🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phương Pháp Đầu Tư Warren Buffett Ebooks Nhóm Zalo Table of Contents PHONG CÁCH ĐẦU TƯ WARREN BUFFETT Những lời khen ngợi dành cho cuốn sách LỜI GIỚI THIỆU LỜI TỰA LỜI TỰA LỜI MỞ ĐẦU LỜI GIỚI THIỆU 1. NHÀ ĐẦU TƯ VĨ ĐẠI NHẤT THẾ GIỚI 2. HỌC VẤN CỦA WARREN BUFFETT 3. “NGÀNH KINH DOANH CHÍNH CỦA CHÚNG TÔI LÀ BẢO HIỂM” 4. MUA MỘT DOANH NGHIỆP 5. HƯỚNG DẪN ĐẦU TƯ 6. HƯỚNG DẪN ĐẦU TƯ 7. HƯỚNG DẪN ĐẦU TƯ 8. HƯỚNG DẪN ĐẦU TƯ 9. ĐẦU TƯ VÀO NHỮNG CHỨNG KHOÁN THU NHẬP CỐ ĐỊNH 10. QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ 11. TÂM LÝ TIỀN BẠC 12. NHÂN VẬT KHÔNG DUY LÝ LỜI BẠT LỜI CẢM ƠN Những lời khen ngợi dành cho cuốn sách Phong cách đầu tư Warren Buffett “Phong cách đầu tư Warren Buffett tóm tắt sự nghiệp và đưa ra ví dụ về những kỹ thuật và phương pháp đầu tư của ông cùng với những nhân vật quan trọng đương thời. Cuốn sách trình bày chi tiết những quyết định đầu tư quan trọng đã tạo ra mức lợi nhuận kỷ lục có một không hai của Buffett. Đặc biệt, cuốn sách còn bao hàm những suy nghĩ và triết lý của một nhà đầu tư luôn kiếm tiền bằng cách sử dụng những công cụ sẵn có đối với mọi công dân, bất kể họ thuộc tầng lớp nào”. Peter S. Lynch Tác giả của hai cuốn sách bán chạy nhất, One up on Wall Street (Trên đỉnh phố Wall) và Beating the Street ( Chinh phục phố Wall) “Robert Hagstrom đánh giá toàn diện về các chiến lược của Warren Buffett, chỉ ra như thế nào và tại sao đằng sau sự lựa chọn mỗi cổ phiếu quan trọng góp phần tạo nên thành công xuất sắc của ông. Sự uyên thâm và triết lý chất phác của ông cũng là một phần quan trọng của cuốn sách toàn diện, thú vị và hữu ích này”. Charles C. Bogle Chủ tịch Tập đoàn Vanguard “Warren Buffett chắc chắn là Nhà đầu tư Xuất sắc nhất thế kỷ này - Không phải vì ông đã gây dựng được một gia sản lớn từ một thị trường tự do, mà đúng hơn là do ông đã chia sẻ lối suy nghĩ của ông với chúng ta và thẳng thắn chứng minh trí tuệ và lòng can đảm đóng vai trò quan trọng cho thành công. Berkshire Hathaway là vụ đầu tư lớn nhất và lâu dài nhất của tôi. Warren là người thầy tuyệt vời nhất của tôi”. Charles D. Ellis Cộng sự quản lý, Greenwich Associates "Warren Buffett thường được mô tả đơn giản như một 'nhà đầu tư giá trị' hoặc một 'học trò của Ben Graham'. Hagstrom lấp đầy phần còn lại của câu chuyện với những chỉ dẫn cực kỳ thiết thực để tìm kiếm sự thịnh vượng trên thị trường”. Martin S. Fridson Giám đốc Điều hành, Merill Lynch “Với ngôn từ giản dị, cuốn sách này chỉ ra các nguyên tắc mà các nhà đầu tư chứng khoán thành công nhất nước Mỹ trong thời hiện đại đã áp dụng. Cuốn sách chính là một món quà may mắn bất ngờ cho những nhà đầu tư bất hạnh vẫn tiếp tục lúng túng và nhầm lẫn do đã bỏ qua những nguyên tắc cơ bản để thành công trong đầu tư”. Phil Fisher Tác giả cuốn Common Stocks and Uncommon Profits (Cổ phiếu thường - Lợi nhuận phi thường) Đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong việc tìm hiểu về cổ phần, cổ phiếu, chứng khoán, chiến lược đầu tư của độc giả, Alpha Books chọn mua bản quyền, dịch và xuất bản bộ sách Chinh phục thị trường chứng khoán gồm các cuốn như: Giàu từ chứng khoán, Công thức kỳ diệu chinh phục thị trường chứng khoán, Hồi ức của một thiên tài đầu tư chứng khoán, Cổ phiếu thường - lợi nhuận phi thường, Quy tắc số 1: Đầu tư thành công chỉ với 15 phút mỗi tuần, Trên đỉnh Phố Wall, Phố Wall - Một Las Vegas khác, Chết vì chứng khoán: Jesse Livermore - Câu chuyện về nhà đầu tư chứng khoán vĩ đại nhất mọi thời đại, Phong cách đầu tư Warren Buffett… Được tuyển chọn từ những bộ sách về đầu tư, tài chính và chứng khoán nổi tiếng nhất của nhiều tác giả tên tuổi hàng đầu thế giới, hy vọng các cuốn sách này sẽ trở thành món quà giá trị và hữu ích cho tất cả các độc giả quan tâm. CÔNG TY SÁCH ALPHA LỜI GIỚI THIỆU (cho bản tiếng Việt) Tôi vốn không mặn mà lắm với những cuốn sách viết về các tỉ phú, bởi vì tôi cho rằng không ai có thể thành thực trả lời hai câu hỏi sau đây: 1. Ông/bà có chính xác bao nhiêu tiền? 2. Làm thế nào mà ông/bà có thể kiếm được nhiều tiền như vậy? Nhưng trong cuộc sống thường có một số ngoại lệ, chẳng hạn như quyển sách mà bạn đang cầm trên tay là một trường hợp đặc biệt khiến tôi có thể vui lòng phá lệ để giới thiệu những điều tuyệt vời nhất mà nó sẽ đem lại. Trong gần 20 năm qua, Bill Gates và Warren Buffett là hai người liên tục đứng đầu danh sách những người giàu nhất thế giới. Người đầu tiên đã quá nổi tiếng với chúng ta. Còn người thứ hai chỉ mới “nổi” lên gần đây đối với công chúng Việt Nam, phần lớn nhờ vào cơn sốt chứng khoán năm 2006-2007, vì Warren Buffett được xem như là nhà đầu tư chứng khoán vĩ đại nhất mọi thời đại. * * * Buffett là một tỉ phú đặc biệt. Đặc biệt trong cách ông kiếm tiền và sử dụng tiền. Rất ít người có thể sánh kịp tốc độ kiếm tiền vừa nhanh vừa bền vững như ông. Trong danh sách những người giàu nhất thế giới suốt gần 30 năm qua, nhiều người đi vào danh sách nhanh như cách họ phất lên, và cũng sớm bị rời khỏi danh sách như cách tài sản họ lụi tàn. Nhưng Buffett thường xuyên có mặt trong danh sách và luôn là cái tên được mọi người ngưỡng mộ nhất. Buffett hoàn toàn khác biệt so với những người giàu có khác. Mặc dù được xem là nhà đầu tư cổ phiếu vĩ đại nhất thời đại, ông không làm việc ở Phố Wall - nơi quy tụ những đế chế cũng như bộ óc tài chính vĩ đại nhất - và tự cho rằng mình không thuộc về thế giới đó. Mặc dù là một trong những người giàu nhất hành tinh, ông vẫn sống trong một căn nhà đơn giản suốt hàng chục năm qua, đi chiếc xe hơi bình thường nhất, làm việc ở một văn phòng nhỏ và đơn giản (thậm chí không cần đến máy vi tính để theo dõi bảng giá cổ phiếu và phân tích thông tin!). Người ta không thể biết Buffett có chính xác bao nhiêu tiền nếu chỉ nhìn vào cách ông sinh hoạt và chi tiêu. Nhưng có lẽ điều đặc biệt nhất, và cũng khiến ông được ngưỡng mộ nhất, ở Buffett là ông có thể thoải mái giải thích cho mọi người biết ông có bao nhiêu tiền và ông đã kiếm nhiều tiền như thế nào. Gần 40 năm qua, Buffett thường xuyên viết các bản Báo cáo Thường niên cho cổ đông của tập đoàn Berkshire Hathaway mà ông điều hành. Trong đó, Buffett trình bày rõ ràng các quyết định kinh doanh và đầu tư mà ông và các cộng sự đã thực hiện. Bất kỳ ai, không cần là cổ đông của Berkshire Hathaway, đều có thể được đọc đầy đủ tất cả các bản Báo cáo Thường niên này (thậm chí chúng còn được đăng tải miễn phí trên Internet). Các bản Báo cáo này là nguồn thông tin duy nhất để chúng ta có thể hiểu về phương pháp làm giàu của Buffett, vì ông rất ít xuất hiện trước công chúng, đúng như tính cách của ông. Nhưng chúng là một nguồn tài liệu vô giá (theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng), trong đó Buffett, bằng sự uyên bác lẫn khiêm tốn của mình, đã vui vẻ trình bày tất cả mọi khía cạnh liên quan đến tư duy kinh doanh và đầu tư của mình cho mọi người cùng hiểu, dù người đó là một cổ đông bình thường, một sinh viên, hay thậm chí một đối thủ cạnh tranh của ông. Vì vậy, để hiểu được cuộc đời và phương pháp của Buffett thì chỉ có một cách duy nhất: đọc và hiểu toàn bộ các bản Báo cáo đó. Với số lượng gần 40 bản, và mỗi bản dài hàng chục trang thì đây không phải là một việc đơn giản cho những người như chúng ta. May mắn thay, tác giả Robert G. Hagstrom đã thực hiện một công việc vô cùng hữu ích: dày công nghiên cứu tất cả các tài liệu đó và tóm tắt thành một cuốn sách đầy đủ nhất về Buffett, được trình bày sao cho một người chưa có kinh nghiệm về kinh doanh và tài chính cũng có thể hiểu được. Đó cũng chính là nguồn gốc ra đời và mục tiêu của cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay: Phong cách đầu tư Warren Buffett (The Warren Buffett Way). *** Trong vô vàn sách về Warren Buffett đang tràn ngập trên các kệ sách ở Việt Nam hiện nay, cuốn sách này, do Alpha Books mua bản quyền, dịch và xuất bản, có một vị thế riêng. Như đã nói ở trên, số người thường xuyên tiếp xúc để thực sự hiểu Buffett