"
Quản Lý Nhà Nước Trong Nền Kinh Tế Thị Trường
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quản Lý Nhà Nước Trong Nền Kinh Tế Thị Trường
Ebooks
Nhóm Zalo
TS. ĐẶNG XUÂN HOAN (Chủ biên)
QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:
ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. ĐÀO DUY NGHĨA TRẦN PHAN BÍCH LIỄU ĐƯỜNG HỒNG MAI
TRỊNH THỊ NGỌC QUỲNH HOÀNG NGỌC ĐIỆP
NGUYỄN THỊ KIM THOA PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/17-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 429-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6902-7.
QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
TS. ĐẶNG XUÂN HOAN (Chủ biên)
QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG (Sách chuyên khảo)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT Hà Nội - 2019
4 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
TẬP THỂ TÁC GIẢ
TS. Đặng Xuân Hoan, Chủ biên
GS.TS. Đinh Văn Tiến
PGS.TS. Nguyễn Hoàng Hiển
TS. Đỗ Thị Kim Tiên
TS. Bùi Thị Thùy Nhi
TS. Lê Toàn Thắng
TS. Hoàng Ngọc Âu
TS. Dìu Đức Hà
TS. Đặng Thị Minh
TS. Phạm Thị Thanh Hương
TS. Nguyễn Xuân Thu
TS. Phạm Thu Thủy
TS. Nguyễn Thị Ngọc Mai
TS. Nguyễn Quốc Huy
TS. Vũ Thị Thu Hằng
S
L ờ i N h à x u ấ t b ả n | 5
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
au hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta có sự thay đổi mạnh
mẽ, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử về kinh tế, xã hội, văn hóa, đối ngoại... Những thành tựu đó đạt được là do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có vai trò vô cùng quan trọng.
Với sự phát triển của kinh tế thị trường, quy mô nền kinh tế nước ta được mở rộng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế được nâng cao, đời sống của người dân được cải thiện; các mặt văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế chuyển biến tích cực; quan hệ đối ngoại rộng mở,... Nhưng việc kinh tế thị trường phát triển cũng kéo theo nhiều vấn đề tiêu cực như thất bại của thị trường trong việc phân bổ các nguồn lực, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh...; văn hóa xã hội nhiều mặt bị suy thoái, tình trạng thương mại hóa xảy ra trong văn hóa, giáo dục, y tế; quan hệ đối ngoại rộng mở nhưng cũng kéo theo nhiều vấn đề phức tạp trong các mối quan hệ quốc tế... Chính vì vậy, để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, vai trò quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường không những không suy giảm mà còn được tăng cường, mở rộng. Nhà nước tiến hành việc quản lý, can thiệp, điều tiết... không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, đối ngoại... để giảm thiểu
6 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
những thất bại, tiêu cực, phát huy những giá trị tích cực của kinh tế thị trường đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội; đồng thời đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo đúng định hướng đã đề ra.
Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần thứ hai cuốn sách chuyên khảo Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường của tập thể tác giả do TS. Đặng Xuân Hoan chủ biên.
Nội dung cuốn sách được kết cấu thành 3 phần sẽ cung cấp cho bạn đọc những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước; tác động của kinh tế thị trường đến quản lý nhà nước; nội dung và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong một số ngành, lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, thông tin, truyền thông, đối ngoại.
Các nội dung được đề cập trong cuốn sách rất đa dạng, nhiều vấn đề có sự thay đổi liên tục cùng với sự vận động của nền kinh tế thị trường, nên cuốn sách khó tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót, Nhà xuất bản và các tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản sau.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 4 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
p
L ờ i m ở đ ầ u | 7
LỜI MỞ ĐẦU
hát triển kinh tế thị trường là xu thế tất yếu của các quốc gia vì mục tiêu phát triển. Tại Việt Nam, Đảng và
Nhà nước ta lựa chọn xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là quan điểm phát triển phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế và cũng là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta xuyên suốt từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước là chủ thể duy nhất có khả năng quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với yêu cầu của các quy luật của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cũng như nhiều nước trong giai đoạn chuyển đổi, hiện nay Việt Nam vẫn còn không ít chính sách, pháp luật được ban hành còn thiếu căn cứ xác đáng, chưa phù hợp, thậm chí mâu thuẫn với các quy luật thị trường. Trong tổ chức thực hiện chính sách cũng phát sinh những vấn đề từ góc khuất của kinh tế thị trường chưa được làm rõ, tạo ra những quyết định mà lợi ích thấp hơn chi phí. Quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước phải hiểu sâu các quy luật của kinh tế thị trường và vận dụng nó nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, hạn chế
8 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
những rủi ro phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong các nghiên cứu này chỉ mới xem xét vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở khía cạnh quản lý kinh tế và hướng tới mục tiêu kinh tế. Trong khi, quản lý nhà nước dù trong nền kinh tế kế hoạch hay kinh tế thị trường thì ngoài mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế, nhà nước còn phải đảm bảo ổn định trật tự an ninh chính trị, an toàn xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục,... Chính vì thế, quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường cần xem xét theo một lát cắt khác, tức là đặt hoạt động quản lý nhà nước nói chung (bao gồm quản lý nhà nước đối với các ngành và lĩnh vực) vào môi trường vận động linh hoạt và chịu sự tác động của lợi ích, chi phí, hiệu quả của kinh tế thị trường để xem xét về những "phản ứng" khi có sự tương tác giữa chúng. Trên cơ sở đó đánh giá mức độ tác động của quản lý nhà nước trong điều kiện ảnh hưởng của các quy luật của kinh tế thị trường, từ đó có những thay đổi cần thiết để đạt được hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Vượt ra ngoài các yếu tố mang tính quy trình, thủ tục, kỹ thuật của quản lý, quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải đặt trọng tâm vào xây dựng chiến lược, quy hoạch, và chính sách phát triển các ngành, lĩnh vực. Những bài học về thành công và thất bại của công tác quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nhiều quốc gia là bài học kinh nghiệm tham khảo để Chính phủ Việt Nam đi đến quyết định lựa chọn xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp nhiều hơn là mang tính hành chính, đề cao kiểm tra, thanh tra trước đây.
L ờ i m ở đ ầ u | 9
Với tư cách là trung tâm bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, công chức hàng đầu của Việt Nam, nhằm góp phần nâng cao kiến thức về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trong nền kinh tế thị trường, tập thể các nhà khoa học thuộc Học viện Hành chính quốc gia và các chuyên gia ngoài Học viện biên soạn cuốn sách Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường do TS. Đặng Xuân Hoan - Giám đốc Học viện Hành chính quốc gia làm chủ biên. Cuốn sách chuyên khảo gồm 9 chương, được chia thành 3 phần:
Phần I: Tổng quan quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường;
Phần II: Cơ sở kinh tế của quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường;
Phần III: Quản lý một số ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế thị trường.
Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng cuốn sách không tránh khỏi những khiếm khuyết và thiếu sót. Tập thể tác giả cuốn sách rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của các nhà khoa học, các chuyên gia và bạn đọc để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa cuốn sách tham khảo này và các công trình nghiên cứu trong tương lai.
Trân trọng cảm ơn.
TẬP THỂ TÁC GIẢ
10 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 11
_____ Phần I _____
TỔNG QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
12 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 13
Chương 1
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Khái niệm
Thị trường hiểu theo nghĩa truyền thống là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, bao gồm cả các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Trên thị trường, các nhà sản xuất, người tiêu dùng, những người buôn bán kinh doanh, cung cấp dịch vụ quan hệ với nhau thông qua hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Về thực chất, thị trường là chỉ các hoạt động kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi, lưu thông hàng hóa, dịch vụ, là mối quan hệ về kinh tế giữa người với người. Từ đó hình thành nên khái niệm kinh tế thị trường.
Xét về bản chất, kinh tế thị trường là một nền kinh tế trong đó các hoạt động kinh tế diễn ra và vận hành dựa trên các quan hệ của thị trường, thể hiện mối quan hệ giữa người mua và người bán trong trao đổi hàng hóa, dịch vụ.
Đứng trên góc độ khoa học kinh tế, kinh tế thị trường là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc và tuân thủ những quy luật của thị trường. Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mở trong đó coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều tiết của thị trường, tôn trọng tự do cạnh tranh, tự
14 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
do hợp tác, mở rộng giao lưu thương mại, tạo cơ hội cho mọi chủ thể kinh tế tham gia thị trường, tìm kiếm lợi nhuận,... Kinh tế thị trường còn được hiểu là nền kinh tế hàng hóa khi đã đạt trình độ phát triển cao. Lúc này, mọi quan hệ kinh tế nằm trong quá trình tái sản xuất xã hội đã được tiền tệ hóa. Các yếu tố để sản xuất như vốn vật chất, vốn bằng tiền, tài nguyên, đất đai, công nghệ, quản lý, sức lao động, chất xám, các sản phẩm dịch vụ... đều trở thành đối tượng để các chủ thể có thể trao đổi, mua bán và định giá. Theo Adam Smith - cha đẻ của kinh tế học, kinh tế thị trường luôn luôn có khả năng tự điều chỉnh để duy trì trạng thái cân bằng. Tại đó, cung bằng với cầu, mua và bán gặp nhau để hình thành nên giá cả. Đồng thời, quá trình tự điều chỉnh của kinh tế thị trường mang lại hiệu quả như đảm bảo có năng suất và hiệu quả cao, giá thành hạ và chất lượng tốt; hàng hóa, dịch vụ phong phú và dư thừa... Kinh tế thị trường luôn có sự năng động, đổi mới về sản phẩm, quy trình sản xuất, ứng dụng tiến bộ của khoa học công nghệ. Khi kinh tế thị trường phát triển theo hướng tích cực, đời sống con người ngày một nâng cao, ngày một hiện đại hơn, tạo tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một mô hình tổ chức nền kinh tế trong đó các quan hệ kinh tế, mua bán, trao đổi hàng hóa... phát sinh, kết nối với nhau thành một hệ thống. Như phần trên đã phân tích, thực chất kinh tế thị trường chính là cách thức tổ chức hoạt động mua và bán diễn ra trong nền kinh tế, tại đó có sự tương tác giữa người mua với người bán, trao đổi
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 15
thương lượng với nhau để hình thành nên giá cả của hàng hóa. Như vậy, có thể nói rằng từ khi hình thành các quan hệ trao đổi, mua bán và xuất hiện tiền tệ với vai trò trung gian, đó chính là những dấu hiệu ban đầu của mô hình kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã có một lịch sử hình thành và phát triển rất dài, từ kinh tế hàng hóa ở mức sơ khai phát triển lên kinh tế thị trường trình độ cao như ngày nay. Có thể chia sự phát triển kinh tế thị trường thành 3 giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 1: Từ kinh tế tự nhiên chuyển sang kinh tế hàng hóa giản đơn
Mô hình kinh tế đầu tiên mà loài người trải qua là kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp. Trong kinh tế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Về lý thuyết, kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp thành và mỗi đơn vị kinh tế ấy tiến hành mọi công đoạn để tạo ra những sản phẩm cuối cùng. Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, công cụ và kỹ thuật canh tác thô sơ, dựa vào lao động chân tay của các cá nhân là chủ yếu, chỉ có trong một số trang trại của địa chủ hoặc phường hội mới có hiệp tác lao động giản đơn. Trong nền kinh tế dưới chế độ phong kiến, phân công lao động kém phát triển, cơ cấu ngành đơn điệu, mới chỉ có một số ngành nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng, có tính chất tự cung, tự cấp.
Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng giản đơn. Điều kiện cho quá trình chuyển hóa này là sự phát triển của phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội chính là cơ sở, là nền tảng cốt lõi của
16 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
kinh tế hàng hóa. Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự nhiên khác nhau sẽ có khả năng và ưu thế trong sản xuất những sản phẩm khác nhau có hiệu quả hơn. Ngay trong một vùng, một địa phương, những người sản xuất cũng có những khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất khác nhau. Mỗi người sản xuất chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình có ưu thế, đem sản phẩm của mình trao đổi (mua và bán) lấy những sản phẩm cần thiết cho sản xuất và đời sống của mình. Từ đó, trao đổi, mua bán, thị trường, tiền tệ ra đời và phát triển, hình thành nên kinh tế hàng hóa giản đơn.
