyện tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Người, đi theo con đường của Người đã vạch ra, ______________ * Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều tên gọi khác nhau. Trong tác phẩm này tôi chỉ dùng tên Hồ Chí Minh (T.G). 13 con đường dẫn đến độc lập, tự do, sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc cho đồng bào ta. Việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã triển khai từ lâu bằng nhiều hình thức phong phú trong toàn Đảng, toàn dân ta như một nhu cầu khách quan của cuộc sống. Song, trước đây, việc học tập, nhất là giảng dạy và nghiên cứu Hồ Chí Minh trên góc độ một hệ tư tưởng, một học thuyết cách mạng hầu như chưa được xác định rõ rệt. Nếu đâu đó có nêu ra ý kiến về tư tưởng Hồ Chí Minh thì cũng rất dè dặt, thận trọng - thận trọng đến mức rụt rè, tự ti. Hình như có một quan niệm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao trí tuệ của thời đại, khó ai có thể vượt qua được nên đã tạo ra một sự kìm hãm khá nặng nề đối với năng lực nghiên cứu sáng tạo của chúng ta. Chỉ trong những năm gần đây, do hoàn cảnh thế giới có nhiều biến động lớn, hệ thống chính trị - xã hội của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ nhanh chóng, do nhu cầu giữ vững sự ổn định tình hình kinh tế - xã hội của nước ta và sự đổi mới tư duy do Đại hội Đảng lần thứ VI vạch ra, đặc biệt từ khi Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”1, công tác giảng dạy và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh mới được khẳng định và xúc tiến mạnh mẽ. Nhiều tác phẩm, bài viết có cá tính sáng tạo khoa học đã xuất hiện. Nhân dân ta đang đón chờ nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr.147. 14 Hồ Chí Minh có giá trị khoa học sáng tạo lớn để triển khai vào cuộc sống cách mạng. Chắc chắn đó là thành quả của nhiều chương trình khoa học lâu dài. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua nêu lên quan điểm: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Giải thích khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh đã nêu trong báo cáo trước Đại hội rằng: tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta. “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”1. Tiếp tục cách giải thích đó, sách Một số vấn đề cơ bản trong Văn kiện Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam của Viện Mác - Lênin, đã nhấn mạnh: “Cái cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam”2. ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.30. 2. Viện Mác - Lênin: Một số vấn đề cơ bản trong Văn kiện Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Tư tưởng - Văn hoá, Hà Nội, 1991, tr.17. 15 Theo dõi một số bài nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, ta thấy có nhiều định nghĩa khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh rất khác nhau. Sau đây là một số định nghĩa: Trong tác phẩm Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1982 có đoạn viết: “Điều có giá trị xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có chủ nghĩa Mác - Lênin soi tỏ là ở chỗ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra và thực hiện thắng lợi tư tưởng cách mạng vĩ đại: Không có gì quý hơn độc lập, tự do”1. Năm 1995, Hội đồng xuất bản Hồ Chí Minh toàn tập đã viết: “Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là điểm xuất phát của tư tưởng Hồ Chí Minh”... “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là luận điểm trung tâm của tư tưởng Hồ Chí Minh, nó thâm nhập và xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người trong các thời kỳ và trên các lĩnh vực”2. “Độc lập, tự do - tư tưởng cách mạng cốt lõi, học thuyết chính trị của Hồ Chí Minh”3. Con đường cứu nước là “con đường cách mạng vô sản. Chủ nghĩa yêu nước đã gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân ______________ 1. Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.52. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.IX-X. 3. Các đại hội Đảng ta (1930 - 1986), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.32. 16 chính. Giải phóng dân tộc đã gắn liền với giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đó chính là cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh”1. “Hồ Chí Minh là trí tuệ, tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới, giải phóng Tổ quốc, giải phóng nhân dân, xây dựng sự phồn vinh của đất nước, cuộc sống tự do, ấm no hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ý chí Việt Nam... Tính nhân dân, tính nhân đạo thể hiện nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh”2. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm về cách mạng Việt Nam, gắn liền với những biến động của thế giới trong thế kỷ thứ XX này, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, ngoại giao, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học - kỹ thuật, văn hóa - nghệ thuật, luật pháp, đạo đức, tôn giáo... quan hệ đến đời sống của giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người”3. ______________ 1. Võ Nguyên Giáp: Thế giới sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi. In trong Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1992, tr.37. 2. Hoàng Tùng: Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị chỉ đạo đối với cách mạng Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, 4/1992, tr.13. 3. Đặng Xuân Kỳ: Tư tưởng Hồ Chí Minh, tạp chí Lịch sử Đảng, 3/1992, tr.3-4. 17 “Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa sâu sắc tinh hoa của dân tộc và trí tuệ của thời đại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin, là sự vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn giữa giai cấp và dân tộc, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là khoa học về chiến lược và sách lược đảm bảo dẫn đến thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng của Việt Nam trong hiện tại và tương lai”1. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận về đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam: Cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp truyền thống văn hóa Việt Nam mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái, cố kết dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. Đó là tư tưởng cách mạng không ngừng, từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội, nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải ______________ 1. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở khoa học và thực tiễn, tạp chí Lịch sử Đảng, 3/1992, tr.9. 18 phóng con người. Nói ngắn gọn là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội, hay nói gọn hơn: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”1. “Nhìn lại sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua quá trình cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy cả một hệ thống quan điểm toàn diện, nhất quán và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là đi từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là một cuộc cách mạng thuộc địa từ giải phóng dân tộc đến giải phóng xã hội, giải phóng con người tiến lên chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam”2. Những cách giải thích nêu trên chính là điều mà các tác giả muốn tiếp cận mối quan hệ bản chất và tính độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng rõ ràng là chưa thỏa mãn nhu cầu khoa học và cách nhìn tổng quát tư tưởng Hồ Chí Minh, chưa đáp ứng đòi hỏi của quần chúng về cả mặt lý trí, tư tưởng và chỉ đạo hành động trước mắt và mai sau. Vậy, làm thế nào để có một định nghĩa tổng quát về tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng các yêu cầu về khoa học và thực tiễn? ______________ 1. Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.94-95. 2. Lê Khả Phiêu: Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.23-24. 19 Theo tôi, một hệ tư tưởng, một học thuyết cách mạng... bao giờ cũng có một cấu trúc chặt chẽ hòa quyện với nhau của nhiều bộ phận hợp thành tạo nên bản chất và đặc điểm của nó; có nguồn gốc phát sinh và phát triển; có giá trị làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của một chính đảng cách mạng, của phong trào quần chúng hoặc của cả một dân tộc; có tác dụng khoa học và thực tiễn cách mạng của nó. Một định nghĩa hợp lý phải phản ánh được tổng quát các yếu tố cấu thành của hệ tư tưởng hay của học thuyết cách mạng như chính nó đã tồn tại. Vậy ta có thể trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh từ cách nhìn tổng quát như sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ quan điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc ta, được hình thành trên cơ sở hiện thực của đất nước và thời đại và trở lại chỉ đạo thực tiễn, làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng... Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ quan điểm toàn diện về cách mạng Việt Nam, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội mà hạt nhân cơ bản là chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tư tưởng và hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh lấy dân tộc và con người làm điểm xuất phát, làm địa bàn hoạt động, làm động lực và mục tiêu. Tư tưởng đó đã và mãi mãi khơi dậy sức mạnh của truyền thống yêu nước, 20 yêu dân, sức mạnh đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế trong sáng, thủy chung. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm trí tuệ của truyền thống và hiện đại của dân tộc, là sự tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, văn hóa phương Đông và phương Tây mà tầm cao là chủ nghĩa Mác - Lênin; của một tư duy uyên thâm, năng động, cách mạng, sáng tạo và phát triển. Tư tưởng đó mang bản sắc dân tộc đậm đà và sâu sắc, được tiếp nối và nâng lên tầm cao của thời đại. Tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” là động lực và mục tiêu lý tưởng, là cơ sở của chiến lược cách mạng, chiến lược kháng chiến, chiến lược kiến quốc, xây dựng thể chế kinh tế, chính trị, xã hội mới, chiến lược đoàn kết toàn dân tạo dựng sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế, chiến lược xây dựng đội tiên phong cách mạng của giai cấp, của dân tộc và chiến lược con người của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”1. Và trước khi qua đời Người nói lên điều mong muốn cuối cùng là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”2. ______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187; t.15, tr.624. 