🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quốc Gia Học Tập: Học Tập Công Nghệ, Chính Sách Công Nghiệp Và Bắt Kịp Thành Công
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:
ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. TRỊNH THỊ NGỌC QUỲNH TRẦN PHAN BÍCH LIỄU ĐƯỜNG HỒNG MAI
PHẠM THU HÀ
PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT TRỊNH THỊ NGỌC QUỲNH NGUYỄN VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1459-2021/CXBIPH/7-12 /CTQG. Số quyết định xuất bản: 303-QĐ/NXBCTQG, ngày 11/5/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 5 năm 2021
Mã số ISBN: 978-604-57-6780-1.
HOW NATIONS LEARN:
Technological Learning, Industrial Policy, and Catch-up First Edition published 2019
© Oxford University Press 2019
ISBN 978-0-19-884176-0
QUỐC GIA HỌC TẬP:
Học tập công nghệ, chính sách công nghiệp và bắt kịp thành công Xuất bản lần đầu năm 2019 tại Vương quốc Anh
Bản quyền tiếng Việt © Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, 2020. Không một phần nào của ấn phẩm này được sao chép, được lưu trữ trong hệ thống truy xuất, hoặc được truyền đi, dưới bất kỳ hình thức nào hoặc bằng bất kỳ phương tiện nào, điện tử, cơ học,
sao chép, ghi âm hoặc bằng cách khác, mà không có sự cho phép trước của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.
3
“Cuốn sách này nghiên cứu cách thức các nền kinh tế phát triển muộn kiến tạo khung chính sách và chiến lược nhằm thúc đẩy động lực học tập của các tổ chức kinh doanh, từ đó nâng cao năng lực sản xuất và tăng cường tính năng động của đổi mới sáng tạo. Những kinh nghiệm chuyển đổi trong cuốn sách này cung cấp cho người đọc những cách tiếp cận đa chiều trong việc tổ chức và vận dụng việc học tập để từ đó các quốc gia có thể xây dựng một cấu trúc hiệu quả cũng như xây dựng lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới”.
Michael H Best, Giáo sư trường Emeritus,
tác giả cuốn sách How Growth Really Happens: The Making of Economic Miracles through Production, Governance and Skills, chủ nhân giải thưởng Schumpeter năm 2018.
“Các nghiên cứu về phát triển và quá trình bắt kịp đã chuyển hướng từ việc giải quyết các bài toán tối ưu hóa việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế sang hướng tăng cường quá trình học tập và tích tụ năng lực. Đây là một đóng góp quan trọng của cuốn sách: Và là “một cái đinh nữa đóng vào quan tài” của hệ thống chính sách “Đồng thuận Washington””.
Giovanni Dosi, Giáo sư kinh tế,
Scuola Superiore Sant’ Anna, Pisa, Italy.
“Công nghiệp hóa đã luôn là bước căn bản để phát triển kinh tế bền vững. Quá trình này cũng phân hóa nền kinh tế thế giới thành nhóm các nước thu nhập cao và các nước thu nhập thấp. Để đạt được sự phát triển bao trùm, toàn diện, chúng ta rất cần phải hiểu cuốn sách Quốc gia học tập. Các chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo của nhà nước không chỉ là điều kiện tiên quyết cho quá trình bắt kịp, mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu (thông qua việc tăng cường vai trò của các doanh nghiệp
4
khởi nghiệp, khuyến khích thử nghiệm và bảo đảm lợi ích cộng đồng). Thông qua việc tìm hiểu những bài học phát triển khoa học công nghệ của các nước châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, cuốn sách này là một nghiên cứu có giá trị cao về các chính sách phát triển công nghiệp”.
TS. Alice Evans, Giảng viên về Phát triển quốc tế,
King’s College London.
“Quốc gia học tập là một cuốn sách viết trên những ý tưởng lớn. Tại sao một số quốc gia phát triển nhanh hơn các quốc gia khác? Cơ chế để các quốc gia bắt kịp về tăng trưởng là như thế nào? Cơ chế học tập về công nghệ của doanh nghiệp có điểm nào giống với việc học hỏi về chính sách của nhà nước? Câu trả lời cho những vấn đề trên thay đổi như thế nào trong bối cảnh cụ thể của các nước, các khu vực khác nhau trên thế giới? Cuốn sách đã đưa ra lời giải cho những vấn đề trên từ lý luận của các học giả hàng đầu trên thế giới với kinh nghiệm thực tế trong quá khứ và cả hiện tại. Quốc gia học tập là cẩm nang định hướng phát triển trong thế kỷ XXI, đặc biệt hữu ích đối với các quốc gia đang phát triển và những quốc gia đang gặp phải trở ngại trong việc phát triển mất cân bằng”.
Gary Gereffi, Giáo sư xã hội học,
Giám đốc Trung tâm Chuỗi giá trị toàn cầu, Đại học Duke.
“Đây là cuốn sách quan trọng nhất của Arkebe Oqubay and Kenichi Ohno về cách thức học tập để bắt kịp sự phát triển. Cuốn sách tập trung vào cách thức doanh nghiệp, cũng như các nhà hoạch định chính sách học tập, thông qua vừa học vừa làm, thi đua, thử nghiệm, đổi mới sáng tạo và đi tắt đón đầu. Một lượng lớn kinh nghiệm trong quá khứ của các doanh nghiệp, ngành kinh tế, quốc gia được đúc rút thành các yếu tố tiên quyết cho sự thành công của quá trình học tập để bắt kịp và tận dụng lợi thế của người
5
đi sau. Cuốn sách này cũng đưa ra các gợi ý về cường độ, tốc độ, định hướng và nội dung học tập, bên cạnh việc nhấn mạnh về ý nghĩa của việc xây dựng các chính sách công nghiệp bền vững và có tầm nhìn chiến lược dài hạn”.
Jomo Kwame Sundaram, Giáo sư đã nghỉ hưu,
Trợ lý Tổng Thư ký Liên hợp quốc, chủ nhân giải thưởng Leontief năm 2008.
“Sử dụng nguồn lực hạn chế của các nước đang phát triển để bắt kịp với các nước phát triển luôn là vấn đề nóng của phát triển kinh tế quốc tế trong những thập kỷ qua. Giáo sư Oqubay và Ohno đã tập hợp một loạt những nghiên cứu tuyệt vời để trả lời cho những câu hỏi liên quan tới việc thành bại trong bắt kịp: làm thế nào để doanh nghiệp học tập công nghệ ở cấp doanh nghiệp, ngành kinh tế và quốc gia, từ đó giúp quốc gia bắt kịp?, và hơn thế nữa, thất bại trong việc học tập sẽ dẫn tới sự phân hóa như thế
nào? Cuốn sách không chỉ đánh giá những bài học thành công của Nhật Bản dưới thời Minh Trị, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và gần đây nhất là Trung Quốc, mà còn nêu rõ những thách thức mà các khu vực phải đối mặt, đặc biệt là khu vực Mỹ Latinh và châu
Phi. Đây là một cuốn sách phải có của các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà nghiên cứu”.
José Antonio Ocampo, Thành viên
của Hội đồng Banco de la República (Colombia),
Chủ tịch Ủy ban Chính sách phát triển của Liên hợp quốc, Giáo sư trường Đại học Columbia.
“Trong khi còn rất nhiều tranh cãi trong việc xác định một chiến lược tối ưu cho phát triển, các nghiên cứu hầu hết đều thống nhất về tầm quan trọng của việc phát triển các chính sách công nghiệp và đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, không có nhiều nghiên cứu
6
về việc thực hiện nó như thế nào. Trong số ít sách được xuất bản, phần lớn là nghiên cứu cho một khu vực, một nền kinh tế cụ thể và cũng hạn chế trong phạm vi nghiên cứu và thường chỉ gói gọn nghiên cứu theo một lý thuyết duy nhất. Ngược lại, cuốn sách này đã kịp thời đưa tới những cái nhìn sâu sắc và những phân tích toàn diện về tính động của quá trình học tập. Những nghiên cứu trong cuốn sách đa dạng về lý thuyết, bao trùm nhiều khu vực địa lý và đa chiều trong phân tích. Cuốn sách cũng đưa ra những đánh giá về việc làm thế nào để các quốc gia phát triển được những nguồn lực chiến lược và vượt qua những trở ngại phát triển mang tính lịch sử. Đây là một đóng góp đáng khích lệ trong nghiên cứu chính sách”.
Howard Stein, Giáo sư,
khoa Nghiên cứu châu Phi, châu Mỹ và dịch tễ, Đại học Michigan.
“Bắt kịp về phát triển kinh tế đòi hỏi cả sự học tập và không học tập về chính sách và công nghệ. Đồng thời, quá trình này cũng đòi hỏi tính kỷ luật và sự quyết tâm. Các tác giả của cuốn sách Quốc gia học tập đã tập hợp nghiên cứu của một nhóm các nhà nghiên cứu, chia sẻ những gì họ học tập được qua nhiều giai đoạn lịch sử, trên nhiều vùng lãnh thổ, về quá trình học tập công nghệ của doanh nghiệp, học tập chính sách và phát triển năng lực của
các quốc gia. Đây là một nguồn tri thức quý giá cho những ai quan tâm tới những bài học lịch sử được ứng dụng một cách khéo léo để giải quyết những thách thức đương thời về phát triển”. D. Hugh Whittaker, Giáo sư
về Kinh tế Nhật Bản và kinh doanh, Đại học Oxford.
8 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
B
9
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
ước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế toàn cầu đứng trước thời cơ mới, nhân loại đang từng bước sử dụng tri thức cho phát triển và đang hình thành
nền kinh tế dựa vào tri thức, sử dụng nhanh và gần như trực tiếp các thành tựu của khoa học công nghệ vào phục vụ sản xuất, đời sống. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng thành công trong việc sử dụng tri thức từ quá trình học tập để bắt kịp xu hướng phát triển chung, vẫn còn những quốc gia bị tụt lại phía sau. Sự thay đổi về kinh tế, xã hội và chính trị trong bối cảnh toàn cầu của thế kỷ XXI đã làm cho quá trình học tập và bắt kịp công nghệ, chính sách công nghiệp của các quốc gia diễn ra phức tạp hơn, đặc biệt đối với các quốc gia đi sau trong quá trình công nghiệp hóa và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Nhằm mang đến cho các nhà lãnh đạo, nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học nói riêng và bạn đọc nói chung có cái nhìn bao quát, toàn diện về quá trình học tập và bắt kịp thành công của một số nền kinh tế trên thế giới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Quốc gia học tập: Học tập công nghệ, chính sách công nghiệp và bắt kịp thành công (How Nations Learn: Technological Learning, Industrial Policy, and Catch - up). Cuốn sách do TS. Hà Minh Hiệp, chuyên gia nghiên cứu một số dự án, chương trình năng suất và sản xuất thông minh của Tổ chức Năng suất châu Á (APO), dịch từ nguyên bản tiếng Anh của tác giả Arkebe Oqubay và Kenichi Ohno, được Nhà xuất bản Đại học Oxford ấn hành năm 2019.
Bên cạnh bài giới thiệu và kết luận, cuốn sách gồm 3 phần chính với 12 bài nghiên cứu ở một số quốc gia, khu vực, ngành, lĩnh vực riêng. Phần I đề cập bối cảnh chung, các xu hướng phát triển trên thế giới, tác động của các quan điểm, tư tưởng về kinh tế đối với việc bắt kịp trong 7 thập kỷ qua; đánh giá bản chất đối với việc học tập và bắt kịp công nghệ ở các quốc gia
10 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
Đông Á và bài học cho các quốc gia đi sau. Phần II giới thiệu kinh nghiệm học tập thành công ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ với các đặc điểm địa lý, vùng miền, cách thức học tập, bắt kịp riêng như: Nhật Bản dưới thời Minh Trị, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore. Phần III tổng quan kinh nghiệm của các quốc gia bị mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình dù đã nỗ lực thực hiện giai đoạn công nghiệp hóa ban đầu, cũng như các quốc gia đi sau bị tụt hậu về việc học tập và bắt kịp công nghệ (như các quốc gia kém phát triển ở châu Phi, Mỹ Latinh) và các chính sách, chiến lược thúc đẩy học tập ở một số quốc gia Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam); đồng thời, xem xét một số trường hợp học tập và bắt kịp ở cấp độ doanh nghiệp như Hãng hàng không Ethiopia, ở cấp độ ngành, lĩnh vực, tiêu biểu như ngành trồng hoa và xi măng của Ethiopia...
Qua kinh nghiệm của từng quốc gia, khu vực, các tác giả nhấn mạnh rằng: không có một công thức chung để học tập và phát triển cho tất cả các quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ tìm ra các giải pháp khác nhau, trong những thời điểm khác nhau, cho cùng một vấn đề. Sử dụng dẫn chứng và kinh nghiệm lịch sử cũng như từ các doanh nghiệp, ngành và cấp quốc gia để xác định cơ sở và quá trình điều khiển của việc học tập và bắt kịp thành công là bài học cho các quốc gia đi sau. Sự kết hợp của đa dạng các trường hợp và kinh nghiệm quốc gia, cùng chuyên môn của các nhà nghiên cứu sẽ là những đóng góp độc đáo, tiêu biểu về động lực học tập và bắt kịp của cuốn sách này.
Cuốn sách được biên soạn, tổng hợp từ các công trình nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực và nhiều quốc gia khác nhau, do đó khó tránh khỏi việc tồn tại những ý kiến, quan điểm khác nhau của các học giả. Mặc dù người biên dịch và hiệu đính cùng với Ban biên tập đã hết sức cố gắng trong quá trình biên dịch, hiệu đính, biên tập, song khó tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản sau.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
11
LỜI GIỚI THIỆU
CỦA THƯỢNG TƯỚNG, PGS.TS. NGUYỄN VĂN THÀNH*
T
ừ lịch sử kinh tế thế giới và từ các quan sát thực nghiệm có thể nhận ra, sự tiến bộ và phát triển của các quốc gia trong nền kinh
tế toàn cầu có liên quan đến cách thức quốc gia học tập và cụ thể hơn là với các quá trình học hỏi công nghệ, chính sách công nghiệp và bắt kịp. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: tại sao một quốc gia đạt được sự “kỳ tích trong tăng trưởng” trong khi những quốc gia khác lại thất bại? Và triển vọng học tập và bắt kịp thành công của các quốc gia trong thế kỷ XXI là gì? Cuốn sách Quốc gia học tập: Học tập công nghệ, chính sách công nghiệp và bắt kịp thành công (How Nations Learn: Technological Learning, Industrial Policy, and Catch-up) của các học giả nổi tiếng Arkebe Oqubay và Kenichi Ohno, do Nhà xuất bản Đại học Oxford xuất bản lần đầu năm 2019, đã trả lời cho những câu hỏi đó.
Cuốn sách xem xét khía cạnh lý thuyết cũng như từ thực tiễn của các nền kinh tế khác nhau, trong các thời kỳ khác nhau, tập trung hơn vào giai đoạn cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI. Cuốn sách đề cập quá trình học tập và bắt kịp của một số quốc gia và vùng lãnh thổ tiêu biểu trên thế giới với xuất phát điểm, nguồn tài nguyên, lịch sử, năng lực thể chế, văn hóa... khác nhau như: Nhật Bản học tập bằng cách tiếp thu có chọn lọc công nghệ và bí quyết từ công nghệ lõi của các quốc gia phương Tây, _______________
* Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an.
12 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
biến chúng thành công nghệ và bí quyết của Nhật Bản; Đài Loan chuyển từ công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu trong những năm 1950, thông qua thúc đẩy xuất khẩu và nâng cấp trong những năm 1960-1970, tham gia lĩnh vực công nghệ cao từ những năm 1980, sau đó là tự do hóa và toàn cầu hóa, ưu tiên sự ổn định so với tăng trưởng, tránh xa việc theo đuổi các mục tiêu chiến lược có rủi ro cao; Hàn Quốc là một quốc gia đi sau đã chuyển đổi thành công từ một nước nhập khẩu công nghệ sang một quốc gia sản xuất công nghệ, các tổ chức ở Hàn Quốc chỉ bắt đầu tiến hành R&D nội bộ vào giữa những năm 1980 sau khi trải qua thời gian học tập, đồng hóa và thích nghi với công nghệ nước ngoài; hay Trung Quốc là ví dụ gần đây nhất về việc bắt kịp thành công, minh họa cho sự vươn lên từ một quốc gia nghèo trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, bằng việc kết hợp học tập công nghệ và học tập chính sách, lan tỏa công nghệ với ngành xuất khẩu, biến lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh; Singapore là một quốc đảo có ít tài nguyên thiên nhiên và dân số nên để học tập, phát triển, quốc gia này tập trung vào việc xây dựng thể chế và bộ máy trong sạch là quốc gia liên tục đứng đầu bảng xếp hạng những quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới; trong khi đó, một số quốc gia Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) xác định việc tích lũy vốn và chỉ số tăng trưởng TFP là những động lực quan trọng để bắt kịp mặc dù vẫn thiếu các nỗ lực chiến lược đã là một trở ngại đáng kể ở một số quốc gia trong khu vực này; ở châu Phi, khi xem xét đến học tập và bắt kịp công nghệ ở cấp độ rộng, nghiên cứu điển hình nhất là Hãng hàng không Ethiopia, chuyển đổi từ một hãng hàng không nội địa đơn giản thành một ngành hàng không năng động, cạnh tranh quốc tế, một ngành mà các nhà kinh tế chính thống tiềm
LỜI GIỚI THIỆU... 13
năng thời đó từng cho rằng không phù hợp với lợi thế so sánh của quốc gia châu Phi này...
