🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sự Tích Tổ Nghề Thủ Công Truyền Thống Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo SỰ TÍCH HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng PGS.TS. PHẠM VĂN LINH Phó Chủ tịch Hội đồng PHẠM CHÍ THÀNH Thành viên TRẦN QUỐC DÂN TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI TS. NGUYỄN AN TIÊM NGUYỄN VŨ THANH HẢO HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN HÀ NỘI PGS. TS. ĐỖ THỊ HẢO SỰ TÍCH TỔ NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM nhμ xuÊt b¶n chÝnh trÞ quèc gia sù thËt Hμ Néi - 2016 3 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Có con người là có văn hóa, bắt đầu bằng việc chế tạo ra các công cụ đá, tre, gỗ, xương, sừng… Dần dà, có sự phân hóa giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp ở đầu thời đại kim khí cách đây 6.000 năm và xuất hiện lớp thợ thủ công chuyên nghiệp. Rồi từ ngành nghề, trong nền văn minh nông nghiệp đã phân hóa thành các làng nông, làng nghề, làng buôn, làng chài. Khi đô thị xuất hiện, nhiều thợ thủ công mang các nghề ở làng ra sản xuất, buôn bán, lập ra các phố nghề. Do nhiều nguyên nhân như: sự thay đổi cơ cấu chính trị - xã hội, giao lưu quốc tế, sự thờ ơ của một bộ phận giới trẻ với truyền thống, tâm lý vọng ngoại… dẫn đến sự suy thoái của làng nghề, phố nghề. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu nhằm phục hồi, phát triển các nghề thủ công, coi như một hướng công nghiệp hóa đối với các làng nghề, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là hết sức cần thiết. Từ xưa cho đến nay và mai sau nữa, bên cạnh các sản phẩm công nghiệp hiện đại, bao giờ cũng tồn tại trong đời sống và lối sống Việt Nam những mặt hàng 5 thủ công mỹ nghệ truyền thống làm đẹp, làm tốt thêm cho con người Việt Nam. Nhiều làng nghề Việt Nam cũng đã và sẽ có thêm dịch vụ du lịch, một mặt nâng cao đời sống kinh tế của người dân, mặt khác sáng tạo ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mẫu mã đẹp, phù hợp với thị hiếu ngày nay song lại hàm chứa nét tinh hoa, độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Tìm hiểu về nghề thủ công truyền thống Việt Nam và những vị tổ nghề mà công tích của họ mãi mãi in sâu trong tâm thức của mỗi người dân Việt là việc làm thiết thực khẳng định và khơi dậy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của ông cha ta. Đáp ứng phần nào nhu cầu tìm hiểu về nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Sự tích tổ nghề thủ công truyền thống Việt Nam do PGS. TS. Đỗ Thị Hảo biên soạn. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 8 năm 2016 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6 Phần một SƠ LƯỢC VỀ NGHỀ VÀ TỔ NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM I. NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM Có lẽ từ khi xuất hiện con người thì đồng thời cũng nảy sinh những nhu cầu về ăn, mặc, ở và những vật dụng phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Dù rằng ở cái thuở ban đầu xa xưa ấy, tất cả đều còn rất vụng về, thô thiển. Các nhà khảo cổ học đã tính toán rằng từ thời đại đá cũ (cách đây hàng vạn, hàng triệu năm) đã có tới 12 chất liệu (gỗ, tre, bương, sừng, vỏ trai, ốc, da…) dùng để chế tạo các loại công cụ, dụng cụ1. Đến thời đại đá mới (cách đây khoảng 10.000 năm) có thể đã có những “làng nghề” đá và gốm, v.v.. Những thành tựu gần đây nhất của khảo cổ học Việt Nam đã khẳng định: từ thời Hùng Vương, đúc đồng đã trở thành một nghề khá phát triển trên địa bàn cư trú của người Việt giữa sông Hồng và sông Mã. Qua so ___________ 1. André Leroi - Gourhan: L’homme et la matière, Albin Michel, Paris, 1958. 7 sánh những hoa văn trên đồ gốm Việt Nam trước thời đồ đồng với những hoa văn trên trống đồng, người ta thấy có sự kế thừa và nối tiếp giữa hai loại hoa văn đó. Ngoài ra, còn nhiều loại hoa văn như hoa văn chấm thành dải, hoa văn hình chữ S... trang trí trên đồ gốm tìm thấy ở di chỉ Phùng Nguyên (cách đây khoảng hơn 4.000 năm), gò Mun (cách đây khoảng 3.000 năm) xuất hiện một cách tinh tế hơn, điêu luyện hơn trên các trống đồng Đông Sơn (cách đây gần 3.000 năm). Qua đó, có thể thấy rằng: “Nghệ thuật trang trí trống đồng đã mang đậm màu sắc truyền thống của nghệ thuật trang trí đồ gốm Việt Nam. Đó là một chứng cớ để nói rằng phần lớn đồ đồng tìm thấy ở Việt Nam trong đó có những trống đồng nổi tiếng, là do chính những người thợ đúc đồng Việt Nam cổ đại chế tạo”1. Chắc chắn từ thời đó, đúc đồng đã trở thành một nghề chuyên môn bởi nghệ thuật tạo khuôn, pha chế hợp kim, đường nét hoa văn tinh vi sống động. Chẳng thế mà những chiếc trống đồng đúc ra không những bảo đảm độ cứng, họa tiết sắc nét, đa dạng, mà tiếng nó vang xa, thần bí, kích động lòng người. Hàng mấy chục thế kỷ sau, Trần Phu, sứ thần nhà Nguyên khi sang nước ta nghe tiếng trống đồng đã phải thốt lên: Kim qua ảnh lý đan tâm khổ, Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh. ___________ 1. Hà Văn Tấn: “Từ đồ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng”, Tạp chí Khảo cổ học, số đặc biệt Trống đồng, 1974, tr.39 - 53. 8 Tạm dịch: Gươm giáo sáng lòa lòng quặn đắng Nghe tiếng trống đồng tóc trắng ra. Đến nay mỗi khi nhìn những hiện vật bằng đồng đã bị hoen rỉ bởi thời gian, trong lòng ta vẫn cảm thấy dư âm hùng tráng của tiếng trống đồng thuở trước, tiếng của hàng vạn mũi tên đồng Cổ Loa vượt gió lao về phía quân thù, tiếng của những lưỡi cày đồng hình bướm, hình quả tim hay hình tam giác cân... đang lật xới những vùng đất màu mỡ Thanh Hóa, Hà Tây, Đông Anh (Hà Nội). Và ta không thể không cảm phục sự tài ba cùng với đôi tay kỳ diệu của các thế hệ cha ông. Không phải chỉ đồ đồng, lòng đất đã chống chọi với bao sự tàn phá nghiệt ngã của thời gian để giữ lại được một số đồ gốm vào loại tối cổ ở nước ta. Trong ngôi mộ táng của người nguyên thủy ở làng Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa còn thấy một số hòn đất nung hình bầu dục dẹt, xung quanh có những vạch khía mảnh và đều như sợi chỉ. Người ta cho rằng đây có thể là những hòn đất nung để mắc lưới đánh cá từ thời kỳ đồ đá mới. Bên cạnh đồ gốm xinh xắn như trên, ở di chỉ Đa Bút còn có những chiếc vò thô sơ bên ngoài in đậm dấu ấn của các đồ tre đan. Đây là hiện tượng khá phổ biến xuất hiện ở nhiều tộc người khác nhau vào thời nguyên thủy. Xưa kia tổ tiên ta chắc chưa biết nặn đồ gốm bằng tay hoặc bằng bàn xoay, mà chỉ biết đan những chiếc khuôn bằng tre, nứa theo hình dáng nghĩ ra rồi đem trát đất vào bên trong những khuôn nan đó. 9 Sau đó phơi khô, đem nung trên lửa (với nhiệt độ chưa cao), cả khối đất bên trong khuôn nan sẽ bong ra, thế là những đồ gốm đầu tiên ra đời còn in rõ những vết đồ đan làm khuôn nặn. Trước đó nữa, hàng vạn năm cách ngày nay, giới khảo cổ còn tìm được những mảnh gốm thô thuộc văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Những hình vò tìm thấy ở Đa Bút (Thanh Hóa) cũng na ná như những thứ tìm thấy ở Đồng Thuộc (trong địa khối Bắc Sơn, Lạng Sơn). Và nói chung những đồ gốm tìm thấy ở những di chỉ thuộc thời kỳ đồ đá mới ở nước ta, chất lượng đều rất thô sơ, nung chưa kỹ1. Sự xuất hiện của những đồ gốm đầu tiên có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống tổ tiên chúng ta thời nguyên thủy. Nó là thành quả trí tuệ của người Việt cổ đối với nhu cầu đời sống: nông nghiệp, chăn nuôi và đánh cá sơ khai. Cuộc sống không ngừng phát triển, nhu cầu ngày một nhiều hơn, cao hơn, nghề gốm tiếp tục có những bước tiến mới. Ở di chỉ đồ đồng Đông Sơn (Thanh Hóa) vẫn còn tìm thấy những vò đất nung lớn có chân, những nồi đáy phẳng, đặt trên những chiếc bàn dài bằng đất nung: Những viên gạch, ngói xây thành Cổ Loa nổi tiếng và những khuôn sành năm, bảy tầng trong lòng giếng khơi xóm Chùa (Cổ Loa) xưa kia là nơi dành riêng cho vua và hoàng tộc dùng... ___________ 1. Xem Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thủy ở Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1965, tr. 41 - 42. 10 "Xem thế có thể phán đoán rằng nghề gốm ở Cổ Loa có thể sản xuất được một số lượng sản phẩm khá đa dạng để phục vụ cho những nhu cầu sinh hoạt đã tương đối phức tạp của quý tộc và bình dân thời đó"1. Còn rất nhiều những dẫn chứng khác nữa về những di vật ở các thể loại khác nhau như: dệt vải, mộc, chạm, khảm... Song tất cả đều là những vật phẩm ở giai đoạn sơ khai trước khi trở thành một nghề được “dân biết mặt, nước biết tên”. 1. Sự ra đời các làng nghề thủ công Người Việt từ xưa cho đến nay chủ yếu vẫn là người nông dân với cày cuốc ruộng vườn. Nguồn sống chính của họ là kinh tế nông nghiệp với nghề trồng lúa nước hay cạn và bên cạnh đó là trồng dâu nuôi tằm, trồng hoa màu, chài lưới... Họ sống quây quần với nhau trong tinh thần cộng đồng, cộng cảm, ở những thôn xóm, làng xã, được bao bọc bởi lũy tre xanh với cổng làng sớm chiều đóng mở hay một vài lối nhỏ ra bãi chợ, bến sông. Người nông dân ngoài việc phải tất bật một nắng hai sương vì thời vụ, còn trong lúc nông nhàn, đàn bà thì lo toan chợ búa (chợ làng, chợ hàng tổng, hàng huyện) hay chăn tằm, ươm tơ, dệt vải..., đàn ông thì đẵn gỗ, chặt tre làm nhà cửa, đan lát thúng mủng, nong nia, đan lờ, đánh giậm... ___________ 1. Trần Quốc Vượng: Trên mảnh đất Cổ Loa lịch sử, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội, 1970, tr. 52 - 53. 11 Cho nên, có thể tạm hiểu về các làng như sau: những làng thuần nông nghiệp, loại này không nhiều lắm; làng buôn với lớp thương nhân chuyên nghiệp hay nửa chuyên nghiệp như Phù Lưu, Đình Bảng, Phú Thị, Đa Ngưu,...; làng nông nhưng có thêm một hoặc nhiều nghề như làng gốm Bát Tràng, làng Vân dệt lụa, làng khảm Chuyên Mỹ, làng tranh Đông Hồ... có thể xem đó là những làng nghề. Từ nghề gốc là trồng lúa, hoa màu, các nghề thủ công, thủ công mỹ nghệ, vốn chỉ là nghề phụ, nghề làm thêm, nghề tay trái, trong lúc nông nhàn, đã làm cho làng quê nhờ đó mà nổi tiếng. Xem ra chẳng có làng nào chỉ có một nghề duy nhất, chí ít cũng phải có dăm nghề, như làng Chàng Kẻ Nưa có 17 nghề, làng Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội) có đến 40 nghề... Lại cũng có nhiều làng cùng làm một nghề giống nhau, như gốm có Thổ Hà (Bắc Giang), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Hàm Rồng (Thanh Hóa), Vân Đình (Ứng Hòa, Hà Nội), Hiển Lễ (Vĩnh Phúc), Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), Mỹ Thiện (Quảng Ngãi)... Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì đầu thế kỷ XV, lúc đó chí ít nước ta cũng có gần 20 làng, ấp, phường, huyện, hộ, có nghề dệt với các loại sản phẩm như gấm, vóc, trừu, lụa, lĩnh, là, the, tơ. Có những loại vải nhỏ đẹp hơn lụa... Còn Lê Quý Đôn thì viết rằng: Huyện Từ Liêm và Đan Phượng thuộc phủ Quốc Oai có nhiều bãi trồng dâu, nhân dân chăm về chăn tằm dệt cửi. Các xã Hạ Hồi, Thiên Mỗ, Ỷ La, Trung Thụy và Đại Phùng có tài dệt 12 lụa, trừu, lĩnh, là và các lụa dây (tục gọi là lĩnh hay láng). Xã Mật Cầu làm được thứ nụy đoạn (tục gọi là thung thúc) đủ các màu xanh, tím, biếc, vàng, không kém gì của Trung Quốc... Tuy nhiên, không phải nghề nào, làng nào cũng nổi tiếng cả. Nổi tiếng được hay không là nhờ vào sự kích thích của nhu cầu thị trường: thị trường đô thị, thị trường ven đô, thị trường vùng miền, thị trường cả nước và thị trường thế giới. Trước hết nói đến các đô thị mà đứng đầu là Kinh đô Thăng Long: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Từ khi Lý Thái Tổ dời đô đến đây, Thăng Long trở thành nơi “bốn phương tụ hội”. Tầng lớp thị dân ở đây có cuộc sống tương đối sung túc so với các nơi. Họ làm ăn khá giả nên có nhu cầu sành ăn, sành mặc, sành chơi, sành dùng. Các chợ Đông, chợ Tây, chợ Nam lần lượt xuất hiện: "Bán mít chợ Đông, bán hồng chợ Tây, bán mây chợ huyện"1. Các dãy phố cũng hình thành, vào thời Lý, Thăng Long có 61 phố phường. Theo Dư địa chí, Thăng Long vào trước thế kỷ XV đã có 12 nghề thủ công, đó là: “Phường Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, binh khí, đồ đai, nậm, võng, ghế, vóc, dù, lọng, tán. Phường Yên Thái làm giấy. Phường Thụy Chương, phường Nghi Tàm dệt vải nhỏ và lụa. Phường Hà Vân ___________ 1. Chợ Đông Bạch Mã, chợ Tây Ngọc Hà, chợ Bắc Diệu Đức, chợ Nam Đại Hưng. 13 nung đá vôi. Phường Hàng Đào nhuộm điều. Phường Tả Nhất làm quạt...”1. Những nghề này được mang từ các làng xã ở nông thôn ra kinh đô để lập nghiệp. Phố phường có lẽ chỉ là bộ mặt bên ngoài của các chợ địa phương hoặc làng xã địa phương, để người ta tiêu thụ những sản phẩm thủ công do chính tay họ làm ra. Samuel Baron, một học giả người Pháp, trong cuốn sách Miêu tả vương quốc Đàng Ngoài (năm 1683) đã viết: Tất cả các thứ hàng bày bán ở đô thị đều bán riêng ở từng phố, mà mỗi phố lại dùng cho một, hai hay nhiều làng mà chỉ có những người làng ấy mới được phép mở cửa hàng tại đấy. Chẳng hạn như: nghề đồng (phố Hàng Đồng) là của dân làng Đại Bái (Bắc Ninh), Cầu Nôm (Hưng Yên); nghề bát (phố Bát Đàn) là của dân làng Bát Tràng (Hà Nội); nghề thêu làm lọng (phố Hàng Lọng) là của dân làng Quất Động (Thường Tín, Hà Nội); nghề bạc (phố Hàng Bạc) là của dân làng Châu Khê (Hải Dương); nghề mành (phố Hàng Mành) là của dân làng Giới Tế (Bắc Ninh); nghề quạt (phố Hàng Quạt) là của dân làng Đào Xá (Hưng Yên); nghề khảm (phố Hàng Khay) là của dân làng Chuôn Ngọ (Phú Xuyên, Hà Nội)... Nhu cầu xã hội cũng là yếu tố kích thích nghề nghiệp tồn tại và phát triển. Do nhu cầu viết chiếu, sắc, lệnh của Nhà nước quân chủ Đại Việt mà dân làng Nghĩa Đô có nghề làm giấy sắc rồng, để cung cấp giấy ___________ 1. Nguyễn Trãi: Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969, tr.193 - 194. 