21 “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là tư tưởng cách mạng cốt lõi, là lẽ sống của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới. Phạm Văn Đồng đã nêu rõ: “Hồ Chí Minh đã đề xướng đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sau này được đúc lại trong khẩu hiệu nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”1. “Độc lập, tự do ở đây là độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân, của con người. Độc lập đi liền với tự do là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng lời nói này là sự kết tinh những khát vọng thiết tha và cao đẹp nhất của mọi con người và mọi dân tộc, bởi nó khẳng định một chân lý vĩnh cửu, bởi nó là lời hiệu triệu vang vọng suốt chiều dài lịch sử, phải được ghi trong những lời nói vĩ đại nhất của loài người”2. Một số chính khách nước ngoài khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách thiên tài sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng xã hội và nhấn mạnh thông qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, qua chủ nghĩa anh hùng nảy nở trong cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam, người ta đã tìm thấy lời giải thích hay nhất học thuyết độc lập, tự do của Người. ______________ 1. Phạm Văn Đồng: Người vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. In trong Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr.30. 2. Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu, nước mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.133. 22 Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (4/2001) tiếp tục khẳng định Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”1. ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83-84. 23 Tư tưởng Hồ Chí Minh là một cống hiến quý báu vào kho tàng lịch sử tư tưởng cách mạng của thời đại, có ý nghĩa thực tiễn năng động, cách mạng, là ngọn đèn soi sáng cho các thế hệ hôm nay và mai sau của dân tộc Việt Nam. 24 CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG HỒ CHÍ MINH Trên đường bôn ba tìm phương cứu nước khắp các lục địa, Hồ Chí Minh đã dành tâm sức xem xét tình hình các dân tộc, các giai cấp, các thể chế chính trị, đặc biệt là đi sâu tìm hiểu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Nghiên cứu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Mỹ và cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp, Hồ Chí Minh đã học được nhiều kinh nghiệm quý, nâng cao được tầm hiểu biết về vai trò của các giai cấp trong cách mạng tư sản; về tổ chức; về tinh thần, ý chí cách mạng của quần chúng; về tư tưởng tự do, dân chủ. Tìm hiểu tư tưởng cốt lõi của cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, đối chiếu với thực tiễn các thể chế chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa Pháp, Mỹ và với cuộc sống của các giai cấp, các dân tộc thuộc các màu da khác nhau, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”1. “Chúng ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.296. 25 ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”1. “Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”2. Nói một cách khác, con đường cách mạng dân chủ tư sản dẫn đến thiết lập nhà nước tư sản không thể là con đường giải phóng dân tộc và giải phóng lao động triệt để cho Việt Nam và các dân tộc bị ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân trên thế giới. Giữa lúc đó, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và nhà nước Xôviết Nga được thành lập, tư tưởng cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thành hiện thực trên đất nước Nga. Hàng triệu triệu người trên thế giới đã hướng về nước Nga Xôviết. Hồ Chí Minh đã chủ tâm tìm hiểu con đường của cách mạng Nga, về tư tưởng cách mạng của V.I. Lênin và tích cực hoạt động ủng hộ nước Nga Xôviết. Nghiên cứu về cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”3. ______________ 1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.292, 296, 304.26 Đặc biệt, bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đã đem đến cho Hồ Chí Minh thêm những nhận thức mới, sáng rõ hơn về cách mạng thuộc địa, về con đường giải phóng các dân tộc khỏi gông cùm nô lệ, con đường giành độc lập dân tộc và tự do cho đồng bào của Người. Trải qua cuộc hành trình kéo dài trong một thập niên hoạt động và khảo sát chính trị vô cùng phong phú, Hồ Chí Minh đã có một chiều dày kinh nghiệm và bản lĩnh cách mạng trong cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp, tích luỹ được một vốn tri thức dồi dào về chính trị, làm cơ sở vững chắc cho Người đi đến một sự so sánh, chọn lựa đúng con đường giải phóng dân tộc: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1. Từ nhận thức cách mạng và khoa học đó, tại Đại hội Tua (Tours) của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), Hồ Chí Minh đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Và chính Người là một trong những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam đã tham gia sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa cộng sản khoa học, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc tiên tiến, Người đã trở thành một chiến sĩ cộng sản, một chiến sĩ quốc tế vô sản, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam và sự nghiệp giải phóng các dân ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.30. 27 tộc bị nô dịch, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Hồ Chí Minh đã trở thành con người của bước ngoặt lịch sử, mở đường vạch hướng thắng lợi cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Và chính Người đã chú tâm nghiên cứu, xây dựng lý luận, tư tưởng chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc để truyền bá vào Việt Nam, dẫn dắt cả một thế hệ thanh niên yêu nước đi theo con đường mà Người đã lựa chọn và tư tưởng cách mạng do Người xây dựng. Người đã tích cực hoạt động, chuẩn bị để thành lập một chính đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân nhằm đảm nhiệm sứ mệnh lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh có một sự hiểu biết sâu sắc về đất nước và con người, lịch sử, cuộc sống, đấu tranh... của nhân dân các nước thuộc địa với tất cả các đặc điểm vốn có của nó. Người coi vấn đề thuộc địa và giải phóng các dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân là một trong những nội dung cơ bản về chiến lược cách mạng của thời đại chúng ta. Vì vậy, cần phải “tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa”1 và phải giúp nhân dân các thuộc địa về tổ chức và đấu tranh. Ở tất cả các nước thuộc địa nói chung và ở Đông Dương nói riêng đã có sẵn tiền đề cho sự gieo mầm của chủ nghĩa xã hội. Người nói, ở Đông Dương: “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.35. 28 dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”1. Suốt cả thập niên thứ ba, lúc thì hoạt động ở Pháp (1921 - 1923), lúc thì sang Liên Xô (từ tháng 6/1923 đến những tháng cuối năm 1924) rồi về hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc (từ tháng 12/1924 trở đi), Hồ Chí Minh đã kết hợp nghiên cứu, xây dựng lý luận chính trị với tuyên truyền và tổ chức cách mạng. Đặc biệt, những năm tháng hoạt động ở Liên Xô, Hồ Chí Minh có dịp đi sâu nghiên cứu học hỏi cách mạng Nga, nghiên cứu xây dựng lý luận và tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo học thuyết của V.I. Lênin. Tư tưởng, quan điểm chiến lược về cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã hình thành về cơ bản. Những năm tháng ở Quảng Châu, hoạt động chủ yếu của Hồ Chí Minh là trực tiếp tuyên truyền và tổ chức, chuẩn bị thành lập chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nghiên cứu về hoạt động lý luận của Hồ Chí Minh, tìm hiểu kỹ các bài viết, các tham luận chính trị, các tác phẩm của Người trong thập niên thứ ba này, ta thấy quan điểm cách mạng và lý luận về con đường cách mạng - con đường dẫn đến độc lập, tự do của Hồ Chí Minh thể hiện khá hoàn chỉnh. ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.40. 29 Nội dung cơ bản của hệ thống quan điểm đó là: - Bản chất của chủ nghĩa thực dân là phản động. Cái gọi là “khai hóa văn minh” của thực dân là bịp bợm. Thật là một cách khai hóa kỳ khôi: để dạy cho mọi người sống ra sống, người ta bắt đầu giết họ đi đã... Nói tổng quát về chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chế độ thực dân là ăn cướp”1, là “hiếp dâm và giết người”2. Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp, nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa. Hồ Chí Minh đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần phản kháng dân tộc, kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa phải dựa vào lực lượng của bản thân mình, đứng lên giải phóng cho mình “công cuộc giải phóng anh em (ở các thuộc địa - T.G) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”3. Nhân dân các nước thuộc địa có sẵn trong bản thân một sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. - Cách mạng giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân. “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”4. Vì vậy, phải tiến hành cách mạng một cách triệt để, phải cách mạng đến nơi, phải đem chính ______________ 1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.115, 115, 138; t.1, tr.441. 30 quyền giao cho dân chúng số nhiều, chứ không để trong tay một bọn ít người, có như thế dân chúng mới được hạnh phúc. Tư tưởng đó là nền tảng của đường lối chiến lược tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, mở đường tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Cách mạng ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau như những “cái cánh” của cách mạng thời đại. Phải thực hiện sự liên minh đấu tranh giữa các lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc và các lực lượng cách mạng vô sản ở chính quốc, xây dựng sự liên minh giữa phương Đông và phương Tây theo khẩu hiệu chiến lược của V.I. Lênin “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Điều đặc sắc là ngay từ năm 1921, Hồ Chí Minh đã nêu rõ cách mạng thuộc địa không bị lệ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà nó có tính chủ động và độc lập. Cách mạng ở thuộc địa có thể thành công trước cách mạng ở “chính quốc” và góp phần thúc đẩy cách mạng ở “chính quốc”. “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”1. Giai ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.48. 