Giai đoạn 2: Từ kinh tế hàng hóa giản đơn chuyển sang kinh tế thị trường tự do cổ điển
Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường tự do cổ điển được thực hiện qua ba phân đoạn phát triển của lực lượng sản xuất, kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất mới thích ứng với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Phân đoạn 1: Kỹ thuật thủ công dựa trên lao động hiệp tác giản đơn
Trong phân đoạn này, quá trình hiệp tác giản đơn giữa những người lao động được thực hiện dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công, với quy mô lớn hơn so với tổ chức sản xuất phường hội và sản xuất nhỏ cá thể. Bước đầu tiên là tập trung tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó tập trung sức lao động. Với sản xuất ở quy mô lớn hơn trong hiệp tác giản đơn, chủ tư bản phải mua khối lượng lớn nguyên liệu và buôn bán hàng hóa, do đó đã làm xuất hiện một mạng lưới mua gom nguyên liệu và bán lẻ hàng hóa, từ đó thúc đẩy việc sản xuất và trao đổi sâu rộng hơn trong xã hội. Hiệp tác giản đơn đã bước đầu làm xuất
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 17
hiện sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, nâng cao năng suất lao động xã hội lên rất nhiều - đánh dấu bước ngoặt rất quan trọng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất quy mô lớn.
Phân đoạn 2: Phân công lao động hình thành công trường thủ công tư bản chủ nghĩa
Sự phát triển của hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới hiệp tác có phân công, làm xuất hiện các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công là hình thức xí nghiệp tư bản thực hiện sự hiệp tác có phân công dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công. Công trường thủ công hình thành bằng cách tập hợp những thợ thủ công khác nghề, hoặc những thợ thủ công cùng nghề vào trong một xưởng để cùng sản xuất ra một loại hàng hóa. Công trường thủ công có đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật khác với hiệp tác giản đơn trong giai đoạn trước, đó là quá trình sản xuất được phân chia thành những phân đoạn, trên cơ sở đó mỗi công nhân chỉ chuyên làm một công việc bộ phận, từ đó lắp ráp các kết quả của mỗi công đoạn với nhau tạo thành sản phẩm hoàn chỉnh. Đây chính là chuyên môn hóa trên phạm vi hẹp.
Cũng như phân đoạn trước, cơ sở kỹ thuật của phân đoạn này về cơ bản vẫn là thủ công với công cụ chuyên dùng, phân phối và sản xuất theo kinh nghiệm cổ truyền nên chủ yếu dựa vào tay nghề khéo léo của công nhân. Cơ cấu tổ chức của công trường thủ công gồm những người lao động bộ phận, sử dụng công cụ chuyên dùng thích ứng, hợp thành lao động tập thể.
Phân đoạn 3: Đại công nghiệp cơ khí
Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản, một cơ sở kỹ thuật tương ứng đã ra đời và phát triển, đó là máy móc, dây chuyền, thiết bị công nghiệp..., đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn
18 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
đại công nghiệp cơ khí. Máy móc được sử dụng phổ biến trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thông qua cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật - thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Quá trình cơ khí hóa ở một ngành dẫn đến việc thúc đẩy cơ khí hóa ở những ngành khác có liên quan. Cơ khí hóa trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hóa ngành giao thông vận tải... Cơ khí hóa bắt đầu từ ngành công nghiệp nhẹ đến các ngành công nghiệp nặng. Máy móc và đại công nghiệp đã thúc đẩy năng suất lao động xã hội tăng vọt, xã hội hóa lao động và sản xuất ngày càng cao, mở rộng thị trường, thúc đẩy sự ra đời của các trung tâm công nghiệp và những đô thị lớn.
Trong phân đoạn này, chuyên môn hóa sản xuất không chỉ dừng lại ở từng sản phẩm riêng biệt, từng bộ phận của sản phẩm, mà đã chuyên môn hóa sâu đến từng thao tác trong chế biến sản phẩm. Công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác và mỗi ngành công nghiệp lại chia thành nhiều tiểu ngành và phân loại nhỏ hơn. Chính sự phát triển ngày càng sâu rộng đó của phân công lao động xã hội là nhân tố chủ yếu dẫn đến hình thành thị trường trong nước; hình thành nên quá trình chuyên môn hóa giữa các vùng, miền trong một quốc gia và giữa các vùng, lãnh thổ khác nhau. Từ đó, dẫn đến sự trao đổi không ngừng giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới với nhau.
Giai đoạn 3: Từ kinh tế thị trường tự do cổ điển chuyển sang kinh tế thị trường hỗn hợp
Khi kinh tế thị trường tự do cổ điển phát triển đến một mức độ nhất định, nền kinh tế bắt đầu xuất hiện những hạn chế, bất cập mà các nhà kinh tế học gọi là thất bại hay khuyết tật của kinh tế thị trường. Do tự do theo đuổi các mục
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 19
tiêu lợi nhuận nên các doanh nghiệp trong nền kinh tế thường gây ô nhiễm môi trường, khai thác tài nguyên một cách bừa bãi dẫn tới mất cân bằng sinh thái trong khi không phải đền bù thiệt hại. Đồng thời, cơ chế thị trường dễ làm xuất hiện những căn bệnh như khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát và suy thoái, sự phân hóa giàu nghèo, dễ phát sinh những tiêu cực trong xã hội... Những khuyết tật của kinh tế thị trường đã phá vỡ cân đối của nền kinh tế, gây lãng phí nguồn lực như tài nguyên, tư liệu sản xuất, lao động, tạo ra sự phân hóa xã hội. Chính vì vậy, nhà nước phải có vai trò nhất định để khắc phục những nhược điểm trên.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kỳ tự do cạnh tranh đã chứng minh rằng trong giai đoạn kinh tế thị trường phát triển theo Lý thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith và David Ricardo, nhà nước không can thiệp vào nền kinh tế, tất yếu dẫn đến cuộc Đại suy thoái kinh tế 1929-
1933. Để khắc phục tình trạng này, Lý thuyết kinh tế của Keynes đã ra đời, theo đó yêu cầu nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế thông qua các chính sách tài khóa để kích thích nền kinh tế. Đến năm 1948, Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của Paul Samuelson ra đời, trong đó khẳng định một nền kinh tế thị trường cần có sự kết hợp của hai nhân tố: sự tự điều tiết của thị trường (bàn tay vô hình) và sự can thiệp của chính phủ (bàn tay hữu hình), nếu thiếu đi một trong hai bàn tay này, chẳng khác nào vỗ tay bằng một bàn tay.
Trong lý thuyết của mình, Samuelson và các nhà kinh tế thuộc trường phái kinh tế hiện đại đã xác định rõ những chức năng và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, bao gồm: (1) Định hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật; (2) Thiết lập
20 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
khuôn khổ pháp luật, xây dựng hệ thống cơ sở nhất quán tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho kinh tế phát triển; (3) Hạn chế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường; (4) Trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực của nền kinh tế: những ngành kinh tế công cộng, năng lượng...; (5) Quản lý và bảo vệ tài sản công, kiểm kê, kiểm soát hoạt động kinh tế - xã hội; và (6) Phân phối hợp lý các nguồn lực sản xuất trong nền kinh tế.
3. Đặc điểm của kinh tế thị trường
Từ khái niệm và lịch sử phát triển của kinh tế thị trường, có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản của một nền kinh tế thị trường như sau:
Thứ nhất, tính độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế Kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn độc lập, tự chủ trong việc quyết định: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Họ tự chịu trách nhiệm đối với quyết định sản xuất, kinh doanh của mình dựa trên những tín hiệu thị trường.
Thứ hai, cơ chế vận hành của kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh
Có thể khẳng định, tự do cạnh tranh chính là linh hồn của kinh tế thị trường. Nếu thiếu tự do cạnh tranh, một nền kinh tế không thể được gọi là kinh tế thị trường. Về bản chất, cơ chế cạnh tranh của thị trường chính là cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế thông qua các quy luật vốn có của kinh tế thị trường - mà các nhà kinh tế học gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này sẽ giúp nền kinh tế tự thiết lập lại sự cân bằng mỗi khi bị trục trặc.
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 21
Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế. Thông qua cơ chế cạnh tranh, các nguồn lực sẽ được rút ra khỏi những ngành, lĩnh vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có lợi thế phát triển và thu được hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn. Lịch sử phát triển của kinh tế thị trường đã chứng minh rằng cho đến nay, cạnh tranh vẫn là cơ chế phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất.
Thứ ba, hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung - cầu quyết định sự vận hành của kinh tế thị trường Giá cả trên các loại thị trường được xác định dựa trên tương quan cung và cầu hàng hóa, dịch vụ của từng thị trường đó. Tín hiệu giá cả là căn cứ khách quan để các chủ thể kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất - kinh doanh của mình trong môi trường cạnh tranh.
Kinh tế thị trường chỉ vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết định khách quan bởi thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận là động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Để phục vụ mục tiêu đó, giá cả phải được thiết định trên các cơ sở khách quan và được điều tiết bằng cơ chế tự điều tiết (cạnh tranh tự do).
Thứ tư, tính đa dạng về hình thức sở hữu trong nền kinh tế Về bản chất, nền kinh tế thị trường có cấu trúc đa sở hữu, trong đó, sở hữu tư nhân luôn là yếu tố tất yếu và bắt buộc. Phủ nhận sở hữu tư nhân đồng nghĩa với bác bỏ kinh tế thị trường. Bên cạnh sở hữu tư nhân, còn có các dạng sở hữu khác là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu hỗn hợp của các chủ thể khác nhau... Mỗi hình thức sở hữu và mỗi chủ thể sở
22 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hữu có vai trò, vị thế và chức năng đặc thù trong sự vận hành của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu là độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và trong hoạt động kinh doanh.
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của một nền kinh tế thị trường truyền thống. Ngày nay, sau một lịch sử phát triển dài hàng trăm năm với nhiều tiến bộ đột phá về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kinh tế thị trường đã phát triển ở mức cao hơn, trên những nấc thang cao hơn, được gọi là nền kinh tế thị trường hiện đại. Một nền kinh tế thị trường hiện đại trước hết phải tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của những quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Ngoài những đặc trưng mang tính phổ quát của nền kinh tế thị trường truyền thống, một nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay còn chứa đựng thêm một số đặc trưng mới, đó là:
Thứ năm, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng
Mọi nền kinh tế thị trường đều có các yếu tố cấu thành cơ bản là các loại thị trường, bao gồm các thị trường yếu tố sản xuất như: thị trường đất đai, thị trường sức lao động, thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán), thị trường nguyên vật liệu, thị trường khoa học - công nghệ...; và thị trường hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Để một nền kinh tế thị trường hoạt động trôi chảy và hiệu quả, cần phải bảo đảm hai yêu cầu sau: (1) Sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên; và (2) Các thị trường phải vận hành đồng bộ cùng nhau.
Để đáp ứng hai yêu cầu này, việc hình thành và phát triển các thị trường phải tuân theo một trật tự và các bước đi nhất định. Việc không tuân thủ trật tự đó, chẳng hạn xây dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán... nhưng hệ
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 23
thống các quyền tài sản không xác định rõ, thị trường đất đai không được thừa nhận chính thức... thường dẫn đến sự rối loạn, vận hành kém hiệu quả của từng thị trường chức năng và của cả nền kinh tế.
Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các thể chế thị trường đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của thị trường, đó là chủ thể sở hữu độc lập, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, cơ chế phân bổ nguồn lực do các lực lượng thị trường quyết định là chính, thông qua cạnh tranh tự do,... trên cơ sở được sự bảo đảm của luật pháp. Nếu không được bảo vệ bằng các đạo luật như luật cạnh tranh, luật về các quyền sở hữu, luật chống độc quyền, luật chống bán phá giá thì nền kinh tế thị trường không thể hoạt động bình thường và đúng nghĩa.
Thứ sáu, vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước
Lịch sử phát triển của nền kinh tế thị trường đã chứng minh thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề phát triển, như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v.. Để khắc phục những khuyết tật và tránh khỏi thất bại
thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với các tư cách đó, nhà nước thực hiện ba chức năng:
- Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển.
- Phân phối lại thu nhập quốc dân.
- Bảo vệ môi trường.
Và để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước trong một nền kinh tế thị trường hiện đại cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
24 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường; - Kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mô ổn định, khuyến khích sản xuất, kinh doanh;
- Cung cấp kết cấu hạ tầng, bao gồm hạ tầng "cứng" (giao thông vận tải, điện, nước...) và hạ tầng "mềm" (dịch vụ thông tin, bưu chính - viễn thông, tài chính...); cũng như các dịch vụ và hàng hóa công cộng như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường, v.v..
- Hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường bình đẳng.