14 cho nhu cầu hành chính của quan lại, thi cử của sĩ phu, nhu cầu viết kinh, in ấn của sư sãi. Và dù có nhọc nhằn, vất vả bao nhiêu để làm ra những tờ giấy lệnh, giấy hội thì các cô gái làng Bưởi (Yên Thái) vẫn thấy vui vẻ trong lòng: Dám xin nho sĩ đừng cười, Vì em làm giấy cho người đề thơ. Mọi tầng lớp trí thức, thương nhân, thợ thủ công các xứ hội tụ về kinh đô cũng như các đô thị để đua khéo, đua tài. Họ lịch lãm và mẫn cảm không chỉ trong đời sống chính trị - xã hội, mà cả trong mọi mặt văn hóa, vật chất cũng như tinh thần. Điều này khiến các làng nghề ven đô cũng như cả nước đều phải tự vươn lên để có những sản phẩm khéo nhất, tinh xảo nhất, những đặc sản riêng của nghề mình, làng mình, cung cấp cho nhu cầu xã hội nói chung và đô thị nói riêng. Đây là động lực quan trọng làm cho nghề nghiệp ngày một tiến triển. Rồi nhà nước phong kiến mở các “quan xưởng”, “bách tác cục”, trưng tập thợ giỏi ở các nơi vào đó để sản xuất những vật dụng cần thiết, như đúc bạc ở phường Đông Tác thế kỷ XV, đúc tiền ở phường Ngũ Xã thế kỷ XVIII, sở nuôi tằm ươm tơ thời Lý - Trần. Thư tịch cũ cho biết, từ đầu thế kỷ XI cho đến đời vua Lý Thái Tông, số vải lụa trong cả nước nhiều đến mức không chỉ dùng để may mặc, trang trí mà còn thay tiền tệ để nộp thuế hoặc trao đổi, mua bán hàng hóa. Nhà nước lập ra “quyến khố ty” để thu mua sản phẩm của dân. Nhà vua còn gọi thợ giỏi địa phương lên 15 kinh đô huấn luyện cho cung nữ nghề dệt để mở rộng việc dệt gấm, vóc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại, vào năm Canh Thìn (1040), vua Lý Thái Tông xuống chiếu phát hết gấm, vóc của nhà Tống trong kho để may y phục ban cho quần thần, để tỏ rằng không cần mặc gấm, vóc của nước Tống nữa. Đến năm 1156, vua Lý Anh Tông còn tặng triều đình Tống Cao Tông 850 tấm đoạn màu vàng thẫm có hoa văn rồng cuốn và nhiều báu vật khác... Qua đây có thể thấy rằng, ở một khía cạnh nào đó, những việc trên đã tạo đà cho các nghề thủ công phát triển. Ngược lại, một khi mà các bà, các cô không còn đội nón ba tầm với quai thao duyên dáng, thướt tha thì nghề dệt thao của làng Triều Khúc cũng không còn. Khi các nho sĩ, sư sãi không còn đề thơ, viết kinh trên giấy hội, thì các cô gái làng Bưởi cũng đành xếp nghề xeo giấy lại để làm việc khác... Đôi khi nhu cầu xã hội vẫn rất lớn nhưng nghề nghiệp không vươn lên đủ sức cạnh tranh với các làng khác thì cũng phải bỏ nghề, trở về với gốc gác làm ruộng của mình như làng Nhược Công (nay thuộc phường Thành Công, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội). 2. Những làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng Có điều rất đặc biệt là bất cứ vùng đất nào trên lãnh thổ Việt Nam từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng ra hải đảo, các xứ Đông, Nam, Đoài, Bắc, từ xứ Lạng xa xôi địa đầu Tổ quốc, cho đến tận Cà Mau, nơi tận cùng của đất nước, đâu đâu cũng có những nghề thủ công nổi tiếng và ở đâu người nông dân đồng thời 16 là người thợ thủ công cũng tự hào mình là vùng đất của trăm nghề. Điều này đã đi vào ca dao và trở thành câu nói cửa miệng trong dân gian từ ngàn đời nay: Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về Chuôn Ngọ với anh thì về1 Chuôn Ngọ có gốc bồ đề Có sông tắm mát, có nghề khảm trai. Rồi thì: Đại Bái khéo đánh nên nồi2 Thổ Hà khéo đúc hòn vôi thêm nồng3. Nào ai đi chợ Thanh Lâm Mua anh một áo vải thâm hạt dề, v.v.. Làng Núi có gốc bồ đề, Có nghề canh cửi, có nghề làm hương. Hay là: Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng, Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông. Và còn rất nhiều: Quay tơ ra mắc, ra mành, Mắc là sợi dọc, mành là sợi ngang. Mốt son anh dệt đầu hàng, Mốt cục đem bán cho nàng kẻ Đơ... ___________ 1. Chuôn Ngọ thuộc xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. 2. Đại Bái thuộc xã Đại Bái, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. 3. Thổ Hà thuộc xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. 17 Muốn ăn cơm trắng cá mè, Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông, v.v.. Chỉ nói riêng về nón, nghề này đã rất đa dạng và phong phú. Từ đời Trần, ở làng Ma Lôi (Hải Dương) có làm loại nón bằng trúc thanh bì gọi là nón Ma Lôi. Nghề làm nón rất phát triển. Thời ấy gia nhân của Trần Khánh Dư buôn loại nón này, thu lãi được hàng ngàn tấm vải1. Trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ mô tả, vào cuối thế kỷ XVIII ở Việt Nam đã có rất nhiều loại nón. Ở Sơn Tây có nón mền giải (hay còn gọi là nón Tam Giang) dành riêng cho các ông già, nón lá dùng cho con nhà giàu hay học trò và những người ở đất kinh kỳ thanh lịch. Nhà quan thì dùng nón dâu, nón lá sen, còn nón nhỏ khuôn dành cho trẻ con. Nón sọ nhỏ dùng cho người thôn quê, nón chéo vành (hay nón dấu) dành cho lính tráng: Ngang lưng thì thắt bao vàng Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài. Nón khua để cho vợ con lính và kẻ hầu người hạ. Nón mặt lờ dành cho người tu hành, nón cạp dành cho người có tang, v.v.. Ngoài nón Chuông nổi tiếng, còn có nón Thanh Hóa lá mỏng, nhẹ nhàng, thanh thoát, nón Huế vừa cao sang vừa thơ mộng, nón Gò Găng (Bình Định) vừa mềm mại vừa bền2. Rồi nón Lai Châu của đồng bào Thái, nón cọ, nón bạc hay nón son của ___________ 1. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiến, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960, t.I, tr. 337. 2. Tháng 3-1936, nón Huế và nón Gò Găng được giải thưởng tại Hội chợ tổ chức ở Huế. 18 đồng bào Tày ở Cao Bằng, v.v.. Với đức tính cần cù, chịu thương chịu khó và đôi tay khéo léo, tài hoa, óc thẩm mỹ tinh tế, người thợ thủ công ở các làng nghề đã làm ra những sản phẩm đáng khâm phục, thật xứng đáng là niềm tự hào của muôn đời. Pho tượng Phật khổng lồ ở chùa Quỳnh Lâm tuy không còn, song qua văn bia chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh) dựng năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785), tượng cao tới 6 trượng (khoảng 20m), đặt trên tòa điện cao 7 trượng (23,5m). Tương truyền, xưa kia đứng ở phía nam huyện Đông Triều, cách chùa khoảng 10 dặm vẫn nhìn thấy nóc tòa điện. Có lẽ đây là pho tượng lớn nhất ở Việt Nam và là một trong những pho tượng lớn trên thế giới. Trống đồng Ngọc Lũ, có thể cho là sớm nhất, đẹp nhất, là gốc của mọi loại trống khác. Ngày nay, với trình độ khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, rất nhiều kỹ sư luyện kim nổi tiếng, dày công tìm tòi nghiên cứu, song vẫn chưa tìm được bí quyết của kỹ thuật xưa. Kết hợp với thợ đúc phường Ngũ Xá, trống đồng Ngọc Lũ được đúc thử tới bốn lần, vẫn chỉ đạt 80% so với hiện vật gốc. Qua đây có thể thấy, máy móc dù tinh vi đến mấy cũng không thay thế được nét dùi gò uyển chuyển của người thợ gò đồng Đại Bái, cũng không thay thế được mũi dao tài hoa, tinh tế của người thợ khảm Chuyên Mỹ: Khám trai trên gỗ trên đồng Mà như khảm cả tấm lòng vào tranh. Khoa học kỹ thuật có khả năng giúp người thợ 19 trong những công đoạn thô sơ nặng nhọc như cưa pha gỗ, tạo lò nấu đồng, lò gốm với nhiệt độ cao... nhưng làm sao có thể thay được tài năng, tâm huyết của người thợ gửi gắm trên những nét vẽ, những nhát đục, những dáng vẻ cả đời người có khi chỉ tạo được một lần. Công việc của người thợ thủ công không khác sự sáng tạo của người nghệ sĩ, hay nhà thơ. Cho nên, người máy dù siêu hạng đến đâu chắc chắn không thể thay thế nổi. Nhiều nghệ nhân ở làng gốm Bát Tràng đều cảm nhận một điều: trong cả cuộc đời làm thợ không bao giờ làm được hai sản phẩm giống nhau, mặc dù “người trần mắt thịt” nhìn vào thì thấy hệt nhau như in, không phân biệt nổi. Phải chăng đây là điều bí ẩn tạo nên bản sắc riêng của từng nghệ nhân, từng làng nghề. Đúng là các làng nghề mỗi nơi một vẻ, đều nổi tiếng, khó mà phân biệt hơn thua. Nói về sành thì phải kể đến hai làng Thổ Hà và Phù Lãng. Với nước men da lươn khiêm tốn nhưng đậm đà bền chắc, đồ sành ở đây đã trở thành vật dụng thân thiết và gắn bó với người dân khắp nơi. Thậm chí, người ta kén cho bằng được chậu sành da lươn Phù Lãng để ngâm gạo đồ xôi trong những dịp lễ hội thiêng liêng tế thần. Làng Trung Thứ (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định) và làng Thượng Giang (huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định) nổi tiếng với những đôn chậu bằng sành xốp tráng men màu. Còn thợ gốm Lái Thiêu và Biên Hòa thì làm được loại sành trắng rất độc đáo, nơi nơi đều ưa chuộng. Thành phố Thanh Hóa có loại đất để chế 20 sành đỏ, làm những chiếc chum lớn hoặc những chiếc kiệu thể tích lớn đến vài trăm lít. Làng Lưu Mỹ (nay thuộc huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) lại nổi tiếng với nồi đất Kẻ Trần. Một nhà nghiên cứu người Pháp đã so sánh nồi đất Kẻ Trần đối với người Việt Nam không khác gì đồ sứ Limoges đối với người Pháp vậy. Nghề gốm ở miền núi phải kể đến hai bản Chiềng Chung và Mường Chanh (huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La). Vào dịp giáp tết, dân bản làm đĩa, bát và vò rượu cần để bán cho cả vùng Tây Bắc. Đồng bào Thượng ở Tây Nguyên và đồng bào Vân Kiều (miền núi Bình Trị Thiên) sản xuất được loại gốm màu đen, đặc biệt không nơi nào làm được. Nói đến gốm không thể không kể đến Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội). Bàn tay tài hoa của người thợ gốm Bát Tràng khiến người ta phải kinh ngạc. Họ điều khiển hòn đất biến hóa như trong huyền thoại. Bên cạnh những chiếc bát đàn đơn sơ, nhã nhặn, là sản vật truyền thống của Bát Tràng, người thợ còn làm được những chiếc lọ độc bình, những chân đèn dầu lạc có hình rồng đắp nổi với men lam độc đáo, hay những chiếc bát men rạn màu ngà xám vô cùng quý giá... Từ thế kỷ XVI, người Nhật Bản đã rất ưa chuộng đồ gốm Bát Tràng mà họ gọi là gốm KốtChi (tức gốm Giao Chỉ), cho đây là mẫu mực về kỹ thuật chế tác cũng như kiểu dáng. Theo ông Ashice, những năm 1597-1863, nhiều nghệ nhân gốm lỗi lạc của Nhật Bản đã học làm các mẫu lọ độc bình, bát vẽ “chuồn chuồn” của Bát 21 Tràng1. Và ông nhận xét rằng: “Họ học hỏi với sự trân trọng và khiêm tốn, nhưng hoa đào, núi Phú Sỹ, đường vân hoa văn như những vết nứt nặng nề của miệng núi lửa trên gốm Nhật Bản vẫn không sao hòa trộn được với những cánh sen, tàu chuối, vân mây của vùng đất cận Đông Nam châu Á này”2. Dù xuất hiện ở đâu, gốm Bát Tràng vẫn tiềm ẩn một vẻ đẹp riêng của mình với cốt gốm dày dặn bởi lối tạo hình be chạch, vuốt tay trên bàn xoay, với nét vẽ phóng khoáng, tự nhiên và sự sâu lắng của lớp men phủ. Ngày nay, trong nhiều gia đình, các đình, chùa, đền, miếu hay viện bảo tàng vẫn lưu giữ được nhiều đồ gốm độc đáo của Bát Tràng như: cây đèn dầu lạc làm ngày 24 tháng 6 niên hiệu Diên Thành thứ 3 (1580) của Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu, chiếc lư hương miệng tròn làm vào ngày rằm tháng 8 niên hiệu Cảnh Trị thứ 9 (1671). Cây đèn men rạn được trang trí nổi nhiều loại hoa lá, long - ly - quy - phượng do Đỗ Phủ làm vào niên hiệu Hoằng Định (1601-1619) đã khẳng định người thợ gốm Bát Tràng làm được men rạn từ đầu thế kỷ XVII, chứ không đợi để học cách làm men rạn của Đường Anh, vị chủ lò gốm trấn Cảnh Đức, vào đầu thế kỷ XVIII. Gốm Bát Tràng không chỉ người trong nước mà còn được người nước ngoài rất hâm mộ. W.J. Buch trong bài Công ty Đông Ấn Hà Lan và Đông Dương (La Compagnie des Indes Néerlandaises et L’Indochine) đã cho biết các thương nhân Hà Lan ___________ 1, 2. Bulletin des Amis du Vieux Hue, No. 4, 1919. 