chỉ đếm trên đầu ngón tay, và cho đến nay gần như chưa có ai trong số họ viết một cuốn sách nào về Buffett. Vì vậy, mọi cuốn sách hoặc bài viết về Buffett mà không dựa trên các bản Báo cáo Thường niên do chính tay ông viết đều hoàn toàn không có căn cứ. Rất nhiều tựa sách, bài báo về Buffett hiện nay, do tổng hợp từ quá nhiều nguồn khác nhau, mắc phải khiếm khuyết này, cho nên thật đáng tiếc khi đa số nhà đầu tư ở Việt Nam vẫn chưa có cái nhìn chính xác về sự nghiệp và phương pháp của Warren Buffett. Cuốn sách này, tập hợp từ các báo cáo của Buffett, được Buffett đọc và chấp nhận cho xuất bản, hoàn toàn có thể xem là một trong những phương tiện tốt nhất để bạn đọc Việt Nam có thể tiếp cận với phương pháp đầu tư của Buffett. Trái với nhận định của số đông nhà đầu tư Việt Nam hiện nay, rằng Buffett là một con quỷ chuyên hút máu các doanh nghiệp bằng thủ đoạn mua rẻ bán đắt, rằng suy nghĩ của ông vô cùng cao siêu nên người bình thường không thể hiểu và học hỏi được. Phong cách đầu tư Warren Buffett sẽ giúp bạn có một cái nhìn khác và chính xác hơn. Phương pháp của Buffett rất chân thật và vô cùng đơn giản. Tôi cũng tin rằng ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được phương pháp của ông và hoàn toàn có thể áp dụng chúng cho môi trường ở Việt Nam. Dĩ nhiên, không phải ai sau khi nắm được phương pháp của Buffett là tự nhiên có thể giàu như Buffett được. Nếu điều đó đúng thì chính bản thân tôi đã không rảnh rỗi ngồi đây viết những dòng giới thiệu này rồi!? Hiểu được phương pháp của Buffett, điều mà tôi tin rằng có thể thực hiện được sau khi đọc thấu đáo cuốn sách này, sẽ giúp bạn có nền tảng vững chắc trong quá trình tìm ra con đường làm giàu của riêng mình. Vì ngay cả Buffett, trong những năm tháng khởi nghiệp cũng phải bỏ ra nhiều thời gian để học hỏi từ những người khác trước khi tìm ra phương pháp thành công của ông. Ngày 29 tháng 9 năm 2007 LÊ ĐÌNH LĨNH NAM Blog Thợ Code Học Làm giàu LỜI TỰA cho lần xuất bản thứ hai Năm 1994, khi Robert Hagstrom lần đầu tiên xuất bản cuốn Phong cách đầu tư Warren Buffett, nó nhanh chóng trở thành một hiện tượng. Cho tới nay, đã có hơn 1,2 triệu bản được tiêu thụ. Lòng yêu mến của độc giả chính là minh chứng cho tính đúng đắn của những phân tích và giá trị của những lời khuyên trong cuốn sách. Bất cứ lúc nào Warren Buffett trở thành chủ đề của một cuốn sách thì cuốn sách đó sẽ dễ dàng được số đông đón nhận. Trong khi hầu hết các nhà đầu tư nghĩ về con số hàng trăm hoặc hàng nghìn, thì Buffett bước vào thế giới của các con số hàng triệu và hàng tỉ. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không học tập được gì ở ông. Ngược lại, nếu chúng ta nhìn vào những việc ông đã và đang làm, và hiểu rõ suy nghĩ của ông, chúng ta sẽ có những quyết định giống ông. Đó chính là sự đóng góp sâu sắc trong cuốn sách của Robert. Ông nghiên cứu kỹ lưỡng những hành động, từ ngữ, và quyết định của Warren trong nhiều năm, sau đó bắt đầu phân tích chúng để có được những lý thuyết chung. Trong cuốn sách này, ông chắt lọc những lý thuyết thành 12 nguyên lý. Những nguyên lý không hề thay đổi qua thời gian và là kim chỉ nam cho triết lý đầu tư của Buffett, vượt qua mọi hoàn cảnh và mọi thị trường. Những nguyên lý này cũng là kim chỉ nam cho bất cứ nhà đầu tư nào. Giá trị lâu bền trong tác phẩm của Robert chính là vì nó có mục đích rõ ràng. Mặc dù cuốn sách nói về các phương pháp đầu tư, nhưng về cơ bản nó tập trung chủ yếu vào các nguyên lý đầu tư. Và các nguyên lý thì không bao giờ thay đổi. Thực tế 10 năm qua mang đến cho chúng ta một minh chứng sống động về sự thật cơ bản đó. Trong 10 năm, xu hướng của thị trường chứng khoán liên tục thay đổi. Chúng ta chứng kiến thời kỳ cao trào của tình trạng bong bóng khiến nhiều người trở nên giàu có, và sau đó bong bóng nhanh chóng ”nổ tung”, thị trường chứng khoán quay trở lại giai đoạn trì trệ, ảm đạm trước khi chạm đáy vào mùa xuân năm 2003 rồi mới bắt đầu hồi phục. Dù trải qua tất cả những sự kiện đó, phương pháp đầu tư của Warren Buffett không hề thay đổi. Ông vẫn tiếp tục áp dụng những nguyên lý đã được vạch ra trong cuốn sách này: • Coi việc mua cổ phiếu như mua những niềm vui nhỏ bé trong toàn bộ công việc kinh doanh. • Xây dựng một danh mục đầu tư doanh thu thấp tập trung. • Chỉ đầu tư vào thứ bạn có thể hiểu và phân tích. • Cần phải có biên độ an toàn giữa giá mua và giá trị dài hạn của công ty. Các nhà đầu tư Berkshire Hathaway thường thu lợi từ phương pháp đầu tư vững chắc đó. Từ khi bắt đầu hồi phục vào năm 2003, giá cổ phiếu Berkshire Hathaway tăng hơn 30%, đạt mức khoảng 20.000 đô la mỗi cổ phiếu, vượt xa tổng lợi nhuận thu được của toàn thị trường trong cùng kỳ. Một hệ thống tư tưởng của các nhà đầu tư giá trị đã được hình thành từ Benjamin Graham, qua thời đại của Warren Buffett và các nhà đầu tư cùng thời, rồi tới thế hệ các nhà đầu tư tiếp theo như Robert Hagstrom. Buffett, người học trò xuất sắc nhất của Graham, thường khuyên các nhà đầu tư nghiên cứu cuốn sách The Intelligent Investor (Nhà đầu tư thông minh) của Graham. Tôi cũng thường tự khuyên mình như vậy. Tôi tin rằng tác phẩm của Robert chia sẻ với cuốn sách kinh điển đó một điểm đặc biệt mang tính quyết định then chốt: lời khuyên có thể không khiến bạn trở nên giàu có, nhưng chắc chắn sẽ không biến bạn trở thành kẻ nghèo khó. Nếu hiểu và thực hiện thông minh những phương pháp và nguyên lý được trình bày trong cuốn sách này, bạn sẽ trở thành một nhà đầu tư giỏi hơn. BILL MILLER CEO, Legg Mason Capital Management LỜI TỰA cho lần xuất bản đầu tiên Một buổi tối đầu năm 1989, tôi đang ở nhà thì chuông điện thoại reo. Cô con gái thứ hai của chúng tôi là Annie, lúc đó 11 tuổi, nhấc máy. Cô bé nói với tôi ông Warren Buffett gọi đến. Tôi cứ ngỡ có ai đó đang đùa. Người gọi đến bắt đầu nói: “Tôi là Warren Buffett từ Omaha (như thể tôi có thể nhầm lẫn ông ấy với một ông Warren Buffett nào khác). Tôi vừa đọc xong cuốn sách của anh, tôi rất thích nó, và tôi muốn trích dẫn một số câu của anh trong bản báo cáo thường niên của Berkshire. Tôi luôn mong muốn viết một cuốn sách, nhưng tôi chưa bao giờ thực sự bắt đầu”. Ông nói rất nhanh và rất háo hức đến độ đã nói 40 từ trong vòng 15 hay 20 giây gì đó, kể cả vài câu cười đùa. Tôi đồng ý ngay lập tức và chúng tôi nói chuyện thêm khoảng 5 hay 10 phút. Tôi vẫn còn nhớ câu nói cuối cùng của ông: “Nếu có dịp đến Omaha mà không ghé thăm tôi, tên của anh sẽ bị bêu xấu ở Nebraska đấy”. Rõ ràng là tôi không hề muốn tên mình bị bêu xấu ở Nebraska, nên sáu tháng sau, tôi tới gặp ông tại văn phòng công ty ông. Warren Buffett dẫn tôi đi một vòng thăm khắp công ty (việc này không mất nhiều thời gian lắm vì toàn bộ văn phòng chỉ nằm gọn trong một khoảng không gian chưa bằng một nửa sân tennis). Ở đó có tất cả 11 nhân viên và tôi không hề thấy có bất kỳ chiếc máy tính hay máy yết giá cổ phiếu nào. Khoảng một giờ sau, chúng tôi tới một nhà hàng địa phương. Tại đây, nơi tôi được thưởng thức món bít tết tuyệt vời và lần đầu tiên trong 30 năm, tôi được uống Coke hương anh đào. Chúng tôi nói về những công việc chúng tôi làm hồi trẻ, về bóng chày, bài brít và trao đổi câu chuyện về những công ty chúng tôi từng đầu tư. Warren kể chuyện và trả lời những câu hỏi về mỗi cổ phần Berkshire sở hữu (ông không bao giờ gọi công ty của mình là Berkshire Hathaway). Tại sao Warren Buffett trở thành nhà đầu tư xuất sắc nhất trong lịch sử? Ông là người như thế nào trên cương vị một cá nhân, một cổ đông, một nhà quản lý và một chủ sở hữu doanh nghiệp? Bản báo cáo thường niên của Berkshire Hathaway có điều gì độc đáo? Tại sao ông lại dành nhiều nỗ lực cho nó, và người ta có thể học được gì từ đó? Đi tìm câu trả lời những câu hỏi này, tôi đã nói chuyện trực tiếp với ông, đọc lại năm bản báo cáo thường niên gần đây và những bản báo cáo mới nhất của ông với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Quản trị (bản báo cáo năm 1971 và năm 1972 chỉ có hai trang). Ngoài ra, tôi còn có buổi nói