Trên đây là sáu đặc điểm cơ bản cấu thành khung thể chế chung cho mọi nền kinh tế thị trường trong giai đoạn hiện nay. Sáu đặc điểm đó đã hình thành nên một tổng thể, hỗ trợ và ràng buộc lẫn nhau. Nếu như thiếu bất cứ đặc điểm nào trong số đó đều không thể có một nền kinh tế thị trường phát triển lành mạnh, ổn định và vận hành hiệu quả. Tuy vậy, cũng cần phải khẳng định rằng, trong mỗi nền kinh tế thị trường, tuỳ theo các điều kiện phát triển cụ thể, vai trò, vị trí của từng đặc điểm không hoàn toàn giống nhau. Điều này tạo nên đặc thù của các mô hình kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường ở những quốc gia cụ thể.
II. CÁC QUY LUẬT CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Quy luật và quy luật kinh tế
1.1. Quy luật
Quy luật có thể được hiểu là mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến của các sự vật và hiện tượng trong những điều kiện nhất định. Mặc dù quy luật được con người đặt tên,
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 25
nhưng quy luật hoàn toàn mang tính khách quan và không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của con người:
- Con người không thể tạo ra quy luật nếu điều kiện hình thành quy luật chưa có, ngược lại khi điều kiện tồn tại của quy luật vẫn còn thì con người không thể xoá bỏ quy luật.
- Các quy luật tồn tại và hoạt động không lệ thuộc vào ý muốn và nhận biết của con người.
- Các quy luật (quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế, quy luật xã hội...) tồn tại đan xen vào nhau tạo thành một hệ thống thống nhất, chi phối và chế ngự lẫn nhau.
1.2. Quy luật kinh tế
Theo Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa ấn hành năm 2001, quy luật kinh tế là những sự phụ thuộc lẫn nhau khách quan, ổn định, quan trọng nhất là mối liên hệ nhân quả trong các quá trình và hiện tượng kinh tế. Quy luật kinh tế là quy luật phát triển của các quan hệ sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Cũng giống như quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí và ý thức của con người. Việc nhận thức quy luật kinh tế đã trải qua một quá trình tương đối dài và tiếp tục đến ngày nay.
Quy luật kinh tế khác quy luật tự nhiên ở chỗ bản thân một hiện tượng kinh tế nào đó, tùy theo sự thay đổi hoàn cảnh cụ thể mà phát sinh sự thay đổi tương ứng. Nghiên cứu quy luật kinh tế phải xét đến ảnh hưởng nhân tố lịch sử gây ra, nó liên quan đến việc phán đoán về giá trị, đến nhân tố tâm lý như động cơ, kỳ vọng, v.v.. Ngoài ra, khi vận dụng cụ thể một quy luật nào đó vào một hoàn cảnh nhất định thì phải xem xét hoàn cảnh đó có làm “nhiễu loạn” sự phát sinh tác dụng của
26 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
quy luật đó hay không. Vì thế, có thể thấy rằng, quy luật kinh tế tuy có chức năng lý giải và dự báo giống như quy luật tự nhiên, nhưng quy luật kinh tế được tổng kết quy nạp thông qua phương pháp lịch sử và kinh nghiệm, chịu sự hạn chế của thời gian, không gian và các loại hoàn cảnh cụ thể.
2. Các quy luật chủ yếu của kinh tế thị trường
Một nền kinh tế thị trường tồn tại, phát triển và vận hành dựa trên những quy luật vốn có của nó. Điều đó yêu cầu các thành viên trong nền kinh tế đó, từ người sản xuất, người tiêu dùng đến chính phủ đều phải tôn trọng và tuân thủ các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Việc vi phạm các quy luật này sẽ làm biến dạng, méo mó nền kinh tế thị trường. Các quy luật chủ yếu của kinh tế thị trường bao gồm:
2.1. Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa trong kinh tế thị trường. C. Mác - người tìm ra quy luật về giá trị đã cho rằng ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Quy luật giá trị chính là quy luật chi phối cơ chế thị trường và chi phối các quy luật kinh tế khác.
Nội dung của quy luật giá trị: Việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Quy luật giá trị quyết định giá cả hàng hóa, dịch vụ, mà giá cả chính là tín hiệu nhạy bén nhất trong cơ chế thị trường.
Cơ chế biểu hiện của quy luật giá trị: Hoạt động của quy luật giá trị được thể hiện ở sự biến đổi lên xuống của giá cả
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 27
xoay quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung - cầu hàng hóa trên thị trường. Nếu sức mua đồng tiền không đổi, nếu không có sự điều tiết của nhà nước và không có độc quyền thì xảy ra ba trường hợp sau:
+ Khi cung = cầu, thì giá cả = giá trị
+ Khi cung > cầu, thì giá cả < giá trị
+ Khi cung < cầu, thì giá cả > giá trị
Tuy vậy, xét về tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng với tổng giá trị.
Tác động của quy luật giá trị: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Nó điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; kích thích tiến bộ, nâng cao năng suất lao động; phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu - nghèo.
+ Trong lĩnh vực sản xuất: Quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất phải luôn luôn có ý thức tìm các biện pháp hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Nghĩa là, đối với một hàng hóa cá biệt, nếu người sản xuất muốn bán được trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận thì lượng giá trị của một hàng hóa đó phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Đối với một mặt hàng hay ngành hàng, yêu cầu quy luật giá trị thể hiện ở chỗ tổng giá trị của hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội.
+ Trong lĩnh vực trao đổi: Việc trao đổi phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá. Hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện thông qua sự vận động của giá cả xoay xung quanh giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, giá trị là cơ sở của giá cả, những hàng hóa có hao phí lao động lớn thì giá trị của nó lớn dẫn đến giá cả cao và ngược lại. Đối với mỗi hàng hóa thì
28 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
giá cả hàng hóa có thể bằng hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị nhưng đối với toàn bộ hàng hóa của xã hội thì luôn luôn có tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị.
2.2. Quy luật cung - cầu
Trong kinh tế học, cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được sản xuất và bán ra trên thị trường. Cung của thị trường do sản xuất quyết định, song không đồng nhất với sản xuất.
Còn cầu được đo bằng lượng hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua trong một nền kinh tế. Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Do đó, cầu trong kinh tế không đồng nhất với tiêu dùng, vì cầu không phải là nhu cầu tự nhiên theo nguyện vọng chủ quan của người tiêu dùng, mà cầu phụ thuộc vào khả năng thanh toán.
Trong một nền kinh tế, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau trên thị trường. Ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung - cầu tồn tại và vận động một cách khách quan. Hiểu theo nghĩa rộng, cung và cầu không chỉ là cung và cầu về hàng hóa và dịch vụ mà còn bao gồm cung và cầu về lao động, về vốn, tiền tệ... Trên tất cả các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường, cung và cầu đều tồn tại và hoạt động theo đúng quy luật của nó.
Nội dung của quy luật cung - cầu: Thông qua sự điều chỉnh của quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường, một mức giá cân bằng (còn gọi là mức giá thị trường) và một lượng giao dịch hàng hóa cân bằng sẽ được xác định. Trạng thái cân bằng của một mặt hàng gọi là cân bằng bộ phận; trạng thái cân bằng của cùng lúc tất cả các mặt hàng trong
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 29
nền kinh tế gọi là cân bằng tổng thể hay cân bằng chung. Ở trạng thái cân bằng, sẽ không có dư cung (lượng cung lớn hơn lượng cầu) hay dư cầu (lượng cầu lớn hơn lượng cung).
Tác động của quy luật cung - cầu đến giá cả và thị trường: Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau:
+ Nếu cầu tăng và cung không đổi, xảy ra tình trạng thiếu hụt trên thị trường, dẫn đến giá cân bằng cao hơn. + Nếu cầu giảm và cung không đổi, xảy ra tình trạng dư thừa hàng hóa trên thị trường, dẫn đến giá cân bằng thấp hơn.
+ Nếu cầu không thay đổi và cung tăng, dẫn đến dư thừa hàng hóa và giá cân bằng thấp hơn.
+ Nếu cầu không thay đổi và cung giảm, tình trạng thiếu hụt xảy ra, dẫn đến giá cân bằng cao hơn.
Quy luật cung - cầu cho thấy cung và cầu tác động lẫn nhau, cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hóa. Những hàng hóa nào được tiêu thụ thì mới được tái sản xuất. Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, chủng loại, hình thức, quy cách và giá cả hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể cần nắm vững quy luật cung - cầu để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Nếu nhận thức được quy luật cung - cầu, có thể vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho quá trình tái sản xuất xã hội. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp
30 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
kinh tế như: giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng... nhằm tác động vào các hoạt động kinh tế, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý.
2.3. Quy luật cạnh tranh
Nghiên cứu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là khi tỷ suất lợi nhuận cao sẽ có nhiều người muốn gia nhập ngành, ngược lại những ngành, những lĩnh vực mà tỷ suất lợi nhuận thấp thì sẽ có sự thu hẹp về quy mô hoặc rút lui của các nhà đầu tư.
Ngày nay, trong một nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có vô số người mua, người bán với lợi ích kinh tế khác nhau. Do đó, việc cạnh tranh giữa người mua với người mua, người bán với người bán và cạnh tranh giữa người mua với người bán tạo nên sự vận động của thị trường và trật tự thị trường. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường vừa là đặc trưng, là yếu tố bắt buộc cần phải có và cũng là động lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong kinh tế thị trường, nhà nước không chỉ thừa nhận cạnh tranh mà còn phải đóng vai trò khuyến khích cạnh tranh, tạo môi trường cho cạnh tranh phát triển. Còn doanh nghiệp và người tiêu dùng phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng cạnh tranh như là một công cụ hữu hiệu để tối đa hóa lợi ích của mình.
Ý nghĩa của quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Cạnh tranh sẽ tạo ra sức ép buộc các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, đưa ra thị trường những sản phẩm có chất
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 31
lượng, giá cả hợp lý. Việc tuân thủ quy luật cạnh tranh sẽ có tác động mở rộng kinh doanh và tăng tích luỹ cho doanh nghiệp. Quy luật cạnh tranh cho thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường thì vấn đề cốt yếu nhất là phải nâng cao được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó là khả năng thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc sản xuất và cung ứng, vừa tối đa hóa lợi ích của mình vừa thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
2.4. Quy luật lưu thông tiền tệ
Nếu như quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu làm giá cả hàng hóa vận động, tiến tới cân bằng thì quy luật lưu thông tiền tệ thể hiện mối liên hệ cân bằng giữa hàng và tiền. Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông.
Tổng số tiền lưu thông trong nền kinh tế phụ thuộc vào 3 yếu tố sau: (1) Khối lượng hàng hóa lưu thông; (2) Mức giá cả của hàng hóa; (3) Tốc độ lưu thông tiền tệ. Về lý thuyết, tổng lượng tiền cần cho lưu thông được xác định bằng tổng số giá cả hàng hóa chia cho tốc độ quay vòng của những đơn vị tiền tệ. Trên thực tế, lượng tiền cần cho lưu thông bằng tổng giá cả hàng hóa trừ đi tổng tiền khấu trừ, trừ đi tổng giá hàng hóa bán chịu cộng với tổng tiền thanh toán rồi chia cho tốc độ lưu thông tư bản.
Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau: + Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hóa quyết định.
+ Tiền đại diện cho người mua, hàng đại diện cho người bán. Lưu thông tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với mối quan hệ tiền - hàng, mua - bán, giá cả - tiền tệ.
32 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
+ Cơ chế lưu thông tiền tệ còn phụ thuộc vào cơ chế xuất nhập khẩu, cơ chế quản lý ngoại hối, cơ chế kinh doanh tiền tệ của ngân hàng.
Bên cạnh các quy luật chủ yếu nêu trên, trong nền kinh tế thị trường còn tồn tại nhiều quy luật kinh tế khác như: quy luật tỷ suất lợi nhuận giảm dần, quy luật khủng hoảng kinh tế, quy luật thặng dư... cũng ảnh hưởng, tác động đến sự vận hành và hoạt động của nền kinh tế.
III. CÁC MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Lịch sử phát triển kinh tế thị trường cho đến nay, ở góc độ tổng quát có thể phân thành hai mô hình cơ bản: mô hình kinh tế thị trường cổ điển và mô hình kinh tế thị trường hiện đại.
1. Mô hình kinh tế thị trường cổ điển
Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường cổ điển là duy trì, khuyến khích rộng rãi tự do cạnh tranh, tự do trao đổi, tự do tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên cơ sở tín hiệu và sự điều tiết của thị trường. Do vậy, hoạt động của mọi chủ thể kinh tế, sự vận động của giá cả đều chịu tác động trực tiếp của hệ thống quy luật kinh tế thị trường, mà Adam Smith gọi là “Bàn tay vô hình”. Trong giai đoạn vận động, phát triển của kinh tế thị trường cổ điển, nhà nước chỉ đóng vai trò “trọng tài kinh tế”, can thiệp rất hạn chế và mang tính gián tiếp vào các hoạt động kinh tế. Tiêu biểu của mô hình này là nền kinh tế Tây Âu từ thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XIX.