22 mua rất nhiều đồ gốm Bát Tràng, trong đó có cả những viên gạch nổi tiếng. Còn W. Dampier trong cuốn Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688 (Un voyage au Tonkin en 1688) có viết: Viên tàu trưởng Poll đã buôn đi 10 vạn chiếc chén loại nhỏ làm bằng đất sét xám rồi bán lại cho thống đốc Bloon ở Sumatra với giá rất hời. Cho đến tận hôm nay, gốm Bát Tràng vẫn đủ sức cạnh tranh với các mặt hàng trong nước và vẫn cuốn hút được những khách hàng hâm mộ ở Pháp, Nga, Nhật Bản, Thụy Điển và các nước Hồi giáo... Đến với làng khảm Chuyên Mỹ (huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội) thì tài năng người thợ lại được thể hiện lung linh, rạng rỡ và lãng mạn đến bất ngờ. Từ vỏ ốc, vỏ trai, gỗ, người thợ khảm đã biến chúng thành những bức tranh kỳ ảo lạ thường. Ở mỗi vị trí, góc nhìn, ánh sáng khác nhau, bức khảm sẽ có màu sắc riêng, lấp lánh, biến hóa thành nhiều hình ảnh khác nhau đến ngỡ ngàng. Người thợ Chuyên Mỹ đã đem tài năng, tâm huyết làm đẹp cho kinh thành Thăng Long cổ kính, cho cố đô Huế thơ mộng trầm tư, cho đình, đền, chùa, miếu trang nghiêm và cho đến cả những gia đình khá giả ở nông thôn, thành thị. Tài năng của người thợ khảm đã được đánh giá cao tại Hội chợ đấu xảo Pari năm 1877, làm ngạc nhiên nhiều người đã từng quá quen thuộc với máy móc kỹ thuật. Còn rất nhiều làng nghề nổi tiếng khác ở nước ta khó có thể kể hết. Nhưng đằng sau niềm vinh quang ấy, tiếc thay còn biết bao người thợ thủ công, tài năng 23 là thế, cần cù là thế, vẫn chịu kiếp sống khổ cực nối đời vì nghề: Giã nay rồi lại giã mai, Đôi chân tê mỏi, dó ơi vì mày. Xeo đêm rồi lại xeo ngày Đôi tay nhức buốt, vì mày giấy ơi! Thật tủi thân và chua xót khi những chàng trai thợ, được nghe những lời người ta khuyên nhau, cho dù đó là sự thật: Thừa con chẳng gả cho anh hàng tờ1 Đến ba mươi tết vẫn phất phơ ngoài đường. Và: Hoài người lấy chú thợ khay, Cò cưa ký quéc có ngày không cơm2. Cũng đúng thôi vì những người làm nghề thủ công chỉ được xếp vào loại thần dân “thứ ba” (sĩ, nông, công, thương) trong xã hội phong kiến Việt Nam, chỉ trên tầng lớp thương nhân, nhưng lại không giàu bằng họ vì “phi thương bất phú” là điều hiển nhiên xưa nay. Đó là chưa nói đến “chữ tài liền với chữ tai một vần”. Triều đình phong kiến thi thoảng cũng ban cho người thợ tài hoa hàm cửu phẩm, tước bá, tước hầu, nhưng thực chất chỉ là liều thuốc tê xoa dịu những nỗi sưu cao thuế nặng, những nỗi ngặt nghèo của các làng nghề. Sử sách đã chép, có thời kỳ, Bộ Công của triều đình nhà ___________ 1. Hàng tờ: Thợ làm tranh Đông Hồ. 2. Ca dao làng khảm Chuyên Mỹ. 24 Nguyễn trưng dụng thợ giỏi trong dân gian sắp xếp thành đội ngũ làm việc trong các xưởng dệt nhà nước, sản xuất các mặt hàng đặc biệt phục vụ cho vua quan cung đình. Công việc vất vả, lại đòi hỏi tài nghệ cao cường. Sự đãi ngộ bạc bẽo đã dẫn đến cái chết mòn mỏi của biết bao bàn tay vàng sau những bức tường thành kín mít ở kinh đô. Chưa đủ, bàn tay của triều đình như những vòi bạch tuộc vươn đến từng làng nghề nghèo khó, nhỏ nhoi. Làng La Khê (Hà Nội) vốn nổi tiếng gần xa với lụa Vân, lụa Bạch, các loại sa màu, dưới triều Gia Long, Minh Mạng đã điêu đứng khổ sở vì mỗi năm phải nộp cho triều đình 600 tấm sa, mỗi tấm dài 28 thước. Đến thời Thiệu Trị, cả làng La Khê tài hoa đã bị triều đình biên chế thành một cơ sở dệt của nhà nước với cái tên là "chức tạo cục". Thế là từ đó, làng La Khê một cổ mấy tròng. Ngoài lệ nộp 600 tấm sa mỗi năm, người thợ còn nai lưng trong “chức tạo cục” để đủ cung phụng cho triều đình. Nhưng rốt cuộc, người thợ vẫn không bỏ nghề, làng nghề vẫn tồn tại và phát triển cho đến hiện nay. Làng nghề thủ công đã và sẽ tồn tại mãi với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, bởi người thợ hành nghề không chỉ vì mục đích kinh tế mà còn do nhiều yếu tố khác thiêng liêng, mật thiết, nó trở thành một chất kết dính bền vững trong các làng nghề. Người thợ thủ công Việt Nam đồng thời cũng là người nông dân. Họ hành nghề theo kiểu “gia đình công nghệ”. Mỗi gia đình là một công xưởng, họ có quan hệ bà con ruột thịt với nhau trong một nhà dưới sự điều hành của người 25 gia trưởng chứ không có quan hệ chủ thợ như trong các công trường thủ công hay ở các nước công nghiệp phát triển khác. Họ gắn bó với nhau trong từng làng. Đấy là nơi chôn rau cắt rốn, là nơi họ sinh ra và lớn lên, tiếp nối từ đời nọ sang đời kia. Ở đấy họ có những phong tục, tập quán riêng không giống bất cứ làng nào. Họ có chung thành hoàng làng (tổ của làng) và tổ nghề (đối với những thành hoàng làng không phải tổ nghề). Vì những lẽ đó, tính cộng đồng làng xã rất gắn bó. Người ta chỉ có thể mất nước chứ không thể mất làng. Tâm lý chung của người thợ thủ công xưa kia là không muốn đi làm ăn xa dù đời sống có khá giả hơn. Có người vì hoàn cảnh nào đó phải rời bỏ làng quê đi hành nghề nơi khác thì khi về già cũng trông ngóng tìm cơ hội để trở về. Ở những làng có nghề tinh xảo, nghề truyền thống, đối với người ngoài làng họ giữ rất kín. Con gái đi lấy chồng làng khác không được làm nghề làng mình. Có làng cấm con gái không được đi lấy chồng nơi khác. Lại có làng có quy định những bí quyết của nghề chỉ được dạy cho đàn ông hoặc đàn bà có con chứ không được dạy cho con gái... Những tục lệ như thế được mọi người tuân thủ một cách tự giác và nghiêm ngặt, nhưng đó là chuyện xưa, ngày nay đã đổi khác nhiều rồi. Các làng nghề xưa cũng có tổ chức phường hội, trừ rất ít làng như làng gốm Bát Tràng chia thành phường dựa theo các công việc chuyên môn, ví như: Phường dựng lò: khi xưa lò ếch cỡ nhỏ của từng gia 26 đình, mỗi khi dựng lò đều phải mời thợ giỏi về giúp. Người chủ gia đình chỉ phải lo cơm rượu thay cho công sá. Khi những lò đàn, lò bầu cỡ lớn xuất hiện thì đồng thời hình thành các phường dựng lò. Phường do những người thợ giỏi làng Giang Cao đảm nhận. Phường này chịu trách nhiệm từ việc xây cất ban đầu đến việc tu bổ theo dõi sau mỗi mẻ lò. Phường dồi bát và phường ve lừa: Hương ước của làng quy định "bất khả giáo huấn phi tử tôn" (không thể dạy nghề cho những người không phải con cháu mình), nên chỉ người Bát Tràng mới được làm, chỉ đàn ông mới ở phường dồi bát. Phường ve lừa thì ít nhất có một người cắt dò và ve lòng, một người trang trí và chấm cúc, một người lừa (xếp sản phẩm theo từng cọc). Họ tạo thành một dây chuyền chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của người “xuất cả”. Làng gò đồng Đại Bái thì tổ chức phường lại chia theo địa bàn cư trú. Làng có bốn xóm, mỗi xóm là một phường sản xuất một loại hàng nhất định. Xóm Tây chuyên về đánh mâm, xóm Ngoài chuyên làm nồi, xóm Giữa làm ấm siêu và xóm Sôn chuyên đánh chậu. Còn có thêm một phường chuyên mua bán để cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ hàng hóa gọi là phường hàng chợ, trong phường tất cả đều là gia đình của các thợ thủ công gò đồng, đời đời truyền kinh nghiệm cho nhau, trong gia đình cũng như trong ngõ xóm. Không biết ngày xưa các phường ấy có văn bản hay quy ước bất thành văn nào không, nhưng tổ chức phường thì 27 đến bây giờ vẫn tồn tại. Gia đình này hành nghề độc lập với gia đình kia trong việc sản xuất và lưu thông, không có gì ràng buộc nhau cả. Có sự chuyên môn hóa cao độ, nhưng chỉ với ý nghĩa phân biệt với sự hành nghề của các xóm khác, chứ không có một sự chỉ đạo tập trung nào. Theo nhu cầu của xã hội, những người thợ thủ công này cũng lưu tâm đến các mặt hàng khác và hành nghề rải rác trong xóm này hay xóm kia (thí dụ có người chuyên làm cồng chiêng, làm chuông, làm đỉnh...) song không có tình trạng làm tranh nhau. Nếu có ai đó muốn hỏi về một mặt hàng nào không thuộc của phường thì được giới thiệu một cách hào hứng và trân trọng sang tìm ở phường khác hay một gia đình khác. Nhìn chung, phường hội ở các làng nghề là nhằm giữ vững tình đồng nghiệp, để cùng giúp đỡ nhau khi hội viên có việc vui mừng hay lo buồn. Những phường hội ấy hàng năm họp một hoặc hai kỳ, cử ra một người làm trưởng phường và lo làm lễ giỗ tổ nghề, một nghi thức trọng đại và thiêng liêng ở các làng nghề. II. CÁC VỊ TỔ NGHỀ ĐƯỢC PHỤNG THỜ 1. Tổ nghề trong tâm thức người thợ thủ công Cha ông ta xưa quan niệm người ta sống ở trên đời phải có nghề có nghiệp, “nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ”. Nghề xuất hiện là do nhu cầu sống, nhu cầu thẩm mỹ và nhu cầu tranh đấu của con người... Có được nghề tinh xảo, người thợ thủ công có cơ hội để “vinh thân phì gia”. Người xưa cũng thường nói: "Nhất 28 nghệ tinh, nhất thân vinh", phải chăng là để khích lệ mọi người trau dồi nghề nghiệp. Thực tế cũng như trong tâm thức người thợ, bất cứ nghề nào cũng phải bắt đầu bằng sự phát minh sáng tạo, bằng bàn tay và khối óc của một người hay một nhóm người, trải qua nhiều đời tích tụ mà thành. Người ta quen gọi các vị ấy với cái tên tổ sư hay tổ nghề. Nếu tổ nghề là người thật bằng xương bằng thịt nhưng không còn sự tích rõ ràng, hoặc sự phát minh ra một nghề là do nhiều người, nhiều đời góp lại mà không tìm được xuất xứ thì người ta sẵn sàng tìm sự viện trợ ở kho tàng thần thoại hay ở biện pháp huyền thoại hóa. Tưởng tượng, hư cấu ra hành trạng của vị tổ nghề này, công tích của vị tổ nghề kia, không phải là việc làm tùy tiện mà là biểu hiện của lòng biết ơn, của sự tôn vinh. Đây vốn là truyền thống đạo lý của người dân Việt Nam, truyền thống "uống nước nhớ nguồn". Ở Việt Nam, nói đến sự tích các tổ nghề thường người ta cho rằng các vị phần lớn sống ở thời trung đại và đều đi sứ bên Trung Quốc, học được nghề mới mang về. Có lẽ đây chỉ là một cách nói phản ánh hiện tượng giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với không chỉ Trung Quốc mà còn với các nước khác trong khu vực. Thực tế cho thấy người Việt đã tiếp thu và bản địa hóa được các nghề làm giấy, nghề in ván, nghề đậu phụ, nghề sứ... từ Trung Hoa, nghề làm thủy tinh, làm đường mía... từ Ấn Độ. Hiện ở Hà Nội có phố Hàng Vải Thâm (đoạn phía đông từ phố Thuốc Bắc đến phố Hàng Gà), người ở đây ngày xưa phần đông là dân Huê Cầu: 29 Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu, Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm. Huê Cầu hay Xuân Kiều có thể coi là một ốc đảo Hoa kiều. Ở làng này còn có đình thờ Hoa kiều lang, còn di tích 4 giếng đá kiểu Trung Quốc, dưới đất còn nhiều di tích một hương Hoa kiều đời Đường1. Nghệ thuật đúc đồng ở nước ta có từ thời đại Đông Sơn, nghề gốm còn có sớm hơn, đâu phải chỉ mới xuất hiện từ thời trung đại. Còn việc đi sứ học được nghề mới mang về thì các cụ nhà nho xưa sang nước ngoài chỉ chăm chú vào chuyện nộp cống, chuyện làm thơ phú đối đáp để không nhục “quân mệnh”, chứ thời gian và điều kiện đâu để học được nghề (đó là chưa nói đến sự bất đồng về ngôn ngữ và giấu kín nghề nghiệp). Về sự tôn vinh các vị tổ nghề, thực chất đó là biểu hiện của lòng biết ơn. Ở một làng quê nào đó khi xưa chưa có nghề, rồi có người đem cái nghề ấy đến, được dân làng ưa thích, học theo, nhờ đó đời sống trở nên khá giả. Nghề nghiệp ngày càng phát triển truyền từ đời nọ sang đời kia, thậm chí truyền sang cả những vùng lân cận. “Ăn quả nhớ người trồng cây”, dân chúng luôn nhớ ơn thờ phụng các cụ tổ đem nghề đến cho làng mình chứ không nhất thiết là tổ sư chung của nghề ở mọi nơi, vì thế ta không lấy làm lạ khi cùng một nghề dệt nhưng Vạn Phúc, Cổ Đô, Phùng Xá... thờ các vị tổ khác nhau, cùng nghề đồng nhưng ___________ 1. Đỗ Văn Ninh: “Cuộc đọ sức nghìn năm của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Khảo cổ học, số 4, 1979, tr. 30. 