Thông điệp chung xuyên suốt cuốn sách là “one-size-does-not fit-all”, tức là có nhiều con đường khác nhau để phát triển chứ không phải chỉ có một con đường duy nhất, và vì thế, sẽ không có tiêu chuẩn chung để học tập và bắt kịp công nghệ, chính sách công nghiệp cho tất cả các quốc gia. Việc vận dụng các bài học kinh nghiệm về chính sách và chiến lược của quốc gia đối với một quốc gia khác cần được phân tích sâu sắc, thận trọng bởi vì mỗi quốc gia đều có đặc điểm riêng về địa lý, chính trị, lịch sử, và kinh tế - xã hội khác nhau. Có thể thấy rằng, việc học tập và bắt kịp thành công là một sự phức hợp và có tính chất tích lũy lâu dài và nhiều mặt.
Tôi rất ấn tượng với cuốn sách này và muốn giới thiệu tới các nhà lãnh đạo, nhà quản lý quốc gia, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách, là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập công nghệ; hoạch định chính sách công nghiệp ở cấp độ quốc gia, ngành và từng địa phương.
Hà Nội, tháng 11 năm 2020
Thượng tướng, PGS.TS. Nguyễn Văn Thành
14 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
15
LỜI TỰA
Q
uá trình học tập của các quốc gia phải được đặt trong bối cảnh lịch sử, vì nhiều vấn đề trong hiện tại cũng là những vấn đề trong quá khứ, và có rất nhiều bài học chúng ta có thể rút ra từ quá khứ.
Cho tới những năm 1750, các quốc gia ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh là những nước tới nay vẫn được gọi là các nước đang phát triển, chiếm tới 3/4 dân số thế giới và hơn 2/3 tổng thu nhập toàn cầu. Trong số đó, chỉ tính riêng các nước châu Á đã chiếm tới 3/5 tổng dân số và thu nhập toàn cầu. Trung Quốc và Ấn Độ chiếm
khoảng 1/5 dân số và thu nhập thế giới. Hai quốc gia châu Á này đóng góp tới 57% tổng sản lượng công nghiệp và thậm chí phần đóng góp trong tổng xuất khẩu công nghiệp còn lớn hơn. Hai thế kỷ tiếp theo, thế giới đã chứng kiến sự thay đổi lớn. Giữa những năm 1820-1950, theo tỷ giá tương đương sức mua PPP, phần đóng góp vào tổng thu nhập toàn cầu của các nước ở châu Á, châu Phi,
Mỹ Latinh giảm từ 2/3 xuống còn 1/4, trong khi phần đóng góp của các nước ở châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản vào tổng thu nhập toàn cầu tăng từ 1/3 lên 3/4. Sự trỗi dậy của các nước phương Tây chủ yếu từ các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và kế đến là Nhật Bản, trong
khi sự suy giảm của khu vực còn lại của thế giới chủ yếu tập trung ở châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, dù trong giai đoạn này, khu vực Mỹ Latinh là một ngoại lệ rõ ràng.
16 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
Sự thay đổi về trật tự kinh tế quốc tế cũng đã làm biến đổi cục diện về cán cân sức mạnh về kinh tế và chính trị trên thế giới. Có ba nguyên nhân chính dẫn tới những thay đổi này. Thứ nhất là, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ở Anh vào cuối thế kỷ XVIII, và sau đó lan rộng ra các nước Tây Âu, mặc dù với tốc độ chậm trong những năm đầu thế kỷ XIX. Thứ hai là, sự trỗi dậy của chủ nghĩa thực dân mới dưới một hình thức khác vào những năm đầu thế kỷ XIX, mà đỉnh điểm là sự ra đời của chủ nghĩa đế quốc và phát triển cao trong suốt thế kỷ này. Thứ ba là, cuộc cách mạng trong giao thông và công nghệ thông tin vào giữa thế kỷ XIX. Sự phát triển của đường sắt, tàu hơi nước, điện tín đã làm giảm khoảng cách cả về địa lý và thời gian. Ba yếu tố này xuất hiện đồng thời và bổ trợ lẫn nhau, làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt phát triển kinh tế thế giới thông qua việc phát triển các hình thức chuyên
môn hóa trong sản xuất, phân công lao động, tăng cường thương mại và đầu tư cùng với sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc trong chính trị.
Tất cả những yếu tố trên đã tạo ra sự “phân hóa lớn” trong thu nhập bình quân đầu người của thế giới. Giữa những năm 1820-1950, so với GDP bình quân đầu người ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, GDP bình quân đầu người của châu Á giảm từ một nửa xuống còn chỉ bằng 1/10; các nước châu Phi giảm từ 1/3 xuống 1/7; chỉ có khu vực Mỹ Latinh là giảm ít hơn, từ 3/5 xuống còn 2/5. Giai đoạn này cũng là giai đoạn “chuyên môn hóa lớn”, khi mà các nước Tây Âu và kế đến là Mỹ, Nhật Bản tập trung sản xuất các sản phẩm công nghiệp trong khi các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh chủ yếu cung cấp nông sản và khoáng sản thô. Trong giai đoạn 1830-1913, sản xuất công nghiệp của các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh tập trung vào châu Á, cụ thể là Trung Quốc và Ấn Độ, giảm từ 60% xuống còn 7,5% tổng giá trị công nghiệp thế giới, trong khi
LỜI TỰA 17
phần đóng góp của các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản tăng từ 40% lên 92,5%1. Quá trình này cũng dẫn tới sự phá sản của các ngành công nghiệp truyền thống ở châu Á, chủ yếu là ở Trung Quốc và Ấn Độ, và qua thời gian dẫn tới sự suy giảm về kỹ năng và năng lực công nghệ của các nước này. Công nghiệp hóa ở các nước Tây Âu và phi công nghiệp hóa ở các nước châu Á trong thế kỷ XIX có thể nói là hai mặt của một vấn đề.
Những năm cuối thế kỷ XX, bắt đầu từ những năm 1990, lại chứng kiến sự thay đổi ngược lại với sự gia tăng mạnh mẽ vai trò của các nước đang phát triển trong kinh tế toàn cầu. Từ năm 1990 đến năm 2015, đóng góp của các nền kinh tế đang phát triển vào GDP toàn cầu, tính theo giá hiện hành và tỷ giá hối đoái trên thị trường, tăng từ 1/6 lên 2/5. Đóng góp của các nước này vào giá trị gia tăng công nghiệp thế giới cũng tăng từ 1/6 lên gần 1/2. Cùng với đó là sự sụt giảm về vai trò của các nền kinh tế phát triển trong kinh tế toàn cầu2. Có thể nói, tới năm 2030, vai trò của các nước đang phát triển hoàn toàn có khả năng quay trở lại mức của những năm 1820. Quá trình bắt kịp cho tới nay chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội, công nghiệp hóa và mở cửa với thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những thành tựu kinh tế ấn tượng này là bức tranh vĩ mô và ẩn chứa sau nó rất nhiều vấn đề. Chênh lệch trong tốc độ phát triển dẫn tới bất bình đẳng trong thu nhập. Bắt kịp chỉ diễn ra chủ yếu ở châu Á, và tập trung vào một số nước, ví dụ như các nước trong nhóm BRIC và một số ít quốc gia châu Á. Mặc dù quá trình phân hóa thu nhập bình quân đầu người đã chững lại, nhưng tốc độ bắt kịp với các nước phát triển còn thấp và chỉ diễn ra ở một số nước. Phát triển kinh tế đã góp phần đáng kể _______________
1. Số liệu trong đoạn này được lấy từ bài viết của Deepak Nayyar: Catch up: Developing Countries in the World Economy, Oxford University Press, Oxford, 2013. 2. Theo tính toán của Liên hợp quốc, phòng phân tích tài khoản quốc gia.
18 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
vào việc xóa đói giảm nghèo ở phần lớn các nước đang phát triển. Tuy nhiên, đói nghèo vẫn còn là vấn đề trên diện rộng. Bất bình đẳng trong thu nhập ở mỗi quốc gia cũng gia tăng nhanh chóng. Đồng thời cũng xuất hiện sự phân hóa giữa các quốc gia. Tuy nhiên, dù còn chưa đồng đều và bất bình đẳng, nhưng bắt kịp là có thật. Và đây cũng có thể là động lực quyết định thay đổi lịch sử kinh tế thế giới.
Trong lịch sử nghiên cứu kinh tế thế giới, lý thuyết về bắt kịp của các quốc gia phát triển muộn được Veblen đưa ra khi nghiên cứu sự phát triển của Đức, tiếp theo sau sự phát triển của Anh1. Veblen cũng đưa ra lý thuyết về ‘bất lợi của nước đi đầu’ đối với Anh. Khái niệm này được Alexander Gerschenkron khái quát hóa thành ‘lợi thế tương đối của nền kinh tế phát triển sau’, khi đánh giá kinh nghiệm của các nước phát triển sau như Liên bang Nga, và sau này là của Pháp, Italy và Áo2. Giả thuyết được đưa ra như sau. Phát triển kinh tế sau, so với các nước khác, sẽ tạo ra áp lực giữa mức tụt hậu trong thực tế và những lợi ích tiềm năng khi phát triển. Khoảng cách này sẽ tạo ra động lực kinh tế cho quá trình bắt kịp trong khi những cải cách chính trị tạo điều kiện cho những đổi mới về thể chế. Khoảng cách với các nước đi trước càng lớn thì động lực đi tắt, đón đầu càng mạnh. Khi đó, những can thiệp của nhà nước sẽ tạo ra những điều kiện ban đầu để phát triển, bù đắp những hạn chế về nguồn lực như nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao, kỹ năng lập doanh nghiệp và khoa học công nghệ. Càng tụt hậu, các nước này càng cần sự can thiệp sâu của nhà nước. Huy động vốn tiết kiệm cho đầu tư là vô cùng quan trọng. Ở Nga,
_______________
1. Thorstein Veblen: Imperial Germany and Industrial Revolution, Macmillan, London, 1915.
2. Alexander Gerschenkron: Economic Backwardness in Historical Perspective, Harvard University Press, Cambridge, MA, 1962.
LỜI TỰA 19
nhà nước trực tiếp tham gia vào quá trình này, trong khi ở Đức, việc huy động vốn chủ yếu được thực hiện thông qua việc kiến tạo một hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính phát triển. Các nước cũng được hưởng lợi khi học hỏi kinh nghiệm từ những bài học thất bại của các quốc gia phát triển trước đây. Chính vì thế các nước đi sau thường có những giai đoạn phát triển nhanh và trong nhiều trường hợp là phát triển đột biến. Rõ ràng, mô hình phát triển này cũng còn nhiều hạn chế, nhưng sự phổ biến của nó trong lịch sử phát triển cho phép chúng ta rút ra được nhiều bài học trong việc phối hợp hệ tư tưởng và thể chế, kinh tế và chính trị, những bài học sẽ giúp ích cho các nền kinh tế đi sau trong quá trình phát triển.
Có thể thấy học tập từ quá khứ là một phần rất quan trọng để hiểu một quốc gia cần học tập như thế nào. Các bài học kinh nghiệm về lịch sử và lý thuyết đều là nền tảng cho thành công của việc học tập để phát triển công nghiệp hóa phụ thuộc vào việc kết hợp sáng tạo giữa vai trò của nhà nước và thị trường. Không chỉ dựa vào sự phát triển tự do của thị trường, hai yếu tố nhà nước và thị trường cần có điều chỉnh cho nhau phù hợp với từng thời điểm, từng hoàn cảnh cụ thể, để phát triển cân bằng và bổ trợ cho nhau.
Có nhiều bài học rút ra từ kinh nghiệm bắt kịp của các quốc gia trong quá trình dẫn dắt các quốc gia đi sau phát triển và công nghiệp hóa. Trước hết, có nhiều con đường khác nhau để phát triển chứ không phải chỉ có một con đường duy nhất, và vì thế, sẽ không có một cách thức phát triển phù hợp với mọi quốc gia. Sẽ cần có những quyết định mang tính chiến lược khi lựa chọn mô hình phát triển, mỗi lựa chọn sẽ bao hàm những cách kết hợp khác nhau giữa nhà nước và thị trường hay giữa việc để chính sách mở
và can thiệp. Việc lựa chọn chính sách phát triển chú trọng vào phát triển thị trường nội địa hay thị trường quốc tế, tận dụng tài
20 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
nguyên hay công nghệ cũng cần phụ thuộc vào điều kiện và đặc điểm cụ thể của từng nước và đó là tổng hòa phức tạp của các yếu tố về kinh tế, xã hội, chính trị trong bối cảnh quốc gia và lịch sử cụ thể. Thứ hai, phát triển là tăng cường khả năng sản xuất của nền kinh tế. Điều này đòi hỏi sự nâng cấp và đa dạng hóa về công nghiệp cũng như phát triển khả năng đổi mới sáng tạo - yếu tố cơ bản để phát triển công nghiệp bền vững. Thứ ba, một xã hội phát triển toàn diện sẽ không chỉ giúp tăng trưởng kinh tế bền vững, mà còn tạo ra sự phát triển có ý nghĩa, mang lại phúc lợi cho người dân. Quá trình bắt kịp diễn ra liên tục do tăng trưởng nhanh là yếu tố cần nhưng chưa đủ để giảm bất bình đẳng trong các nước cũng như giữa các quốc gia trên thế giới. Nhưng quá trình bắt kịp này sẽ là không bền vững nếu quá trình bắt kịp không làm giảm sự bất bình đẳng giữa các quốc gia1.
Không phải là quốc gia mà chính là các doanh nghiệp, các tổ chức, chính phủ và người dân học tập trong quá trình phát triển. Cho dù như thế, quốc gia học tập sẽ mang lại hiệu quả lớn hơn nhiều so với tổng lợi ích từ việc học tập của các đối tượng trong quốc gia. Việc học tập diễn ra ở cấp độ vi mô, ngành và quốc gia. Ở cấp độ vi mô, học tập chủ yếu thông qua giáo dục, khi hệ thống đào tạo ở các trường phổ thông tạo ra nền tảng cơ bản và hệ thống đào tạo sau phổ thông cung cấp kiến thức chuyên sâu. Ở cấp độ này chất lượng giáo dục cũng cần được coi trọng như tính phổ biến và rộng khắp của giáo dục. Ở cấp độ ngành, quá trình học tập chủ yếu là nhằm nuôi dưỡng khả năng quản lý cho các cá nhân và năng lực công nghệ của doanh nghiệp. Ở cấp độ vĩ mô, đây sẽ là năng lực _______________
1. Lý luận này được phát triển, ở mức độ nhất định, bởi tác giả của bài viết “Can catch up reduce inequality” trong Peter van Bergeijk và Rolph van der Hoeven (eds): Substainable Development Goals and Income Inequality, Edward Elgar, Cheltenham, 2017.
LỜI TỰA 21
sản xuất và công nghệ của quốc gia, là kết quả tổng hòa của các sáng kiến, tăng cường năng lực, thay đổi cơ cấu, trong đó những chính sách can thiệp của nhà nước đóng một vai trò quan trọng mang tính chiến lược.
Trước đây cũng chưa có nhiều nghiên cứu nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc học hỏi các kinh nghiệm trong quá khứ. Mọi người đều đồng ý là cần sửa lại những sai lầm trong quá khứ. Nhưng bên cạnh đó, cũng cần nhấn mạnh khía cạnh về việc không học tập từ những kinh nghiệm trong quá khứ. Đó là việc đặt ra những nghi vấn về những quan niệm được coi là truyền thống và tìm ra những cái mới. Hầu hết mọi người không nghĩ đến khía cạnh này. Tuy nhiên, đây cũng là một phần rất quan trọng để hiểu bản chất và phát triển từ ý tưởng tới kết quả thực tế, từ hệ tư tưởng tới chính trị, trong bối cảnh rộng hơn của phát triển. Những người thuộc hệ tư tưởng lớn đặt nghi vấn vào chính hệ tư tưởng của họ. Đây cũng có nghĩa là sự nhượng bộ trong không gian chính trị và tri thức. Hơn nữa, những nỗ lực để không học tập trong phát triển thường rất ít và rời rạc do đòi hỏi nhiều về đổi mới trong suy nghĩ và những giả định ban đầu. Và vì vậy, không hề ngạc nhiên khi những người thuộc hệ tư tưởng không chính thống thường là những người tiên phong trong học tập và cả không học tập. Điều này cũng có nghĩa họ là những đối tượng phát triển trong không gian tri thức và chính trị1. Chính vì thế, nghiên cứu các quốc gia học tập như thế nào cần phải xem xét cả quá trình không học tập, xem đó là một phần quan trọng không kém việc học tập.
_______________
1. Phân tích chi tiết hơn về đề tài này có thể tìm thấy trong Deepak Nayyar, “Learning to Unlearn from Development”, Oxford Development Studies, 2008, 36(3): 259-80.
22 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
Đây là cuốn sách đặc biệt, nghiên cứu một lĩnh vực chưa được khám phá, với mục tiêu tìm hiểu các quốc gia học tập như thế nào1. Cuốn sách xem xét khía cạnh lý thuyết cũng như các bài học thực tế từ các quốc gia khác nhau, trong các thời kỳ khác nhau, tập trung hơn vào giai đoạn cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI. Cuốn sách đã tổng kết những nghiên cứu trong quá khứ về các vấn
đề trọng yếu như: quá trình học tập của các quốc gia đi sau; phát triển năng lực khoa học công nghệ; kinh nghiệm bắt kịp ở các cấp độ khác nhau (doanh nghiệp, ngành, nền kinh tế); tầm quan trọng của việc học tập từ lịch sử; quá trình học tập chính sách của các chính phủ; và thúc đẩy quá trình học tập trong doanh nghiệp cũng như chính phủ, trong các quốc gia đã và đang tụt hậu và mắc phải bẫy thu nhập trung bình.