chuyện với chín cá nhân đã và đang có quan hệ với Warren Buffett và là những người có quan điểm rất khác nhau: Jack Byrne, Robert Denham, Don Keough, Carol Loomis, Tom Murphy, Charlie Munger, Carl Reichardt, Frank Rooney, và Seth Schofield. Nhận xét về những phẩm chất cá nhân của Buffett, các câu trả lời đều tương đối giống nhau. Trước tiên, Warren Buffett rất hài lòng với những gì mình có. Ông yêu mọi thứ ông làm, quan hệ với mọi người và đọc rất nhiều báo cáo thường niên, báo cáo quý và vô số những bài báo, tạp chí định kỳ. Là một nhà đầu tư, ông rất có kỷ luật, kiên nhẫn, linh hoạt, dũng cảm, tự tin và quyết đoán. Ông luôn tìm kiếm cơ hội đầu tư ở những nơi không có rủi ro hoặc rủi ro đã được tối thiểu hoá. Thêm vào đó, ông là người dự đoán giỏi và là một chuyên gia kiếm lời. Tôi tin rằng khả năng này xuất phát từ lòng yêu thích những con số toán học bẩm sinh, những nỗ lực cống hiến và sự tham gia chủ động trong trò chơi bài brít, và kinh nghiệm lão luyện trong lĩnh vực bảo hiểm và chấp nhận mức độ rủi ro cao trong bảo hiểm và tái bảo hiểm. Ông sẵn sàng chấp nhận rủi ro ở những nơi có tỉ lệ thiệt hại thấp và tiền bồi thường bảo hiểm cao. Ông liệt kê những thất bại, những sai lầm của mình và không hề tạ lỗi. Ông thích nói đùa về bản thân mình và khách quan khen ngợi các cộng sự. Warren Buffett là một học viên xuất sắc trong lĩnh vực kinh doanh, một người lắng nghe tuyệt vời, ông có thể xác định những nhân tố chính của một công ty hoặc một vấn đề phức tạp với tốc độ và sự chính xác cao. Ông có thể ra quyết định không đầu tư chỉ trong vòng hai phút và đưa ra kết luận đâu là thời điểm thích hợp cho một giao dịch quan trọng chỉ trong vòng một vài ngày nghiên cứu. Ông luôn luôn sẵn sàng, như ông đã nói trong một báo cáo thường niên: “Noah không bắt đầu đóng thuyền khi trời đang mưa”. Là một nhà quản lý, hầu như ông không bao giờ gọi cho Giám đốc Bộ phận hay Giám đốc Điều hành của một công ty nhưng bất cứ lúc nào, dù là ngày hay đêm, ông đều vui lòng khi họ gọi cho ông để báo cáo hay nhờ tư vấn. Sau khi đầu tư vào một cổ phiếu hay mua toàn bộ một doanh nghiệp, ông trở thành nhà lãnh đạo vui vẻ. Hai ví dụ về nỗ lực tự học và khả năng thích nghi với môi trường của Warren Buffett đó là diễn thuyết trước công chúng và sử dụng máy vi tính. Trong những năm 1950, Warren đầu tư 100 đô la vào khoá học Dale Carnegie “không tránh cho đầu gối khỏi run khi diễn thuyết trước công chúng mà là diễn thuyết trước công chúng khi đầu gối đang run”. Tại đại hội thường niên của Berkshire trước hơn 2000 người, không cần phải ghi chép, Warren Buffett ngồi trên sân khấu với Charlie Munger, diễn thuyết và trả lời những câu hỏi làm hài lòng Will Rogers, Ben Graham, King Solomon, Phil Fisher, David Letterman, và Billy Crystal. Để chơi được nhiều bài brít hơn, đầu năm 1994, Warren học cách sử dụng máy vi tính để vào mạng và chơi với những người khác trên khắp đất nước. Có lẽ trong tương lai gần, ông sẽ bắt đầu sử dụng một trong hàng trăm dịch vụ phục hồi dữ liệu và thông tin về các công ty có sẵn trong máy vi tính như hiện nay để nghiên cứu đầu tư. Warren Buffett nhấn mạnh rằng nhân tố quan trọng trong quyết định đầu tư là xác định chính xác giá trị thực của một công ty và trả giá hợp lý. Ông không quan tâm đến những biến động gần đây hay trong tương lai của thị trường. Ông đã mua hơn một tỉ đô la cổ phiếu của Coca-Cola trong năm 1988 và 1989 sau khi cổ phiếu tăng hơn năm lần so với sáu năm trước đó và hơn 500 lần so với 60 năm trước đó. Ông đã tăng số tiền của mình lên bốn lần trong vòng ba năm và lên kế hoạch kiếm được nhiều hơn thế trong vòng năm năm, 10 năm và 20 năm tới với Coke. Năm 1976, ông mua một vị trí rất quan trọng tại GEICO khi cổ phiếu giảm từ 61 đô la xuống chỉ còn 2 đô la và theo nhận định chung thì cổ phiếu ở đó sẽ tụt xuống mức bằng 0. Một nhà đầu tư bình thường làm thế nào để áp dụng được những phương pháp của Warren Buffett? Warren Buffett không bao giờ đầu tư vào những doanh nghiệp ông không hiểu hoặc nằm ngoài khả năng của ông. Tất cả các nhà đầu tư có thể hiểu và hiểu sâu sắc hơn “vòng tròn khả năng” của họ trong một lĩnh vực chuyên môn, hoặc trong một số lĩnh vực thích nghiên cứu. Một người không phải lúc nào cũng có thể đưa ra nhận định chính xác nhiều lần trong đời. Warren tuyên bố rằng 12 quyết định đầu tư trong 40 năm sự nghiệp của ông đã làm cho tình thế hoàn toàn thay đổi. Rủi ro được giảm thiểu đáng kể khi nhà đầu tư chỉ tập trung vào một số ít loại cổ phiếu nếu nó buộc họ phải cẩn trọng hơn trong quá trình nghiên cứu. Hơn 75% số người nắm giữ cổ phiếu thường của Berkshire chỉ kinh doanh trên năm loại chứng khoán khác nhau. Một trong những nguyên tắc nhiều lần được giải thích rõ trong cuốn sách này là: mua cổ phiếu của những doanh nghiệp lớn khi họ đang gặp khó khăn nhất thời, hoặc khi thị trường chứng khoán có xu hướng đi xuống và tạo ra giá cả hợp lý. Hãy ngừng dự đoán chiều hướng biến động của thị trường chứng khoán, nền kinh tế, tỉ lệ lãi suất, hay những cuộc bầu cử, và ngừng lãng phí tiền bạc vào những cá nhân kiếm sống bằng nghề này. Thay vào đó hãy nghiên cứu số liệu thực tế và điều kiện tài chính, đánh giá triển vọng của một công ty, và quyết định mua khi mọi thứ có lợi cho bạn. Nhiều người đầu tư theo cách tương tự như chơi bài suốt đêm mà không thèm ngó ngàng gì tới quân bài của họ cả. Rất ít nhà đầu tư có kiến thức và lòng can đảm dám mua cổ phiếu của GEICO với giá 2 đô la hoặc của Wells Fargo hay General Dynamics khi nhiều người có trình độ cho rằng những công ty này đang lâm vào tình thế nghiêm trọng. Còn Warren Buffett thường mua cổ phiếu của Capital Cities/ ABC, Gillette, Washington Post, Affiliated Publications, Freddie Mac hay Coca-Cola, những công ty được điều hành tốt với lịch sử lợi nhuận bền vững và là những doanh nghiệp nhượng quyền kinh doanh có ảnh hưởng lớn (những vụ làm ăn này mang lại cho Berkshire Hathaway hơn 6 tỉ đô la lợi nhuận, chiếm 60% trong tổng số 10 tỉ đô la vốn cổ đông). Cùng với những cổ đông của mình, Warren Buffett sử dụng báo cáo thường niên của Berkshire nhằm giúp công chúng trở thành những nhà đầu tư giỏi hơn. Ông sống trong một gia đình có những cây viết giỏi, và dì Alice của ông là một giáo viên trường công lập trong hơn 30 năm. Warren Buffett yêu thích cả dạy và viết về kinh doanh, đặc biệt là đầu tư. Năm 21 tuổi, ông dạy trong một chương trình tình nguyện khi đang theo học trường Đại học Nebraska tại Omaha. Năm 1955, khi đang làm việc tại New York, ông tham gia giảng dạy cho một khoá đào tạo kiến thức thị trường chứng khoán tại trường Trung học Scarsdale. Trong vòng 10 năm từ cuối những năm 1960 tới những năm 1970, ông tham gia một khoá giảng dạy miễn phí tại trường Đại học Creighton. Năm 1977, ông làm việc trong một Uỷ ban do Al Sommer Jr. đứng đầu, đảm nhiệm công tác tư vấn cho Uỷ ban Hối đoái và Chứng khoán để vạch trần những hành động mờ ám trong kinh doanh. Sau đó, phạm vi báo cáo thường niên của Berkshire thay đổi rất nhiều với bản báo cáo năm 1977. Bố cục tương đồng hơn với các báo cáo của công ty hợp danh mà ông viết từ năm 1956 tới năm 1969. Từ đầu những năm 1980, các báo cáo thường niên của Berkshire thông báo cho các cổ đông về tình trạng cổ phần của công ty và những vụ đầu tư mới, cập nhật tình trạng của ngành bảo hiểm và tái bảo hiểm, và (từ năm 1982) liệt kê danh mục những tiêu chuẩn chuyển nhượng của các doanh nghiệp Berkshire sẽ mua cổ phiếu. Bản báo cáo được bổ sung rất nhiều ví dụ, suy luận, những câu chuyện, và phép ẩn dụ chứa đựng những điều nên và không nên trong một vụ đầu tư chứng khoán đích thực. Warren Buffett xây dựng tiêu chuẩn cao đối với hoạt động của Berkshire trong tương lai thông qua thiết lập mục tiêu tăng trưởng giá trị nội tại 15% một năm trong dài hạn, một con số ít người làm được. Từ năm 1956 đến năm 1993, ngoài ông ra, không ai thực hiện được mục tiêu này. Ông tuyên bố rằng rất khó duy trì tiêu chuẩn này do quy mô công ty quá lớn, nhưng vẫn luôn có