Ưu điểm nổi bật của mô hình kinh tế thị trường cổ điển là nền kinh tế phát triển năng động, linh hoạt. Nhưng sự tồn
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 33
tại và vận động của nền kinh tế theo mô hình này đến một giai đoạn nhất định, khi trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ở mức cao, thì những khuyết tật của thị trường bộc lộ một cách mạnh mẽ, mâu thuẫn nội tại trong phát triển ngày càng gay gắt, khủng hoảng kinh tế bột phát với sức tàn phá nặng nề. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 1929-1933 là một minh chứng.
Những khuyết tật và mâu thuẫn trong phát triển kinh tế thị trường cổ điển đã đặt ra yêu cầu khách quan về sự can thiệp, điều tiết sâu, rộng hơn của nhà nước vào nền kinh tế. Và mô hình kinh tế mới xuất hiện - mô hình kinh tế thị trường hiện đại, hay còn gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
2. Mô hình kinh tế thị trường hiện đại
Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường hiện đại hay kinh tế thị trường hỗn hợp là có “hai chủ thể” tham gia điều tiết nền kinh tế, đó là “thị trường” điều tiết ở tầm vi mô, nhà nước điều tiết ở tầm vĩ mô; đồng thời có “hai chủ thể” thực hiện các hoạt động đầu tư là nhà nước và tư nhân. Khó khăn lớn nhất trong kinh tế thị trường hiện đại là xác định giới hạn sự can thiệp, điều tiết vào thị trường của nhà nước với tính khoa học, khả thi trong những công cụ mà nhà nước sử dụng để điều tiết kinh tế. Nếu nhà nước can thiệp quá sâu, chính sách của nhà nước không khoa học và thiếu khả thi sẽ làm triệt tiêu những ưu thế, những động lực của thị trường. Ngược lại, nếu nhà nước can thiệp không đủ liều lượng thì sẽ tạo điều kiện cho những khuyết tật của thị trường phát sinh, tác động tiêu cực mạnh mẽ. Trong lĩnh vực đầu tư, nếu kinh tế nhà nước và phạm vi độc quyền của kinh tế nhà nước quá rộng sẽ hạn chế tính năng động, sáng tạo và
34 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
khả năng thu hút nguồn lực của kinh tế tư nhân. Ngược lại, nếu tiềm lực kinh tế của nhà nước quá yếu cũng sẽ hạn chế hiệu quả can thiệp, điều tiết của nhà nước khi cần thiết và sự thiếu hụt hàng hóa công cộng sẽ trầm trọng.
Nền kinh tế thị trường của mỗi quốc gia trên thế giới có cách thức giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường khác nhau, tùy thuộc vào lịch sử phát triển, vào cơ chế quản lý, vào trình độ kinh tế cũng như chế độ chính trị - xã hội... Vì lẽ đó, nền kinh tế thị trường hiện đại của từng quốc gia lại có những nét riêng biệt và những đặc thù khác nhau. Tuy vậy, cho dù có thể phân biệt ở một số đặc điểm nào đó, song đã được gọi là kinh tế thị trường thì đều phải chứa đựng những đặc trưng vốn có như đã phân tích ở phần trên. Dưới đây có thể điểm sơ qua vài nét về một số mô hình kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới.
2.1. Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu
Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu còn gọi là kinh tế thị trường “xã hội phúc lợi”, điển hình là Thụy Điển, bắt đầu hình thành từ những năm 30 của thế kỷ XX. Mô hình này được xây dựng dựa trên lý thuyết “Ngôi nhà chung cho mọi người” của phái xã hội - dân chủ, đại diện là cựu Thủ tướng Thụy Điển P.A. Hanson; xuất phát từ khẩu hiệu: “bình đẳng, đảm bảo xã hội, hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ”. Trong mô hình này, sự phát triển được thực hiện kết hợp hài hòa giữa mở rộng phúc lợi xã hội với kinh tế thị trường tư nhân. Thực hiện mô hình này, Thụy Điển đã đạt được những thành công nhất định, đưa Thụy Điển từ một trong những nước nghèo nhất châu Âu trở thành một trong những quốc gia phát triển nhất châu lục này. Trong nền kinh tế, hoạt động sản xuất và
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 35
kinh doanh tuy tập trung trong tay một nhóm nhỏ nhưng sự phân hóa giàu - nghèo dần dần được thu hẹp.
Tuy vậy, việc giữ mức phúc lợi xã hội cao cho mọi công dân dần dần trở thành gánh nặng cho nền kinh tế: phúc lợi xã hội chiếm tới 1/3 GNP; sự thiếu hụt ngân sách và cán cân thanh toán luôn trầm trọng; năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp giảm; lạm phát cao. Do đó, từ giữa những năm 1970 đến những năm 1990, nền kinh tế Thụy Điển ngày càng trở nên trì trệ. Do vậy, sau gần 50 năm thực hiện mô hình kinh tế thị trường “xã hội phúc lợi” với mức tiền lương cao và chế độ tiền lương mang tính bình quân, đến những năm 1990, Thụy Điển đã phải đặt mục tiêu giảm lạm phát lên trên mục tiêu đảm bảo toàn dụng công nhân; giảm thuế thu nhập từ 72% xuống còn 50%; tăng thuế gián thu; cắt giảm bớt các khoản trợ cấp phúc lợi; tư nhân hóa trong các lĩnh vực dịch vụ. Nghĩa là một số đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường “xã hội phúc lợi” đã bị loại bỏ.
2.2. Mô hình kinh tế thị trường Nhật Bản
Kinh tế thị trường Nhật Bản đã tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau và trở thành một trong những nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhiều người coi là mẫu mực cho các nước phát triển sau noi theo.
Đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ nhất của kinh tế Nhật Bản là thời kỳ Minh Trị - thời kỳ mà những cải cách phi thường về chính trị, kinh tế và xã hội đã được thực thi. Trước hết, hệ thống chính trị phi tập trung hóa được bãi bỏ để tạo ra sự thống nhất về chính trị của đất nước, thành lập một nhà nước tập trung. Về kinh tế và xã hội, sự phân chia
36 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
xã hội thành các đẳng cấp cha truyền con nối bị xóa bỏ, thay vào đó là một xã hội hướng vào thành tựu; những người có tài và có năng lực đều có cơ hội tiến thân trong xã hội, bất chấp nguồn gốc xuất thân của họ. Song song với việc xóa bỏ hệ thống đẳng cấp, các quy tắc và luật lệ phong kiến hạn chế quyền tự do kinh tế cũng được bãi bỏ; các biện pháp tích cực thúc đẩy phát triển hạ tầng được thực hiện, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải. Đẩy mạnh việc cải cách hệ thống tài chính - tiền tệ, trong đó đặc biệt là cải cách hệ thống thuế, với thuế hiện vật được thay bằng thuế tiền; chế độ tiền tệ phong kiến được thay thế bằng một đồng tiền hợp lý và chuẩn hóa cho cả nước, việc phát hành tiền thuộc độc quyền của nhà nước Trung ương. Nhà nước tập trung mạnh cho đầu tư giáo dục; đồng thời khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hiện đại gắn liền với thực hiện tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tiếp thu tư tưởng và kỹ thuật mới nhằm hiện đại hóa đất nước.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản phục hồi và đạt được sự tăng trưởng “thần kỳ”. Giai đoạn này gọi là nền kinh tế thị trường có hướng dẫn với đặc trưng cơ bản là: Thứ nhất, Chính phủ vừa thực hiện chính sách tạo điều kiện cho tư nhân tự do kinh doanh thuận lợi; vừa loại bỏ những yếu tố không hoàn thiện của thị trường. Thứ hai, Chính phủ đảm trách chi phí đầu tư cho những ngành công nghiệp không có lãi nhưng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế như: xây dựng hạ tầng, văn hóa, giáo dục... Thứ ba, sự hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân trong phát triển kinh tế được thực hiện một cách thường xuyên và chặt chẽ.
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 37
Thứ tư, Chính phủ coi trọng công cụ kế hoạch hóa gián tiếp trong điều tiết, quản lý nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế thị trường ở Nhật Bản nổi lên một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Thực hiện dân chủ hóa kinh tế gắn liền với dân chủ hóa chính trị và xã hội.
+ Kinh tế thị trường cần có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước. Ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường, Chính phủ Nhật Bản can thiệp trực tiếp, rộng rãi và khá sâu vào nền kinh tế, nhưng sự can thiệp đó của Nhà nước giảm dần trong những giai đoạn phát triển sau.
+ Ngoài việc giải thoát về tư tưởng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh, Chính phủ Nhật Bản không ngừng chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo.
+ Tăng cường và chủ động mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
2.3. Mô hình kinh tế thị trường ở các NIC châu Á
Tuy có những nét riêng biệt, nhưng sự phát triển kinh tế thị trường các NIC ở châu Á đều có những đặc điểm chung cơ bản giống nhau, đó là:
Thứ nhất, vai trò của doanh nhân dưới sự điều tiết của “bàn tay vô hình” được đề cao trong phát triển kinh tế. Vì vậy, nhà nước tập trung vào việc thực thi hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, coi khu vực kinh tế tư nhân là hạt nhân của kinh tế thị trường, là rường cột và động lực của nền kinh tế.
Thứ hai, xác định và thực thi vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Chính phủ các NIC châu Á hạn chế tham gia vào hoạt động kinh doanh. Vì vậy, tỷ trọng của khu
38 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
vực kinh tế nhà nước luôn rất nhỏ và sự tồn tại của khu vực kinh tế nhà nước không bao giờ dẫn đến lấn át, chèn ép kinh tế tư nhân, mà là để giúp đỡ kinh tế tư nhân. Nhà nước chỉ đầu tư vào những ngành nhiều rủi ro hoặc tư nhân chưa đủ tiềm lực về tài chính hoặc kỹ thuật. Nhà nước với tư cách đại diện cho lợi ích quốc gia, luôn đi đầu trong những lĩnh vực khó khăn phức tạp. Và sau khi đã vượt qua giai đoạn khởi đầu gian khó, khi doanh nghiệp đã hoạt động tốt, dần dần chính phủ chuyển giao lại cho tư nhân thông qua chương trình tư nhân hóa.
Đồng thời, các NIC châu Á rất chú trọng đến việc xây dựng chính phủ mạnh và hiệu quả; đội ngũ công chức được đào tạo kỹ càng, chuyên nghiệp hóa cao để thực thi nhiệm vụ; đề xuất và thực thi tốt những chính sách thông minh, sáng suốt. Các chính sách tập trung vào kích thích khả năng sáng tạo và chủ động của các công ty tư nhân; bảo vệ quyền lợi chính đáng của tư nhân trong các cuộc xung đột; điều hòa tốt lợi ích tư nhân với nhau; hoặc điều hòa lợi ích tư nhân với lợi ích chính phủ, lợi ích cục bộ với lợi ích toàn cục. Chính phủ thực hiện chính sách nhất quán và minh bạch trong khuôn khổ luật pháp quốc gia và công ước quốc tế.
Thứ ba, khuyến khích “hướng ngoại” mạnh mẽ. Các NIC châu Á tuy có thực hiện sản xuất thay thế nhập khẩu nhưng chỉ trong thời gian ngắn, không đáng kể. Vì vậy, có thể nói rằng chiến lược “hướng ngoại”, hướng về xuất khẩu là chiến lược chủ yếu trong đường hướng phát triển của các NIC châu Á. Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu được thực thi một cách nhất quán theo phương thức: vốn, kỹ thuật, phương pháp quản lý hiện đại là của các công ty xuyên quốc gia, còn lao động và nguyên liệu là của nước sở tại và thị trường tiêu thụ
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 39
là các nước công nghiệp phát triển. Gắn liền với phương thức phát triển như vậy là hệ thống giải pháp, chính sách để khuyến khích xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài rất hữu hiệu.
Thực tiễn các NIC châu Á chứng minh rằng, mở cửa kinh tế, gắn sự phát triển kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, gắn sự phát triển thị trường trong nước với thị trường thế giới là con đường phát triển có hiệu quả nhất trong thời đại ngày nay.