Nội dung của cuốn sách rất mới với cách tiếp cận khác biệt. Phần đầu của cuốn sách đưa ra cái nhìn tổng quan về phát triển kinh tế toàn cầu, vai trò chiến lược của nhà nước và những yếu tố quyết định trong quá trình học tập công nghệ. Phần thứ hai bao gồm các chương về Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc và Singapore, đưa ra những phân tích về kinh nghiệm từ những câu chuyện thành công trong học tập và bắt kịp cũng như nhấn mạnh các bài học rút ra. Phần thứ ba viết về Mỹ Latinh và Việt Nam, phân tích kinh nghiệm của các quốc gia đang bị vướng vào bẫy thu nhập trung bình và là các nước phát triển sau và Ethiopia (nước phát triển sau). Phần này đưa ra những ví dụ điển hình trong doanh nghiệp cũng như trong các ngành kinh tế, từ đó, rút ra _______________
1. Các nghiên cứu về chủ đề này còn rất hạn chế. Nghiên cứu về học tập, đặt trong bối cảnh rộng hơn, tham khảo Joseph Stiglitz và Bruce Greenwald: Xây dựng xã hội học tập: Cách tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội (Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật mua bản quyền từ Nhà xuất bản Đại học Colombia, xuất bản năm 2017), Columbia University Press, New York, 2014.
LỜI TỰA 23
kinh nghiệm của các nước đã thất bại, hoặc đang trong quá trình chuyển đổi, hoặc các kinh nghiệm thành công ở cấp vi mô. Chương kết luận tóm lược những ý chính của các chương trước cũng như tổng hợp những quan điểm về khái niệm cũng như quá trình của học tập đã được nghiên cứu trong quá khứ, từ đó rút ra các hàm ý, dưới dạng các bài học tiềm năng cho các quốc gia là những người đi sau trong quá trình phát triển trong thế kỷ XXI.
Chủ đề xuyên suốt của cuốn sách là tính động trong quá trình học tập và phát triển công nghệ ở cấp doanh nghiệp cũng như quá trình học tập chính sách đối với các chính phủ. Nếu chính sách phát triển đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được coi là động lực chính của quá trình học tập, thì độ mở trong chính sách là yếu tố quyết định của quá trình bắt kịp. Một kết luận quan trọng rút ra là không có một công thức đơn giản hay “một chiếc đũa thần” nào trong quá trình học tập của bất cứ chủ thể hay ở bất cứ cấp độ nào mà các nước có thể học tập một cách rập khuôn. Mỗi quốc gia sẽ tìm ra các giải pháp khác nhau, trong những thời điểm khác nhau, cho cùng một vấn đề. Các kinh nghiệm thực tế cho thấy, học tập chỉ thành công thông qua việc kết hợp giữa việc bắt chước và cải tạo các công nghệ, kinh nghiệm của nước ngoài với những sáng tạo và kinh nghiệm trong nước, một cách cố ý hoặc vô tình. Mặc dù vậy, có rất nhiều điều các quốc gia đi sau có thể học tập từ những kinh nghiệm thất bại ở một số nước nhưng lại thành công ở một số nước khác trong quá khứ. Trong quá trình này, cần xem xét việc học tập trong bối cảnh, thời điểm cụ thể chứ không thể bắt chước một cách rập khuôn đơn giản.
Cuốn sách này tổng hợp các nghiên cứu được trình bày một cách đơn giản cùng với những bài học thực tiễn thiết thực, từ đó đưa ra những nhận định và kết luận mang tính thuyết phục. Cuốn sách cũng chỉ ra rằng, mặc dù là một vấn đề phức tạp và mang tính
24 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
trừu tượng, chúng ta vẫn hoàn toàn có thể đúc rút được các nguyên tắc cơ bản để nâng cao hiểu biết về vấn đề và từ đó phát triển các ý tưởng mới cho vấn đề. Đây chính là điều lớn nhất mà độc giả có thể học được từ các nghiên cứu cách thức mà các quốc gia học tập.
New Delhi, tháng 11 năm 2018
DEEPAK NAYYAR
C
25
LỜI CẢM ƠN
húng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn cùng lời cảm ơn chân thành tới những đóng góp, nỗ lực của các nhà nghiên cứu đã đóng
góp cho thành công của cuốn sách này.
Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Adam Swallow, biên tập viên, người đã có những hỗ trợ và góp ý quan trọng; và tới các cộng sự của ông cùng Nhà xuất bản Đại học Oxford (OUP) đã thực hiện công việc một cách tận tụy và chuyên nghiệp. Chúng tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các nhà phản biện vì những góp ý mang tính xây dựng và đại diện của OUP, những người đã ra quyết định đồng ý xuất bản cuốn sách.
Chúng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Taffere Tesfachew vì những đóng góp hết sức có ý nghĩa và những sự hỗ trợ trong suốt quá trình hoàn tất cuốn sách. Chúng tôi xin cảm ơn ban phản biện độc lập, những người đã đưa ra những định hướng vô cùng quý báu cho chúng tôi trong quá trình xây dựng khung cũng như phát triển nội dung của cuốn sách. Chúng tôi xin cảm ơn các đại biểu tham gia hội thảo Addis Ababa tháng 8/2018, những người đã tham gia trình bày, thảo luận, phản biện và hợp tác cùng chúng tôi.
Chúng tôi cảm ơn ông Haddis Tadesse (Quỹ Bill and Melinda Gates) và ông Tewolde Gebremariam (Chủ tịch EAL) vì những hỗ trợ có ý nghĩa và hãng hàng không Ethiopia vì những hỗ trợ về hậu cần khi chúng tôi thực hiện dự án này.
26 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
Chúng tôi muốn cảm ơn Công ty Keith Povey Editorial Services (đặc biệt là tới Nancy Richardson), đã giúp chúng tôi biên tập cuốn sách, và Công ty 251 Communications đã thiết kế bìa cuốn sách. Và cuối cùng, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới điều phối viên của dự án, Deborah M. Kefale, và các thành viên của nhóm nghiên cứu
Meron Tilahun, Yohannes Ghebru, Sergut Abate, Tsion Kifle, Edom Haile, và Binyam Arkebe, vì những sự hỗ trợ của họ trong việc chuẩn bị bản thảo và trong suốt quá trình của dự án.
27
MỤC LỤC
Trang
Danh mục từ viết tắt 29 Những người tham gia đóng góp 35 1. Học tập công nghệ, chính sách công nghiệp và bắt kịp thành công: Giới thiệu
Arkebe Oqubay và Kenichi Ohno 45
PHẦN I: BỐI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM 65 2. Bắt kịp và những ràng buộc trong thế kỷ XX và XXI
Robert H. Wade 67
3. Học tập từ các quốc gia Đông Á: Bắt kịp và sự hình thành nhà nước phát triển Trung Quốc
Daniel Poon và Richard Kozul-Wright 105
4. Bắt kịp và đổi mới sáng tạo theo định hướng mục tiêu
Mariana Mazzucato 147
PHẦN II: QUAN ĐIỂM THỰC TIỄN 179 5. Nhật Bản dưới thời Minh Trị: Học tập tiến bộ của công nghệ phương Tây
Kenichi Ohno 181
6. Bắt kịp và học tập tại Đài Loan: Vai trò của chính sách công nghiệp Wan-wen Chu 218
7. Nguồn gốc khả năng lĩnh hội ở Hàn Quốc: Ngành công nghiệp Hàn Quốc đã học tập như thế nào
Keun Lee 246
8. Trung Quốc: Học tập bắt kịp trong một thế giới toàn cầu hóa Justin Yifu Lin và Jun Zhang 283
28 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
9. Học tập và bắt kịp ở Singapore: Bài học cho các quốc gia đang phát triển
George Yeo, Tan Kong Yam và Tan Khee Giap 321
PHẦN III: NHỮNG CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN
SỰ PHÁT TRIỂN MUỘN
10. Học tập chính sách công nghiệp: Bài học kinh nghiệm từ Mỹ Latinh
367
Wilson Peres và Annalisa Primi 369
11. Hành trình của hãng hàng không Ethiopia: Học tập và bắt kịp công nghệ hàng không
Arkebe Oqubay và Taffere Tesfachew 413
12. Học tập để bắt kịp ở Đông Nam Á
Vũ Minh Khương và Kris Hartley 456
13. Học tập để bắt kịp ở châu Phi
Arkebe Oqubay và Taffere Tesfachew 488
14. Cuốn sách Quốc gia học tập: Ý nghĩa đối với các quốc gia đi sau và con đường đến tương lai
Arkebe Oqubay và Kenichi Ohno 529
29
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Giải thích
Tiếng Anh
Tiếng Việt
1
ABDI
Agência Brasileira de Desenvolvimento Industrial
Cơ quan phát triển công nghiệp Brazil
2
ACA
Anti-corruption Agency
Cơ quan chống tham nhũng
3
APO
Asian Productivity Organization
Tổ chức Năng suất châu Á
4
ARPA-E
Advanced Research Projects Agency–Energy
Cơ quan nghiên cứu các dự án năng lượng tiên tiến
5
AT&T
American Telephone & Telegraph
Điện thoại và điện báo Hoa Kỳ
6
BNDES
National Development Bank of Brazil
Ngân hàng Phát triển quốc gia Brazil
7
BoC
Bank of China
Ngân hàng Trung Quốc
8
BRICS
Brazil, Russia, India, China, and South Africa
Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi
9
CBE
Commercial Bank of Ethiopia
Ngân hàng Thương mại Ethiopia
10 CBRC
China Banking Regulatory Commission
Ủy ban Điều phối ngân hàng Trung Quốc
11 CDB
China Development Bank
Ngân hàng Phát triển Trung Quốc
12 CIC
China Investment Corp
Tổng công ty đầu tư Trung Quốc
13 CPF
Central Provident Fund
Quỹ Tiết kiệm Trung ương
14 CPIB
Singapore's Corrupt Practices Investigation Bureau
Cục Điều tra tham nhũng Singapore
30 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
STT
Từ viết tắt
Giải thích
Tiếng Anh
Tiếng Việt
15
CUPI
Catch-up Performance Index Chỉ số hiệu suất bắt kịp
16 DARPA
Defense Advanced Research Projects Agency
Cơ quan chỉ đạo nghiên cứu các dự án nghiên cứu quốc phòng tiên tiến
17 DBE
Development Bank of Ethiopia Ngân hàng Phát triển Ethiopia
18 EAL
Ethiopia Airline
Hãng Hàng không Ethiopia
19 ECBP
Engineering Capacity Building Programme
Chương trình xây dựng năng lực kỹ thuật
20 ECLAC
United Nations Economic Commission for Latin America and the Caribbean
Ủy ban Kinh tế Liên hợp quốc về Mỹ Latinh và Caribbean
21 EDB
Economic Development Board Ủy ban Phát triển kinh tế
22 EIB
Ethiopian Investment Board
Bộ Đầu tư Ethiopia
23 EIC
Ethiopian Investment Commission Ủy ban Đầu tư Ethiopia
24 EPZ
Export Processing Zones
Khu chế xuất
25 FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
26 FTA
Free Trade Agreement
Hiệp định Thương mại tự do
27 GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
28 GGF
Government or Industry Guidance Funds
Quỹ hướng dẫn của Chính phủ (hay ngành công nghiệp)
29 GNP
Gross National Product
Tổng sản phẩm quốc gia
30 GST
Goods and Services Tax
Thuế hàng hóa và dịch vụ
31 GVC
Global Value Chains
Chuỗi giá trị toàn cầu
32 HDB
Housing Development Board Ủy ban Phát triển nhà ở
33 HIP
Hawassa Industrial Park
Khu công nghiệp Hawassa
34 HiPO
Administrative Service and High Potential
Dịch vụ hành chính và tiềm năng cao
35 HRS
Household Responsibility System
Hệ thống trách nhiệm gia đình
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 31
STT
Từ viết tắt
Giải thích
Tiếng Anh
Tiếng Việt
36
ICAO
International Civil Aviation Organization
Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế
37
ICBC
Industrial and Commercial Bank of China
Ngân hàng Công Thương Trung Quốc
38 ICT
Information & Communication Technologies
Công nghệ thông tin và truyền thông
39 IE
International Enterprise
Doanh nghiệp quốc tế
40 IMF
International Monetary Fund
Quỹ Tiền tệ quốc tế
41 IP
Intellectual Property
Sở hữu trí tuệ
42 IPDC
Industrial Park Development Corporation
Tập đoàn Phát triển Khu công nghiệp
43 IPO
Initial Public Offering
Phát hành công khai lần đầu
44 IPR
Intellectual
Property Rights
Quyền Sở hữu trí tuệ
45 ITRI
Industrial Technology Research Institute
Viện Nghiên cứu công nghệ công nghiệp
46 JTC
Jurong Town Council
Hội đồng thị trấn Jurong
47 KIPRIS
Korea Intellectual Property Rights Information System
Hệ thống thông tin quyền sở hữu trí tuệ Hàn Quốc
48 KIS
Korea Information Service
Dịch vụ thông tin Hàn Quốc
49 KOITA
Korea Industrial Technological Association
Hiệp hội Công nghệ công nghiệp Hàn Quốc
50 LIUP
Local Industry Upgrading Programme
Chương trình nâng cấp công nghiệp địa phương
51 LSI
Local Supporting Industry
Ngành công nghiệp hỗ trợ tại địa phương
52 MAS
Moneytary Authority of Singapore
Cơ quan Tiền tệ Singapore
53 MC2025
Made in China 2025
Sản xuất tại Trung Quốc 2025
54 MIT
Massachusetts Institute of Technology
Học viện Công nghệ Massachusetts
32 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
STT
Từ viết tắt
Giải thích
Tiếng Anh
Tiếng Việt
55
MITI
Ministry of International Trade and Industry
Bộ Thương mại và Công nghiệp quốc tế Nhật Bản
56 MNC
Multinational Corporation
Tập đoàn đa quốc gia
57 MOFCOM
Ministry Of Commerce, People's Republic Of China
Bộ Thương mại Cộng hòa Dân chủ nhân dân Trung Hoa
58 MRO
Maintainance Repair Overhaul/Operation
Công nghiệp vật tư, phụ tùng thay thế, sửa chữa
59 MTI
Ministry for Trade and Industry
Bộ Thương mại và Công nghiệp
60 NDRC
National Development and Reform Commission
Ủy ban Cải cách về phát triển quốc gia Cộng hòa Dân chủ nhân dân Trung Hoa
61 NEC
Nippon Electric Company
Công ty Điện lực Nippon
62 NIC
Newly Industrialized Country Các quốc gia công nghiệp mới
63 NICIIF
National Integrated Circuit Industry Investment Fund
Quỹ đầu tư công nghiệp mạch tích hợp quốc gia
64 NIE
Newly Industrializing Economies
Các quốc gia công nghiệp hóa mới
65 NIH
National Institute of Health Viện Y tế quốc gia
66 NII
Net Investment Income
Thu nhập đầu tư ròng
67 NRC
National Resource Commission Ủy ban Tài nguyên Đài Loan
68 NSE
New Structural Economics
Nền kinh tế cấu trúc mới
69 NSF
National Science Foundation Quỹ Kế hoạch quốc gia
70 NUS
National University of Singapore Đại học quốc gia Singapore
71 OECD
Organisation for Economic Co operation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
72 PAP
People's Action Party
Đảng Hành động nhân dân (Singapore)
73 PBoC
People’s Bank of China
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 33
STT
Từ viết tắt
Giải thích
Tiếng Anh
Tiếng Việt
74
PCI
Provincial Competitiveness Index
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
75 PIT
Personal Income Tax
Thuế thu nhập cá nhân
76 PITCE
Industrial, Technological and Foreign Trade Policy
Chính sách công nghiệp, công nghệ và ngoại thương
77 PPP
Purchasing Power Parity
Sức mua tương đương
78 PRC
People's Republic of China
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Trung Hoa
79 QFII
Qualified Foreign Institutional Investor
Nhà đầu tư tổ chức nước ngoài
80 R&D
Research & Development
Nghiên cứu và phát triển
81 ROK
Republic of Korea
Hàn Quốc
82 SASAC
State-owned Assets Supervision and Administration Commission
Ủy ban Giám sát và quản lý tài sản (Trung Quốc)
83 SDG
Sustainable Development Goals Mục tiêu phát triển bền vững
84 SEZ
Special Economic Zones
Đặc khu kinh tế
85 SIB
State Investment Bank
Ngân hàng Đầu tư Nhà nước
86 SME
Small and Medium Enterprise Doanh nghiệp vừa và nhỏ
87 SOCB
State-owned Commercial Banks
Ngân hàng Thương mại nhà nước
88 SUDP
Singapore Urban Development Plan
Kế hoạch phát triển đô thị Singapore
89 TFP
Total Factor Productivity
Năng suất các nhân tố tổng hợp
90 TNC
Transnational Corporation Tập đoàn xuyên quốc gia
91 TVE
Township and Village Enterprises
Doanh nghiệp hương trấn (Trung Quốc)
92 TRIPS
Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
93 UN
United Nations
Liên hợp quốc
34 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
STT
Từ viết tắt
Giải thích
Tiếng Anh
Tiếng Việt
94
UNCTAD
United Nations Conference on Trade and Development
Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển
95 UNIDO
United Nations Industrial Development Organization
Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
96 URA
Urban Redevelopment Authority Cơ quan Tái phát triển đô thị
97 USAID
United States Agency for International Development
Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ
98 VAT
Value Added Tax
Thuế giá trị gia tăng
99 WDI
World Development Indicators
Chỉ số phát triển của Ngân hàng Thế giới
100 WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới
W
35
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA ĐÓNG GÓP
an-wen Chu là chuyên gia nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu về Nhân văn và Xã hội học (RCHSS), Academia
Sinica, Đài Loan và là Giáo sư kinh tế của trường Đại học Đài Loan. Bà là Tiến sĩ kinh tế của trường Đại học Standford. Bà đã xuất bản nhiều nghiên cứu về phát triển kinh tế Đông Á, đặc biệt là các chính sách phát triển công nghiệp, là đồng tác giả của cuốn: Beyond Late Development: Taiwan’s Upgrading Policies (tạm dịch: Vượt lên phát triển của một quốc gia và vùng lãnh thổ đi sau: Các chính sách phát triển của Đài Loan) (MIT, 2004, cùng Alice Amsden). Các cuốn sách khác của bà bao gồm Engine of Economic Growth (tạm dịch: Động lực phát triển kinh tế) (Taishe, 2002); Globalization and the Taiwan Economy (tạm dịch: Toàn cầu hóa và nền kinh tế Đài Loan) (Taishe, 2003); và The Causes of Taiwan’ s Postwar Economic Growth: The Why and How of Late Development (tạm dịch: Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế sau chiến tranh của Đài Loan: Phát triển đi sau, tại sao và như thế nào) (Academia Sinica và Linking, 2017).