30 Quảng Bố (Bắc Ninh), Đông Mai (Bắc Ninh), Đề Kiều (Hưng Yên), Trà Đông (Thanh Hóa) không thờ chung một vị tổ. Có thể nói, việc thờ phụng, tôn vinh tổ nghề là vấn đề tín ngưỡng ở nước ta. Nó cũng như trong một gia đình hay dòng họ, người ta thờ cúng tổ tiên là nhằm tôn vinh một con người có thực, dù người ta không còn nhớ được hành trạng, tên tuổi người đó mà chỉ gọi theo một cách chung chung là cụ, là kỵ... Còn thờ tổ nghề là việc của một cộng đồng, một địa phương, nó liên quan đến tín ngưỡng dân gian. Trong tâm thức mọi người, họ tin rằng giữa họ và tổ nghề có một mối liên hệ vô hình. Ở cõi siêu phàm, thần linh giúp nghề nghiệp vượt qua những khó khăn để rồi tồn tại và phát triển. Việc thờ phụng tổ nghề - dù là người thật hay nhân vật huyền thoại, thì cốt lõi vẫn là để khẳng định và tôn vinh nghề nghiệp ấy. Ngày giỗ tổ nghề, chính là dịp, là bằng chứng cụ thể về vị trí của nghề trong cuộc sống con người. Ở đó có những tập tục, những nghi lễ mà cộng đồng đã tạo nên để tôn vinh tổ nghề của mình. Ngày giỗ tổ nghề bao giờ cũng là một dịp “trình nghề”. Ở đây không có những nghi thức "trình nghề" chung chung như trong các lễ hội nông nghiệp. Trong lễ giỗ tổ, người ta cố gắng giới thiệu một cách cụ thể những công việc, những thành tựu của nghề mình, những thành tựu đó đều liên quan rất mật thiết đến tổ nghề. Thử nêu một vài ví dụ: Xưa kia hằng năm cứ vào dịp mùng 9, mùng 10 tháng giêng (tương truyền đây là 31 ngày vị tổ nghề rời làng quê ra đi dạy nghề mà không trở về nữa), hai thôn An Cốc Thượng và An Cốc Hạ (huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội) đều làm lễ giỗ tổ để tưởng nhớ công đức của cụ Tiền tổ sư Thái Luân và Hậu tổ sư là người làng mình. Vào những ngày này, người An Cốc đi làm giấy ở các làng Yên Thái, Yên Hòa và những nơi khác đều trở về quê để giỗ tổ nghiệp. Lễ giỗ tổ làm tại đình làng, hai thôn tổ chức tế, rước và ăn đụng. Nếu năm nay An Cốc Hạ rước kiệu lên tế tổ ở An Cốc Thượng thì năm sau An Cốc Thượng sẽ lại rước kiệu xuống tế tổ ở An Cốc Hạ. Lễ giỗ tổ gồm chè kho, bánh giầy, cau và rượu. Vào sáng mùng 9, dân làng chuẩn bị một chiếc nồi đồng thật to, đổ mật vào rồi chọn hai chàng trai chưa vợ khỏe đẹp cầm gậy vồ khuấy. Khi mật sủi sùng sục thì cho xôi và đậu rang chín vào làm chè kho. Đây là hình thức tượng trưng cho việc đánh bột giấy ở tàu xeo. Ngoài ra, trong buổi lễ dân làng còn cho xôi nếp vào cối, cũng sai hai thanh niên giã để diễn lại động tác giã dó của nghề tổ. Năm nào chè thơm ngon, bánh dày mịn trắng, dân làng phấn chấn và đinh ninh rằng tổ nghề đã chứng giám và phù hộ cho nghề làm giấy làng mình phát đạt. Đối với làng gò đồng Đại Bái (Bắc Ninh), ngày giỗ tổ nghề diễn ra với những sắc thái riêng rất độc đáo. Dân làng hết sức trân trọng và thành kính đối với ngày 29 tháng 9 âm lịch, ngày mất của vị tiền tiên sư Nguyễn Công Truyền. Làng có một cái lệ rất đặc biệt, tất cả dân chúng kể cả những người làm ăn ở xa cứ đến 49 tuổi (là tuổi ra lềnh), đến ngày này đều phải ra thắp 32 hương ở đền thờ tổ. Lần lượt năm nay số người đồng niên đến lễ, năm sau là lớp kế tiếp tuổi ấy. Người ở xa không về được có thể gửi hương về nhờ bạn cùng lứa tuổi mình thắp hộ. Ngày giỗ tổ, người các nơi xa về đều mang những vật phẩm gò đồng do mình làm đặt trên hương án thờ tổ. Việc tế tổ được giao cho những người đứng đầu các họ lớn, là những người đứng đầu phường nghề ở các xóm. Những vị đứng đầu ấy gọi là các cụ trùm, hương trùm hay là nóc các cụ trùm. Chỉ nóc các cụ trùm mới được giao vai tế chủ, còn lý dịch, chức sắc hay quan viên trong làng không được đảm nhận trọng trách này vì họ không đại diện cho nghề. Lễ vật dâng lên trong ngày tế tổ gọi là cỗ soạn, mỗi xóm biện hai mâm, ngoài ra có thêm xôi, gà, oản, bánh trái... Sau khi lễ tổ xong, cỗ soạn dành để kính các cụ trùm, còn lý dịch, chức sắc, tư văn không được dự những cỗ ấy mà chỉ được dự những mâm xôi, gà, oản, bánh trái do các xóm mang ra. Trong bài văn tế tổ cũng như trong cuộc sống đời thường, cả làng phải kiêng tên húy của cụ tổ nghề, không ai được nhắc đến chữ “truyền”. Họ dặn dò nhau học theo nghề cũ chứ không dám truyền nghề. Họ chỉ dành danh hiệu cao quý ''thầy" cho vị tổ nghề, còn đối với nghệ nhân, dù xuất sắc đến đâu, khi dạy bảo cho con cháu hay làng xóm, không ai coi đó là thầy cả. Nghề nghiệp không chỉ thể hiện trong dịp giỗ tổ, trong tình cảm đối với tổ nghề mà còn ăn sâu vào trong 33 nếp nghĩ, trong sinh hoạt của người Đại Bái. Con trai làng lấy vợ được của hồi môn là một cái búa và một chiếc đe. Ngày rước dâu, đi sau cụ già cầm hương là một ông già cầm búa, một bà già cầm đe cùng với một thiếu nữ vác đôi chiếu hoa mới. Lễ nộp cheo nhà trai phải tự làm lấy một đôi mâm đồng chứ không được đi mua của người khác... Việc hành nghề của các gia đình trong làng cũng theo những quy định rất nghiêm ngặt. Giờ đỏ lò là một giờ rất trang trọng, người ta còn gọi là giờ khai nghiệp. Mở đầu giờ ấy phải đốt một bánh pháo rồi ra thắp hương ở đền thờ tổ... 2. Về sự tích các vị tổ nghề thủ công Tìm hiểu sự tích các vị tổ nghề nói chung, trong đó có tổ nghề thủ công, là một đề tài lý thú, hấp dẫn và đầy ý nghĩa. Song để làm được việc này, chúng tôi gặp không ít khó khăn. Trước hết, những thư tịch cổ về các vị tổ nghề rất ít ỏi. Ngoài cuốn Liệt tiên truyện mỏng manh ký hiệu VNN lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm chép sơ lược sự tích của hơn 10 vị, cuốn Bách nghệ tổ sư đã được nhiều người nhắc tới nay không còn, cho nên không có bằng chứng để biết được sách viết những gì. Rải rác đây đó trong gia phả của các dòng họ như Trần (tổ nghề thêu), Nguyễn (tổ nghề gò đồng), Trần Bình Vọng (tổ nghề sơn), trong bia đá (Vũ du tiên sư bi ký) hay trong sắc phong (nghề chạm bạc Đồng Xâm...) cũng bắt gặp những chi tiết liên quan đến hành trạng các vị tổ nghề, nhưng chính yếu vẫn phải dựa vào truyền văn. Cũng vì lẽ đó, không thể chỉ 34 căn cứ vào chính sử mà phải có cái nhìn dân gian thì mới tiếp cận được vấn đề. Trong hoàn cảnh tư liệu hiện nay, chúng tôi chỉ cố gắng làm công việc sưu tập một danh mục các vị tổ nghề thủ công bằng xương bằng thịt, cho dù đôi chỗ được huyền thoại hóa, cho dù chi tiết còn quá nghèo nàn, thậm chí chỉ là những mẩu thông báo. Hy vọng đây chỉ là bước mở đầu cho những công trình hoàn thiện hơn, phong phú hơn, về những vị tổ nghề - những anh hùng văn hóa, anh hùng sáng tạo của dân tộc. 35 Phần hai SỰ TÍCH TỔ NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM 1. Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không - tổ nghề đúc đồng Nghề đúc đồng xuất hiện ở nước ta từ rất sớm, nhưng Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là người đã có công xây dựng và làm cho nghề đúc đồng Việt Nam đạt tới đỉnh cao rực rỡ vào đời Lý. Dương Không Lộ là người hương Giao Thủy, phủ Hải Thanh (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Ông xuất thân trong một gia đình chài lưới, theo đòi Phật học. Sau khi đắc đạo, ông đi truyền giáo nhiều nơi, rồi về trụ trì tại chùa Nghiêm Quang, sau đổi là Thần Quang (chùa Keo), huyện Vũ Thư, Thái Bình và chùa Phả Lại (Bắc Ninh). Còn sư Nguyễn Minh Không tên thật là Nguyễn Chí Thành, người làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Vua Lý Thần Tông mắc bệnh hóa hổ, ông sai nấu dầu sôi rồi dùng tay vẩy khắp người vua, lông lá đều biến sạch trơn. Để đền ơn, vua phong ông là Quốc sư triều Lý. Có lẽ cả hai ông đã có công đi quyên góp đồng để đúc tứ đại khí: Tượng chùa Quỳnh Lâm, tháp Báo 36 Thiên, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, cho nên được dân chúng tôn là tổ nghề đúc đồng. Rất tiếc cả bốn bảo khí bằng đồng to lớn là thế đã bị quân nhà Minh phá lấy đồng đúc súng đạn để chống lại cuộc nổi dậy của nghĩa quân Lam Sơn. Thực sự là như vậy, nhưng dân gian đã đem nhập Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không vào với nhau thành đức thánh Khổng Minh Không, đồng thời lại gắn các ông với sự tích lấy 10 kho đồng của phương Bắc bỏ vào túi quẩy về đúc chuông, sự tích trâu vàng Hồ Tây, của nhân vật huyền thoại sư Không Lộ. Phải chăng trong con mắt dân chúng, đây là hình ảnh ông tổ nghề đúc đồng từ thời xa xưa của người Việt, thời của những tháp, tượng trống, trống đồng Đông Sơn rực rỡ. 2. Phạm Quốc Tài - tổ nghề đúc đồng Đề Cầu Phạm Quốc Tài là người làng Đề Cầu, nay thuộc xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Dân ở đây kể lại rằng: Ngày xưa khi sư Không Lộ tu hành ở chùa Phả Lại, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Quế Võ), ngoài những lúc đèn hương niệm Phật, nhà sư thường lấy đất nặn khuôn, đem phơi khô, rồi lấy đồng đun chảy đổ vào. Ban đầu ông đúc được một số đồ đơn giản như chậu, mâm, dần dần về sau đúc được cả chuông và đồ thờ tự. Giúp việc ông có hai chú tiểu là Phạm Quốc Tài và Trần Lạc. Khi đã thạo nghề, sư Không Lộ cho hai chú tiểu về quê. Phạm Quốc Tài đem nghề đúc tượng, đỉnh, nồi, chiêng, chuông, truyền lại cho dân làng. Từ đó, bốn xóm Rí 37 Thượng, Rí Hạ, Mé và Điền quê ông có nghề đúc đồng. Nhớ ơn ông, dân lập đền thờ phụng, tôn Dương Không Lộ và Phạm Quốc Tài là tổ của nghề đúc đồng. 3. Trần Lạc - tổ nghề đúc đồng Đông Mai Sau khi học thành nghề, Trần Lạc trở về quê làng Đông Mai (hay còn gọi là làng Nôm), nay thuộc xã Chỉ Đạo huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, truyền lại nghề cho dân. Đề Cầu và Đông Mai là hai làng giáp ranh nhau, chợ búa ở đây rất sầm uất. Từ thời Lý - Trần, chợ Cầu Nôm đã nổi tiếng là nơi tiêu thụ những đồ đồng phế liệu các nơi khác đưa về để đúc các sản phẩm mới: chuông, đỉnh, mâm, nồi... Câu nói “đồng nát thì về Cầu Nôm” có từ đấy. Đến thời Lê, nhà nước trưng tập dân năm làng: Mé, Điền, Rí Thượng, Rí Hạ và Nôm, thành lập trường đúc tiền và đồ đồng bên bờ hồ Trúc Bạch, Kinh đô Thăng Long. Trường đúc đó là của dân Ngũ Xã, cũng từ đó Ngũ Xã trở thành tên làng. Dân làng rước bài vị Dương Không Lộ và hai chú tiểu Phạm Quốc Tài, Trần Lạc, thờ làm tổ nghề tại đình phố Ngũ Xã, Hà Nội ngày nay. 4. Nguyễn Công Truyền - tổ nghề gò đồng Đại Bái Nguyễn Công Truyền là người làng Đại Bái (còn gọi là Bưởi), một làng nhỏ thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một làng cổ gần Lãng Ngâm thuộc di chỉ văn hóa Đông Sơn có niên đại cuối thế kỷ III đầu thế kỷ II trước Công nguyên. Đại Bái nổi tiếng là một trung tâm đồng, nhưng là gò chứ không phải đúc đồng. 38 Về hành trạng của Nguyễn Công Truyền, có nhiều truyền thuyết khác nhau. Căn cứ theo thần phả và sắc phong, ông sinh năm 989, mất năm 1060. Năm lên 6 tuổi, ông đã theo cha mẹ vào sinh sống ở Thanh Hóa. Năm 25 tuổi làm quản Đô úy dưới triều Lý, được phong chức Điện Tiền tướng quân. Năm 1048, vì cha mất ông xin từ quan về Thanh Hóa lo việc tang, rồi đưa mẹ về quê và từ đó tìm tòi sáng tạo ra nghề gò đồng. Theo sách Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí, Nguyễn Công Truyền lại làm quan Hiệu úy đời Lê. Thời Hồng Đức ông đi theo đoàn sứ bộ sang Trung Quốc trở về được phong chức Phấn Lực tướng quân. Thời gian đi sứ, ông đã quan sát và tìm hiểu nghề đồng, để rồi trở về sáng chế ra một nghề mới là gò đồng. Dân làng Đại Bái tôn ông làm tổ nghề và dựng đình thờ ông. Hiện ở quê hương vẫn còn lăng mộ ông. Dân Đại Bái đi làm ăn mọi nơi, ở đâu họ cũng dựng đền thờ vọng tổ nghề, như ở Đại Bái (huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa), Đại Bái (Huế)... Gần đây chúng tôi mới phát hiện được một tờ trát của Tổng đốc Ninh Thái, trao cho phó cả Nguyễn Văn Thạch cầm đầu một toán thợ gò đồng xã Đại Bái huyện Gia Bình, gồm 23 người với đầy đủ đồ nghề vào kinh đô Huế để phục vụ cho nhu cầu của triều đình. Tờ trát đề ngày mùng 4 tháng 2 niên hiệu Đồng Khánh thứ 3 (1888). Chắc rằng những người thợ Đại Bái, Bắc Ninh sinh cơ lập nghiệp ở chốn kinh đô thơ mộng - xứ Huế, nhưng luôn hướng về quê hương, hướng về nghề tổ nên đã lấy tên Đại Bái đặt cho nơi ở mới của mình. 39 5. Những vị hậu tiên sư nghề gò đồng Đại Bái Cả bốn xóm của Đại Bái đều thờ Nguyễn Công Truyền là tổ nghề chung của cả làng, nhưng ở mỗi xóm lại sản xuất riêng từng mặt hàng nhất định nên dân chúng lại thờ thêm một vị hậu tiên sư, đó là những người tiếp bước Nguyễn Công Truyền, chuyên môn hóa và lập ra những phường riêng. Tài liệu không ghi rõ sự tích các vị mà chỉ biết tên như sau: - Phạm Ngọc Thanh người xóm Tây, hậu tiên sư ngành đánh mâm. - Nguyễn Viết Lai, Vũ Viết Thái ở xóm Ngoài, hậu tiên sư ngành đánh nồi. - Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Công Tâm ở xóm Giữa, hậu tiên sư ngành đánh ấm. Xóm Sôn (là xóm mới thành lập) chuyên ngành đánh chậu, không ghi tên vị hậu tiên sư. 6. Nguyễn Công Nghệ - tổ nghề đúc đồng làng Vó Tương truyền, Nguyễn Công Nghệ là người làng Vó, tên chữ là Quảng Bố, nay thuộc xã Quảng Phú, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Không biết ông sinh ngày tháng năm nào, tuy nhà nghèo nhưng nhờ đức thông minh và tính cần cù chăm chỉ, năm 18 tuổi ông thi đỗ và được giữ một chức trong Bộ Công của triều đình. Những lần về thăm quê, thấy dân làng vất vả tối ngày mà cuộc sống vẫn nghèo đói, suy nghĩ thấy cần phải học lấy một nghề để về dạy cho dân, ông đã chọn nghề đúc đồng. Khi đã thạo nghề, Nguyễn Công Nghệ 40 từ quan trở về dạy dân dựng lò lập nghiệp, ngõ hầu đem lại chút ơn nghĩa cho xóm làng. Không may ông qua đời vào ngày 23 tháng 8 năm Kỷ Mùi lúc mới 36 tuổi. Dân làng mai táng ông ở bãi Rầu (chỗ lăng hiện nay) và lấy ngày 23 tháng 8 âm lịch là ngày giỗ tổ nghề. Trong tâm thức của mỗi người làng Vó lúc nào cũng có một niềm tin rằng họ có một vị tổ nghề bằng xương bằng thịt với đầy đủ những đức tính tốt đẹp. Nghề đúc đồng ở nước ta có từ rất lâu, nhưng Nguyễn Công Nghệ là người đầu tiên mang nghề đúc đồng về truyền cho dân làng Vó, vì thế dân làng nhớ ơn và lập đình thờ ông. 7. Nguyễn Văn Đào - tổ nghề đúc đồng Dương Xuân Hiện nay ở cố đô Huế còn lưu lại được nhiều đồ đồng quý giá. Hai chiếc vạc lớn đúc năm 1660 và 1662 để ở nhà Tả Vu, Hữu Vu. Chuông lớn ở chùa Thiên Mụ đúc năm 1710. Chín khẩu thần công đúc năm Gia Long thứ 15 (1816) và cửu đỉnh mỗi chiếc nặng từ 30 đến 43 tạ đồng đúc năm Minh Mệnh thứ 16 (1835). Đây là thành tựu của những người thợ đúc đồng Dương Xuân (thành phố Huế). Họ đều là những người từ miền Bắc vào làm ăn sinh sống và lập thành phường hội. Mọi người tôn ông Nguyễn Văn Đào làm tổ nghề, hằng năm tổ chức giỗ tổ vào các ngày 1, 2, 3 tháng 7 âm lịch. 8. Vũ Đạo - tổ nghề đúc đồng làng Chè Làng Chè tên chữ là Trà Đông, thuộc huyện Đông Sơn vốn là một trung tâm đúc đồng lâu đời ở tỉnh 41 Thanh Hóa. Dân gian ở đây có câu “đất họ Lê, nghề họ Vũ”. Vũ ở đây là nói đến ông Vũ Đạo, người đã đi khắp thiên hạ để hành nghề. Đến đây thấy đất làm khuôn tốt, ông mới dừng lại dạy dân cách thức đúc đồng. Nhớ ơn ông, dân chúng lập đền thờ phụng và tôn ông làm tổ nghề đúc kẻ Chè. 9. Đào Nồi, Đỗ Quang - tổ nghề gốm Hương Canh Đào Nồi Thần tích làng Chiêm Trạch (nay thuộc xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) chép rằng: Đào Nồi con ông Đào Hoằng vốn gốc người Tuyên Quang. Ông tổ 4 đời đã chuyển cư về làng Hương Canh (nay thuộc thị trấn Hương Canh, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc) lập nghiệp bằng nghề nặn nồi niêu. Nối được nghiệp nhà, Đào Nồi nổi tiếng khắp vùng là người thợ lỗi lạc, tài hoa. Ông lấy vợ họ Dương, người làng Chiêm Trạch, cũng là thợ làm nồi khá giỏi giang. Vợ chồng sinh được hai con trai đặt tên là Đống và Vực. Đào Nồi không những giỏi nghề mà còn tinh thông võ nghệ. Năm 25 tuổi trúng kỳ thi võ, ông được Thục An Dương Vương cho làm quan và ban tước Nồi Hầu. Cả ba cha con đều làm việc dưới quyền của tướng quân Cao Lỗ. Những trận chiến với quân Triệu Đà, họ lập được rất nhiều chiến công. Khi Cao Lỗ bị dèm pha cách chức, ba cha con ông cũng từ quan về sống ở Chiêm Trạch. 