Thứ tư, phát triển các hoạt động nghiên cứu - ứng dụng - triển khai tiến bộ khoa học công nghệ. Chính phủ các NIC châu Á rất chú trọng đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ, thường từ dành 1,5-2% GNP đầu tư vào lĩnh vực này để gia tăng nhanh chóng năng lực khoa học công nghệ quốc gia. Trong phát triển khoa học công nghệ, bước đi của các NIC châu Á là, ban đầu chủ yếu thực hiện sao chép, bắt chước và khi đã làm chủ được một số công nghệ phức tạp thì chính phủ tăng đầu tư cho các phòng thí nghiệm và nghiên cứu; đẩy nhanh việc phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học, chất xám cao; nhờ đó tăng nhanh tỷ lệ giá trị gia tăng, tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm và của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ năm, đẩy mạnh sự hình thành và phát triển các loại thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường sức lao động gắn với củng cố, kiện toàn và hiện đại hóa hệ thống tài chính, ngân hàng.
Tóm lại, các NIC ở châu Á một mặt vừa rất tôn trọng những nguyên tắc, quy luật, thể chế thị trường; vừa xác định đúng giới hạn về sự can thiệp vào kinh tế của nhà nước và không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
40 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2.4. Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
Thời điểm đánh dấu sự thay đổi có tính lịch sử, chính thức chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc là tháng 12/1978. Quá trình cải cách, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường ở Trung Quốc được thực hiện với những bước đi thận trọng, từ thực hiện thí điểm để rút kinh nghiệm, sau đó mới mở rộng trong từng ngành và toàn bộ nền kinh tế qua các giai đoạn khác nhau.
Trước hết, về phương diện lý luận, quan điểm chính thống cho rằng, kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, là thủ đoạn kinh tế có hiệu quả cao, nó hoàn toàn không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, mọi quốc gia đều cần sử dụng nó. Tuy nhiên, vẫn có sự phân biệt về bản chất giữa “kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa” và “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”. Sự phân biệt này chủ yếu thể hiện ở hai mặt: cơ sở của chế độ sở hữu và chế độ phân phối. Với sở hữu, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy sở hữu tư nhân làm cơ sở, còn kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa lấy sở hữu công cộng làm cơ sở. Tuy vậy, lấy sở hữu công cộng làm cơ sở không có nghĩa là sở hữu công cộng thuần nhất, tuyệt đối, mà sở hữu công cộng ở những ngành, những lĩnh vực nhằm giữ vai trò chủ đạo đối với các hình thức sở hữu khác như: cá thể, tư nhân, hỗn hợp. Và cũng không có nghĩa là kinh tế công hữu phải có tỷ trọng lớn, vì tỷ trọng cho từng ngành kinh tế đến đâu cho thích hợp là trên góc độ có lợi cho sự phát triển của sức sản xuất.
Về chế độ phân phối, khẳng định kết quả cuối cùng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không nhằm tập trung
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 41
tài sản vào trong tay một số ít cá nhân như kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mà nhằm đem lại sự sung túc chung cho mọi tầng lớp dân cư. Chủ nghĩa xã hội lấy phân phối theo lao động là chính, nhưng cũng chấp nhận các hình thức phân phối khác.
Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường của Trung Quốc (từ tháng 12/1978) được thực hiện tập trung vào những vấn đề chính như sau:
Thứ nhất, thay đổi phương thức quản lý, từ kế hoạch hóa tập trung sang quản lý theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, mà hạt nhân là từ bỏ việc chính phủ trực tiếp quản lý nền kinh tế, thực hiện quản lý gián tiếp từ sản xuất, kinh doanh đến lĩnh vực phân phối; tách chức năng quản lý hành chính ra khỏi chức năng kinh doanh; tách quyền sở hữu với quyền kinh doanh; mở rộng quyền tự chủ cho các địa phương và các doanh nghiệp nhà nước theo phương thức “đẩy xí nghiệp ra thị trường”.
Thứ hai, cải cách giá. Đây là khâu quan trọng nhất và cũng là gay go nhất trong quá trình chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc. Quá trình tự do hóa giá cả được thực hiện qua các giai đoạn khác nhau. Từ việc điều chỉnh giá nhiều mặt hàng theo chế độ hai giá là giá quy định và giá hướng dẫn, đồng thời thả nổi giá cả hàng nông sản và hàng công nghiệp nhẹ; cho đến việc bãi bỏ tem phiếu, thực hiện giá cả thị trường tự do với nhiều loại nguyên, vật liệu; thừa nhận tư liệu sản xuất, thông tin khoa học, kỹ thuật, tiền tệ, sức lao động, đất đai... là hàng hóa.
Thứ ba, hình thành và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất. Chính phủ Trung Quốc ban hành luật pháp và các chính sách để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại
42 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
thị trường như: thị trường kỹ thuật, vật tư, vốn, sức lao động, đất đai... Sự xuất hiện và phát triển hệ thống thị trường đã làm cho cơ chế thị trường của Trung Quốc hoạt động ngày càng linh hoạt, mềm dẻo và rộng khắp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của mọi thành phần kinh tế; thừa nhận một cách chính thức sự tồn tại lâu dài và khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế thị trường đặc sắc Trung Quốc. Đồng thời đẩy mạnh quá trình cấu trúc lại kinh tế nhà nước. Vì vậy, kinh tế tư nhân trong nước ngày càng được khuyến khích phát triển mạnh bằng những chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng... và được liên doanh, liên kết với kinh tế nước ngoài.
Thứ năm, hình thành phong cách kinh doanh thích ứng với kinh tế thị trường và kinh doanh quốc tế; tự do hóa thương mại; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế.
Tóm lại, quá trình chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường ở Trung Quốc được thực hiện với nhiều bước đi, nhưng luôn luôn nhất quán. Và thực tiễn đã chứng minh rằng, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường của Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu lớn lao, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng vào hàng cao nhất thế giới trong hàng thập kỷ qua. Tuy nhiên, gắn liền với những thành quả, quá trình phát triển kinh tế thị trường của Trung Quốc cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp như: tình trạng thất nghiệp tăng, phân hóa giàu - nghèo có xu hướng ngày càng sâu sắc thêm, tình trạng di dân cơ học vào các đô thị vượt ra khỏi tầm kiểm soát... Nhưng Trung Quốc
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 43
cho rằng, những khó khăn và phức tạp là tất yếu trên con đường đi tới mục tiêu.
IV. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ngày nay, kinh tế thị trường là mô hình kinh tế được nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, lựa chọn để thúc đẩy kinh tế phát triển. Mặc dù vẫn mang những đặc trưng của kinh tế thị trường nói chung nhưng kinh tế thị trường ở Việt Nam có tính đặc thù riêng, là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khác biệt về bản chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Thực tiễn đã cho thấy, những phương án và mô hình phát triển kinh tế thị trường khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện xác định, hoàn cảnh phát triển cụ thể của quốc gia - dân tộc. Một quốc gia đi sau không nhất thiết phải vận dụng cứng nhắc các nguyên lý lý luận; cũng không nhất thiết phải rập khuôn các mô hình kinh tế thị trường có sẵn ở đâu đó, dù là mô hình hiệu quả, để giải quyết các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc thù của mình.
Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
44 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Nếu nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội VI khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tuy nhiên phải đến Đại hội IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức được sử dụng trong Văn kiện của Đảng. Đại hội XI của Đảng đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối... Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”1; “Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”2.
---------------------------
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.73-74, 74.
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 45
Tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, tại Đại hội XII, Đảng ta đã thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”...; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”1.
Đại hội XII của Đảng đã có bước phát triển mới về tư duy, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ---------------------------
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.102-103.
46 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước... Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam... có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”1.
2. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội, tính đặc thù, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện qua những điểm sau đây:
Thứ nhất, đó là mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là khác biệt mà đó vẫn là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường” như quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự do hóa thương mại,... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. “Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển; là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất”. Thị trường cũng chính là cơ chế chủ yếu thực hiện phân phối các thành quả của tăng trưởng kinh tế, trong đó thu nhập của mỗi người được hình thành trên cơ sở và phù hợp với kết
---------------------------
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.102-103.
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 47
quả lao động cũng như mức đóng góp về các nguồn lực trong quá trình tạo ra của cải xã hội.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường đó không phải là kinh tế thị trường tự do mà có sự điều tiết, quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước trên nguyên tắc tuân thủ và tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch”, bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường, tương thích với thông lệ của quốc tế; “sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển”.
Thông qua những chính sách kinh tế, những biện pháp tài chính cần thiết, Nhà nước phát huy cao độ những mặt tích cực, những ưu thế của nền kinh tế thị trường, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho thị trường phát triển mạnh mẽ hơn và lành mạnh hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Thứ hai, là mô hình kinh tế thị trường với đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế; đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật.
48 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Kinh tế thị trường ở Việt Nam “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng “bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển”, trong đó “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng theo định hướng chung và khuôn khổ pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Việc tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu là phù hợp với trình độ phát triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay nhằm khai thác tối đa thế mạnh của mọi nguồn lực kinh tế cho mục tiêu tăng trưởng. Nhà nước coi trọng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển tự do, bình đẳng, thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.
Trong đó, kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư. Kinh tế nhà nước là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô và định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế, đảm bảo các cân đối lớn cho nền kinh tế, kiểm soát các nguồn tài nguyên chiến lược, phát triển các kết cấu hạ tầng và dịch vụ công có vốn đầu tư lớn, luân chuyển chậm, lợi nhuận không cao, rất cần thiết cho nền kinh tế - xã hội nhưng khu vực tư nhân không muốn đảm nhận;...
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 49
Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế và sẽ được tạo các điều kiện phát triển nhằm khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của thành phần kinh tế này cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, Nhà nước cũng thực hiện quản lý, định hướng thành phần kinh tế này theo những mục tiêu chung của đất nước, đảm bảo hài hoà lợi ích doanh nghiệp và lợi ích của dân tộc.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất cơ bản, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu, thực hiện công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp, phục vụ cho mục đích chung của toàn dân tộc và của nhân dân, bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế.
Thứ ba, việc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện trên nguyên tắc “chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta với đa dạng hình thức sở hữu, đa dạng thành phần kinh tế, đa dạng phương thức sản xuất, kinh doanh... do đó cần đa dạng các hình thức phân phối. Trong nền kinh tế đó, lao động trở thành cơ sở quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người. Vì vậy, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp
50 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
nhất, phù hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta.
Bên cạnh đó, hình thức phân phối theo mức đóng góp vốn nhằm huy động tốt các nguồn lực cho mở rộng, phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng là rất cần thiết và công bằng đối với các chủ thể kinh tế.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu không chỉ dừng ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt các vấn đề an sinh xã hội,... Vì vậy, phân phối lại thông qua hệ thống phúc lợi xã hội cũng là rất đúng đắn và hợp lý nhằm đảm bảo công bằng, bình đẳng trong xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hơn nữa, khi phát triển kinh tế thị trường, chúng ta cũng phải chấp nhận sự phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, chấp nhận thực tế là sẽ có những nhóm người yếu thế, không đủ sức cạnh tranh trong vòng xoáy của cơ chế thị trường, gặp rủi ro... Vai trò của Chính phủ là phải quan tâm đến vấn đề đó, hạn chế phân hóa xã hội sâu sắc... bằng cách thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội. Đây chính là nét ưu việt của chế độ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ tư, là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được định
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 51
hướng cao về mặt xã hội, có mục đích đảm bảo tối đa lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước; tôn trọng và tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tự do phát triển đồng thời thực hiện các biện pháp hữu hiệu để hạn chế những khuyết tật của tính tự phát thị trường.
Nền kinh tế đó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế - xã hội chủ nghĩa mà nội dung căn bản là bảo đảm phúc lợi đầy đủ và sự phát triển tự do, toàn diện của mọi thành viên trong xã hội, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, bảo đảm mọi người đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam luôn được định hướng theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng trưởng kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân.
Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng vội mà phải được cân nhắc tính toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả mà bền vững; gắn mục tiêu tăng tưởng kinh tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường... Nói cách khác, nền kinh tế thị trường đó không vì mục tiêu phát triển kinh tế mà hy sinh lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, huỷ hoại tài nguyên, môi trường...
Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển; công bằng phải gắn với bình đẳng xã hội, công bằng không chỉ dừng ở phân phối lợi ích công bằng mà phải là công bằng về cơ hội
52 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
phát triển - bảo đảm cho mọi thành viên trong cộng đồng đều có cơ hội như nhau để phát triển, đều được thụ hưởng lợi ích chính đáng, công bằng từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình, đồng thời có trách nhiệm đóng góp vào sự phát triển thịnh vượng chung của dân tộc;... Đây chính là tính nhân văn, ưu việt riêng có của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ năm, là “nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”.