Tan Khee Giap là đồng Viện trưởng Viện Cạnh tranh châu Á và là Giáo sư trường Chính sách công Lee Kuan Yew, thuộc Đại học quốc gia Singapore. Ông cũng là Chủ tịch Hội đồng quốc gia Singapore về hợp tác kinh tế Thái Bình Dương. Tiến sĩ Tan tốt nghiệp chương trình Tiến sĩ tại trường Đại học Đông Anglia năm 1987. Ông là tư vấn cao cấp cho nhiều bộ và ủy ban của Singapore. Ông cũng là tác giả chính của hơn 20 cuốn sách và xuất bản nhiều
36 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
bài báo ở các tạp chí quốc tế có uy tín. Hiện tại, ông quan tâm nghiên cứu về năng lực cạnh tranh cấp ngành của các nước châu Á, phát triển các thành phố đáng sống trên thế giới và xây dựng chỉ số về môi trường kinh doanh.
Kris Hartley là Phó Giáo sư khoa Nghiên cứu châu Á và chính sách, trường Đại học Sư phạm Hong Kong. Ông có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa các cơ quan chính phủ cũng như các hợp tác liên ngành để giải quyết các vấn đề chính sách của khu vực trong phát triển các đô thị lớn ở châu Á. Các nghiên cứu của ông liên quan tới công nghệ, kinh tế phát triển và đô thị hóa. Ông tốt nghiệp Tiến sĩ khoa Chính sách công, trường Đại học quốc gia Singapore và tốt nghiệp Thạc sĩ về quy hoạch đô thị trường Đại học California, Berkeley.
Richard Kozul-Wright là Trưởng ban Toàn cầu hóa và Chiến lược phát triển của UNCTAD. Ông làm việc cho Liên hợp quốc ở cả văn phòng New York và Geneva. Ông tốt nghiệp Tiến sĩ kinh tế của Đại học Cambridge và đã có nhiều công trình nghiên cứu được xuất bản trong nhiều lĩnh vực về kinh tế tại các tạp chí như Tạp chí Kinh tế, Tạp chí Cambridge về kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu phát triển và Tạp chí phản biện Oxford về chính sách kinh tế.
Keun Lee là Giáo sư kinh tế của trường Đại học quốc gia Seoul, là chủ nhân Giải thưởng Schumpeter năm 2014 cho nghiên cứu về bắt kịp trong kinh tế (Schumpeterian Analysis of Economic Catch-up - CUP, 2013). Ông cũng là biên tập viên của tạp chí Nghiên cứu chính sách và tạp chí Đổi mới công nghiệp và doanh nghiệp, là thành viên hội đồng của Diễn đàn Kinh tế thế giới từ năm 2016. Ông cũng là Chủ tịch Hiệp hội quốc tế Schumpeter (2016-2018), thành viên của Ủy ban Chính sách phát triển của Liên hợp quốc (2014-2018).
Ông tốt nghiệp Tiến sĩ kinh tế tại Đại học California, Berkeley.
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA ĐÓNG GÓP 37
Bài nghiên cứu nổi tiếng nhất của ông là về chính sách bắt kịp về công nghệ của Hàn Quốc đăng trên tạp chí Nghiên cứu chính sách, với 1.081 lượt trích dẫn (Googe Scholar). Chỉ số h-index của ông hiện tại là 37, với 94 bài báo có trên 10 lượt trích dẫn. Ông mới xuất bản cuốn sách The Art of Economic Catch-up: Barriers, Detours and Leapfogging in Innovation Systems (tạm dịch: Nghệ thuật bắt kịp về kinh tế: Những trở ngại, đường vòng và các cách đi tắt đón đầu trong phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo), do Nhà xuất bản Đại học Cambridge xuất bản tháng 3 năm 2019.
Justin Yifu Lin là Viện trưởng Viện Cơ cấu kinh tế mới và Viện Hợp tác và phát triển Nam - Nam và cũng là Viện trưởng danh dự của trường Quốc gia về phát triển thuộc Đại học Bắc Kinh. Ông là Phó Giám đốc và là nhà kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới năm 2008-2012. Trước đó, Giáo sư Lin đã công tác 15 năm dưới vai trò là Giám đốc sáng lập của Trung tâm Trung Quốc về nghiên cứu kinh tế (CCER) thuộc trường Đại học Bắc Kinh. Ông cũng là tác giả của hơn 20 cuốn sách trong đó có cuốn Beating the Odds: Jumps-Starting Developing Coutries (tạm dịch: Những ngoại lệ phát triển: Các nước đang phát triển với những bước nhảy vọt) (cùng Célestin Monga; Nhà xuất bản Đại học Princeton, 2017), Demystifying the Chinese Economy (tạm dịch: Làm sáng tỏ nền kinh tế Trung Quốc) (CUP, 2011). Ông cũng là giảng viên của Học viện Anh và Học viện Khoa học nghiên cứu về các nước đang phát triển.
Mariana Mazzucato là Giáo sư về kinh tế, đổi mới sáng tạo và các giá trị của kinh tế nhà nước tại Đại học London (UCL). Bà là nhà sáng lập và là Giám đốc Viện Nghiên cứu đổi mới sáng tạo và chính sách công (IIPP). Bà là tác giả cuốn sách The Entrepreneurial State: Debunking Public vs. Private Sector Myths (tạm dịch: Kinh tế nhà nước: Giải mã vai trò của nhà nước và khu vực tư nhân)
38 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
(Anthem 2013; Public Affairs, 2015) và cuốn The Value of Everything: Making and Taking in the Global Economy (tạm dịch: Giá trị của mọi thứ: Tạo ra và tận thu giá trị của kinh tế toàn cầu) (Penguin and Public Affairs, 2018).
Kenichi Ohno là Giáo sư Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia, Tokyo. Ông tốt nghiệp Tiến sĩ kinh tế tại trường Đại học Stanford, California. Trước đó, ông làm việc tại Quỹ Tiền tệ quốc tế và là giảng viên của trường Đại học Tsukaba và Đại học Saitama. Ông đã hợp tác chặt chẽ với các cơ quan Chính phủ Nhật Bản trong việc phát triển chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế. Từ năm 1995, ông cũng tham gia tư vấn cho Chính phủ Việt Nam và xây dựng đối thoại chính sách phát triển công nghiệp với Chính phủ Ethiopia từ năm 2008. Bên cạnh đó, ông cũng nghiên cứu nhiều về chính sách cho trên 20 quốc gia ở châu Á và châu Phi. Các nghiên cứu của ông tập trung vào công nghiệp hóa, các chính sách học tập để bắt kịp, các kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản và một số điển hình thành công của các nền kinh tế đi sau, so sánh quốc tế về chất lượng của các chính sách phát triển công nghiệp. Các cuốn sách của ông bao gồm: The History of Japanese Economic Development: Origins of Private Dynamism and Policy Conpetence (tạm dịch: Lịch sử phát triển kinh tế Nhật Bản: Nguồn gốc sự năng động của khu vực kinh tế tư nhân và các chính sách hỗ trợ) (Routledge, 2018); Learning to Industrialize: From Given Growth to Policy-aided Value Creation (tạm dịch: Học để công nghiệp hóa: Từ phát triển tự thân tới các chính sách hỗ trợ việc tạo ra giá trị) (Routledge, 2013); Eastern and Western Ideas for African Growth (tạm dịch: Ý tưởng Đông và Tây cho phát triển của các nước châu Phi) (Routledge, 2013, đồng tác giả); The Economic Development of Japan: The Path Traveled by Japan as a Developing
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA ĐÓNG GÓP 39
Country (tạm dịch: Phát triển kinh tế Nhật Bản: Con đường đi lên từ một nước phát triển) (2006); và Japanese Views on Economic Development (tạm dịch: Quan điểm của Nhật Bản về phát triển kinh tế) (Routledge, 2013, đồng tác giả). Ông cũng nhận được Huy chương của Thủ tướng Nhật Bản về phát triển quan hệ đối tác với Chính phủ Việt Nam và giải thưởng của Bộ Ngoại giao Nhật Bản vì những đóng góp trong tăng cường quan hệ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản.
Arkebe Oqubay là Bộ trưởng cấp cao và là chuyên gia tư vấn cao cấp của Thủ tướng Ethiopia; ông có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng chính sách trong 25 năm qua. Ông là cựu Chủ tịch Addis Ababa, ông đạt giải Thị trưởng xuất sắc nhất
châu Phi năm 2005 do ABN tổ chức và đã lọt vào vòng cuối cùng để xét đoạt giải Thị trưởng xuất sắc nhất thế giới năm 2005 do những nỗ lực đổi mới thành phố của ông. Ông cũng đã nhận được các Huân chương cho ngôi sao đang lên, Huy chương Vàng và Bạc của Nhật Bản. Hiện tại, ông đang là Chủ tịch của nhiều ủy ban quốc gia hàng đầu cũng như các ủy ban tư vấn quốc tế. Ông cũng tham gia nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu châu Phi tại trường Đại học London. Ông tốt nghiệp Tiến sĩ về nghiên cứu phát triển tại SOAS thuộc Đại học London. Các công trình nghiên cứu mới nhất của ông bao gồm Made in Africa: Industrial Policy in Ethiopia (tạm dịch: Sản xuất ở châu Phi: Các chính sách công nghiệp của Ethiopia) (OUP, 2015); The Oxford Handbook of the Ethiopian Economy (tạm dịch: Sổ tay Oxford về kinh tế Ethiopia) (OUP, 2019); China-Afica and an Economic Transformation (tạm dịch: Châu Phi - Trung Quốc và chuyển đổi kinh tế) (OUP, 2019); African Economic Development: Evidence, Theory and Policy (tạm dịch: Phát triển kinh tế châu Phi: Thực tiễn, lý thuyết và
40 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
chính sách) (OUP, sắp xuất bản); và Handbook of Industrial Hubs and Economic Development (tạm dịch: Sổ tay Oxford về các trung tâm công nghiệp và phát triển kinh tế) (OUP, sắp xuất bản). Ông cũng được vinh danh là một trong 100 người châu Phi có ảnh hưởng nhất năm 2016, và là người tiên phong trong phát triển chiến lược về châu Phi do New African bình chọn, do những đóng góp cả về lý thuyết, thực tiễn cũng như trong phát triển chính sách. Các nghiên cứu của ông tập trung vào chuyển đổi cơ cấu, bắt kịp, chính sách công nghiệp và xây dựng chính sách với trọng tâm nghiên cứu là châu Phi.
Wilson Peres là chuyên viên nghiên cứu cao cấp tại Ban Quản trị, năng suất và sản xuất của Ủy ban Kinh tế Liên hợp quốc khu vực Mỹ Latinh và Caribe (ECLAC), Chile. Trước đây, ông là Chủ tịch Ban Phát triển công nghệ của ECLAC, Ban Chiến lược doanh nghiệp và đầu tư, Ban Đổi mới sáng tạo và công nghệ thông tin và truyền thông. Ông là chuyên gia tư vấn của Trung tâm phát triển OECD, là giảng viên của trường Đại học California, San Diego (UCSD) và trường Đại học Chile ở Santiago. Ông đã xuất bản nhiều nghiên cứu như The New Digital Revolution: From the Consumer Internet to the Industrial Internet (tạm dịch: Cuộc cách mạng số mới: từ Internet người dùng tới công nghiệp Internet) (ECLAC, 2015); “Industrial Policies in Latin America” (Tạm dịch: “Chính sách công nghiệp ở Mỹ Latinh”) trong A. Szirmai, W. Naudé và L. Alcorta (đồng chủ biên): Pathways to Industrization in the Twenty-First Century (tạm dịch: Con đường công nghiệp hóa trong thế kỷ XXI) (OUP, 2013).
Daniel Poon là nhà kinh tế học của Diễn đàn Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD). Ông tốt nghiệp chương trình Thạc sĩ về chính sách phát triển của Trung Quốc và châu Á ở khoa
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA ĐÓNG GÓP 41
Chính sách công và quản trị của Đại học Carleton. Ông đã xuất bản nhiều nghiên cứu và bài báo về các vấn đề liên quan tới phát triển tài chính, chính sách công nghiệp, hợp tác Nam - Nam, và gần đây nhất là đồng tác giả của chương “Phát triển châu Á, sau khủng khoảng châu Á”, UNU_WIDER.
Tiến sĩ Annalisa Primi, nhà kinh tế cao cấp, trưởng nhóm Chính sách tái cơ cấu và đổi mới sáng tạo, Trung tâm phát triển OECD. Trước đó, bà là thành viên Ban Lãnh đạo của Ủy ban Khoa học, công nghệ và công nghiệp, Ban Quản trị nhà nước và phát triển vùng của OECD. Từ năm 2003 đến năm 2009, Tiến sĩ Primi tham gia vào Ủy ban Năng suất và phát triển doanh nghiệp của ECLAC. Các nghiên cứu của bà tập trung vào mối tương quan giữa đổi mới sáng tạo, tăng năng suất, sở hữu trí tuệ và vai trò của nhà nước trong định hướng phát triển.
Tiến sĩ Taffere Tesfachew là chuyên gia tư vấn độc lập với hơn 35 năm kinh nghiệm trong nghiên cứu và phân tích thương mại, đầu tư và chính sách công nghiệp cũng như các vấn đề liên quan đến công nghệ. Ông là Giám đốc Ủy ban châu Phi và các nước
kém phát triển của UNCTAD từ tháng 4/2016. Ông tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế tại Đại học Lancaster và chương trình Thạc sĩ và Tiến sĩ nghiên cứu phát triển, Đại học Sussex. Ông đã xuất bản nhiều nghiên cứu trong các lĩnh vực, bao gồm: “Technological Learning and Industrialization in Ethiopia” (tạm dịch: “Học tập về công nghệ và công nghiệp hóa ở Ethiopia”) (Sổ tay Oxford về kinh tế Ethiopia, OUP, 2019); “The Role of Policy in Promoting Enterprise Learning during Early Industrialization” (tạm dịch: “Vai trò của chính sách trong việc khuyến khích doanh nghiệp học tập trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa”), “The Unfinished Agenda in International Technology Transfer” (tạm dịch: “Chương trình còn
42 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
tiếp diễn cho việc chuyển giao công nghệ quốc tế”), “Government Policies and the Urban Informal Sector”) (tạm dịch: “Chính sách của nhà nước và khu vực kinh tế phi chính thức ở đô thị”), cùng nhiều nghiên cứu khác.
Giáo sư Vũ Minh Khương là Giáo sư thuộc trường Chính sách công Lee Kuan Yew (Đại học quốc gia Singapore). Các nghiên cứu của ông tập trung nghiên cứu chính sách và chiến lược phát triển, chủ yếu ở các nền kinh tế châu Á và sự chuyển đổi của các nước này trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trước đó, ông cũng đã dành hơn 20 năm làm việc cùng Chính phủ Việt Nam. Ông tốt nghiệp khoa Toán của Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học quốc gia Hà Nội) (tốt nghiệp loại ưu) và tốt nghiệp chương trình Thạc sĩ Quản trị kinh doanh và Tiến sĩ tại Đại học Harvard.
Giáo sư Robert H. Wade là người New Zealand và là nhà kinh tế của Ngân hàng Thế giới, ông tham gia giảng dạy tại Học viện Nghiên cứu phát triển (Đại học Sussex), Princeton, MIT, Brown và LSE. Giáo sư Wade đã tiến hành nghiên cứu thực địa tại nhiều nơi như đảo Pitcairn, trung tâm Italy, Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan và tại Ngân hàng Thế giới. Ông được nhận giải Leontief cho những nghiên cứu tiên phong về kinh tế năm 2008. Cuốn sách Govering the Market (Tạm dịch: Quản trị thị trường) (Princeton University Press, 1990) của ông được trao giải cuốn sách/bài báo hay nhất về kinh tế chính trị do Hiệp hội Khoa học chính trị Mỹ trao tặng.
Tiến sĩ Tan Kong Yam là Giáo sư kinh tế thuộc Đại học Công nghệ Nanyang (NTU) Singapore. Ông là Phó Giám đốc phụ trách chính sách tỷ giá hối đoái thuộc Ủy ban Tiền tệ Singapore (1984-1987). Từ năm 1985 đến năm 1988, ông là Trưởng ban Trợ lý cho Tiến sĩ Goh Keng Swee, nguyên Phó Thủ tướng Singapore. Thời gian này ông cũng được ông Đặng Tiểu Bình mời góp ý cho Trung Quốc
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA ĐÓNG GÓP 43
về chính sách phát triển kinh tế. Từ tháng 6/2002 đến tháng 02/2005, ông là nhà kinh tế cao cấp của Văn phòng Ngân hàng Thế giới ở Bắc Kinh. Trước đó, ông cũng là nhà kinh tế cao cấp của Chính phủ Singapore (1999-2002). Ông tốt nghiệp trường Đại học Princeton và Đại học Stanford. Các nghiên cứu của ông tập trung
vào các xu hướng kinh tế, kinh doanh ở châu Á Thái Bình Dương và cải cách kinh tế ở Trung Quốc. Ông đã xuất bản hơn 10 cuốn sách và các bài báo trên các tạp chí lớn.