42 Triệu Đà diệt được vua Thục đem quân vây làng Chiêm Trạch để bắt Nồi Hầu. Vợ chồng ông cùng con phá vòng vây chạy về quê cũ Hương Canh. Giặc vây bọc làng Canh, vợ chồng Nồi Hầu giả làm người bán nồi trốn về Chiêm Trạch. Đến nơi, cổng làng chưa kịp mở giặc đã đuổi sát sau lưng, tình thế bức bách, vợ chồng ông đành rút dao tự sát, hai người con trai cũng chết theo. Dân làng vừa thương xót vừa kính phục, liền chôn cất gia đình ông ở khu gò, về sau mọi người gọi là: Gò Thánh Hóa (thôn Vĩnh Thanh, xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) sát bên sông Hồng, đồng thời lập đền thờ để nhớ ơn người vừa là tổ nghề vừa có khí tiết, không đội trời chung với kẻ thù. Đỗ Quang Làng Hương Canh nay thuộc thị trấn Hương Canh, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc vốn có nghề làm vại, làm tiểu sành... từ rất lâu đời. Dân gian kể lại rằng: Ngày xưa có ba ông thợ rất giỏi nghề gốm. Họ rất thân thiết với nhau và cũng rất gắn bó với nghề, muốn con cháu đời sau nối được nghề nghiệp cha ông, các ông bèn chia nhau đi: một người về Thanh Hóa, một người về Bắc Ninh, còn một người về Hương Canh. Cụ tổ ở Hương Canh là Đỗ Quang. Hành trạng cụ không được lưu truyền nhưng đền thờ và tượng vẫn còn. Đền không biết xây từ bao giờ nhưng vào thời vua Lê Hiển Tông (niên hiệu Cảnh Hưng, 1740 - 1786) đã được tu bổ khang trang, lộng lẫy. 43 Hằng năm dân làng tổ chức giỗ tổ vào mùng 6 tháng giêng, ngày mất của tổ nghề. Ngày đó, người thợ cao tuổi nhất làng được ra đền đốt hương, rồi dẫn đầu đám rước kiệu tổ đi quanh làng. Đám rước bao giờ cũng tổ chức ban đêm, khiêng kiệu là 8 chàng trai và 8 cô gái khỏe mạnh, chưa vợ, chưa chồng. Kiệu có 3 chiếc lọng, chiếc lớn ở giữa che đầu cụ tổ nghề, hai lọng nhỏ che hai vai. Đi sau đám kiệu là con dân làng gốm. Ai không phải người làng gốm không được đi theo đám rước. Trên đường qua xóm ngõ, các gia đình đều phải dâng đuốc để soi sáng mặt tổ nghề, nếu thấy mặt cụ tổ có ánh đỏ rực rỡ thì năm đó làng nghề làm ăn phát đạt. Ngày khai nghiệp tổ chức vào ngày 16 tháng giêng âm lịch cũng rất trọng đại. Dân làng mổ lợn tế để sáng hôm sau các lò gốm bắt đầu đỏ lửa. Trước khi nung, trưởng các phường phải biện một ván xôi, một con gà để làm lễ tổ ngay trên nóc lò. Mọi việc đều được làm vào đêm. Khi cúng, người có thai hoặc người làng khác không được dự. 10. Hoàng Quang Hưng, Trương Trung Ái - tổ nghề gốm Căn cứ vào một số tài liệu chữ Hán và chữ Pháp thì vào thời Triệu Đà có người thợ gốm phương Bắc tên là Hoàng Quang Hưng đến vùng Cửu Chân (Thanh Hóa) làm ăn. Ông biết sử dụng bàn xoay, cối xay để nghiền luyện đất và vuốt chum, vại. Bấy giờ địa phương có người tên là Trương Trung Ái rất muốn học nghề, nên mời ông thầy Tàu ở lại. Sau khi nghề nghiệp đã tinh 44 thông, hai người rủ nhau đến làng Đẩu Khê, huyện Thanh Lâm (tỉnh Hải Dương ngày nay) hành nghề và dạy cho dân ở đó. Con cháu họ Trương cũng đã phát triển được nghề nghiệp của cha ông ở Thổ Hà (Bắc Giang) và Lò Chum (Thanh Hóa). Nhớ ơn người đã dạy nghề nghiệp cho mình, dân hai làng trên thờ Hoàng Quang Hưng và Trương Trung Ái làm tổ nghề, lập đền thờ phụng, hương khói muôn đời. 11. Đặng Huyền Thông - tổ nghề gốm Chu Đậu Dựa vào những thành tựu khảo cổ học mới phát hiện gần đây, chúng ta biết thêm được một bàn tay vàng của nghệ thuật làm gốm là Đặng Huyền Thông. Vốn là một nho sĩ ở Thanh Lâm (nay là Nam Sách, Hải Dương), ông không theo con đường cử nghiệp mà lại chuyên tâm làm gốm. Tên ông trên những chiếc bình, những chân đèn độc đáo thời Mạc Mậu Hợp (cuối thế kỷ XVI) khiến ông còn mãi với nghề gốm của dân tộc. 12. Những vị tổ nghề gốm chỉ truyền lại họ tên Nước ta có rất nhiều trung tâm gốm khác nhau. Mỗi trung tâm, mỗi nơi hoặc mỗi vùng đều có lịch sử, truyền thống, tổ nghề, kỹ thuật khác nhau. Nơi thì chuyên làm chậu, nơi lại chuyên làm nồi, chum, bát... với những đặc trưng về kiểu dáng, màu men, độ dày mỏng khác nhau. Do thời gian đã lùi quá xa, dân gian không nhớ được sự tích của tổ nghề làng mình, chỉ truyền lại cho nhau rằng: Tổ nghề gốm Thổ Hà là Lý Bá Dương. 45 Tổ nghề gốm Phù Lãng là Đào Trí Tiến và Hứa Vĩnh Kiểu. Tổ nghề gốm Bát Tràng là Lưu Phong Tú. 13. Bà Chúa Dệt Thụ La Nguyễn Thị La là con ông bà Nguyễn Diệu vốn là người Ái Châu (Thanh Hóa). Dưới triều vua Lý Huệ Tông (đầu thế kỷ XIII) ông bà đưa nhau ra kinh thành Thăng Long làm nghề dệt lụa. Nàng La lớn lên vừa có sắc đẹp lại thông hiểu chữ nghĩa. Nhưng điều đặc biệt là nàng rất khéo tay, hay làm, nối được nghiệp cha. Vải lụa nàng làm ra đã bền lại đẹp nên được mọi người hâm mộ, nổi tiếng một vùng. Trong số người đến làm công, học nghề với ông Nguyễn Diệu có chàng trai tên là Trần Thưởng, quê ở Hồng Châu (Hải Dương). Vì nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, Thưởng đành bỏ học đi làm nghề để kiếm sống. Về tài nghệ, so với nàng La, chàng cũng chẳng thua kém là bao. Làm việc gần nhau, quen hơi bén tiếng, ông bà Nguyễn Diệu cũng vui lòng nhận Trần Thưởng làm con rể. Cuộc sống ổn định, Trần Thưởng trở lại dùi mài kinh sử, thi đỗ được bổ làm quan ở Bộ Hộ, chàng xin vua cho lập một phường dệt ở ven hồ Dâm Đàm (Hồ Tây). Nàng La truyền nghề cho thợ và dân chúng trong vùng. Tiếng đồn lan rộng khắp nơi. Vua nhiều lần mời nàng vào cung dạy cho công chúa và các cung nữ. Bấy giờ Trần Thưởng được thăng chức Đốc lĩnh ở hai châu Hoan Ái. Nghe tin cháu mình là Đoàn Thượng nổi 46 lên chống Trần Thủ Độ, ông kéo quân về giúp. Trên đường đi, thuyền gặp bão, ông bị sóng cuốn đi mất tích. Nàng La nghe tin uống thuốc độc chết theo chồng. Vua rất thương xót cho lập đền thờ và truy tặng là Thụ La công chúa. Dân phường Nhược Công (nay là Thành Công, Hà Nội) bao đời nay vẫn thờ bà là Bà Chúa Dệt. 14. Bà Chúa Thiên Niên - tổ nghề dệt lĩnh Bưởi Lĩnh Bưởi từ lâu đã nổi tiếng ở Kinh đô Thăng Long và khắp cả nước. Có được nghề thủ công quý báu như vậy là nhờ ơn tổ nghề Phạm Thị Ngọc Đô. Trong bài hát chầu khi tế bà có đoạn: Nhờ đức Thiên Tôn dạy nết cửi canh, Chân giày tay dệt đã nhanh, Văn chương có chữ rành rành bởi ai. Việc cung chức thiên tài đủ vẻ, Dạy nữ công văn nghệ cho tường. Quay tơ lựa chỉ nhiều đường, Dọc theo dậm mắt, dệt ngang có mành... Đầu đời Hậu Lê, nhà vua đi đánh phương Nam toàn thắng trở về. Trong số người về theo có một cô gái xinh đẹp là Phạm Thị Ngọc Đô. Nàng được nhà vua yêu dấu không vì vẻ đẹp sắc nước hương trời mà còn vì tài canh cửi thêu thùa có một không hai. Phạm Thị Ngọc Đô được nhà vua cấp đất và xây cung điện cho ở cùng 24 nữ tỳ của nàng. Khoảng đất rộng 80 mẫu thuộc địa phận làng Trích Sài (vùng Bưởi, Nghĩa Đô ngày nay) được đặt tên là Thiên Niên Trang. Phạm Thị Ngọc Đô chiêu tập dân những làng xung 47 quanh cùng với các nữ tỳ của mình dạy cho họ thông thạo nghề dệt lĩnh. Ít lâu sau bà mất, nhân dân nhớ ơn, lập miếu thờ gọi là miếu Bà Chúa Dệt Lĩnh. Chùa làng Trích Sài cũng được dựng trên đất trang trại của Bà Chúa, được đặt tên là chùa Thiên Niên. Bà Chúa Dệt Lĩnh hay Bà Chúa Thiên Niên đều là tên hiệu dân chúng tôn vinh. Hằng năm, cứ vào ngày mùng 5 tháng giêng, dân làng tổ chức tế lễ để tưởng niệm công lao truyền nghề dệt lĩnh của bà cho các thế hệ. 15. Hoàng Phủ Thiếu Hoa - tổ nghề dệt Cổ Đô Lụa này là lụa Cổ Đô, Đích danh lụa cống các cô ưa dùng. Đình làng Cổ Đô (huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội) thờ Hoàng Phủ Thiếu Hoa, bà tổ nghề dệt lụa nổi tiếng đã từng đi vào ca dao xưa. Thần tích chép lại rằng: Hùng Định Vương sinh được một người con gái đặt tên là Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Nàng tính nết dịu dàng, dung nhan xinh đẹp, được vua cha yêu quý bội phần. Lớn lên, Thiếu Hoa theo Loa tổ học nghề chăn tằm dệt lụa rồi về dạy lại cho dân. Hùng Định Vương muốn gả nàng cho một viên quan phụ đạo nhưng nàng xin hoãn lại rồi bỏ về làng Cổ Đô dạy nghề cho các cô gái và phụ nữ trong làng. Năm 32 tuổi, Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại xin vua cha cho đi du ngoạn khắp nơi xa gần. Đến đâu nàng cũng dạy dân chăn tằm dệt lụa. Hơn 60 làng nhờ Hoàng Phủ Thiếu Hoa nên có được nghề. Sau nàng trở về Cổ Đô và mất tại đó. Hoàng Phủ Thiếu Hoa được dân làng Cổ Đô thờ48 làm Thành hoàng, trải qua các triều đại đều được ban sắc phong với các mỹ tự: Đoan trang, Trinh thục... Đó là sự tôn vinh, lòng biết ơn đối với một người phụ nữ có công lớn đã dạy nghề, truyền nghề cho dân. 16. Lã Thị Nga - tổ nghề dệt Vạn Phúc Theo truyền thuyết, làng Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) có nghề dệt trước cả các làng La, làng Mỗ. Phường cửi Vạn Phúc thờ bà Lã Thị Nga vừa là tổ nghề vừa là Đương cảnh Thành hoàng. Khoảng thế kỷ VII - VIII, nước ta bị nhà Đường đô hộ gọi là An Nam đô hộ phủ. Thời ấy, ta luôn phải cống nạp những sản vật quý giá như vàng, bạc, tơ, lụa, sa, the... Bà Lã Thị Nga vốn rất giỏi dệt các mặt hàng lụa là, gấm vóc. Bà đã đến phường Vạn Phúc để truyền nghề cho dân. Hiện nay trong hậu cung đình làng nơi thờ bà có bày chiếc thúng sơn, cái thước sơn, cái kéo sắt, cái vạch bằng ngà, là đồ dùng của thợ may. Các cụ già làng cho biết, tổ tiên từ ngàn xưa truyền lại cho con cháu rằng: khi bà họ Lã về làng có đi cùng với một ông thợ, một người chuyên dệt vải lụa còn một người chuyên may xống áo. 17. Phùng Khắc Khoan - tổ nghề dệt lượt Phùng Xá Phùng Khắc Khoan hay còn gọi là Trạng Bùng (1528-1613) người làng Phùng Xá, huyện Thạch Thất (Hà Nội). Năm 1580, ông thi đỗ tiến sĩ khi đang giữ chức Cấp sự trung Lễ khoa. Gia phả ghi lại rằng, năm 1597 ông đi sứ sang Trung Quốc đã để ý đến cách dệt 49 lượt của đất Thục. Ông đã lưu lại 10 ngày để quan sát và học lấy cách làm của họ. Về nước ông truyền lại nghề này cho dân làng Bùng quê hương ông. Từ đó làng Phùng Xá làm được loại lượt đội đầu vừa bền vừa đẹp. Dân làng tôn ông làm tổ sư nghề dệt lượt. Phùng Khắc Khoan không đỗ trạng nguyên, nhưng ông có tài ứng đối như thần, khiến người Tàu và người Triều Tiên phải kính phục. Có lẽ vì thế mà mọi người gọi ông là trạng. 18. Ngô Đình Cách - tổ nghề dệt lượt Vân Sa Làng Vân Sa, huyện Ba Vì (Hà Nội) vốn chỉ có nghề dệt lụa. Các cụ cao tuổi trong làng truyền lại rằng: dân làng biết nghề dệt lượt là nhờ ông Ngô Đình Cách, tên hiệu là Như Hải, đã đem nghề từ làng Bùng lên dạy cho dân vào cuối đời Lê. Dân làng thờ phụng ông với tư cách là vị tổ nghề dệt lượt của quê hương mình. Như vậy, có thể thấy thời xưa việc truyền nghề từ làng này sang làng khác cũng dễ dàng. 19. Trần Quý - tổ nghề dệt gấm La Khê Làng La Khê từ lâu đã được người trong nước biết đến với những mặt hàng dệt độc đáo. Nghề nghiệp ở đây có từ thời xa xưa, nhưng không ai nhớ được vị tổ đầu tiên đã truyền dạy nghề cho dân làng. Hiện nay, đền thờ tổ phường cửi La Khê còn tấm bia khắc tên 20 vị “tổ sư” từ phương xa đến nhập tịch làng, lấy con gái làng và truyền nghề dệt the lụa cho dân làng, vào thời Lê Trung Hưng. Văn bia đã ca ngợi các vị: 50 Kiêm thông chức nghệ, Khải hóa hương nhân. Gia gia thành nghiệp, Thế thế mông ân. Tạm dịch: Kiêm thông nghề dệt, Mở mang dân thôn. Nhà nhà thành nghiệp, Đời đời đội ơn. Các vị tổ nghề còn có người làm rể các làng xung quanh và cũng dạy nghề cho dân ở đó. Trong các sản phẩm dệt của La Khê, có một loại hàng không mấy nổi tiếng, đó là gấm. Vào thời Minh Mệnh có một người làng tên là Trần Quý được tuyển vào quân ngũ với chức suất đội. Trong công việc, ông có điều kiện đi đây đi đó và tiếp xúc với những thương nhân người ngoại quốc, nhờ đó ông thu thập được một số mảnh gấm rất đẹp. Sau khi trở về làng an dưỡng tuổi già, ông đã nghiên cứu rất kỹ từ chất liệu, màu sắc đến cách dệt của những miếng gấm, rồi rủ bạn bè làm thử. Dần dà ông cùng những thợ khéo La Khê đã dệt thành công nhiều loại gấm mới. Ông đem những phát hiện, những kinh nghiệm truyền dạy cho dân làng, từ đó gấm La Khê đã có mặt và nổi tiếng khắp cả nước. Dân làng tôn Trần Quý là ông tổ dệt gấm của La Khê. 51 20. Nguyễn Phục - tổ nghề tằm tơ Ông người làng Đoàn Tùng (nay thuộc xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương). Ông đỗ Hoàng giáp khoa Quý Dậu niên hiệu Thái Hòa thứ 11 (1453), được bổ chức Hàn lâm viện. Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, ông được giao đốc suất vận chuyển quân lương. Giữa đường, đoàn thuyền lương gặp bão nên đến chậm so với hạn định, ông bị xử tử theo quân pháp. Về sau, biết ông bị oan, vua phong ông làm phúc thần và lập đền thờ phụng. Sinh thời, ngoài việc triều chính, Nguyễn Phục rất quan tâm và chăm chút đến nghề chăn tằm ươm tơ của quê mình. Vì thế, không những được quê hương, mà cả những địa phương khác như làng Đồng Vàng (nay thuộc xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội) thờ ông là tổ nghề tằm tơ. 21. Quỳnh Hoa - Bà Chúa Tằm Bà là con gái ông Trần Vĩ sống dưới thời vua Lê Thánh Tông. Chồng bà là Liễu Nghị làm chức quan coi kho ở phủ Hà Trung (Thanh Hóa ngày nay). Khi quân Chiêm kéo sang quấy phá nước ta, vợ chồng Liễu Nghị chống trả quyết liệt, giặc thua to phải bỏ chạy. Ông được thăng chức và dời nhà về Kinh đô Thăng Long. Liễu Nghị mất, Quỳnh Hoa xin vua cho về ở Nghi Tàm dạy dân địa phương trồng dâu, nuôi tằm, kéo tơ. Nhờ có nghề, đời sống dân chúng rất sung túc. Để nhớ ơn bà, dân trong vùng tôn bà là Bà Chúa Tằm. Không những bà được phong là Thành hoàng làng Nghi Tàm, mà còn được dân các làng xung quanh thờ làm tổ nghề. 52 22. Trần Thị Thanh - Bà Chúa Tằm Tang làng Trinh Tiết Muốn ăn cơm tám canh cần, Về làng Trinh Tiết chăn tằm với anh. Câu ca dao xưa nói về một làng cổ có nghề tằm tơ nổi tiếng là làng Trinh Tiết, nay thuộc huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Làng có 4 xóm đều có nghề tằm tơ truyền thống. Chợ Sêu nằm giữa làng bên gốc cây cổ thụ và bến sông Đáy. Chợ khi xưa là trung tâm trao đổi mua bán tơ lụa của cả tổng Trinh Tiết gồm 16 làng, xã chạy suốt một dải hơn chục cây số từ cầu Tế Tiêu đến tận bến Đục chùa Hương. Có lẽ hiếm nơi có cảnh náo nhiệt như phiên tết chợ Sêu: “Bỏ con bỏ cháu không bỏ được 26 chợ Sêu”. Vì thế, người ta còn gọi làng Trinh Tiết là làng Sêu. Các cụ trong làng kể rằng: vào thế kỷ thứ VI, thuở ấy nước ta còn chịu sự đô hộ của nhà Lương, có một chàng trai là Nguyễn Đức Minh người Ái Châu (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa) vốn rất giỏi thuật phong thủy. Ông đến vùng Bối Lang (tên cũ của làng Trinh Tiết) giúp dân chọn đất dựng cửa dựng nhà. Trong làng có một gia đình vì mến tài đã gả con gái là Trần Thị Thanh cho ông. Đức Minh vô cùng cảm tạ nhạc phụ rồi đưa vợ về sinh sống ở tỉnh Thanh Hóa. Năm, sáu năm sau, vợ chồng sinh được một người con trai đặt tên là Nguyễn Đức Bảo. Được ít lâu, ông Minh qua đời, mẹ con bà Thanh dắt nhau trở về Bối Lang quê ngoại. Bà nuôi con rất chu đáo, Đức Bảo có công giúp Triệu Việt Vương nên được phong Tả tướng 53 quân, sau về trí sĩ hóa ngay ở làng. Nhớ ơn ông, dân lập đền thờ phụng và tôn là Đức Thành hoàng bản thổ. Bà Trần Thị Thanh cũng được tôn thờ, để nêu gương tiết liệt của bà, dân làng đổi tên Bối Lang thành làng Trinh Tiết. Dân làng cũng kể rằng: Bà Trần Thị Thanh là người đầu tiên đem nghề tằm tơ từ đất Ái Châu về vùng bãi ven sông Đáy này cho nên mọi người thờ bà làm tổ nghề tằm tang của làng. 23. Vũ Uy - tổ nghề dệt thao Triều Khúc Vũ Uy là người làng Triều Khúc, nay thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Ông sống dưới thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786). Dân làng truyền tụng rằng: Khi đi sứ Trung Quốc, ông đã tập trung trí lực học nghề làm quai thao bên đó về dạy cho dân làng. Vì thế dân tôn ông làm tổ sư của nghề. Già trẻ lớn bé trong làng đều thuộc lòng câu ca dao xưng tụng công đức ông: Quai thao dệt khéo vô ngần Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho. Hiện nay, ở nhà thờ họ Vũ làng Triều Khúc vẫn còn bức tranh vẽ chân dung ông. 24. Lê Công Hành - tổ nghề lọng, nghề thêu Ông tên chính là Trần Quốc Khái, sinh ngày 18 tháng giêng năm Bính Ngọ (1606) tại làng Quất Động (huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội), mất ngày 12 tháng 6 năm Tân Sửu (1661). Cuốn gia phả ở nhà thờ tổ chép: Tổ tiên Lê Công Hành vốn họ Mạc sau đổi sang họ Trần, cuối cùng được ban quốc tính nên ông lấy họ Lê. 54 Từ nhỏ Lê Công Hành đã nổi tiếng thông minh. Ông đỗ tiến sĩ đời vua Lê Nhân Tông và được cử đi sứ Trung Quốc năm 1646. Tương truyền, vua quan bên Tàu đã nhốt ông lên lầu cao rồi rút thang, không cho ăn uống, không ai được lai vãng trừ số lính canh. Ông đã nhanh trí bẻ tượng Phật bằng bột ra ăn nên suốt mấy ngày vẫn không bị đói. Ngồi không rỗi rãi, ông tháo những bức nghi môn xuống tỉ mỉ tháo ra từng sợi xem xét rồi lại đan vào như cũ. Ông cũng quan sát cả những chiếc lọng thờ từ cách sơn vải lợp đến lớp khung, chiếc cán... và nhớ nhập tâm đến từng chi tiết. Đối chiếu với cách làm ở nhà, ông rút ra những điều hay lẽ dở. Đợi mãi cũng không được xuống khỏi lầu, Lê Công Hành nảy ra một kế. Ông leo lên bàn thờ cầm chiếc lọng tập nhảy xuống sàn nhà. Khi đã thành thạo, ông kẹp chặt hai bên tay hai chiếc lọng nhảy xuống lầu một cách thanh thản, trước sự ngạc nhiên và thán phục của người Trung Quốc. Về nước, Lê Công Hành đem những kinh nghiệm đã học được truyền cho dân làng Quất Động và 5 xã xung quanh. Dân các làng thêu ra Hà Nội hành nghề lập thành phường, phố đều tôn ông làm tổ nghề thêu. Tú đình thị (đình chợ thêu) vẫn còn ở phố Yên Thái, Hà Nội. Hiện ở đình Ngũ Xã (huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội) vẫn còn tấm bia “Vũ du Tiên sư bi ký”, dựng thời Gia Long của năm làng thêu ca ngợi công đức ông Lê Công Hành và các vị hậu tiên sư 55 nghề thêu, nghề lọng. Trước kia, phố Hàng Lọng (Hà Nội) cũng có đền thờ ông, rất tiếc nay không còn nữa. Hàng năm cứ vào dịp 12 tháng 6 âm lịch, những người thợ thêu lại tổ chức giỗ tổ nghề một cách trang trọng với lòng biết ơn sâu nặng cụ tổ Lê Công Hành. 25. Lư Cao Sơn - tổ nghề rèn Truyền thuyết dân gian cho rằng, Lư Cao Sơn người làng Nga Hoàng, huyện Quế Dương quận Vũ Linh (nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Lư Cao Sơn đã rèn nhiều đồ sắt cho Thánh Gióng. Sau đó hàng chục năm ông đem kỹ xảo rèn dạy dân nhiều nơi. Dân các làng rèn trong cả nước đều thờ ông làm tổ sư. 26. Dã Tượng và Ngũ vị tổ sư nghề rèn Câu Dương Đình làng Câu Dương (nay thuộc xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) thờ Đương Cảnh thành hoàng, tổ nghề sắt là Dã Tượng và Ngũ vị tổ sư. Dân làng kể rằng: Vào thời Trần, quân Nguyên sang xâm lược nước ta, Dã Tượng đã tập hợp dân làng Câu Dương lập thành xưởng rèn khí giới để chống giặc. Vũ khí làm ra rất lợi hại, góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của dân tộc. Vì vậy, dân làng đã tôn ông làm tổ nghề rèn sắt của địa phương. Ngoài Dã Tượng, bài vị ở đình làng và trong văn tế tổ còn nhắc đến tên năm vị cũng được tôn là năm “hậu tiên sư” nghề rèn của làng. Đó là các ông: Tống Đình Uyên, Bùi Đình Lãm, Trịnh Thiện Tích, Lê Đình Ngạn, Phạm Đình Minh (có nơi ghi là Phan Thuần Mỹ). 56 27. Cụ Đặng - tổ nghề rèn An Khê Dân làng An Khê, Bình Định (nay thuộc thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai) thờ cụ Đặng (không nhớ được tên) làm vị tổ nghề rèn làng mình. Hành trạng của cụ không được truyền lại một cách rõ ràng, chỉ biết rằng một người cháu của cụ là Đô đốc Đặng Văn Long đã đem nghề của cha ông giúp Nguyễn Huệ rèn khí giới để chống quân xâm lược nhà Thanh. 28. Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền - tổ nghề kim hoàn Định Công Ba anh em Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền người làng Định Công, Thanh Trì (nay thuộc phường Định Công, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Cha mẹ mất sớm, anh em làm lụng vất vả nuôi nhau qua ngày. Lúc bấy giờ quân nhà Lương đã tiến vào Kinh đô Vạn Xuân, Lý Nam Đế không chống cự nổi, dân chúng bỏ nhà bỏ của chạy tan tác. Ba anh em họ Trần chạy giặc mỗi người lưu lạc một nơi. Thật tình cờ, người nào cũng xin làm thuê cho những chỗ chế tác đồ trang sức bằng vàng, bạc. Vừa làm việc họ vừa chăm chú học lấy những kỹ xảo của nghề. Chẳng bao lâu anh em đã rất thạo việc. Đất nước yên hàn, họ tìm đường trở về quê cha đất tổ, làng Định Công, sống đoàn tụ trong một mái ấm gia đình. Ba anh em chung nhau lập một xưởng làm đồ kim hoàn. Dân làng Định Công đua nhau học theo, dần dà nghề kim hoàn Định Công nổi tiếng khắp trong nước. Nhớ ơn người có công khai sáng, dân làng tôn ba anh em Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền là tổ nghề. 57 29. Lưu Xuân Tín - tổ nghề vàng bạc Châu Khê Ông người làng Châu Khê, nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Tương truyền, Lưu Xuân Tín làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lại đời Lê Thánh Tông. Ông được triều đình giao trọng trách lập xưởng đúc bạc ở Kinh đô Thăng Long. Ông đã đưa dân làng Châu Khê lên trường đúc làm việc. Ngoài nhiệm vụ đúc vàng thoi bạc nén cho công khố, Lưu Xuân Tín còn hướng dẫn cho những người thợ chế tác đồ nữ trang vàng bạc rất tinh xảo, nào ống vôi, xà tích, hoa tai, vòng cổ... chẳng kém thợ Định Công. Dân phố Hàng Bạc, Hà Nội khởi đầu là do người Châu Khê ra trú ngụ làm ăn sinh sống. Họ đã dựng một ngôi đình thờ vọng đức thành hoàng bản thổ và thờ Lưu Xuân Tín làm tổ nghề. Hằng năm, thợ vàng bạc Châu Khê dù làm ăn ở đâu cũng trở về quê cũ để làm lễ tế tổ nghề ở đình làng với lòng thành kính và biết ơn vô hạn. 30. Nguyễn Kim Lâu - tổ nghề chạm bạc Đồng Xâm Làng Đồng Xâm (xưa là Đường Thâm) gồm hai thôn Thượng Hòa, Thượng Gia, nay thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Đây là một làng có nghề chạm bạc nổi tiếng. Dân làng thờ Nguyễn Kim Lâu là tổ nghề. Theo tấm bia: “Tổ tích lưu truyền thụ nghiệp Đại Minh quốc Bảo Lạc châu” (Lưu truyền sự tích vị tổ học nghề tại châu Bảo Lạc, nước Đại Minh), dựng ngày lành mùa xuân niên hiệu Thuận Thiên thứ 2 58 (1429) hiện còn dựng trước am thờ thì Nguyễn Kim Lâu người thôn Thượng Gia, xã Đường Thâm, học được nghề vá nồi đồng (bổ khuyết đồng oa) ở châu Bảo Lạc, Cao Bằng, đời Minh (1414 - 1427) rồi về dạy cho dân làng. Một thời gian sau, ông lập ra phường thợ đặt tên là Phúc Thọ phường. Trên tấm bia: “Cổ tích danh lam Kim Tiên tự tu tạo thạch bi ký” (Bài ký trên bia đá về việc tu tạo chùa cổ Kim Tiên) khắc ngày 1 tháng 9 năm Tân Dậu, niên hiệu Chính Hòa thứ 2 (1681) đời Lê Hy Tông, phường thợ Phúc Thọ lúc đó có 149 người, gồm 1 trùm phường và 7 chi phường cai quản 7 hạng thợ. Hạng nhất có 18 người, hạng nhì 24 người, hạng ba 21 người, hạng tư 32 người, hạng năm 12 người, hạng sáu 21 người, hạng bảy 13 người, của các dòng họ Nguyễn, Triệu, Trần, Đinh, Vũ, Hoàng, Ngô, Đỗ... Theo quy định của phường, người nào muốn học nghề phải nộp 3 quan tiền để làm lễ cầu phúc và lễ kính tổ nghề. Hằng năm vào ngày mùng 5 tháng giêng âm lịch, phường thợ phải tập trung trước am thờ để nhìn lại công việc trong năm và làm lễ giỗ tổ. Từ chỗ được đức tổ Nguyễn Kim Lâu truyền dạy cho nghề vá nồi đồng, thợ Đồng Xâm đã không ngừng cải tiến để làm những mặt hàng tinh xảo bằng bạc như các loại đồ trang sức, đồ thờ cúng và đồ mỹ nghệ. Với nghề tổ, thợ Đồng Xâm thường chia thành từng tốp nhỏ từ 1 đến 3 người gánh theo đồ nghề (bễ thổi lửa, đe, búa, ve, chạm...) hành nghề lưu động khắp các vùng. Vào khoảng thế kỷ XVII, sự phát triển của đô thị đã thu hút khá nhiều thợ Đồng Xâm. Họ lên Thăng 59 Long cùng với thợ Châu Khê (Hải Dương), Định Công (Hà Nội) lập ra phường Đông Các (nay là phố Hàng Bạc, Hà Nội), một trung tâm kim hoàn của Thăng Long. Về sau, họ còn đến lập nghiệp ở Huế và các đô thị khác nữa, song ở đâu họ cũng phát huy được nghề tổ, đem lại vinh quang cho xóm làng. Vua Khải Định đã vời hai người thợ Đồng Xâm vào Huế để sửa lại ngai vàng và phong cho một trong hai người thợ là Lưu Quang Chế hàm thất phẩm. Hiện nay, trong đền thờ tổ ở Đồng Xâm vẫn lưu giữ được đạo sắc phong niên hiệu Bảo Đại cho tổ nghề chạm bạc Nguyễn Kim Lâu. 31. Cao Đình Độ, Cao Đình Hương - tổ nghề kim hoàn Đàng Trong Cao Đình Độ vốn quê ở Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Khi ở quê, ông đã biết nghề hàn bịt khay chén bằng đồng. Ông đã giả làm một người Hoa để được một cửa hiệu kim hoàn người Tàu nhận vào hầu hạ và giúp việc. Vốn sáng ý, ông theo dõi những thao tác trong từng công đoạn sản xuất, đồng thời tìm cách nhập tâm các kỹ thuật, đánh dấu, ghi chép hình dạng khuôn mẫu cùng cách thức chế tạo dụng cụ. Nghề thành thạo, Cao Đình Độ từ giã hiệu kim hoàn. Ông xin với chúa Nguyễn mở cửa hàng kim hoàn ở làng Kế