31 cấp công nhân và nhân dân lao động ở các thuộc địa phải ra sức tìm tòi thật đến nơi đến chốn con đường tự giải phóng cho mình, bằng sức mạnh to lớn của bản thân, sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế... Đây là một quan điểm cách mạng độc lập sáng tạo của Hồ Chí Minh về vị trí cách mạng của các nước thuộc địa. - Tính chất của cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa, trước hết là “dân tộc cách mệnh” nhằm đánh đuổi bọn đế quốc thực dân, giành lấy độc lập, tự do. Nước đã mất thì dân mất hết cả quyền lợi kinh tế và chính trị, mất cả tự do, độc lập. Ách áp bức dân tộc của bọn đế quốc đã làm cho các dân tộc bị nô lệ không thể chịu nổi mãi, đã tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, thà chết tự do hơn sống nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi bọn áp bức mình đi; ấy là “dân tộc cách mệnh”. Nhận thức đúng tính chất cách mạng ở thuộc địa có tác dụng chi phối việc xác định kẻ thù, nhiệm vụ cách mạng chủ yếu, sức mạnh cách mạng của dân tộc và cả vấn đề xây dựng đội tiên phong cách mạng, v.v.. Ở các nước thuộc địa, bọn đế quốc và phong kiến phản động cấu kết chặt chẽ với nhau, áp bức và bóc lột nhân dân lao động một cách nặng nề. Nhân dân lao động các nước thuộc địa bị hai lần bóc lột, bóc lột lao động và bóc lột thuộc địa. Ở Việt Nam, nhân dân ta phải è cổ ra mà chịu “công ơn bảo hộ” của nước Pháp. Riêng người nông dân Việt Nam lại càng phải chịu sự bảo hộ ấy một cách khổ cực, bần cùng hơn: là người Việt Nam, họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị tước đoạt. Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của cuộc cách mạng ở thuộc địa là phải tập trung lực lượng chống chủ 32 nghĩa đế quốc xâm lược và thống trị: “Như An Nam đuổi Pháp, Ấn Độ đuổi Anh, Cao Ly đuổi Nhật, Philíppin đuổi Mỹ, Tàu đuổi các đế quốc chủ nghĩa để giành lấy quyền tự do bình đẳng của dân nước mình”1. Giương cao ngọn cờ chống đế quốc, giành lấy độc lập, tự do, thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng thuộc địa. - Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược “giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”2, “là việc chung của cả dân chúng”. Phải ra sức tập hợp lực lượng, xây dựng sức mạnh dân tộc chống đế quốc. Vì bị áp bức mà sinh ra cách mạng, cho nên ai bị áp bức càng nặng thì lòng cách mạng càng bền, chí cách mạng càng quyết. Công - nông là những giai cấp bị áp bức nặng nề nhất, có lực lượng đông đảo nên công - nông “là gốc cách mệnh”3, là “người chủ cách mệnh”4. Phân tích nội dung kinh tế và giai cấp của xã hội trong thời đại mới, Hồ Chí Minh vạch rõ: giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mạng lịch sử lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với giai cấp nông dân. Nông dân là lực lượng đông đảo nhất ở các nước thuộc địa, bị đế quốc và phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, phải đi với giai cấp công nhân, chịu sự tổ chức và lãnh đạo của giai cấp công nhân thì mới có thể giải phóng được. Ngược lại, giai cấp công nhân muốn giành được quyền lãnh đạo duy nhất và đưa cách mạng đến thành công phải liên minh với nông ______________ 1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.287, 282, 288, 288. 33 dân. Nông dân và công nhân là hai bạn đồng minh tự nhiên. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu kinh nghiệm về liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân của cuộc cách mạng ở Nga năm 1905, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Công xã Quảng Châu (Trung Quốc) năm 1927, để đi đến khẳng định về tính chiến lược của sự liên minh giữa công nhân và nông dân trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng vô sản phải giành lấy quyền lãnh đạo phong trào, tổ chức, động viên quần chúng nông dân xung quanh những khẩu hiệu giai cấp nhất định phù hợp với tính chất của cuộc cách mạng, nói tóm lại là phải dẫn dắt toàn bộ phong trào tiến tới thực hiện những khẩu hiệu ấy. Đảng của giai cấp vô sản cần phải phối hợp phong trào nông dân với các mục tiêu cách mạng và các hoạt động của giai cấp vô sản ở các trung tâm công nghiệp”1. Trên cơ sở coi công - nông là gốc cách mạng, Hồ Chí Minh xác định “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công - nông”2. Trong cuộc cách mạng dân tộc “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”3 đồng tâm hiệp lực đấu tranh thì cách mạng mới thành công. Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất, chung một lịch sử, chung một truyền thống. Người Việt Nam có mối tình đoàn kết, nghĩa đồng bào sâu nặng. Đó là một sức mạnh truyền thống vĩ đại của dân tộc. Bọn đế quốc thực hiện chính sách “chia để trị”, tìm mọi ______________ 1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.565, 288, 287.34 thủ đoạn xảo trá để chia rẽ, phá hoại truyền thống đoàn kết dân tộc, tinh thần tương thân tương ái, tình nghĩa đồng bào của nhân dân ta, tạo ra những mối xung khắc giữa những người anh em ruột thịt Việt Nam để dễ bề thống trị. Vì vậy, phải ra sức giữ gìn, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ truyền thống đoàn kết dân tộc, nghĩa đồng bào, lấy công - nông làm gốc nhằm tạo nên sức mạnh dân tộc để chiến đấu và chiến thắng đế quốc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. - Cách mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế. “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả..., dân An Nam... tranh đấu với đế quốc chủ nghĩa Pháp, chắc... sẽ có nhiều người cách mệnh phải hy sinh, phải khốn khổ, phải cần anh em trong thế giới giúp giùm”1. Việt Nam muốn được các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới giúp đỡ, trước hết “mình phải tự giúp lấy mình”2, phải nêu cao tinh thần tự lực, tự cường và tính chủ động cách mạng, không được ỷ lại trông chờ. Có như vậy mới phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc, tranh thủ có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế, tạo nên sức mạnh cách mạng tổng hợp của dân tộc để chiến thắng kẻ thù. - Cách mạng là sự nghiệp của tất cả dân chúng được giác ngộ và được tổ chức lại chứ không phải là việc của một ______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.329, 320. 35 vài người. Phải giáo dục quần chúng về mục đích cách mạng, ý thức đồng tâm hợp lực, bền gan chiến đấu để đánh đổ các giai cấp áp bức mình, giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào chứ không phải là hành động của từng cá nhân, ám sát, giết chết vài tên vua quan phản động. Quần chúng cách mạng phải được tổ chức thành đội ngũ vững chắc. Người cách mạng phải hiểu biết cách đấu tranh, hiểu rõ tình thế, biết so sánh lực lượng, phải có “mưu chước”, phải biết cách làm mới chóng thành công. Khởi nghĩa dân tộc và chiến tranh giải phóng dân tộc là những phương thức cơ bản về bạo lực cách mạng của nhân dân thuộc địa để chống lại hành động bạo lực phản cách mạng của đế quốc thực dân và tay sai. Hồ Chí Minh đã sớm nêu lên các quan điểm về khởi nghĩa dân tộc, cuộc khởi nghĩa được chuẩn bị trước một cách chu đáo có tính chất quần chúng rộng lớn, chứ không phải là một cuộc “nổi loạn”; về phối hợp cuộc đấu tranh của nông dân với cuộc đấu tranh của công nhân; về kết hợp khởi nghĩa ở nông thôn và đô thị, ở các trung tâm yết hầu về chính trị, quân sự, kinh tế của giai cấp thống trị mới đưa cuộc khởi nghĩa dân tộc đến thắng lợi triệt để. Đó là những quan điểm đầu tiên của Hồ Chí Minh về phương pháp và nghệ thuật đấu tranh cách mạng, về khởi nghĩa dân tộc. - Cách mạng muốn thành công thì trước hết phải có đảng cách mạng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần chúng trong nước, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. 36 Đảng phải có lý luận cách mạng làm cốt, mọi đảng viên của đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải tuân theo. Đảng mà không có lý luận khác nào người không có trí khôn, tàu không có la bàn. Lý luận cách mạng đó là học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng phải đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên có lý tưởng cách mạng và trung thành, phải biết hy sinh vì cách mạng, vì lý tưởng giải phóng dân tộc và nhân loại, phải có đạo đức, tư cách cách mạng: cần kiệm, vị công vong tư, không hiếu danh kiêu ngạo, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, có ý thức tổ chức phục tùng đoàn thể, phải có lòng khoan dung vị tha...1. Các quan điểm lý luận về con đường cách mạng của Hồ Chí Minh nêu trên là nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng và phát triển sáng tạo vào cách mạng Việt Nam, một nước vốn là thuộc địa với tất cả đặc điểm cơ bản vốn có của nó về đất nước, lịch sử, xã hội và con người. Đứng vững trên lập trường cách mạng vô sản của học thuyết Mác - Lênin, nắm chắc bối cảnh lịch sử của thế giới và của dân tộc, nhìn rõ xu thế phát triển cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm khẳng định cách mạng ở thuộc địa trước hết là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, yếu tố dân tộc là yếu tố hàng đầu quyết định tính độc đáo của cách mạng thuộc địa. Vấn đề sống còn của các dân tộc thuộc địa là phải thoát khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa đế ______________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.277-347. 37 quốc, đoàn kết toàn dân dựa trên cơ sở khối liên minh công - nông, hình thành một sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế, tạo nên một sức mạnh tổng hợp chống đế quốc và tay sai nhằm giành cho được độc lập, tự do. Độc lập, tự do là tư tưởng cách mạng cốt lõi của Hồ Chí Minh được xác định từ những năm 20 của thế kỷ XX. Hệ thống quan điểm lý luận đó được truyền bá vào Việt Nam (và toàn Đông Dương) trong những năm 20 của thế kỷ XX, là ngọn cờ tư tưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hướng đạo phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Hệ thống quan điểm cách mạng đó cũng đã ảnh hưởng sâu sắc và quyết định chiều hướng phát triển cách mạng của Tân Việt Cách mạng Đảng. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách mạng Đảng đã đi sâu tuyên truyền vận động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị đấu tranh, làm dấy lên trong cả nước một làn sóng dân tộc dân chủ ngày càng mạnh. Ý thức chính trị và tính tổ chức của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản chín muồi đã thúc đẩy sự chuyển hóa mạnh mẽ và nhanh chóng tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách mạng Đảng, dẫn đến sự phân hóa và xuất hiện các tổ chức cộng sản ở nước ta vào năm 1929 là: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (8/1929)1, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929) ______________ 1. Hồng Thế Công: Lược khảo về lịch sử Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 3/1933. Bản dịch lưu tại Viện Lịch sử Đảng. 38 và đến đầu năm 1930, các tổ chức cộng sản được hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Tại Hội nghị hợp nhất, bản Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đã được thông qua. Đó là các văn kiện của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng - cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo. Cơ sở tư tưởng và lý luận của cương lĩnh đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng thuộc địa của Hồ Chí Minh vạch ra trong những năm 20 của thế kỷ XX. Sau Hội nghị hợp nhất Đảng, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng do Trịnh Đình Cửu đứng đầu đã được thành lập1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp lý luận giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trở thành người lãnh đạo duy nhất phong trào dân tộc ở nước ta, chính là sự giao phó của lịch sử thông qua thử thách sàng lọc nghiêm khắc trên trường tranh đấu cách mạng quyết liệt của nhân dân ta; là hiện thực hóa trong cuộc sống đấu ______________ 1. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng gồm có: Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo. 39 tranh dân tộc hệ thống quan điểm cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh; là thành quả cơ bản đầu tiên của một thập niên vận động tổ chức phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản và cuộc vận động thành lập Đảng của Hồ Chí Minh, của một tập thể học trò, của nhiều chiến sĩ cận vệ cách mạng do Người đào tạo. Theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam vững bước tiến lên trên đường thắng lợi trong cuộc đấu tranh vì độc lập và tự do... 40 ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG TRƯỚC HẾT BẰNG CƯƠNG LĨNH, CHIẾN LƯỢC Việt Nam là một quốc gia dân tộc được hình thành rất sớm. Trải qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã trở thành Tổ quốc thiêng liêng của trên 50 dân tộc. Yêu nước, cố kết dân tộc, kiên cường bất khuất, nhân ái, thủy chung đã trở thành đạo lý sống, là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần truyền thống của người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước... Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v.. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”1. Giá trị tinh thần truyền thống đó không chỉ là một tình cảm thiêng liêng, một phẩm chất cao quý mà đã được ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.38. 41 kế thừa và phát triển thành một chủ nghĩa dân tộc, dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam, xuyên suốt tiến trình lịch sử dân tộc. Đó là động lực tư tưởng cho cuộc đấu tranh sinh tồn và phát triển của dân tộc ta. Hồ Chí Minh luôn nêu cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc. Từ năm 1924, Người đã nêu rõ cần phải “bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”1; phải “củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”2. Đối với Việt Nam, Người nói: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”3. “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản (là - T.G) một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời. Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”4. Trong tư tưởng của Người, chủ nghĩa dân tộc được xác định trên lập trường của giai cấp công nhân, kết hợp chủ nghĩa dân tộc truyền thống với chủ nghĩa quốc tế cách mạng vô sản trong sáng. “Đó là “chủ nghĩa dân tộc hướng tới chủ nghĩa cộng sản”. Đây là sự đóng góp lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với hệ tư tưởng Mác - Lênin và phong trào cách mạng thế giới”5. ______________ 1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.509, 510, 511, 513. 5. Lê Khả Phiêu: Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.13-14. 42 Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng là người kế thừa và nâng lên tầm cao mới truyền thống của dân tộc, kết hợp giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã trở thành người lãnh đạo duy nhất cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu cao cả và vĩ đại của dân tộc là độc lập, tự do. Đảng là người đại biểu trung thành cho lợi ích cao nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam - như Hồ Chí Minh đã nói: “không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và Tổ quốc”1. Chúng ta có thể tự hào rằng suốt mấy chục năm cách mạng, Đảng ta đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, kiên quyết và bền bỉ lãnh đạo cuộc đấu tranh của dân tộc. Vì vậy, Đảng ta đã “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc”2. Đảng ta được nhân dân tin tưởng, coi là đội tiên phong giác ngộ của mình. Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ ______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.413, 412. 43 trương công tác, bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức và kiểm tra, bằng hành động tiên phong gương mẫu của đảng viên, nhưng trước hết là cương lĩnh, chiến lược cách mạng. Cương lĩnh và chiến lược cách mạng của Đảng được xây dựng dưới ánh sáng của lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bệ đỡ của nguồn giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất nước và quốc tế qua mỗi thời kỳ cách mạng. Cương lĩnh cách mạng xác định các nguyên tắc và phương hướng chính trị, cùng với các chủ trương, chính sách của Đảng phản ánh ngày càng đúng đắn quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn của đất nước, là sự kết hợp tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng nói: Đảng truyền bá lý luận Mác - Lênin vào trong nhân dân ta, có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát triển được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình; Đảng kết hợp lý luận với kinh nghiệm và thực hành của cách mạng Việt Nam; Đảng áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lênin mà giải quyết các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam; Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao, phải hiểu rõ lịch sử xã hội, phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào lực lượng và sáng kiến của quần chúng, phải gom góp tư tưởng, kinh nghiệm, sáng kiến và ý chí của 44 quần chúng, sắp xếp nó thành hệ thống, rồi lại áp dụng vào trong quần chúng. Chính nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, có cương lĩnh, đường lối và chính sách cách mạng đúng đắn, sáng tạo nên Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng thật sự là hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc. Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhân dân tin tưởng và thừa nhận là đội tiên phong của mình. Vì vậy, Đảng đã khơi được nguồn lực lượng và sức sáng tạo của nhân dân, phát huy được nội lực của dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, không ngừng tiến lên giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính thời đại sâu sắc. 45 CHÁNH CƯƠNG VẮN TẮT, SÁCH LƯỢC VẮN TẮT, CHƯƠNG TRÌNH TÓM TẮT (1930) - CƯƠNG LĨNH CÁCH MẠNG ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, mở đầu bằng cuộc tiến công vào Đà Nẵng. Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định bằng vũ lực, thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước ta, thực dân Pháp đã triển khai mạnh mẽ những cuộc khai thác nước ta với quy mô ngày càng lớn nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương nói chung là chuyên chế về chính trị, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, bóc lột nặng nề về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho bọn tư bản lũng đoạn Pháp chứ không đem lại cho các nước Đông Dương bất cứ sự “khai hóa văn minh” nào. Việt Nam đã thành một xã hội thuộc địa của Pháp. Các giai cấp trong xã hội Việt Nam ngày càng bị phân hóa mạnh mẽ. Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản lần lượt ra đời. Các mâu thuẫn của xã hội Việt Nam - xã hội 46 thuộc địa - ngày càng diễn ra gay gắt, trong đó nổi bật lên là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân Pháp và tay sai. Sự thống trị áp bức bóc lột, sự chà đạp quyền độc lập dân tộc càng tăng thì sự phản kháng của dân tộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc càng quyết liệt. Thái độ, vị trí của các giai cấp bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và cả một bộ phận trong giai cấp địa chủ đối với bọn thực dân Pháp và tay sai đều do mâu thuẫn này chi phối. Phong trào dân tộc ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX trở đi về cơ bản đều diễn ra trên cơ sở mâu thuẫn này. Các tổ chức, các hội, đảng chính trị đã lần lượt ra đời và vươn lên giành ngọn cờ lãnh đạo phong trào dân tộc. Song, tất cả các phong trào dân tộc dưới ảnh hưởng của khuynh hướng dân chủ tư sản đã lần lượt thất bại. “Đám mây đen” của chủ nghĩa thực dân vẫn bao phủ bầu trời Việt Nam. Giữa bối cảnh đó, Hồ Chí Minh, người thanh niên yêu nước tiên tiến của dân tộc đã ra đi tìm đường cứu nước, thực hiện lý tưởng và lòng ham muốn suốt đời, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người cho rằng cần phải xem nước khác họ làm như thế nào mới có thể tìm được biện pháp thực hiện hoài bão giải phóng dân tộc. Gần một thập niên, Người đã bôn ba qua các lục địa Âu, Á, Phi, Mỹ. Vừa lao động kiếm sống, vừa nghiên cứu và khảo sát, Hồ Chí Minh đã có được một sự hiểu biết sâu sắc về tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản, về thể chế chính trị cộng hòa, về đời sống và cuộc đấu tranh vì quyền 47 độc lập dân tộc, quyền sống và quyền con người của giai cấp công nhân và các dân tộc bị nô dịch. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Hồ Chí Minh tích cực hoạt động trong phong trào công nhân, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, hướng về nước Nga Xôviết, về chủ nghĩa Lênin. Người đã đứng hẳn về phía Quốc tế Cộng sản và đã trở thành người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Bằng thiên tài trí tuệ và nhờ những hoạt động thực tiễn phong phú, Hồ Chí Minh đã tìm được chân lý giải phóng dân tộc. Sau này, Người đã tổng kết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”1. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”2. Người cho rằng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa và khẳng định chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản có thể áp dụng vào châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng. Theo Người chính sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đã “chuẩn bị đất” cho cách mạng. “Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”3. Hồ Chí Minh đã tích cực hoạt động và dành tâm trí để nghiên cứu lý luận Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Những quan điểm lý luận về cách mạng thuộc địa do Hồ Chí Minh vạch ra ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX đã mang tính hệ ______________ 1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.30, 563; t.1, tr.40. 48 thống. Hệ thống quan điểm lý luận về con đường cách mạng thuộc địa của Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết cách mạng của Mác, Ăngghen và Lênin với triết lý lịch sử phương Đông trở thành tư tưởng cách mạng chủ yếu hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng vô sản dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở nước ta vào năm 1929. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Hồ Chí Minh đã chủ động, kịp thời triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, đã quyết đoán, độc lập, sáng tạo và nhanh chóng thống nhất các tổ chức cộng sản riêng lẻ để lập ra một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 06/01/1930 tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc. Dự Hội nghị có đại biểu của Quốc tế Cộng sản là Hồ Chí Minh, hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm. Các đại biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong lịch sử Đảng ta, Hội nghị hợp nhất mang tầm vóc lịch sử của Đại hội thành lập Đảng, được xem như đại hội đầu tiên của Đảng. Hội nghị đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng. Đó là các văn kiện của Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh đã xác định những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. 49 Phân tích tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ chủ nghĩa đế quốc đã nắm toàn quyền thống trị, thi hành chính sách độc quyền về kinh tế ở nước ta, làm cho tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp. Cương lĩnh vạch rõ: “tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”1. Xuất phát từ tình hình đó, Cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng* để đi tới xã hội cộng sản”2. Cương lĩnh đã nêu ra nhiệm vụ cụ thể của cách mạng về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là: - Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, chuẩn bị cách mạng ruộng đất để tiến lên lật đổ địa chủ phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, thành lập chính phủ công - nông - binh, tổ chức ra quân đội công - nông. - Thủ tiêu các thứ quốc trái, thu hết các sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế ______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1. * Khái niệm “tư sản dân quyền cách mạng” và “thổ địa cách mạng” về sau được Đảng ta gọi là “cách mạng dân tộc dân chủ”. 50 quốc Pháp để giao lại cho chính phủ công - nông - binh quản lý; thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo, miễn thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ. Dân chúng tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thông giáo dục theo công - nông hóa. Các nhiệm vụ cách mạng nêu ra trên đây bao hàm cả nội dung: dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến tay sai; trong đó nổi bật lên là nhiệm vụ dân tộc, mục tiêu trước mắt là giành lấy độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Về sách lược, Đảng chủ trương phải thu phục, tập hợp được đông đảo quần chúng công nhân và nông dân khỏi ảnh hưởng của tư sản dân tộc, hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản, tiểu và trung địa chủ, còn bộ phận nào phản cách mạng như Đảng Lập hiến thì phải đánh đổ. Trong khi liên minh với các giai cấp, phải giữ vững nguyên tắc cách mạng, không được đi vào con đường thỏa hiệp, hy sinh quyền lợi cơ bản của công - nông cho một giai cấp nào khác. Về vai trò lịch sử của Đảng, Cương lĩnh khẳng định: Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, người tổ chức và lãnh đạo cách mạng, đấu tranh để giải phóng công nhân, nông dân, toàn thể đồng bào ta khỏi bị đế quốc và phong kiến thống trị, áp bức và bóc lột, giành lại quyền độc lập, tự do. 51 Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, Cương lĩnh chỉ rõ: Đảng phải liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng lao động trên thế giới nhất là quần chúng vô sản Pháp. Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo được Hội nghị hợp nhất nhất trí thông qua. Cương lĩnh đầu tiên tuy vắn tắt song đã nêu được những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam, có nội dung cách mạng, khoa học và sáng tạo phù hợp với nhu cầu khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thuận chiều tiến hóa của thời đại. Cương lĩnh đã thể hiện một cách nhuần nhuyễn quan điểm dân tộc với quan điểm giai cấp, quốc gia với quốc tế, trong đó thấm đẫm yếu tố dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân - yếu tố quyết định tính độc đáo của cách mạng thuộc địa. Thực hiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, dân chủ tiến lên theo định hướng xã hội cộng sản vì độc lập, tự do là tư tưởng cách mạng cốt lõi, là “viên ngọc quý” được “khảm” trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh nhân dịp thành lập Đảng đã thể hiện tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng vạch ra trong Cương lĩnh đó. Lời kêu gọi viết: “... Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng để: 52 1) Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng. 2) Làm cho nước An Nam được độc lập. 3) Thành lập Chính phủ công nông binh. 4) Tịch thu tất cả các nhà băng và cơ sở sản xuất của đế quốc trao cho Chính phủ công nông binh. 5) Quốc hữu hóa toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho nông dân nghèo. 6) Thực hiện ngày làm 8 giờ. 7) Hủy bỏ mọi thứ quốc trái và thuế thân, miễn các thứ thuế cho nông dân nghèo. 8) Đem lại mọi quyền tự do cho nhân dân. 9) Thực hành giáo dục toàn dân. 10) Thực hiện nam nữ bình quyền”1. Dưới ngọn cờ chói lọi của tư tưởng độc lập, tự do và đại đoàn kết dân tộc, thực hiện chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, Đảng đã tổ chức và lãnh đạo đông đảo nhân dân ta vùng lên đấu tranh chống đế quốc thực dân Pháp và tay sai phản động mà đỉnh cao là cao trào Xôviết Nghệ - Tĩnh. Đây là một phong trào cách mạng triệt để có tính chất quần chúng rộng rãi trong đó công nhân và nông dân là hai động lực chính đã tạo nên một sức mạnh cách mạng phi thường. Qua khủng bố trắng dữ dội của đế quốc Pháp, những người cách mạng, nhân dân lao động và những ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.22. 53 người yêu nước vẫn một lòng đi theo cách mạng và âm thầm ủng hộ cách mạng, trong đó có cả tiểu địa chủ, phú nông. Ở nông thôn Nghệ - Tĩnh thì địa chủ, phú nông, một số quan lại nhỏ đã phân hóa và phần lớn đã nghiêng về cách mạng. Họ tỏ ra quý trọng và khâm phục Đảng Cộng sản và phong trào công nông1. Đây là một hiện tượng lịch sử hiếm có trong phong trào cộng sản. Hiện tượng lịch sử này của cách mạng Việt Nam diễn ra năm 1930, ngay sau khi Đảng Cộng sản mới ra đời, không phải là ngẫu nhiên bột phát nhất thời mà là một tất yếu khách quan, kết quả của một quá trình đấu tranh dân tộc, một sự lựa chọn lịch sử của quần chúng. Chính điều này đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với cương lĩnh cách mạng đúng đắn, sáng tạo xứng đáng là tổ chức đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Hồ Chí Minh đã tổng kết rằng: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”2. ______________ 1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.230. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.407. 54 Sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc vào đầu năm 1930 không chỉ do những điều kiện chính trị, kinh tế trong nước mà trước hết và cơ bản là nhờ Hồ Chí Minh đã áp dụng một cách tài tình chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và V.I. Lênin trên cơ sở triết lý lịch sử phương Đông và tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam. Nghiên cứu hiện tượng lịch sử độc đáo này, Lê Duẩn viết: “Chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, Lênin đã được nhà cách mạng sáng suốt nhất và cũng đầy nhiệt huyết nhất của dân tộc Việt Nam cải hóa và trao lại cho giai cấp công nhân Việt Nam. Nhà cách mạng ấy là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Với vị lãnh tụ của mình, giai cấp công nhân Việt Nam đã đem lại cho toàn thể dân tộc Việt Nam một niềm tin tưởng vô hạn vào sự thành công của cách mạng. Và với vị lãnh tụ của mình, với tất cả những điều kiện lịch sử cụ thể của nước Việt Nam, với sứ mạng lịch sử của giai cấp mình trên thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam có một lập trường cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tất nhiên sẽ đưa lại độc lập tự do thực sự cho nước nhà”1. ______________ 1. Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.40. 