George Yeo là Chủ tịch Kerry Logistics Network. Từ năm 1988 đến năm 2011, ông làm việc trong Chính phủ Singapore, là Bộ trưởng Bộ Thông tin, Bộ Nghệ thuật, Y tế, Thương mại và Công nghiệp, và Bộ Ngoại giao. Trước khi tham gia vào chính trường, ông tham gia Lực lượng vũ trang Singapore và là Đại tướng của lữ đoàn. Ông Yeo tốt nghiệp Đại học về kỹ thuật, Đại học Cambridge và tốt nghiệp chương trình Thạc sĩ quản trị kinh doanh, Đại học Harvard.
Jun Zhang là Giáo sư kinh tế và là Hiệu trưởng trường Kinh tế, Đại học Fudan, Thượng Hải, Trung Quốc. Ông là Giám đốc sáng lập của Trung tâm Trung Quốc về nghiên cứu kinh tế, là trung tâm nghiên cứu kinh tế Trung Quốc tại Thượng Hải. Những công trình nghiên cứu của ông đã được xuất bản tại các tạp chí như Kinh tế thế giới, Phản biện kinh tế Trung Quốc, Hệ thống kinh tế, Nghiên cứu lợi thế so sánh kinh tế, Tạp chí Kinh tế châu Á, Tạp chí Kinh tế châu Á Thái Bình Dương, v.v.. Ông cũng là tác giả và đồng tác giả của nhiều cuốn sách như: Economic Transition with Chinese Characteristic: Thirsty Years of Reform and Opening Up (tạm dịch: Chuyển đổi kinh tế với màu sắc Trung Quốc: 30 năm đổi mới và mở cửa) (McGill-Queen University Press, 2008); Transformation of the Chinese Enterprise (tạm dịch: Chuyển đổi của các doanh nghiệp
44 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
Trung Quốc) (Cengage Learning, 2009); Unfinished Reforms of the Chinese Economy (tạm dịch: Những cải cách chưa hoàn tất của nền kinh tế Trung Quốc) (Nhà xuất bản Khoa học thế giới, 2013); và End of Hyper Growth in China (tạm dịch: Kết thúc giai đoạn siêu tăng trưởng của Trung Quốc) (Palgrave Macmillan, 2016).
45
1.
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VÀ BẮT KỊP THÀNH CÔNG
GIỚI THIỆU
Arkebe Oqubay và Kenichi Ohno
1.1. Bối cảnh
Tại sao một số quốc gia bắt kịp trong khi các quốc gia khác tụt lại phía sau hoặc bị “mắc kẹt” trong bẫy thu nhập trung bình? Vấn đề quan trọng hơn đó là các quốc gia học tập như thế nào và các yếu tố chính quyết định cho các quốc gia học tập, bắt kịp thành công là gì? Cuốn sách Quốc gia học tập sẽ mang đến câu trả lời cho các câu hỏi đó với sự tham gia, đóng góp ý kiến từ các học giả nổi tiếng trong lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chính sách công nghiệp và trong quá trình bắt kịp. Cuốn sách tập trung vào phương thức học tập công nghệ và học tập chính sách ở cấp độ tổ chức, chính phủ. Các tác giả đưa ra một số quan điểm khác nhau để giúp người đọc hiểu về phương thức học tập và quá trình bắt kịp, đồng thời tập trung thảo luận sâu hơn về các khía cạnh học tập. Nắm vững các quan điểm và khái niệm sẽ là cơ sở để kiểm tra, minh chứng về quá trình học tập và bắt kịp của các quốc gia.
Sự thay đổi về kinh tế, xã hội và chính trị trong bối cảnh toàn cầu của thế kỷ XXI đã làm cho quá trình học tập và bắt kịp công nghệ của các quốc gia diễn ra phức tạp hơn, đặc biệt đối với các
46 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
quốc gia đi sau trong quá trình công nghiệp hóa và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Hiện tượng suy thoái kinh tế toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008; hiện tượng siêu toàn cầu hóa quốc gia; xu hướng gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ và thương mại; sự tăng nhanh của quá trình tiến bộ và đổi mới sáng tạo công nghệ; những hạn chế của không gian chính sách và tác động của biến đổi khí hậu… đã ảnh hưởng trực tiếp đến các nền kinh tế “mới nổi” và các quốc gia đang phát triển, tạo ra nhiều khó khăn cho các quốc gia đang “cố gắng bắt kịp” trong thế kỷ XXI này1.
Cuốn sách Quốc gia học tập được xây dựng dựa trên 02 yếu tố: thứ nhất, theo quan sát, chỉ một số ít quốc gia có thể thực hiện quá trình bắt kịp thành công, từ đó đặt ra câu hỏi tại sao hiện tượng bắt kịp lại là một hiện tượng hiếm; thứ hai, mặc dù các tài liệu trước đây đã đề cập đến những nội dung mà các quốc gia cần phải
học tập để nâng cao năng lực công nghệ, nhưng làm thế nào để học tập chính sách, công nghệ và những nội dung có liên quan đến cách thức tổ chức lại ít được quan tâm, phân tích.
Trong lịch sử, chính sách công nghiệp là phương thức để chuyển đổi cơ cấu, đồng thời là chiến lược cốt lõi đằng sau sự bắt kịp thành công của các quốc gia Đông Á2. Tuy nhiên, một số quốc gia như Malaysia và Thái Lan vẫn bị “mắc kẹt” trong bẫy thu nhập trung bình; nhiều quốc gia châu Phi đã bị bỏ lại trong bẫy thu nhập thấp. Việc bắt kịp thành công không phải là một quá trình tự nhiên và tất yếu, nó phụ thuộc vào cách thức các quốc gia học tập, phụ thuộc vào phạm vi, nội dung học tập công nghệ và chính sách công nghiệp của các quốc gia đó.
Cuốn sách này phân tích các vấn đề có liên quan đến nội dung làm thế nào các quốc gia “đi sau” có thể học và bắt kịp các quốc gia _______________
1. Xem các vấn đề thương mại mới nổi, xem UNCTAD (2018).
2. Chuyển đổi cơ cấu và đặc trưng của quá trình sản xuất là động lực tăng trưởng, xem List (1956), Kaldor (1967) và Passineti (1993).
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP... 47
“đi trước”, bao gồm các vấn đề lý thuyết và thực tiễn kinh nghiệm, từ các nghiên cứu vĩ mô, nghiên cứu cấp ngành để xác định các bài học thành công trong việc học chính sách và công nghệ của các quốc gia trong thế kỷ XXI.
1.2. Mục đích, động lực và một số vấn đề trọng tâm
Động lực chính đối với các quốc gia học tập là việc cần xem xét về quá trình học tập đang diễn ra, cách thức học tập đang thực hiện và lợi thế của quốc gia đi sau để học tập các bài học trong giai đoạn bắt đầu công nghiệp hóa của thế kỷ XXI. Các quốc gia đi sau học
tập công nghệ và chuyển đổi cơ cấu sẽ ở giai đoạn đầu của quá trình bắt kịp. Bên cạnh đó, một số quốc gia đã thực hiện công nghiệp hóa ở giai đoạn trước đó lại phải đối mặt với những thách thức và có xu hướng bị “chậm lại” trong lộ trình đạt được mức thu nhập trung bình. Cuốn sách này đưa ra một số kinh nghiệm của các quốc gia về học tập và bắt kịp, vị trí xuất phát khác nhau của các quốc gia và mức độ áp dụng phù hợp các phương thức đối với các quốc gia đi sau. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến mối quan hệ xảy ra trong quá trình học tập công nghệ và chính sách, quá trình bắt kịp; định hình và tính toán tốc độ và mục tiêu bắt kịp; nguyên nhân một số quốc gia bắt kịp một cách nhanh chóng, dễ dàng, trong khi một số quốc gia khác lại gặp phải những khó khăn trong vấn đề học tập và bắt kịp. Đây là các nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách trong việc “khơi nguồn cảm hứng” và các bài học chính sách cụ thể đối với các quốc gia đi sau.
Việc vận dụng các bài học kinh nghiệm về chính sách và chiến lược của quốc gia đối với một quốc gia khác đòi hỏi cần được phân tích sâu sắc, thận trọng và khoa học bởi vì mỗi quốc gia đều có đặc điểm riêng về địa lý, chính trị, lịch sử, nhân khẩu học và kinh tế - xã hội. Sự phù hợp của chính sách và chiến lược của quốc gia phụ
48 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
thuộc vào điều kiện kinh tế và sự thay đổi của môi trường kinh tế quốc tế tại các thời điểm khác nhau.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là phủ nhận giá trị của việc xác định và áp dụng các bài học từ các quốc gia thành công. Lịch sử đã đưa ra nhiều minh chứng cụ thể về việc cá nhân, doanh nghiệp của một quốc gia học tập một cách độc lập hoặc tổng thể từ các quốc gia khác. Vấn đề không chỉ là việc xác định các bài học từ các quốc gia mà cần xem xét các điều kiện đảm bảo việc vận dụng các bài học này một cách thành công, trong đó bao gồm việc đánh giá các khó khăn và thất bại trong quá trình học tập (Arrow, 1962). Việc học tập kinh nghiệm từ các quốc gia trong quá khứ đòi hỏi phải có kiến thức, hiểu biết về bối cảnh xảy ra (bao gồm: bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị, địa lý kinh tế, quá trình phát triển kinh tế địa chính trị và toàn cầu). Việc nhận định các phương pháp tiếp cận đa dạng để các quốc gia có thể học tập
và bắt kịp là một trong các yêu cầu quan trọng; do đó, sẽ không có một ví dụ điển hình về việc “thực hành tốt nhất” cho tất cả các quốc gia có thể áp dụng thành công. Thách thức chính trong quá trình học tập và bắt kịp này là việc nhận biết và dự báo được các bài học chính sách cụ thể để tạo ra kết quả tích cực đối với quốc gia trong bối cảnh, điều kiện khác nhau.
Cuốn sách Quốc gia học tập tập trung vào các quan điểm, khái niệm, kinh nghiệm, thực tiễn từ các quốc gia khác nhau và các thời điểm khác nhau, tập trung vào giai đoạn cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Có thể thấy rằng là nội dung học tập được thực hiện bởi cá nhân và tổ chức, không phải của các quốc gia. Tuy nhiên, mục tiêu của cuốn sách này được phân tích mở rộng bên ngoài các cá nhân, tổ chức để hiểu biết về các khía cạnh một cách hệ thống của việc học tập, trong đó, nhà nước giữ vai trò như người học (học chính sách) và khu vực tư nhân giữ vai trò như người hỗ trợ học tập (công nghệ học tập) trong Hệ thống Đổi mới sáng tạo quốc gia
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP... 49
(National Innovation System - NIS). Hệ thống Đổi mới sáng tạo quốc gia được sử dụng như một khung khái niệm và cách thức tiếp cận có hệ thống để xây dựng năng lực công nghệ quốc gia (Fagerberg, Mowery, và Nelson, 2005).
Câu hỏi đầu tiên là tại sao các cá nhân, tổ chức ở một quốc gia có thể học tập hoặc học tập nhanh hơn và bắt kịp trong khi một số quốc gia khác thì không? Một số nghiên cứu ở cấp độ tổ chức, cấp độ ngành công nghiệp đã làm sáng tỏ về những nội dung học tập của các cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, có rất ít kết quả nghiên cứu về cách thức thực hiện quá trình học tập, những yếu tố ảnh hướng đến quá trình học tập của các quốc gia. Ở một mức độ cao hơn, tốc độ và mục tiêu học tập của các quốc gia được xác định bởi các chính sách khuyến khích, thể chế, cường độ học tập chính sách và đặc biệt là vai trò của nhà nước. Các khía cạnh học tập mang tính hệ thống, tính vĩ mô là các nội dung mà cuốn sách này mang đến cho bạn đọc. Từ quan điểm của các học giả, bạn đọc sẽ khai thác được các giá trị thực tiễn giúp xác định hệ thống và xây dựng các cơ chế học tập ở quy mô quốc gia, qua đó tạo thuận lợi cho các quốc gia bắt kịp kinh tế hoặc phát triển công nghiệp. Phân tích về từng trường hợp cụ thể trên các lĩnh vực, quốc gia và thời kỳ khác nhau, bạn đọc sẽ thấy rằng: một số vấn đề cơ bản của quá trình học tập có thể được áp dụng phổ biến cho tất cả của các quốc gia, một số vấn đề khác sẽ chỉ được áp dụng duy nhất cho một quốc gia, không thể chuyển giao quốc tế.
1.3. Chủ đề và các quan điểm phân tích
Cuốn sách tổng hợp các nội dung liên quan về các vấn đề học tập, đặc biệt là học tập công nghệ và bắt kịp thành công của các quốc gia đi sau thông qua học tập từ kinh nghiêm của các quốc gia đi trước (Amsden, 1989, 2001; Gerschenkron, 1962; Hirschman, 1958), thông qua thực tiễn và cách làm cụ thể, thông qua
50 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
phong trào hoặc điển hình xuất sắc. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình học tập và bắt kịp của các quốc gia đi sau bao gồm cường độ và mục tiêu học tập, tác động của bối cảnh quốc tế là những yếu tố hết sức quan trọng. Chúng tôi đánh giá thực tiễn triển khai của một nhóm các quốc gia khác nhau, đặc biệt là các quốc gia từ Viễn Đông và Đông Nam Á (Amsden, 1989, 2001; Chang, 2003; Lin, 2012; Nolan, 2014) cho thấy kết quả “hỗn hợp” trong quá trình học tập và bắt kịp. Các quốc gia châu Âu và Đông Á đã chỉ ra rằng các quốc gia đi sau có thể bắt kịp việc học tập thông qua thực hiện, tiếp cận thực tế, “bắt chước” và phong trào thúc đẩy chính sách công nghiệp với vai trò tích cực của nhà nước (Amsden, 1989, 2001; Amsden và Chu, 2003; Reinert, 2009; Wade, 1990).
Cuốn sách này tập trung vào một số quan điểm phân tích như sau:
Thứ nhất, một số nghiên cứu cho rằng có mối liên quan giữa sự phát triển kinh tế, bắt kịp với vấn đề học tập, năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo (Abramovitz, 1986; Lall, 1996; Nelson, 1996; Kim và Nelson, 2000). Bắt kịp và học tập của các quốc gia được định hướng bởi các nền tảng và thể chế chính trị khác nhau (Hall và Soskice, 2001; Huo, 2016). Lịch sử về hiện tượng bắt kịp ở châu Âu được nhắc đến trong tài liệu The Spread of Modern Industry to the Periphery since 1871 (O’Rourke và Williamson, 2017). Nghiên cứu này phân tích chuyên sâu về bối cảnh đặc trưng của giai đoạn này, đồng thời chứng minh quá trình công nghiệp hóa trong sản xuất là động lực then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện đại1.
Thứ hai, cuốn sách này mô tả các kinh nghiệm về học tập và bắt kịp ở các cấp độ khác nhau như: tổ chức, ngành công nghiệp và quốc gia. Nghiên cứu tiên phong là của Gerschenkron (1962) và _______________
1. Xem Campos và Root (1996) và Komiya, Okuno, và Suzumura (1988).
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP... 51
Hirschman (1958) về lợi thế và chiến lược của quốc gia đi sau để bắt kịp các quốc gia đi trước đã nhấn mạnh rằng: các quốc gia đi sau có thể tận dụng hiện trạng đi sau của họ để bắt kịp các quốc gia đi trước, bất chấp khoảng cách về biên giới công nghệ. Khái
niệm về bắt kịp có thể được tìm thấy đầu tiên trong tài liệu List (1856), trong khi đó, một số vấn đề thực tiễn về bắt kịp đã được các nhà kinh tế phát triển như: Amsden (1989, 2001), Wade (1990), Chang (2003), và gần đây là Keun Lee (2013) làm rõ trong những năm gần đây. Ohno (2013) và Oqubay (2015) và một số tác giả khác đã nghiên cứu và trình bày một số quan điểm mới về bắt kịp dựa trên các kinh nghiệm thực tiễn triển khai về học tập, đặc biệt là học tập chính sách.
Thứ ba, cuốn sách nhấn mạnh tầm quan trọng về các bài học kinh nghiệm dành cho các quốc gia đi sau (Nayyar, 2013; Veblen, 1915). Không phải tất cả các quốc gia đi sau đều có lợi thế trong việc chuyển dịch học tập công nghệ sang bắt kịp; giải mã một số vấn đề về kinh nghiệm, thực tiễn triển khai sẽ cho phép các quốc gia đi sau hiểu rõ hơn về bối cảnh học tập và thực hiện việc bắt kịp thành công.