Môn, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay. Vừa làm cửa hàng, ông vừa mở lớp dạy nghề cho người dân trong vùng, con cháu dòng họ Trần Mạnh và Huỳnh Công đến học rất đông. Từ đó, nghề kim hoàn Đàng Trong bắt đầu phấn phát. 60 Quang Trung lên ngôi, nhà vua đã cho thành lập ngay ngành "ngân tượng" để đúc vàng, bạc. Cao Đình Độ được trọng dụng và nhận chức Lãnh binh. Con trai ông là Cao Đình Hương làm phó giúp việc ông. Dưới triều Gia Long, cha con ông cũng được tiếp tục công việc. Cao Đình Độ mất năm 1810 thọ 75 tuổi, 11 năm sau (1821), con trai ông là Cao Đình Hương cũng qua đời. Học trò khắp các tỉnh miền trong thờ các ông làm đệ nhất, đệ nhị tổ sư. Nhà thờ tổ kim hoàn thờ hai ông được đặt ở phường Phù Cát, thành phố Huế. 32. Đoàn Tài - tổ nghề tiện gỗ Nhị Khê Dân gian truyền lại rằng: Ông sống vào thời vua Lê chúa Trịnh, không biết quê chính ở đâu, làng Khánh Vân chỉ là nơi ngụ cư. Khi mới hành nghề, ông phải đào hầm để tiện ở dưới mặt đất, dần về sau do cải tiến cách làm nên công việc đỡ vất vả, lại đạt hiệu quả cao. Đoàn Tài tiện các thứ đồ thờ bằng gỗ như bình hương, cây nến, đài, mâm bồng... Sản phẩm của ông được nhiều nơi ưa chuộng. Không hiểu vì duyên cớ gì mà không truyền được nghề tiện cho dân làng Khánh Vân, ông đành vượt sông Tô Lịch sang truyền nghề cho dân Nhị Khê. Làng Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội) xưa có tên nôm là làng Dũi, vì có nghề tiện nên người ta gọi là làng Dũi Tiện: Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về Dũi Tiện với anh thì về, Dũi Tiện có cây bồ đề, Có sông Tô Lịch, có nghề tiện mâm. 61 Người làng Nhị Khê vốn khéo tay lại cần cù, chẳng bao lâu nghề nghiệp tinh xảo, nổi tiếng khắp trong nước. Nhớ ơn người đã dạy nghề cho mình, dân làng xây đền thờ tổ nghề Đoàn Tài ngay trên con đường gạch giữa làng. Đền thờ có nhiều hoành phi và đại tự như: “Hữu khai tiên” (có công đầu mở mang nghề nghiệp), “Dân tiên giác” (giác ngộ trước dân), “Viên nhi thần” (thần bàn xoay)... Điều này chứng tỏ dân chúng không chỉ tôn vinh, ngưỡng mộ ông, mà còn tự hào về truyền thống nghề nghiệp độc đáo của mình. Họ tin rằng con cháu mai sau sẽ kế thừa và phát triển nghề này càng tinh xảo hơn. Trong chùa làng Khánh Vân, nơi Đoàn Tài trú ngụ trước khi sang làng Nhị Khê, vẫn còn một pho tượng thờ Đoàn Tài tạc bằng đá xanh, ngồi xếp bằng, đầu choàng khăn, hai tay đặt trước bụng. Trước mặt tượng là một bộ đồ tiện cũng bằng đá xanh gồm: một “mồm lò tiện” cao chừng 1 gang hình giống như chiếc cối đá loại nhỡ, miệng tròn và nhỏ, ngang thân có đường khắc lõm đều (để dặt dây quay) và bên cạnh là chiếc "lò bàn tiện" giống cái nậm đựng rượu nhưng hai đầu đều có cổ dài ra, giữa là bầu tròn chạm nổi các hoa văn hình thoi liên tiếp. Đoàn Tài sống trên trăm tuổi, song không ai nhớ năm sinh, năm mất. Sở dĩ người ta biết tuổi thọ và ngày giỗ tổ, vì ở Nhị Khê vẫn truyền tụng câu ca dao: Sống thì sống đủ trăm năm Chết thì chết giữa hai nhăm tháng mười. 62 Thợ tiện Nhị Khê đi hành nghề khắp nơi, tập trung ở phố Hàng Gai, phố Tô Tịch (Hà Nội), rồi cả Sơn Tây, Hải Phòng, Bắc Ninh... Nhưng dù có đi nơi đâu, thì đến ngày 25 tháng 10 âm lịch, mọi người lại trở về quê hương làm lễ tế tổ, để rồi ra đi với niềm hy vọng nghề tiện năm sau sẽ phát đạt hơn, thịnh vượng hơn. 33. Cụ Sần, Nguyễn Xuân Tài - tổ nghề mộc Chàng Sơn Chàng Sơn (thuộc huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội) là một làng thợ mộc có truyền thống. Chỉ riêng cách đặt tên làng bằng đồ dùng của nghề mộc đã chứng tỏ dân ở đây yêu nghề nghiệp, yêu quê hương mình như thế nào. Về tổ nghề thợ mộc, làng Chàng Sơn thờ hai vị: cụ tổ viễn đại (tiền tiên sư) tên là Sần, cụ tổ cận đại (hậu tiên sư) tên là Nguyễn Xuân Tài. Tương truyền, thời Hùng Vương có cụ Sần nổi tiếng nghề mộc khắp gần xa. Lúc đó, đức Thánh Tản Viên đang kén thợ giỏi để xây một ngôi đền trên đỉnh Ba Vì. Công trình phải to, đẹp, uy nghi vì đây vừa là đền thờ vừa là chỗ nghỉ. Biết tiếng cụ Sần, Thánh Tản cho bộ tướng xuống mời. Nể lời cụ cũng ưng thuận, nhưng chỉ xin cho bà vợ được đi theo. Ông là thợ chính, bà là thợ phụ kiêm việc nấu ăn. Chẳng bao lâu công trình hoàn tất, cụ Sần nhớ lại chiến công của Thánh Tản đánh nhau với Thủy Tinh, bèn nảy ra sáng kiến chạm trổ những hình rồng, cá, tàn binh, bại tướng nép dưới các mái nhà, hoặc bò lổm ngổm ở những tư 63 thế khác nhau. Có lẽ từ đấy dưới mái các đền, miếu hay có hình thủy tộc... Làm xong đền Thánh Tản, vợ chồng cụ Sần được trở về quê cũ nghỉ ngơi. Cụ Sần đem bí quyết và tài khéo của nghề mộc truyền lại cho dân, vì thế được dân làng tôn làm tổ nghề mộc đầu tiên ở làng Chàng Sơn. Còn cụ tổ cận đại Nguyễn Xuân Tài, theo truyền thuyết, sống cách đây hơn hai trăm năm. Theo chữ bài vị thì cụ tổ thuộc họ Nguyễn tên tự là Xuân Tài, cụ bà họ Lê tên hiệu là Từ Thiện. Cụ Tài chính quán ở xã Thạch Thán, huyện Yên Sơn (Quốc Oai), sang dạy nghề bên làng Chàng, vốn là đất nghề đã lâu. Với bàn tay tài hoa, kỹ nghệ tinh xảo hơn người, cụ Tài đã đến dạy nghề cho những người thợ “nhà nòi” ở đây và được dân làng tôn vinh thờ phụng là vị “hậu tiên sư” của làng. Hiện bức chân dung cụ vẫn còn ở Chàng Sơn. Đó là bức phù điêu một ông cụ phúc hậu, mình mặc áo rộng, ngồi xếp bằng tròn thanh thản, râu tóc bạc phơ, bụng phệ, hở rốn. Tay cầm một chiếc phất trần, biểu tượng của sự dẫn đường chỉ lối cho con cháu học nghề. Hầu hai bên là tiểu đồng, một chú cầm quạt lông, cắp bọc sách, một chú cầm quạt giấy quảy bầu rượu. Nước sơn ta nhẹ nhàng hòa quyện với màu vàng của gỗ khiến bức chân dung tươi tắn và nhã nhặn, thanh thoát. Trên bàn thờ tổ còn có vật thiết thân nhất của người thợ mộc, đó là cái thước lục lăng, trên mặt ghi đầy đủ tỷ lệ các bộ phận mộc cần có cho một công trình xây dựng. 64 34. Nguyễn Thời Trung, Phạm Thuần Chánh, Phạm Đức Chính, Nguyễn Sĩ Bân - tổ nghề da Nghề thuộc da và làm giày dép da ở nước ta có từ bao giờ thì không ai nhớ. Nhưng trung tâm đồ da thì đã hình thành ở Tam Lâm từ thế kỷ XVI. Tam Lâm là tên của ba làng Phong Lâm, Văn Lâm và Trúc Lâm, tục gọi là ba làng Trắm, thuộc tổng Phan Xá, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng đời Lê (nay là tỉnh Hải Dương), đây là quê hương của tổ nghề Nguyễn Thời Trung. Dưới thời Mạc Thái Tổ (1527 - 1529), Nguyễn Thời Trung thi đỗ tiến sĩ, được bổ làm quan và đi sứ nhà Minh. Sứ bộ đến Hàng Châu (thuộc tỉnh Hồ Nam) thì dừng lại nghỉ ngơi. Thời gian rỗi rãi, Thời Trung đến thăm gia đình họ Hứa, chuyên nghề thuộc da và giày dép. Vốn tinh ý, ông cố tìm hiểu, nhớ nhập tâm những công đoạn chính yếu, đồng thời hỏi han những kinh nghiệm nhà nghề, những cái giống nhau, khác nhau so với nghề nghiệp quê mình. Cùng đi với ông là ba người thợ làng Trắm: Phạm Thuần Chánh, Phạm Đức Chính và Nguyễn Sĩ Bân, với tư cách người giúp việc. Họ cũng được Nguyễn Thời Trung dặn dò trước, để ý thu lượm cách thức làm ăn của nước người. Về nhà, ông mở lò thuộc da lớn ngay trên đất Tam Lâm, truyền lại những kinh nghiệm mới cho dân làng, cải tiến nghề cũ để làm ra hàng mới với chất lượng cao. Không bao lâu, nghề da ở Tam Lâm rất phát đạt, tiếng đồn vang khắp mọi nơi. Nhờ có nghề nghiệp, làng xóm trở nên phong lưu, sung túc. Dân nhớ ơn những người truyền dạy 65 nghề nghiệp cho mình, bèn xây đình thờ Nguyễn Thời Trung làm tổ nghề da. Các vị hậu tiên sư Phạm Thuần Chánh, Phạm Đức Chính và Nguyễn Sĩ Bân cũng được hưởng tự. Triều đình nhà Mạc đã ban tặng sắc phong cho Nguyễn Thời Trung và ba vị hậu, vì họ đã có công cải tiến, phát triển và dạy nghề cho dân. Hằng năm, cứ đến ngày 17 tháng 2 và ngày 17 tháng 8 âm lịch, thợ da làm ăn ở các nơi, nhất là phố Hà Trung và phố Hàng Da (thuộc Hà Nội) đều trở về Tam Lâm làm lễ giỗ tổ. Hiện ở phố Hàng Giầy (Hà Nội) vẫn còn ngôi đền thờ vọng cụ tổ nghề da. 35. Phạm Đôn Lễ - tổ nghề dệt chiếu Hới Ông là người xã Hải Trào (tên nôm là làng Hới), nay thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đỗ Trạng nguyên niên hiệu Hồng Đức thứ 12 (1481) đời vua Lê Thánh Tông. Ông học giỏi tài cao, từ thi hương đến thi đình đều đỗ đầu. Có người nhầm ông với Phạm Đôn làm quan Bộ Lễ thời Tiền Lê, học được nghề dệt chiếu ở Quế Lâm, Trung Quốc. Tư liệu về Phạm Đôn Lễ rất sơ sài. Dân gian truyền lại rằng: Hải Trào và những vùng lân cận rất hợp với việc trồng cói, dân ở đây đã có nghề dệt chiếu từ lâu đời nhưng dệt bằng khung đứng vừa chậm, chiếu lại không đẹp. Phạm Đôn Lễ đã giúp dân mở mang nghề trồng cói. Ông lại cải tiến cách dệt chiếu bằng khung nằm có ngựa đỡ sợi dọc làm cho sợi đay luôn cong, chao cói nhanh hơn, sợi đan đều hơn và do đó năng suất cao, chiếu lại đẹp. Chiếu Hới có nhiều loại, song nổi tiếng 66 nhất là chiếu đậu, khắp nơi đều hâm mộ, ưa dùng. Nhớ ơn ông, dân xã lập đền thờ và tôn ông là “ông Trạng Chiếu”. Hằng năm, dân tổ chức lễ hội để tưởng nhớ ông và khuyến nghệ vào ngày 6 tháng giêng âm lịch. 36. Phương Dung - bà tổ nghề đan giành Công chúa Huyền Trân nhà Trần có một thị nữ là Phương Dung. Nàng đã theo Công chúa sang Chiêm Thành nhưng cuối cùng cũng được trở về nước. Khi ở Chiêm Thành, Phương Dung chú ý những chiếc gùi, những đồ vật đan lát tiện dụng trong đời sống dân dã. Trở về quê hương làng Giành (nay là xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) nàng đã thay đổi cách thức đan, tạo ra một vật dụng bằng tre rất tiện lợi trong sinh hoạt cũng như sản xuất nông nghiệp ở nông thôn, và gọi nó là cái giành. Phương Dung dạy cho dân làng cách thức đan, từ đó nghề đan giành phát triển lan rộng khắp nơi. Dân chúng nhớ ơn tôn Phương Dung là bà tổ nghề đan giành. Hiện nay vẫn còn nhiều làng, nhiều chợ được gọi tên làng Giành, chợ Giành. 37. Trần Ứng Long - tổ nghề đan thuyền thúng Thời kỳ loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh đã lần lượt đánh thắng nhiều sứ quân. Riêng sứ quân của Đỗ Cảnh Thạc, trấn ngự vùng sông Đỗ Động là đối thủ mạnh hơn cả. Thành Đỗ Động kiên cố lại nằm giữa một địa thế hiểm trở. Sông Đỗ bao lấy ba mặt thành tạo nên một con ngòi sâu cản bước tiến của đối phương. Xung quanh thành là một vùng rộng lớn những đầm lầy mênh mông, trùng điệp những rừng lau, bãi sậy. Quân Cảnh 67 Thạc đều rất quen nghề thủy chiến, ở vào địa thế hiểm yếu như vậy quả là một thuận lợi lớn. Đinh Bộ Lĩnh sai bộ tướng Trần Ứng Long là một vị tướng lỗi lạc, xuất thân từ một gia đình nghèo khó, quen với công việc nhà nông, sông nước, lại mưu trí, có sức khỏe hơn người, đi đánh sứ quân họ Đỗ. Đứng ngắm tòa thành hiểm yếu, xung quanh là sông nước lạnh lùng, không một bóng người, không một bóng thuyền, chỉ thấy xa xa những thôn làng bị đốt phá trơ trụi, Ứng Long suy nghĩ cách để vượt sông vào được thành. Một ý nghĩ bỗng vụt lên trong óc vị tướng. Ông liên tưởng ngay đến những chiếc thúng đan bằng tre cật có trát nhựa dùng đựng nước, cái thúng có thể nổi lên mặt nước. Trần Ứng Long liền ra lệnh thu quân hạ trại, sai quân sĩ vào rừng chặt tre, vót nan, đan theo lối chiếc thúng lớn. Để thúng vững, họ làm thêm chiếc thanh ngang giữ chắc đường cạp vòng quanh, rồi dùng nhựa trám kín các kẽ hở. Khi thả xuống nước, thúng nổi như một chiếc thuyền, có thể chở được 4, 5 người cùng vũ khí. Vì đan bằng tre, con thuyền vừa nhỏ, vừa nhẹ, khi hành quân có thể vác lên như chiếc lá chắn, khi xung trận vượt sông ngòi thì lại trở thành những chiếc thuyền. Đỗ Cảnh Thạc không ngờ quân Ứng Long có phép thần thông vượt được cả sông và đầm lầy hiểm trở, nên thua to. Khi thắng trận trở về, Đinh Bộ Lĩnh khao thưởng quân sĩ và khen ngợi mưu thần của Trần Ứng Long. Nhìn con thuyền độc đáo hình giống một cái thúng méo, vua Đinh gọi nó là thuyền thúng. Từ đó về sau mọi người cứ theo đó để gọi. 68 Trở về quê hương, Trần Ứng Long dạy cho dân làng cách đan những chiếc thuyền thúng đơn giản, nhẹ nhàng, rất thuận tiện cho những vùng sông nước và ruộng sâu. Nguyên liệu không phải tìm kiếm xa mà ngay ở lũy tre làng. Chiếc thuyền thúng đã nhanh chóng trở thành vật thân thiết của người nông dân Việt Nam, nhất là ở những vùng đầm lầy nước ngập. Nhớ ơn người đã sáng tạo ra nghề đan thuyền độc đáo ấy, nhân dân nhiều nơi thờ tướng quân Trần Ứng Long làm ông tổ nghề thuyền thúng. Không biết quê ông ở đâu nhưng sự tích về ông được truyền tụng nhiều ở xã An Viên (Hải Dương), nơi có nghề đan thuyền thúng rất nổi tiếng. 