🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Power Vs Force - Trường Năng Lượng & Những Nhân Tố Quyết Định Tinh Thần & Sức Khỏe Con Người Ebooks Nhóm Zalo Power vs Force by David R. Hawkins.pdf NĂNG LƯỢNG VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG Những yếu tố quyết định ẩn dấu trong hành vi của con người Bản chỉnh sửa chính thức của tác giả 1 POWER VS FORCE: AN ANATOMY OF CONSCIOUSNESS Author’s Official Authoritative Edition ~*~ NĂNG LƯỢNG VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG: MỘT SỰ GIẢI PHẪU HỌC Ý THỨC Bản chỉnh sửa được ủy quyền chính thức từ tác giả 2 Các tác phẩm khác cùng tác giả Dissolving the Ego, Realizing the Self Along the Path to Enlightenment Letting Go Healing and Recovery Reality, Spirituality, and Modern Man Discovery of the Presence of God: Devotional Nonduality Transcending the Levels of Consciousness: The Stairway to Enlightenment Truth vs. Falsehood: How to Tell the Difference I: Reality and Subjectivity The Eye of the I: From Which Nothing Is Hidden Dialogues on Consciousness and Spirituality Qualitative and Quantitative Analysis and Calibration of the Levels of Human Consciousness Orthomolecular Psychiatry (with Linus Pauling) 3 POWER VS FORCE: AN ANATOMY OF CONSCIOUSNESS The hidden determinants of human behaviour David R. Hawkins, M.D, Ph.D. Author’s Official Authoritative Edition Copyright © 1995, 1998, 2004, 2012 by David R. Hawkins 4 The skillful are not obvious They appear to be simple-minded Those who know this know the patterns of the Absolute To know the patterns is the Subtle Power The Subtle Power moves all things and has no name ~*~ Sự hiểu biết tường tận không phải là hiển nhiên Chúng dường như giản đơn Thứ mà những ai thấu hiểu sẽ nhận ra những mẫu hình của Sự Tuyệt Đối Nhận ra những mẫu hình này là Năng Lượng Huyền Diệu Năng Lượng Huyền Diệu điều khiển mọi thứ và nó vô danh 5 DEDICATION – LỜI ĐỀ TẶNG Gloria in Excelsis Deo!1- Vinh quang Thiên Chúa trên các tầng trời 1 Tiếng Latin: Gloria in excelsis Deo, et in terra pax hominibus bonae voluntatis. – Vinh quang Thiên Chúa trên các tầng trời. Và bình an dưới thế cho người Thiện Tâm. Kitô giáo (thuật ngữ phiên âm) hay Cơ Đốc giáo (thuật ngữ Hán-Việt) 6 MỤC LỤC Mục lục ...................................................................................................................................... 7 Dedication – Lời đề tặng........................................................................................................ 10 Original Foreword – Lời tựa nguyên gốc............................................................................. 11 Original Preface – Lời nói đầu nguyên gốc.......................................................................... 17 New Foreword – Lời tựa mới ................................................................................................ 23 New Preface – Lời nói đầu mới............................................................................................. 31 Introduction – Giới thiệu....................................................................................................... 32 Part One: Tools – Các công cụ.............................................................................................. 38 Chapter 1: Critical Advances in Knowledge – Những tiến bộ quan trọng trong tri thức 38 Attractors – Những sự hấp dẫn ......................................................................................... 38 Fields of Dominance – Các khu vực ưu thế...................................................................... 39 Critical Point Analysis – Phân tích điểm tới hạn.............................................................. 39 Causality – Quan hệ nhân quả .......................................................................................... 39 Chapter 2: History and Methodology – Lịch sử và phương pháp (lược bỏ)..................... 43 Historical Background – Bối cảnh lịch sử ........................................................................ 43 The Testing Technique – Kỹ thuật thử nghiệm ................................................................ 43 Use of the Testing Procedure in This Study – Cách sử dụng phương pháp thử nghiệm trong nghiên cứu này.................................................................................................................. 43 Discrepancies – Các sự tương phản .................................................................................. 43 Limitations – Các hạn chế................................................................................................. 43 Disqualification – Các nguyên nhân ................................................................................. 43 Chapter 3: Test Results and Interpretation – Kết quả thử nghiệm và diễn giải ............... 43 Discussion – Thảo luận..................................................................................................... 45 Chapter 4: Levels of Human Consciousness – Các mức độ ý thức của con người.......... 47 MỨC NĂNG LƯỢNG 20: SHAME - XẤU HỔ........................................................... 48 MỨC NĂNG LƯỢNG 30: GUILT - TỘI LỖI............................................................. 49 MỨC NĂNG LƯỢNG 50: APATHY - THỜ Ơ, VÔ CẢM......................................... 49 MỨC NĂNG LƯỢNG 75: GRIEF - ĐAU BUỒN ....................................................... 50 MỨC NĂNG LƯỢNG 100: FEAR - SỢ HÃI............................................................... 50 MỨC NĂNG LƯỢNG 125: DESIRE - KHAO KHÁT, HAM MUỐN...................... 51 MỨC NĂNG LƯỢNG 150: ANGER - TỨC GIẬN..................................................... 52 MỨC NĂNG LƯỢNG 175: PRIDE - SỰ KIÊU HÃNH ............................................. 52 MỨC NĂNG LƯỢNG 200: COURAGE - DŨNG CẢM............................................. 53 MỨC NĂNG LƯỢNG 250: NEUTRALITY - TRUNG TÍNH................................... 54 7 MỨC NĂNG LƯỢNG 310: WILLINGNESS - SẴN SÀNG....................................... 55 MỨC NĂNG LƯỢNG 350: ACCEPTANCE - CHẤP NHẬN ................................... 56 MỨC NĂNG LƯỢNG 400: REASON - LÝ TRÍ......................................................... 57 MỨC NĂNG LƯỢNG 500: LOVE - TÌNH YÊU ........................................................ 57 MỨC NĂNG LƯỢNG 540: JOY - NIỀM VUI............................................................ 59 MỨC NĂNG LƯỢNG 600: PEACE - BÌNH AN......................................................... 59 MỨC NĂNG LƯỢNG 700-1000: ENLIGHTENMENT - GIÁC NGỘ ..................... 60 Chapter 5: Social Distribution of Consciousness Levels – Phân vùng xã hội của các mức độ ý thức.................................................................................................................................... 61 General Description – Mô tả chung.................................................................................. 61 Cultural Correlations – Các tương quan văn hóa.............................................................. 62 Progression of Consciousness – Sự phát triển của ý thức................................................. 63 Chapter 6: New Horizons in Research – Những chân trời mới trong nghiên cứu (lược bỏ) .............................................................................................................................................. 64 Social Problems – Các vấn đề xã hội................................................................................ 64 Industrial and Scientific Research – Nghiên cứu kỹ nghệ và khoa học............................ 64 Materials Research – Nghiên cứu vật liệu..................................................................... 64 Product Development – Phát triển sản phẩm ................................................................ 64 Scientific Inquiry – Nghiên cứu khoa học .................................................................... 64 Medical Science – Y học............................................................................................... 64 Research in Theology, Epistemology, and Philosophy – Nghiên cứu trong thần học, nhận thức luận/tri thức luận và triết học ............................................................................................ 64 Chapter 7: Everyday Critical Point Analysis – Phân tích điểm tới hạn mỗi ngày (lược bỏ)65 Current and Historic Events – Các sự kiện trong hiện tại và quá khứ.............................. 65 Health Research – Nghiên cứu y tế................................................................................... 65 Criminal Justice and Police Work – Luật pháp hình sự và hoạt động giữ trật tự ............. 65 Statistics and Methodology: Time Saving – Dữ liệu thống kê và phương pháp học: tiết kiệm thời gian ............................................................................................................................ 65 Politics and Government – Chính trị và chính phủ........................................................... 65 Commerce – Thương mại ................................................................................................. 65 Science and Research – Khoa học và nghiên cứu............................................................. 65 Clinical Work – Thử nghiệm lâm sang............................................................................. 65 Education – Giáo dục........................................................................................................ 65 Spirituality – Tinh thần ..................................................................................................... 65 Chapter 8: The Source of Power – Nguồn gốc của năng lượng ....................................... 65 8 Part Two: Work – Kết quả.................................................................................................... 76 Chapter 9: Power Patterns in Human Attitudes – Các mẫu hình năng lượng trong thái độ con người ............................................................................................................................. 76 Chapter 10: Power in Politics – Năng lượng trong chính trị (lược bỏ) ............................ 81 Chapter 11: Power in the Marketplace – Năng lượng trong thương trường (lược bỏ) ... 85 Chapter 12: Power and Sports – Năng lượng và các môn thể thao (lược bỏ) .................. 85 Chapter 13: Social Power and the Human Spirit – Năng lượng xã hội và tinh thần của con người (lược bỏ) .................................................................................................................... 85 Chapter 14: Power in the Arts – Năng lượng trong các môn nghệ thuật (lược bỏ)......... 85 Chapter 15: Genius and the Power of Creativity – Tài năng và năng lượng của sự sáng tạo (lược bỏ)............................................................................................................................... 85 Chapter 16: Surviving Success – Thành công còn sót lại (lược bỏ).................................. 85 Chapter 17: Physical Health and Power – Sức khỏe thể chất và năng lượng (lược bỏ).. 85 Chapter 18: Wellness and the Disease Process – Tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần tốt và quá trình bệnh tật (lược bỏ) ...................................................................................... 85 Part Three: Meaning – Ý nghĩa ............................................................................................ 86 Chapter 19: The Database of Consciousness – Cơ sở dữ liệu của ý thức......................... 86 Chapter 20: The Evolution of Consciousness – Sự phát triển của ý thức ........................ 91 Chapter 21: The Study of Pure Consciousness – Nghiên cứu ý thức thuần túy ............ 105 Characteristics of Pure Consciousness – Các đặc điểm của ý thức thuần túy ................ 105 Contemporary Recognition of Higher Consciousness – Sự thừa nhận đương thời của ý thức cao hơn............................................................................................................................ 108 Chapter 22: Spiritual Struggle – Cuộc đấu tranh mang tính tinh thần.......................... 109 Chapter 23: The Search for Truth – Tìm kiếm chân lý................................................... 120 Christianity – Cơ đốc giáo .............................................................................................. 121 Buddhism – Phật giáo ..................................................................................................... 121 Hinduism – Đạo Hindu ................................................................................................... 122 Judaism – Đạo do thái..................................................................................................... 122 Islam – Đạo hồi............................................................................................................... 122 Chapter 24: Resolution – Giải pháp ................................................................................. 128 Appendices – Phụ lục (lược bỏ)........................................................................................... 135 Appendix A Calibration of the Truth of the Chapters – Sự hiệu chỉnh chân lý trong các chương ............................................................................................................................... 135 Appendix B Map of Consciousness® - Bản đồ ý thức ..................................................... 135 9 Appendix C How to Calibrate the Levels of Consciousness – Làm thế nào để hiệu chỉnh các mức độ ý thức..................................................................................................................... 135 General Information – Thông tin chung ......................................................................... 135 Technique – Kỹ thuật...................................................................................................... 135 Calibration of Specific Levels – Sự hiệu chuẩn của các mức độ cụ thể ......................... 135 Numerical Calibration – Hiệu chuẩn số.......................................................................... 135 Applications – Các ứng dụng.......................................................................................... 135 To Calibrate A Level – Hiệu chỉnh mức độ A................................................................ 135 General Information – Thông tin chung ......................................................................... 135 Expertise – Ý kiến chuyên môn...................................................................................... 135 Limitations – Các giới hạn.............................................................................................. 135 Explanation – Giải thích ................................................................................................. 135 Disqualification – Nguyên nhân ..................................................................................... 135 Discrepancies – Các sự tương phản ................................................................................ 135 Note – Ghi chú................................................................................................................ 135 References – Tham khảo (lược bỏ) ..................................................................................... 135 End Notes – Chú giải (lược bỏ) ........................................................................................... 135 Glossary – Thuật ngữ (lược bỏ) .......................................................................................... 135 About the Author – Đôi nét về tác giả (lược bỏ)................................................................ 135 10 ORIGINAL FOREWORD – LỜI TỰA NGUYÊN GỐC Thử tưởng tượng nếu tất cả các câu hỏi đều có đáp án hoặc là ‘Yes’ hoặc là ‘No’. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Nếu một người học cách nói dối trong 1 giờ sau khi người đó học cách nói chuyện, sự việc này có thể trở thành khởi đầu của sự thay đổi cơ bản nhất trong sự hiểu biết của con người kể từ khi xã hội bắt đầu, sự biến đổi này có thể gây tàn phá - trong các lĩnh vực từ truyền thông đến đạo đức học, trong các khái niệm cơ bản nhất của chúng ta, trong từng khía cạnh của đời sống hàng ngày – có thể sẽ rất sâu sắc và rất khó để tưởng tượng xem cuộc sống trong một kỷ nguyên mới tiếp theo của chân lýcó thể trở nên ra sao? Thế giới mà chúng ta đang biết có thể bị bắt buộc phải thay đổi, đến tận cùng gốc rễ của mình. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Các nghiên cứu đầu tiên về Kinesiology2 nhận được sự quan tâm của giới khoa học trong nửa sau của thế kỷ trước nhờ công của tiến sĩ George Goodheart3, người đi tiên phong trong chuyên môn mà ông gọi là ứng dụng kinesiology sau khi ông phát hiện ra rằng sự kích thích vật lý nhẹ nhàng (benign physical stimuli) – ví dụ như việc bổ dung dinh dưỡng có lợi – có thể làm gia tăng sức mạnh của các cơ chỉ thị (indicator muscles) nhất định, trong khi các kích thích gây hại (inimical stimuli) có thể làm cho các cơ chỉ thị này suy yếu đột ngột. Hàm ý là ở mức độ thấp hơn nhiều so với ý thức thuộc về nhận thức (não bộ chưa kịp nhận thức được), cơ thể ‘đã biết’ và thông qua việc kiểm tra các cơ, cơ thể có thể đưa ra các tín hiệu cho biết cái gì tốt và xấu cho nó. ≈∙đã lược bỏ∙≈ 2 Thuật ngữ Kinesiology có nghĩa là "nghiên cứu về sự vận động", và ngành học về Kinesiology bao gồm các tiểu ngành sinh lý học tập thể dục, cơ chế sinh học, tâm lý học thể thao và tập thể dục, huấn luyện thể lực và y học thể thao, quản lý thể thao, giáo dục thể chất, thể dục và nâng cao sức khỏe. 3 George Joseph Goodheart, Jr., D.C. (18/8/1918 – 5/3/2008) người chữa bệnh bằng phương pháp nắn khớp xương, ông đã sáng lập ra việc ứng dụng kinesiology. 11 Trong cuối những năm 70, tiến sĩ John Diamond4 đã cải tiến chuyên môn trên thành một môn học mới mà ông ấy gọi là nghiên cứu về sự vận động của hành vi (behavioral kinesiology). Phát hiện đáng ngạc nhiên của tiến sĩ Diamond là việc các cơ chỉ thị có thể mạnh hơn hoặc suy yếu khi có sự hiện diện của các kích thích liên quan đến cảm xúc và tinh thần (emotional and intellectual stimuli) – tích cực hoặc tiêu cực, cũng giống như các kích thích vật lý (physical stimuli). Một nụ cười có thể làm cho bạn có kết quả ‘test5 strong – cánh tay sẽ bị khóa (cố định) như cũ’ và câu nói ‘tôi ghét bạn’ sẽ khiến bạn ‘test weak – cánh tay sẽ không thể bị khóa (cố định) như cũ và rơi/buông thõng xuống’. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Để thực hiện bài test vận động (kinesiological test) cần 2 người. Một người là bạn và người còn lại là bạn hoặc là người thân của bạn. Chúng tôi sẽ gọi người đó là ‘chủ thể của bạn - your subject’ 1. Chủ thể của bạn đứng thẳng, tay phải người đó duỗi thoải mái theo cơ thể, tay trái giơ ra, song song với sàn nhà, cùi chỏ thẳng (có thể đổi thứ tự tay nếu muốn). 