nhiều cơ hội và Berkshire dự trữ nhiều tiền mặt để luôn sẵn sàng đầu tư và tăng trưởng hàng năm. Sự tự tin của ông được nhấn mạnh qua những chữ cuối cùng trong trang 60 của bản báo cáo thường niên tháng Sáu năm 1993: “Từ năm 1967, Berkshire không công bố cổ tức tiền mặt”. Warren Buffett từng thổ lộ ông luôn muốn viết một cuốn sách về đầu tư. Hy vọng một ngày nào đó, điều này sẽ trở thành hiện thực. Tuy vậy, cho đến khi điều đó xảy ra, những báo cáo thường niên của ông ở một góc độ nào đó phù hợp với quan điểm của những học giả thế kỷ XIX - những người cùng viết một cuốn sách là Edgar Allen Poe, William Makepeace Thackery, và Charles Dicken. Những báo cáo thường niên của Berkshire Hathaway từ năm 1977 đến năm 1993 chính là 17 chương của cuốn sách đó. Hiện tại, chúng ta có cuốn Phong cách đầu tư Warren Buffett, trong đó Robert Hagstrom phác hoạ con đường sự nghiệp của Buffett và đưa ra những ví dụ về kỹ thuật và phương pháp đầu tư của ông cũng như những nhân vật quan trọng trong quá trình đó. Cuốn sách trình bày chi tiết những quyết định đầu tư quan trọng tạo ra mức lợi nhuận kỷ lục có một không hai của Buffett. Cuối cùng, cuốn sách bao hàm những suy nghĩ và triết lý của một nhà đầu tư luôn kiếm tiền bằng cách sử dụng những công cụ sẵn có đối với mọi công dân bất kể họ thuộc tầng lớp nào. PETER S.LYNCH Tác giả cuốn sách One up on Wall Street (Trên đỉnh phố Wall) LỜI MỞ ĐẦU Cách đây đúng hai năm, khi đang học để trở thành nhà môi giới đầu tư với Legg Mason, tôi nhận được bản báo cáo thường niên của Berkshire Hathaway như một phần tài liệu đào tạo. Đó chính là lần đầu tiên tôi biết đến Warren Buffett. Cũng như nhiều từng đã đọc các báo cáo thường niên của Berkshire, tôi nhanh chóng bị ấn tượng bởi sự rõ ràng, rành mạch trong cách viết của Buffett. Là một giáo sư trẻ tuổi, suốt những năm 1980, tôi phát hiện ra rằng, đầu tôi không ngừng xoay quanh chứng khoán bởi tôi luôn cố gắng theo kịp sự phát triển của thị trường, nền kinh tế và những giao dịch chứng khoán hàng ngày. Tuy vậy, mỗi lần tôi đọc một câu chuyện của Warren Buffett, hoặc một bài viết của ông, thì giọng nói đầy lý trí của ông dường như có sức mạnh hơn sự hỗn loạn của thị trường. Sự điềm tĩnh của ông đã truyền cảm hứng để tôi viết cuốn sách này. Khó khăn cơ bản tôi gặp phải khi viết Phong cách đầu tư Warren Buffett là tán thành hay phản bác lời khẳng định của Buffett: “Việc tôi làm vượt qua khả năng của bất kỳ ai”. Một số nhà phê bình cho rằng không phải ai cũng có khả năng làm theo phong cách đầu tư của Warren Buffett. Tôi không tán thành quan điểm này. Warren Buffett là một người có phong cách. Đó là nguồn gốc thành công của ông. Tuy nhiên, phương pháp luận của ông được cho là thích hợp với các cá nhân và tổ chức. Tôi viết cuốn sách này nhằm giúp các nhà đầu tư nắm bắt được những chiến lược từng giúp Warren Buffett thành công. Phong cách đầu tư Warren Buffett mô tả bản chất của phương pháp đầu tư đơn giản. Cho dù bạn có đủ tiền để mua 10% cổ phần của một công ty, hay chỉ mua được 100 cổ phiếu thì cuốn sách này cũng giúp bạn thu lợi nhuận khi đầu tư. Nhưng đừng so sánh bạn với Warren Buffett, người đã có năm mươi năm kinh nghiệm vừa là chủ sở hữu vừa đầu tư vào các công ty. Điều này khiến bạn khó có thể “noi gương” mức lợi nhuận đầu tư lịch sử của ông. Thay vào đó, hãy so sánh những kết quả bạn đạt được với nhóm người cùng tuổi, cho dù nhóm này bao gồm cả những quỹ đầu tư được quản lý tích cực, quỹ chỉ số, hay thị trường rộng lớn hơn nói chung. Lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách này thu được thành công đáng kể, và tôi rất hài lòng khi nó hữu ích với nhiều độc giả. Tuy vậy, thành công của cuốn Phong cách đầu tư Warren Buffett trước hết là bằng chứng về Warren Buffet. Tính cách hóm hỉnh và chính trực của ông hấp dẫn hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Qua nhiều năm, trí tuệ và kỷ lục đầu tư của ông đã mê hoặc cộng đồng đầu tư chuyên nghiệp, trong đó có cả tôi. Sự kết hợp có một không hai này khiến Warren Buffett trở thành hình mẫu nổi tiếng nhất trong lĩnh vực đầu tư hiện nay. Tôi chưa từng gặp Warren Buffett trước khi viết cuốn sách này, và tôi cũng không hề tham khảo ý kiến ông suốt quá trình phát triển nó. Mặc dù tham khảo ý kiến ông chắc chắn sẽ là một lợi thế, nhưng tôi may mắn có khả năng phác hoạ từ những bài viết về đầu tư của ông trong hơn bốn thập kỷ qua. Xuyên suốt cuốn sách, tôi đã mượn rất nhiều đoạn trích từ các báo cáo thường niên của Berkshire Hathaway, đặc biệt là những bức thư của vị Chủ tịch nổi tiếng này. Buffett cho phép tôi sử dụng những tài liệu được đóng dấu bản quyền, nhưng chỉ sau khi ông duyệt cuốn sách. Sự cho phép này tuyệt nhiên không có nghĩa là ông hợp tác viết cuốn sách hay ông sẵn lòng cung cấp cho tôi những tài liệu hay chiến lược bí mật không có trong những bài viết công khai của ông. Hầu hết mọi việc Buffett làm đều công khai, nhưng bị ghi chép rời rạc. Theo ý kiến của cá nhân tôi, điều cần thiết và có giá trị đối với các nhà đầu tư là một cuộc nghiên nghiên cứu thấu đáo lối tư duy và các chiến lược của ông cùng với những vụ đầu tư mà Berkshire tiến hành trong nhiều năm qua. Tất cả nên được biên soạn thành một nguồn. Và đó chính là điểm khởi đầu cho lần xuất bản đầu tiên của cuốn Phong cách đầu tư Warren Buffett. Sau 10 năm, bản sửa đổi này vẫn tiếp tục duy trì những mục tiêu cơ bản: Nghiên cứu những hoạt động gần đây của Buffett để rút ra những bài học và xem xét khi nào sự thay đổi môi trường tài chính dẫn đến những thay đổi trong chiến lược đầu tư của ông. Một số vấn đề nhanh chóng trở nên rõ ràng. Trong những năm gần đây, mức độ hoạt động của Buffett trên thị trường chứng khoán giảm đáng kể. Ông mua công ty thường xuyên hơn mua cổ phiếu. Thi thoảng lắm, ông mới chuyển sang chơi trái phiếu và trái phiếu chính phủ. Mặc dù thu được lợi nhuận cao nhưng khi chúng trở nên kém hấp dẫn, ông lại dừng chơi. Một số những công ty ông mới mua lại sẽ được giới thiệu ở những chương tiếp theo, và chúng ta sẽ cùng xem xét đặc điểm của chúng phản ánh các nguyên lý trong Phong cách đầu tư Warren Buffett như thế nào. Tuy nhiên, do phần lớn các công ty này là công ty tư nhân trước khi Warren Buffett mua lại, nên những số liệu tài chính không được công khai. Vì vậy, tôi không thể tự tin khẳng định Buffett suy nghĩ thế nào về điều kiện kinh tế của các công ty này mà chỉ có thể nói rằng rõ ràng ông thích điều ông nhìn thấy. Với ấn bản mới này, tôi cũngcố gắng kết hợp chặt chẽ một số dữ liệu không có trong ấn bản đầu tiên. Tôi thêm vào một chương nói về phong cách quản lý danh mục đầu tư của Buffett, một phong cách được ông gọi là “đầu tư tập trung”. Đó là nền tảng cho sự thành công của ông, và tôi đặc biệt lưu ý bạn đọc về điều này. Tôi cũng thêm vào một chương đề cập đến tâm lý tiền bạc, trong đó rất nhiều trường hợp cảm xúc làm hỏng những quyết định sáng suốt. Để đầu tư thông minh, quan trọng là bạn phải nhận thức được rằng mọi cám dỗ sẽ dẫn tới hành động ngu ngốc. Điều này cần thiết vì hai lý do: Nếu bạn biết cách nhận ra những hố sâu tình cảm, bạn sẽ tránh không rơi vào chúng. Bạn sẽ nhận ra những sai lầm của người khác và kịp thời thu lợi nhuận từ những sai lầm của họ. Mười năm là một quãng thời gian rất dài, hoặc ngắn tùy thuộc vào hoàn cảnh và quan điểm cá nhân của bạn về thế giới. Đối với các nhà đầu tư, điều chúng tôi có thể nói đó là trong suốt 10 năm, bối cảnh thay đổi, nhưng những nền tảng cơ bản thì không. Điều đó rất có ý nghĩa bởi vì trong 10 năm khác, bối cảnh lại thay đổi ngược lại, hoặc thay đổi theo một chiều hướng hoàn toàn khác. Những người tiếp tục trung thành với những nguyên lý cơ bản sẽ vượt qua được những thăng trầm tốt hơn hẳn những người còn lại. Trong vòng 10 năm kể từ khi tôi viết cuốn sách này, thị trường chứng khoán ngày càng sôi động. Các bình luận viên truyền hình, nhà phân tích, người viết về tài chính, và các nhà chiến lược đều nói quá nhiều để thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư. Cùng lúc đó, nhiều nhà đầu tư lại bị thu hút vào những phòng chat trên mạng Internet và những nhóm được lập ra để trao đổi thông tin và mánh khoé đầu tư. Mặc dù tất cả thông tin này được tự do công khai, nhưng các nhà đầu tư thấy ngày càng khó thu được lợi nhuận. Thậm chí một số người còn thấy khó tiếp tục sự nghiệp đầu tư. Giá cổ phiếu tăng vọt mà không rõ nguyên nhân, rồi sau đó lại giảm mạnh nhanh chóng. Những người chuyển sang đầu tư vì mục đích đảm bảo giáo dục cho con cái và lương hưu thường xuyên sợ hãi. Dường như thị trường chứng khoán không bao giờ hoạt động theo một nhịp cố định mà luôn lên xuống bất thường. Tránh xa sự “điên loạn của thị trường” là khôn ngoan và cũng là lời khuyên của Warren Buffett. Trong một môi trường mà dường như kẻ đầu cơ được thiên vị hơn nhà đầu tư, lời khuyên đầu tư của Buffett một lần nữa được chứng minh là nơi ẩn náu an toàn cho hàng triệu nhà đầu tư lạc lối. Đôi khi, các nhà đầu tư “lạc lối” sẽ kêu lên: “Lần này nhất định phải khác!”