Đặc trưng này thể hiện nền kinh tế thị trường của nước ta không phải là khác lạ so với kinh tế thị trường ở các nước, mà cũng là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới, kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới, tuân thủ các nguyên tắc, quy ước, hiệp định, điều lệ, chuẩn mực chung của thế giới để phát triển, thực hiện tự do hóa trên phạm vi quốc tế trong các lĩnh vực hợp tác thương mại, đầu tư, tài chính, dịch vụ, lao động, việc làm, tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu; thực hiện chuyển giao các thành tựu, phát minh, sáng chế khoa học công nghệ hiện đại với các quốc gia...
Nền kinh tế thị trường ở nước ta đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng và gia tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các quốc gia phát triển; chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt những thời cơ, vận hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu tăng
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 53
trưởng kinh tế, đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng của nền kinh tế, ứng phó tốt với những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập.
Như vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang những nét đặc thù và khác về bản chất với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa:
Một là, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, là nền kinh tế thị trường phục vụ và bảo vệ cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể với mục tiêu phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột.
Hai là, việc phân phối trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa chủ yếu quan tâm đến lợi ích của giới chủ tư bản, các tập đoàn kinh tế lớn, chứ không phải hướng đến lợi ích của đa số tầng lớp nhân dân lao động. Ngay cả việc thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa cũng trên cơ sở lợi ích của các “tầng lớp trên” chứ đại đa số người dân không phải là mục tiêu hướng đến của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Trong sự phát triển của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Việc thực hiện các chính sách phúc lợi, giải quyết các vấn đề xã hội của các chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ tư bản chủ nghĩa, chỉ được xem là phương tiện để duy trì chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công
54 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế thị trường mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng cao mà còn chú ý để mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên; y tế, giáo dục đều phát triển; khoảng cách giàu - nghèo được thu hẹp; đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững; môi trường sinh thái được bảo vệ; ổn định xã hội được bảo đảm...
Ba là, trong cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự can thiệp của nhà nước nếu có cũng luôn mang tính chất tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, kìm hãm những mâu thuẫn, xung đột xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Còn trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự can thiệp của nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, bảo đảm cho mọi người dân đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển.
Có thể nói rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình chưa có tiền lệ trong lịch sử. Song, với những đặc trưng ưu việt và mục đích tốt đẹp của nó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một lựa chọn tất yếu, phù hợp với bối cảnh thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới hiện nay.
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 55
Tuy nhiên, cần nhận thức rõ, quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là không đơn giản. Đó là quá trình lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn, vừa tìm tòi, phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận; vừa phải linh hoạt, sáng tạo trong thực tiễn, ứng phó tốt trước muôn vàn khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm và đồng lòng của cả dân tộc cũng như sự tích cực, nỗ lực thực hiện của các địa phương, ban, ngành trong cả nước.
3. Tiêu chí của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tiêu chí của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là những dấu hiệu, những đặc trưng làm căn cứ để nhận biết, phân biệt, đánh giá nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Lịch sử xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã trải qua hơn 3 thập kỷ, cùng với sự trưởng thành về lý luận và nhận thức. Cho đến nay, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nhiều học giả trong nước và quốc tế thừa nhận như một mô hình kinh tế thị trường kiểu mới, tồn tại song song với các mô hình kinh tế thị trường khác. Chính vì vậy, việc xây dựng bộ tiêu chí về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng, cấp thiết trong quá trình phát triển nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta. Việc xây dựng bộ tiêu chí này sẽ góp phần tăng cường sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và xã hội về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng, đồng thời tăng tính chủ động, nâng cao hiệu
56 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
quả quản lý, điều hành của các cấp, các ngành với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, hệ thống tiêu chí về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là công cụ để phục vụ cho công tác tuyên truyền đối ngoại và vận động, đấu tranh để các nước công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Để xây dựng hệ thống tiêu chí cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trước hết cùng tìm hiểu những tiêu chí nền kinh tế thị trường của một số tổ chức và quốc gia trên thế giới.
3.1. Các tiêu chí kinh tế thị trường của WTO
- Thương mại không phân biệt đối xử;
- Tự do hóa thương mại và gia nhập thị trường;
- Đảm bảo tính minh bạch, tính tiên liệu được trong chính sách thương mại;
- Đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, chống bóp méo giá cả, chống bán phá giá;
- Thúc đẩy phát triển và cải cách kinh tế, tạo điều kiện cho chính phủ khắc phục các dạng “thất bại” của thị trường thông qua ưu đãi thuế quan và thực hiện các dạng trợ cấp được phép.
3.2. Các tiêu chí của Chính phủ Hoa Kỳ về nền kinh tế thị trường
- Mức độ chuyển đổi của các đồng tiền nước ngoài với đồng bản tệ;
- Mức độ thỏa thuận về tiền lương giữa người lao động và nhà quản lý;
- Mức độ tự do trong hoạt động của các công ty có vốn nước ngoài;
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 57
- Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ đối với các yếu tố sản xuất chủ yếu;
- Mức độ kiểm soát của chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực và đối với các quyết định về giá cả, sản lượng của các doanh nghiệp;
- Các yếu tố khác có liên quan như mức độ tự do hóa thị trường và thương mại, nhà nước pháp quyền, chống tham nhũng...
3.3. Các tiêu chí của EU về nền kinh tế thị trường
- Mức độ ảnh hưởng (thấp) của chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực và các quyết định của doanh nghiệp, bất kể là trực tiếp hay gián tiếp, chẳng hạn: thông qua việc nhà nước quy định giá cả trên thị trường, áp dụng chính sách phân biệt đối xử trong thuế, thương mại hoặc tiền tệ;
- Nhà nước không được can thiệp, bóp méo hoạt động của doanh nghiệp (“tàn dư” từ hệ thống cũ) liên quan đến quá trình tư nhân hóa; không sử dụng hệ thống thương mại phi thị trường (ví dụ: hàng đổi hàng) và không áp dụng các chế độ bao cấp;
- Ban hành và thực thi luật doanh nghiệp bảo đảm tính minh bạch, không phân biệt đối xử, tạo điều kiện phù hợp cho quản lý doanh nghiệp (áp dụng các tiêu chuẩn kế toán quốc tế, bảo vệ cổ đông, đảm bảo tính sẵn có và chính xác của thông tin doanh nghiêp);
- Ban hành và áp dụng một hệ thống luật thống nhất, hiệu quả và minh bạch đảm bảo tôn trọng quyền sở hữu tài sản và đảm bảo sự vận hành của cơ chế phá sản doanh nghiệp;
- Tồn tại một khu vực tài chính đích thực, hoạt động độc lập với nhà nước, về mặt luật pháp cũng như trên thực tế,
58 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
chịu sự điều chỉnh của các quy định bảo lãnh đầy đủ, chịu sự giám sát một cách thỏa đáng;
- Tự do hóa thị trường để mở rộng cạnh tranh.
3.4. Tiêu chí kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trên cơ sở tham khảo các tiêu chí nêu trên, xin đề xuất các tiêu chí kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hệ thống tiêu chí kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có thể bao gồm nhiều chỉ tiêu định tính hay định lượng phản ánh bản chất và phải bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn, tính lịch sử cụ thể, thiết thực và tính mở; thể hiện được đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vừa tuân thủ đầy đủ, đồng bộ các quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Quan niệm về hệ tiêu chí được xác định cụ thể trên từng lĩnh vực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
- Tiêu chí về sở hữu, về các thành phần kinh tế;
- Tiêu chí về tổ chức quản lý, điều tiết nền kinh tế (vai trò của thị trường và của Nhà nước);
- Tiêu chí về cơ chế huy động, phân phối nguồn lực (đầu vào) và phân phối kết quả hoạt động kinh tế;
- Tiêu chí về các yếu tố thị trường, các loại thị trường; - Tiêu chí về các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường;
- Tiêu chí về hội nhập kinh tế quốc tế;
Ch ư ơ n g 1 : Ki n h t ế t h ị t r ư ờ n g | 59
- Tiêu chí về mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế;
- Tiêu chí về tự do hóa thương mại và gia nhập thị trường;
- Tiêu chí về tính minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, chống bóp méo giá cả, chống bán phá giá; - Tiêu chí về mức độ tự do kinh tế, môi trường kinh doanh và hoạt động của các doanh nghiệp...
Việc xây dựng hệ thống tiêu chí để đo lường và đánh giá nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mặc dù cần thiết, song không phải đơn giản và dễ dàng. Việc này đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hòa và hợp lý giữa tính quy luật và đặc trưng tất yếu của kinh tế thị trường truyền thống với những đặc thù của Việt Nam trên các khía cạnh: chính trị, kinh tế, xã hội, lịch sử... Cần có sự học hỏi, tham khảo thực tiễn phát triển ở các quốc gia có mô hình kinh tế tương tự Việt Nam như kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, kinh tế thị trường ở các NIC châu Á hoặc kinh tế thị trường “xã hội phúc lợi” ở các nước Bắc Âu.
60 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Chương 2
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 1. Bản chất, khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý là một hiện tượng xã hội phức tạp, đa diện, xuất hiện ở đâu và khi nào mà ở đó lao động xã hội đã đạt đến một trình độ xã hội hóa tương đối cao. Quản lý là sự tác động của hệ thống này lên hệ thống khác nhằm trật tự hóa nó, hướng nó vận động, phát triển theo định hướng nhất định. Các nhà khoa học đã chia quản lý thành các loại: quản lý trong lĩnh vực tự nhiên, sinh học và quản lý xã hội, trong đó quản lý xã hội bao gồm quản lý nhà nước và quản lý của các thiết chế xã hội khác.
Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12). Hiến pháp Việt Nam năm 2013 tiếp tục khẳng định “Nhà nước... quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật” (Điều 8). Như vậy, quản lý nhà nước do toàn bộ bộ máy nhà nước thực hiện gồm: cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tư pháp, Chủ tịch nước và các cơ quan khác của Nhà nước. Mỗi loại cơ quan nhà nước thực hiện quản lý nhà nước - tác động tới các quá trình xã hội nhằm đạt được những mục tiêu đã định theo chức năng riêng của mình.
Ch ư ơ n g 2 : Qu ả n l ý n h à n ư ớ c | 61
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất theo quy định của Hiến pháp, quản lý nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước. Tòa án nhân dân thực hiện quản lý nhà nước thông qua chức năng xét xử; Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hội đồng nhân dân thực hiện chức năng ra nghị quyết về “các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương...” và thực hiện chức năng giám sát ở địa phương. Bộ máy hành chính nhà nước thực hiện quản lý nhà nước bằng hoạt động (chức năng) quản lý đối với tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước, bảo đảm việc tôn trọng pháp luật, quyền, lợi ích pháp của con người, công dân.
Với quan niệm như vậy, có thể hiểu rằng: quản lý nhà nước theo nghĩa đầy đủ và rộng nhất của thuật ngữ này do mọi cơ quan nhà nước thực hiện bằng những chức năng riêng của mình.
Quản lý nhà nước là chức năng đặc thù của bộ máy nhà nước. Quản lý nhà nước do bộ máy hành chính nhà nước tiến hành để thực hiện quyền hành pháp là quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp, được gọi là quản lý hành chính nhà nước1.
---------------------------
1. Thuật ngữ quản lý hành chính được sử dụng để chỉ hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan hành chính nhà nước và hoạt động quản lý có tính chất nội bộ của các cơ quan khác của nhà nước, hay hoạt động quản lý về mặt hành chính của các cơ quan đó. Đồng thời để phân biệt giữa quản lý của cơ quan nhà nước với quản lý của các tổ chức sản xuất, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp.
62 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Thuật ngữ “quản lý nhà nước” được sử dụng thay cho thuật ngữ “quản lý hành chính nhà nước”, “hành chính công”, “hành chính nhà nước” để chỉ hoạt động quản lý của bộ máy hành chính nhà nước, những hoạt động quản lý có tính chất nội bộ của cơ quan khác của nhà nước và những hoạt động quản lý về mặt hành chính thuộc nhiệm vụ của những cơ quan đó.
Như vậy, ở phương diện chung nhất có thể hiểu, quản lý nhà nước là một loại hoạt động của nhà nước để thực hiện chức năng hành pháp, hay chức năng hành chính nhà nước, do các cơ quan nhà nước thực hiện, nhưng chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước.