2. Bạn đối mặt vối chủ thể và đặt tay trái của bạn lên vai phải của để giữ chắc người đó. Sau đó đặt tay phải của bạn đúng trên cổ tay của người đó (phần tay trái đang dang rộng) 3. Nói với chủ thể của bạn rằng bạn sẽ cố gắng đẩy tay trái của người đó xuống và người đó sẽ chống lại bằng tất cả sức mạnh của mình. 4. Bắt đầu đẩy tay của người đó xuống thật nhanh, kiên quyết và đều lực. Mục đích là chỉ đẩy đủ lực để kiểm tra tính co dãn và đàn hồi (spring and bounce) của cánh tay mà không đẩy quá mạnh khiến các cơ bị mỏi. Nó không phải để xác định xem ai mạnh hơn mà chỉ để tự hỏi liệu các cơ có thể ‘khóa’ khớp vai chống lại lực đẩy hay không? Giả sử không có vấn đề vật lý với các cơ và chủ thể bình thường, tâm trạng thoải mái, đang không nhận các kích thích ngoại lai (no extraneous stimuli) (vì lý do này nên việc quan trọng là người làm test (bạn) không cười hoặc tương tác lại với chủ thể của mình), các cơ sẽ ‘test strong’ – cánh tay sẽ bị khóa (cố định) như cũ. Nếu bài test được lặp đi lặp lại với sự hiện diện của các kích thích tiêu cực (ví dụ, chất làm ngọt nhân tạo) thì ‘mặc dù 4John Diamond (born 9 August 1934) is a physician and author on holistic health and creativity (là bác sĩ và là tác giả về sự sáng tạo và sức khỏe toàn diện) 5 Bài test được Diamond phác thảo trong cuốn sách Your Body Doesn’t Lie (1979) của ông, được ông sửa đổi từ các các mô tả cổ điển trong cuốn Muscles: Testing and Function (Baltimore: Williams & Wilkins, 2nd ed., 1971) của H. O. Kendall 12 lần này bạn đẩy xuống không mạnh như những lần trước thì các cơ vẫn sẽ không thể kháng cự lại sức ép từ bạn và tay của chủ thể sẽ buông thõng xuống’. Nghiên cứu của Diamond có tính thống nhất trong phản ứng của các chủ thể làm thí nghiệm. Các kết quả nghiên cứu của ông có thể dự đoán được, có thể lặp lại và phổ cập. Kết quả giống nhau cả khi không có sự liên kết hợp lý tồn tại giữa các kích thích và sự phản hồi (stimulus and response). Vì những lý do hoàn toàn không xác định, những ký hiệu trừu tượng nhất định đã gây cho tất các các chủ thể kết quả ‘test weak’ và ngược lại ở một số khác. Một số kết quả đang gây bối rối: những hình ảnh nhất định (ẩn dấu các nội dụng tích cực và tiêu cực) có thể làm cho tất cả chủ thể bị ‘test weak’, trong khi những hình ảnh “trung lập” khác làm cho tất cả các chủ thể được ‘test strong’. Và một vài kết quả đáng kể phỏng đoán: trong khi hầu như tất cả âm nhạc cổ điển (classical6 music) và hầu hết nhạc phổ thông (pop7 music) (bao gồm rock n roll8‘cổ điển’) đã tạo ra phản hồi mạnh mẽ khắp nơi, còn nhạc rock “hard” hay “metal” phổ biến cuối những năm 70 lại tạo ra phản hồi yếu ớt ở khắp nơi. Có một hiện tượng khác mà Diamond đã ghi nhận lại mà không phân tích sâu hơn hàm ý lạ lùng của nó. Các chủ thể nghe các đoạn băng ghi âm và nhận thấy sự lừa gạt - Lyndon Johnson biểu diễn trò chơi khăm Tonkin Gulf, Edward Kennedy là một tác nhân trong biến cố Chappaquiddick (Chappaquiddick incident9) – đa số có ‘test weak’. Trong khi nghe những bản ghi âm về các phát biểu về chân lý, có thể chứng minh thì đa số họ đều có ‘test strong’. Đây là điểm khởi đầu của việc mà tác giả - bác sĩ và bác sĩ về tâm thần nổi tiếng David R. Hawkins làm trong cuốn sách này. Năm 1975, tiến sĩ Hawkins bắt đầu nghiên cứu về sự phản hồi vận động học (kinesiologic response) đối với chân lý(truth) và sự giả dối (falsehood). Được hình thành bằng cách kiểm tra các chủ thể không cần bất kỳ sự hiểu biết nào ở mức ý thức với thực thể (hay vấn đề) được thí nghiệm. Trong các nghiên cứu mù đôi - 6 Cổ điển, thuộc về truyền thống lâu đời 7 Pop viết tắt của từ “popular”, phổ thông và rất phổ biến trong đại chúng 8 Ca từ đơn giản, phóng khoáng, cách trình bày sôi đông h ̣ ết mình với khán giả của ca sĩ, cùng với sựmới la ̣và manh m ̣ ẽbởi các dung d ̣ u ̣chơi nhac đa s ̣ ố là kết hơp đi ̣ ên t ̣ ử như : Ghi ta điên, tr ̣ ống, organ,… 9 Là vụ tai nạn do một chiếc xe đâm xuống sông (single-vehicle car accident) tại đảo Chappaquiddick Island, Massachusetts vào 18/7/1969, gây ra bởi sự cẩu thả của thượng nghĩ sĩ Mỹ Ted Kennedy và làm cho người phụ nữ đồng hành 28 tuổi Mary Jo Kopechne chết do bị kẹt trong xe. Tuy nhiên, sau khi điều tra người ta tin rằng Edward M. Kennedy đã vô tình điều chỉnh chiếc xe và sự điều chỉnh đã góp phần gây ra cái chết cho cô gái. 13 double-blind10- và trong các buổi diễn thuyết tập trung liên quan đến toàn bộ các khán giả nghe diễn thuyết – các chủ thể đa số có ‘test weak’ tương ứng với các phong bì chứa các viên làm ngọt nhân tạo không được làm dấu và ‘strong’ ứng với các phong bì chứa giả dược giống hệt. Cái dường như đang hoạt động/xảy ra là một dạng của ý thức mang tính cộng đồng (communal consciousness), linh hồn của vạn vật (spiritus mundi11), hay như Hawkins gọi nó theo Jung12 là một ‘cơ sở dữ liệu của ý thức’ (database of consciousness). Các hiện tượng thông thường trong các loài động vật có tính xã hội khác – tại sao một con cá đang bơi lội ven bờ của một trường học sẽ đổi hướng ngay lập tức khi một nhóm nghiên cứu sinh cách xa chúng ¼ dặm để trốn khỏi kẻ săn mồi – gắn liền với một số hành động bản năng đối với giống loài của chúng như vậy. Đơn giản là có quá nhiều trường hợp các cá nhân có sự hiểu biết rõ ràng các thông tin, đã trải nghiệm trực tiếp với những sự việc hơi xa lạ, để không nhìn nhận rằng đó là các dạng kiến thức đã được chia sẻ, trừ khi chúng được chấp nhận bởi các ý thức hợp lý. Con người cho rằng cái (màhọ cho làđúng) là đúng. – Chỉ tin cái bản thân muốn tin. Hoặc có lẽ, đơn giản hơn, sự sắc sảo giống nhau của sự khôn ngoan ít hợp lý hơn bên trong, có thể tách rời sự khỏe mạnh khỏi sự không khỏe mạnh, có thể tách biệt sự đúng đắn khỏi sự sai trái (Bỏ đi “định kiến” mới cóthể thấy được “bản chất” thật sự). Một yếu tố gợi ý mức độ cao của hiện tượng này là bản chất nhị phân/nhị nguyên hay bản chất kép (binary nature) của sự phản hồi (Chọn một trong hai. Tương tự Yes – No question, câu trả lời sẽ làyes hoặc no; Với phản hồi thìsẽ làphản hồi A hoặc B. A và B làđối lập, vídụ tích cực – tiêu cực). Hawkins đã phát hiện ra rằng các câu hỏi phải được diễn đạt để câu trả lời rõ ràng là yes hoặc no, giống như khớp nối giữa các dây thần kinh (nerve synapse) có kết nối hay không (on or off), nó cũng giống như các dạng tế bào cơ bản nhất của ‘sự hiểu biết - knowledge’; giống rất nhiều cái mà các nhà vật lý học tiên tiến nói với chúng ta là bản chất quan trọng của năng lượng mang tính vũ trụ (essential nature of 10 Tất cả các đối tượng tham gia thí nghiệm đều không biết trước quá trình thí nghiệm 11 Là thuật ngữ Latin có nghĩa đen là linh hồn của vạn vật – world spirit, thuật ngữ này được sử dụng bởi W.B. Yeats mô tả tập hợp các linh hồn của vạn vật bao gồm tất cả các ký ức vĩnh cửu 12 Là Carl Gustav Jung, một bác sĩ tâm thần, một nhà tâm lý học Thụy Sĩ. Nổi tiếng nhờ ông thành lập một trường phái Tâm Lý học mới có tên là "Tâm Lý Học Phân Tích"(‘analytical psychology’) nhằm phân biệt với trường phái "Phân Tâm Học" (‘psychanalysis’) của Sigmund Freud. 14 universal energy). Bộ não của con người, ở một vài mức độ nguyên sơ, một cỗ máy vi tính kì lạ kết nối với khoảng không rộng lớn của năng lượng vũ trụ, liệu chúng có hiểu biết sâu sắc hơn cái mà chúng biết là chúng biết hay không? Dù điều đó có đúng đi nữa. Trong các nghiên cứu kéo dài của tiến sĩ Hawkins, khám phá hay nhất của ông là cách thức phân độ trên một thước đo chân lý tương đối (relative truth) cho các lập trường trí tuệ (intellectual positions), các phát biểu, hay các ý thức hệ (ideologies), có thể được phân loại trong phạm vi từ 1 đến 1000. Hawkins cóthể xác định mức độ chân lýtương đối (phạm vi từ 1 – 1000) cho các lập trường, phát biểu, hay ýthức hệ. Chân lýtương đối của một phát biểu, vídụ như Tuyên ngôn độc lập được Hawkins hiệu chỉnh ở mức 700/1000). Hàm ý lớn lao của các sự hiệu chuẩn này là lần đầu trong lịch sử loài người, giá trị tư tưởng (ideological validity) có thể được đánh giá như là một phẩm chất bẩm sinh (innate quality) của bất kỳ chủ thể nào. Thông qua 20 năm hiệu chuẩn tương tự, Hawkins có thể phân tích quang phổ hoàn chỉnh (full spectrum) của các mức độ ý thức con người (levels of human consciousness), phát triển bản đồ hấp dẫn (fascinating map) địa lý học thông qua những trải nghiệm trong đời của người đó. Sự giải phẫu ý thức (anatomy of consciousness) này tạo ra một hồ sơ nhân thế hoàn chỉnh (entire human condition), cho phép phân tích toàn diện sự phát triển về mặt tinh thần và cảm xúc (emotional and spiritual development) của các cá nhân, các xã hội và sự cạnh tranh trong tập thể. Quan điểm quá sâu sắc và có ảnh hưởng sâu rộng cung cấp không chỉ một sự hiểu biết mới về cuộc hành trình của con người trong vũ trụ (man’s journey in the universe) mà nó còn dẫn lối cho tất cả chúng ta về việc chúng ta và những người hàng xóm của chúng ta đang ở nơi nào trên những nấc thang giác ngộ về mặt tinh thần (ladder of spiritual enlightenment), và trong chuyến hành trình riêng của chính mình để trở thành người mà chúng ta có thể trở thành. 15 Trong tác phẩm này, tiến sĩ Hawkins mang đến thành quả của nhiều thập kỷ nghiên cứu và nhìn thấu sự rực rỡ sâu sắc của các khám phá mang tính cách mạng trong vật lý hạt nâng cao (advanced particle physics) và động lực học phi tuyến (nonlinear dynamics). Lần đầu tiền trong văn khố trí tuệ phương Tây, ông ấy cho thấy rẳng ánh sáng lãnh đạm của khoa học đang thừa nhận rằng sự huyền bí và các thánh thần (mystics and saints) đã luôn nói về bản thân, chúa trời, và bản chất của thực tại (nature of reality). Nhìn vào sự tồn tại, bản chất và thánh thần cho thấy một bức tranh về mối quan hệ của con người đối với vũ trụ duy nhất bên trong khả năng tiếp nhận của chính nó để thỏa mãn cả tâm hồn và lý trí (soul and reason). Thành quả to lớn cả về trí tuệ và tinh thần ở đây, nhiều hơn những thứ bạn có thể lấy, và nhiều hơn nữa những thứ bạn có thể giữ lại cho riêng mình. - There is a rich intellectual and spiritual harvest here, much that you can take, and much more that you can give yourself. Turn the page. The future starts now. Sang trang. Tương lai bắt đầu ngay lúc này. E. Whalen, chỉnh sửa Nhà xuất bản Bard Press Arizona, 1995 16 ORIGINAL PREFACE – LỜI NÓI ĐẦU NGUYÊN GỐC ≈∙đã lược bỏ∙≈ Tiến sĩ Diamond tiến xa hơn, bằng việc khám phá ra rằng sự phản hồi vận động học phản ánh cơ thể người (human organism) có khả năng tách rời không chỉ tính tích cực khỏi các kích thích tiêu cực, mà còn tách rời sự đồng hóa - anabolic (tăng cường sự sống - life enhancing) khỏi sự dị hóa - catabolic (phá hủy sự sống - life-consuming), và đáng chú ý nhất là tách rời đúng khỏi sai. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Phản ứng cơ tích cực xảy ra để phản hồi lại một tuyên bố đúng đắn khách quan; phản hồi tiêu cực xảy ra nếu chủ thể kiểm tra được tiếp xúc với một phát biểu sai lầm. Hiện tượng này xảy ra một cách độc lập với chủ kiến và sự hiểu biết về chủ đề đó của chính chủ thể kiểm tra, nó vượt qua phương diện văn hóa trong nhiều cộng đồng và nhất quán theo thời gian. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Các các mức độ nhận thức của con người phân thành các cấp năng lượng (degree of power) được xếp trong một thang chia độ ý thức từ 1 đến 1000. Phân tầng năng lượng có liên quan đến các mức độ ý thức đối với tất các các những gì mà người đó đã trải qua. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Sự phân tầng (stratification) các mức độ năng lượng trong cảm xúc của con người (power in human affairs) hé lộ sự khác biệt đáng chú ý giữa năng lượng và sự ảnh hưởng với phẩm cách riêng (respective qualities) của mỗi người. Điều này dẫn đến việc khám phá các khu vực năng lượng vô hình (invisible energy fields) điều khiển hành vi để giải thích rõ ràng về hành vi của con người. Ngay lập tức, thang phân độ 17 tương ứng với các phân lớp biểu lộ rõ ràng trong hệ thống triết học vĩnh cửu (the hierarchy of the perennial philosophy); sự tương quan với các hiện tượng cảm xúc và tinh thần trong xã hội học (sociology), tâm lý học lâm sàng (clinical psychology), phân tích tâm lý/ phân tâm học (psychoanalysis) và tâm linh truyền thống (traditional spirituality). Thang phân độ được xây dựng dựa trên các khám phá trong vật lý lý thuyết nâng cao và động lực học phi tuyến của thuyết hỗn loạn/thuyết hỗn mang (chaos theory). Các mức phân độ đại diện cho những khu vực hấp dẫn năng lượng ở trong khu vực của bản thân ý thức (domain of consciousness itself), là nơi kiểm soát đời sống con người và vì thế nó thể hiện nội dung, ý nghĩa và giá trị, và nó hoạt động như các năng lượng cấu thành (organizing energies) những khuôn mẫu/mẫu hình/chuẩn mực phổ biến (widespread patterns) trong hành vi của con người. Sự phân tầng các khu vực hấp dẫn này dựa theo các mức độ tương ứng của ý thức, nó cung cấp một thế giới quan mới (new paradigm) để tái cơ cấu (recontextualize) các trải nghiệm của một người trong suốt cuộc đời họ (human experience throughout all time). Trên thực tế, đây là sự tiếp cận “một thông tin” dù có tồn tại - nhưng không thể tiếp cận, hứa hẹn sẽ đem đến giá trị tuyệt vời cả trong lịch sử nghiên cứu và lợi ích to lớn có thể mang lại cho tương lai loài người. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Cuốn sách này cho thấy chỉ cần một khám phá khởi đầu về tiềm năng/khả năng để nâng cao sự hiểu biết của chúng ta trong cả nghệ thuật và khoa học. Nó giống như một sự hỗ trợ trong sự phát triển tinh thần (aid in spiritual growth) và sự mở mang (maturation) đến các mức độ mở rộng nhất của ý thức, thậm chí là bản thân sự giác ngộ (enlightenment itself). ≈∙đã lược bỏ∙≈ Với quan niệm rằng bất cứ điều gì hay bất cứ ai, bất cứ đâu, tại bất cứ thời điểm nào đều có thể biết được, ban đầu sẽ tạo ra một cú sốc đối với thế giới quan (paradigm). Các quan niệm bất định vị/phi định xứ (nonlocality), khách quan (impersonality) và tính vũ trụ của bản thân ý thức (universality of consciousness itself); và đặc biệt là quan niệm về khả 18 năng quan sát các suy nghĩ và các động cơ (thoughts and motivations) của một người và chúng rõ ràng lên theo thời gian. Mọi suy nghĩ và hành động của một người để lại một dấu vết vĩnh viễn không thể xoá bỏ (indelible trace forever) trong vũ trụ. Như trường hợp của việc khám phá ra các sóng vô tuyến hay các tia x là sự mở mang bất thình lình đối với nhận thức của chúng ta về các hoạt động của vũ trụ, điều này không chỉ cho phép mà còn yêu cầu tái cơ cấu thế giới quan của chúng ta. Hàm ý của các kiến thức mới yêu cầu sự tái cơ cấu các ý tưởng cũ, để nó trở thành một hoàn cảnh lớn hơn. Sự tái cơ cấu một cách khoa học các hành vi của con người có thể phơi bày ra các cấu trúc cơ bản là nền tảng của các vấn đề cá nhân và xãhội. Bởi vì khách thể (subject matter) thực tế đơn giản dị thường, nhưng khó để thể hiện rõtrong một thế giới say mê sự phức tạp (enamored of complexity). Mặc cho sự hồ nghi (mistrust) của chúng ta về sự đơn giản hóa (simplification), có thể thấy có 2 loại người nói chung trên thế giới: những người tin và những người không tin (believers and nonbelievers). Đối với những người không tin, mọi thứ là sai trái cho đến khi được chứng minh là đúng; đối với những người tin, mọi thứ gọi là có thiện ý (in good faith) có thể đúng đắn trừ khi nó được chứng minh là sai. Thái độ bi quan (pessimistic position) của chủ nghĩa hoài nghi thích chỉ trích xuất phát từ sự sợ hãi. Nhiều thái độ lạc quan (optimistic manner) chấp nhận các thông tin phát sinh từ chính sự tự tin. Thậm chí các chương trình kiểu mẫu, tất cả chúng có đều có những ưu và khuyết điểm riêng (pros and cons). Tôi đã gặp phải, do đó, với vấn đề về trình bày dữ liệu ở một mức độ nào đó sẽ thỏa mãn cả 2 phương pháp tiếp cận. Cuốn sách này, do đó, viết theo phong cách nghịch hợp13 để thuận tiện cho việc lĩnh hội cả bằng cả não trái và não phải14. Trong thực tế, chúng ta biết mọi thứ nhờ việc thừa nhận khuôn mẫu toàn diện (holistic pattern-recognition). Cách dễ dàng nhất để năm bắt một khái niệm hoàn toàn mới đơn giản là bởi sự quen thuộc. Dạng hiểu 13 Oxymoron “phép nghịch hợp”, là khi hai khái niệm trái ngược được đặt cạnh nhau để tạo ra một hiệu ứng mang tính thơ ca 14 Bộ não của chúng ta được chia làm hai bán cầu, mỗi bên thực hiện các chức năng khác nhau. Và việc sử dụng bán cầu não phải hay trái nhiều hơn sẽ quyết định những kỹ năng và sở thích của chúng ta. Bán cầu não trái có chức năng ngôn ngữ, chịu trách nhiệm xử lý những thông tin mà con người nghe được và đưa ra những câu trả lời phù hợp. Ngoài ra, bán cầu não trái giúp con người giải quyết các vấn đề liên quan tới logic và tính toán chính xác. Bán cầu não phải chủ yếu chịu trách nhiệm về khả năng không gian, nhận diện khuôn mặt và cảm thụ âm nhạc. Nó cũng có thể xử lý các thông tin liên quan tới toán học, nhưng chủ yếu là ước lượng sơ bộ và so sánh. Bên cạnh đó, não phải giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh. Nó đóng một phần vai trò đặc biệt trong ngôn ngữ, giúp ta giải thích bối cảnh trò chuyện và âm điệu của người đối diện. 19 biết này được xây dựng bởi một lối biên soạn đặc trưng là ‘sự khép kín – closure’. Thay vì chỉ sử dụng các tính từ rải rác hay các ví dụ để bày tỏ suy nghĩ, chúng được thay đổi vị trí và hoàn thành bằng cách sử dụng sự lặp lại (repetition). Khái niệm này sau đó ‘được chấp nhận – done’ và ‘tâm hồn – mind’ trở nên thư thái. Ý tưởng phải bắt đầu từ chương 1 và đọc dần cho đến cuối là khái niệm chỉ phù hợp với não trái. Đó là đường mòn đi bộ của vật lý học thuyết Newton (Newtonian physics), dựa trên một tầm nhìn hạn chế và giới hạn về thế giới trong tất cả các sự kiện giả định xảy ra liên tục theo trình tự A→B→C. Dạng cận thị/ tầm nhìn ngắn (myopia) phát sinh từ một thế giới quan lỗi thời về thực tế. Tầm nhìn rộng lớn và toàn diện hơn của chúng ta vẽ ra không chỉ trên bản chất của phần lớn vật lý học, toán học và thuyết phi tuyến (nonlinear theory) nâng cao, mà còn trên các trực giác (intuitions) có thể được xác nhận bẳng việc trải nghiệm bởi bất kỳ ai. Nói chung, thách thức trong việc trình bày nằm trong nghịch lý15 (paradox) bao gồm các khái niệm phi tuyến trong tuyến tính, cấu trúc câu này sang câu khác (sentence-by sentence structure). Lĩnh vực khoa học nơi dữ liệu thể hiện bản chất phức tạp và đủ khó khăn: vật lý học lý thuyết nâng cao và toán học của nó; sự vận động phi tuyến; học thuyết hỗn mang và toán học của nó; vận động học hành vi nâng cao; sinh học thần kinh (neurobiology); thuyết dòng chảy rối (turbulence theory); cũng như những cân nhắc mang tính triết học về nhận thức học và bản thể học (epistemology and ontology). Ngoài điều này ra, cần đề cập đến bản chất của bản thân ý thức của con người, một khu vực chưa được khám phá, thuộc phạm vi mà khoa học tất cả đều thoái lui. Để hiểu chắc chắn các đối tượng này từ một quan điểm trí tuệ thuần khiết (purely intellectual viewpoint) cóthể trở thành một kế hoạch khó khăn táo bạo, cần cả đời để nghiên cứu. Thay vì thử làm một việc ghê gớm như thế, tôi đã cố gắng để chắt lọc ra bản chất của mỗi chủ thể và chỉ làm việc với những bản chất ấy. Thậm chí một nỗ lực đơn giản để giải thích sự hoạch động của kỹ thuật kiểm tra cơ bản cho cuốn sách này, dường như bắt đầu vượt quá các quy tắc đã biết của vũ trụ, chắc chắn sẽ dẫn chúng ta vào lãnh thổ trí tuệ của vật lý lý thuyết nâng cao (advanced theoretical physics), động lực học phi tuyến (nonlinear dynamics) và lý thuyết hỗn độn và thuyết hỗn 15 Nghịch lý là một khẳng định có vẻ như mâu thuẫn với chính nó, nhưng có thể đúng (hoặc đồng thời có thể sai). Một số nghịch lý logic được biết đến là lý luận sai lầm nhưng vẫn có giá trị trong việc thúc đẩy tư duy phản biện. 20 loạn/thuyết hỗn mang (chaos theory). Vì vậy, tôi đã cố gắng để trình bày các môn chủ đề này càng nhiều càng tốt bằng những khái niệm không chuyên. Không cần phải lo lắng rằng cần có một số khả năng trí tuệ uyên bác (erudite intellectual capacity) để tiêu hóa tài liệu này. Không phải vậy; Chúng ta sẽ xoay quanh các khái niệm tương tự lặp đi lặp lại cho đến khi chúng trở nên rõ ràng. Mỗi lần chúng tôi quay trở lại và giải thích bằng một ví dụ, chúng ta sẽ hiểu sâu hơn. Loại học tập này giống như quan sát vùng đất mới từ trên máy bay: lướt qua lần đầu, mọi thứ trông không quen thuộc; Vòng lại lần thứ hai, chúng ta thấy một số điểm quen quen; Lần thứ ba, nó bắt đầu có ý nghĩa, và cuối cùng chúng ta đã đạt được sự quen thuộc thông qua tiếp xúc đơn giản. Cơ chế thừa nhận một khuôn mẫu bẩm sinh của tâm trí sẽ lo phần còn lại. Tâm trí con người cá nhân giống như một máy tính kết nối với một cơ sở dữ liệu khổng lồ. Cơ sở dữ liệu chính là ý thức con người, trong đó ý thức của chúng ta chỉ đơn thuần là một biểu hiện cá nhân, nhưng với nguồn gốc của nó trong ý thức chung của tất cả nhân loại. Cơ sở dữ liệu này là lĩnh vực của tài năng (Genius); Bởi vì để được con người là tham gia vào cơ sở dữ liệu, tất cả mọi người, bởi đức hạnh của sự ra đời của họ, có quyền truy cập vào tài năng/năng lực đặc biệt này. Thông tin không giới hạn chứa trong cơ sở dữ liệu bây giờ đã được hiển thị để có sẵn cho bất cứ ai trong một vài giây, bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào. Đây thực sự là một khám phá đáng kinh ngạc, mang lại sức mạnh để thay đổi cuộc sống, cả cá nhân và tập thể, đến một mức độ chưa bao giờ được dự đoán. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Chúng ta có trong tầm tay của chúng ta một phương tiện để phân biệt chính xác chân lýtừ sự giả dối, có thể thực hiện được từ những điều không khả thi, từ thiện. Chúng ta có thể soi sáng các lực lượng ẩn, cho đến nay vẫn bị bỏ qua, xác định hành vi của con người. Chúng tôi có theo cách của chúng tôi một phương tiện để tìm câu trả lời cho các vấn đề cá nhân và xã hội chưa được giải quyết trước đây. Sự giả dối không còn cần phải ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta nữa. ≈∙đã lược bỏ∙≈ 21 Trẻ em hưởng ứng một việc ngay lập tức và làm theo với niềm vui. Không lấy gì làm ngạc nhiên. Vì chúng luôn biết rằng chúng được kết nối với cơ sở dữ liệu; Người lớn chúng ta chỉ đơn thuần quên nó. Các tài năng bẩm sinh của trẻ em thể hiện ra bên ngoài, đó là lý do tại sao trẻ em thấy rằng hoàng đế không mặc bất kỳ quần áo gì. Tài năng là như thế. Tôi sẽ thành công nếu cuối cùng bạn kêu lên, "Tôi luôn biết điều đó!" Những gì có trong đây chỉ là sự phản chiếu những gì bạn đã biết, nhưng bạn không biết là mình biết. Tất cả những gì tôi hy vọng làm ở đây là kết nối các dấu chấm để cho hình ảnh ẩn hiện ra. Cuốn sách này đưa ra một lời hứa rất lớn, có lẽ là lời hứa lớn nhất đã từng được thực hiện cho bạn. Nó có thể cung cấp cho bạn các phương tiện mà bạn có thể phát hiện nếu bạn đang bị lừa dối. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Hy vọng của tôi với tư cách tác giả là công việc này có thể lùi lại được những nguồn đau đớn, đau khổ và thất bại, và hỗ trợ sự tiến hóa của ý thức con người trong mỗi chúng ta để tăng lên mức độ vui tươi, đó là cốt lõi của kinh nghiệm của con người. ≈∙đã lược bỏ∙≈ David R. Hawkins, M.D., Ph.D. Viện nghiên cứu tinh thần Sedona, Arizona, 1995 22 NEW FOREWORD – LỜI TỰA MỚI ≈∙đã lược bỏ∙≈ Cuốn sách này mang lại cho con người sự kết hợp thuyết phục nhất của nó cho đến bây giờ giữa thế giới tuyến tính của logic, lý trí và khoa học với thực tế phi tuyến tính của tình yêu, niềm vui, cái đẹp, sự tự siêu nghiệm16 (self-transcendence), kết hợp huyền bí và giác ngộ (mystica and enlightenment) Tiến sĩ David R. Hawkins là một tác giả nổi tiếng thế giới, bác sĩ tâm thần, bác sĩ lâm sàng17, giáo viên tâm linh, và nhà nghiên cứu về ý thức. Tác phẩm độc đáo của ông phát sinh từ suối nguồn của lòng trắc ẩn mang tính vũ trụ và được dành riêng cho sự an ủi trên khắp thế giới và mọi cõi. Bằng cách khẳng định thực tế mang tính tinh thần chính là bản chất của cuộc sống con người và thần học (Divinity) chính là nguồn gốc của ý thức, công trình này cho thấy mọi khía cạnh trong sự trải nghiệm của con người sẽ trở thành biểu hiện của và là con đường dẫn tới sự tối hậu18 (the Ultimate). ≈∙đã lược bỏ∙≈ Tiến sĩ Hawkins làm việc với cái bệnh tật nhất của bệnh tật (sickest of the sick). Phương pháp của ông ấy giải quyết vấn đề chữa lành và làm bệnh nhân khá hơn thông qua vật lý, tâm thần và các mức độ tinh thần. Các nghiên cứu của tiến sĩ Hawkin đã xác nhận các trạng thái hạnh phúc và tình yêu mà người nghiện ma túy và nghiện rượu tìm kiếm, họ có thể tìm ra bên trong chính mình, thông qua cố gắng nội tại và sự thuận theo. What the addict is seeking is not to be ashamed of. The whole spiritual world wants to reach that blissful state of consciousness. Change your technique, not your aspiration. The state doesn’t have to be sought; it is always within us. 16 Siêu nghiệm là ngoài kinh nghiệm 17 Lâm sàng là căn cứ trên quan sát người bệnh trực tiếp và lý luận trên cơ sở của những "triệu chứng" mà mình thấy, nghe, sờ và ngửi được. 18 Tối hậu là cuối cùng, không còn có thể có gì khác nữa 23 Những gì người nghiện đang tìm kiếm không phải là điều xấu hổ. Toàn bộ thế giới tâm linh muốn đạt tới trạng thái hạnh phúc của ý thức. Thay đổi phương pháp của bạn chứ không phải mong muốn của bạn. Trạng thái không cần phải tìm kiếm; Nó luôn ở bên trong chúng ta. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Cuốn sách này, Power vs. Force, truyền đi một bước đột phá lớn cho tâm hồn con người, nó phác họa các kích thước của ý thức mà trước đây chỉ được biết đến đối với các nhà thần bí trong lịch sử. Như vậy, khả năng thấu triệt rõ ràng (direct realization) về thực tại (hay bất cứ tên gọi nào khác), luôn luôn khẳng định ý nghĩa hàng đầu của thế giới vô hình (unseen). The outer work can never be small if the inner work is great. And the outer work can never be great if the inner work is small. Kết cấu bên ngoài có thể không bao giờ nhỏ bé nếu kết cấu bên trong vĩ đại Và kết cấu bên ngoài có thể không bao giờ vĩ đại nếu kết cấu bên trong nhỏ bé ~ Meister Eckhart, nhà “huyền bí/huyền nhiệm” đạo cơ đốc ở thế kỷ 14 (14th century Christian mystic) Meister Eckhart đã chỉ cho chúng ta nhận ra sự rộng lớn bên trong (inner greatness) của chúng ta bởi mọi thứ trong thế giới hữu hình đều xuất phát từ nội giới/không gian bên trong (inner planes). Giống như tiến sĩ Hawkins viết trong trang mở đầu của cuốn sách: Sự hiểu biết tường tận không phải là hiển nhiên Chúng dường như giản đơn Thứ mà những ai thấu hiểu sẽ nhận ra những chuẩn mực về sự tuyệt đối Nhận ra những chuẩn mực này là sức mạnh huyền diệu Sức mạnh huyền diệu điều khiển mọi thứ và nó vô danh ≈∙đã lược bỏ∙≈ 24 Bản đồ ý thức (Map of Consciousness) nổi tiếng của Hawkin đã khẳng định rằng các trạng thái (stages) mang tính cổ điển của sự tiến hóa bên trong của con người đã được tìm thấy trong văn học tôn giáo trên thế giới là điều có thực, các mẫu hình thu hút/hấp dẫn (attractor patterns) và các khu vực năng lượng (energy fields) có thể đo lường được. Các mức độ này đã được các triết gia, thần thánh, hiền triết và nhà huyền bí gợi ra qua nhiều thế kỉ; nhưng chưa bao giờ có một khuôn khổ khoa học để hiểu chúng và từ đó, tiến tới tự do tối hậu (ultimate freedom). Bản đồ ý thức không bị ảnh hưởng bởi tín ngưỡng và sự nhầm lẫn lâm sàng trong việc mô tả sự tiến bộ mang tính cảm xúc, quan điểm của Chúa, quan điểm bản thân và quan điểm cuộc sống, do đó, nó chính xác với từng mức độ ý thức. Năng lượng và sự ảnh hưởng thể hiện một sự thuyết phục logic về giải phẫu học đối với ý thức, nó thiết kế/tạo ra cung tiến hóa mang tính tinh thần của con người từ biểu hiện ở mức độ thấp nhất (sự xấu hổ) cho đến cao nhất (sự giác ngộ). Nó làm rõ sự duy nhất của tất cả tạo vật bằng sự tiết lộ bản chất năng lượng của mọi vật đang tồn tại – cả con người lẫn không phải con người, cả thế giới hữu hình lẫn vô hình. Tất cả sự sống đều được tiết lộ để trở thành một bản giao hưởng nhịp nhàng (pulsating symphony) của các năng lượng đang tương tác lẫn nhau: “Sự phụ thuộc lẫn nhau và thâm nhập vào nhau của tất cả mọi thứ có thể thấy giống như là một phần của thuyết nhị nguyên19. Sự duy nhất là trung trung tâm của tất cả các tôn giáo và các hệ thống tinh thần giống như thực tại tối hậu (ultimate reality) là nền tảng và nội tại của tất cả các dạng thức. – The mutual dependence and interpenetration of all things is observable as one leaves duality. Oneness is central to all of the major religions and spiritual systems as the ultimate reality underlying and within all forms.” Cuốn sách này cung cấp lời giải thích thực tế và lâm sàng để chắc chắn các nguyên lý cốt lõi được nắm bắt chính xác đối với các nền văn hóa: tình yêu mạnh mẽ hơn sự thù hận, chân lýlàm chúng ta thanh thản; tha thứ giải phóng cả 2 bên; sự chữa lành của tình yêu vô điều kiện; truyền đi lòng dũng cảm; và bản chất của thần học/thực tế là hòa bình. 19 Thuyết nhị nguyên là một học thuyết triết học thừa nhận sự tồn tại độc lập của hai thực thể. Có nhiều dạng nhị nguyên, một trong số đó là thuyết nhị nguyên về triết học xem vật chất và ý thức (hay tinh thần), tạo thành hai nguồn gốc của thế giới. Đây là quan điểm của một số nhà triết học trong việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học: ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. 25 Trong khi những điều này từ lâu đã là một sự hiểu biết mang tính trực trong các tổ chức về tâm linh con người và đã được khẳng định bởi những nhà huyền bí hiếm có, những người đã từng trải qua. Chúng ta bây giờ đã có bản đồ mô hình hóa mang tính khoa học và dễ dàng tiếp cận, nó sẽ chỉ ra con đường để giải thoát con người (human freedom). Các mức độ ý thức (“các vùng năng lượng”) được hiệu chỉnh theo ảnh hưởng có thể đo lường được của chúng. Với mỗi sự gia tăng tiến bộ trong mức độ ý thức, “tần số - frequency” hay “rung động – vibration” của năng lượng sẽ tăng lên. Do đó, ý thức cao hơn sẽ phát ra năng lượng có lợi và chữa lành cho thế giới, và có thể kiểm chứng thông qua sự phản hồi của các cơ, chúng sẽ vẫn giữ nguyên (strong) đối với tình yêu và chân lý. Ngược lại các khu vực năng lượng tiêu cực hay không chính xác tạo ra sự phản hồi yếu ớt (weak). Những điều làm suy yếu năng lượng của cuôc sống cần phải tránh là sự xấu hổ, tội lỗi, nhầm lẫn, sợ hãi, căm ghét, kiêu căng, tuyệt vọng và giả dối (shame, guilt, confusion, fear, hatred, pride, hopelessness, and falsehood). Những điều tăng cường sự sống cần được hiểu rõ là chân lý, can đảm, chấp nhận, lý trí, tình yêu, vẻ đẹp, niềm vui và an bình (truth, courage, acceptance, reason, love, beauty, joy, and peace). Việc khám phá ra sự khác biệt giữa “năng lượng” và “sự ảnh hưởng” ảnh hưởng trên nhiều lĩnh vực cố gắng của con người như kinh doanh, quảng cáo, giáo dục, tâm lý, y khoa, luật vàcác mối quan hệ quốc tế. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Năng lượng và sự ảnh hưởng tạo nên một sự phân chia tân thời đầu tiên của các mức độ cao nhất của ý thức con người (tự nhận thức, trống rỗng, hư vô và trọn vẹn, đầy giác ngộ) (Self-Realization, the Void, Nothingness vs. Allness, Full Enlightenment) và các hiện tượng đặc biệt của chúng. Tiến sĩ Hawkin mô tả các giai đoạn của sự giác ngộ với một mức độ rõ ràng, chỉ ra sự nhận thức dựa trên kinh nghiệm của chúng. Cuối cùng, chúng ta không thể vẽ ra một bản đồ về nơi mà chúng ta chưa từng đến. Có sự hiện diện của một trạng thái ý thức rất tiến bộ, với tất cả các đặc tính cổ điển: nhận thức nguyên sơ của thực tại tối hậu, lòng trắc ẩn cho vạn vật, sự cống hiến không mệt mỏi để giảm bớt sự khổ đau, sự chính xác và tao nhã trong mỗi từ và mỗi chuyển động, sự tự do của sinh vật, tự nhiên, niềm vui lan tỏa, hài 26 hước, sự duy nhất với tất cả sự tồn tại, và sự sâu sắc của việc thuận theo đối với “thực tại” (Reality), điều mà người bình thường không thể tưởng tượng ra được. ≈∙đã lược bỏ∙≈ The gift of this work to human evolvement is beyond what can be said about it. Món quà cho công việc này đối với sự tiến hóa của con người là vượt qua cái có thể được nói đến. Không có bản đồ trong tay, chúng ta không tìm thấy được kho báu. Con đường này mở ra cho tất cả những ai lựa chon nó. Tất cả chúng ta đều có những xuất phát điểm khác nhau, những tất cả chúng ta đều điều khiển bánh lái tương lai của chúng ta bằng chính đôi tay của mình. “Hãy tử tế và tha thứ cho mọi chuyện và mọi người, bao gồm cả bản thân, trong mọi lúc mà không có ngoại lệ nào cả. - Be kind and forgiving to everything and everyone, including yourself, at all times without exception.” “Nhất thể thành tâm - Devotional Nonduality20” là phản ứng, sự hòa hợp những thứ mà trước đây chúng ta xem nó như những mặt đối nghịch: trái tim và tâm trí, trong chuyến hành trình khám phá bản thân. Những lời giảng về Nhất thể thành tâm nhấn mạnh những chân lýcốt lõi của những truyền thống mang tính tinh thần vĩ đại trên thế giới: sự tử tế và lòng trắc ẩn đối với người và vật (bao gồm bản thân), khiêm tốn, vị tha, bình dị, yêu thương (humility, forgiveness, simplicity, lovingness) như cách thức để tồn tại, lòng tôn kính đối với tất cả những gì thuộc về sự sống, chân thành đối với chân lý và sự thuận theo đối với Chúa trời. Đó là con đường trực tiếp để giác ngộ, trong đó mỗi sự phát triển bên trong của tình yeu và sự toàn vẹn thúc đẩy toàn bộ sự sống: “Chúng ta thay đổi thế giới không phải bằng những thứ chúng ta nói hay làm mà làbằng kết quả của cái chúng ta trở thành. - We change the world not by what we say or do but as a consequence of what we have become.” – Yếu chỉ của Thiền tông – “Giáo ngoại biệt truyền Bất lập văn tự Trực chỉ nhân tâm 20 Nonduality tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Việt là “Bất nhị” hay “vô nhị” hay còn gọi là “nhất thể” (oneness) là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, là tâm thức của một người hợp nhất với môi trường xung quanh. 27 Kiến tính thành Phật” ~*~ Truyền giáo pháp ngoài kinh điển Không lập văn tự Chỉ thẳng tâm người Thấy chân tính thành Phật Văn tự kinh điển làGiáo tích chưa phải Giáo thể. Giáo tích làdấu chân của giáo pháp, Giáo thể lànguyên hình của giáo pháp. Vínhư người tìm voi thấy được dấu chân voi, tuy biết được hướng đi của nó, song chưa thấy nguyên hình của nó. Nếu người tìm voi chỉ biết nghiên cứu dấu chân voi rồi hài lòng thỏa mãn nơi đó, thìngàn đời cũng không thấy được con voi. Đây làbệnh của học giả thời đại xưa kia vàhiện nay. Vìthế câu “chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý” mang sẵn tính chất trị bệnh vàđầy đủ tinh thần chỉ bày sự thật. Thiền tông cốt chỉ cho chúng ta thấy đạo qua mọi phương tiện, đừng mắc kẹt phương tiện màquên đạo. “Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Đạo không phải cái gìxa xôi huyền diệu, chính làTâm thể của chúng sanh. Nếu người nhận ra Tâm chân thật của chính mình, sự tu hành không sớm thìchầy cũng sẽ thành Phật. Tâm chân thật này cũng gọi làTánh giác hay Phật tánh. Thấy được Tánh giác thìthành Phật không nghi, vìđã biết Phật nhân nhất định sẽ đến Phật quả. Chỉ cho người nhận được Bản tâm mình làchủ đích của Thiền tông. Lục tổ Huệ Năng cũng bộc lộ cái nhìn về thiền qua bài kệ: “Bồ đề bản vôthụ - Bồ đề vốn chẳng phải cây. Minh kính diệc phi đài - Gương sáng cũng chẳng phải đài Bản lai vônhất vật - Xưa nay vốn không một vật, Hàxứ hữu trần ai” - Nơi nào dính bụi trần? ~*~ “Xưa nay không một vật” làýchỉ đầu tiên của Huệ Năng. Qua ýchỉ này Thiền của Huệ Năng trở nên cócương lĩnh, độc đáo, đối nghịch hẳn với cơ bản loại Thiền định kiểu “quét sạch bụi trần”. Nếu tâm vốn thường thanh tịnh, không cấu nhiễm thìtại sao nócần phải được phủi bụi, màbụi ấy vốn không cóchỗ nào để dấy khởi? Phải chăng việc “quét bụi” này cũng giống như việc “canh chừng tâm ý”, làmột tiến trình không được bảo chứng của các hành giả Thiền? Việc quét bụi quả thực làmột sự sắp xếp hoàn toàn không cần 28 thiết. Nếu như toàn thể pháp giới này lưu xuất từ tâm, tại sao không để nósinh khởi theo ý muốn? Cố gắng ngăn chặn sự sinh khởi ấy bằng cách “canh chừng tâm ý” – cóphải điều này đang quấy rầy tâm chăng? Điều hợp lývàtự nhiên nhất đối với tâm làhãy trả về cho nóhoạt dụng sáng tạo vàchiếu soi. ≈∙đã lược bỏ∙≈ “Khám phá ra thứ làm giảm bớt sự khổ đau – trách nhiệm của một người là chia sẻ nó với những người khác để họ cũng được hưởng lợi. - To discover something that relieves suffering — it’s one’s responsibility to share it with others so that they are benefited.” Alexander Fleming21. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Thông tin và mạch văn tổng thể của cuốn sách này chứa đựng năng lượng để chẩn đoán và giải quyết tất cả các sự tắc nghẽn và đau khổ bên trong. Nó hoạt động như mốt enzyme tạo thuận lợi mang tính tinh thần để giảm bớt sự đau khổ. Khi tiếp xúc, nó kích thích các cơ chế bẩm sinh của sự tự chữa lành, tự nhận thức và sự phát triển bên trong đối với tâm lý con người. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Chúng ta sống trong một thế giới bị đánh dấu bởi sự đau đớn vật chất, tinh thần và cảm xúc. Cái chúng ta có thể học về những nguồn lực chưa được khai thác bên trong bản thân là gì? Chính xác thì cái gì là ảnh hưởng của một con người hay một nhóm người tỏa ra sự yêu thương, sự chấp nhận và lòng trắc ẩn? Thật sự là ý thức của chúng ta có thể nắm giữ năng lượng để thúc đẩy không chỉ chính chúng ta mà còn cả thế giới? Cuốn sách này nói “đúng thế - yes”. Tiến sĩ đưa cho chúng ta cơ hội để đạt tới sự giải thoát (liberation) bằng cách chỉ ra con đường. Bằng việc tái cơ cấu chân lý mang tính tinh thần cao vào một khuôn 21 Một bác sĩ, nhà sinh học và đồng thời là một nhà dược lý học người Scotland, ông đã tìm ra và phân tách được penicilin – được coi là loại kháng sinh đầu tiên trong việc điều trị những bệnh nhiễm trùng. 29 khổ nói lên những suy nghĩ tuyến tính và logic, ông ấy xóa đi rào cản hơn nhất của người đó để mở rộng ý thức: sự nghi ngờ mang tính trí tuệ (intellectual doubt). Như bất kỳ bậc phụ huynh đều biết để giải thích những vấn đề người lớn cho trẻ em hiểu được luôn cần dùng đến tình yêu. Đó là luôn là khó khăn của bậc hiền triết: làm thế nào để truyền đạt những thực tế phi tuyến tính nằm ngoài tầm với của tâm trí bằng cách mà tâm trí ấy có thể hiểu được. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Hawkin làm được điều đó. Ông ấy nói: “Chân lý về cái tôi của một người có thể được khám phá ra trong cuộc sống hàng ngày. Sống với sự chăm sóc và lòng tử tế là tất cả những gì chúng ta cần. Phần còn lại sẽ hé lộ chính nó vào đúng thời điểm. Những việc tầm thường và chúa trời không có gì khác nhau cả. - The truth of one’s Self can be discovered in everyday life. To live with care and kindness is all that is necessary. The rest reveals itself in due time. The commonplace and God are not distinct.” Ông khẳng định vẻ đẹp của cuộc sống hàng ngày và sự thiêng liêng của mỗi sự tương tác: “Tình yêu của chúng ta dành cho nhau không khác gì so với tình yêu chúng ta dành cho chúa trời. – Our love for each other is not different than our love for God.” Thực tế cốt lõi là: hiểu được bản chất của mọi thứ chính là thấu tỏ Chúa trời. The radical Reality is: to understand the essence of anything is to know God. Fran Grace, Ph.D., người chỉnh sửa Giáo sư Nghiên cứu Tôn giáo và Quản trị viên Phòng Thiền Trường đại học Redlands, California Giám đốc sáng lập, Viện chiêm niệm cuộc sống Sedona, Arizona December 2011 30 NEW PREFACE – LỜI NÓI ĐẦU MỚI ≈∙đã lược bỏ∙≈ Cuốn sách truyền đi hi vọng. Nó mô tả một cách chắc chắn chứ không phải sự phỏng đoán. Nó giới thiệu sự khả thi của sự tự thấu hiểu bản thân. The book transmits hope. It defines certainty in contrast to guesswork. It introduces the possibility of self-verification. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Người ta có thể tìm ra câu trả lời cho một vấn đề chỉ trong vài giây. Do đó, phương pháp được mô tả trong cuốn sách này rất thực dụng. One could find out the answer in a matter of seconds. So the method described in this book is highly pragmatic. Thế giới quan tâm đến những thứ nghe có vẻ tốt, nhưng trong thực tế có thể là bất hạnh. Quan trong là nhận biết bản chất của nó từ vẻ bề ngoài. Những thứ xuất hiện thật hấp dẫn nhưng cuối cùng rồi lại vỡ tan thành nhiều mảnh. Những thứ xuất hiện một cách trần tục lại trở thành thực thể truyền sức mạnh phía sau cho sự cố gắng. The world is interested in what sounds good which, in practice, can be disastrous. It is important to differentiate essence from appearance. Things that appear attractive end up falling apart. Things that appear mundane prove to be the supportive reality behind the effort. Vinh quang thiên chúa trên các tầng trời! David R. Hawkins, M.D., Ph.D. Viện trưởng Viện nghiên cứu tinh thần Sedona, Arizona December 2011 31 INTRODUCTION – GIỚI THIỆU Tất cả sự nỗ lực của con người đều có điểm chung, mục tiêu không nói ra của sự hiểu biết hoặc sự ảnh hưởng đến kinh nghiệm của con người. Với mục đích này, người ta đã phát triển ra nhiều môn học về mô tả và phân tích như: đạo đức, triết học, tâm lý học và v.v…. Một số lượng đáng kinh ngạc về thời gian và tiền bạc đã được được đầu tư vào việc thu thập và phân tích dữ liệu trong nỗ lực dự đoán xu hướng của con người. Tiềm ẩn trong việc nghiên cứu điên cuồng này là sự mong đời tìm ra được “ câu trả lời” sau cùng. “ Câu trả lời”, chúng ta dường như cứ nhắc lại đi nhắc lại mãi để tin tưởng, rằng sẽ, một khi tìm thấy, cho phép chúng ta giải quyết những vấn đề về kinh tế, tội phạm, y tế quốc gia hoặc chính trị. Nhưng cho đến nay, chúng ta vẫn chưa giải quyết được điều gì. Không phải chúng ta thiếu dữ liệu - chúng ta hầu như chìm ngập trong dữ liệu. Sự trở ngại là chúng ta không có những công cụ thích hợp để làm sáng tỏ ý nghĩa của những dữ liệu mà chúng ta có. Chúng ta vẫn chưa đặt ra được những câu hỏi đúng bởi chúng ta không có một thang đo đầy đủ về sự liên quan hay tính chính xác từ những câu hỏi của chúng ta. Thế tiến thoái lưỡng nan (song đề) của con người– bây giờ và luôn luôn – đã được người ta nhận diện nhầm như hiện vật trí tuệ của chính mình trên thực tế. Nhưng những giả thuyết giả mạo này chỉ đơn thuần là những sản phẩm của một sự nhận thức tuỳ tiện. Những câu trả lời không thoả đáng mà chúng ta nhận được là hậu quả trực tiếp của những hạn chế tiềm ẩn trong quan điểm của người hỏi. Những sai sót nhỏ trong việc hình thành những câu hỏi gây ra những lỗi gộp trong những câu trả lời tiếp theo. Sự hiểu biết không đơn thuần xuất phát từ việc kiểm tra dữ liệu, nó đến từ việc kiểm tra dữ liệu trong một bối cảnh cụ thể. Dữ liệu vô dụng cho đến khi chúng ta biết nó có ý nghĩa gì. Để hiểu ý nghĩa của nó, chúng ta không chỉ cần đặt ra đúng câu hỏi mà chúng ta còn cần những công cụ phù hợp để đo lường dữ liệu trong một quá trình phân loại và mô tả có ý nghĩa. Hầu hết các hành vi của con người vẫn không thể giải đoán được bất chấp mọi cố gắng để thấu hiểu nó sâu sắc. Các hệ thống mà chúng ta đã tạo ra để đạt được sự thấu hiểu có thể có vẻ như bao quát và ấn tượng. Nhưng lần lượt lại dẫn chúng ta đến một ngõ cụt bởi vì những hạn chế vốn có trong thiết kế ban đầu. Ngay khi chúng ta khám phá ra bản chất của các vấn đề của con người, nó trở nên rõ ràng rằng không bao giờ có 32 một thước đo thực nghiệm đáng tin cậy để đo lường và giải thích những động cơ và kinh nghiệm của con người qua quá trình lịch sử. Triết học trong tất cả các nhánh của nó cố gắng để hiểu kinh nghiệm của con người bằng cách tạo ra những khái niệm trừu tượng và thế chấp sự phù hợp của chúng với một vài tính xác thực sau cùng/cơ bản. Những hệ thống chính trị đều tất thảy dựa trên những giả định về giá trị tương đối của con người không có đủ bất kì cơ sở thực tế nào chứng mình được. Tất cả các hệ thống đạo đức chuyển thành những nỗ lực tuỳ ý để giảm đi sự phức tạp cực kì lớn của hành vi con người thành những loại thông dụng của đúng và sai. Phân tích tâm lý con người, trong việc phơi bày sự vô thức, đã phức tạp tình trạng rối ren này, dấy lên một chuỗi hoang mang về những phương pháp điều trị và những khái luận về tâm lý được suy ra từ những quan điểm khác nhau. Sự nhảm nhí liên tục này trong nỗ lực của con người để hiểu chính mình cuối cùng cũng tạo ra một bãi lầy ngữ nghĩa trong đó, cuối cùng, bất cứ điều gì người ta có thể nói thì có lẽ đúng ở một mức độ nào đấy. Bởi vì sự không chắc chắn về bản chất chính xác của quan hệ nhân quả, ngay cả khi thu được kết quả đo lường, chúng có thể là đối tượng được gán cho những nguyên do giả tạo. Những lỗi không tránh khỏi của tất cả các hệ tư tưởng đã có, chủ yếu là: (1) không phân biệt giữa chủ quan và khách quan; (2) bất chấp sự hạn chế về bối cảnh vốn có trong thiết kế và thuật ngữ cơ bản; (3) sự thiếu hiểu biết về ý thức của bản thân; (4) hiểu lầm về bản chất của quan hệ nhân quả. Hậu quả của những thiếu sót này sẽ trở nên rõ ràng ngay khi chúng ta khám phá ra những phạm vi chính của kinh nghiệm của con người từ một góc độ mới, với những công cụ mới. Xã hội không ngừng dùng những nỗ lực của nó để sửa chữa những kết quả, thay vì những nguyên do, đó là lý do tại sao sự tiến hoá ý thức của con người tiến hành rất chậm. Nhân loại chỉ thực sự vừa mới bước lên nấc thang đầu tiên; chúng ta vẫn chưa giải quyết được ngay cả những vấn đề nguyên thuỷ như nạn đói trên thế giới. Các thành tựu của nhân loại, trên thực tế, cho đến nay có nhiều ấn tượng về việc đạt được – hầu như mù quáng – thông qua sự thử nghiệm và mắc sai lầm. Trong khi tìm kiếm những giải pháp một cách ngẫu nhiên đã dẫn đến một mê cung phức tạp khó hiểu, những câu trả lời đúng thì luôn có những dấu hiệu của sự đơn giản. Về cơ bản quy luật của vũ trụ là nền kinh tế. Vũ trụ không lãng phí một hạt cơ bản nào; tất cả đều phục vụ cho một mục đích và phù hợp thành một sự cân bằng – không có những trường hợp không liên quan (ngoại lai). 