Thứ tư, cuốn sách giúp bạn đọc nâng cao nhận thức, hiểu biết về mối quan hệ giữa việc bắt kịp (thu hẹp khoảng cách về công nghệ và kinh tế của một tổ chức, quốc gia với một tổ chức, quốc gia hàng đầu khác) với các nỗ lực học tập, trong đó bao gồm cường độ học tập chính sách. Đối với các quốc gia đi sau, nhận thức về các yếu tố “kéo và đẩy”, vai trò của nhà nước trong quá trình học tập và bắt kịp là những yếu tố rất quan trọng. Quá trình học tập đòi hỏi các quốc gia, tổ chức phải đưa ra các lựa chọn chiến lược trong tương lai, vượt ra ngoài phương thức triển khai thông thường, đặc biệt trong một số trường hợp, quá trình học tập cần áp dụng các phương thức mới, “nhảy vọt”. Kinh nghiệm cho thấy chiến lược, chính sách, kế hoạch hành động và môi trường kinh tế có thể bị
52 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa học tập và bắt kịp, do đó, nhà nước được coi là tác nhân chính của học tập và bắt kịp (Mazzucato, 2011, 2018). Vai trò của nhà nước, đặc biệt là vai trò trong việc học tập các công nghệ đột phá sẽ đóng góp trong việc
bắt kịp. Kinh nghiệm này đã được thể hiện ở xu hướng bắt kịp của Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ và Trung Quốc. Trong bối cảnh này, nhận thức về phương thức học tập của các quốc gia sẽ là yếu tố rất quan trọng đối với các quốc gia đi sau.
Cuối cùng, trọng tâm phân tích của cuốn sách này tập trung vào nội dung làm thế nào để các quốc gia đi sau và các quốc gia trong bẫy thu nhập trung bình có thể tăng tốc quá trình học tập, đặc biệt là học công nghệ ở các cấp độ khác nhau, để nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, tạo ra một khu vực kinh tế tư nhân mạnh mẽ, năng động. Mặc dù có rất nhiều tài liệu về cách thức tiếp cận chính sách, tuy nhiên, có rất ít tài liệu về thực tiễn triển khai, phương thức thực hiện việc học tập, những bài học rút ra và hiệu quả thực hiện trong các bối cảnh khác nhau. Những nghiên cứu mới nhất của Andersson và Axelsson (2016) đã bổ sung một số nội dung mới về quá trình học tập và bắt kịp thông qua các kết quả nghiên cứu và thực tiễn. Qua đó, nhóm tác giả đã chỉ ra rằng “không có một cách tiếp cận phù hợp chung nào” để các quốc gia thực hiện việc học tập, bắt kịp và phát triển kinh tế; luôn có một không gian để thực hiện việc “lấp đầy” các “khoảng trống” về khía cạnh học tập và bắt kịp giữa các quốc gia. Học tập công nghệ (ở cấp độ doanh nghiệp), học tập chính sách và chính sách công nghiệp (ở cấp độ Chính phủ) và bắt kịp là những nội dung trụ cột của cuốn sách này.
1.4. Cấu trúc của cuốn sách
Sau phần giới thiệu này, cuốn sách gồm 12 chương được chia thành 03 phần và 01 chương kết luận. Phần I đề cập đến bối cảnh
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP... 53
thể chế và chính sách mở rộng, trong đó mô tả các mô hình thành công của việc học và bắt kịp công nghệ.
Trong Chương 2, Robert Wade tập trung trình bày các xu hướng phát triển kinh tế trên thế giới, tác động của các quan điểm tư tưởng về kinh tế đối với việc bắt kịp trong 07 thập kỷ qua. Tác giả nhấn mạnh rằng: trái ngược với giả định của các nhà kinh tế học phát triển “kiểu cũ” về việc các quốc gia đi sau sẽ có nhiều lợi thế hơn, thực tế cho thấy, kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ một số ít quốc gia đang phát triển và quốc gia “mới nổi” ngoài phương Tây thành công trong việc bắt kịp các quốc gia phát triển. Thể chế hệ thống kinh tế quốc tế, sự xuất hiện chuỗi giá trị toàn cầu (Global Value Chains - GVC) của các tập đoàn lớn đã khiến cho các quốc gia đi sau thoát khỏi tác động ngoại vi và bắt kịp với các quốc gia phát triển.
Trong Chương 3, Daniel Poon và Richard Kozul-Wright đã đánh giá bản chất đối với việc học tập và bắt kịp công nghệ ở các quốc gia Đông Á và bài học cho các quốc gia đi sau, đặc biệt, các tác giả đã nhấn mạnh vai trò của nhà nước và phương thức xây dựng và thí điểm chính sách. Với các bài học kinh nghiệm của Trung Quốc, Poon và Kozul-Wright đã minh họa cách thức triển khai các chính sách công nghiệp và kiểm soát hệ thống tài chính trong nước để thúc đẩy một số quốc gia ở Đông Á, qua đó nâng cao năng lực sản xuất theo định hướng xuất khẩu đối với các lĩnh vực chiến lược nhằm đạt được sự chuyển đổi cơ cấu cần thiết để thực hiện việc bắt kịp. Các tác giả cho rằng “chủ nghĩa hiện thực” thực dụng là một đặc điểm chung trong tăng trưởng kinh tế, nhờ đó các quốc gia ở Đông Á nói chung và Trung Quốc nói riêng có thể thực hiện việc bắt kịp nhanh chóng.
Chương 4 của Mariana Mazzucato tập trung vào định hướng đổi mới sáng tạo, các chính sách công nghiệp và vai trò của nhà
54 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
nước trong việc định hướng chiến lược. Chính phủ “tìm kiếm” sự bắt kịp về kinh tế dựa trên nền tảng đổi mới sáng tạo, chiến lược thông minh, kinh tế bao trùm và phát triển bền vững trong bối cảnh các thách thức lớn về xã hội và môi trường. Đồng thời, các quốc gia cũng cần xem xét tổng thể các vấn đề về ứng phó với biến đổi khí hậu, cải thiện sức khỏe cộng đồng, sự giàu có của nhân dân và sự thay đổi về vấn đề dân số. Mazzucato cho rằng các chính sách công nghiệp và chính sách đổi mới sáng tạo sẽ giải quyết tổng thể các thách thức này thông qua việc xác định các vấn đề cụ thể trong hoạt động sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Điều này không chỉ gợi ý đến tốc độ tăng trưởng nhanh mà còn hướng tới mô hình bắt kịp các quốc gia dẫn đầu; trong đó, hoạt động đổi mới sáng tạo đòi hỏi quá trình đầu tư, đồng thời chấp nhận rủi ro đối với các chủ thể gồm nhà nước và tư nhân, với sự tham gia của bên thứ ba. Nhà nước không chỉ có vai trò thúc đẩy thị trường mà còn có sứ mệnh trong việc đồng sáng tạo và định hướng chính sách; trong đó, chính sách đổi mới
sáng tạo tập trung vào việc giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn của xã hội; việc xây dựng các chính sách này cũng đòi hỏi sự đồng thuận trong xã hội. Do đó, cần có sự thay đổi lớn trong tư duy, năng lực thể chế và chính sách, tuy nhiên, chính sách đổi mới sáng tạo không phải là một bước đi “không rõ ràng”. Chương này đưa ra các vấn đề về lý thuyết, thực tiễn, kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn thành công qua nhiều thập kỷ qua.
Phần II giới thiệu tổng quan về kinh nghiệm học tập và bắt kịp thành công ở Đông Á. Trong Chương 5, Kenichi Ohno tổng quan về thực tiễn của Nhật Bản trong việc học tập về công nghệ và bắt kịp trong thời kỳ Minh Trị vào nửa sau của thế kỷ XIX. Là một quốc gia đi sau đối với quá trình công nghiệp hóa, Nhật Bản bắt đầu học tập công nghệ bằng cách tiếp thu có chọn lọc công nghệ và bí quyết từ
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP... 55
các quốc gia phương Tây, biến thành các công nghệ, bí quyết của Nhật Bản thông qua học tập, “giải mã” công nghệ, đồng thời hợp tác liên doanh với các nhà cung cấp công nghệ nước ngoài. Ohno nhấn mạnh rằng sự năng động của khu vực tư nhân với sự hỗ trợ của Chính phủ sẽ trở thành động lực chính của việc học tập và bắt kịp trong thời kỳ Minh Trị.
Chương 6, Wan-wen Chu tập trung tổng quan về kinh nghiệm của Đài Loan trong việc tăng trưởng thần tốc sau chiến tranh, học tập và bắt kịp công nghệ, đặc biệt là vai trò của các chính sách công nghiệp trong việc tạo môi trường, điều kiện học tập thuận lợi. Chương này mô tả mô hình học tập và tăng trưởng, bắt đầu bằng hoạt động thay thế nhập khẩu vào những năm 1950, chuyển đổi sang quá trình xúc tiến xuất khẩu trong những năm 1960 và 1970, và gia nhập các lĩnh vực công nghệ cao vào những năm 1980. Chương này tổng hợp các chính sách thích nghi công nghiệp của Đài Loan để nâng cấp và bắt kịp với các nền công nghiệp hiện đại. Tác giả cũng nghiên cứu, so sánh con đường phát triển của Đài Loan và Hàn Quốc, sự khác biệt về bối cảnh quốc gia và quốc tế, các lĩnh vực trọng tâm, khả năng tương tác đa quốc gia và vai trò của các quốc gia dẫn đầu.
Trong Chương 7, Keun Lee xem xét cách thức mà các tổ chức phát triển khả năng lĩnh hội để thúc đẩy học tập và bắt kịp. Sử dụng bộ dữ liệu gồm hơn 3.000 hợp đồng mua công nghệ nước ngoài, được thực hiện bởi các doanh nghiệp của Hàn Quốc từ năm 1970 đến năm 1993, Lee đã tiến hành phân tích kinh tế lượng để xác định cách thức các doanh nghiệp phát triển khả năng lĩnh hội và vai trò của công nghệ nước ngoài tác động vào khả năng lĩnh hội này. Xây dựng năng lực hấp thụ là một quá trình linh hoạt, đặc biệt, quá trình này sẽ hiệu quả hơn khi kết hợp với các tri thức từ
56 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
nước ngoài, trong đó bao gồm các tri thức cần thiết cho việc nội địa hóa các công nghệ nước ngoài và tạo ra năng lực công nghệ trong nước1.
Chương 8 của Justin Lin và Jun Zhang tập trung nghiên cứu về kinh nghiệm Trung Quốc, mô tả về một câu chuyện bắt kịp trong khoảng thời gian gần đây; làm thế nào để Trung Quốc có thể lan tỏa công nghệ đối với ngành xuất khẩu, biến lợi thế so sánh của
Trung Quốc thành lợi thế cạnh tranh thông qua chiến lược chính sách công nghiệp, trong đó kết hợp học tập công nghệ với học tập chính sách. Lin và Zhang đưa ra các phân tích dựa trên các kinh nghiệm về học tập và bắt kịp một cách linh hoạt của Trung Quốc, và xác định các mô hình truyền cảm hứng cho lãnh đạo Trung Quốc nhằm theo đuổi các chương trình nghị sự về tăng trưởng kinh tế. Tác giả cho rằng, nền kinh tế cấu trúc mới (New Structural Economics) nhấn mạnh tầm quan trọng của lợi thế so sánh, cấu trúc nguồn lực, đồng thời làm rõ quá trình xây dựng được thực hiện dựa trên các điều kiện ban đầu. Nền kinh tế cấu trúc mới này là cơ sở để đưa ra giải thích rõ ràng hơn về sự phát triển và bắt kịp nhanh chóng của Trung Quốc so với quá trình công nghiệp hóa truyền thống.
Chương 9 của George Yeo, Tan Khee Giap và Tan Kong Yam đánh giá quá trình học tập và bắt kịp của Singapore từ năm 1965, trong đó tập trung vào vai trò của nhà nước trong việc xác định các chính sách, cơ chế ưu đãi, các thể chế thúc đẩy tốc độ, định hướng việc học tập và bắt kịp công nghệ. Mặc dù Singapore với quy mô quốc gia nhỏ hơn nhiều so với các quốc gia khác ở Đông Á đã thực hiện thành công việc học tập và bắt kịp, nhưng kinh
_______________
1. Xem Arrow (1962) và Cohen và Levinthal (1989) về năng lực hấp thụ và học tập.
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP... 57
nghiệm học tập và công nghiệp hóa độc đáo của Singapore đã làm sáng tỏ cách thức mà các quốc gia (ít tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người) có thể thúc đẩy học tập công nghệ, kích hoạt chính sách bắt kịp. Đánh giá lại kinh nghiệm của Singapore, Yeo, Giap và Yam cũng làm rõ các bài học về thất bại chính sách trong quá khứ của quốc gia này1.
Phần III tổng quan về kinh nghiệm của các quốc gia vẫn bị “mắc kẹt” trong bẫy thu nhập trung bình mặc dù đã nỗ lực thực hiện giai đoạn công nghiệp hóa ban đầu, cũng như các quốc gia đi sau bị tụt hậu so với việc học tập và bắt kịp công nghệ. Các
quốc gia đi sau bao gồm các quốc gia kém phát triển ở châu Phi và Mỹ Latinh đã bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa trong thế kỷ XXI trong một môi trường kinh tế toàn cầu cạnh tranh cao, do đó, các quốc gia này ít có lợi thế về thử nghiệm các chính sách độc
lập. Thông qua các thực tiễn ở cấp độ tổ chức, cấp độ ngành/lĩnh vực công nghiệp, nội dung trong Phần III của cuốn sách này tập trung khám phá tiềm năng và các thách thức mà nhóm các quốc gia này phải đối mặt trong nỗ lực thúc đẩy học tập và bắt kịp công nghệ.
Trong Chương 10, Wilson Peres và Annalisa Primi phân tích kinh nghiệm công nghiệp hóa của các nước Mỹ Latinh, đặc biệt làm rõ các nguyên nhân dẫn đến sự đa dạng về mô hình, mức độ thành công về học tập và bắt kịp công nghệ của các quốc gia này. Chương này tập trung tổng quan đối với 08 quốc gia, bao gồm Argentina, Brazil, Chile, Colombia, Costa Rica, Ecuador, Mexico và Uruguay, về cách thức tiếp cận chính sách và thách thức khi thực thi chính sách trong suốt thập kỷ qua. Trong khi nhận ra những điểm yếu “cố hữu” về cấu trúc quốc gia, bao gồm các yếu kém về
_______________
1. Xem Oqubay và Lin (sắp ra mắt) về phát triển các trung tâm và phát triển công nghiệp.
58 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
sản xuất và mức độ đa dạng hóa xuất khẩu, chương này xác định 03 lĩnh vực có thể mang lại hy vọng về một kết quả tích cực trong tương lai đối với các quốc gia này như: thu hẹp khoảng cách về kỹ năng trong nền kinh tế số; thâm nhập thành công chuỗi giá trị toàn cầu đối với các sản phẩm có tính phức tạp cao; và gần đây các quốc gia này đã giới thiệu các chương trình khởi nghiệp thành công, qua đó cho thấy sự năng động và tiềm năng mới cho việc học tập và bắt kịp công nghệ khu vực.
Chương 11 của Arkebe Oqubay và Taffere Tesfachew đã đưa ra các dẫn chứng về học tập và bắt kịp công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp đối với các quốc gia ở châu Phi, một lục địa tiếp tục tụt hậu trong cả học tập công nghệ và công nghiệp hóa1. Oqubay và Tesfachew đã phân tích việc học công nghệ của hãng hàng không thành công và năng động nhất ở châu Phi, hãng hàng không Ethiopia (Ethiopia Airlines, EAL); làm thế nào để EAL có thể bắt kịp thành công thông qua việc thu hẹp khoảng cách giữa chính EAL và các doanh nghiệp hàng đầu toàn cầu trong ngành. Chương này đánh giá hành trình của EAL, để xây dựng thành một hãng hàng không cạnh tranh quốc tế; khám phá những thách thức và sự phức tạp của việc học tập, cách thức mà hãng hàng không có thể quản lý khủng hoảng thông qua việc phát triển văn hóa tổ chức độc lập. Chìa khóa để học tập và bắt kịp thành công của EAL là mối quan hệ hợp tác với những “người chơi” toàn cầu hàng đầu TWA, sự can thiệp hạn chế của Chính phủ vào hoạt động và quản lý của EAL, và cam kết mạnh mẽ của EAL đối với một chiến lược “Ethiopia hóa” nhằm tăng cường về cường độ học tập.
Chương 12 của Vũ Minh Khương và Kris Hartley đã tìm hiểu về chính sách và chiến lược thúc đẩy học tập và bắt kịp công nghệ _______________
1. Xem Cramer, Oqubay và Sender (sắp xuất bản).
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP... 59
tại một trong những quốc gia phát triển nhanh của Đông Nam Á. Các tác giả đã phân tích vai trò của chính sách nhà nước và công nghiệp, từ những năm cải cách cuối những năm 1970 đến giai đoạn tạo ra các điều kiện kinh tế vĩ mô và một quốc gia mở cửa có lợi thế cho việc học tập công nghệ và đa dạng hóa trong công nghiệp hóa xuất khẩu trong những năm 19801. Chương này tập trung trình bày các hành động cần thiết để bắt đầu việc học tập và bắt kịp một cách hiệu quả thông qua: đưa ra các lựa chọn chiến lược; thiết lập các thỏa thuận về thể chế; xây dựng năng lực điều phối; phát triển, thực hiện các sáng kiến; đáp ứng những cơ hội và thách thức mới. Mặc dù tất cả các khía cạnh này đều quan trọng cho việc học tập, các tác giả cho rằng việc đưa ra các lựa chọn chiến lược hợp lý là đặc biệt quan trọng để bắt đầu một quá trình học tập hiệu quả.
Chương 13 của Arkebe Oqubay và Taffere Tesfachew đã xem xét hai trường hợp học tập và bắt kịp thành công ở cấp độ ngành, lĩnh vực công nghiệp đối với một trong những quốc gia châu Phi đang phát triển nhanh nhất, Ethiopia2. Ngành trồng hoa và xi măng, đại diện cho các ngành công nghiệp có định hướng xuất khẩu và nhập khẩu, qua đó các tác giả đã chứng minh rằng với chiến lược, chính sách công nghiệp phù hợp, sự sẵn sàng, tích cực tham gia học tập chính sách, bao gồm học tập từ các mô hình, thông qua thử nghiệm chính sách, các quốc gia đi sau có thu nhập thấp có thể học tập công nghệ và bắt kịp thành công ở cấp độ ngành, lĩnh vực công nghiệp. Chương này cũng đánh giá một số vấn đề về cải cách giáo dục đại học của Ethiopia trong thời gian gần đây, chiến lược tiếp cận học tập linh hoạt để phát triển các trung tâm công nghiệp để nâng cao nền tảng công nghệ của quốc
_______________
1. Xem Thirlwall (2013) về vai trò của chiến lược xuất khẩu.
2. Xem Cheru, Cramer và Oqubay (2019).
60 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
gia, phát triển và mở rộng khả năng lĩnh hội công nghệ trong nước. Oqubay và Tesfachew cho thấy việc học tập và bắt kịp thành công của các nước châu Phi có liên quan chặt chẽ đến cường độ, tốc độ và định hướng học tập chính sách của chính phủ; đây là điều cần thiết vì chính sách công nghiệp được xem là phương tiện hiệu quả để thực hiện việc bắt kịp này.
Chương cuối cùng mô tả vấn đề học tập và bắt kịp trên phương diện tác động đối với các quốc gia đi sau, tập trung vào hai lĩnh vực quan trọng: (a) sự hiểu biết về các khái niệm và quá trình học và bắt kịp như được thảo luận trong các tài liệu nghiên cứu gần đây; và (b) ý nghĩa (và bài học tiềm năng) cho các quốc gia vẫn phải trải qua học tập và bắt kịp công nghệ (tức là các quốc gia đi sau)1. Thảo luận sẽ tập trung vào động lực chính của học tập công nghệ; chính sách công nghiệp và sản xuất là động lực chính của học tập và bắt kịp; và cuối cùng, chương này sẽ thảo luận về vấn đề bắt kịp và phạm vi không gian chính sách trong thế kỷ XXI.
Lời cảm ơn
Các tác giả rất biết ơn Taffere Tesfachew vì những đóng góp quan trọng của ông cho chương này và sự hỗ trợ đặc biệt và toàn diện của ông cho cuốn sách này; cảm ơn James Mittleman vì có sự tham gia đề xuất về cấu trúc; cảm ơn Deborah M. Kefale và Binyam Arkebe tiếp tục ủng hộ và hoàn thiện dự thảo.
_______________
1. Các khái niệm và chủ đề của chương này đã được nêu trong hội thảo tại Addis Ababa vào tháng 8 năm 2018. Các ý kiến và đề xuất có giá trị nhận được trong hội thảo đã củng cố các lập luận, chủ đề và quan điểm phân tích được trình bày trong cuốn sách. Các tác giả hy vọng rằng cuốn sách sẽ đáp ứng sự mong đợi của độc giả và giúp lấp đầy các khoảng trống kiến thức trong bối cảnh hiện nay.
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP... 61
Tài liệu tham khảo
Abramovitz, Moses (1986): ‘Cathing Up, Forging Ahead and Falling Behind’, Journal of Economic History XLVI (2): 385-406.
Amsden, Alice (1989): Asia’s Next Giant: South Korea and Late Industrialization. Oxford: Oxford University Press.
Amsden, Alice (2001): The ‘Rise of the Rest’: Challenges to the West from Late- industrializing Economies. Oxford: Oxford University Press. Amsden, Alice and Wan-wen Chu (2003): Beyond Late Development: Taiwan’s Upgrading Policies. Cambridge, MA: MIT Press.
Andersson, Martin and Tobias Axelsson (eds) (2016): Diverse Development Paths and Structural Transformation in the Escape from Poverty. Oxford: Oxford University Press.
Arrow, Kenneth (1962): ‘The Economic Implications of Learning by Doing’, Review of Economic Studies 28: 155-73.
Campos, Jose Edgardo, and Hilton L. Root (1996): The Key to the Asian Miracle: Making Shared Growth Credible. Washington, DC: Brookings Institution.
Chang, Ha-Joon (2003): Kicking away the Ladder: Development Strategy in Historical Perspective. London: Anthem Press.
Cheru, Fantu, Christopher Cramer, and Arkebe Oqubay (2019): The Oxford Handbook of the Ethiopian Economy. Oxford: Oxford University Press. Cohen, Wesley and Daniel Levinthal (1989) ‘Innovation and Learning: The Two Faces of R&D’, The Economic Journal 99(397): 569-96. Cramer, Christopher, Arkebe Oqubay, and John Sender (forthcoming): African Economic Development: Evidence, Theory, and Policy. Oxford: Oxford University Press.
Fagerberg, Jan, David Mowery, and Richard Nelson (eds) (2005): The Oxford Hand-book of Innovation. Oxford: Oxford University Press.
62 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
Gerschenkron, Alexander (1962): Economic Backwardness in Historical Perspective. Cambridge, MA: Harvard University Press.
Hall, Peter and David Soskice (2001): Varieties of Capitalism: The Institutional Foun dations of Comparative Advantage. Oxford: Oxford University Press.
Hirschman, Albert (1958): Strategy of Economic Development. New Haven, CT: Yale University Press.
Huo, Jingjing (2016): How Nations Innovate: The Political Economy of Technological Innovation in Affluent Capitalist Economies. Oxford: Oxford University Press.
Kaldor, Nicholas (1967): Causes of the Slow Rate of Economic Growth of the United Kingdom. Cambridge: Cambridge University Press. Kim, Linsu and Richard Nelson (eds) (2000): Technology, Learning, and Innovation. Cambridge: Cambridge University Press.
Komiya, Ryutaro, Masahiro Okuno, and Kotaro Suzumura (eds) (1988): Industrial Policy of Japan. Cambridge, MA: Academic Press.
Lall, Sanjaya (1996): Learning from the Asian Tigers: Studies in Technology and Industrial Policy. London: Macmillan.
Lee, Keun (2013): Schumpeterian Analysis of Economic Catch Up: Knowledge, Path - Creation and the Middle Income. Cambridge: Cambridge University Press.
Lin, Justin Yifu (2012): The Quest for Prosperity: How Developing Countries Can Take Off. Princeton, NJ. Princeton University Press.
List, Friedrich (1956): National System of Political Economy, Vols I-IV. Memphis, TN: Lippincott.
Mazzucato, Mariana (2011): The Entrepreneurial State: Debunking Public vs. Private Sector Myths. London: Anthem Press.
HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP... 63
Mazzucato, Mariana (2018): The Value of Everything: Making and Taking in the Global Economy. London: Allen Lane.
Nayyar, Deepak (2013): Catch Up: Developing Countries in the World Economy. Oxford: Oxford University Press.
Nelson, Richard (1996): The Sources of Economic Growth. Cambridge, MA: Harvard University Press.
Nolan, Peter (2014): ‘Globalization and Industrial Policy: The Case of China’, The World Economy 37(6): 747-64.
Ohno, Kenichi (2013): Learning to Industrialize: From Given Growth to Policy-aided Value Creation. New York: Routledge-GRIPS Publications Development Forum Studies.
Oqubay, Arkebe (2015): Made in Africa: Industrial Policy in Ethiopia. Oxford: Oxford University Press.
Oqubay, Arkebe, and Justin Yifu Lin (forthcoming): The Oxford Handbook of Industrial Hubs and Economic Development. Oxford: Oxford University Press.
O’Rourke, H. Kevin and Jeffrey G. Williamson (eds) (2017): The Spread of Modern Industry to the Periphery since 1871. Oxford: Oxford University Press.
Passineti, Luigi (1993): Structural Economic Dynamics: A Theory of the Economic Consequences of Human Learning. Cambridge: Cambridge University Press.
Reinert, Erik (2009): How Rich Countries Got Rich and Why Poor Countries Stay Poor. London: Constable.
Thirlwall, Anthony (2013): Economic Growth in an Open Developing Economy: The Role of Structure and Demand. New York: Edward Elgar. UNCTAD (2018): Trade and Development Report 2018: Power, Platforms and the Free Trade Delusion. Geneva: UNCTAD.
64 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
Veblen, Thorstein (1915): Imperial Germany and the Industrial Revolution. Wade, Robert (1990): Governing the Market: Economic Theory and the Role of Government in East Asian Industrialization. Princeton, NJ: Princeton University Press.
65
PHẦN I
BỐI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM
66
67
2.
BẮT KỊP VÀ NHỮNG RÀNG BUỘC
TRONG THẾ KỶ XX VÀ XXI
Robert H. Wade
2.1. Giới thiệu
Các nhà kinh tế học phát triển cổ điển, bao gồm Gerschenkron, Prebisch, Lewis, Myrdal, Chenery, Hirschman, Adelman, Seers, và nhiều người nữa chắc chắn sẽ thất vọng về sự phát triển kinh tế toàn cầu trong nửa thế kỷ qua, nhất là khi nhìn vào sự bắt kịp chậm chạp, khác biệt với sự sụt giảm nghiêm trọng của nghèo đói toàn cầu ngay cả khi dân số tăng với tốc độ nhanh nhất trong lịch sử loài người. “Hiệu ứng phát triển muộn” theo quan điểm của Gerschenkron, hay “lợi thế của sự lạc hậu”, được quan tâm nhiều hơn, mặc dù các công nghệ mới được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi người trên toàn thế giới và mặc dù không thiếu người có tài năng kinh doanh.
Nhưng có lẽ họ sẽ không ngạc nhiên. Sự hiểu biết về quá trình phát triển bắt kịp được thể hiện như sau:
(1) Phát triển là một quá trình gián đoạn với những thay đổi cận biên theo thời gian, bị phản đối trong xã hội, tạo ra những bất cập không thể tránh khỏi và đặt ra giá trị cao cho các thể chế nhằm giải quyết vấn đề - một giá trị bảo đảm quốc gia không tiếp xúc với áp lực cạnh tranh quốc tế.
68 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
(2) Hệ thống giá của quốc gia đang phát triển không thể đóng vai trò là phương thức phân phối tài nguyên ở các quốc gia phát triển, bởi vì thị trường của các quốc gia này phát triển chậm; quy luật thị trường sẽ có xu hướng duy trì chuyên môn hóa sản xuất hiện có dựa trên lợi thế so sánh, lợi nhuận giảm theo quy mô; tích hợp toàn các yếu tố này vào quốc gia quốc tế.
(3) Vốn trở nên cực kỳ khan hiếm (vào thời điểm các học giả trước đó thực hiện nghiên cứu này và nhiều thập kỷ sau đó), nhà nước có vai trò quan trọng trong việc huy động và sử dụng các nguồn vốn khan hiếm, với quy mô đủ lớn để thực hiện kế hoạch, không làm thay đổi lớn trong cơ cấu sản xuất, tăng các hoạt động hoàn vốn có thể nằm ngoài lợi thế so sánh của quốc gia; sử dụng phân bổ chủ yếu thị trường phi tập trung thay vì phân bổ theo kế hoạch (Reinert, 1994).
(4) Lợi nhuận xã hội cho các dự án đầu tư lớn, rủi ro thường vượt xa lợi nhuận của các nhà đầu tư tư nhân, điều đó khẳng định vai trò chỉ đạo, sự đóng góp của nhà nước.
2.2. Hiện tượng nhật thực của nền kinh tế phát triển và sự trỗi dậy của chủ nghĩa tân tự do
Như chúng ta đã biết, những đề xuất về quá trình phát triển hoàn toàn không được cộng đồng phát triển quốc tế (do phương Tây thống trị) ủng hộ bắt đầu từ những năm 1970. Năm 1980 là thời điểm khởi xướng của quy ước phát triển, được biết đến với tên gọi Đồng thuận Washington (Washington Consensus), nhưng được gọi chính xác hơn là Đồng thuận Washington - London - Paris - Brussels - Berlin (Washington-London-Paris-Brussels-Berlin Consensus). Bất cứ ai đặt câu hỏi về khả năng áp dụng phổ biến của Đồng thuận Washington đều được coi là giáo phái tôn giáo của những người dị giáo.
PHẦN I: BỐI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM 69
Ngày nay, các nhà kinh tế phát triển hiếm khi nghe về Prebisch hoặc Myrdal, hoặc nguyên nhân tích lũy hoặc quy luật tăng trưởng của Kaldor. Các quốc gia đang phát triển chủ yếu tận dụng các lợi thế so sánh và tích hợp sâu vào mạng lưới sản xuất toàn cầu với sự tham gia của nhà nước trong việc xây dựng môi trường vĩ mô ổn định, hỗ trợ từ “phía cung” (bao gồm kết cấu hạ tầng, khuyến khích giáo dục (công hoặc tư), khuyến khích chăm sóc sức khỏe (công hoặc tư), và trên hết là xây dựng luật pháp và trật tự xã hội, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân (cả quyền của tư bản chủ sở hữu để di chuyển vốn trên khắp thế giới)). Các nhà kinh tế phát triển cho rằng các chính sách phát triển chủ yếu là về “phía cung” sẽ làm cho “phía cầu” được thúc đẩy bởi các nhà xuất khẩu, từ đó đưa ra một giả định về sự bình đẳng trong việc phân phối thu nhập và tài sản.
Tại sao nhà nước có vai trò chính đáng đối với sự thu hẹp mạnh mẽ trong quá trình phát triển kinh tế? Có hai lý do. Đầu tiên, ở phương Tây đứng đầu là Mỹ sự thành công của “chủ nghĩa tư bản dân chủ xã hội” (social democratic capitalism) trong những thập niên sau chiến tranh cho đến cuối những năm 1960 đã làm giảm đáng kể tỷ lệ lợi nhuận (vì thành công của phong trào lao động nhằm dịch chuyển năng suất thành tiền lương và khả năng của Chính phủ trong việc duy trì suy thoái). Bên cạnh đó, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và những người giàu có đã bắt đầu thúc đẩy các cải cách triệt để nhằm khôi phục lại tỷ lệ lợi nhuận, nhằm quay trở lại thời kỳ hoàng kim của chủ nghĩa tư bản độc quyền đầu thế kỷ XX.
Thật may mắn, một giáo phái kinh tế lâu đời đã phát triển mô hình được gọi là chủ nghĩa tân tự do. Mục đích của mô hình này là bảo đảm trật tự xã hội như các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và những người giàu có mong muốn; và ngăn chặn những ý tưởng của Keynes về sự “can thiệp của Chính phủ” trong những thập kỷ
70 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
sau chiến tranh (Slobodian, 2018). Giáo phái kinh tế lâu đời này có sự tham gia của Thống đốc Ngân hàng Trung ương Thụy Điển, một người phản đối kịch liệt nền dân chủ xã hội. Ông đã có ý tưởng kỷ niệm 300 năm thành lập Ngân hàng Trung ương bằng cách tạo ra một giải thưởng được gọi là Giải thưởng Nobel về Kinh tế (ban đầu tên gọi mà cả Quỹ Nobel và gia đình Nobel đều từ chối, vì vậy tên gọi chính thức nhưng không được sử dụng là Giải thưởng Sveriges Riksbank về Khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel). Thống đốc có thể chọn các thành viên ủy ban trao giải để đảm bảo rằng giải thưởng được trao một cách “không cân xứng” cho các nhà kinh tế học tân tự do, qua đó để cho thế giới thấy rằng kinh tế học tân tự do là tốt nhất, khoa học nhất, trái ngược với kinh tế dân chủ xã hội.
Ý đồ này đã sắp xếp lại thế giới đi theo các nguyên tắc tân tự do, và đã đạt được một số thành công đáng kể. Một phóng viên của tờ New York Times đã trình bày tóm tắt một số nội dung tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và chính trị gia) tại Davos, Thụy Sĩ năm 2002:
[A] quốc gia mở cửa nền kinh tế và Chính phủ giữ vai trò ở mức tối thiểu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thu nhập nhanh hơn. (Uchitelle, 2002)
Biên tập viên kinh tế nổi tiếng của tờ Financial Times Martin Wolf đã mô tả tầm nhìn mới của ông về trật tự thế giới mong muốn như sau:
Việc làm cho nền kinh tế thế giới hoạt động như thể đó là Mỹ, hoặc ít nhất là Liên minh châu Âu sẽ có nhiều ý nghĩa hơn so với việc phân chia các quốc gia trên thế giới thành nhiều phần hơn hiện tại [có nghĩa là Chính phủ của các quốc gia không nên quá kiểm soát nền kinh tế và các giao dịch xuyên biên giới của mình hơn Mỹ hoặc ít nhất không hơn Liên minh châu Âu]... Tiềm năng hội nhập kinh tế
không được khai thác sâu hơn. Các quốc gia sẽ cần nhiều thị trường toàn cầu hơn (được nhấn mạnh thêm trong 2004: 4)
PHẦN I: BỐI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM 71
Theo ý tương tự, ngay trước khi Lehman Brothers phá sản năm 2008, Alan Greenspan, cựu Chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cho rằng:
[Chúng tôi] may mắn rằng, nhờ toàn cầu hóa, phần lớn các quyết định chính sách ở Mỹ đã được thay thế bởi các động lực của thị trường toàn cầu. Bên cạnh vấn đề an ninh quốc gia, nước Mỹ hầu như không có sự khác biệt khi ai sẽ là Tổng thống tiếp theo. Thế giới bị chi phối bởi các động lực của thị trường (được nhấn mạnh thêm trong Tooze, 2008)
Lưu ý rằng, giá trị thấp ngụ ý gắn liền với chủ quyền quốc gia và nền chính trị dân chủ tự do được dựa trên hệ tư tưởng tân tự do. Điều này đi cùng với sự phản đối kịch liệt đối các biện pháp làm giảm thu nhập và sự tập trung của cải ở những “nhà thuyền trưởng” của các ngành công nghiệp. Một trong những người tiên phong của kinh tế học tân tự do, Ludwig von Mises, đã viết vào năm 1922: "Toàn bộ nền văn minh của chúng ta dựa vào thực tế là
con người luôn thành công trong việc đánh bại cuộc tấn công của những người phân phối lại" (Slobodian, 2018: 277). Rất lâu sau, Robert Lucas (2004), người được nhận giải thưởng tương tự giải thưởng Nobel, nói:
Trong số các xu hướng của kinh tế học, [theo tôi] quyến rũ nhất và độc hại nhất là việc tập trung vào các câu hỏi về phân phối... Tiềm năng cải thiện cuộc sống của người nghèo thông qua cách phân phối sản xuất hiện tại sẽ không có nhiều khác biệt so với tiềm năng vô hạn của việc tăng sản lượng.