Quản lý nhà nước là sự tác động của chủ thể quản lý nhà nước bao gồm nhà nước, cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân được nhà nước ủy quyền thực hiện những hoạt động quản lý nhà nước, khách thể là trật tự quản lý nhà nước do pháp luật quy định. Quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật nhà nước và điều hành các hoạt động của đối tượng bị quản lý. Đây là hoạt động mang tính tổ chức trực tiếp của nhà nước trên cơ sở chủ động, sáng tạo và được đảm bảo bởi tổ chức bộ máy nhất định, trước hết là bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước. Quản lý nhà nước mang tính chính trị, khoa học, mang tính dân chủ trực tiếp hoặc dân chủ đại diện và hình thức chuyên nghiệp. Chức năng quản lý nhà nước được đảm bảo bởi cơ sở vật chất to lớn.
Bản chất của quản lý nhà nước
Từ góc nhìn chính trị - xã hội thì quản lý nhà nước là sự kết hợp giữa tri thức và lao động. Tri thức là điều kiện, tiền đề của quản lý, lao động quản lý ở đây là lao động quyền lực, mang tính tổ chức.
Ch ư ơ n g 2 : Qu ả n l ý n h à n ư ớ c | 63
Từ khía cạnh hành động thực tế thì quản lý là quá trình tổ chức, tác động làm thay đổi quá trình tự nhiên, xã hội bằng các công cụ, phương tiện khác nhau.
Từ khía cạnh kinh tế thì quản lý là mối tương quan giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được về mặt kinh tế. Từ góc nhìn của luật học, bản chất của quản lý nhà nước là do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Hoạt động quản lý nhà nước được thể hiện qua hai khía cạnh: chấp hành và điều hành1. Thực tiễn quản lý nhà nước ở mọi quốc gia đều diễn ra những hoạt động này, do đó quan niệm nói trên đã phản ánh được những khía cạnh pháp lý căn bản của hoạt động quản lý nhà nước.
Trong thực tiễn quản lý, các cơ quan quản lý nhà nước điều hành, chỉ đạo các khách thể chịu sự quản lý của mình thực hiện pháp luật nói chung, hay thực hiện một quyết định, công việc nào đó bằng những hoạt động mang tính tổ chức trực tiếp, bằng sự đôn đốc, yêu cầu cụ thể thông qua việc yêu cầu báo cáo, yêu cầu phải thực hiện những hoạt động nào đó, v.v.. Chính trong quá trình đó, thông qua hoạt động của mình, các cơ quan quản lý nhà nước đã làm thay đổi nhận thức, từ nhận thức tới hành động của các khách thể quản lý.
Có thể hiểu bản chất của quản lý nhà nước là sự tác động thực tế, mang tính quyền lực, tổ chức và điều chỉnh của bộ máy quản lý nhà nước lên các quá trình kinh tế - xã hội, ý thức, hành vi của con người, được thực hiện thông qua các hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước.
---------------------------
1. Xem Nguyễn Cửu Việt: Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2010, tr.34.
64 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Mục tiêu quản lý nhà nước
Mục tiêu quản lý là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ thể quản lý đề ra. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các tác động quản lý cũng như lựa chọn các hình thức, phương pháp thích hợp.
Mỗi nhà nước luôn gắn với một thiết chế xã hội nhất định theo phạm vi không gian và thời gian, do vậy tính chất quản lý nhà nước sẽ thay đổi tùy theo bản chất của chế độ chính trị và trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, nhìn chung mục tiêu quản lý nhà nước luôn là bảo đảm, bảo vệ sự ổn định và phát triển xã hội bền vững, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Chủ thể quản lý nhà nước
Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các công cụ, hình thức và phương pháp thích hợp, cần thiết và dựa trên cơ sở những nguyên tắc nhất định.
Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan quản lý nhà nước và cán bộ, công chức có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao. Những chủ thể này tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp và hành pháp theo luật định.
Phạm vi quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước có tính toàn diện, bao gồm các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và ngoại giao...
Quản lý nhà nước ở Việt Nam là quản lý toàn dân, toàn diện và bằng pháp luật:
Ch ư ơ n g 2 : Qu ả n l ý n h à n ư ớ c | 65
- Nhà nước quản lý toàn dân là nhà nước quản lý toàn bộ những người sống và làm việc trên lãnh thổ quốc gia, bao gồm công dân và những người không phải là công dân.
- Nhà nước quản lý toàn diện là nhà nước quản lý toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ. Nhà nước quản lý toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội có nghĩa là các cơ quan quản lý điều chỉnh mọi khía cạnh hoạt động của xã hội trên cơ sở pháp luật quy định.
- Nhà nước quản lý bằng pháp luật là nhà nước lấy pháp luật làm công cụ xử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo luật định một cách nghiêm minh.
Đối tượng quản lý nhà nước
Đối tượng quản lý là yếu tố tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý.
Đối tượng của quản lý nhà nước bao gồm tất cả các tổ chức, cá nhân sinh sống và hoạt động sản xuất kinh tế, văn hóa, xã hội trong phạm vi lãnh thổ quốc gia; các nguồn tài nguyên thiên nhiên và xã hội được khai thác sử dụng vào quá trình cung cấp các sản phẩm theo nhu cầu xã hội.
2. Chức năng quản lý của nhà nước
Chức năng là những phương diện hoạt động cơ bản của một chủ thể cụ thể. Chức năng của nhà nước bao gồm các hoạt động đối nội và đối ngoại, bao quát toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội. Chức năng của nhà nước thể hiện nhiệm vụ, công dụng, vai trò của nhà nước khi gắn vào hoạt động cụ thể với những đối tượng quản lý cụ thể. Trong các chức năng của nhà nước, quản lý là một trong những chức năng cơ bản, chủ yếu. Chức năng quản lý của nhà nước bị quy định bởi bản
66 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
chất của nhà nước và những đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Trong hoạt động quản lý nhà nước, với phạm vi rộng và tính chất đa dạng, phức tạp, cần phải phân chia chúng thành các nhóm hoạt động chuyên biệt và phân công cho cá nhân, bộ phận, tổ chức có chuyên môn phù hợp đảm nhận. Đây chính là quá trình phân công, chuyên môn hóa lao động trong lĩnh vực hành chính, quản lý nhà nước, hình thành các chức năng quản lý. Do vậy chức năng của nhà nước trong quản lý là sản phẩm của chuyên môn hóa và phân công lao động. Chức năng quản lý nhà nước bao gồm chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Mỗi quốc gia có những đặc trưng riêng phụ thuộc vào vị trí của hệ thống hành pháp trong mối tương quan với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp quy định chức năng của các cơ quan này. Các chức năng hành chính đều được quy định chặt chẽ trong các văn bản pháp luật của nhà nước và được phân bổ cho các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đảm nhiệm, bao gồm:
Thứ nhất, cung cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.
Nhà nước cung cấp những thể chế cơ bản, những quy định và những định hướng cần thiết cho các thực thể kinh tế lựa chọn và tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, bao gồm: xác định và bảo vệ quyền tài sản, cưỡng chế tuân thủ các hợp đồng, cung cấp đồng tiền tiêu chuẩn, thước đo và các đơn vị đo lường, luật công ty, phá sản, sáng chế, bản quyền, thi hành pháp luật, duy trì trật tự luật pháp, và hệ thống thuế...
Thứ hai, cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công cộng. Trong xã hội, có một số hàng hóa và dịch vụ có đặc điểm sử dụng chung, không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng và
Ch ư ơ n g 2 : Qu ả n l ý n h à n ư ớ c | 67
không loại trừ, được gọi là hàng hóa công cộng. Những dịch vụ và hàng hóa công cộng này bao gồm an ninh, quốc phòng, đường sá, cầu cống, trợ giúp cho ngành hàng hải, kiểm soát lũ lụt, xử lý nước thải, hệ thống kiểm soát giao thông và cơ sở hạ tầng khác. Đây là nhóm hàng hóa tư nhân có thể không cung cấp do lợi nhuận thấp, khả năng thu hồi vốn chậm hoặc đòi hỏi vốn lớn hay liên quan đến an ninh quốc gia, đòi hỏi nhà nước phải thực hiện.
Thứ ba, giải quyết và hòa giải các mâu thuẫn trong xã hội. Một trong các chức năng quản lý của nhà nước là giải quyết hoặc cải thiện mâu thuẫn trong xã hội nhằm theo đuổi sự công bằng, trật tự và ổn định.
Thứ tư, duy trì cạnh tranh.
Cạnh tranh là động lực của sự phát triển và bản thân khu vực tư nhân không tự duy trì cạnh tranh. Do vậy, chức năng quản lý của nhà nước là duy trì cạnh tranh, phá bỏ độc quyền. Thứ năm, bảo vệ các nguồn lực tự nhiên.
Nhà nước phải ngăn chặn việc sử dụng lãng phí các nguồn lực tự nhiên, để bảo vệ và giảm thiểu sự suy giảm môi trường tự nhiên, nhằm chăm lo lợi ích cho các thế hệ tương lai.
Thứ sáu, bảo đảm sự tiếp cận tối thiểu của cá nhân đối với các hàng hóa và dịch vụ kinh tế.
Sự vận hành của thị trường đôi khi tạo ra những tiêu cực mà xã hội không thể chấp nhận được như nghèo đói, thất nghiệp...; hoặc những vấn đề bên ngoài thị trường như bệnh tật, tuổi già, suy dinh dưỡng, thất học v.v., tác động lên con người. Vì vậy, chức năng quản lý của nhà nước là xóa đói giảm nghèo; tạo công ăn việc làm; nâng cao chất lượng sống của người dân; chăm sóc người già; khám chữa bệnh; giáo dục miễn phí...
68 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Thứ bảy, duy trì sự ổn định của nền kinh tế.
Trong chu kỳ vận hành của nền kinh tế luôn có những thay đổi bất thường, thậm chí xuất hiện những điều kiện làm suy thoái nền kinh tế. Do vậy, chức năng quản lý của nhà nước là giảm bớt những thay đổi này thông qua ngân sách, chính sách tiền tệ, tài khóa hoặc kiểm soát tiền lương và giá cả...
3. Nội dung quản lý nhà nước
3.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
Chiến lược là một chương trình hành động tổng quát, triển khai các giải pháp để đạt được các mục tiêu toàn diện về phát triển trong một khoảng thời gian tương đối dài (10 năm, 20 năm).
Quy hoạch là việc sắp xếp, phân bố không gian các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên một lãnh thổ xác định nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực của đất nước phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cho thời kỳ xác định.
Kế hoạch là một chương trình hành động cụ thể để đạt đến các mục tiêu định trước trong những khoảng thời gian nhất định (5 năm, hàng năm). Kế hoạch bao gồm những mục tiêu cụ thể và những giải pháp hành động cụ thể được lựa chọn để đạt được những mục tiêu này.
Xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch là những công cụ quan trọng của quản lý. Sau khi chiến lược, quy hoạch và kế hoạch được phê chuẩn, chúng là những căn cứ pháp lý để hướng dẫn hoạt động và đánh giá hoạt động của
Ch ư ơ n g 2 : Qu ả n l ý n h à n ư ớ c | 69
các chủ thể tham gia thực thi chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đã đề ra.
3.2. Xây dựng chính sách, pháp luật
Nhà nước là chủ thể tổ chức nghiên cứu, xây dựng đồng bộ các cơ chế, chính sách, pháp luật trong quản lý nhà nước phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Hệ thống văn bản pháp luật được nhà nước sử dụng để điều chỉnh và tạo ra các hành vi và mối quan hệ giữa nhà nước với công dân, các tổ chức nhằm thiết lập trật tự kỷ cương xã hội. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động quan trọng thể hiện bản chất chấp hành và điều hành của quản lý nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định, cơ quan quản lý nhà nước xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về mọi ngành và lĩnh vực nhằm đảm bảo thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật thì công tác xây dựng chính sách rất được quan tâm. Chính sách là công cụ chủ yếu để thực hiện quản lý nhà nước đối với các quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Việc xây dựng và ban hành chính sách bao gồm toàn bộ quá trình nghiên cứu để hình thành các nội dung của chính sách và trình cơ quan có thẩm quyền thông qua chính sách đó.
Chính sách thường được thể chế hóa bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hành vi của các chủ thể phù hợp với mục tiêu của chính sách. Các văn bản quy phạm pháp luật sẽ tạo hành lang pháp lý cho việc tác động vào các mối quan hệ sản xuất, quan hệ lao động và quan hệ quản lý để điều chỉnh, định hướng cho sự phát triển phù hợp với mục tiêu chung của đất nước.