. Đôi khi họ đúng. Các chính trị gia phải kinh ngạc, thị trường phản ứng, rồi nền kinh tế phản ứng lại theo một nhịp điệu hơi khác biệt. Nhiều công ty mới liên tục ra đời khi các công ty khác trưởng thành. Nhiều ngành công nghiệp phát triển và tự thích nghi. Sự thay đổi liên tục diễn ra, nhưng các nguyên lý đầu tư được đề cập đến trong cuốn sách này vẫn không hề thay đổi. Đây là một bài học ngắn gọn và súc tích từ bản báo cáo thường niên năm 1996: “Với tư cách là một nhà đầu tư, mục tiêu của bạn nên đơn giản là sẽ mua được cổ phiếu của ngành kinh doanh mang lại lợi nhuận chắc chắn cao hơn 5, 10 và 20 lần so với hiện tại. Qua một thời gian, bạn sẽ thấy chỉ có một số ít các công ty có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn này. Vì vậy, khi bạn thấy một trong số các công ty đó đạt tiêu chuẩn, bạn nên mua một số lượng chứng khoán có ý nghĩa”. Cho dù năng lực tài chính của bạn như thế nào, bạn cũng luôn có cơ hội đầu tư. Cho dù bạn quan tâm tới ngành hay công ty nào, thì bạn cũng không thể tìm được một tiêu chuẩn tốt hơn thế. ROBERT G. HAGSTROM Villanova, Pennsylvania Tháng Chín năm 2004 LỜI GIỚI THIỆU Cha tôi, ông Philip A. Fisher, rất tự hào khi Warren Buffett tán thành một số quan điểm của ông và hai người trở thành bạn bè thân thiết, lâu năm. Nếu cha tôi còn sống để viết lời giới thiệu này, ông sẽ giành ngay lấy cơ hội được chia sẻ những cảm xúc tốt đẹp mà ông đã trải nghiệm trong nhiều thập kỷ với Buffett - một trong số rất ít những nhà đầu tư toả sáng và khiến thành tích đầu tư của ông bị lu mờ. Cha tôi đặc biệt yêu quý Warren Buffett và lấy làm vinh hạnh khi Buffett đề cao một số ý kiến của ông. Cha tôi qua đời ở tuổi 96, chính xác là ba tháng trước khi tôi nhận được một lá thư đầy bất ngờ đề nghị tôi viết về cha tôi và Warren Buffett. Lời giới thiệu này sẽ giúp tôi kết nối một vài điểm và bật mí một số bí mật liên quan đến hai người. Đối với những độc giả của cuốn Phong cách đầu tư Warren Buffett, tôi hy vọng mình có thể mang đến một nghiên cứu rất cá nhân về một phần quan trọng trong lịch sử đầu tư và một số suy nghĩ về cách thức sử dụng tốt nhất cuốn sách tuyệt vời này. Tôi nói rất ít về Buffett bởi ông là chủ đề của cuốn sách này và Robert Hagstrom đã đề cập toàn bộ nền tảng đó với sự kính trọng và thấu hiểu. Cha tôi nổi tiếng. Mọi người đều biết cha tôi có ảnh hưởng quan trọng tới Warren Buffett. Như Hagstrom viết, ảnh hưởng của cha tôi ngày càng rõ nét trong lối suy nghĩ của Buffett những năm gần đây. Về phần mình, có lẽ do cha tôi thân thuộc với Warren Buffett nên ông ngày càng thán phục những phẩm chất của Warren mà ông cảm thấy là cần thiết để thành công trong đầu tư, nhưng lại hiếm có ở các nhà quản lý đầu tư. Cách đây 40 năm, khi Buffett tới thăm cha tôi, trong một thế giới với những công cụ thông tin tương đối sơ khai so với các tiêu chuẩn ngày nay, cha tôi có cách riêng để thu thập thông tin. Qua nhiều thập kỷ, ông từng bước xây dựng một nhóm các chiến hữu, những tay đầu tư chuyên nghiệp ông kính trọng và biết rõ về ông đủ để hiểu điều ông thích và không thích, những người có thể chia sẻ các ý tưởng với ông. Cuối cùng, ông kết luận rằng, ông sẽ gặp tất cả các chuyên gia đầu tư trẻ tuổi một lần. Nếu ông có ấn tượng, ông sẽ gặp lại và xây dựng mối quan hệ với họ. Hiếm khi ông gặp lại ai lần thứ hai. Những tiêu chuẩn ông đề ra rất cao! Trong đầu ông, nếu bạn không đạt được điểm “A” thì có nghĩa là bạn chỉ đạt điểm “F” mà thôi. Và khi ông có thành kiến với ai đó, thì có nghĩa là ông sẽ loại bỏ người đó mãi mãi. Warren Buffett là một trong số rất ít các nhà đầu tư trẻ gây ấn tượng mạnh với cha tôi ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên và xứng đáng cho lần gặp gỡ thứ hai và nhiều lần gặp gỡ sau đó nữa. Cha tôi là một người có đánh giá sắc sảo về tính cách và kỹ năng. Quả là khác thường! Ông xây dựng sự nghiệp dựa trên nền tảng đánh giá con người. Đó là một trong những phẩm chất tuyệt vời nhất của ông và là lý do chính giải thích tại sao ông lại quá chú trọng đánh giá phẩm chất quản lý kinh doanh trong phân tích chứng khoán. Ông luôn luôn tự hào vì đã đặt bút cho Warren Buffett điểm “A” trước khi Buffett nổi tiếng và được tôn vinh xứng đáng. Mối quan hệ giữa Warren Buffett và cha tôi vượt qua được những sai lầm hiếm hoi của cha tôi khi ông nhỡ gọi Buffett là “Howard”. Đây là một câu chuyện đáng chú ý không bao giờ được kể ra ngoài và có lẽ nói lên nhiều điều về cả cha tôi và Warren Buffett. Cha tôi là một người đàn ông nhỏ bé có trí tuệ lớn. Ông hay hồi hộp khi bị xúc động, và bất an. Ông thực sự là nô lệ của thói quen. Ông làm theo sách giáo lý vấn đáp nghiêm ngặt bởi vì chúng làm ông cảm thấy an toàn hơn. Ông thích ngủ, bởi vì khi ngủ, ông không bao giờ hồi hộp, lo lắng hay bất an. Vì vậy, khi không thể làm cho trí óc mình hoạt động vào buổi đêm (điều này cũng thường xảy ra), ông lại chơi một trò chơi rèn luyện trí nhớ. Ông thường chơi một trò ru ngủ là trò nhớ tên và địa hạt của tất cả các thành viên trong Quốc hội cho tới khi ông ngủ thiếp đi. Từ năm 1942, ông bắt đầu nhớ tên của Howard Buffett và hết lần này qua lần khác, từ đêm này sang đêm khác, liên kết nó với Omaha trong vòng hơn một thập kỷ. Não của ông liên kết máy móc các từ “Omaha”, “Buffett”, và “Howard” như một chuỗi có liên hệ với nhau trước khi ông gặp Buffett. Cho tới khi sự nghiệp của Warren bắt đầu được tạo dựng, hai thập kỷ đã trôi qua trước khi cha tôi hoàn toàn bỏ qua mối kết nối giữa Buffett, Omaha và “Howard”. Điều đó làm cha tôi khó chịu vì ông không thể kiểm soát được đầu óc của mình và bởi vì ông mến mộ Warren Buffett và đánh giá cao mối quan hệ của họ. Cha biết chính xác Warren Buffett là ai, nhưng trong một cuộc nói chuyện thoải mái bạn bè ông thường nói những câu kiểu như, “Đó là chàng trai trẻ thông minh Howard Buffett đến từ Omaha”. Ông càng nói như vậy, nó càng khó biến mất khỏi cách nói của ông. Một người đàn ông của thói quen đến bực tức. Một buổi sáng khi họ gặp nhau, cha tôi đang chuẩn bị nói ”Howard” thay vì ”Warren”. Vẫn vậy, một lúc nào đó trong cuộc nói chuyện, cha tôi gọi Warren là ‘’Howard”. Nếu Warren nhận ra, ông không có thái độ gì cả và chắc chắn không sửa cho cha tôi. Điều này thi thoảng lại xảy ra trong suốt những năm 1970. Bước sang những năm 1980, cuối cùng thì cha tôi cũng hoàn toàn loại bỏ được từ ”Howard” trong bất cứ câu nào khi muốn nói tới Buffett. Ông thực sự tự hào khi ông bỏ được từ “Howard” lại phía sau mãi mãi. Những năm sau đó, tôi hỏi ông rằng ông có giải thích điều này với Buffett không thì ông trả lời rằng ông không nói gì cả, bởi vì điều đó làm ông cảm thấy rất lúng túng. Mối quan hệ của họ vẫn tồn tại, bởi vì nó được xây dựng dựa trên nhiều thứ mạnh mẽ hơn. Tôi cho rằng, một trong những phần cốt lõi trong mối quan hệ của họ là triết lý sống được sẻ chia cùng những con người chính trực và có kỹ năng. Khi nói về việc giám sát những nhà quản lý của Berkshire Hathaway, Buffett nói: “Chúng ta không dạy 