38. Lý Thị Hiệu - tổ nghề lược tre làng Vạc Ngày xưa ở bất cứ chợ quê nào cũng có bán lược tre, thậm chí ở kinh đô cũng có một phố lấy tên là phố Hàng Lược. Nghề làm lược tre có nhiều nơi: Đồng Văn (Hà Nội), Củ Chi (Nam Bộ)…, nhưng làng Vạc mới là quê gốc của nghề. Dân ở đây thờ bà Lý Thị Hiệu là tổ nghề. Làng Vạc, thời Lê là xã Hoạch Trạch, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Nghề làm lược tre có ở đây từ bao giờ thì không ai nhớ, nhưng sự tích về bà Lý Thị Hiệu, tổ sư của nghề thì đến nay vẫn được dân làng truyền tụng và tôn vinh. Theo “Hoạch Trạch Nhữ tập phả ký” do Tiến sĩ Nhữ Đình Toản soạn (ông đỗ tiến sĩ năm 1736), thì Lý Thị Hiệu là vợ của Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền. Ông đỗ năm 1680, làm quan thời Lê - Trịnh, nổi tiếng là người có 69 tài chính sự, “văn chương Lê Anh Tuấn, chính sự Nhữ Đình Hiền”. Năm 1698, Nhữ Đình Hiền được cử đi sứ Trung Quốc, bà Lý Thị Hiệu xin đi theo chồng. Ở nước ngoài, lúc rỗi rãi bà đặc biệt quan tâm đến cách làm lược tre, từ cách chọn nguyên liệu đến các chi tiết, từ khâu đầu cho đến lúc thành phẩm. Trở về, bà tập hợp dân làng dạy nghề cho mọi người. Sau đó, bà đứng ra lập phường Diên Lộc chuyên làm lược tre. Lược làng Vạc có mặt khắp nơi trong cả nước, được ưa chuộng và trở thành vật gần gũi của mọi người. Họ Nhữ lại trích 12 trong số 16 mẫu ruộng lộc điền vua ban, cho phường Diên Lộc. Nhớ ơn vợ chồng bà Lý Thị Hiệu, dân làng tôn ông bà làm tổ sư nghề làm lược tre. Văn tế ngày giỗ tổ nghề Lý Thị Hiệu có câu: ... Cung duy tiên thánh tiên sư, Thùy dụ lê dân, Công đăng nhật nguyệt Đức hợp càn khôn, Bắc sứ di đoan, Hưng thành nghệ thủ... Tạm dịch: Kính nghĩ tiên thánh tiên sư, Cho dân đen được sung túc, Công sánh mặt trời mặt trăng, Đức ngang với đất trời. Đi sứ Bắc phương truyền lại giềng mối Phấn phát tạo thành nghề... 70 39. Trần Công - tổ nghề lược sừng Thụy Ứng Nếu có dịp về thăm Thụy Ứng (huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội), bạn sẽ được chiêm ngưỡng bức chân dung cụ tổ nghề lược sừng đặt tại nhà thờ tổ. Bức chân dung khảm trai hình một ông cụ mặc áo lụa ngồi xếp bằng tựa vào con hươu, hai bên có tiểu đồng cầm phất trần và cắp tráp sách đứng hầu. Đây là bức mới làm, căn cứ vào bức chân dung cũ của tổ nghề đã bị Tây càn cướp đi mất. Thợ lược làng Thụy Ứng kể rằng: không biết tên vị tổ là gì, chỉ biết ông họ Trần, cháu của Trần Đắc người bản xã. Trần Đắc là một người chính trực, làm quan dưới thời Lê Trang Tông. Do ghen ghét đố kỵ, bọn nịnh thần vu cho ông có ý đồ phản loạn, dám làm nhà theo kiểu của vua chúa “Nội công ngoại quốc”1, thế là ông bị đem hành hình. Dân làng không cứu được Trần Đắc khỏi tội chết, song họ đã cứu được ngôi nhà của ông khỏi bị phá, bằng cách trong một đêm đem hết tượng Phật các chùa trong vùng về bày la liệt, rồi báo với quan rằng đó là chùa làng chứ không phải nhà Trần Đắc. Ngôi chùa đó nay chính là nhà thờ tổ nghề. Người cháu của Trần Đắc đi học nghề làm lược ở xa, nghe tin ông mình bị hại liền mai danh ẩn tích, trốn tránh một thời gian dài mới dám về làng. Lúc đầu, ông dạy dân làm lược tre, rồi chuyển sang làm lược gỗ, hình cong như múi bưởi. Cuối cùng, ông có sáng kiến hơ nóng sừng trước khi làm lược rồi ___________ 1. Trong chữ “Công”, ngoài chữ “Quốc”. 71 truyền bảo cho dân. Chiếc lược sừng làng Thụy Ứng từ đó không chỉ là vật dụng rất bền, rất tiện cho mọi người, mà còn trở thành một thứ hàng mỹ nghệ hoặc tác phẩm điêu khắc nghệ thuật. Truyền nghề xong, ông họ Trần lại rời quê hương ra đi. Có lẽ vì thế mà không ai còn nhớ được tên ông nữa. Nhớ ơn người đã đem nghề lược sừng độc đáo về cho riêng làng mình, người dân Thụy Ứng đã tôn ông họ Trần là tổ nghề. Hằng năm, vào ngày 15 tháng 2 và ngày 15 tháng 8 âm lịch, dù đi làm ăn ở xa, người Thụy Ứng đều tụ hội về quê hương làm lễ giỗ tổ. Người Thụy Ứng rất coi trọng nghề tổ và tổ nghề. Từ xa xưa họ đã có lời nguyền: dù túng thiếu đến đâu cũng không được bán đồ nghề và không dạy nghề tổ cho người ngoài. Cuộc sống mới hôm nay đã khác xưa, nghề lược sừng qua gần 4 thế kỷ không những phát triển ở làng Thụy Ứng, mà còn ở khắp mọi miền của Tổ quốc, nhưng dù ở đâu, người thợ cũng nhớ đến đất nghề và tổ nghề - ông họ Trần. 40. Lương Như Hộc, Phạm Niên, Phạm Đới - tổ nghề khắc ván in mộc bản Lương Như Hộc tên tự là Tường Phủ, người làng Hồng Liễu, huyện Trường Tân, phủ Hạ Hồng nay là xã Tân Hưng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Thám hoa năm 1442 thời vua Lê Thái Tông, làm quan trải qua các đời vua Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông. Hai lần đi sứ nhà Minh là hai lần Lương Như Hộc có điều kiện tìm hiểu và học cách khắc ván in của nước người. Nghề khắc ván in đã có từ lâu ở 72 nước ta, song công lao cải tiến để nghề trở nên tinh xảo và phát triển thuộc về Lương Như Hộc. Sau khi xem xét và nắm được những bí quyết nghề nghiệp của phương Bắc, ông cùng với hai người học trò là Phạm Niên và Phạm Đới về dạy lại cho các thợ Hồng Lục và Liễu Tràng. Nghề nghiệp ngày một phát triển lan sang cả thôn Khuê Liễu và các làng xung quanh. Từ đó, vùng này trở thành trung tâm khắc ván in của cả nước, kéo dài hàng mấy thế kỷ. Bộ Đại Việt sử ký toàn thư in lần đầu tiên vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697) là do thợ Hồng Lục và Liễu Tràng đảm nhận. Cuộc sống càng sung túc, dân làng lại càng nhớ ơn người đã đem lại nghề nghiệp cho mình. Mọi người tôn Lương Như Hộc và hai trò của ông là tổ nghề, lập đền thờ ở thôn Hồng Lục (tục gọi là đền Sình) để thờ phụng. Dân Liễu Tràng thờ ông vừa là Đương Cảnh thành hoàng vừa là tổ nghề. Hằng năm vào trung tuần tháng 8 âm lịch, dân 3 thôn tổ chức lễ giỗ tổ, ngày 13 Liễu Tràng cúng cơm, ngày 14 Hồng Lục tế lễ, ngày 15 Khuê Liễu hóa vàng. Vàng hóa ở ngôi quán đầu thôn Khuê Liễu gọi là quán Tam Dương (tên nôm là Quán Sếu). Nghi thức giỗ tổ đã được dân gian gói gọn trong câu thành ngữ từ bao đời "Liễu Tràng cúng cơm, Đình Sình làm giỗ, Quán Sếu đốt vàng". Nghề in bằng bản khắc gỗ phát triển kéo dài hàng mấy thế kỷ. Trước đây phường Kim Cổ ở Hà Nội (nay là phố Hàng Trống và Hàng Gai) có những hiệu: Phúc Văn Đường, Liễu Văn Đường, Quảng Văn Đường... chuyên 73 in những truyện thơ Nôm để bán. Đến khi chữ quốc ngữ xuất hiện cùng nghề in bằng chữ đúc rời thì nghề in bản gỗ bị thu hẹp lại, người ta chỉ dùng để in kinh, in thẻ trong chùa và in tranh dân gian ngày tết mà thôi. 41. Thái Luân - tổ nghề giấy Từ xưa ở Trung Quốc người ta vẫn coi Thái Luân, một viên quan nhỏ sống vào thời Đông Hán là người nghĩ ra cách làm giấy viết, vào khoảng năm 105 sau Công nguyên. Nhưng thực ra giấy đã có trước Thái Luân chừng 2 thế kỷ, Thái Luân chỉ là người đúc kết kinh nghiệm trong dân gian để làm ra giấy một cách quy mô. Ở Việt Nam không biết nghề làm giấy có từ bao giờ và tổ nghề là ai. Sách "Chỉ phả" (sự xuất hiện của các loại giấy) chép: tiếp thu kỹ thuật làm giấy của Trung Quốc, từ thế kỷ thứ III dân ta đã chế được nhiều loại giấy. Giấy bằng vỏ dó, bằng rêu biển, đặc biệt là loại giấy trầm hương chế bằng vỏ và lá cây trầm rất thơm và bền. Giấy màu trắng có vân như mắt cá lớn, bỏ xuống nước không nát1. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết năm 1435 thì nhận xét rằng: Đương thời phường Yên Thái chuyên làm giấy. Thợ ở đây có thể làm được “giấy thị”, “giấy lệnh”. Còn làng Nghĩa Đô chuyên làm giấy sắc ngà vàng vẽ rồng và mây gọi là "giấy long án". Như vậy là từ thế kỷ thứ III, ở nước ta đã biết cách làm giấy và vào thế kỷ XV, nghề giấy đã phát triển, ___________ 1. Xem Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, t.I, tr.98. 74 xuất hiện những trung tâm như Yên Thái, Nghĩa Đô, Cầu Giấy... Ngoài ra còn có một số làng có nghề làm giấy lâu đời như làng An Cốc, xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, có thể coi là một trong những làng gốc của nghề giấy. Một quyển sách chữ Nôm dân làng còn giữ được nói về cụ tổ nghề như sau: Mừng công nghề nghiệp khéo tay Khuôn phép ngày rày học được Thái Luân Chữ rằng nghề tinh thân vinh Nhờ ơn ngày trước Thái Luân học cùng. Ngoài cụ tổ nghề giấy Thái Luân mà làng tôn thờ, dân gian còn truyền lại có cụ tổ người Việt (không nhớ họ tên) người An Cốc đã học được nghề giấy từ Trung Quốc về truyền dạy cho dân ba làng: An Cốc, Yên Thái, Yên Hòa (Hà Nội). Người vùng Bưởi thì kể về tổ nghề giấy của mình như sau: không rõ ông từ đâu tới, chỉ biết đầu tiên ông tới làng Thượng Yên Quyết (tức Yên Hòa) dạy cho dân cách làm giấy nên gọi là làng Giấy. Vì không hài lòng với cách cư xử ở đây, nên ông tổ chỉ dạy cho dân cách dùng những đầu mẩu vỏ dó làm ra giấy thô, rồi bỏ sang làng Hồ Khẩu dạy dân cách làm giấy moi. Đến Đông Xã, ông dạy dân cách làm giấy quỳ vừa mỏng, vừa dai. Vào làng Yên Thái, ông dạy dân cả ba xóm Đông, Thọ, Đoài cách làm giấy lịch. Cuối cùng, ông sang Nghĩa Đô dạy cho họ Lại cách làm giấy sắc. Loại giấy này phải “nghè”, tức là dùng vồ đập vào giấy đắp trên đá cho nhẵn và bền, vì thế Nghĩa Đô còn có tên là làng Nghè. 75 Hằng năm, dân làng An Cốc làm lễ giỗ tổ nghề Thái Luân và cụ tổ người Việt vào ngày mùng 9, 10 tháng giêng, là ngày tổ nghề bỏ làng ra đi và không trở lại nữa. Còn dân các làng Hồ Khẩu, Yên Thái, Yên Hòa... thì lấy ngày 16 tháng 3 làm lễ giỗ tổ, đó là ngày tổ nghề từ biệt làng Nghĩa Đô ra đi. 42. Nguyễn Quý Trị - tổ nghề dát vàng quỳ Kiêu Kỵ Làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội vốn nổi tiếng từ lâu với nghề dát vàng quỳ và sơn son thếp vàng. Dân gian đã có câu: "Sống làm trai Bát Tràng, chết làm thành hoàng Kiêu Kỵ". Dân làng tôn Nguyễn Quý Trị là tổ nghề dát vàng quỳ vì ông đã dạy cho dân nghề này. Quỳ là một loại bột chế từ vàng thật, bạc thật. Người ta mua thứ giấy quỳ ở làng Đông Xã vừa mỏng vừa dai, rồi đem những lá vàng, bạc được dát mỏng, cắt thành những miếng vuông xếp vào giữa tờ giấy. Sau đó, lấy búa nện đều cho đến khi tan thành bột. Để trang trí các đồ thờ như ngai, kiệu, người thợ thổi bột vàng lên nền sơn lót, sơn thếp, đồ vật trở nên lóng lánh rực rỡ lạ thường. Cách làm này do Nguyễn Quý Trị chế ra từ thời Trần. Hiện nay ở Kiêu Kỵ vẫn còn đền thờ Nguyễn Quý Trị - ông tổ nghề dát vàng quỳ. 43. Cao Lỗ - tổ nghề cung nỏ Cao Lỗ là một tướng tài của Thục An Dương Vương. Xuất thân là một đô vật, ông được người đương thời mệnh danh là Đô Lỗ. Cao Lỗ có công lớn trong việc giúp vua Thục dựng xây cơ nghiệp, chọn kinh đô, xây 76 thành Cổ Loa, đặc biệt là đã chế ra loại nỏ liên châu và những mũi tên đồng nhiều cạnh. Truyền thuyết An Dương Vương được thần Kim Quy tặng nỏ thần, có lẽ là dựa vào sự thật là tướng quân Cao Lỗ chế được loại nỏ có sức mạnh siêu phàm mà tưởng tượng nên. Trên nền cũ của vùng thành Cổ Loa, tháng 7 - 1959, người ta đã đào được hàng vạn mũi tên đồng dài từ 6 đến 11cm có 2, 3 ngạch nhọn sắc, lại có chuôi để cắm vào đó, thân tên bằng tre. Cũng gần thành Cổ Loa còn tìm thấy những chiếc ống đồng dài có nhiều lỗ khoét trên thân, có thể đây là một bộ phận của nỏ thần Liên Châu bắn một phát ra nhiều mũi tên, do Cao Lỗ chế tạo. Điều này lại rất hợp với tục rước nỏ thần của dân chúng. Hằng năm vào ngày hội, dân làng rước một ống tre có nhiều lỗ, ở mỗi lỗ đặt một mũi tên và một chiếc lẫy bằng gỗ tượng trưng cho loại nỏ kỳ diệu của Cao Lỗ khi xưa. Hiện ở Cổ Loa còn di tích gò Đống Bắn, nơi dưới sự chỉ huy tài tình của tướng quân Cao Lỗ, chiếc nỏ thần đã buộc Triệu Đà phải sang cầu hòa. Sách Thủy kinh chú có chép: Sau khi cầu hòa, Triệu Đà dùng mưu cho con trai mình làm rể vua Thục, rồi tìm cách dèm pha. Kết cục, Cao Lỗ bị đuổi ra khỏi kinh thành, bí quyết nỏ thần bị đánh cắp. Nghe tin cha con vua Thục bị thua, Cao Lỗ vội vàng mang thủ hạ đến cứu, song không kịp. Cao Lỗ cùng em trai là Cao Tứ đã bỏ mình nơi chiến địa. Nhớ ơn ông, dân làng Đại Than (Gia Lương, Bắc Ninh), Hương Nghĩa (Hà Nội) đều lập đền thờ và tôn Cao Lỗ là ông tổ của nghề cung nỏ. 77 44. Trương Công Thành, Nguyễn Kim, Vũ Văn Kim - tổ nghề khảm trai Chuôn Ngọ - Trương Công Thành Làng Chuôn Ngọ, xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, Hà Nội từ lâu đã được khắp nơi biết đến vì có nghề khảm trai độc đáo. Dân làng thờ Trương Công Thành vừa là thành hoàng vừa là tổ nghề. Bản thần tích hiện lưu giữ ở đền thờ tổ cho biết: Trương Công Thành người phường Ngọ (thôn Ngọ, xã Chuyên Mỹ ngày nay), con ông Trương Huy và bà Trần Thị Ba. Ông sinh ngày mùng 9 tháng giêng (không rõ năm nào). Lớn lên đi thi, ông đỗ Thái học sinh rồi đỗ luôn khoa bác học hoành từ, được Lý Đạo Thành gả con gái là Lý Tố Nương cho. Ông làm quan thời vua Lý Nhân Tông giữ chức Thiêm sự doanh Vũ Đức. Sau Trương Công Thành theo Lý Thường Kiệt đi đánh Châu Ung và Châu Liêm thắng trận trở về, được ban thưởng tước hiệu là Phổ Quang bá tuấn. Đất nước thanh bình, ông treo ấn từ quan, ăn chay niệm Phật, đi ngao du sơn thủy để rộng đường thuyết giáo. Thời gian rảnh rỗi, ông thu thập những mảnh trai, ốc đẹp khảm vào đồ thờ cúng rồi dạy cho dân cách làm. Từ đó, dân làng Ngọ có nghề, đời sống ngày một thịnh vượng. Ngày mùng 9 tháng 8 ông hóa tại am Hương Hải. Nhớ đến công tích Trương Công Thành, vua cho dân phường Ngọ làm hộ nhi (trông nom việc thờ tự), miễn cho dân mọi phu phen tạp dịch và thuế má để lo việc đèn hương, lại cho thêm 500 quan tiền để dân xây đền phụng thờ ông mãi mãi. Hiện nay ở làng Chuôn Ngọ vẫn còn ngôi đình 78