70 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
Tổ chức bộ máy là một cơ cấu hoàn chỉnh của hệ thống, trong đó được phân thành các bộ phận có nhiệm vụ khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, phối hợp hoạt động, hợp tác, tác động và tạo thành một tổng lực hướng theo mục tiêu chung.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước được xác định là một yếu tố, là một trong các công cụ quan trọng góp phần đảm bảo hiệu quả của quản lý nhà nước. Tổ chức bộ máy được cấu trúc hợp lý, phù hợp và ổn định sẽ phát huy được sức mạnh, nâng cao được hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và ngược lại. Nói cách khác, việc tổ chức tốt một bộ máy triển khai có tính quyết định đến việc thực thi và hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước được thiết kế từ Trung ương đến tỉnh, huyện và xã thông qua cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý chung, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức làm các công việc quản lý nhà nước với mọi ngành và lĩnh vực.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong mọi ngành và lĩnh vực có vai trò quan trọng trong việc quản lý về ngành và lĩnh vực. Đây chính là bộ phận tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật của nhà nước trong mọi ngành và lĩnh vực.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong mọi ngành và lĩnh vực cần bảo đảm các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, hình thành cơ cấu tổ chức hợp lý trong một tổng thể thống nhất. Ở bất kỳ hệ thống quản lý nào, các bộ phận cấu thành đều phải được sắp xếp trong một cơ cấu được thiết kế hợp lý, có mối quan hệ qua lại hữu cơ với nhau, nhằm tạo ra một tổng lực hướng tới mục tiêu chung của
Ch ư ơ n g 2 : Qu ả n l ý n h à n ư ớ c | 71
tổ chức. Hệ thống tổ chức quản lý mọi ngành và lĩnh vực cần được thiết kế hợp lý từ tuyến Trung ương đến tuyến địa phương, có mối liên hệ qua lại hữu cơ trong một tổng thể thống nhất để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với đội ngũ này một cách hiệu quả.
Thứ hai, phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống. Việc phân định rõ và hợp lý quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống sẽ giúp cho toàn hệ thống vận hành một cách hiệu quả, đồng thời phát huy vai trò, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của từng tổ chức trong việc thực hiện các quyền hạn và trách nhiệm được giao, tránh sự chồng chéo, trùng lắp, bảo đảm sự vận hành thông suốt của hệ thống.
Thứ ba, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ nhằm bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa chính quyền địa phương với các bộ, ban, ngành ở Trung ương trong quản lý mọi ngành và lĩnh vực ở từng địa phương, tạo ra sự đồng thuận, hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ ở từng địa phương nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Thứ tư, bảo đảm sự phù hợp giữa quyền hạn với trách nhiệm của các tổ chức. Mỗi tổ chức thực thi các quyền hạn được giao, đồng thời phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình trước cơ quan quản lý cấp trên, đồng thời trước những người dân địa phương. Việc gắn quyền hạn với trách nhiệm là yêu cầu tất yếu để nhà nước và mọi người dân có thể giám sát hoạt động của các tổ chức này nhằm mục tiêu quản lý tốt trước các yêu cầu đặt ra.
Xây dựng và tổ chức bộ máy có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước. Vấn đề trọng tâm là cần phải
72 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
xác định được cụ thể vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Hơn nữa, nhiều vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng nên việc tổ chức bộ máy cần lưu ý tới cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan từ Trung ương tới địa phương.
3.4. Phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước
Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lý nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình.
Phân cấp quản lý nhà nước là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Xác định quyền quyết định của Trung ương đối với những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối, hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
- Mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động, sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.
- Phân cấp quản lý nhà nước cần cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Phân cấp quản lý nhà nước phải xác định chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Mỗi loại việc chỉ nên được thực hiện bởi một cấp, hoặc một vài cấp. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới.
Ch ư ơ n g 2 : Qu ả n l ý n h à n ư ớ c | 73
3.5. Thanh tra, kiểm tra, giám sát
Trong bất kỳ hoạt động quản lý nhà nước nào, để đảm bảo cho những mục tiêu đề ra đạt được hiệu quả tốt nhất, thì nhất thiết phải tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra. Quản lý nhà nước là một trong những chức năng hoạt động quản lý. Hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thanh tra, kiểm tra là nội dung quan trọng và thiết yếu của quá trình quản lý nhà nước. Ở đâu có hoạt động quản lý thì ở đó có hoạt động kiểm tra, giám sát để đảm bảo công tác quản lý và các hoạt động khác tuân thủ theo đúng nguyên tắc và đúng pháp luật.
Thanh tra, kiểm tra có tác dụng thẩm định lại, đảm bảo cho kế hoạch được thực hiện với hiệu quả cao, đảm bảo cho lãnh đạo kiểm soát được nguồn lực để có tác động kịp thời, giúp cho hoạt động quản lý nhà nước theo sát và đối phó được với sự thay đổi, tạo tiền đề cho quá trình đổi mới đất nước. Quá trình thanh tra, kiểm tra tốt sẽ mang đến lợi ích không nhỏ trong hoạt động quản lý của nhà nước.
Thanh tra, kiểm tra còn là việc xem xét để làm rõ những hiện tượng, những vụ việc đúng, sai trong quá trình quản lý, trong hành vi của người thừa hành nhiệm vụ trong công tác quản lý.
74 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3.6. Xử lý vi phạm
Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước cần tập trung hơn vào giai đoạn sau kiểm tra, sử dụng các thực hành tốt trong giám sát và quản lý nhà nước.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh những sai phạm trong quản lý nhà nước. Mọi sai phạm đều sẽ gây ảnh hưởng, thậm chí tác động trực diện đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào bộ máy quản lý nhà nước. Do đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần có biện pháp, chế tài xử lý nghiêm minh, kịp thời. Cùng với đó, không ngừng tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong giải quyết vấn đề liên quan đến công tác quản lý nhà nước.
4. Cơ chế quản lý nhà nước
4.1. Công cụ quản lý nhà nước
Để đạt các mục tiêu quản lý, chủ thể quản lý phải tổ chức, phối hợp, khích lệ, động viên, dẫn dắt, định hướng hoạt động của đối tượng quản lý vào mục tiêu đã được xác định trước thông qua việc sử dụng hệ thống các công cụ quản lý. Công cụ quản lý là những phương tiện, những giải pháp của chủ thể quản lý nhằm định hướng, dẫn dắt, khích lệ, điều hoà, phối hợp hoạt động của con người và cộng đồng người trong việc đạt mục tiêu đề ra.
Công cụ quản lý nhà nước là tổng thể những phương tiện mà nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước của mình nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền
Ch ư ơ n g 2 : Qu ả n l ý n h à n ư ớ c | 75
dẫn tác động quản lý của nhà nước mà nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các đối tượng quản lý. Hệ thống công cụ quản lý vĩ mô là một chỉnh thể thống nhất các quan điểm, chiến lược, giải pháp, phương tiện cụ thể được nhà nước sử dụng trong quá trình hiện thực hóa các mục tiêu đã đặt ra. Hiện nay, nhà nước quản lý dựa trên những loại công cụ chính sau: công cụ pháp luật; công cụ quy hoạch, kế hoạch; công cụ tài chính; công cụ chính sách. Các công cụ này có mục tiêu, đối tượng tác động cụ thể khác nhau, nhưng đều hướng vào mục đích chung lớn hơn cả là tạo ra và duy trì sự ổn định, phát triển lành mạnh, bền vững về mọi mặt kinh tế - chính trị - xã hội - môi trường. Công cụ pháp luật
Công cụ pháp luật bao gồm những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động trong quản lý nhà nước. Nó điều chỉnh từ giai đoạn hình thành đến kết thúc một quá trình quản lý. Các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này gồm Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đến các luật cụ thể để quản lý (ví dụ như: Luật Đấu thầu, Luật Đất đai...). Để các công cụ luật pháp phát huy vai trò của mình, trước hết phải thể chế hóa được những quan điểm và những định hướng trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; thứ hai, phải bám sát được những diễn biến chủ yếu trong quan hệ hiện tại để tháo gỡ các vướng mắc do thực tế đặt ra, đồng thời dự báo trúng những vấn đề cần được quản lý trong thời gian tới; thứ ba, phải thể hiện được tư tưởng trọng dân, quan tâm phát huy dân chủ.
Bên cạnh đó, quá trình xây dựng các công cụ này đòi hỏi phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, đầy đủ và luôn theo kịp đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Trong quá trình vận
76 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hành chúng, cần có sự chỉ đạo nhanh, kịp thời, đúng và trúng theo hướng quản lý đồng bộ, hợp lý. Đồng thời, phải xử phạt nghiêm minh, mạnh mẽ hơn nữa những hành vi, vụ việc vi phạm theo đúng kỷ cương của một nhà nước pháp quyền.
Công cụ quy hoạch, kế hoạch
Công cụ quy hoạch và kế hoạch là một trong những công cụ chủ yếu phục vụ công tác quản lý nhà nước đối với mọi ngành và lĩnh vực. Thực tế, những năm qua do thiếu quy hoạch, kế hoạch tổng thể nên dẫn tới các ngành kinh tế - xã hội nước ta phát triển theo kiểu “vết dầu loang”, làm phá vỡ nhiều không gian và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Cần nâng cao tính pháp lý, tính khả thi của hệ thống các văn bản quy hoạch; phổ biến quy hoạch một cách công khai, minh bạch để mọi người biết và tuân thủ. Đặc biệt, cần tăng cường và củng cố các chức năng quản lý kết hợp với thanh tra, kiểm tra thường xuyên vấn đề tuân thủ quy hoạch, tránh tình trạng quy hoạch treo; có biện pháp kiên quyết, mạnh mẽ trong cưỡng chế khi vi phạm quy hoạch hay bắt khôi phục lại hiện trạng. Quy hoạch phải gắn liền với công tác dự báo về xu hướng phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu sử dụng lao động để từ đó có kế hoạch chủ động phát triển thị trường cũng như quản lý thị trường. Một yêu cầu nữa trong công tác quy hoạch là phải cố gắng duy trì quan hệ đoàn kết dân tộc, tình làng nghĩa xóm trong dân cư khu vực quy hoạch, giải tỏa, di dời; và cần tính đến các phương án bảo vệ được các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, nghệ thuật của cộng đồng dân cư.
Công cụ tài chính
Các công cụ, chính sách tài chính luôn có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tạo vốn, nguồn lực cho phát triển
Ch ư ơ n g 2 : Qu ả n l ý n h à n ư ớ c | 77
kinh tế - xã hội. Do đó, cần khéo léo sử dụng công cụ tài chính để góp phần ổn định kinh tế - xã hội của đất nước. Công cụ chính sách
Trong quản lý nhà nước, chính sách là bộ phận nền tảng trọng yếu của thể chế quản lý nhà nước, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác trong quản lý nhà nước như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.
Trong quản lý nhà nước, chính sách là định hướng hành động được nhà nước lựa chọn, phù hợp với đường lối chính trị để giải quyết những vấn đề chung của xã hội trong một thời kỳ nhất định. Với quan niệm đó, chính sách có vai trò to lớn trong hoạt động quản lý xã hội của nhà nước.
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách là công cụ tiền đề, không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch,... Do đó, cần nâng cao vai trò của chính sách như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
4.2. Phương pháp quản lý nhà nước
Phương pháp quản lý là biểu hiện cụ thể mối quan hệ qua lại giữa chủ thể và đối tượng quản lý của nhà nước. Vì vậy, sử dụng các phương pháp quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật. Tính khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đối tượng đó. Tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng của tổ chức nhằm đạt mục tiêu quản lý đề ra.
78 | QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Các cơ quan quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động của mình sử dụng rất nhiều phương pháp quản lý. Có những phương pháp của các ngành khoa học khác mà khoa học quản lý vận dụng và có những phương pháp đặc thù của quản lý nhà nước.
Phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là phương pháp tác động vào nhận thức của con người trong tổ chức nhằm nâng cao tính tự giác và khả năng lao động của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Các phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật nhận thức của con người. Đặc trưng của các phương pháp này là tính thuyết phục. Trên cơ sở nhận thức đúng, họ sẽ hành động đúng, hành động có lương tâm, có trách nhiệm.
Phương pháp tổ chức
Phương pháp tổ chức là phương pháp tác động lên con người thông qua mối quan hệ tổ chức nhằm đưa con người vào khuôn khổ, kỷ luật, kỷ cương.
Phương pháp này được áp dụng thông qua hai hướng. Một là, các cơ quan quản lý nhà nước thành lập các tổ chức hoặc cho phép thành lập các tổ chức và kiểm soát hoạt động của các tổ chức này. Hai là, trong từng cơ quan quản lý nhà nước phải xây dựng quy chế, quy trình, nội dung hoạt động của cơ quan, bộ phận, cá nhân và kiểm tra, xử lý kết quả thực hiện một cách dân chủ, công bằng.
Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế, để cho đối tượng bị quản lý tự lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ.
"""