33 Con người bị mắc kẹt với sự thiếu hiểu biết về chính bản thân mình cho đến khi có thể học cách nhìn xa hơn những nguyên nhân bên ngoài. Từ ghi chép của con người, chúng ta có thể nhận thấy rằng những câu trả lời không bao giờ phát sinh từ việc xác định cái gọi là “ những nguyên nhân” trên thế giới. Thay vào đó, xác định các điều kiện làm nền tảng cho những nguyên nhân bên ngoài mới là việc cần thiết; và những điều kiện này chỉ tồn tại trong chính ý thức của con người. Không có câu trả lời cuối cùng để bất kì vấn đề nào có thể được tìm thấy bằng cách tách biệt chuỗi các sự kiện và chiếu lên chúng một khái niệm tinh thần của “ quan hệ nhân quả”. Không có những nguyên nhân thực tế nào trong thế giới quan sát được. Như cách chúng ta sẽ chứng minh, thế giới quan sát được là một thế giới của những tác động. Sự tiên lượng (prognosis) đối với loài người là gì? Là xã hội bằng đức hạnh (virtue) của chính nó, sở hữu những hệ thống nhỏ hỗn loạn, sự trốn chạy khỏi ý niệm hy sinh mù quáng (juggernaut), vốn đã cam chịu/ chấp nhận điều này? Triển vọng này làm nền tảng cho một sự lo sợ xã hội nói chung về tương lai. Các cuộc thăm dò quốc tế chỉ ra mức độ cao của sự bất hạnh ở khắp mọi nơi trên thế giới, thậm chí ở những quốc gia tiên tiến nhất. Trong khi đa số người dân để cho một cái nhìn bi quan dẫn lối chính mình và cầu nguyện cho một cuộc sống tốt đẹp hơn ở “kiếp sau”, số ít những người nhìn xa hơn thấy trước được một tương lai không tưởng không thể mô tả những cách thức (phương tiện) cần thiết để mang nó xảy ra. Xã hội cần những người nhìn xa trông rộng các cách thức (phương tiện), không phải những người mộng mơ về các mục đích. Một khi chúng ta có những cách thức, các mục đích sẽ tự bộc lộ mình. Khó khăn trong việc tìm kiếm những cách thức hiệu quả để giảm thiểu chính nó, nhờ vào kiểm tra, với sự bất lực của chúng ta trong việc phân biệt điều cần thiết với không cần thiết. Cho đến giờ, chưa có hệ thống nào cung cấp một phương pháp mà theo đó để phân biệt mạnh mẽ và những giải pháp hiệu quả từ những cái không hiệu quả và yếu kém. Bản thân những cách thức đánh giá của chúng ta đã vốn không có khả năng thực hiện đánh giá thực tiễn. Sự lựa chọn của xã hội, luôn luôn, là kết quả của phương tiện, sai lầm thống kê, cảm tính, áp lực từ truyền thông hay chính trị, hay thành kiến cá nhân và quyền lợi. Các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống của con người trên hành tinh được đưa ra dưới những điều kiện đó hầu như bảo đảm thất bại. Bởi vìxã hội thiếu cơ sở thực tế cần thiết cho việc bày tỏ những cách giải quyết vấn đề một cách hiệu quả, họ rút lui, hết lần này 34 đến lần khác, dựa vào một phương pháp để gây sự ảnh hưởng (force) (bằng những biểu hiện khác nhau – chẳng hạn như chiến tranh, luật pháp, thuế, những quy tắc và quy định), cái mà cực kì tốn kém, thay vì sử dụng năng lượng (power), cái rất kinh tế. Đạo Trời bớt chỗ dư bùchỗ thiếu. Mặt khác Đạo theo Lão tử làmột nguyên lýquân bình, cho nên không cho cái gìthái quáhay bất cập. Vìvậy, người ta thường muốn làm cho đời trị màthành ra làm cho đời loạn, càng muốn trị bao nhiêu thìlại càng loạn bấy nhiêu. Do đó, đừng cóham can thiệp vào việc đời vànếu cần làm thìhãy làm cái không làm “vi vôvi”, một cách kín đáo vàkhéo léo. Vô Vi, không phải là không làm gì cả, mà nghĩa là không làm mà không có gì là không làm, làm một cách hết sức tự nhiên và kín đáo, đem cái tự nhiên mà giúp một cách tự nhiên, không tư tâm, không vị kỷ. Người thi ân không biết là thi ân, người thọ ân không dè là thọ ân. Bậc thánh nhân trị nước nước dùng đến đạo vô vi, dân không hay là mình bị trị. – Đạo đức kinh – Lão tử Con người có hai loại năng lực làm việc cơ bản, lý do và cảm giác, và cả hai vốn đều không đáng tin cậy, như lịch sử của chúng ta về đời sống riêng tư cá nhân và khả năng sống tập thể là minh chứng. Dù chúng ta gán lý do cho hành động của mình, con người trong thực tế hoạt động chủ yếu thoát ra khỏi nhận dạng mẫu; sự sắp xếp hợp dữ liệu hợp lý phục vụ chủ yếu là để tăng cường một hệ thống nhận dạng mẫu, mà sau đó trở thành cái gọi là “chân lý”. Nhưng không bao giờ có cái gì là “chân lý”, ngoại trừ trong những trường hợp nhất định, và sau đó chỉ từ một quan điểm cá nhân, không được nhắc đến một cách đặc trưng. Kết quả là, con người thận trọng suy luận rằng tất cả các vấn đề của mình đều phát sinh từ khó khăn của “sự hiểu biết”. Cuối cùng, tinh thần đạt tới nhận thức luận, nhánh của triết học kiểm tra câu hỏi làm thế nào vàở mức độ nào con người thật sự biết bất cứ điều gì. Như thế những tháo luận triết học có vẻ dường như hoặc uyên bác hoặc không thích hợp, nhưng những câu hỏi họ đặt ra lại là cốt lõi của kinh nghiệm con người. Dù cho chúng ta bắt đầu một cuộc kiểm tra kiến thức con người như thế nào, chúng ta luôn kết thúc bằng việc nhìn vào hiện tượng của nhận thức và bản chất của ý thức con người. Và sau cùng chúng ta cùng đi tới một quan niệm: bất kì bước tiến nào xa hơn trong điều kiện của con người đòi hỏi một cơ sở kiểm chứng cho sự hiểu biết. Khi đó chúng ta mới có thể đặt niềm tin của mình . Trở ngại chính cho sự phát triển của con người, sau đó, là thiếu kiến thức về chính bản chất của ý thức. Nếu chúng ta nhìn vào bản thân mình tại những sự tiến bộ ngay 35 lập tức của tâm trí chúng ta, chúng ta sẽ sớm nhận ra rằng tâm trí hành động nhiều hơn nhanh chóng hơn chúng ta thừa nhận. Nó trở nên rõ ràng rằng quan điểm cho rằng các hành động của chúng ta được dựa trên những quyết định thận trọng là một sự ảo tượng lớn. Tư duy nhanh vàchậm - Daniel Kahneman: Trong một thời gian dài, các học giả đã gieo vào đầu chúng ta một quan điểm: Chúng ta – những con người đầy lýtrí- quyết định mọi việc cótính toán một cách cẩn thận. Tuy nhiên, quan điểm ấy hoàn toàn sai lầm. Quá trình ra quyết định là một chức năng của chính bản thân ý thức; với tốc độ nhanh chóng phi thường, tâm trí đưa ra những lựa chọn dựa trên hàng triệu những mẩu dữ liệu và những mối tương quan và những dự đoán của chúng, vượt xa sự lãnh hội ý thức. Đây là một chức năng chung được chi phối bởi các mô hình năng lượng mà khoa học về động lực học phi tuyến mới đặt tên là“những sự hấp dẫn - attractors”. Ý thức tự động chọn những gì mà nó cho là tốt nhất từ nhanh đến ngay lập tức bởi vì đó là chức năng duy nhất sau cùng mà trong đó nó thật sự có khả năng. Trọng lượng tương đối và công lao được trao cho dữ liệu nhất định được xác định bởi mô hình hấp dẫn cao hơn vận hành trong các nhóm tâm trí cá nhân hay một tập thể. Những mô hình này có thể được xác định, mô tả, và hiệu chuẩn; từ thông tin đó phát sinh một sự hiểu biết hoàn toàn mới về hành vi con người, lịch sử, và số phận tiềm năng của nhân loại. Cuốn sách hiện tại, kết quả của hai mươi năm chuyên sâu nghiên cứu bao gồm hàng triệu những hiệu chuẩn, có thể đưa ra sự hiểu biết sẵn có cho bất cứ ai. Rằng sự tiết lộ này thu được từ một kết nối tình cờ giữa sinh lý học của ý thức, chức năng của hệ thần kinh con người, và vật lý của vũ trụ không phải là đáng ngạc nhiên khi chúng ta nhắc nhở bản thân mình rằng chúng ta chính là, sau tất cả, một phần của vũ trụ trong đó mọi thứ được kết nối với mọi thứ khác; tất cả bí mật của nó là như vậy, ít nhất là về mặt lý thuyết, sẵn có cho chúng ta nếu chúng ta biết ở đâu và làm thế nào để tìm. Con người có thể nâng chính mình bằng nỗ lực của bản thân (bootstraps)? Tại sao không? Tất cả những gì ta phải làm là tăng sức nổi của mình và ta sẽ dễ dàng tăng lên đến trạng thái cao hơn. Sức ảnh hưởng (force) không thể thực hiện kỳ công đó; năng lượng (power) không những có thể, mà còn bền bỉ. Con người nghĩ ta sống bởi đức hạnh của của sự ảnh hưởng mà ta có thể kiểm soát, nhưng trong thực tế, ta bị cai trị bởi năng lượng từ những nguồn không được tiết lộ, năng lượng không thể kiểm soát. Bởi vì năng lượng là nỗ lực, nó không thấy được và không bị nghi ngờ. Sự ảnh hưởng thì được trải nghiệm thông qua các giác quan; năng lượng có thể 36 được nhận diện chỉ với việc thông qua nhận thức bên trong. Con người được cố định trong điều kiện hiện tại của mình bởi sự liên kết với mô hình năng lượng thu hút khách hàng vô cùng mạnh mẽ của mình, mà bản thân ta khởi động chạy một cách vô thức. Rất nhanh theo thời gian, ta bị gián đoạn trong trạng thái của sự tiến hoá này, được hạn chế bởi các nguồn năng lượng của sự ảnh hưởng , được thúc đẩy bởi các nguồn năng lượng của năng lượng. Các cá nhân là như vậy như một cái nút chai trong biển ý thức – ta không biết ta ở đâu, ta từ đâu đến, hay ta sẽ đi về đâu, và ta không biết tại sao. Con người đi lang thang trong câu hỏi hóc búa vô tận này, hỏi cùng những câu hỏi suốt nhiều thế kỉ, và rồi ta sẽ lại tiếp tục, không một bước nhảy vọt trong ý thức. Một dấu hiệu của một sự mở rộng hoàn cảnh và thấu hiểu đột ngột là một kinh nghiệm bên trong của sự nhẹ nhõm, vui mừng, và sợ hãi. Tất cả những ai đã có một kinh nghiệm như vậy cảm thấy sau tất cả vũ trụ đã ban cho chúng ta một món quà quý giá. Những sự kiện được tích luỹ bởi nỗ lực, nhưng chân lýtiết lộ chính nó một cách dễ dàng. Hy vọng, qua cuốn sách này, người đọc có thể hiểu và sau đó chuẩn bị các điều kiện cho một sự phát giác về bản thân (personal revelation); để làm được điều này chính là cuộc phiêu lưu tối hậu/cuối cùng. 37 PART ONE: TOOLS – CÁC CÔNG CỤ Chapter 1: Critical Advances in Knowledge – Những tiến bộ quan trọng trong tri thức Attractors – Những sự hấp dẫn Sự hấp dẫn là tên được đặt cho một mẫu hình có thể nhận dạng được, nó hiện ra từ một khối lượng thông tin trông có vẻ như vô nghĩa. Một sự liên kết ẩn trong tất cả mọi thứ xuất hiện rời rạc. Sự liên kết bên trong lần đầu tiên được mô tả về bản chất bởi Edward Lorenz bằng việc nghiên cứu các mô hình trên máy tính (mà trước đây người ta chuyên dùng để chạy các mô hình thời tiết trong chuỗi thời gian dài). Mẫu hình của sự mà ông ấy đã định nghĩa hiện nay được biết đến phổ biến như là hiệu ứng bươm bướm của Lorenz (Lorenz’s Butterfly22) Các kiểu hấp dẫn khác nhau được biểu hiện bằng những cái tên khác nhau, ví dụ, các sự hấp dẫn kì lạ (strange attractors). Nhưng việc quan trọng nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là khám phá ra một vài mẫu hình có năng lượng lớn và những mẫu hình khác thì yếu hơn. Đây là điểm quan trọng để phân biệt 2 phân lớp tách biệt. Các liên kết giữa mức năng lượng cao và thấp sẽ tương tự và là hiển nhiên giống như trong phép toán về liên kết hóa học. 22 Mô tả khái niệm trong lý thuyết hỗn loạn về độ nhạy cảm của hệ đối với điều kiện gốc (sensitivity on initial conditions). Trong khi mô phỏng một dự đoán về thời tiết trên máy tính, Lorenz đã lỡ nhập số liệu là 0,506 thay vì 0,506127, và kết quả dự đoán thời tiết hoàn toàn khác so với tính toán ban đầu. Từ đó Lorenz đề cập tới sự ràng buộc chặt chẽ của hệ vật lý đối với các điều kiện ban đầu. Một cái đập cánh của con bướm nhỏ bé có thể gây ra sự thay đổi (dù rất nhỏ) trong điều kiện gốc của hệ vật lý, dẫn đến kết quả là những thay đổi lớn về thời tiết như cơn lốc tại một địa điểm cách nơi con bướm đập cách hàng vạn km. Tuy nhiên tỉ lệ động năng giữa một cái đập cánh của con bướm với toàn bộ cơn lốc là quá nhỏ, vì thế con bướm chỉ có vai trò không đáng kể trong những tính toán lý thuyết hỗn loạn cho hệ vật lý, nói cách khác thì nếu một cái đập cánh của con bướm có thể gây ra cơn lốc, thì một cái đập cánh khác cũng có thể dập tắt nó, và bên cạnh cái đập cánh của con bướm thì còn có vô vàn hoạt động khác có động năng đáng kể hơn rất nhiều có thể ảnh hưởng tới thời tiết. 38 Fields of Dominance – Các khu vực ưu thế Một khu vực ưu thế được thể hiện ra bởi các mẫu hình năng lượng cao (high energy patterns) trong sự ảnh hưởng của chính nó lên những mẫu hình yếu hơn. Điều này có thể được so sánh với việc một khu vực có từ tính nhỏ tồn tại đồng thời bên trong một khu vực có từ tính cao hơn, khu vực mạnh hơn là một nam châm điện khổng lồ. Vũ trụ trong hiện tượng luận là sự biểu hiện của sự tương tác bất tận của các mẫu hình hấp dẫn với độ mạnh khác nhau. Những sự phức tạp bất tận trong cuộc sống là những phản xạ lại của những phản chiếu bất tận của các quá trình tăng lên và giảm xuống (được kết hợp bởi những hòa hợp và tương tác) của những khu vực này. Critical Point Analysis – Phân tích điểm tới hạn Khái niệm về quan hệ nhân quả theo học thuyết Newton truyền thống đã loại bỏ hết tất cả những dữ liệu “không thể xác định – nondeterministic” bởi vì rất nhiều thông tin không phù hợp với thế giới quan của học thuyết này. Với những khám phá của Einstein, Heisenberg, Bell, Bohr và nhiều người khác, thì mô hình của chúng ta là vũ trụ giãn nở một cách nhanh chóng (universe expanded rapidly). Vật lý lý thuyết nâng cao đã chứng minh rằng mọi thứ trong vũ trụ phụ thuộc một cách tinh tế dựa trên và tương tác với mọi thứ khác. Vụ trụ có tính không gian 4 chiều thường được học thuyết Newton cổ điển mô tả như những bộ máy đồng hồ khổng lồ (giant clockworks), với 3 chiều không gian biểu thị quá trình tuyến tính trong thời gian. Nếu chúng ta nhìn vào các bộ máy đồng hồ đơn giản hơn, chúng ta sẽ nhận ra rằng một vài bánh răng chuyển động chậm và nặng nề, trong khi những bánh răng khác chuyển động nhanh hơn và sự cân bằng xoay quanh cơ chế thoát ra khỏi trạng thái hiện tại (lên – xuống (ra khỏi – trở lại) của trò bập bênh). Đặt áp lực lên một trong những bánh răng chuyển động lớn có thể gây ra tác động nhỏ vào cơ chế này; tuy nhiên, sẽ có nơi nào đó (có một cơ chế cân bằng tinh vi) mà tại điểm ấy chỉ cần một sự tác động nhỏ nhất cũng sẽ dừng lại toàn bộ hệ thống. Nó được định nghĩa là “điểm tới hạn - critical point”, nơi mà sự tác động ít nhất lại gây ra một hiệu quả to lớn nhất. The Tipping Point: How Little Things Can Make a Big Difference (Điểm bùng phát: Làm thế nào những điều nhỏ bétạo nên sự khác biệt lớn lao?) - Malcolm Gladwell Causality – Quan hệ nhân quả Trong thế giới có thể quan sát được, quan hệ nhân quả thông thường được phỏng đoán rằng có cơ chế hoạt động tuân theo quy tắc sau: . 39 Đây được gọi là trình tự tuyến tính xác định – giống như những quả bóng billiard lần lượt va chạm với mỗi quả bóng khác. Giả định ngầm rằng A gây ra B gây ra C. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng quan hệ nhân quả hoạt động trong một cách thức hoàn toàn khác, trong đó mẫu hình hấp dẫn “ABC” kết hợp, nó tách rời khỏi “những tác động – operants” của nó và được thể hiện như sự liên tục bên ngoài “A, rồi B, rồi C” của sự nhận thức. Từ hình trên, chúng ta thấy rằng nguồn (ABC) là cái không thể quan sát, các kết quả trong trình tự hữu hình A→B→C, là hiện trạng có thể quan sát trong thế giới có tính không gian 3 chiều có thể đo lường. Những vấn đề điển hình mà thế giới nỗ lực giải quyết sự tồn tại ở mức độ có thể quan sát của A→B→C. Nhưng công việc của chúng tôi là tìm ra khuôn mẫu hấp dẫn vốn có, ABC mà không phải là A→B→C có vẻ nổi bật. Trong sơ đồ đơn giản này, những tác động vượt qua cả những cái có thể quan sát được lẫn những cái không thể quan sát được; chúng ta có thể hình dung chúng giống như cầu vồng nối liền những khu vực xác định và bất định. (Sự tồn tại của cái gọi là những tác động có thể được suy ra bằng cách đặt câu hỏi, “What encompasses both the possible and the impossible, the known and the unknown? – Cái gì bao hàm cả có thể và không thể, biết và không biết?”. Hay nói cách khác, what is the matrix of all possibilities? - cái gì là ma trận của tất cả các khả năng?). Sự mô tả về cách vũ trụ hoạt động theo học thuyết của nhà vật lý David Bohm, ông ấy mô tả một vũ trụ toàn ảnh (holographic23 universe) với một mức tiềm ẩn - invisible implicate (“cuộn lại - enfolded”) và một mức tường minh - manifest explicate (“mở ra - unfolded”). Nhưng điều quan trọng nhất cần lưu ý là sự sâu sắc mang tính khoa học này lại giống với quan điểm của những nhà thông thái đã thấu tỏ thông qua trải nghiệm thực tế qua thời gian dài, những người đã phát triển vượt qua ý thức để đạt trạng thái của nhận thức thuần túy. Bohm giả thiết rằng điểm bắt đầu vượt ra khỏi cả khu vực tiềm ẩn lẫn tường 23 Hình ảnh được trình chiếu mà ta có thể quan sát được vật thể dưới bất kỳ góc nhìn nào như thể là có đang ở vật thể ấy ở đó mặc dù ta không thể sờ được. 40 minh, rất giống với trạng thái của nhận thức thuần túy được mô tả bởi những nhà thông thái. Sự xuất hiện của siêu máy tính thông minh nhân tạo cho phép áp dụng các lý thuyết động lực phi tuyến để ứng dụng nghiên cứu về chức năng của não bằng kỹ thuật mô hình hóa bệnh học thần kinh (neurophysiologic). Chức năng của bộ nhớ được nghiên cứu đặc biệt bằng các phương pháp mô hình hóa thần kinh, trong đó các mạng lưới sự hấp dẫn đã được nhận ra. Kết luận của nghiên cứu hiện này là mạng lưới tế bào thần kinh của não hoạt động như một hệ thống các mẫu hình hấp dẫn, để hệ thống không hành xử trong một tổng thể theo một cách ngẫu nhiên – mặc dù mỗi tế bào thần kinh có thể hành xử theo một cách ngẫu nhiên. Các mô hình tế báo thần kinh của ý thức tiết lộ một sự phân loại các mạng lưới tế bào thần kinh gọi là “các hệ thống thỏa mãn ràng buộc - constraint satisfaction systems”. Trong các hệ thống này, một mạng lưới các đơn vị tế bào thần kinh được kết nối, sẽ hoạt động trong một chuỗi các giới hạn và dó đó, nó tạo ra những khuôn mẫu hấp dẫn, một trong số chúng hiện nay đang được gắn với bệnh về tâm lý (psycho-pathology). Loại mô hình hóa này có sự tương quan giữa sinh lý học (physiology) và các kết quả tương đương trong thử nghiệm cơ kinesiologic của chúng tôi, nó chứng tỏ sự kết nối giữa tâm trí và cơ thể. Trong các thuật ngữ xuất phát từ thuyết hỗn loạn, các nghiên cứu lâm sàng đã xác định một khoảng không gian, bao gồm toàn bộ phạm vi tiến hóa của ý thức con người. Trong phạm vi này, nhiều khuôn mẫu hấp dẫn làm gia tăng năng lượng đã được tìm thấy. Những mẫu hình này đại diện cho các khu vực năng lượng là đặc tính của chính bản thân ý thức hơn là của bất kỳ cá nhân cụ thể nào, điều này xảy ra trong một bộ phận lớn dân số thông qua những biến cố của chính họ qua thời gian dài, không phụ thuộc vào những thử nghiệm hay chủ thể làm thử nghiệm. Sự phát triển của ý thức và sự phát triển của xã hội loài người có thể được miêu tả trong các thuật ngữ toán học của động lực phi tuyến. Nguyên cứu của chúng tôi liên quan đến nó với một bộ giới hạn các thông số của ý thức mà chúng tôi đã hiệu chỉnh từ 1 đến 1000. Các số đại diện cho logarit (với cơ số 10) của năng lượng của các khu vực tương ứng. Toàn bộ khu vực và khoảng không gian của bản thân ý thức bị giới hạn, để đi đến việc xác định. Phạm vi từ 1 đến 600, đại diện cho miền với đa số trải nghiệm rộng lớn 41 của con người; các mức độ từ 600 đến 1000, khu vực của sự tiến hóa phi thường – của giác ngộ, thông thái và trạng thái tinh thần cao nhất. Một yếu tố quan trong trong thuyết hỗn loạn, có ích cho việc hiểu được sự tiến hóa của ý thức, đó là sự ràng buộc của sự phụ thuộc nhạy cảm đối với các điều kiện ban đầu. Nó đề cập đến sự thật rằng một sự thay đổi nhỏ trong một khoảng thời gian có thể có ảnh hưởng và tạo ra một sự thay đổi sâu sắc. Đây là một cơ chế cần thiết của tất cả sự tiến hóa và cũng dùng làm nên tảng cho tiềm năng của quá trình sáng tạo. --- Nhìn chung, từ xưa con người đã cố gắng tạo ra cảm giác rất phức tạp và không thể tiên đoán thường xuyên về hành vi của chính mình. Rất nhiều hệ thống được xây dựng gây ra cả sự có thể hiểu được và không thể hiểu nổi. Để “ý nghĩa hóa - make sense” có nghĩa làtrở nên có thể định nghĩa bằng các khái niệm tuyến tính: luận lý và hợp lý (logical and rational). Nhưng quá trình này, và kinh nghiệm của bản thân cuộc sống là cókết cấu – có nghĩa nó được định nghĩa là phi tuyến tính. Đây là nguồn gốc của sự thất bại mang tính trí tuệ không thể trốn tránh của con người. Trong nghiên cứu này, tuy các phản hồi thử nghiệm độc lập với hệ thống tín ngưỡng của chủ thể hay nội dung mang tính trí tuệ. Nhưng điều nổi bật là các mẫu hình của các khu vực năng lượng là một khía cạnh của chính bản thân ý thức, không phân biệt các đặc tính của cá nhân. Các nói thông thường não trái/não phải, chúng ta có thể nói rằng các chủ thể thử nghiệm trên toàn cầu đã phản ứng với khu vực hấp dẫn, không phân biệt sự thay đổi mang tính cá nhân của logic, lý trí, hay các hệ thống ý kiến liên tục trong não trái của người đó. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các mẫu hình năng lượng mạnh mẽ sẽ tổ chức hành vi của con người. Chúng ta có thể trực cảm (intuit), sau đó, một khu vực vô hạn của tiềm năng vô hạn – bản thân ý thức – trong nó là một khu vực hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ đang tổ chức tất cả hành vi của con người trong cái “nhân tính – humanness” bẩm sinh. Bên trong khu vực hấp dẫn khổng lồ là những khu vực năng lượng kém hơn và sức mạnh kém hơn. Những khu vực này lần lượt thống trị hành vi, để những mẫu hình có thể nhận rõ làphù hợp với văn hóa và thời gian, trong suốt lịch sử nhân loại. Những tương tác đa dạng trong những khu vực hấp dẫn làm đẹp lịch sử của văn minh và nhân loại. 42 Nghiên cứu của chúng tôi có tương quan nhiều với học thuyết “các khu vực hình thái - morphogenetic fields” của Rupert Sheldrake, và cũng giống như mô hình toàn thể về chức năng của não – tâm trí của Karl Pribram. Và cũng tương quan với những kết luận đã đạt giải Nobel của Sir John Eccles rằng não hoạt động như một bộ tiếp nhận các mẫu hình năng lượng tồn tại trong chính bản thân tâm trí, và sự tồn tại này giống như ý thức được trình bày dưới dạng ý nghĩ. Sự hư ảo của bản ngã khẳng định các ý nghĩ như “của tôi – mine”. Tài năng, nói cách khác, thường biểu hiện cho nguồn gốc của những bước nhảy sáng tạo của nhận thức, mà truyền thống gọi là “Thần – Divinity”. Chapter 2: History and Methodology – Lịch sử và phương pháp (lược bỏ) Historical Background – Bối cảnh lịch sử The Testing Technique – Kỹ thuật thử nghiệm Use of the Testing Procedure in This Study – Cách sử dụng phương pháp thử nghiệm trong nghiên cứu này Discrepancies – Các sự tương phản Limitations – Các hạn chế Disqualification – Các nguyên nhân Chapter 3: Test Results and Interpretation – Kết quả thử nghiệm và diễn giải 43 44 Discussion – Thảo luận Sự phản ánh trên bản đồ này có thể mang lại sự mở rộng sâu sắc về sự đồng cảm của một người đối với cuộc sống của người đó, với những biểu hiện đa dạng. Nếu chúng ta xem xét các thái độ cảm xúc với ít sự xét nét về “đức hạnh” nói chung, chúng ta nhận thấy người ta bản chất là không tốt cũng không xấu; các quy định đạo đức chỉ là một quan điểm để họ bộc lộ cảm xúc. Ví dụ, một người ở mức đau buồn (Grief), được hiệu chỉnh tại mức năng lượng 75, sẽ ở trong một trạng thái tốt hơn nhiều nếu anh ta tăng lên mức giận dữ (anger) được hiệu chỉnh ở mức 150. Tuy nhiên, cơn thịnh nộ, chính nó là một cảm xúc phá hoại và vẫn là một trạng thái yếu ớt của ý thức. Sự thờ ơ (apathy) có thể kìm hãm toàn bộ các nền văn hóa cũng như các cá nhân. Nếu sự khao khát (desire) ở mức 125 và sau đó sử dụng năng lượng của sự giận dữ ở mức 150 để phát triển lên sự tự hào (pride) ở mức 175, họ có thể tiến tới sự can đảm (courage) ở mức 200, và tạo ra sự cải thiện mang tính thực tại đối với tình trạng của cá nhân họ hay của cả tập thể. Ngược lại, những người đã đạt tới trạng thái thông thường của tình yêu (love) vô điều kiện sẽ trải nghiệm bất cứ điều gìmà không có sự không thể thừa nhận (cóthể thừa nhận tất cả). Giống như những tiến bộ của một người trong sự phát triển ý thức cá nhân của người đó, sự tiến bộ này trở nên tự duy trì và tự sửa chữa (self-perpetuating and self-correcting) để sự tự cải thiện (self-improvement) trở thành một lối sống. Hiện tượng này có thể dễ được quan sát ở những thành viên trong các nhóm 12 bước (12-step groups), những người liên tục khắc phục các thái độ tiêu cực như sự tự thương hại hay không khoan nhượng (self-pity or intolerance). Người rơi xuống ở vị trí phía dưới hơn trong thang đo ý thức có thể tìm thấy sự có thể chấp nhận những thái độ tương tự và sẽ bào chữa cho chúng một cách chính đáng. (Tự bào chữa cho hành vi vàthái độ của bản thân – Giết người vìtự vệ; đau buồn hay nổi giận vìcảm thấy mình làngười bị hại; Những người này chấp nhận vàduy trìthái độ đó của bản thân màkhông hề muốn thay đổi nó.) Trong suốt lịch sử, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới và các sự huấn luyện tinh thần quan tâm đến các phương pháp để thăng cấp trong các mức độ ý thức. Hầu hết đều ngụ ý hay cụ thể rằng việc di chuyển lên trên trong thang cấp độ này là một việc khó khăn và việc thành công phụ thuộc vào việc có một người hướng dẫn (hay ít nhất là các giáo lý) 45 để đưa ra những hướng dẫn và nguồn cảm hứng cụ thể đối với người muốn thực hiện, những người này có thể tuyệt vọng đối với việc cố gắng mà không được định hướng hơn là việc họ không có khả năng ấy. May mắn thay, bản đồ của chúng tôi sẽ thuận lợi cho sự cố gắng tối hậu của con người. Tác động nhận thức luận của nhận thức về bản đồ này là không dễ nhận thấy nhưng có thể trở nên sâu rộng hơn. Những sự liên quan của những phát hiện này là các ứng dụng thực tế đối với thể thao, y học, tâm lý học, tinh thần học, các mối quan hệ cá nhân, và những câu hỏi thông thường về hạnh phúc. Việc suy ngẫm bản đồ ý thức có thể, ví dụ như, thay đổi cách hiểu của một người về quan hệ nhân quả. Giống như nhận thức, chính nó, tiến hóa cùng với mức độ ý thức của một người, rõ ràng rằng cái thế giới gọi là miền nguyên nhân (domain of causes) thực tế là miền ảnh hưởng (domain of effects). Bằng cách chịu trách nhiệm về hậu quả từ nhận thức của bản thân, người quan sát có thể vượt qua vai nạn nhân để hiểu rằng “Nothing out there has power over you. – Không có gì ngoài năng lượng của bản thân”. Đó không phải các các biến cố của cuộc sống, nhưng một người phản ứng như thế nào đối với các biến cố và thái độ của người đó về các biến cố, sẽ xác định liệu những biến cố này cóảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đối với cuộc sống của người đó, cho dù chúng sẽ được người đó trải nghiệm như một cơ hội hay áp lực. Căng thẳng tâm lý là ảnh hưởng thuần (net effect) của một trạng thái mà bạn đang chống lại hoặc muốn trốn chạy, nhưng trạng thái không có năng lượng bên trong hay của riêng nó. Không thứ gì có năng lượng trong chính nó để “gây ra” căng thẳng. Âm nhạc ồn ảo làm tăng huyết áp của một người lại có thể trở thành nguồn cảm hứng đối với người khác. Việc ly hôn có thể là tổn thương nếu nó là điều người ta không mong muốn những lại là sự giải thoát nếu người ta muốn thế. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Sự khác biệt giữa điều trị và chữa lành là điều màtrước đây, hoàn cảnh chữa trị yêu cầu sự đồng nhất, trong khi cuối cùng, các đáp ứng lâm sàng được tìm thấy bởi sự thay đổi trong hoàn cảnh chữa trị, để tạo ra sự loại bỏ triệt để nguồn gốc của trạng thái hơn là phục hồi khỏi triệu chứng. Đó là một yếu tố để quyết định loại thuốc hạ huyết áp đối với trạng 46 thái cao huyết áp; Khá khác lạ đối với việc mở rộng hoàn cảnh chữa trị trong đời sống của bệnh nhân đến mức người đó ngừng giận dữ, thù địch và đán áp. Sự đồng cảm có nguồn gốc từ việc suy ngẫm bản đồ ý thức sẽ có hi vọng tạo ra một bước ngắn để đạt tới hân hoan (joy). Chìa khóa dẫn đến hân hoan là sự tử tế vô điều kiện đối với mọi thứ trong cuộc sống, bao gồm cả chính chúng ta, cái chúng ta gọi là lòng trắc ẩn. Không có lòng trắc ẩn thì bất kỳ ý nghĩa nhỏ bé nào cũng không được tạo ra trong cố gắng của con người. Chúng ta có thể suy rộng hoàn cảnh xã hội lớn hơn từ các liệu pháp cá nhân, trong đó các bệnh nhân không thể được chữa khỏi hoàn toàn hay được chữa lành về cơ bản cho đến khi họ cầu nguyện năng lượng của lòng trắc ẩn, cả cho bản thân và cho người khác. Khi ấy, người được chữa lành có thể trở thành người chữa lành. Chapter 4: Levels of Human Consciousness – Các mức độ ý thức của con người Hàng triệu hiệu chuẩn trong những năm qua của việc nghiên cứu này đã xác định một loạt các giá trị tương ứng chính xác với các tập hợp thái độ và cảm xúc được công nhận bởi các lĩnh vực năng lượng hấp dẫn cụ thể, giống như các trường điện từ thu hồi các vụn sắt. Để dễ hiểu chúng tôi đã thông qua việc phân loại các lĩnh vực năng lượng sắp được đề cập đến, cũng như tính chính xác về phương diện lâm sàng và chủ quan. Điều rất quan trọng cần lưu ý là các con số hiệu chuẩn không đại diện cho một số học, mà là 1 loga, tiến trình. Do đó, mức 300 không phải làgấp đôi độ lớn của 150; nó là300 mức năng lượng thứ 10 (10300). Do đó, sự gia tăng thậm chí một vài điểm cho thấy một bước tiến lớn trong năng lượng; Tỷ lệ gia tăng trong năng lượng khi chúng ta di chuyển quy mô là rất lớn. Những cách thức mà các mức độ khác nhau của ý thức con người thể hiện bản thân chúng thì sâu sắc và có ảnh hưởng sâu rộng; Những ảnh hưởng của chúng vừa rõ ràng vừa tinh tế. Tất cả các mức độ ý thức dưới 200 có tính phá hoại cuộc sống ở cả khía cạnh cá nhân và xã hội nói chung; Ngược lại, tất cả các mức độ ý thức trên 200 là những bộc lộ mang tính xây dựng của năng lượng. Mức quyết định 200 là điểm tựa phân chia các khu vực chung của sự ảnh hưởng (hay điều sai lầm) khỏi năng lượng (hoặc chân lý). Trong mô tả các tương quan cảm xúc của các lĩnh vực năng lượng của ý thức, thật tốt để nhớ rằng chúng hiếm khi được bộc lộ như những trạng thái thuần tuý trong một cá nhân. Một người có thể hoạt động ở một mức độ trong một phạm vi nhất định của cuộc 47 sống và trên một mức độ khá khác nhau trong một phạm vi khác của cuộc sống. Mức độ ý thức tổng thể của một cá nhân là tổng số ảnh hưởng của tất cả các cấp độ này. MỨC NĂNG LƯỢNG 20: SHAME - XẤU HỔ Mức độ của Xấu hổ thì nguy hiểm gần như dẫn đến cái chết, nó có thể được lựa chọn từ Xấu hổ như là tự sát có ý thức hoặc được lựa chọn tinh tế hơn do không thực hiện các bước để kéo dài sự sống, như trong "tự tử tiêu cực." Cái chết do tai nạn có thể tránh được thì phổ biến. Tất cả chúng ta đều có nhận thức về sự đau đớn của việc "mất mặt," trở nên mất uy tín, hoặc cảm thấy như một "người vô hình". Trong Xấu hổ, người ta xấu hổ và né tránh, ước rằng họ vô hình. Tội diệt chủng là một sự kết hợp của sự xấu hổ truyền thống và, trong các xã hội nguyên thủy mà tất cả chúng ta đều bắt nguồn, tội diệt chủng tương đương với cái chết. Những kinh nghiệm đầu đời như lạm dụng tình dục dẫn đến sự xấu hổ, làm lệch lạc nhân cách thường trong suốt cả cuộc đời trừ phi những vấn đề này được giải quyết bằng liệu pháp tâm lý. Sự xấu hổ, như Freud xác định, gây ra chứng loạn thần kinh. Nó phá huỷ sức khoẻ tình cảm và tâm lý, như một hệ quả của lòng tự trọng thấp, làm cho một người có xu hướng mắc những bệnh về phát triển thể chất. Nhân cách dựa trên sự xấu hổ là nhút nhát, rút lui, và hướng nội. Sự xấu hổ cũng được sử dụng như một công cụ của sự tàn ác, và các nạn nhân của nóthường trở nên độc ác. Những đứa trẻ xấu hổ tàn bạo với động vật và với người khác. Hành vi của những người có ý thức ở mức 20 là nguy hiểm. Họ dễ bị những chứng ảo giác, hoang tưởng. Một số người trở nên loạn thần và phạm những tội ác kì quái. Một số cá nhân dựa trên sự Xấu hổ đền bù lại bằng chủ nghĩa hoàn hảo và cứng nhắc, và thường trở nên bị khống chế và không khoan dung. Những ví dụ nổi tiếng về điều này là những người có quan điểm cực đoan quá khích, những người này hình thành nên những nhóm người theo nghi thức, hướng suy nghĩ xấu hổ vô thức của họ lên những người mà họ cảm thấy hợp lý khi tấn công hoặc giết người một cách chính đáng. Những kẻ giết người hàng loạt thường hành động theo chủ nghĩa luân lý tính dục, với lý do trừng phạt cái gọi là phụ nữ "xấu". Bởi vì nó phá bỏ toàn bộ mức độ tính cách của một người, nên Xấu hổ gây tổn thương cho những cảm xúc tiêu cực khác, và do đó, thường tạo ra niềm tự hào giả dối, tức giận và tội lỗi. 48 MỨC NĂNG LƯỢNG 30: GUILT - TỘI LỖI Tội lỗi, thường được sử dụng trong xã hội của chúng ta để thao túng và trừng phạt, biểu hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, như hối hận, tự hủy hoại, độc ác, và toàn bộ các triệu chứng của nạn nhân. Hậu quả của tội lỗi vô thức dẫn đến bệnh tâm thần, khuynh hướng gây tai nạn và các hành vi tự sát. Nhiều người đấu tranh với tội lỗi cả cuộc đời của họ, trong khi những người khác tuyệt vọng tìm cách thoát khỏi tình trạng chối bỏ hoàn toàn tội lỗi. Sự chi phối tội lỗi dẫn đến một sự bận tâm với "tội lỗi", một thái độ tình cảm không tha thứ thường bị những kẻ mù quáng tôn giáo lợi dụng, những người sử dụng nó để ép buộc và kiểm soát. Như những người thích "tội lỗi và cứu tế", bị ám ảnh bởi sự trừng phạt, dường như có thể thể hiện qua tội lỗi của chính họ, hoặc hướng nó lên những người khác. Các nền văn hoá thể hiện sự chệch hướng của việc chỉ trích cực đoan bản thân thường biểu hiện các hình thức bệnh độc ác khác, ví dụ như công khai, giết người hay động vật theo nghi lễ. Tội lỗi gây ra cơn thịnh nộ, và biểu hiện của nó là giết người thường xuyên. Hình phạt tử hình là một ví dụ về cách giết người làm vừa lòng một quần chúng đầy tội lỗi. Ví dụ như xã hội Mỹ không tha thứ của chúng ta, bêu rếu các nạn nhân của nó trên báo chí và đưa ra các hình phạt mà chưa bao giờ được chứng minh là có hiệu quả ngăn chặn hay trừng trị. MỨC NĂNG LƯỢNG 50: APATHY - THỜ Ơ, VÔ CẢM Mức năng lượng này được đặc trưng bởi sự nghèo đói, thất vọng và tuyệt vọng. Thế giới và tương lai trông thật ảm đạm, bi ai là chủ đề của cuộc sống. Sự vô cảm là một trạng thái của sự bất lực; những nạn nhân của nó, nghèo túng trong mọi lẽ, không chỉ thiếu những nguồn lực mà còn thiếu cả năng lượng để giúp cho bản thân họ tiếp cận với những nguồn lực có sẵn. Trừ khi có nguồn năng lượng bên ngoài được cung cấp bởi những người chăm sóc, cái chết thông qua sự tự tử thụ động có thể là kết quả của sự vô cảm. Nếu không có ý chí muốn sống, cái nhìn vô vọng ngây ra, không phản ứng với kích thích, cho đến khi mắt họ ngừng theo dõi và không còn đủ năng lượng để nuốt thức ăn được mời. Đây là cấp độ của những người vô gia cư và những người bị bỏ rơi trong xã hội; Nó cũng là số phận của nhiều người già và những người bị cô lập khác bởi các bệnh mãn tính hoặc phát triển không ngừng. Sự vô cảm là phụ thuộc; Mọi người trong Vô cảm thì "nặng nề" và cảm thấy trở thành một gánh nặng bởi những người xung quanh họ. 49 Thông thường, xã hội không có đủ động lực để có thể thực sự giúp đỡ các nền văn mình cũng như các cá nhân ở mức độ này, những người được coi là kênh nguồn của nguồn lực. Đây là cấp độ của các con đường ở Calcutta, nơi chỉ có những vị thánh như Mẹ Têrêsa và những người ủng hộ dám đặt chân lên. Sự vô cảm là mức độ của từ bỏ hy vọng, và ít người có can đảm để thực sự đối mặt với nó. MỨC NĂNG LƯỢNG 75: GRIEF - ĐAU BUỒN Đây là mức độ của sự buồn bã, mất mát và chán nản. Hầu hết chúng ta đã từng trải nghiệm mức năng lượng này trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng những người vẫn duy trì ở mức năng lượng này sống một cuộc đời của sự hối tiếc và trầm cảm liên miên. Đây là mức độ của sự thương tiếc, mất mát và hối tiếc về quá khứ đã ăn sâu; nó cũng là mức độ của những người thường xuyên thua cuộc và những người đánh bạc mãn tính chấp nhận sự thất bại như một phần của lối sống của họ, thường dẫn đến mất việc làm, bạn bè, gia đình và cơ hội cũng như tiền bạc và sức khỏe. Những mất mát lớn những năm đầu đời làm cho người ta dễ bị tổn thương đến nỗi chấp nhận thụ động sự đau buồn về sau này, như thể nỗi buồn là cái giá của cuộc sống. Trong tình trạng đau buồn, người ta nhìn thấy nỗi buồn khắp mọi nơi – ở những đứa trẻ nhỏ, ở tình hình thế giới, ở bản thân cuộc đời. Một phần triệu chứng của mất mát là quan điểm về sự không thể thay thế được của những thứ đã bị mất hoặc cái mà nó tượng trưng cho. Có một sự khái quát hóa từ sự cụ thể đến nỗi sự mất mát của một người thân được đánh đồng với sự mất mát của tình yêu. Ở mức độ này, những mất mát về cảm xúc như vậy có thể gây ra cái chết hoặc sự trầm cảm nghiêm trọng. Dù Đau buồn là nghĩa trang của cuộc sống thì nó vẫn có nhiều năng lượng hơn Vô cảm. Do đó, khi một bệnh nhân vô cảm, bị sang chấn tâm lý bắt đầu khóc, chúng ta biết rằng họ đang trở nên tốt hơn. Một khi họ bắt đầu khóc, họ sẽ ăn uống trở lại. MỨC NĂNG LƯỢNG 100: FEAR - SỢ HÃI Ở mức độ 100, con người có nhiều năng lượng sống hơn. Sợ nguy hiểm thì thực sự là lành mạnh. Sợ hãi làm chủ nhiều thứ trong thế giới, thúc đẩy hoạt động liên tục. Nỗi sợ kẻ thù, tuổi già hay cái chết, sợ bị từ chối và vô số những lo ngại về xã hội là động lực thúc đẩy cơ bản trong cuộc sống của hầu hết mọi người. Từ quan điểm của mức độ này, thế giới trông có vẻ nguy hiểm, đầy cạm bẫy và đe dọa. Sợ hãi là công cụ chính thức cho việc kiểm soát bởi các cơ quan và chế độ độc tài áp 50 chế, và tình trạng mất an ninh là việc buôn bán cổ phiếu của những tay vận hành chính trên thị trường. Các phương tiện truyền thông và quảng cáo đóng vai Sợ để tăng thị phần. Sự gia tăng của nỗi sợ hãi là vô hạn như trí tưởng tượng của con người. Một khi sợ hãi trở thành tâm điểm của một người, những sự kiện gây lo lắng không ngớt về thế giới nuôi dưỡng nỗi sợ. Sự sợ hãi trở thành nỗi ám ảnh và có thể có bất kì hình thức nào – sợ mất một mối quan hệ dẫn đến ghen tuông và mức độ căng thẳng cao. Suy nghĩ đầy sợ hãi có thể rơi vào tình trạng hoang tưởng hoặc gây ra các cấu trúc phá huỷ thần kinh, và bởi vì nó lây nhiễm, trở thành một xu hướng xã hội có ảnh hưởng lớn. Sợ hãi giới hạn sự phát triển của nhân cách và dẫn đến sự kìm hãm. Bởi vì nó cần năng lượng để vượt lên trên Sợ hãi, những người bị áp bức không thể đơn độc đạt đến một mức độ cao hơn. Do đó, những người sợ hãi tìm kiếm các nhà lãnh đạo mạnh mẽ dường như đã chinh phục nỗi sợ của họ để dẫn họ ra khỏi chế độ nô lệ của họ. MỨC NĂNG LƯỢNG 125: DESIRE - KHAO KHÁT, HAM MUỐN Mức độ này thậm chí có nhiều năng lượng hơn: sự khao khát thúc đẩy nhiều lĩnh vực hoạt động của con người, bao gồm kinh tế. Các nhà quảng cáo đóng vai Khao khát của chúng ta để lập trình chúng ta với những nhu cầu liên quan đến những động cơ bản năng. Khao khát thúc đẩy chúng ta nỗ lực rất lớn để đạt được những mục tiêu hoặc phần thưởng. Khao khát về tiền bạc, danh tiếng hay quyền lực phá huỷ cuộc sống của nhiều người đã vượt lên trên sự sợ hãi như giới hạn của họ, là yếu tố chiếm ưu thế. Khao khát cũng là mức độ của nghiện ngập, ở đó nó trở thành một sự thèm muốn còn quan trọng hơn bản thân cuộc sống. Những nạn nhân của Khao khát có thể thực sự không ý thức được cơ sở nào của những động cơ của họ. Một số người trở nên nghiện khao khát sự chú ý và xua đuổi những người khác bằng những nhu cầu liên tục của họ. Sự khao khát chấp thuận tình dục đã sản sinh ra toàn bộ những ngành công nghiệp mỹ phẩm, thời trang và điện ảnh. Khao khát có liên quan đến sự tích lũy và lòng tham. Nhưng khao khát là không thể thỏa mãn được, do đó sự thỏa mãn ở một lĩnh vực này chỉ đơn giản là bị thay thế bởi sự khao khát về một điều gì khác chưa được thỏa mãn. Nhiều tỷ phũ vẫn bị ám ảnh bởi việc kiếm được nhiều tiền hơn. Sự khao khát, tuy nhiên, là một trạng thái cao hơn nhiều so với Vô cảm hoặc Đau buồn, vì để “có được” điều gì đó thì bạn trước tiên phải có năng lượng để “muốn”. Truyền hình có ảnh hưởng lớn đến nhiều người bị áp bức, bởi vì nó làm nảy sinh những mong 51 muốn và kích thích những khao khát của họ đến mức độ họ muốn thoát ra khỏi Vô cảm và bắt đầu tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. Mong muốn có thể dẫn con người đến con đường thành công. Sự khao khát có thể trở thành bàn đạp để đạt mức độ ý thức cao hơn. MỨC NĂNG LƯỢNG 150: ANGER - TỨC GIẬN Dù tức giận có thể dẫn đến hành động giết người và chiến tranh, như một mức độ năng lượng bên trong nó, nó sẽ được xoá bỏ hơn nữa từ cái chết so với những người bên dưới nó. Tức giận có thể dẫn đến hành động có tính xây dựng hoặc hủy hoại. Khi con người bước ra khỏi Vô cảm và Đau buổn để vượt qua Sợ hãi như một cách sống, họ bắt đầu muốn; Khao khát dẫn đến sự thất vọng, đến lượt nó dẫn đến Tức giận. Do đó, Tức giận có thể là một phương tiện mà người bị áp bức đạt được tự do.Tức giận trước những bất công xã hội, sự ngược đãi, sự bất bình đẳng tạo ra những phong trào lớn dẫn đến những thay đổi chính trong cấu trúc xã hội. Nhưng sự Tức giận bộc lộ bản thân nó thường xuyên nhất là ở sự oán giận và trả thù và do đó dễ biến động và nguy hiểm. Tức giận như 1 lối sống được minh họa bởi những người dễ kích động, bùng nổ nhạy cảm trước sự xem thường và trở thành “ những người thu thập bất công”, những người hay cãi nhau, hiếu chiến, kiện tụng. Vì sự Tức giận bắt nguồn từ mong muốn bị làm thất vọng, nó dựa trên mức năng lượng ở dưới nó (Khao khát). Sự thất vọng là kết quả của việc phóng đại tầm quan trọng của khao khát. Người tức giận có thể nổi cơn thịnh nộ, giống như một đứa trẻ nản lòng. Sự tức giận dễ dàng dẫn đến sự hận thù, có một ảnh hưởng ăn mòn lên tất cả lĩnh vực của cuộc sống của một người. MỨC NĂNG LƯỢNG 175: PRIDE - SỰ KIÊU HÃNH Kiêu hãnh, được hiệu chỉnh ở mức 175, có đủ năng lượng để điều hành Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ. Đó là mức độ mà đa số chúng ta mong muốn ngày nay. Mọi người cảm thấy tích cực khi họ đạt đến mức này, trái với các lĩnh vực năng lượng thấp hơn. Sự gia tăng lòng tự trọng này là một niềm an ủi cho tất cả những kinh nghiệm đau thương ở các mức độ thấp hơn của ý thức. Kiêu hãnh có vẻ tốt và phân biệt được nó; Nó cọ xát những thứ của nó trong cuộc diễu hành của cuộc sống. Sự kiêu ngạo đã được loại bỏ khỏi Xấu hổ, Tội lỗi, hay Sợ hãi đủ để thoát khỏi sự thất vọng của khu ổ chuột và niềm kiêu hãnh là một Marine là một bước nhảy to lớn. Kiêu hãnh thường có một uy tín tốt và được khuyến khích xã hội, nhưng như chúng ta thấy từ biểu đồ của các mức độ ý thức, đủ tiêu cực để giữ 52 nguyên dưới mức độ chỉ trích 200. Đó là lý do tại sao Kiêu hãnh chỉ cảm thấy tốt trái ngược với các mức độ thấp hơn. Vấn đề, như chúng ta đều biết, là "Trèo cao ngã đau". Kiêu hãnh có tính phòng vệ và dễ bị tổn thương vì nó phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài, nếu không có điều kiện bên ngoài thì nó có thể đột ngột trở lại một mức năng lượng thấp hơn. Cái tôi tự mãn dễ bị tổn thương trước sự tấn công. Sự kiêu căng vẫn còn yếu bởi vì nó có thể bị đẩy ra khỏi bệ để vào Xấu hổ, đó là mối đe dọa thổi bùng lên nỗi sợ hãi của sự kiêu hãnh. Kiêu hãnh là chia rẽ và tạo ra chủ nghĩa phân chia; Hậu quả là tốn kém. Con người thường chết vì niềm kiêu hãnh; Quân đội thường xuyên giết chóc lẫn nhau về khía cạnh đó của Kiêu hãnh được gọi là chủ nghĩa dân tộc. Các cuộc chiến tranh tôn giáo, chủ nghĩa khủng bố chính trị và lòng sốt sắng, lịch sử ghê gớm của Trung Đông và Trung Âu, tất cả đều là cái giá của Kiêu hãnh, mà cả xã hội phải trả giá. Mặt trái của sự Kiêu hãnh là kiêu ngạo và chối bỏ. Những đặc điểm đó ngăn chặn sự phát triển; Trong niềm kiêu hãnh, hồi phục từ các thói nghiện ngập là không thể vì những vấn đề về tình cảm hoặc những khuyết điểm của nhân vật bị từ chối. Toàn bộ vấn đề của việc chối bỏ là một trong những niềm kiêu hãnh. Do đó niềm kiêu hãnh là một chướng ngại rất đáng kể để giành được quyền lực thực sự, mà thay thế niềm kiêu hãnh với tầm vóc và uy tín đúng đắn. MỨC NĂNG LƯỢNG 200: COURAGE - DŨNG CẢM Ở mức 200, năng lượng thực sự xuất hiện lần đầu tiên. Khi chúng tôi kiểm tra các đối tượng ở tất cả các mức năng lượng dưới 200, chúng tôi thấy, cũng có thể được xác minh một cách dễ dàng, rằng tất cả đều yếu. Mọi người đều làm tốt trong việc đáp ứng với những lĩnh vực duy trì sự sống trên mức 200. Đây là mức độ quyết định phân biệt những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của cuộc sống. Ở mức độ dũng cảm, một sự đạt được năng lượng thực sự xảy ra; Do đó, nó cũng là mức độ trao quyền. Đây là khu vực thăm dò, hoàn thành, sự thành thạo và quyết tâm. Ở các mức độ thấp hơn, thế giới được coi là vô vọng, buồn, đáng sợ hoặc bực bội; Nhưng ở mức độ dũng cảm, cuộc sống được xem là thú vị, đầy thử thách và kích thích. Sự dũng cảm ngụ ý sẵn sàng thử những điều mới mẻ và đối phó với những thăng trầm của cuộc đời. Ở mức độ nâng cao này, người ta có thể đương đầu và xử lý hiệu quả trước những cơ hội của cuộc sống. Ví dụ như ở mức 200, người ta có năng lượng để 53 học các kỹ năng làm việc mới. Sự trưởng thành và giáo dục trở thành những mục tiêu có thể đạt được. Có khả năng đối mặt với nỗi sợ hãi hoặc khiếm khuyết nhân cách và trưởng thành bất chấp nỗi sợ của họ; Lo lắng cũng không phá bỏ nỗ lực như nó sẽ làm ở những mức độ tiến hóa thấp hơn. Những trở ngại mà đánh bại những người có ý thức dưới 200 đóng vai trò như những tác nhân kích thích đến những người đã tiến hóa thành cấp độ đầu tiên của năng lượng thực sự. Con người ở mức độ này đưa trở lại thế giới mức năng lượng nhiều như cái họ lấy đi; Ở các cấp thấp hơn, các quần thể cũng như các cá nhân sẽ tiêu hao năng lượng từ xã hội mà không trả lại. Bởi vì những thành quả đạt mang lại được phản hồi tích cực, tự thưởng và lòng tự tin dần dần tự củng cố. Đây là nơi mà năng suất bắt đầu. Mức độ ý thức chung của nhân loại vẫn ở mức 190 trong nhiều thế kỷ và, lạ kì là, chỉ nhảy lên mức hiện tại là 204 trong vòng một thập kỷ qua. MỨC NĂNG LƯỢNG 250: NEUTRALITY - TRUNG TÍNH Năng lượng trở nên rất tích cực khi chúng ta đạt tới mức mà chúng tôi gọi là Trung tính, bởi vì nó được tạo thành bằng cách giải phóng khỏi vị trí thể hiện mức độ thấp hơn. Dưới mức 250, ý thức có khuynh hướng nhìn nhận các sự phân đôi và đảm nhận những vị trí cứng nhắc, một trở ngại trong một thế giới vốn phức tạp và nhiều yếu tố chứ không chỉ là đen và trắng. Đảm nhận những vị trí như vậy tạo ra sự phân cực, và sự phân cực lần lượt tạo ra sự đối lập và phân chia. Như trong võ thuật, một vị trí cứng nhắc trở thành điểm dễ bị tổn thương; Những gì không uốn cong thì có thể bị phá vỡ. Vượt lên trên các rào cản hoặc phản đối tiêu hao năng lượng của một người, điều kiện trung lập cho phép tính linh hoạt và không đánh giá, thực tế thẩm định các vấn đề. Để trở nên trung lập có nghĩa là phải tương đối không ràng buộc với kết quả; không có cách riêng của mình thì không còn được trải qua như thất bại, đáng sợ, hoặc bực bội. Ở mức Trung tính, một người có thể nói, "Tốt thôi, nếu tôi không nhận được công việc này, sau này tôi sẽ nhận được một công việc khác" Đây là sự khởi đầu của sự tự tin bên trong; Cảm nhận được sức mạnh của mình, do đó một người không dễ bị đe dọa. Một người không bị dồn vào tình thế phải chứng minh bất cứ điều gì. Sự mong đợi rằng cuộc sống, với những thăng trầm của nó, về cơ bản sẽ ổn nếu người ta có thể thích ứng với hoàn cảnh là thái độ ở mức 250 tiêu biểu. 54 Con người của Trung lập có một cảm giác hạnh phúc; Dấu hiệu của mức độ này là một khả năng tự tin để sống trên thế giới. Điều này, do đó, theo kinh nghiệm của một mức độ an toàn. Mọi người ở cấp độ này dễ dàng hòa hợp, an toàn để ở quanh và liên kết, bởi vì họ không quan tâm đến xung đột, cạnh tranh, hoặc tội lỗi. Họ cảm thấy thoải mái và không bị ảnh hưởng bởi cảm xúc. Thái độ này không phán xét và không dẫn đến bất kỳ nhu cầu nào để kiểm soát hành vi của người khác. Tương ứng, bởi vìngười Trung lập coi trọng sự tự do, nên họ khó để kiểm soát. MỨC NĂNG LƯỢNG 310: WILLINGNESS - SẴN SÀNG. Mức độ năng lượng rất tích cực này có thể được xem như là cánh cổng đi đến những mức năng lượng cao hơn. Trong khi đó, ở mức độ trung tính, các công việc được hoàn thành đầy đủ nhưng ở mức Sẵn sàng, công việc được thực hiện tốt và thành công bằng tất cả các nỗ lực là phổ biến. Sự trưởng thành thì nhanh chóng. Sự sẵn sàng ám chỉ một người đã vượt qua sự chống đối nội tâm đối với cuộc sống và cam kết tham gia vào cuộc sống. Dưới mức năng lượng 200, con người có xu hướng thận trọng, nhưng ở mức 310, một sự cởi mở lớn xuất hiện. Ở mức này, con người trở nên thân thiện và thành công về mặt xã hội và kinh tế dường như theo sau một cách tự động. Người sẵn sàng không thực sự gặp rắc rối bởi thất nghiệp; bởi vì họ sẽ làm bất kì công việc nào khi họ phải làm; hoặc tạo ra một nghề nghiệp hoặc tự làm việc cho bản thân; họ không cảm thấy bị coi thường khi làm những công việc phục vụ hoặc bắt đầu với những công việc ở dưới thấp. Họ có ích cho người khác và đóng góp vào sự tốt đẹp của xã hội. Họ cũng sẵn sàng đối mặt với những vấn đề nội tâm và không có những chướng ngại chính cản trở sự học tập. Ở mức này, lòng tự trọng sẽ cao và được củng cố bởi những phản hồi tích cực từ xã hội dưới nhiều hình thức như ghi nhận, đánh giá cao và khen thưởng. Sẵn sàng là thông cảm và sẵn sàng đáp lại những nhu cầu của người khác. Những người sẵn sàng là những người xây dựng và đóng góp cho xã hội. Với khả năng phục hồi từ nghịch cảnh và học hỏi từ kinh nghiệm, họ có xu hướng trở nên tự sửa sai. Đã từ bỏ sự kiêu hãnh, họ sẵn sàng nhìn vào những thiếu sót của mình và học hỏi từ người khác. Ở mức sẵn sàng con người trở thành những sinh viên ưu tú. Họ có thể dễ dàng giảng dạy và đại diện cho một nguồn sức mạnh đáng kể cho xã hội. 55 MỨC NĂNG LƯỢNG 350: ACCEPTANCE - CHẤP NHẬN Ở cấp độ nhận thức này, một sự chuyển đổi lớn diễn ra, với sự hiểu biết rằng ta là nguồn gốc và là người tạo ra sự trải nghiệm của cuộc sống. Chịu trách nhiệm như vậy là đặc điểm của mức độ tiến hóa này, đặc trưng bởi khả năng sống hài hoà với những ảnh hưởng của cuộc sống. Tất cả mọi người ở các cấp dưới 200 có khuynh hướng bất lực và tự coi mình là nạn nhân, phó mặc cho cuộc đời. Điều này bắt nguồn từ niềm tin rằng khởi nguồn hạnh phúc của một người hoặc nguyên nhân của những vấn đề rắc rối của một người là "ở ngoài kia". Một sự nhảy vọt mạnh mẽ - lấy lại năng lựơng của chính mình - được hoàn thành ở cấp độ này, với việc nhận ra rằng khởi nguồn của hạnh phúc thì nằm trong chính mỗi người . Ở giai đoạn phát triển này, không có cái gọi là "ngoài kia" có khả năng làm cho người ta hạnh phúc, và tình yêu không phải là cái gì đó được trao hay lấy đi bởi người khác, mà được tạo ra từ bên trong. Chấp nhận không thể bị nhầm lẫn với sự thụ động, một triệu chứng của vô cảm. Hình thức Chấp nhận này cho phép con người dấn thân vào cuộc sống mà không cố gắng làm cuộc sống phù hợp với bản thân. Với Chấp nhận, có sự bình tĩnh về cảm xúc và nhận thức được mở rộng khi sự từ chối được vượt qua. Bây giờ người ta thấy mọi thứ mà không bị bóp méo hoặc diễn giải sai; Bối cảnh kinh nghiệm được mở rộng để người ta có thể "nhìn thấy toàn bộ bức tranh". Việc chấp nhận phải thực hiện cơ bản với sự cân bằng, tỷ lệ và sự phù hợp. Cá nhân ở mức Chấp nhận không quan tâm đến việc xác định đúng hay sai, mà thay vào đó là dành riêng cho việc giải quyết các vấn đề và tìm ra những việc cần giải quyết. Công việc khó khăn không gây khó chịu hoặc mất tinh thần. Các mục tiêu dài hạn được ưu tiên hơn các mục tiêu ngắn hạn; nổi bật là tự kỷ luật và làm chủ. Ở mức chấp nhận, chúng ta không bị dao động bởi xung đột hoặc chống đối; Chúng ta thấy rằng những người khác có những quyền như chúng ta, và chúng ta tôn trọng sự bình đẳng. Trong khi đó mức độ thấp hơn được đặc trưng bởi tính cứng nhắc, ở cấp độ này, phần lớn xã hội bắt đầu nảy ra như một hình thức giải quyết các vấn đề. Do đó, mức này không có sự phân biệt đối xử hoặc không dung nạp; Có nhận thức rằng sự bình đẳng không ngăn cản sự đa dạng. Chấp nhận là bao gồm chứ không phải từ chối. 56 MỨC NĂNG LƯỢNG 400: REASON - LÝ TRÍ Sự thông minh và sự hợp lý tăng lên đến hàng đầu khi sự đa cảm của các mức độ thấp hơn bị vượt quá. Lý trí có khả năng xử lý dữ liệu lớn, phức tạp; Đưa ra những quyết định nhanh chóng, chính xác; Hiểu được sự phức tạp của các mối quan hệ, sự phân cấp và sự phân biệt tốt; Và sự thao tác chuyên môn của các biểu tượng như các khái niệm trừu tượng, ngày càng trở nên quan trọng. Đây là trình độ của khoa học, y học, và khả năng khái quát hoá và hiểu rõ. Kiến thức và giáo dục được xem là trên hết. Sự hiểu biết và thông tin là những công cụ chính của thành tựu, đó là dấu hiệu xác nhận của mức 400. Đây là mức độ của những người đoạt giải Nobel, các nhà chính trị vĩ đại, và các thẩm phán Tòa án Tối cao. Einstein, Freud và nhiều nhà tư tưởng vĩ đại khác của lịch sử cũng ở mức này. Các tác giả của Các cuốn sách vĩ đại của Thế giới phương Tây (Great Books of the Western World) cũng ở mức này. Những thiếu sót của cấp độ này là sự thất bại trong việc phân biệt rõ sự khác biệt giữa các biểu tượng và cái mà chúng đại diện, và sự nhầm lẫn giữa các thế giới khách quan và chủ quan cái mà giới hạn sự hiểu biết về mối quan hệ nhân quả. Ở cấp độ này, rất dễ không nhìn nhận sự việc một cách rõ ràng, trở nên mê đắm các khái niệm và lý thuyết, kết thúc trong chủ nghĩa duy tâm và bỏ qua những điểm thiết yếu. Tri thức hoá có thể trở thành một kết thúc trong chính nó. Lý trí bị giới hạn bởi vì nó không đủ khả năng để phân biệt bản chất hay điểm quan trọng của một vấn đề phức tạp. Và nó thường bỏ qua ngữ cảnh. Lý trí không thể tự nó đưa ra một hướng dẫn để đi đến chân lý. Nó tạo ra số lượng lớn thông tin và tài liệu, nhưng thiếu khả năng để giải quyết sự khác biệt trong dữ liệu và kết luận. Tất cả các lập luận triết học có vẻ thuyết phục theo cách của chúng. Mặc dù Lý trí có hiệu quả cao trong một thế giới kỹ thuật, nơi mà các phương pháp logic chiếm ưu thế, chính Lý trí, là nghịch lý, là khối chính để đạt đến mức độ ý thức cao hơn. Vượt quá mức độ này thì tương đối ít - chỉ bằng 4% dân số thế giới. Cái vôhạn trong lòng bàn tay - Matthieu Ricard - Trịnh Xuân Thuận. MỨC NĂNG LƯỢNG 500: LOVE - TÌNH YÊU Tình yêu được miêu tả trên truyền thông không phải là kiểu tình yêu ở mức này. Trái lại, những thứ mà thế giới nhìn chung ám chỉ về tình yêu là một cảm xúc mãnh liệt, kết hợp với sự thu hút thân thể, sự sở hữu, kiểm soát, nghiện ngập, tư tưởng dâm dục và tính mới lạ. Nó thường mong manh dễ vỡ và dao động, thay đổi và suy yếu với những điều 57 kiện khác nhau. Khi gặp thất vọng, cảm xúc này thường cho thấy một sự tức giận tiềm ẩn và sự phụ thuộc mà nó từng che giấu. Tình yêu có thể chuyển thành căm ghét là một khái niệm chung. Nhưng những gì đang được nói đến hơn tình yêu là một sự hấp dẫn và sự gắn bó đầy say mê. Căm ghét bắt nguồn từ sự kiêu hãnh, không phải từ tình yêu. Có lẽ đó không bao giờ có một tình yêu thực sự trong một mối quan hệ như vậy. Mức 500 được đặc trưng bởi sự phát triển của một Tình yêu vô điều kiện, không thay đổi và vĩnh cửu. Nó không bị dao động – những nguồn gốc của nó không phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài. Tình yêu là một trạng thái sống. Nó là một cách liên kết với thế giới có tính tha thứ, nuôi dưỡng và hỗ trợ. Tình yêu không phải là trí tuệ và không bắt nguồn từ tâm trí. Tình yêu xuất phát từ trái tim. Nó có khả năng nâng đỡ người khác và đạt được những thành tích xuất sắc bởi những lí do thuần khiết của chính nó. Ở mức độ phát triển này, khả năng phân biệt được bản chất trở nên nổi bật; cốt lõi của một vấn đề trở thành trung tâm của trọng tâm. Khi lý trí bị bỏ qua, nảy sinh khả năng nhận ra ngay lập tức toàn bộ một vấn đề và một sự mở rộng lớn về bối cảnh, đặc biệt là về thời gian và sự tiến bộ. Lý trí chỉ đề cập đến các chi tiết cụ thể, trong khi tình yêu đề cập đến toàn bộ. Khả năng này, thường được gán cho trực giác, là khả năng thấu hiểu ngay lập tức mà không cần phân loại lại việc xử lý các ký hiệu liên tiếp. Hiện tượng trừu tượng rõ ràng này thực chất là khá cụ thể; Nó được đi kèm bởi mộtsự giải phóng đo lường được của endorphins24 trong não. Tình yêu không chiếm vị trí và do đó là toàn bộ, vượt lên trên sự tách biệt vị trí. Sau đó có thể là "người này với người khác", vì không có rào cản nào khác. Vì vậy tình yêu bao gồm và mở rộng dần dần ý thức về bản thân. Tình yêu tập trung vào sự tốt lành của cuộc sống trong tất cả các biểu hiện và gia tố của nó là điều tích cực. Nó làm tan biến tính tiêu cực bằng cách tái cấu trúc lại thay vì tấn công nó. Đây là mức của hạnh phúc đích thực. Mặc dù thế giới bị mê hoặc bởi Tình yêu, thì điều đáng lưu ý là chỉ có 0.4% dân số thế giới đạt đến mức độ của sự tiến hóa ý thức này. Chỉ có 0,4 % đạt tới mức tình yêu vô điều kiện ở mức 540. 24 Endorphins là hooc-môn giúp người ta vui vẻ, luôn cảm thấy yêu đời, nghĩ ra được cái mới, lúc nào cũng tự tin, căng tràn sức sống... Chỉ tiết ra trong cơ thể mỗi người khi có sự vận động tập luyện. 58 MỨC NĂNG LƯỢNG 540: JOY - NIỀM VUI Khi tình yêu ngày càng trở nên vô điều kiện, nó bắt đầu được trải nghiệm như một Niềm vui thầm kín. Đây không phải là niềm vui bất ngờ của sự biến chuyển thú vị; Đó là một sự bổ sung liên tục cho tất cả các hoạt động. Niềm vui phát sinh từ bên trong mỗi khoảnh khắc của sự tồn tại, chứ không phải từ bất kỳ nguồn bên ngoài nào khác. Mức 540 cũng là mức độ của chữa lành và của tinh thần dựa trên các nhóm tự lực. Từ mức 540 trở lên là lãnh vực của các vị thánh, của những người chữa bệnh tinh thần, và nhà nghiên cứu tâm linh cao cấp. Đặc điểm của mức năng lượng này là khả năng kiên nhẫn to lớn và sự kiên trì của một thái độ tích cực khi đối mặt với nghịch cảnh kéo dài. Dấu hiệu của mức này là lòng trắc ẩn. Những người đạt được mức này có ảnh hưởng đáng kể đến người khác. Họ có khả năng kéo dài, mở mắt nhìn chằm chằm, điều mà gây ra một tình trạng của tình yêu và hòa bình. Ở mức trên 500, thế giới mà ta nhìn thấy được soi sáng bởi vẻ đẹp tinh tế và sự hoàn hảo của sự sáng tạo. Mọi thứ xảy ra một cách dễ dàng, bởi tính đồng bộ, và thế giới và mọi thứ trong đó được xem là một biểu hiện của tình yêu và thần thánh. Cá nhân sẽ sáp nhập vào ý chí của Thiên Chúa. Sự Hiện diện được cảm nhận với sức mạnh tạo ra các hiện tượng ngoài kỳ vọng thông thường của thực tế, được gọi là phi thường bởi những người quan sát bình thường. Những hiện tượng này đại diện cho sức mạnh của lĩnh vực năng lượng, không phải của cá nhân. Ý thức trách nhiệm của một người đối với những người khác ở cấp độ này có đặc trưng khác với những mức độ thấp hơn. Có một khao khát sử dụng trạng thái ý thức của một người vì lợi ích của bản thân hơn là cho các cá nhân cụ thể. Khả năng yêu nhiều người cùng một lúc đi kèm với khám phá rằng một người yêu càng nhiều, thì người đó càng có thể yêu nhiều hơn. Những trải nghiệm cận kề cái chết, có đặc điểm biến đổi theo tác động của chúng, thường cho phép người ta trải nghiệm mức năng lượng từ 540 đến 600. MỨC NĂNG LƯỢNG 600: PEACE - BÌNH AN Lĩnh vực năng lượng này có liên quan đến kinh nghiệm được phác hoạ bởi các thuật ngữ như tính siêu việt, sự phát triển năng khiếu bản thân, và ý thức Thiên Chúa. Nó cực kỳ hiếm. Khi đạt đến trạng thái này, sự khác biệt giữa chủ thể và đối tượng sẽ biến mất, và không có điểm nhấn quan trọng cụ thể của nhận thức. Không phải bất thường, những cá nhân ở mức này tự loại bỏ mình ra khỏi thế giới, vì trạng thái hạnh phúc có 59 thể ngăn cản hoạt động bình thường. Một số trở thành giáo viên tâm linh; Những người khác làm việc ẩn danh để cải thiện nhân loại. Một số ít trở thành thiên tài vĩ đại trong các lĩnh vực tương ứng và có những đóng góp to lớn cho xã hội. Những người này thì rất tốt bụng và cuối cùng có thể được chỉ định chính thức là các vị thánh, mặc dù ở cấp độ này, tôn giáo chính thức thường xuyên vượt lên, được thay thế bằng tâm hồn thuần túy mà tất cả tôn giáo đều bắt nguồn. Nhận thức ở mức 600 và ở trên thì đôi khi được thông báo là xuất hiện trong chuyển động chậm, lơ lửng trong thời gian và không gian- mặc dù không có gì là đứng một chỗ; Tất cả đều sống động và rạng ngời. Mặc dù thế giới này là thế giới tương tự mà người khác nhìn thấy, nó trở nên liên tục chảy trôi, phát triển trong một điệu nhảy tiến hóa kết hợp tinh tế, trong đó ý nghĩa và khởi nguồn thì tràn ngập. Sự soi rạng tuyệt vời này diễn ra không hợp lý, do đó có một sự im lặng vô hạn trong tâm trí, cái mà đã ngừng khái niệm hoá. Cái đang chứng kiến và cái được chứng kiến có cùng bản sắc; Người quan sát hòa tan vào phong cảnh và trở nên ngang bằng với cái được quan sát. Tất cả mọi thứ được kết nối với mọi thứ khác bởi một sự hiện diện có quyền lực là vô hạn, tinh tế trang nhã, nhưng chắc chắn. Các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, âm nhạc và kiến trúc có thể ở mức giữa 600 và 700 có thể giúp chúng tôi tạm thời đưa chúng đến mức độ cao hơn của ý thức và được công nhận là có tính truyền cảm và vô tận. MỨC NĂNG LƯỢNG 700-1000: ENLIGHTENMENT - GIÁC NGỘ Đây là mức độ của những người vĩ đại trong lịch sử, những người có nguồn gốc từ các mô hình tinh thần mà đa số đã theo suốt các thời đại. Tất cả đều liên quan đến thần thánh, đến cái mà chúng thường được nhận dạng. Đây là mức độ cảm hứng mạnh mẽ; được đặt vào những nơi năng lượng hấp dẫn ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại qua các thời đại. Ở mức độ này, không còn trải nghiệm của một cái tôi cá nhân tách rời khỏi những người khác; Đúng hơn, có một sự nhận dạng về Bản ngã với Ý Thức và Thần thánh. Sự không rõ ràng được trải nghiệm như là Tự vượt khỏi tâm trí. Tính siêu việt của bản ngã cũng được phục vụ bằng ví dụ để dạy người khác làm thế nào để cuối cùng có thể được hoàn thành. Đây là đỉnh cao của sự tiến hóa của ý thức trong lĩnh vực con người. Những giáo lý vĩ đại nâng cao quần chúng và nâng cao mức độ nhận thức của toàn thể nhân loại. Để có tầm nhìn như vậy được gọi là Ân sủng, và ân sủng mà nó mang lại là sự bình an vô tận, được mô tả như là không thể hiểu nổi, vượt ra ngoài giới hạn lời nói. Ở 60 mức độ hiện thực này, ý thức về sự tồn tại của một người vượt qua mọi thời đại và cá tính. Không còn bất kỳ sự đồng nhất hoá nào với thân thể "tôi", và do đó, số phận của nó không đáng lo ngại lắm. Thân thể được xem như là một công cụ của ý thức thông qua sự can thiệp của tâm trí, giá trị cốt yếu của giao tiếp. Bản chất hòa nhập lại vào BẢN CHẤT (The self merges back into the Self). Bản chất thuộc