55 HỒ CHÍ MINH VỚI NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC TRONG CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, cuộc đấu tranh của nhân dân thuộc địa và nửa thuộc địa vì độc lập, tự do là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa, chiến lược và sách lược cách mạng phương Đông đã được trình bày và phát triển trong nhiều tác phẩm của V.I. Lênin và các văn kiện của Quốc tế Cộng sản, đặc biệt là bản: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin trình bày tại Đại hội lần thứ II của Quốc tế Cộng sản năm 1920 là “ngọn đèn pha” soi đường giải phóng cho nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Vào trạc tuổi 30, Hồ Chí Minh đã tìm thấy chân lý cứu nước theo học thuyết cách mạng của Lênin với bao cảm động, sung sướng và phấn khởi. Theo “đường cách mệnh” của Lênin, Hồ Chí Minh đã tích cực hoạt động, thức tỉnh dân tộc, tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân tộc,56 đào tạo cán bộ và xây dựng tổ chức để tiến tới thành lập một đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân cùng với một cương lĩnh chính trị soi đường cho nhân dân ta tiến lên trong cuộc đấu tranh chống áp bức và bóc lột. Đầu năm 1930, Hội nghị đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh) và An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm) đã họp tại Cửu Long, Hương Cảng từ ngày 06/011 do Hồ Chí Minh chủ trì để thực hiện hợp nhất Đảng. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương2, Hồ Chí Minh đã chỉ cho đại biểu của hai đảng biết những sai lầm của họ và họ đã nhất trí hợp nhất để lập ra một Đảng Cộng sản duy nhất ở nước ta lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đã được Hội nghị nhất trí thông qua. Kế hoạch tiến hành thống nhất các cơ sở tổ chức đảng và cử ra một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời được giao cho các đại biểu dự Hội nghị về nước thực hiện. Các đại biểu trở về Việt Nam ngày 08/023. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã trở thành người duy nhất đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. ______________ 1, 2, 3. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.13. 57 Vừa mới ra đời, như Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng ta liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong”1. Một phong trào đấu tranh dân tộc và dân chủ rộng lớn đã diễn ra trong toàn quốc, dẫn đến đỉnh cao là sự ra đời của Xôviết nông dân Nghệ - Tĩnh. Cao trào đó có tính chất quần chúng khá rộng rãi. Đây là một thực tiễn cách mạng sinh động trong những tháng đầu khi Đảng mới ra đời, là minh chứng về vai trò lãnh đạo và đường lối chính trị của Đảng được nêu trong Cương lĩnh đầu tiên do Hồ Chí Minh soạn thảo phù hợp với yêu cầu khách quan của quần chúng, của dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại, được quần chúng thừa nhận và quyết tâm biến nó thành thực tiễn cuộc sống đấu tranh để giành lấy độc lập, tự do và quyền làm chủ vận mệnh của dân tộc. Giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh, Trần Phú, sau khi học xong trường Đảng ở Liên Xô, đã được đưa về nước hoạt động và bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Trần Phú cùng nhiều ủy viên Trung ương Đảng chuẩn bị cho hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng sắp được triệu tập. Tháng 10/1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Hương Cảng dưới sự ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.401. 58 chủ trì của Trần Phú đã quyết định đổi tên Đảng, bầu Trần Phú làm Tổng Bí thư của Đảng, thông qua bản Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, Điều lệ mới, nghị quyết chính trị của Hội nghị và nhiều nghị quyết vận động quần chúng của Đảng. Hội nghị đã quyết nghị: Thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Hội nghị hợp nhất thông qua và phải thực hành công việc của Đảng đúng theo nghị quyết, chỉ thị và thư của Quốc tế Cộng sản, bỏ tên Đảng Cộng sản Việt Nam để lấy tên là Đảng Cộng sản Đông Dương. Phải đem nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, chính sách và kế hoạch của Trung ương Đảng để thảo luận trong toàn Đảng, lấy đó làm căn bản mà chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng bônsơvích hóa1. Hội nghị đã phê phán rằng, Hội nghị hợp nhất và Hồ Chí Minh đã phạm nhiều sai lầm chính trị rất nguy hiểm vì chỉ lo hợp nhất các tổ chức đảng mà ít chú ý đấu tranh để bài trừ những tư tưởng và hành động biệt phái của các tổ chức đảng trước đó; đặt tên Đảng không đúng; hữu khuynh trong đường lối chính trị, “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp”! Trong nhiều văn kiện khác về sau, Trung ương Đảng còn tiếp tục phê bình những điều gọi là “sai lầm” như đã nói ở trên. Trong một bản báo cáo của Ban chỉ huy ở ngoài* của Đảng Cộng sản Đông Dương ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.113. * Trước đây thường gọi là Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng. 59 gửi Quốc tế Cộng sản ngày 31/3/1935 cũng nhận định rằng tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Hồ Chí Minh sáng lập mang hệ tư tưởng quốc gia cách mạng pha trộn với tư tưởng cải lương chủ nghĩa, duy tâm chủ nghĩa. Những tàn dư của tư tưởng đó còn rất mạnh và đã gây ra trở ngại rất nghiêm trọng cho sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng cho rằng việc đấu tranh không khoan nhượng chống lại lý luận cơ hội chủ nghĩa của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là cần thiết và yêu cầu Hồ Chí Minh phải viết một cuốn sách nhỏ để tự phê bình những sai lầm đã qua. Còn thái độ của Quốc tế Cộng sản đối với Hồ Chí Minh về các vấn đề gọi là sai lầm nghiêm trọng về chính trị đã nêu ở trên như thế nào? Chắc có nhiều tài liệu liên quan đến vấn đề này đang còn lưu giữ tại các kho lưu trữ ở Liên bang Nga mà chúng ta chưa có điều kiện tiếp cận. Song, qua một số sự kiện lịch sử cũng giúp cho các nhà sử học cảm nhận được phần nào thái độ của Quốc tế Cộng sản đối với Hồ Chí Minh. Quốc tế Cộng sản không đồng ý việc đặt tên Đảng Cộng sản Việt Nam nên buộc phải đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương và nhiệm vụ của Đảng là: Phải làm cho Lào và Cao Miên có đảng bộ1. Năm 1934, Hồ Chí Minh sang Liên Xô. Quốc tế Cộng sản đã sắp xếp đưa Người vào học tại Trường Quốc tế Lênin và sau đó vào làm nghiên cứu sinh ban sử tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Tại sao Hồ Chí Minh ______________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.88. 60 là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, luôn luôn mong muốn trở về Tổ quốc để hoạt động và có bản lĩnh đấu tranh trong phong trào cộng sản quốc tế lại bình lặng học hành trong một thời gian khá dài “sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”1. Hồ Chí Minh được cử làm đại diện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản và được cử làm một thành viên trong đoàn đại biểu của Đảng dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII họp ở Mátxcơva (Liên Xô) tháng 7/1935 nhưng Quốc tế Cộng sản chỉ mời Người dự Đại hội với tư cách tư vấn mà thôi? Phải chăng đó là cách biểu hiện thái độ và xử lý của Quốc tế Cộng sản đối với “sai lầm” của Hồ Chí Minh? Từ những điều đã nêu ở trên đặt ra một vấn đề đòi hỏi các nhà sử học phải làm sáng tỏ rằng quan điểm của Hồ Chí Minh đúng hay sai? Có phải là Hồ Chí Minh đã coi trọng dân tộc mà xem nhẹ giai cấp và quốc tế, chỉ lo phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp không? Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển lý luận của Lênin về cách mạng thuộc địa vào hoàn cảnh Việt Nam với tất cả những đặc điểm lịch sử, đất nước, xã hội và con người vốn có của nó nên Người đã thành công từ đầu trong việc xây dựng một đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân và cương lĩnh chính trị của Đảng. Cần phải khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Đông Dương đã có công lao to ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.117. 61 lớn trong lãnh đạo và tổ chức nên những thắng lợi vĩ đại cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở Việt Nam, Lào, Campuchia; đã xây dựng nên khối đoàn kết chiến đấu thủy chung trong sáng của ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Song, đứng về một mặt khác mà xét, việc Quốc tế Cộng sản chủ trương và buộc Ban Chấp hành Trung ương quyết nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương là không đúng. Giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó mang bản chất quốc tế trong sáng, song, trước hết là nó mang tính chất dân tộc - giai cấp và Đảng Cộng sản phải xây dựng trong một quốc gia dân tộc cụ thể. Đảng phải ủng hộ quyền lợi chính đáng của các dân tộc trên thế giới, song, trước hết phải chịu trách nhiệm với giai cấp và dân tộc của mình. Năm 1930, Hồ Chí Minh lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam là phù hợp với lý luận và thực tiễn cách mạng, thể hiện một quan điểm đúng về việc vận dụng tính quốc tế và tính dân tộc trong xây dựng đảng. Đúng như Hồ Chí Minh đã giải thích về vấn đề đặt tên Đảng cho các đại biểu dự Hội nghị hợp nhất: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý chủ nghĩa Lênin, vấn đề dân tộc là một vấn đề rất nghiêm túc người ta không thể bắt buộc các dân tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ... Việt Nam hợp với cả ba miền và không trái với nguyên lý chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”1. ______________ 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.68. 62 Về cương lĩnh của Đảng, bản Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã vạch rõ đường lối chiến lược của Đảng là phải tiến hành: “Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”, để đi tới “xã hội cộng sản” - mục tiêu định hướng tương lai của dân tộc Việt Nam. Cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Việt Nam có nhiệm vụ đánh đổ bọn đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn phản cách mạng đem chia cho nông dân nghèo, chuẩn bị tiến hành cách mạng ruộng đất, lật đổ chế độ phong kiến... Các nhiệm vụ cách mạng nêu ra trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ, dân tộc và giai cấp, chống đế quốc và chống địa chủ phong kiến phản động. Các nhiệm vụ đó quyện chặt vào nhau mà nổi bật lên hàng đầu và cấp bách là chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập, tự do cho toàn dân tộc. Ở nước ta trong hoàn cảnh thuộc địa, sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và tay sai phản động đã làm cho mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt. Sự áp bức dân tộc của chủ nghĩa đế quốc là điều kiện khách quan dẫn đến sự bùng nổ cách mạng mang tính chất dân tộc sâu sắc. Chính trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã phân tích: “Sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết. Chính vì vậy mà phong trào cách mạng ngày càng lớn mạnh: công nhân bãi công, học sinh bãi khóa, nông dân đòi ruộng đất, nhà buôn nhỏ đóng 63 cửa hàng, nhân dân cả nước đang vùng dậy chống bọn đế quốc”1. Cách mạng dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa khác cách mạng dân chủ tư sản ở các nước độc lập chủ yếu là vì nó phải giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc khỏi ách đế quốc. Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản đã nhấn mạnh: “Yếu tố dân tộc có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình cách mạng của tất cả các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, là nơi sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc đã thể hiện một cách hết sức trắng trợn, làm cho quần chúng nhân dân hết sức căm phẫn đến tột độ”. Các Đảng Cộng sản vẫn phải chú ý đến “điều hết sức quan trọng là phải tuỳ theo từng trường hợp cụ thể để mà nghiên cứu cẩn thận ảnh hưởng đặc biệt của yếu tố dân tộc” là yếu tố quyết định phần lớn tính độc đáo của cách mạng thuộc địa”2. Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu trong cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là một chiến lược cách mạng đúng đắn của Hồ Chí Minh. Yếu tố dân tộc chẳng những có thể ảnh hưởng đến phong trào của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân mà nó còn có thể thay đổi lập trường của tất cả các giai cấp khác như tiểu tư sản, tư sản bản xứ và cả một phần giai cấp địa chủ nữa. Dân tộc Việt Nam ta có một truyền thống yêu nước nồng nàn, có ý chí tự lực tự cường rất cao. ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.21. 2. Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.62. 64 Mỗi khi Tổ quốc bị ngoại bang xâm lược và thống trị, tinh thần truyền thống ấy lại được khơi dậy mạnh mẽ, tạo thành một sức mạnh cách mạng kỳ diệu. Phong trào cách mạng năm 1930 dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam đã minh chứng điều đó. Trong phong trào đó, ở Nghệ - Tĩnh chẳng hạn, ngoài công nông ra, chúng ta còn thấy phần lớn “các tầng lớp trí thức và một số sĩ phu, một số trung tiểu địa chủ lại có xu hướng cách mạng rõ ràng. Qua khủng bố trắng dữ dội, họ vẫn cố gắng bám lấy cách mạng và âm thầm ủng hộ cách mạng nhất là tiểu địa chủ và phú nông, trung nông hạng trên. Một số nhà nho bần hàn cũng cảm tình với cách mạng”1. Ở Nghệ - Tĩnh “địa chủ và phú nông cùng một số quan lại nhỏ, nói đúng sĩ phu nhỏ trong nông thôn đã phân hóa, và một số lớn đã nghiêng về cách mạng. Họ đã tỏ ra trọng và phục Đảng Cộng sản và phong trào công nông. Giai cấp tư sản nhỏ... đều có ý thức xu hướng cách mạng”2. Từ một quan điểm chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và một sự hiểu biết sâu sắc về tình hình, thái độ các giai cấp ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đề ra được một chủ trương chính xác đối với sự liên minh các giai cấp và tầng lớp nhân dân trong cách mạng ở nước ta. Trên cơ sở coi công - nông là gốc cách mạng, Người chủ trương rằng Đảng: “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, ______________ 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.229, 230. 65 trí thức, trung nông... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”1, phải “tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư bản bậc trung, đánh đổ các đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến...”2. Đối với “phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”3. Trong khi liên minh với các giai cấp và đảng phái khác, Đảng không bao giờ hy sinh quyền lợi cơ bản của công - nông để đi vào đường lối thỏa hiệp. Chủ trương tập hợp rộng rãi lực lượng của toàn dân tộc, đoàn kết và tranh thủ mọi lực lượng có thể đoàn kết và tranh thủ được nhằm cô lập cao độ kẻ thù để đánh đổ nó là phù hợp với lý luận tập hợp lực lượng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa thích hợp với tình hình chính trị và giai cấp ở Việt Nam. Đây là một chiến lược và sách lược mặt trận đúng đắn, sáng tạo và uyển chuyển của Hồ Chí Minh. Trái lại, do nhận thức thiếu chính xác và giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng tư sản dân quyền ở một nước thuộc địa, lại hiểu biết không đầy đủ về tình hình, đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân tộc ở Việt Nam, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng “tả” và biệt phái, giai cấp của Quốc tế Cộng sản và một số Đảng Cộng sản trong thời gian đó, cho nên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đứng đầu là Trần Phú đã không nêu cao được yếu tố dân tộc lên hàng đầu trong Dự án Luận cương chánh trị (10/1930), không đề ra được một ______________ 1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3, 4, 3.66 chiến lược liên minh giai cấp và dân tộc rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống lại đế quốc Pháp và tay sai, thậm chí còn phủ nhận cả vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của giai cấp tư sản bản xứ, cường điệu mặt tiêu cực của họ, không thấy được khả năng phân hóa và liên minh với một bộ phận của giai cấp địa chủ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Từ sai lầm đó đã dẫn Trung ương đi đến chỗ phê phán gay gắt Hội nghị hợp nhất và đã quyết định thủ tiêu Chánh cương, Sách lược vắn tắt... của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo là một quyết định chính trị sai lầm. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. Đó thực sự là một cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo, một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc nhuần nhuyễn về quan điểm dân tộc, quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn. Độc lập, tự do là tư tưởng cốt lõi, là “viên ngọc quý” nhất được “khảm” trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng - Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Thực tiễn là thước đo chân lý cách mạng. Trải qua 10 năm đấu tranh, tháng 11/1939, trong hoàn cảnh mới, Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương đã bắt đầu thay đổi chiến lược cách mạng tư sản dân quyền, có tính chất thổ địa và phản đế xác định nhiệm vụ chính cốt của cách mạng là đánh đuổi đế quốc giành độc lập cho các dân tộc ở Đông Dương. Sự thay đổi đó của Ban Chấp hành 67 Trung ương Đảng trước hết chính là sự trở về tư tưởng dân tộc cội nguồn của Hồ Chí Minh, đi vào đúng quỹ đạo của đường lối cách mạng của Người đề ra ở Hội nghị hợp nhất và đến Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh đã trở nên hoàn thiện. Hội nghị quyết định phải “thay đổi chiến lược” cách mạng cho phù hợp với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, thái độ của các giai cấp ở Đông Dương dưới ảnh hưởng thống trị của phát xít Nhật, Pháp. Nghị quyết của Hội nghị nêu rõ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc”1. Xuất phát từ yêu cầu khách quan nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định lại một cách chính xác hơn tính chất của cách mạng ở Đông Dương. Nghị quyết nêu rõ: “cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.113. 68 một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”1. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lúc này: “Quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”2, phải: “cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”3. “Cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác”4. Việt Nam độc lập Đồng minh, mặt trận đoàn kết dân tộc rộng lớn do Hồ Chí Minh sáng lập, với chương trình 10 điểm nhằm mục tiêu làm cho: “nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”, “dân Việt Nam được sung sướng tự do”, có sức mạnh động viên kỳ diệu cả dân tộc đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật đưa đến thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. Nhà nước dân chủ cộng hòa đã ra đời ở Việt Nam. Ngày 02/9/1945, Hồ Chí Minh tuyên bố với quốc dân và thế giới một nguyên lý cơ bản về quyền dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”5. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”6. Từ tư tưởng chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc với khẩu hiệu đấu tranh làm cho “Nước Việt Nam độc lập” nêu ra trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đầu ______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.119. 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.230, 230, 230. 5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1, 3. 69 năm 1930 đã trở thành một nước Việt Nam tự do, độc lập hiện thực năm 1945, một minh chứng hùng hồn về tư tưởng cách mạng lớn của Hồ Chí Minh. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là tư tưởng lớn, là lẽ sống của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam và của nhân dân thế giới - một cống hiến quý báu của Người vào kho tàng lịch sử tư tưởng cách mạng của thời đại chúng ta. 70 “LÀNG ĐỎ” RA ĐỜI - ĐỈNH CAO CỦA PHONG TRÀO XÔVIẾT NGHỆ AN 1- Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta”1. Đảng ra đời và lời kêu gọi của Hồ Chí Minh đến với đồng bào ta giữa lúc “sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết”2. Chính vì vậy mà phong trào cách mạng ngày càng lên mạnh: công nhân bãi công, học sinh bãi khóa, nông dân đòi ruộng đất, nhà buôn nhỏ đóng cửa hàng, nhân dân cả nước đã vùng dậy chống bọn đế quốc, tiêu biểu là công nông Nghệ - Tĩnh. Nghệ - Tĩnh vốn “nổi tiếng cứng đầu”. Kế thừa và phát huy truyền thống đó trong điều kiện mới, năm 1930-1931, nhân dân Nghệ - Tĩnh, nhất là công - nông đã nêu cao nghị lực cách mạng phi thường, tiến công mạnh mẽ vào bọn thực dân và tay sai. ______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.22, 21. 