400 vận động viên bóng chày cách chạy thế nào”. Đó chính xác là câu trích từ một cuốn sách của bố tôi. Cùng với điều tốt đẹp nhất, đừng hiều lầm về điều đó, và đừng nói với họ phải làm gì. Qua nhiều năm, cha tôi bị ấn tượng với cách thức Buffett trưởng thành trong vai trò một nhà đầu tư mà không hề vi phạm bất kỳ nguyên tắc cơ bản nào của ông. Qua từng thập kỷ, Buffett làm nhiều thứ mà không ai dự đoán được từ những gì viết về ông trong quá khứ, và làm rất tốt. Với cách thức đầu tư chuyên nghiệp, hầu hết mọi người học một số phong cách mánh khoé cụ thể trong đầu tư và không bao giờ thay đổi nó. Họ mua chứng khoán P/E thấp, những công ty công nghệ hàng đầu hoặc bất cứ thứ gì. Họ xây dựng mánh khoé đó và không bao giờ thay đổi, hoặc chỉ thay đổi chút ít. Ngược lại, Warren Buffett luôn có phương pháp mới, từ thập kỷ này qua thập kỷ khác. Vì vậy, mọi người không dự đoán được ông định làm gì tiếp theo. Bạn không thể dự đoán khuynh hướng cửa hàng uỷ quyền trong những năm 1970 từ khuynh hướng giá trị nghiêm ngặt nguyên bản của ông. Bạn không thể dự đoán khuynh hướng những sản phẩm tiêu dùng trong những năm 1980 tại mức P/E trung bình trên thị trường từ phương pháp trước đây của ông. Khả năng thay đổi của ông và thực hiện điều đó thành công có thể là một cuốn sách. Khi hầu hết mọi người cố gắng phát triển như ông. Họ đều thất bại. Buffett không thất bại, cha tôi tin như vậy, bởi vì Buffett không bao giờ quên mình là ai. Ông luôn luôn giữ nguyên chân lý cho bản thân ông. Cha tôi thường đọc đi đọc lại và trích dẫn bài thơ nổi tiếng của Rudyard Kipling , bài thơ ”If” khi nói chuyện với tôi. Tôi giữ bài thơ cạnh bàn làm việc như giữ ông luôn gần gũi với tôi. Không chắc chắn, nhưng là một người ngoan cường, ông sẽ nói cho bạn theo cách giống như Kipling: rất nghiêm túc về sự nghiệp và những vụ đầu tư, nhưng lại không coi bản thân bạn quá nghiêm túc. Ông sẽ hối thúc bạn suy ngẫm về những lời chỉ trích mà người khác dành cho bạn, nhưng không bao giờ coi bạn là quan toà. Ông sẽ hối thúc bạn thử thách bản thân mình, nhưng không đánh giá bạn khi bạn thất bại hay khi bạn tự coi mình là kẻ bại trận, ông sẽ khuyến khích bạn cố gắng lần nữa. Và ông sẽ hối thúc bạn làm việc tiếp theo, không thể nào đoán trước được. Đó là một phần về Buffett, tài năng phát triển luôn đi kèm với những giá trị và quá khứ của ông - hành động tiếp theo không thể dự đoán được - đó là điều cha tôi thán phục nhất ở ông. Tự do tiến lên từ những hạn chế, cách nói, lệ thường và niềm tự hào trong quá khứ. Theo suy nghĩ của cha tôi, Buffett là hiện thân của một số những phẩm chất bất diệt của Kipling. Đáng tiếc là trong xã hội, luôn tồn tại một phần trăm rất nhỏ nhưng lại là một con số thực sự lớn những kẻ vô lại tiểu nhân hay đố kị không thể tạo ra cuộc sống cho riêng mình và họ thích nói xấu người khác. Mục đích cuộc sống của những tâm hồn lầm đường lạc lối này là “không ăn được thì đạp đổ” - cố gắng tạo ra nỗi đau ở những nơi họ không thể thu về lợi nhuận. Khi một sự nghiệp thành công kết thúc, thì cùng lúc đó bùn đất sẽ được ném vào hầu hết mọi người cho dù thành quả họ đạt được là thế nào. Người cha của tôi luôn mong ước rằng bùn đất sẽ được ném vào tất cả mọi người, kể cả ông, nhưng là dành cho những người ông thán phục, ông hi vọng nó sẽ không dính vào người. Khi bùn đất được ném đi, ông hi vọng những người ông thán phục, theo phong cách của Kipling, sẽ suy ngẫm về sự chỉ trích mà không cảm thấy bị xét xử. Luôn luôn là qua con mắt của Kipling! Qua một quãng đường sự nghiệp dài hơn hầu hết mọi người, bản thân Warren Buffett đã tuyên bố “trắng án” – ông từng bị nói xấu nhưng điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến ông. Trở lại những giá trị căn bản của Buffett, ông luôn biết chính xác ông là ai và ông định làm gì. Ông không hề bị dằn vặt trước những mâu thuẫn về lợi ích có thể huỷ hoại những nguyên tắc của ông hơn dẫn tới những hành vi kém thán phục. Không hề có một chút bùn nào ném vào ông và vì vậy không hề có bùn dính vào người. Đó là một phần quan trọng của Warren Buffett mà bạn nên cố gắng cạnh tranh với ông. Hãy luôn biết mình là ai. Tôi viết lời giới thiệu một phần là để gợi ý các bạn cách sử dụng cuốn sách. Suốt sự nghiệp của tôi, mọi người hỏi tôi tại sao tôi không làm những điều giống cha tôi hay tại sao tôi không làm những điều giống Buffett. Câu trả lời thật đơn giản. Tôi là tôi, không phải họ. Tôi phải sử dụng những lợi thế của riêng mình. Tôi không có cách đánh giá con người khôn ngoan như cha tôi và tôi không phải là một thiên tài như Buffett. Điều quan trọng là hãy sử dụng cuốn sách này để học, nhưng đừng sử dụng nó để hành động giống như Warren Buffett. Bạn không thể là Warren Buffett và nếu cố gắng, có thể bạn sẽ ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Sử dụng cuốn sách này để hiểu các ý tưởng của Warren Buffett và sau đó kết hợp đưa những ý tưởng này để tạo thành phương pháp đầu tư của riêng bạn. Bạn chỉ thành công khi đó là ý kiến của riêng bạn. Ý nghĩa sâu sắc bên trong cuốn sách này chỉ hữu ích khi bạn ”hấp thụ” chúng vào cá tính của bạn thay vì cố gắng bóp méo tính cách để phù hợp với những ý nghĩa sâu sắc này. (Một tính cách bị bóp méo là một nhà đầu tư tồi tệ trừ khi bị bóp méo tự nhiên). Tôi đảm bảo rằng bạn không thể là Warren Buffett dù bạn đọc, hay bạn cố gắng như thế nào đi chăng nữa. Bạn phải là bản thân bạn. Đó là bài học lớn nhất tôi học được từ cha tôi, một giáo viên thực sự tuyệt vời ở mọi trình độ. Bài học lớn nhất bạn có thể học được từ Warren Buffett là gì? Hãy học nhưng đừng cố mong giống như ông. Nếu bạn là một độc giả trẻ tuổi, bài học đầu tư lớn nhất dành cho bạn là hãy tự khám phá xem mình thực sự là ai. Nếu bạn là một độc giả lớn tuổi, bài học lớn nhất dành cho bạn đó là bạn thực sự trẻ hơn bạn nghĩ và bạn nên hành động theo cách đó. Đây quả là một món quà quý hiếm. Nếu điều đó là không thể, thì Buffett sẽ không thể tiếp tục phát triển ở độ tuổi mà đối với hầu hết mọi người đã là tuổi về hưu rồi. Hãy coi Warren Buffett như một nhà giáo, không phải là một mẫu hình, và hãy coi cuốn sách này là một giáo án tốt nhất của ông, dễ hiểu và dễ học. Bạn sẽ học được rất nhiều từ cuốn sách này và đó có thể là nền tảng cho sự phát triển triết lý đầu tư thành công của riêng bạn. KENNETH L. FISHER 1. NHÀ ĐẦU TƯ VĨ ĐẠI NHẤT THẾ GIỚI Hàng năm, tạp chí Forbes công bố danh sách 400 người Mỹ giàu nhất, The Elite Forbes 400. Những cá nhân trong danh sách xuất hiện rồi biến mất từ năm này qua năm khác khi hoàn cảnh cá nhân của họ thay đổi và lĩnh vực của họ có những bước thăng trầm, nhưng có một số tên tuổi vẫn luôn tồn tại. Trong số những cá nhân dẫn đầu danh sách trong nhiều năm là những siêu tỉ phú. Họ là những người tìm thấy sự giàu có từ một sản phẩm nào đó (phần mềm hoặc phần cứng máy tính), một dịch vụ (bán lẻ), hoặc nhờ vào khoản thừa kế may mắn. Trong số top 5 người giàu có nhất luôn có tên trong bản danh sách, chỉ có duy nhất một người làm giàu nhờ khả năng thấu hiểu đầu tư. Người đó chính là Warren Buffett. Đầu những năm 1990, ông đã xếp số một trong bản danh sách. Sau đó một vài năm, ông dao động giữa vị trí số 1 và số 2 với một chàng trai có tên là Bill Gates. Thậm chí là tại thời điểm hiện tượng dot.com bùng nổ hồi năm 2000, khi phần lớn những đại diện cho sự giàu có trong bảng xếp hạng 400 của Forbes đều vươn lên nhờ sự phát triển hiện tượng trong công nghệ, thì Buffett, con người luôn vui vẻ lảng tránh bất cứ thứ gì liên quan đến công nghệ cao, vẫn đứng vững chắc ở vị trí thứ 4. Ông vẫn là cá nhân duy nhất trong top 5 có “nguồn gốc của sự giàu có’’ được xếp vào “thị trường chứng khoán’’. Năm 2004, ông trở lại với vị trí thứ 2. Năm 1956, Buffett bắt đầu đầu tư với 100 đô la; sau 30 năm, ông sở hữu một khoản tiền là 25 triệu đô la. Tại thời điểm viết cuốn sách này (giữa năm 2004), giá trị thu nhập ròng cá nhân của ông đã tăng lên 42,9 tỉ đô la, chứng khoán trong công ty ông đang bán ở mức giá 92.900 đô la một cổ phiếu, và hàng triệu các nhà đầu tư trên thế giới bám riết lấy từng lời của ông. Tuy vậy, để thực sự hiểu đầy đủ giá trị của Warren Buffett, chúng ta phải đi xa hơn tiền bạc, những lời ngợi ca, và danh tiếng. Khởi nghiệp đầu tư Warren Edward Buffett sinh ngày 30 tháng Tám năm 1930 tại Omaha, Nebraska. Ông nội ông là chủ một cửa hàng tạp hoá (và từng thuê chàng trai trẻ Charlie Munger) còn cha ông là một nhà môi giới chứng khoán địa phương. Từ thời niên thiếu, Warren Buffett đã ham mê những con số đến mức có thể ghi nhớ dễ dàng các kết quả tính toán. Lên tám tuổi, Buffett bắt đầu đọc các tác phẩm viết về thị trường chứng khoán của cha mình. 11 tuổi, Buffett chú ý tìm hiểu bảng niêm yết giá cổ phiếu ở nơi cha ông làm việc. Những năm tháng thiếu thời của ông đầy sinh động với những cuộc phiêu lưu kinh doanh, và ông thành công đến nỗi ông nói với cha rằng ông muốn bỏ qua ‘’khâu học đại học” để tiến thẳng vào sự nghiệp kinh doanh. Nhưng cha ông đã từ chối. Buffett tham dự khoá học kinh doanh tại trường Đại học Nebraska, và trong quá trình học, ông đọc một cuốn sách mới về đầu tư của một giáo sư trường Đại học Columbia có tên là Benjamin Graham. Đó chính là cuốn The Intelligent Investor (Nhà đầu tư thông minh). Buffett rất tâm đắc với những ý kiến của Graham, và ông đã dự tuyển vào trường Đại học Columbia để được học tập trực tiếp với giáo sư Graham. Nhớ lại những tháng ngày đó, Bill Ruane, nay là Chủ tịch của Sequoia Fund (Quỹ cây tùng) và là bạn cùng lớp với ông kể rằng đã có một phản ứng hoá học tinh thần xảy ra tức thì giữa Graham và Buffett, và phần còn lại của lớp học là khán giả đầu tiên. Không lâu sau khi Buffett tốt nghiệp trường Đại học Columbia với tấm bằng cao học kinh tế, Graham đã mời người cựu sinh viên của mình tham gia công ty của ông, Công ty Graham-Newman. Suốt hai năm làm việc ở đây, Buffett thực sự bị lôi cuốn bởi phương pháp đầu tư của người thầy thông thái. (Đọc Chương 2 để biết một cuộc tranh luận đầy đủ về triết lí kinh doanh của Graham). Năm 1956, Graham - Newman giải thể vì Graham lúc ấy đã 61 tuổi. Ông quyết định nghỉ hưu. Buffett lại quay về Omaha. Với những kiến thức lĩnh hội được từ Graham cùng sự hỗ trợ tài chính của gia đình và bạn bè, cộng với 100 đô la của chính mình, Buffett khai trương Công ty hợp danh đầu tư trách nhiệm hữu hạn. Lúc đó, ông mới 25 tuổi. Công ty hợp danh đầu tư TNHH Buffett Công ty hợp danh đầu tư khởi sự với bảy hội viên trách nhiệm hữu hạn cùng đóng góp được 105000 đô la. Các hội viên TNHH hàng năm nhận được 6% trên vốn đầu tư của họ và 75% doanh lợi vượt mức vừa kể. Còn Buffett người chịu trách nhiệm chung nắm quyền kiểm soát đầu tư ở quỹ hợp danh chỉ nhận được 25% khoản doanh lợi vượt mức này.Hơn 13 năm sau, Buffett tích lũy được khoản tiền bằng số vốn ban đầu nhân với tỷ lệ kép hàng năm 29,5%. Đó không phải là một kết quả dễ đạt được. Mặc dù chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones giảm giá trong năm năm khác nhau của giai đoạn 13 năm đó, công ty hợp danh Buffett vẫn không hề đi xuống. Thực tế, Buffett bắt đầu thành lập công ty với tham vọng vượt qua chỉ số Dow Jones mỗi năm 10 điểm. Và ông đã vượt qua chỉ số này không chỉ là 10 mà là 20 điểm mỗi năm! Khi uy tín của Buffett tăng lên, nhiều người tới hỏi ông cách quản lý tiền. Trong thời gian điều hành công ty hợp danh này, Buffett đầu tư nắm quyền kiểm soát một số công ty công và tư nhân. Năm 1962, ông bắt đầu mua cổ phiếu của một công ty dệt may đang èo uột là Berkshire Hathaway. Cùng năm 1962, Buffett chuyển văn phòng công ty hợp danh từ quê nhà ông tới Kiewit Plaza tại Omaha, chính là trụ sở văn phòng cho tới tận ngày hôm nay. Năm tiếp theo, ông có một vụ đầu tư gây choáng váng dư luận. Một vụ bê bối có liên quan tới một trong những khách hàng làm huỷ hoại danh tiếng của American Express khiến cổ phiếu của hãng rớt giá từ 65 đô la xuống còn 35 đô la chỉ trong vòng một đêm. Buffett đã áp dụng rất tốt bài học của Ben Graham: Khi cổ phiếu của một công ty lớn đang bán dưới mức giá trị thực của nó, hãy hành động thật quyết đoán. Buffett có một quyết định đầy táo bạo: Dùng 40% tổng số tài sản của công ty hợp danh, 13 triệu đô la, để mua cổ phiếu của American Express. Hơn hai năm sau, cổ phiếu đó tăng giá lên gấp ba lần, và các thành viên hợp tác thu được lợi nhuận ròng 20 triệu đô la. Đó là Graham đích thực – Buffett đích thực. Năm 1965, tài sản của công ty hợp danh đã tăng lên 26 triệu đô la. Bốn năm sau, với lý do thấy thị trường có tính chất đầu cơ cao và những giá trị thực đang ngày càng khan hiếm, Buffett quyết định chấm dứt Công ty hợp danh đầu tư. Khi công ty hợp danh đầu tư giải thể, các nhà đầu tư hoạt động đều được chia phần đầy đủ. Một vài người trong số đó, theo lời khuyên của Buffett, đã tìm kiếm nhà quản trị tài chính Bill Ruane, người bạn học cũ của ông tại Columbia. Ruane chấp nhận quản lý tài chính cho một số hội viên cũ, và Sequoia Fund được thành lập. Các hội viên khác của Công ty hợp danh kể cả Buffett đầu tư phần lợi nhuận hợp tác của họ vào Berkshire Hathaway. Tại thời điểm đó, phần vốn liếng của Buffett ở công ty hợp danh đầu tư cũ đã tăng lên 25 triệu đô la, và khoản tiền ấy giúp ông đủ sức nắm quyền điều hành Berkshire Hathaway. Những gì ông làm đã nổi tiếng trong giới đầu tư trên toàn thế giới. Thậm chí những người chỉ với một chút lợi nhuận thoáng qua trên thị trường chứng khoán cũng nhận ra tên của Buffett và biết một vài điều về thành công lẫy lừng của ông. Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ theo dõi những thăng trầm của Berkshire Hathaway trong 40 năm Buffett điều hành. Có lẽ, quan trọng hơn là chúng ta sẽ nhìn sâu vào bên trong để khám phá đến tận cùng triết lý phán đoán chung mà nhờ nó, ông đã tạo dựng thành công cho mình. Con người và công ty của Buffett Thật không dễ mô tả Warren Buffett. Về ngoại hình, ông không có gì nổi bật. Về trí tuệ, ông được coi là một thiên tài, nhưng mối quan hệ thực tế của ông với mọi người thực sự rất phức tạp. Ông giản dị, thẳng thắn, trung thực và chân thật. Ông thể hiện sự kết hợp đầy quyến rũ giữa trí thông minh lạnh lùng tinh tế và sự hóm hỉnh thật thà. Ông tôn sùng sâu sắc tất cả mọi thứ logic và cực kỳ chán ghét hành động khờ dại. Ông theo đuổi sự giản đơn và né tránh điều phức tạp. Khi đọc những bản báo cáo thường niên của Berkshire, độc giả sẽ ấn tượng trước cách Buffett trích dẫn Kinh Thánh, John Maynard Keynes, hoặc Mae West thật tự nhiên. Thế giới có thể mổ xẻ ở đây chính là đọc. Mỗi bản báo cáo dài khoảng từ 60 tới 70 trang với luồng dày đặc thông tin: Không có hình vẽ, không đồ thị màu, không biểu đồ. Những ai được rèn luyện đủ để bắt đầu với trang số 1 và tiếp tục không dừng lại xứng đáng được nhận một phần thưởng với một liều thuốc cho khả năng nhạy bén tài chính, sự hóm hỉnh dễ gần, và lòng chân thật không nao núng. Buffett thể hiện tính vô tư trong báo cáo. Ông nhấn mạnh cả điểm yếu và điểm mạnh về tình hình kinh doanh của Berkshire. Ông tin rằng những người sở hữu cổ phiếu của Berkshire chính là những người chủ của công ty, và ông nói với họ nhiều như ông mong muốn được nghe nếu ông ở vị trí của họ. Khi Buffett giành quyền kiểm soát Berkshire, giá trị ròng của công ty là 22 triệu đô la. Sau 40 năm, con số này tăng lên 69 tỉ đô la. Con số vượt xa mục tiêu của Buffett là làm giá trị sổ sách hàng năm của Berkshire Hathaway tăng lên 15% vượt xa số lợi nhuận mà một công ty Mỹ trung bình đạt được. Kể từ khi ông nắm quyền kiểm soát Berkshire năm 1964, lợi nhuận của công ty tăng lên đáng kể: Giá trị sổ sách trên một cổ phiếu tăng từ 19 đô la lên 50.498 đô la, đạt mức 22,2% lợi nhuận thường niên. Tình hình hoạt động cân đối này còn gây ấn tượng mạnh hơn khi bạn biết Berkshire phải đóng cả thuế lợi nhuận, vốn và lợi nhuận thu được từ chỉ số S&P 500 là trước thuế. Bảng 1.1 Hoạt động của Berkshire so với chỉ số S&P 500 Bắt đầu từ năm 1979, theo quy định, các công ty bảo hiểm phải đánh giá giá trị cổ phiếu họ nắm giữ trên thị trường