về cánhân (nhỏ) hòa nhập trở lại vào bản chất của toàn vũ trụ (lớn). Đây là mức độ vô nhị, hoặc hoàn thành tính thống nhất. Không có sự hạn định của ý thức; Nhận thức ở khắp mọi nơi đều được trình bày như nhau. Những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại miêu tả những cá nhân đã đạt đến trình độ Giác ngộ đặc trưng cho thấy vị thầy có vị trí tay cụ thể, gọi là một thủ ấn, trong đó lòng bàn tay toả ra phước hạnh. Đây là hành động truyền tải lĩnh vực năng lượng này đến ý thức của nhân loại. Mức độ Uyển chuyển siêu phàm này đã đạt mức lên đến 1.000, mức cao nhất đạt được bởi bất kỳ ai đã từng sống trong lịch sử ghi lại - với trí thông minh, những hiện thân vĩ đại có tước vị "Chúa" là thích hợp: Thần Krishna, Đức Phật và Chúa Jesus Christ. Chapter 5: Social Distribution of Consciousness Levels – Phân vùng xã hội của các mức độ ý thức General Description – Mô tả chung Chỉ 4% dân số đạt đến mức độ 500 hoặc cao hơn; chỉ 0.4% đạt mức 540; và mức 600 hoặc hơn thì chỉ đạt được bởi 1 trên 10 triệu người. Thoạt đầu, những số liệu đó dường như không chắc có thực, nhưng nếu chúng ta xem xét về điều kiện của thế giới, chúng ta sẽ nhanh chóng nhận thấy dân số thế giới của toàn bộ các lục địa nhỏ đang sống ở mức độ vừa đủ tồn tại. Nạn đói, bệnh tật là phổ biến, thường đi cùng với sự đàn áp chính trị và khan hiếm những nguồn lực xã hội. Nhiều người sống trong tình trạng tuyệt vọng ở mức năng lượng Vô cảm, cam chịu cuộc sống nghèo khổ của họ. Chúng ta cũng phải nhận ra là nhiều người chủ yếu sống trong Sợ hãi; hầu hết mọi người dành cả cuộc đời của họ để tìm kiếm một hình thức của sự an toàn. Đối với những người mà cuộc sống đã vượt qua nhu cầu sinh tồn cấp bách để cho phép họ tự do làm theo ý mình thì trở nên Khao khát, và thành công trong việc đạt được những khao khát dẫn đến Kiêu hãnh. Bất kì sự thỏa mãn đầy ý nghĩa nào của con người không thể bắt đầu cho đến khi đạt đến mức năng lượng 250, đây là mức mà một số mức độ tự tin bắt đầu xuất hiện như 1 nền tảng cho những trải nghiệm cuộc sống tích cực trong sự tiến hóa của ý thức. 61 Cultural Correlations – Các tương quan văn hóa Mức năng lượng dưới 200 là phổ biến nhất ở những điều kiện cực kì thô sơ, nơi mà con người phải lo cho sự sinh tồn tối thiểu. Mù chữ, thất học, tỷ lệ trẻ sơ sinh chết cao, bệnh tật và suy dinh dưỡng là phổ biến. Những kỹ năng là sơ đẳng và xoay quanh việc thu lượm thức ăn và nhiên liệu, phụ thuộc hoàn toàn vào những thay đổi bất thường của môi trường. Đây là mức độ văn hóa thời đồ đá, chỉ cao hơn sự tồn tại của động vật. Mức năng lượng giữa 200 gắn liền với lao động bán kỹ năng. Trình độ giáo dục cấp 2 bắt đầu. Mức năng lượng 200 cao được đại diện bởi những lao động có kỹ năng, công nhân cổ xanh25… Ở mức 300, chúng ta thấy những nhà kỹ thuật, nhà chuyên môn, thợ thủ công lành nghề… Ở mức giữa 300, chúng ta thấy những nhà quản lý cấp cao, những nhà giáo dục.. Mức 400 là mức của sự thức tỉnh trí tuệ, tầng lớp những người chuyên nghiệp, trình độ giáo dục cao hơn, kỹ năng cao hơn, những nhà khoa học. Ngôi nhà của họ trưng bày những tạp chí xuất bản định kỳ và những kệ đầy sách. Họ hứng thú với những kênh truyền hình giáo dục và ý thức chính trị phức tạp. Những hoạt động nghệ thuật, những cuộc trò chuyện tinh thông, những bận tâm trí tuệ, những hoạt động sáng tạo như chơi cờ, du lịch, đến rạp hát và xem hòa nhạc. Mức 400 cao gắn liền với những nhà lãnh đạo ở những lĩnh vực của họ, với danh tiếng và thành tựu cao. Cả Einstein, Freud, Newton, Descartes đạt mức 499. Ở mức 500, ý thức tạo nên sự tiến bộ phi thường. Dù sự sinh tồn của cá nhân vẫn quan trọng thì động lực của Tình yêu bắt đầu tô màu cho tất cả hoạt động, và sự sáng tạo được bộc lộ trọn vẹn, đi cùng với nó là sự cam kết và cống hiến và sự bộc lộ của những đức tính thu hút quần chúng. Ở đây, sự xuất sắc phổ biến ở mọi lĩnh vực, từ thể thao đến khoa học. Ở mức độ này âm nhạc, hội họa và kiến trúc vĩ đại xuất hiện, cũng như khả năng nâng cao tinh thần của người khác chỉ bằng sự hiện diện của người đó. Ở mức 600 cuộc sống của một người có thể trở thành thần thoại. 25 “Công nhân cổ xanh” thường chỉ những nhân viên chủ yếu lao động chân tay, như công nhân vận hành máy móc, sửa chữa, vận tải, xây dựng v. v 62 Progression of Consciousness – Sự phát triển của ý thức Mặc dù các mức độ đã mô tả trong một biên độ biến đổi lớn, nhưng nó không có ý nghĩa là các cá nhân sẽ chuyển đổi từ mức độ này đến mức độ khác (ví dụ từ 400 lên 600) trong thời gian sống của người đó. Khu vực năng lượng được hiệu chuẩn cho một cá nhân tại thời điểm sinh chỉ tăng, ở mức trung bình, trong khoảng 5 điểm (+5). Mức độ cá nhân của ý thức đã sẵn sàng gây ảnh hưởng từ lúc sinh ra là một thực tế nghiêm túc với các hàm ý sâu sắc. Và bản thân ý thức, trong sự biểu hiện của nó giống như nền văn minh của con người, phát triển chậm rãi, thông qua nhiều thế hệ. Đa số mọi người sử dụng cả các kinh nghiệm trong đời để xây dựng và thể hiện các sự biến đổi trong vùng năng lượng bẩm sinh của họ; Rất hiếm các cá nhân có thể điều chỉnh để vượt qua giới hạn đó, mặc dù nhiều người có thể cải thiện đáng kể phần nội tại của mình. Lý do dễ hiểu là mức độ giới hạn của một người chính là động cơ (motivation) của người đó. Động lực bắt nguồn từ ýnghĩa (meaning) và ý nghĩa, nói cách khác là một biểu hiện của hoàn cảnh (expression of context). Do đó, thành tựu (achievement) bị giới hạn với hoàn cảnh, khi nó được sắp xếp tương ứng với động lực, nó sẽ quyết định năng lượng tương đối của mỗi cá nhân. Mức tăng trung bình 5 điểm trong thời gian sống dĩ nhiên là một con số thống kê được tạo ra từ nhiều yếu tố khác nhau, chân lýlà các lựa chọn tích lũy trong đời người không đặc biệt gây ra sự hạ thấp mạng lưới của mức độ ý thức của họ. Chi tiết sẽ được làm rõ trong chương 23. Sự ảnh hưởng của một số rất ít các cá nhân có ý thức tiến bộ sẽ cân bằng lại quần thể những người có mức độ thấp hơn. Nhưng, ngược lại, sự tiêu cực cực đoan của một vài cá nhân có thể ảnh hưởng toàn bộ nền văn hóa và tạo ra sự lôi kéo mang tính toàn cầu đối với mức độ ý thức chung. Thử nghiệm Kinesiologic chỉ ra rằng chỉ có 2.6% dân số loài người cóthể được nhận dạng với sự phân cực Kinesiologic bất thường (họ test strong đối với các sự hấp dẫn mang tính tiêu cực và test weak với các sự hấp dẫn mang tính tích cực), điều này giải thích cho 72% các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, có thể vì các cá nhân bị côlập tạo ra những bước nhảy tích cực bất ngờ, thậm chí hàng trăm điểm (ví dụ +200). Nếu một người có thể thật sự thoát khỏi sự lối cuốn của thói vị kỷ của khu vực hấp dẫn (vùng thu hút) dưới 200, và lựa chọn một cách có ý thức phương pháp tiếp cận thân thiện, tận tâm, tử tế, và khoan dung đối với cuộc sống, và sau cùng là sự tập trung trước tiên vào việc làm điều từ thiện đối với người khác, thì có thể 63 chắc chắn đạt đến các mức độ cao hơn, ít nhất lý thuyết là vậy. Trong thực tế sẽ cần đến sự cao thượng (great) Vì thế, mặc dù sẽ không dễ dàng để rời khỏi một khu vực năng lượng để vào một vùng năng lượng khác trong suốt thời gian sống của một người, nhưng vẫn luôn có cơ hội đó. Nó luôn là động lực để kích hoạt tiềm năng; không tiến hành lựa chọn, sẽ chẳng có tiến triển gì xảy ra. Cũng cần nhấn mạnh lại rằng sự tiến triển của các mức độ năng lượng đã được hiệu chỉnh là logarit26; do đó, sự lựa chọn mang tính cá nhân có thể có một hiệu ứng mạnh mẽ. Sự chênh lệch mức độ năng lượng, ví dụ giữa 361.0 và 361.1 rất cóý nghĩa và có khả năng làm biến đổi (thay đổi) cuộc sống của một người và ảnh hưởng của người đó trong thế giới rộng lớn này. Chapter 6: New Horizons in Research – Những chân trời mới trong nghiên cứu (lược bỏ) Social Problems – Các vấn đề xã hội Industrial and Scientific Research – Nghiên cứu kỹ nghệ và khoa học Materials Research – Nghiên cứu vật liệu Product Development – Phát triển sản phẩm Scientific Inquiry – Nghiên cứu khoa học Medical Science – Y học Research in Theology, Epistemology, and Philosophy – Nghiên cứu trong thần học, nhận thức luận/tri thức luận và triết học 26 Logarit là phép toán nghịch đảo của lũy thừa 64 Chapter 7: Everyday Critical Point Analysis – Phân tích điểm tới hạn mỗi ngày (lược bỏ) Current and Historic Events – Các sự kiện trong hiện tại và quá khứ Health Research – Nghiên cứu y tế Criminal Justice and Police Work – Luật pháp hình sự và hoạt động giữ trật tự Statistics and Methodology: Time Saving – Dữ liệu thống kê và phương pháp học: tiết kiệm thời gian Politics and Government – Chính trị và chính phủ Commerce – Thương mại Science and Research – Khoa học và nghiên cứu Clinical Work – Thử nghiệm lâm sàng Education – Giáo dục Spirituality – Tinh thần Chapter 8: The Source of Power – Nguồn gốc của năng lượng Cái gì là nguồn năng lượng nội tại (intrinsic source of power) và nó hoạt động như thế nào? Điều gì giải thích cho những sức mạnh to lớn của nó? Tại sao sự ảnh hưởng (force) cuối cùng lại luôn không chống lại nổi năng lượng (power)? Nếu một người nghe hết từng câu từ câu trong tuyên ngôn độc lập - Declaration of Independence (700), nguồn gốc của năng lượng trong tuyên ngôn sẽ xuất hiện: nó là một khái niệm rằng tất cả con người đều bình đẳng bởi đức hạnh của vị thần sáng tạo ra họ (chúa trời), và những quyền lợi của con người là thuộc về bản chất (nội tại) của sự sáng tạo ra con người và vì thế nó là bất khả xâm phạm.27 Đây cũng là khái niệm tương tự là nguồn gốc của năng lượng của Mahatma Gandhi28. Sau khi kiểm tra, chúng ta sẽ thấy rằng năng lượng phát sinh từ ý nghĩa. Nó liên quan đến động cơ và nó liên quan đến nguyên tắc. Năng lượng luôn luôn được kết nối với cái hỗ trợ cho ý nghĩa của bản thân sự sống. Nó kêu gọi những gì thuộc về bản chất con người mà chúng ta gọi là cao quý (noble), trái ngược với sự ảnh hưởng (force), thứ kêu gọi những 27 "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Trích bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ 28 Mahātmā Gāndhī, tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi, là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ của hàng triệu người dân. 65 gì mà chúng ta gọi là thôlỗ (crass). Năng lượng kêu gọi những gì nâng lên, đề cao và cao thượng (uplifts, dignifies, and ennobles). Sự ảnh hưởng phải luôn luôn được biện minh, trong khi năng lượng không yêu cầu sự biện minh nào cả. Sức ảnh hưởng gắn với từng phần (partial), còn năng lượng gắn đến tất cả. Nếu chúng ta phân tích bản chất của sự ảnh hưởng, chúng ta sẽ nhanh chóng rõ ràng rằng tại sao sự ảnh hưởng luôn phải khuất phục đối với năng lượng; điều này phù hợp với một trong những quy luật vật lý cơ bản. Bởi vì sự ảnh hưởng tự động tạo ra sự ảnh hưởng – trái chiều (counter-force), ảnh hưởng của nó bị giới hạn bởi sự xác định. Chúng ta có thể nói rằng sự ảnh hưởng là sự vận động. Nó di chuyển (hoặc cố gắng di chuyển) từ chỗ này sang chỗ kia giữa những vị trí đối lập (ví dụ: con lắc dao động vĩnh cửu). Năng lượng, nói cách khác, vẫn đứng yên tại chỗ. Giống như một khu vực cố định không bao giờ di chuyển. Bản thân trọng lực không chuyển động để chống lại bất kỳ thứ gì. Năng lượng của nó di chuyển tất cả mọi vật trong khu vực của nó, nhưng bản thân khu vực trọng lực lại không hề di chuyển. Sự ảnh hưởng luôn chuyển động để chống lại một số thứ, trong khi năng lượng không chuyển động để chống lại bất cứ điều gì. Sự ảnh hưởng chưa hoàn thiện về mặt bản chất và do đó, nó liên tục cung cấp năng lượng (energy). Năng lượng là tổng thể và hoàn thiện từ bên trong và thuộc về chính nó và nó không yêu cầu bất cứ thứ gì bên ngoài nó. Nó không đòi hỏi, cũng không có nhu cầu (It makes no demands; it has no needs.) Bởi vì sự ảnh hưởng có sự thèm khát không bao giờ chán, nên nó liên tục tiêu thụ. Năng lượng, ngược lại, nó tăng cường, đưa ra phía trước, cung cấp, và hỗ trợ. Năng lượng cung cấp cho sự sống và năng lượng (energy). Sự ảnh hưởng lấy những thứ này đi. Chúng ta lưu ý rẳng năng lượng gắn liền với lòng trắc ẩn và làm chúng ta cảm thấy tích cực về chính chúng ta. Sự ảnh hưởng gắn liền với sự phê phán và có xu hướng làm chúng ta cảm thấy tồi tệ về chính chúng ta. Sự ảnh hưởng luôn tạo ra phản lực – sự phản ảnh hưởng (counterforce); ảnh hưởng của nóphân cực hơn so với sự thống nhất (unify). Sự phân cực (Polarization) luôn tiềm ẩn xung đột, phí tổn (hao tổn) của nó, do đó luôn cao. Bởi vì sự ảnh hưởng khuyến khích sự phân cực, nên chắc chắn luôn rẽ thành 2 nhánh thắng/thua (được/mất), và bởi vì một vài người luôn thua nên kẻ thù tự nhiên của họ (thiên địch) luôn được tạo ra. Thường xuyên đối mặt với thiên địch, sự ảnh hưởng yêu cầu sự phòng thủ liên tục. Sự 66 phòng thủ là hao tổn bất biến, cho dù là trên thương trường, chính trị hay các vấn đề quốc tế. Trong sự tìm kiếm nguồn gốc của năng lượng, chúng tôi đã nhận ra rằng nó gắn liền với ý nghĩa và ý nghĩa lại liên quan đến ý nghĩa của bản thân sự sống. Sự ảnh hưởng là điều cụ thể, bình thường và có thể biện minh được. Nó yêu cầu sự kiểm chứng và hỗ trợ. Tuy nhiên, nguồn gốc của năng lượng, vượt qua sự tranh luận và nó không chịu sự kiểm chứng. Bản thân sự hiển nhiên là không thể biện minh. Sức khỏe quan trọng hơn bệnh tật, sự sống quan trọng hơn cái chết, danh dự thích đáng hơn mất danh dự, niềm tin và sự thật thích đáng hơn nghi ngờ và nhạo báng, xây dựng thích đáng hơn phá hủy là tất các những phát biểu của bản thân sự hiển nhiên và không chịu sự kiểm chứng. Cuối cùng, một điều mà chúng ta có thể nói về nguồn gốc của năng lượng đó là nóchỉ là“is - chính là”. Mỗi nền văn minh đều đặc trưng bởi các nguyên tắc bản địa. Nếu các nguyên tắc của nền văn minh là cao quý thì nền văn minh sẽ thịnh vượng; nếu các nguyên tắc ích kỷ, nền văn minh sẽ sụp đổ. Thuật ngữ “nguyên tắc – principles” có thể nghe khá trừu tượng nhưng kết quả của nguyên tắc là hoàn toàn cụ thể. Nếu chúng ta xem xét những nguyên tắc, chúng ta có thể thấy rằng chúng tồn tại trong một khu vực vô hình bên trong bản thân ý thức. Mặc dù chúng ta có thể chỉ ra những ví dụ về sự trung thực (honesty) trên thế giới, bản thân sự trung thật giống như nguyên tắc cấu tạo trung tâm đối với nền văn minh, nó là hư không và tồn tại độc lập trong thế giới bên ngoài. Năng lượng thật sự, xuất phát từ bản thân ý thức; cái chúng ta thấy là một biểu hiện hữu hình của sự vô hình. Đạo đức kinh – Lão tử “Đạo khả đạo phi thường đạo Danh khả danh phi thường danh Vôdanh vạn vật chi thủy Hữu danh vạn vật chi mẫu” Lão tử nói về sự bất đắc dĩ của mình phải dùng đến chữ Đạo để chỉ cho nguyên lý tuyệt đối mà tri thức khái niệm không thể nào đạt tới được (chỉ cái nguyên lýtuyệt đối có trước khi khai thiên lập địa, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm). “Đạo cóthể chỉ ra được thìkhông phải làđạo bất biến.” “Danh cóthể gọi được thìkhông phải làdanh bất biến". Danh mang nghĩa hạn định (một giới hạn định sẵn, để không vượt qua). Vàdo đó, không thể dùng danh tương đối để gọi ra được cái nguyên lýbất biến (tuyệt đối). Trên đời, mọi chuyện đều làtương đối,67 không cógìlàtuyệt đối cả, vìchúng không ngừng biến đổi, dịch hóa. Luôn tồn tại những trạng thái mâu thuẫn hay đối nghịch như có– không, cao – thấp, ngắn – dài, tốt – xấu, đúng – sai… “Thiên hạ đều biết tốt làtốt thìđã cóxấu rồi; đều biết lành làlành thìđã cócái chẳng lành rồi.” Hay “Họa, chính làchỗ dựa của phúc; phúc, làchỗ núp của họa.” Cho nên không thể chính danh được, bởi không códanh nào tuyệt đối. Những trạng thái mâu thuẫn luôn song hành vàở trong chính cái mâu thuẫn của chúng. Từ đó, Lão tử diễn giải Đạo dưới 2 phương diện VôvàHữu. “Không làtên gọi khởi đầu của mọi vật. Cólàtên gọi mẹ của mọi vật”. Vôthìđạo lànguyên lýcủa trời đất, nguyên lývôhình. Còn Hữu thìđạo làmẹ sinh ra vạn vật, lànguyên lýhữu hình. “Thí Đạo chi tại thiên hạ. Du xuyên cốc chi ư giang hải.” Lão tử hình dung sự tồn tại Đạo giống như một điều hiển nhiên. Theo lẽ thường sông ngòi luôn chảy ra biển lớn.“Đạo tồn tại dưới bầu trời này. Như suối khe chảy vào sông biển” “Phản giả Đạo chi động Nhược giả Đạo chi dụng Thiên hạ vạn vật sanh ư Hữu Hữu sanh ư vô” Vìnhững trạng thái mâu thuẫn luôn song hành nên Đạo luôn chuyển động qua lại giữa 2 mặt đối lập, từ thấp đến cao rồi từ cao trở về thấp. Vàkhi nóchuyển động như thế thìthấp sẽ suy yếu trở thành cao vàcao sẽ suy yếu trở thành thấp. Nhờ sự dịch chuyển của Đạo màngười quân tử đưa thân ra sau màthân lại ở trước, để thân ra ngoài màthân đặng còn.“Lật ngược lại là cách đạo chuyển động. Làm cho suy yếu là cách đạo sử dụng.” Không suy thành cóvàcólànguồn gốc của mọi vật “Mọi vật dưới bầu trời này sinh ra từ có. Có sinh ra từ không”. Đạo sinh ra Đức. Đức là cái động hữu hình của đạo. Đạo là nguồn gốc của vạn vật, cái Đức của nó sinh ra trời đất. Trời đất luôn thản nhiên với con số phận của con người “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sôcẩu – Trời đất không cólòng nhân, coi mọi vật đều làchórơm”. Đạo trời không thiên vị ai cả “Thiên đạo vô thân”. Những trạng thái mâu thuẫn luôn song hành vàở trong chính cái mâu thuẫn của chúng cótrong Đạo đức kinh cóphần tương đồng với khái niệm “thái cực”, không cósự phân chia giữa âm vàdương, âm trong dương vàdương trong âm, khi âm thịnh thìdương 68 suy vàdương thịnh thìâm suy, cực thịnh sẽ bắt đầu suy đến cực suy vàcực suy sẽ bắt đầu suy đến cực thịnh. Đạo Trời bớt chỗ dư bùchỗ thiếu. Mặt khác Đạo theo Lão tử làmột nguyên lýquân bình, cho nên không cho cái gìthái quáhay bất cập. Vìvậy, người ta thường muốn làm cho đời trị màthành ra làm cho đời loạn, càng muốn trị bao nhiêu thìlại càng loạn bấy nhiêu. Do đó, đừng cóham can thiệp vào việc đời vànếu cần làm thìhãy làm cái không làm “vi vôvi”, một cách kín đáo vàkhéo léo. Vô Vi, không phải là không làm gì cả, mà nghĩa là không làm mà không có gì là không làm, làm một cách hết sức tự nhiên và kín đáo, đem cái tự nhiên mà giúp một cách tự nhiên, không tư tâm, không vị kỷ. Người thi ân không biết là thi ân, người thọ ân không dè là thọ ân. Bậc thánh nhân trị nước nước dùng đến đạo vô vi, dân không hay là mình bị trị. Sự tự hào, mục đích cao thượng và sự hi sinh cho giá trí của sự sống – tất cả giống như những gì đã được xem như việc truyền cảm hứng, mang lại ý nghĩa của sự sống. Nhưng cái thật sự truyền cảm hứng cho chúng ta trong thế giới vật chất là những thứ tượng trưng cho những khái niệm có ý nghĩa to lớn đối với chúng ta. Giống như các biểu tượng điều chỉnh động cơ của chúng ta bằng những nguyên tắc trừu tượng. Một biểu tượng có thể điều khiển năng lượng lớn bởi vì nguyên tắc của nó đã tồn tại sẵn trong ý thức của chúng ta. Ý nghĩa quan trọng đến mức khi sự sống mất đi ý nghĩa, thì sau đó thường xảy ra tự sát. Khi sự sống mất đi ý nghĩa, chúng ta đầu tiên sẽ bắt đầu chán nản; khi sự sống mất hoàn toàn ý nghĩa, chúng ta cuối cùng sẽ rời bỏ sự sống. Sự ảnh hưởng có những mục tiêu tạm thời; khi những mục điêu này được đạt tới, chúng để lại sự trống rỗng (emptiness) của sự vô nghĩa (meaninglessness). Năng lượng, nói cách khác, thúc đẩy chúng ta không ngừng. Nếu cuộc sống của chúng ta được dâng tặng, ví dụ, để nâng cao phúc lợi cho những người khác và những người mà chúng ta liên hệ, cuộc sống của chúng ta sẽ không bao giờ mất đi ý nghĩa. (Người đắc đạo đặt thân mình ở sau màthân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài màthân mới còn được? Đạo đức kinh - Lão tử; Cho yêu thương để được yêu thương. Muốn cóđược phải cho đi.) Nếu mục đích trong đời của chúng 69 ta, nói cách khác, chỉ là thành công về mặt tài chính, thì chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta đạt được mục đích của mình? Đây là một trong những nguyên nhân gây bệnh hay nguyên nhân cơ bản của sự chán nản (trầm cảm) ở những người thuộc độ tuổi trung niên. Sự trống rỗng đến từ những thất bại trong việc căn chỉnh cuộc sống của một người với những nguyên tắc mà từ đó năng lượng tỏa ra. Một minh họa tốt nhất cho hiện tượng này có thể được nhìn thấy thông qua cuộc đời của các nhạc sĩ, nhà soạn nhạc, nhạc trưởng vĩ đại trong thời đại của chúng ta. Họ thường xuyên làm việc cho đến tuổi 80 và 90, họ có con và sống khỏe mạnh cho đến khi tuổi già đã chin muồi. Cuộc sống của họ đã được dành riêng cho sự sáng tạo và hiện thân của cái đẹp; cái đẹp kết hợp và biểu hiện năng lượng khổng lồ. Chúng ta biết một cách lâm sàng rằng sự liên kết với vẻ đẹp được gắn liền với sự trường thọ và sức sống (longevity and vigor). Bởi vì chúng là một chức năng của sáng tạo, giống như việc trường thọ phổ biến trong tất cả các ngành nghề sáng tạo. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Học thuyết của nhà vật lý David Bohm, phát biểu rằng có cả những vũ trụ vô hình và hữu hình. Ý tưởng này không hề đáng lo ngại.; rất nhiều thứ mà chúng ta quen thuộc hàng ngày – tia X, sóng vô tuyến và sóng truyền hình – cũng không hữu hình. Một vũ trụ “cuộn vào” chạy xong song với vũ trụ “mở ra” hữu hình. Vũ trụ mở ra, hữu hình chỉ là một biến cố của vũ trụ cuộn vào, vô hình. Khi vận động viên Roger Bannister chạy 1 dặm trong 4 phút, anh ta đã tạo ra một khu vực M mới. Hệ thống niềm tin trong ý thức con người đã phổ biến một điều 1 dặm trong 4 phú là một giới hạn trong khả năng của con người. Một khu vực M mới đã được tạo ra, nhiều vận động viên điền kinh đột nhiên bắt đầu phá vỡ kỷ lục 1 dặm 4 phút này. Điều này xảy ra mỗi khi nhân loại đột ngột bắt đầu một quan niệm mới, liệu rằng chúng ta có thể bay (khu vực M tạo ra bởi an hem nhà Wright), hay khả năng phục hồi từ việc nghiện rượu (vùng M được tạo ra bởi Bill W., Người sáng lập hiệp hội Những người nghiện rượu Vô danh - Alcoholics Anonymous). Một khu vực M được tạo ra, mỗi người lặp đi lặp lại thành quả đó sẽ củng cố năng lượng của khu vực M. Tất cả chúng ta đều quen thuộc với sự thật rằng những ý tưởng mới thường xuất hiện trong tâm trí một số người không gần nhau tại cùng một thời điểm. Bằng cách nào đó, khu vực M hoạt động giống như một nguyên tắc tổ chức, giống như một loại hấp dẫn từ 70 tính chung. Khu vực M không di chuyển tới bất kỳ đâu. Nó là một khu vực năng lượng cố định nhưng lại hiện diện ở khắp mọi nơi. Một khi nó được tạo ra, nó tồn tại như một khuôn mẫu có sẵn trong khắp vũ trụ vô hình. ≈∙đã lược bỏ∙≈ Thuyết hỗn độn (động lực phi tuyến) - chaos theory (nonlinear dynamics). Sự hỗn loạn (chao) chỉ đơn thuần có nghĩa là một khối lượng những dữ liệu rõ ràng là vô nghĩa – ví dụ như một bó các dấu chấm – trong đó người ta không thể thấy bất kỳ khuôn mẫu có tổ chức nào. Với sự ra đời của kỹ thuật máy tính tiến bộ, bằng các phân tích máy tính với dữ liệu có vẻ vô tổ chức người ta đã phát hiện ra những khuôn mẫu có tổ chức bên trong; những thứ xuất hiện rời rạc thực ra lại có một liên kết ẩn bên trong. Những khuôn mẫu được tiết lộ từ phép phân tích thường trông giống như hình số 8 uốn ngược lại trên chính nó, thường xảy ra với hiệu ứng phễu (funnel effect), để bản thân hình ảnh của nó có một cấu hình hình học lặp lại (repeatable geometric configuration). Điều khoa học nhận ra là điều mà nhà thần bí đã tuyên bố trong nhiều thế kỷ: the universe is indeed coherent, unified, and organized around unifying patterns. - vũ trụ thật sự kết hợp, thống nhất và có tổ chức xung quanh các khuôn mẫu thống nhất. Động học phi tuyến đã xác minh rằng thực sự không có những sự hỗn loạn trong vũ trụ; sự xuất hiện xáo trộn chỉ là một chức năng của những giới hạn về nhận thức. Đây có vẻ là một phát hiện gây phiền nhiều cho những người tư duy bằng não trái, nhưng lại là hiển nhiên cho những người tư duy bằng não phải. Những người sáng tạo chỉ viết, vẽ, điêu khắc, hay thiết kế cái mà họ đã nhìn thấy bên trong tâm trí của mình. Chúng ta không rộn ràng bởi logic, chúng ta rộn ràng bởi những khuôn mẫu của cảm giác. Chúng ta lựa chon từ các giá trị và các giác trị lại liên kết với những khuôn mẫu nội tại. Chuỗi quan hệ nhân quả được chấp nhận như một kiến thức thông thường trong khoa học cơ bản xảy ra theo chuỗi A → B → C. Trong sự sắp đặt của thuyết định mệnh hữu hình (material determinism), nothing is inherently free, but only the result of something else - không có gì là bản chất là không có ràng buộc, mànó chỉ làkết quả của một cái gì đó khác. Bằng cách ấy, nó bị hạn chế lại; cái mà hệ thống này định nghĩa là thế giới của sự ảnh hưởng. Sự ảnh hưởng A dẫn đến kết quả sự ảnh hưởng B, sau đó được truyền đến sự ảnh hưởng C với kết quả D. D trong lượt của mỉnh, sẽ trở thành khởi đầu của 71 các chuỗi khác trong các phản ứng dây chuyền, đến vô cực. Đây là thế giớ tư duy bằng não trái, trần tục và có thể dự đoán được. Đó là dạng thức được giới hạn mà từ đó khoa học hoạt động: có thể so sánh, quen thuộc, có thể kiểm soát, nhưng không sáng tạo – đã xác định và do đó bị giới hạn, nhưng nhiều người cảm thấy an toàn. Đó là thế giới của năng suất và thực tiễn. Tuy nhiên, đối với những người sáng tạo nó dường như chán ngắt, tầm thường, không gây được xúc động và hạn chế. Đó là một điều để hình dung tòa nhà Empire State, và những điều khác làm cho nó xảy ra. Làm cho một điều xảy ra yêu cầu động cơ. Động cơ được bắt nguồn từ ý nghĩa. Vì thế, những thế giới vô hình và hữu hình được liên kết với nhau, giống như chúng ta đã sơ đồ nó: Ở đây, chúng ta thấy khái niệm ABC nằng trong vũ trụ vô hình và cuộn lại, sẽ kích hoạt sự xuất hiện trong thế giới hữu hình để tạo thành kết quả trong chuỗi này, A → B → C. Vì thế, thế giới hữu hình được tạo ra từ thế giới vô hình, và do đó, nó bị ảnh hưởng bởi tương lai. Khả năng của khái niệm vô hình để cụ thể hóa được dựa trên năng lượng của bản thân khái niệm ban đầu. Chúng ta có thể nói rằng não phải “bắt lấy khuôn mẫu - gets the pattern” và não trái “làm nó hữu hình - makes it visible”. ABC có thể là cả sự hấp dẫn có năng lượng cao lẫn sự hấp dẫn có năng lượng thấp. Một số khái niệm và giá trị nhất định rõ ràng có nhiều năng lượng lớn hơn những cái khác. (Cho đến nay, khoa học chỉ xác định rằng các sự hấp dẫn có thể có cả năng lượng cao lẫn thấp.) Nói đơn giản, các khuôn mẫu của sự hấp dẫn mạnh làm chúng ta mạnh mẽ và những khuôn mẫu yếu làm chúng ta yếu đuối. Một số ý tưởng đang làm suy yếu chủ thể làm thử nghiệm đến mức chỉ giữ chúng trong tâm trí, cũng khiến chủ thể không thể giữ nổi cánh tay mình ở vị trí cũ. Những khái niệm khác mạnh mẽ đến mức khi họ giữ nó trong đầu, thì bất cứ nỗ lực nào cũng không thể buộc cánh tay chủ thể hạ xuống. Đây là một quan sát lâm sàng mang tính vũ trụ. Các khuôn mẫu mạnh mẽ gắn liền với sức khỏe; những khuôn mẫu yếu gắn với đau ốm, bệnh tật, thậm chí cả cái chết. Nếu bạn giữ sự tha thứ trong tâm trí, cánh tay của bạn sẽ trở nên rất mạnh mẽ. Còn nếu bạn giữ sự trả thù trong tâm trí, cánh tay của bạn sẽ yếu đi. Với mục đích của chúng ta, thật ra chỉ cần nhận ra rằng năng lượng làm cho chúng ta mạnh lên trong khi sự ảnh hưởng làm cho chúng ta yếu đi. Tình yêu, lòng trắc ẩn, và tha thứ (Love, compassion, and forgiveness) có thể bị nhầm lẫn với những thứ giống như sự 72 dễ bảo, là, thật vậy, sự trao quyền sâu sắc (submissive, are, in fact, profoundly empowering). Sự trả thù, phê phán và chỉ trích (Revenge, judgmentalism, and condemnation) nói cách khác, chắc chắn làm cho bạn yếu đi. Vì thế, bỏ qua sự công bằng về đạo đức (moral righteousness), một thực tế lâm sàng đơn giản rằng về lâu về dài, sự yếu ớt không thể chiếm ưu thế để chống lại sự mạnh mẽ. Rằng sự yếu ớt luôn tự sụp đổ. Những cá nhân có năng lượng to lớn trong suốt lịch sử loài người đã hoàn toàn liên kết chính họ với các sự hấp dẫn mạnh mẽ. Một lần rồi lại một lần, họ đã phát biểu rằng năng lượng họ đã biểu hiện ra không phải là của chính họ hay do họ tạo ra. Tất cả đều cho là nguồn gốc của năng lượng đối với mọi thứ, vĩ đại hơn chính họ. All of the Great Teachers throughout the history of our species have merely taught one thing, over and over, in whatever language, at whatever time. All have said, simply: Give up weak attractors for strong attractors. – Tất cả minh sư trong suốt lịch sử của loài chúng ta chỉ dạy một điều rằng, lặp đi lặp lại, trong bất kỳ ngôn ngữ nào, tại bất kỳ thời điểm nào. Họ đều nói đơn giản rằng: từ bỏ các sự hấp dẫn yếu cho những sự hấp dẫn mạnh. Khi kiểm tra những sự hấp dẫn này, chúng tôi nhận thấy rằng một số khuôn mẫu yếu có xu hướng mô phỏng (trong hình thức) các khuôn mẫu mạnh hơn. Chúng tôi gọi chúng là mẫu bắt chước (imitators). Do đó, người Đức dưới thời Đức quốc xã đã bị lừa dối bởi thứ tạo ấn tượng là lòng ái quốc (Patriotism) nhưng thật ra lại là chủ nghĩa dân tộc (nationalism) - lòng ái quốc (patriotism) với chữ “p” nhỏ. Người mị dân (demagogue) hay người cuồng tín (zealot) có gắng bán cho chúng ta những mẫu bắt chước như chúng là thật. Tương tự, những người mị dân, đưa ra nhiều lời nói khoa trương. Trong khi ngược lại, những người hành động từ năng lượng cần nói rất ít. “Tri giả bất ngôn. Ngôn giả bất tri.” Đạo đức kinh - Lão tử Người “biết” không thể nói rõ cái mình “biết”, người có thể nói rõ cái mình “biết” là người vẫn chưa “biết”. Sự “biết” phải dựa vào chính mình hay nhờ vào sự gợi mở (sự hỗ trợ đúng mực của những người thực sự “biết” – minh sư hoặc giáo lýhoặc thực hành) để chiêm nghiệm. ~*~ – Yếu chỉ của Thiền tông – “Giáo ngoại biệt truyền Bất lập văn tự 73 Trực chỉ nhân tâm Kiến tính thành Phật” ~*~ Truyền giáo pháp ngoài kinh điển Không lập văn tự Chỉ thẳng tâm người Thấy chân tính thành Phật Thiền tông Nhật Bản đối diện với bản chất “mâu thuẫn/song đề” khiến con người đau khổ bằng công án. Công án chỉ là một câu hỏi mà người tu hành tự đặt ra, nó thể hiện cho “mâu thuẫn” trong chính người đó, rồi người đó phải trả lời câu hỏi đó để tìm thấy giải pháp cho vấn đề của chính họ. Ví dụ như công án của một vị sư rằng "Ai đang đi về phía ta?" và phải mất 10 năm sau ông ấy mới tìm thấy câu trả lời (lối thoát) cho chính mình. Khi tập trung vào "ai" sẽ bỏ lỡ mất "mọi thứ xung quanh, trừ ai" (Hoa cúc và gươm – Ruth Benedict). Mọi thứ đều cũng có giá trị của riêng nó, quan trọng là người ta tìm kiếm thứ giá trị như thế nào? Có lẽ thứ người ta tìm kiếm (lựa chọn theo đuổi) mới chính là thứ quyết định “số mệnh” của một người. Và các quyết định ấy ảnh hưởng lên sự tồn tại của vạn vật. Chúng ta sẽ phải chấp nhận sự chịu trách nhiệm và gánh lấy hậu quả. Và như thế, hậu quả “tốt - xấu” đều tự do bản thân. ~*~ Phật dạy “Bất khả thuyết – Không nói được”. Đã biết là "bất khả" mà vẫn cứ tò mò truy tìm mọi ngóc ngách, đó là cái nghiệp của chúng sinh, nhất là người làm khoa học, không dễ tin nếu chưa được "chứng minh". Điều này quả thật hợp ý Phật. Phật đã chẳng luôn nhắc nhở ta đừng vội tin, phải thể nghiệm đi cái đã, phải trực tiếp lấy thân tâm mình làm cái "labo" để mà quan sát ngắm nghía cho thật thấu đáo đó ư? Phật đã chẳng luôn nhắc nhở ta phải tinh cần, tinh tấn, phải thực hành, không được lơ là, chểnh mảng đó ư? Thú vị là, khi còn có thể "thuyết" được thì chỉ mới tới được cái vỏ ngoài, còn tới được chỗ thâm sâu, cốt lõi bên trong hẳn là phải im lặng, phải ú ớ, phải hỏi một đằng trả lời một nẻo, hoặc tốt hơn cả là phải "tu rị, tu rị...", nghĩa là "im lặng, im lặng....". Tóm lại là nói không được, là bất khả thuyết! Khi Phật phát hiện ra con đường dẫn đến an vui, hạnh phúc, chính Ngài cũng ngại ngùng không muốn tiết lộ, không muốn bày tỏ vì con đường quả thật là tuyệt diệu nhưng lạ lùng quá, ngược đời quá khó có ai tin, có khi còn gây phản ứng ngược. Mãi sau Ngài 74 mới chịu nói ra, và dĩ nhiên rất đắn đo, nói từng phần, với mỗi người một cách khác nhau, tuỳ đối tượng. Sau này thường khi chứng ngộ rồi, các thiền sư mới chịu chọn một vài học trò để truyền đạt, mà cũng ít chịu truyền, vì truyền không dễ, bởi nhiều điều "nói không được". Học trò phải quan sát trực tiếp ở thầy và phải thực hành miên mật. Có học trò uyên thâm mà không tới đâu cả, loay hoay không thoát; có học trò giã gạo, nấu cơm, không biết chữ mà đại ngộ. Học giả trí thức, có bằng cấp cao cũng chẳng đến đâu, còn người hàng thịt, một hôm buông dao thành Phật. Cho nên tin không dễ. Cứ hỏi một người đi, hỏi anh ta có hạnh phúc không, anh ta sẽ sung sướng kể cho nghe triền miên những điều bất hạnh. Còn nếu hỏi anh ta những điều bất hạnh, anh ta sẽ sung sướng kể cho nghe biết bao nỗi khổ đau. Con người sống trong cái khổ như vậy, loay hoay với cái khổ như vậy, thoát ra không dễ. Một số không nhiều "ngộ" được cái khổ đau kia chính là mầm mống của hạnh phúc, phiền não kia là "nguồn lực" của Bồ đề. Cho nên, có người tìm được con đường, vạch ra con đường, chỉ ra con đường, làm sao không cảm kích. Màthú vị, con đường đó không ở đâu xa, có sẵn đó rồi ở trong ta thôi. Cho nên, người chỉ đường nói, chả có pháp gì đâu mà bày vẽ chả có cái gì giành được, lấy được, chiếm được để mà khoe khoang. Con người đó mới thật dễ thương làm sao. Con người đó bỏ vương quyền, bỏ nhà bỏ cửa lên rừng, lội suối trèo đèo, nhịn đói nhịn khát, có lúc chỉ còn xương bọc da, sờ bụng thì đụng xương sống, có lúc sống trong nghĩa địa, để bọn trẻ chăn trâu nhổ vào mặt (…), rồi ngộ ra một điều thú vị, sảng khoái, thấy con người đáng sống, đáng hạnh phúc. Con người đó đã biết từ bỏ, dám buông bỏ, đã kiên trì, đã kham nhẫn, đã thiền định, đã vượt thoát bằng con đường trì tuệ, và điều quan trọng là không giữ cho riêng mình mà chia sẻ cho tất cả chúng ta, chẳng đáng quý ư? Thậm chí, có lúc không thể nói lên được bằng lời thì Ngài đưa lên một cành hoa và im lặng. Cái sự trao truyền trong im lặng này mới thật là tuyệt diệu, nó làm cho ta được tự do khám phá. Khám phá không ra thì ta… ú ớ, khám phá ra rồi thì ta càng ú ớ, càng nói không được. Nguồn: http://coinguonhanhphuc.blogspot.com/2012/11/bat-kha-thuyet.html 75 PART TWO: WORK – KẾT QUẢ Chapter 9: Power Patterns in Human Attitudes – Các mẫu hình năng lượng trong thái độ con người Khả năng phân biệt giữa các mẫu hình năng lượng cao và thấp là một vấn đề của sự nhận biết và phán đoán mà hầu hết chúng ta học từ những trải nghiệm và lỗi lầm đau đớn. Thất bại, đau đớn và bệnh tật ngẫu nhiên là kết quả từ ảnh hưởng của các mẫu hình yếu ớt; Ngược lại, thành công, hạnh phúc và sức khỏe bắt nguồn từ các mẫu hình hấp dẫn có năng lượng. Chính vì thế, nó đáng để chúng ta mất vài phút nhằm lướt qua danh sách các mẫu hình tương phản bên dưới, thứ đã được nghiên cứu và hiệu chỉnh để xác định tiêu chí tương ứng của chúng. Danh sách này làmột công cụ giáo dục vận hành theo nguyên tắc khép kín. Sự tương phản trong các cặp đối lập của các đặc tính có thể khởi đầu quá trình nâng cao nhận thức, từ đó hình thành nhận thức về các mẫu hình hoạt động trong các mối quan hệ, thương vụ và tất cả các sự tương tác khác nhau, tô điểm cho kết cấu của sự sống. Cột bên trái là các tính từ mô tả các mẫu hình (tích cực) mạnh mẽ, mức năng lượng hiệu chỉnh trên 200; cột bên phải là các mẫu hình (tiêu cực) yếu ớt, mức năng lượng hiệu chỉnh dưới 200. Tích cực Tiêu cực Abundant Phong phú Excessive Quá đáng Accepting Chấp nhận Rejecting Từ chối Admitting Thừa nhận Denying Phủ nhận Aesthetic Mỹ học Artsy Mỹ thuật tự phụ Agreeable Dễ thương Condescending Cao ngạo Allowing Cho phép Controlling Kiểm soát Appreciative Tán thưởng Envious Ghen ghét Approving Phê duyệt Critical Chỉ trích Attractive Hấp dẫn Seductive Dụ dỗ Authoritative Có quyền lực Dogmatic Độc đoán Aware Biết Preoccupied Ưu tư Balanced Cân bằng Extreme Thái cực Beautiful Đẹp Glamorous Hào nhoáng Being Hiện hữu Having Sở hữu Believing Tin tưởng Insisting Nhấn mạnh Brilliant Sáng suốt Clever Lanh lợi Candid Thật thà Calculating Tính toán Carefree Không lo lắng Frivolous Nhẹ dạ 76 Challenged Thách thức Impeded Cản trở Charitable Làm từ thiện Prodigal Hoang phí Cheerful Vui vẻ Manic Hưng phấn Cherishing Trân trọng Prizing Quý chuộng Choosing-to Lựa chọn để làm Having-to Bắt buộc phải làm Civil Văn minh Formal Theo lề lối Concerned Quan tâm Judgmental Phê phán Conciliatory Hòa hoãn Inflexible Cứng nhắc Confident Tự tin Arrogant Kiêu ngạo Confronting Đương đầu Harassing Sách nhiễu Conscious Ý thức Unaware Vô ý Considerate Tôn trọng Indulgent Nhu nhược Constructive Xây dựng Destructive Phá hoại Contending Phấn đấu Competing Cạnh tranh Courageous Can đảm Reckless Liều lĩnh Defending Bảo vệ Attacking Tấn công Democratic Dân chủ Dictatorial Độc tài Detached Không dính líu Removed Bị loại bỏ Determined Quyết định Stubborn Cứng đầu Devoted Tận tâm, hết lòng Possessive Chiếm hữu Diplomatic Ngoại giao Deceptive Lừa đảo Doing Làm ra Getting Lấy đi Educating Giáo dục Persuading Thuyết phục Egalitarian Bình đẳng Elitist Tinh hoa Empathetic Đồng cảm Pitying Thương hại Encouraging Khích lệ Promoting Tung hô Energetic Có năng lực Agitated Lo lắng Enlivening Lên tinh thần Exhausting Kiệt sức Envisioning Vẽ ra tương lai Picturing Tưởng tượng Equal Bình đẳng Superior Cao cấp Erotic Gợi cảm Lustful Dâm dục Essential Điều cốt yếu Apparent Bề ngoài Eternal Vĩnh viễn Temporal Tạm thời Ethical Đạo đức Equivocal Mơ hồ Excellent Xuất sắc Adequate Tạm đủ Experienced Có kinh nghiệm Cynical Hoài nghi Fair Vừa phải, hợp lý Scrupulous Quá kỹ lưỡng Fertile Phì nhiêu Luxuriant Xum xuê 77 Flexible Mềm dẻo Rigid Cứng rắn Forgiving Khoan dung Condemning Lên án Free Tự do Regulated Quy định Generous Hào phóng Petty Nhỏ mọn Gentle Dịu dàng Rough Thô kệch Gifted Có năng khiếu Lucky May mắn Giving Cho đi Taking Lấy lại Global Toàn cầu Local Địa phương Gracious Thanh tao Decorous Trang điểm Grateful Tri ân Indebted Mang nợ Harmonious Hài hòa Disruptive Gây rối Healing Chữa lành Irritating Gây khó chịu Helpful Giúp ích Meddling Can thiệp Holistic Toàn diện Analytic Phân tích Honest Lương thiện Legal Hợp pháp Honoring Tôn vinh Enshrining Tôn thờ Humble Khiêm tốn Diffident Thiếu tự tin Humorous Khôi hài Somber Ảm đạm Impartial Công bình Righteous Đúng luật Ingenious Khéo léo Scheming Mưu lược Inspired Cảm hứng Mundane Trần tục Intentional Cố tình Calculating Tính toán Intuitive Cảm nhận bằng trực giác Literal Chính xác, đơn giản Inventive Phát minh Prosaic Tầm thường Inviting Mời Urging Thúc giục Involved Liên quan Obsessed Bị ám ảnh Joyful Hân hoan Pleasurable Thích thú Just Đúng đắn Punitive Trừng phạt Kind Tử tế Cruel Hung ác Leading Lãnh đạo Coercing Bắt ép Liberating Giải phóng Restricting Hạn chế Long-term Lâu dài Immediate Lập tức Loyal Trung thành Chauvinistic Yêu nước Merciful Rộng lượng Permissive Nhu nhược Modest Khiêm tốn Haughty Kiêu căng Natural Tự nhiên Artificial Giả dối Noble Cao quý Pompous Kiêu ngạo Nurturing Nuôi dưỡng Draining Làm mệt 78 Observant Quan sát Suspicious Nghi ngờ Open Rõ ràng Secretive Bí mật Optimistic Lạc quan Pessimistic Bi quan Orderly Có trật tự Confused Bối rối Outgoing Hướng ngoaị Reserved Kín đáo Patient Kiên nhẫn Avid Thèm khát Patriotic Ái quốc Nationalistic Chủ nghĩa dân tộc Peaceful Hòa bình Belligerent Chiến tranh Polite Lịch sự Obsequious Khúm núm Powerful Quyền lực Forceful Sức mạnh Praising Ca ngợi Flattering Nịnh hót Principled Đúng nguyên tắc Expedient Mưu mẹo Privileged Đặc quyền Entitled Được phép Prolife Sinh động Barren Cằn cỗi Purposeful Có mục đích Desirous Thèm muốn Receiving Nhận được Grasping Tham lam Freeing Giải phóng Tenacious Giữ chặt Reliant Tín nhiệm Dependent Lệ thuộc Requesting Yêu cầu Demanding Đòi hỏi Respectful Tôn kính Demeaning Hạ thấp phẩm giá Responsible Chịu trách nhiệm Guilty Tội lỗi Satisfied Hài lòng Sated Dư thừa Selective Chọn lựa Exclusive Độc quyền Serene Êm đềm Dull Đần độn Serving Phục vụ Ambitious Đầy tham vọng Sharing Chia sẻ Hoarding Tích trữ Significant Có ý nghĩa Important Quan trọng hóa Sober Tỉnh táo Intoxicated Say Spontaneous Tự phát Impulsive Bốc đồng Spiritual Duy tinh thần Materialistic Duy vật Steadfast Cương quyết Faltering Không vững Striving Phấn đấu Struggling Đấu tranh Surrendering Nhường bước Worrying Lo ngại Tender Mềm Hard Cứng Thoughtful Suy nghĩ chu đáo Pedantic Ra vẻ mô phạm Thrifty Tiết kiệm Cheap Rẻ rúng Timeless Vĩnh viễn Faddish Thời thượng Tolerant Khoan dung Prejudiced Thành kiến 79 Tractable Nhường nhịn Contrary Chống báng Trusting Tin tưởng Gullible Dễ tin Truthful Đúng sự thật False Sai Unifying Hợp nhất Dividing Chia rẽ Unselfish Không ích kỷ Self-seeking Ích kỷ Valuing Tôn trọng Exploitive Bóc lột Virtuous Đức hạnh Celebrated Nổi tiếng Warm Ấm áp Feverish Bị kích thích, nóng nảy Đơn giản là đọc qua danh sách này, bạn sẽ không còn giống như con người bạn trước đây nữa. Khi trở nên quen thuộc với các sự khác biệt của tính phân cực, con người sẽ bắt đầu tăng cường năng lượng bên trong bản thân. Với sự phân biệt này trong tâm trí, chúng ta sẽ bắt đầu chú ý những thứ mà chúng ta chưa bao giờ quan sát trước đây. Sự phát giác này xuất hiện bởi vì người đọc sẽ khám phá ra rằng vũ trụ ưa thích năng lượng (Sự sống lôi cuốn sự sống – Nhàgiả kim - Paulo Coelho). Trên hết, vũ trụ không quên lãng. Có rất nhiều khía cạnh đối với câu hỏi về karma (nghiệp quả), nhưng mỗi sự lựa chọn của ai và lựa chọn như thế nào đều sẽ trở thành một lựa chọn quan trọng. Tất cả các sự lựa chọn của chúng ta đều sẽ quay trở lại (dội lại) trong cuộc đời của mỗi người. Chúng ta cuối cùng sẽ phải chấp nhận sự chịu trách nhiệm cho mỗi suy nghĩ, lời nói và hành động mà chúng ta đã gây ra và tái trải nghiệm chính xác bất kỳ sự đau đớn nào mà chúng ta đã gây ra cho người khác. Trong ý nghĩa này, mỗi chúng ta đều tự tạo ra thiên đường hay địa ngục cho bản thân. Vũ trụ lưu giữ hơi thở của nó giống như chúng ta lựa chọn con đường chúng ta đi, từng khắc từng khắc; đối với vũ trụ, bản chất của sự sống tự nó có ý thức rất cao. Mỗi hành động, suy nghĩ và sự lựa chọn đều sẽ thêm vĩnh cữu (in dấu và lưu giữ mãi mãi) vào một bức tranh ghép mảnh (mosaic); các quyết định của chúng ta tạo ra làn sóng khắp vũ trụ của ý thức và ảnh hưởng lên sự tồn tại của vạn vật. Sự e ngại rằng ý tưởng này có thể được lưu tâm đến như một sự huyền bí hay tưởng tượng, chúng ta hãy nhớ lại nguyên lý cơ bản của vật lý lý thuyết mới (New Theoretical Physics): mọi thứ trong vũ trụ đều được kết nối với tất cả mọi thứ khác - Everything in the universe is connected with everything else. (Hiệu ứng cánh bướm (Edward Lorenz) - Butterfly effect – Thuyết hỗn mang29- Chaos Theory) 29 Từ hỗn loạn/hỗn mang trong thuyết hỗn loạn/hỗn mang ám chỉ một hệ thống có vẻ như không có trật tự nào hết nhưng lại tuân theo một quy luật/nguyên tắc nào đó 80