71 Từ đầu tháng 5/1930, công - nông Nghệ An đã liên minh chặt chẽ với nhau, hình thành một sức mạnh cách mạng to lớn, đã bãi công, biểu tình, thị uy. Máu của công - nông Nghệ An đã đổ trước mũi súng của thực dân và tay sai. Phong trào liên tiếp phát triển ở cả thành phố và nông thôn. Dần dần nông thôn trở thành địa bàn đấu tranh chính của nhân dân Nghệ An, đông đảo nhất là nông dân. Nông dân nhiều nơi ở các huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Anh Sơn đã đấu tranh với hào lý đòi chia ruộng đất, trả lại tiền thu gian lận và sưu thuế. Theo báo cáo của Hồ Chí Minh gửi Quốc tế Nông dân lúc bấy giờ, phong trào nông dân Nghệ An là “rộng lớn và mãnh liệt”. Người thống kê từ ngày 20/8/1930 đến ngày 6/10/1930, Nghệ An đã có 39 cuộc biểu tình và mít tinh của nông dân lôi cuốn 69.350 người tham gia, trong đó có những cuộc từ hai đến ba vạn người. Thật vậy, vào cuối tháng 8 đầu tháng 9/1930 phong trào nông dân Nghệ An có một bước phát triển mới, nhảy vọt về tinh thần quần chúng. Cuộc biểu tình của nông dân Nam Đàn ngày 30/8/1930 có 3.000 nông dân tham gia. Hai hôm sau, ngày 01/9/1930 cuộc biểu tình của nông dân Thanh Chương lôi cuốn trên 20.000 người mang theo gậy gộc, cờ búa liềm, rầm rộ kéo lên huyện lỵ... Cuộc đấu tranh ở Nam Đàn và Thanh Chương đã tạo nên một sự bùng nổ dây chuyền lan nhanh và quyết liệt khắp cả Nghệ An và Hà Tĩnh. Tính chất quần chúng rộng rãi và liên tục là một đặc điểm điển hình của phong trào nông dân Nghệ An mà tiêu biểu nhất là phong trào nông dân Thanh Chương. Và khi một phong trào đấu tranh đã lôi cuốn được nông dân 72 tham gia và liên minh được với phong trào công nhân, thì phong trào đó mới mang tính chất nhân dân rộng rãi và có tính chất cách mạng thực sự. 2- Các cuộc đấu tranh của nông dân Nghệ An trong cao trào 1930-1931 là nhằm vào các mục tiêu của Đảng nêu ra được thể hiện bằng các khẩu hiệu cụ thể của các đảng bộ địa phương ngày 18/3/1930. Phân cục Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Trung Kỳ đóng ở Vinh đã kêu gọi nông dân gia nhập Nông hội đỏ, đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức, giảm thuế thân, thuế ruộng đất, thuế chợ, thuế đò, đòi bỏ các việc tạp dịch cho địa chủ, quan lại, đòi chia ruộng đất công, v.v.. Khẩu hiệu của nông dân trong cuộc đấu tranh ngày 01/5/1930 đòi giảm sưu, hoãn thuế cho nông dân, đòi tăng lương, bớt giờ làm cho công nhân; biểu tình của nông dân Thanh Chương đòi Ký Viễn trả lại ruộng đất cho nông dân; những cuộc đấu tranh khác ở các huyện trong tháng 6 cũng nhằm vào các yêu cầu giảm sưu, hoãn thuế, đòi thả những người bị bắt và bồi thường cho gia đình có người bị địch giết; phản đối chính sách khủng bố. Khẩu hiệu đấu tranh của nông dân Thanh Chương ngày 11/9/1930 đòi trả lại tự do cho những công nhân Bến Thủy bị bắt trong ngày 01/5/1930 và trả lại tự do cho tù chính trị, không được đàn áp các cuộc mít tinh, biểu tình của công - nông, giải tán hội đồng hào mục, tự do bãi công, biểu tình và lập hội, bãi bỏ các loại thuế hoa lợi, thuế muối, chia ruộng đất của đại địa chủ cho dân cày nghèo, v.v.. Khẩu hiệu trong các cuộc đấu tranh của nông dân Nghệ An không chỉ nhằm vào lợi ích 73 riêng của nông dân mà còn tính tới cả lợi ích của cả công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động - nó mang tính chất cách mạng sâu sắc cả chính trị và kinh tế, cả dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến ở mức độ thích hợp với tình thế cụ thể của cách mạng. 3- Nghệ An là một tỉnh sớm có tổ chức đảng và quần chúng được lập ra ở nhiều địa phương. Trước ngày thống nhất Đảng, ở Nhà máy Trường Thi thành phố Vinh, ở Hưng Nguyên, Thanh Chương, Nam Đàn, Diễn Châu, Quỳnh Lưu... đã có nhiều chi bộ và cơ sở đảng. Cuối năm 1929, Tổng Nông hội Nghệ An đã ra đời do đồng chí Phan Thái Ất làm Bí thư. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng bộ Vinh, Đảng bộ Nghệ An đã được thành lập. Nhờ vậy, phong trào của nhân dân Nghệ An được Đảng tổ chức và lãnh đạo ngay từ đầu... Cuộc biểu tình của 20.000 nông dân Thanh Chương (01/9/1930) là sự kế tục và phát triển cao của các cuộc đấu tranh từ trước đến cuối tháng 8/1930, được chuẩn bị, có kế hoạch tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ, chu đáo là nhờ Huyện ủy Thanh Chương đã kế thừa được những kinh nghiệm tổ chức và lãnh đạo của các đảng bộ địa phương trong huyện và cả kinh nghiệm của chính bản thân Huyện ủy Thanh Chương. Trong thực tiễn, phong trào có những diễn biến phức tạp, đột xuất ngoài dự kiến ban đầu, song về cơ bản từ đầu đến cuối, từ khâu chuẩn bị, thực hiện đến triển khai kết quả... của phong trào, sự lãnh đạo của Huyện ủy khá vững vàng, tiêu biểu về cả tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong trong lãnh đạo và tổ chức đấu tranh. Nhờ vậy, sức mạnh của phong trào nông 74 dân đã được nhân lên gấp bội, buộc bọn cầm quyền phải lùi bước, chấp nhận các yêu sách của nông dân; đã làm tan rã bộ máy tay sai của chúng ở cơ sở xã, huyện, đưa quyền làm chủ nông thôn về tay nông dân lao động. 4- Các cuộc đấu tranh của nông dân huyện Thanh Chương và các huyện trong tỉnh Nghệ An thực sự là một cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh cách mạng quyết liệt bằng các hình thức mít tinh, biểu tình, thị uy vũ trang của đông đảo quần chúng. Trong đội hình đấu tranh gồm có lực lượng của đạo quân quần chúng rộng rãi được giác ngộ cách mạng, có tổ chức và chuẩn bị chu đáo, được vũ trang bằng gậy gộc, mang theo băng cờ, biểu ngữ, có lực lượng tự vệ làm nòng cốt. Nhiều cuộc đấu tranh đã diễn ra đẫm máu. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình bị địch đàn áp, nhiều người chết, bị thương và bị bắt. Nhưng sự khủng bố của địch càng làm bốc cao thêm ngọn lửa căm thù và ý chí tiến công của quần chúng. “Địch quân đạn sắt, nông dân gan vàng”. Điều đó thể hiện quyết tâm cao của nông dân trước thế lực của đế quốc và tay sai. Ở huyện Thanh Chương, khi Tri huyện Phan Sỹ Bàng ra lệnh cho binh lính bắn vào đoàn biểu tình làm chết anh Nguyễn Công Thường thì lập tức quần chúng từ các phía đã tràn vào huyện đường, đốt huyện, phá nhà riêng của Tri huyện. Khi lính đã dùng bạo lực phản cách mạng thì quần chúng phải phát huy sức mạnh bạo lực của mình để chống lại. Trong thực tiễn các cuộc đấu tranh ở Thanh Chương và ở các nơi khác, việc sử dụng bạo lực cách mạng khá phổ biến. Dùng bạo lực cách mạng của quần 75 chúng trong đó có lực lượng tự vệ làm nòng cốt để chống lại quân địch là một đặc điểm của hình thức bạo lực điển hình của cách mạng Việt Nam được thể hiện đậm nét ngay từ năm 1930 ở Thanh Chương, ở Nghệ An. 5- Nhiều cuộc đấu tranh của nông dân ở Nghệ An đã đạt những kết quả nhất định. Địch buộc phải nhượng bộ trước một số yêu sách của nông dân như bỏ thuế vãng lai, thả những người bị bắt, bỏ lệ tuần canh... Tri huyện Nam Đàn trước sức mạnh đấu tranh của 3.000 nông dân đã phải ký nhận yêu sách của quần chúng, cam đoan không dám nhũng nhiễu dân chúng. Nhất là cuộc đấu tranh của nhân dân huyện Thanh Chương (01/9/1930) đã đạt được nhiều thành quả cách mạng to lớn. Sức mạnh cách mạng của quần chúng đã làm cho Tri huyện Phan Sĩ Bàng cùng bọn nha lại, lính tráng tháo chạy. Tối hôm đó, các chi bộ lãnh đạo quần chúng tiếp tục đấu tranh với tổng lý ở làng xã. Bộ máy chính quyền địch từ cấp huyện đến làng xã đều bị tê liệt và tan rã. Các ban nông hội đại diện cho quần chúng đứng ra tổ chức quản lý lấy đời sống của mình, hình thành nên chính quyền cách mạng theo kiểu Xôviết. Ở một số làng đỏ, Xôviết nông dân lao động đã ra đời từ ngày 01/9/1930 và tiếp tục xuất hiện trong nhiều tổng, huyện khác ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Các Xôviết nông dân là những mầm non đầu tiên của một hình thức chuyên chính cách mạng đã ra đời. Vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền đã thành hiện thực. Xóa bỏ chính quyền của giai cấp thống trị, tạo lập nên chính quyền cách mạng là thành quả to lớn nhất của 76 nông dân Thanh Chương, của nhân dân Nghệ An, là đỉnh cao “tột bực trong những ngày Xôviết Nghệ An”1. 6- Phong trào cách mạng của nhân dân ta trong cả nước có tác dụng tương trợ, thúc đẩy lẫn nhau. Ngược lại, sự phát triển cao của phong trào cách mạng ở Thanh Chương, ở Nghệ An là một phong trào có tính chất quần chúng rộng rãi và mãnh liệt, lập nên chính quyền Xôviết đầu tiên đã có tác động mạnh mẽ đến phong trào cả nước. Như báo Người lao khổ của Xứ ủy Trung Kỳ đã cổ vũ: “Công nhân Bến Thủy đã mở đường tranh đấu, cờ đỏ đã phấp phới khắp tỉnh Nghệ An, các tỉnh khác đang sôi nổi. Thời kỳ tranh đấu quyết liệt đã đến: Nghệ An đỏ đang tranh đấu!”. Cả nước đã dấy lên phong trào đấu tranh để bảo vệ Nghệ An đỏ. Tiếng vang của Nghệ An đỏ cũng đã dội ra ngoài nước, đến Quốc tế Cộng sản, đến các Đảng Cộng sản anh em, v.v.. Họ đã lên tiếng ủng hộ Nghệ An đỏ, phản đối cuộc đàn áp của đế quốc và tay sai. Chương trình hành động của nông hội do Đảng công bố năm 1933 đã khẳng định, dưới ngọn cờ hiệu triệu của Đảng, hàng triệu nông dân đã tỉnh ngộ cách mạng, đã bước ra đường đấu tranh. “Làn sóng tranh đấu đã sâu lại rộng, lan tràn khắp Bắc, Nam; cuộc bạo động Nghệ An hồi tháng 9 năm 1930 là cao hơn hết, ấy là lần đầu ở Đông Dương mà quần chúng, dưới quyền lãnh đạo của đảng viên cộng sản, dấy lên đánh trúc được ách đế quốc, chia đất cho dân cày và bắt đầu lập chánh quyền Xôviết công nông ______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.20. 77 trong mấy huyện”1 và “xương máu của chiến sĩ Nghệ An vun trồng lòng kiên quyết của chúng ta, gương tranh đấu của họ kích thích tinh thần cách mạng của đám dân lao khổ. Muốn giải phóng mình khỏi ách đế quốc, địa chủ, cần phải có một cuộc võ trang bạo động kịch liệt của vô sản và nông dân, dưới quyền chỉ đạo của một bộ tham mưu có giá trị, của Đảng Cộng sản. Nghệ An đỏ là tấm gương sáng suốt cho chúng ta đồng soi chung vậy”2. Qua những điều đã chứng minh ở trên, trong phong trào cách mạng năm 1930, phong trào nông dân ở Thanh Chương đã dẫn đến xuất hiện các “làng đỏ” - Xôviết nông dân. Sự kiện ra đời của chính quyền cách mạng theo hình thức Xôviết nông dân ở Thanh Chương ngày 01/9/1930 là đỉnh điểm của cao trào Xôviết Nghệ - Tĩnh, xứng đáng là ngày mở đầu truyền thống Xôviết Nghệ - Tĩnh, truyền thống cách mạng của nông dân Việt Nam dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Truyền thống cách mạng và ý chí kiên cường của Nghệ An đỏ luôn nồng nàn trong tâm hồn quần chúng và nó mở đường cho những thắng lợi của cách mạng về sau. ______________ 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.4, tr.94, 98. 78