Tại Ngân hàng Thế giới, sự phá bỏ nền kinh tế phát triển kiểu cũ đã được chính quyền Reagan cánh hữu, của Cựu chủ tịch và Giám đốc điều hành của Ngân hàng Mỹ, Ted Clausen (Chủ tịch năm 1981), thực hiện. Việc này cũng được Chính phủ của Anne Kreuger, là nhà kinh tế hàng đầu, người đã lần lượt bổ nhiệm Deepak Lal làm nhân vật có tầm ảnh hưởng thứ 2 sau Anne Kreuger, thực hiện.
72 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
Hai người này tin rằng về cơ bản, nhà nước là “người đi săn”, có thể bị kiểm soát bởi liên minh các nhóm lợi ích để trục lợi từ khu vực tư nhân bằng các quy định, chính sách thương mại phù hợp, và có thể bị coi là tham nhũng. Trong thế giới quan này, quá trình phát triển kinh tế đòi hỏi nhà nước phải chủ động trong việc cung cấp các điều kiện tiên quyết của thị trường (quyền sở hữu tư nhân, đặc biệt là quyền của chủ sở hữu vốn), nhưng ngoài ra, nhà nước nên có vai trò trong việc hạn chế chặt chẽ để giảm thiểu tối đa hóa lợi ích của khu vực tư nhân trong nền kinh tế. Kreuger và Lal bắt đầu thực hiện quy trình loại bỏ dần một số nhà kinh tế trong ngân hàng, một quy trình mà Lal mô tả là “dọn dẹp chuồng ngựa”1. Trên khắp ngân hàng, nhiều người có chuyên môn trong ngành đã bỏ đi, một số người khác ở lại làm việc trong ngân hàng, duy trì quyền cư trú của Mỹ và quyền hưởng lương hưu rất cao, một số người chuyển thành chuyên gia về môi trường hoặc giáo dục tiểu học hoặc quản trị.
Tất nhiên, các nhà kinh tế trên thế giới viết các bài báo ủng hộ sự phát triển của thị trường tự do toàn cầu và thích thú với các nghiên cứu của các học giả khác. Bên cạnh các nhà nghiên cứu kinh tế, chính phủ, doanh nhân cũng ủng hộ một chế độ toàn cầu đã chiếm ưu thế trong suốt 4 thập kỷ qua về “thị trường tự do cùng với luật pháp quốc tế để bảo vệ quyền con người của chủ sở hữu vốn” (thậm chí chiếm ưu thế sau khủng hoảng ở Đông Á/Mỹ Latinh/Nga những năm 1997-1998 và khủng hoảng ở Bắc Đại Tây Dương và sau đó là khủng hoảng kéo dài bắt đầu từ năm 2007, tất cả những gì chúng ta có thể nghĩ là thúc đẩy phe cánh tả suy tính lại về những gì đã xảy ra ở Hard Times sau năm 1929). Câu chuyện này mô tả phương thức hợp pháp hóa lợi ích của kinh doanh _______________
1. Lal là Chủ tịch Hội Mont Pelerin (Mont Pelerin Society) năm 2008-2010.
PHẦN I: BỐI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM 73
phương Tây thông qua các giá trị của chủ nghĩa cá nhân, tự do và chủ nghĩa phổ quát về tư duy bảo thủ trong văn hóa phương Tây, coi chúng là giá trị cho mọi dân tộc.
Ayn Rand (một người Nga sống và trưởng thành ở Mỹ) là một trong những nhà triết học của chủ nghĩa tân tự do. Các tác phẩm của bà đã định hình tư duy của các nhà kinh tế học chủ nghĩa tân tự do thời kỳ đầu như Ludwig von Mises và Friedrich Hayek (đồng sáng lập của Hội Mont Pelerin năm 1949, từ đó đã hoạt động như trung tâm của sự dịch chuyển chủ nghĩa tân tự do toàn cầu). Ayn Rand đã đề cập đến nội dung chiến tranh giai cấp của tư duy tân tự do, chứng minh sự thống trị của vốn và các nhà tư bản. Trong một bài tiểu luận nổi tiếng năm 1961, “America’s Persecuted Minority: Big Business”, (tạm dịch : “Nhóm thiểu số bị ngược đãi ở Mỹ: Doanh nghiệp lớn”) cô đã viết:
Tất cả các tệ nạn, sự lạm dụng và tội ác thường được gán cho các doanh nhân và chủ nghĩa tư bản, không phải do một quốc gia không được kiểm soát hoặc bởi một thị trường tự do, mà là do sự
can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. (Frank, 2012: 206) Ludwig von Mises cũng tuyên bố về sự thống trị của vốn và các nhà tư bản so với phần còn lại của thế giới. Ông có lời chúc mừng Rand về cuốn tiểu thuyết Atlas Shrugged của bà:
Bạn có đủ can đảm để nói với quần chúng về điều mà không một chính trị gia nào nói với họ: Bạn kém cỏi và chấp nhận tất cả những cố gắng trong điều kiện của bạn vì bạn phụ thuộc vào những nỗ lực của những người giỏi hơn bạn (Frank, 2012: 147).
Tuy nhiên, trái với sự hiểu biết thông thường, chủ nghĩa tân tự do không phải là một hệ tư tưởng tự do kinh tế (laissez faire) hoàn toàn. Chủ nghĩa tân tự do kêu gọi hành động mạnh mẽ của nhà nước để bảo vệ quyền của chủ sở hữu vốn, không chỉ trong mỗi quốc gia mà giữa các quốc gia, do đó, họ kêu gọi
74 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
luật pháp quốc tế mạnh mẽ để bảo vệ quyền của vốn quốc tế lưu động. Những tổ chức dẫn đầu trong phong trào, như Phòng thương mại quốc tế đã chọn ngôn ngữ nhân quyền cho định hướng của tổ chức. Họ đưa ra lý lẽ ủng hộ một trật tự thế giới thông thường được xây dựng dựa trên các thể chế quốc gia và quốc tế nhằm bảo vệ quyền của các cá nhân để giao dịch và di chuyển vốn bất cứ nơi nào: một quy tắc chung trong nền kinh tế thế giới. Vì vậy, họ hỗ trợ mạnh mẽ các tổ chức như GATT và WTO, hoặc chí ít là với các phiên bản lý tưởng của các tổ chức quốc tế này.
Tư duy này đã thâm nhập sâu vào các ngành kinh tế. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi một số nhà kinh tế đã chú ý đến sự kiện thành công nổi bật của các quốc gia Đông Bắc Á; các nhà kinh tế đã đưa ra những lời giải thích trong đó bỏ qua vai trò của nhà nước trong việc xác định các hoạt động kinh tế (bao gồm cả các lĩnh vực) với sự gia tăng hiệu suất thay đổi theo quy mô và tiềm năng cho sự phát triển trong tương lai, cung cấp cho các hoạt động hỗ trợ riêng, không dành cho những quốc gia khác (Wade, 2004).
The East Asian Miracle, cuốn sách của World Bank được xuất bản năm 1993, là một trường hợp tương đối phức tạp. Cuốn sách đánh giá các nguyên nhân thành công ở 08 "nền kinh tế châu Á có hiệu suất cao" là Nhật Bản, ba nền kinh tế mới công nghiệp hóa thế hệ thứ nhất là Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore, và ba quốc gia Đông Nam Á thế hệ thứ hai là Thái Lan, Malaysia, và Indonesia, cộng với Hong Kong.
Cuốn sách lập luận rằng ở các quốc gia và vùng lãnh thổ này, nhà nước đã có vai trò quan trọng đóng góp cho sự tăng trưởng nhanh chóng bằng cách đảm bảo các nguyên tắc cơ bản: tỷ giá hối đoái cạnh tranh và lạm phát ở mức thấp; vốn nhân lực; hệ thống tài chính hiệu quả và an toàn; tỷ lệ "bóp méo giá" thấp; dễ dàng tiếp
PHẦN I: BỐI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM 75
cận công nghệ nước ngoài; và ít thành kiến đối với nông nghiệp. Nói cách khác, các quốc gia đã thực hiện các chính sách hiệu quả, được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, các can thiệp chiến lược (các chính sách để thúc đẩy các ngành công nghiệp cụ thể hoặc thậm chí là các doanh nghiệp cụ thể) nhìn chung ít mang lại hiệu quả (Ngân hàng Thế giới 1993: 354; Wade 1996).
Cuốn sách gửi theo thông điệp:
Sự cởi mở đối với thương mại quốc tế, dựa trên các chính sách khuyến khích trung lập, là yếu tố quan trọng trong sự tăng trưởng nhanh chóng của Đông Á. (Ngân hàng Thế giới, 1993: 292)
Lập luận này làm cho Đông Bắc Á trở thành một câu trả lời mạnh mẽ cho câu hỏi của Adam Smith: chủ nghĩa tư bản thị trường tạo ra lợi nhuận cho con người như thế nào? Câu trả lời là tự do hóa thị trường, và trong bối cảnh toàn cầu, như Martin Wolf nói, đó là hội nhập toàn cầu, hoặc hướng tới "thế giới là một quốc gia kinh tế", không có nhiều hạn chế về vòng quay kinh tế hoặc đòi hỏi về quyền sở hữu xuyên biên giới so với Mỹ. Đó là một cuộc tranh luận không chỉ đối với thương mại tự do mà còn đối với sự dịch chuyển vốn tự do và thậm chí có thể là sự di chuyển lao động tự do; ngược lại, nó hạ thấp giá trị của cả quyền tự chủ và nền dân chủ tự do. Người dân có thể lựa chọn nhưng vốn phải quyết định. Nói tóm lại, Ngân hàng Thế giới kết luận rằng sự tăng trưởng của Đông Á không có gì bí ẩn.
Các nhà kinh tế không chỉ bỏ qua vai trò chỉ đạo của nhà nước ở Đông Á, mà họ cần bỏ qua vai trò quan trọng của nhu cầu nội địa, điều này sẽ khiến họ nhấn mạnh vào sự bình đẳng tương đối của thu nhập trong nước, phân phối của cải và vai trò của nhà nước trong việc tạo ra những điều đó. Sự thiếu chính xác này trở thành một “lỗ hổng” để giải thích sự thành công của mô hình tân cổ điển trong suốt thế kỷ XX. Như Aba
76 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
Lerner (1972) đã giải thích, "giao dịch kinh tế (trong mô hình này) là một vấn đề chính trị cần được giải quyết... Kinh tế học đã đạt được danh hiệu “Nữ hoàng Khoa học Xã hội” (Queen of the Social Sciences) thông qua việc lựa chọn giải quyết các vấn đề chính trị". Ông giả định trong mô hình này đã có đầy đủ thông tin và các hợp đồng hoàn chỉnh, có nghĩa là mọi tranh chấp trong giao dịch kinh tế (ví dụ giữa người lao động và người sử dụng lao động) có thể được xét xử và thực thi tại tòa án (thay vì bằng hành vi của các bên có liên quan). Không có sự ép buộc, không có chủ nghĩa cơ hội, không có áp lực, không có vấn đề trong phân phối thu nhập, do đó, “Nữ hoàng Khoa học Xã hội” có thể trị vì một mình, bỏ qua những thông tin từ các ngành khác như khoa học chính trị, quan hệ quốc tế, luật pháp, triết học, xã hội học, tâm lý học, lịch sử hoặc sinh thái học (Bowles
và Carlin, 2017).
2.3. Bắt kịp?
Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận “bức tranh lớn” về quá trình phát triển kinh tế trong hơn 7 thập kỷ qua. Có một thông tin tốt và quan trọng về sự gia tăng tuổi thọ, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em và giảm tỷ lệ nghèo đói (Deaton, 2013).
Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi tập trung vào những thông tin không tốt về việc bắt kịp (Nayyar, 2013). Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2013) đã phát hiện ra rằng, trong số 101 quốc gia có thu nhập trung bình (vào năm 1960), chỉ có 13 quốc gia đã trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2008, nghĩa là gần nửa thế kỷ sau. Trong số này, 4 quốc gia Tây Âu (Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hy Lạp). Bốn quốc gia khác (Guinea Xích đạo, Israel, Mauritius và Puerto Rico). Năm quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Bắc Á “cộng một” (Nhật Bản, Đài Loan, Hong Kong, Hàn Quốc
PHẦN I: BỐI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM 77
và Singapore). Tất cả các quốc gia này đều có dân số nhỏ, ngoại trừ Nhật Bản.
Một số điểm có thể được xem xét rõ ràng hơn. Có bao nhiêu quốc gia ngoài phương Tây đã trở thành quốc gia phát triển trong hai thế kỷ qua? Nếu chúng ta mở rộng danh sách "các quốc gia", “phi phương Tây” và “phát triển” (phát triển thành công nghiệp hóa trong các lĩnh vực thâm dụng vốn và công nghệ), thì chúng ta có thể có thêm 07 quốc gia và vùng lãnh thổ: theo thứ tự thời gian, Nhật Bản và Nga vào cuối thế kỷ XIX; Đài Loan, Hàn Quốc, Hong Kong, Singapore và Israel trong nửa sau của thế kỷ XX. Tất cả các quốc gia (trừ 02 quốc gia đầu tiên) có dân số rất nhỏ.
Tất nhiên, trong vài thập kỷ, Trung Quốc cũng “tìm cách” vào nhóm này để xứng tầm với một quốc gia có dân số lớn nhất thế giới hiện nay. Chỉ trong ba năm, 2011-2013, Trung Quốc đã sử dụng nhiều xi măng tương đương với lượng xi măng của Mỹ sử dụng trong thế kỷ XX. Chương trình "Made in China 2025" kêu gọi các nhà lãnh đạo toàn cầu, các nhà lãnh đạo xuất sắc của các doanh nghiệp tham gia trong các lĩnh vực bao gồm trí tuệ nhân tạo, viễn thông 5G, Internet kết nối vạn vật, xe tự lái và công nghệ pin.
Nhưng cần lưu ý hai vấn đề. Thứ nhất, Trung Quốc đang tiến lên các "bậc thang giá trị gia tăng " phụ thuộc chủ yếu vào các công nghệ và sở hữu trí tuệ nước ngoài, đặc biệt là Mỹ. Kể từ năm 2018, Chính phủ Trump đang cố gắng tiến hành một cuộc chiến thương mại với Trung Quốc với mục đích làm chậm khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp Mỹ trong các lĩnh vực công nghệ cao. Đặc biệt, Trung Quốc dễ bị "cắt đứt" trong các ngành, lĩnh vực chất bán dẫn, thiết bị bán dẫn và hàng không vũ trụ của Mỹ.
Thứ hai, nói chung, Trung Quốc vẫn duy trì là một nước nghèo. Mặc dù tăng trưởng nhanh, thu nhập trung bình khoảng 17.000 USD
78 QUỐC GIA HỌC TẬP: HỌC TẬP CÔNG NGHỆ, CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP...
tính theo tỷ lệ PPP năm 2017, chỉ bằng khoảng 28% của Mỹ, tương đương với thu nhập trung bình của thế giới. Trung Quốc đứng ở vị trí 76 trong bảng xếp hạng quốc gia, trong khi Mỹ ở vị trí 111. (Nhưng cần lưu ý, theo Angus Deaton và Alan Heston (2010), tỷ lệ sai sót hoặc không chắc chắn về số tỷ giá hối đoái PPP là ±25%, ngụ ý rằng thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc tính theo đồng đôla quốc tế (2017) chiếm khoảng từ 21 đến 35% thu nhập bình quân đầu người của Mỹ). Thay vào đó, nếu sử dụng tỷ giá hối đoái thị trường trễ (lagged market exchange rates), thu nhập trung bình của Trung Quốc chỉ khoảng 15% của Mỹ. So sánh thu nhập của các quốc gia theo tỷ giá hối đoái thị trường cho thấy chính xác hơn về khả năng mua hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia ở các quốc gia khác, do đó, (khi kết hợp với tổng GDP) đây sẽ là một chỉ số tốt về động lực tổng thể tương đối của quốc gia. Về mặt quân sự cũng vậy, Trung Quốc thua xa Mỹ, mặc dù mở rộng nhanh chóng hoạt động này trên một nền tảng xuất phát điểm thấp. “Trung Quốc với tư cách là siêu cường
mới nổi” sẽ là một sự cường điệu, nhưng trong vòng hai thập kỷ tới, Trung Quốc cũng có thể tham gia vào nhóm các cường quốc vĩ đại hiện tại.
Trung Quốc là một trong những minh chứng đối với việc câu chuyện “thiếu sự bắt kịp”. Một vấn đề khác là mô hình tăng trưởng toàn cầu rõ ràng đã thay đổi vào đầu những năm 2000. Các quốc gia mới nổi và đang phát triển (Emerging and developing countries - EDEs, sử dụng thuật ngữ của IMF) bắt đầu phát triển
_______________
1. Đây là bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới. Năm 2017, CIA đặt Trung Quốc ở vị trí thứ 83, Mỹ ở vị trí thứ 13, với ít hoặc nhiều thu nhập trung bình tương đương. Theo Wikipedia, “Danh sách các quốc gia theo GDP (PPP) bình quân đầu người”, truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2018.