thay vì trên mức chi phí hoặc thị trường thấp hơn. Trong bảng số liệu này, kết quả đạt được của Berkshirre suốt năm 1978 đã được trình bày lại cho phù hợp với những quy định mới. Trên tất cả các khía cạnh khác, các kết quả này được tính toán từ những con số trong bản báo cáo gốc. Số liệu của chỉ số S&P 500 là con số trước thuế trong khi số liệu của Berkshire là sau thuế. Nếu một công ty như công ty Berkshire chỉ đơn giản nằm trong danh sách của S&P 500 và dồn số tiền thuế thích hợp lại, thì kết quả của nó sẽ kéo S&P 500 tụt lại phía sau khi chỉ số cho thấy một kết quả khả quan, nhưng sẽ vượt quá S&P hàng năm khi chỉ số cho thấy một kết quả tiêu cực. Qua nhiều năm, chi phí thuế gây ra sự trì trệ ngày càng lớn. Đôi khi, lợi nhuận của Berkshire cũng có biến động. Biến động này bắt nguồn từ sự thay đổi trên thị trường chứng khoán. Do đó, những cổ phiếu ưu đãi mà Berkshire nắm giữ có biên độ dao động lớn trong giá trị trên mỗi cổ phiếu (Xem Bảng 1.1). Để hiểu rõ biến động, hãy so sánh kết quả của năm 1998 với năm 1999. Trong năm 1998, giá trị của Berkshire tăng hơn 48%. Sau đó, đến năm 1999, phần giá trị tăng của Berkshire giảm không đáng kể là 0,5%, tuy vậy chỉ số S&P 500 tăng 21%. Hai nhân tố có liên quan tới kết quả này: Kết quả của Berkshire là do doanh thu từ những sản phẩm tiêu dùng không bền (Coca-Cola và Gillette) giảm đáng kể, trong khi chỉ số S&P tăng là do hoạt động đáng chú ý của cổ phiếu công nghệ mà Berkshire không sở hữu. Buffett thừa nhận trong bản báo cáo thường niên năm 1999: “Sự vượt trội thực sự lớn so với chỉ số S&P đã thuộc về quá khứ”. Tuy vậy, ông dự đoán rằng theo thời gian thành tích của Berkshire sẽ tốt hơn một chút so với S&P. Ba năm tiếp theo, điều này trở thành sự thực. Năm 2003, mặc dù Berkshire có một năm hoạt động rất tuyệt vời, giá trị sổ sách tăng 21%, nhưng chỉ số S&P thậm chí còn cao hơn thế. Buffett ngày hôm nay Từ cuối những năm 1990 đến nay, Buffett không còn chủ động trên thị trường chứng khoán như những năm 1980 và đầu những năm 1990 nữa. Nhiều người nhận thấy sự thiếu chủ động này và băn khoăn không biết đó có phải là dấu hiệu cho thấy thị trường đã đạt đến mức đỉnh cao. Những người khác lại dựa vào lý thuyết và quả quyết rằng việc thiếu hụt những vụ mua bán chứng khoán quan trọng chỉ đơn giản là do loại chứng khoán Buffett thích mua từ lâu đã không còn được bán ở mức giá hấp dẫn nữa. Chúng ta biết Buffett thích “mua sự chắc chắn với giá chiết khấu”. “Sự chắc chắn” ở đây được xác định nhờ dự đoán tình hình kinh tế của một công ty. Càng tiên liệu chính xác tình hình kinh tế của một công ty, thì độ tin cậy của những đánh giá về công ty sẽ càng chắc chắn hơn. Khi chúng ta nhìn vào bản danh sách những chứng khoán Buffett sở hữu cũng như những công ty mà Berkshire sở hữu, chúng ta sẽ bất ngờ trước khả năng tiên liệu đó. Phần ‘’chiết khấu’’ trong bản báo cáo rõ ràng là ám chỉ giá chứng khoán. Khi biết Buffett thích mua chứng khoán có khả năng dự đoán tình trạng kinh tế cao ở mức giá thấp hơn giá trị thực, chúng ta có thể kết luận rằng khi hoạt động mua của ông bất ngờ chững lại chứng tỏ có sự thiếu hụt lựa chọn trên đấu trường này. Tôi tin chắc rằng, nếu hiện nay Coca-Cola, Gillette, hoặc các công ty khác bán cổ phiếu với giá 20 xu, thì Buffett sẽ đưa thêm nhiều cổ phiếu hơn nữa vào danh mục đầu tư của Berkshire. Chúng ta biết nguyên tắc đầu tư của Warren Buffett là chỉ kinh doanh trong “vòng tròn khả năng”. Hãy coi vòng tròn khả năng này như quá trình tích luỹ kinh nghiệm của bạn. Nếu một người nào đó điều hành thành công một ngành kinh doanh nào đó trong một thập kỷ hoặc hơn, chúng ta nói rằng người đó có trình độ năng lực cao để đạt được mục tiêu. Tuy vậy, nếu một người chỉ có rất ít năm kinh nghiệm điều hành một ngành kinh doanh mới, chúng ta sẽ có lý do nghi ngờ trình độ, khả năng của người đó. Có lẽ trong suy nghĩ của Buffett, kinh nghiệm điều hành và nghiên cứu kinh doanh danh mục đầu tư của Berkshire đặt ra vòng tròn khả năng quá cao đến mức khó đạt được một trình độ tương tự đối với am hiểu một ngành mới. Vì vậy, có lẽ Buffett đang gặp phải tình huống tiến thoái lưỡng nan. Với vòng tròn khả năng của ông, những loại chứng khoán ông thích mua hiện không được bán với mức giá chiết khấu. Cùng lúc đó, bên ngoài vòng tròn khả năng của ông, những doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn đang dần đi vào hoạt động trong những ngành mới mà không đạt được mức độ chắc chắn về mặt kinh tế cao như Buffett yêu cầu. Nếu phân tích này đúng, nó lý giải nguyên nhân tại sao trong vài năm trở lại đây, ông không thực hiện vụ mua bán chứng khoán nào lớn. Chúng ta thực sự ngốc nghếch khi giả thiết rằng bởi vì danh mục chứng khoán sẵn sàng để đầu tư đang giảm dần, nên Warren Buffett không có sự lựa chọn đầu tư nào. Chắc chắn, ông vẫn tích cực chủ động trong thị trường chứng khoán lợi tức cố định, gồm nắm giữ trái phiếu lợi tức cao trong năm 2002. Ông cũng cảnh báo về mua bán song hành theo chu kỳ, nhưng cần phải xem xét khoản vốn đầu tư Buffett cần để đầu tư nhằm thu được những khoản lợi nhuận lớn, các thị trường mua bán song hành có lẽ không mang lại lợi nhuận như trước đây nữa. Song, những cổ đông của Berkshire Hathaway không nên cảm thấy họ đang bị tước đi các cơ hội. Thông thường, các cổ đông quên mất một trong những nguyên tắc kinh doanh quan trọng nhất có liên quan tới chủ sở hữu mà Buffett vạch ra mỗi năm trong bản báo cáo thường niên. Nguyên lý thứ tư chỉ ra rằng: “Mức độ ưu tiên sẽ giúp chúng ta đạt được mục tiêu (tối đa hoá tỉ lệ lợi nhuận trung bình thường niên của Berkshire) thông qua việc sở hữu trực tiếp một nhóm các ngành kinh doanh đa dạng tạo ra tiền mặt và luôn thu được mức lợi nhuận trên vốn vượt mức trung bình. Lựa chọn thứ hai của chúng ta là sở hữu cổ phần của những doanh nghiệp đạt được thành công ban đầu bằng cách mua bán những cổ phiếu thường trên thị trường. Trong những năm mới khởi sự, Berkshire sở hữu những cổ phiếu thường có giá trị kinh tế nhất. Hiện tại, khi giá cổ phiếu thường tăng đáng kể và sức mua cổ phiếu của Berkshire phát triển nhanh chóng, chiến lược mua lại toàn bộ các công ty từng được Buffett tuyên bố là ưu tiên hàng đầu. Cũng có một nhân tố cá nhân ở đây. Chúng ta biết, Buffett rất thích mối quan hệ của ông với các Giám đốc Điều hành và rất tự hào về các hoạt động kinh doanh của Berkshire. Ngược lại, sự lo lắng khi là một cổ đông của các công ty thương mại, với những vấn đề về thù lao điều hành và chiến lược tái đầu tư vốn đầy nghi ngờ đi kèm với quyền sở hữu, khiến việc trở thành một cổ đông không còn hấp dẫn với Buffett như trước đây. Nếu nền kinh tế không hấp dẫn, vậy tại sao Buffett lại lựa chọn để phải chịu đựng sự thất bại trong quản lý công ty kết hợp với việc là một cổ đông lớn? Hoạt động duy nhất mà Buffett tham gia điều hành hoạt động kinh doanh của Berkshire là đặt ra mức thù lao điều hành và phân bổ lợi nhuận. Bên trong thế giới của Berkshire, có những quyết định rất hợp lý. Bên ngoài thị trường chứng khoán, các quyết định thù lao điều hành và phân bổ nguồn vốn không phải lúc nào cũng hợp lý. Điều đó có nghĩa gì đối với các nhà đầu tư cá nhân? Bởi vì Buffett không chủ động tham gia vào thị trường chứng khoán, nên họ cũng không tự động rút lui? Chiến lược lựa chọn của Buffett là mua đứt các công ty trong ngành kinh doanh, một lựa chọn mà đa số các nhà đầu tư đều không làm được. Vậy, họ nên tiến hành đầu tư như thế nào? Có hai lựa chọn rất rõ ràng. Một là tiến hành đầu tư theo Berkshire Hathaway, và cũng tham gia vào tình trạng kinh tế của những ngành kinh doanh đáng chú ý. Lựa chọn thứ hai là áp dụng phương pháp đầu tư của Buffett, mở rộng vòng tròn khả năng của bạn bằng cách chăm chỉ nghiên cứu những mô hình kinh doanh của các công ty đang tham gia vào khu vực Kinh tế Mới, và bắt đầu khởi sắc. Tôi tin rằng những nguyên lý cơ bản giúp Buffett luôn đưa ra quyết định dứt khoát và chúng sẽ tiếp tục mang đến cơ hội cho những nhà đầu tư thận trọng làm tốt hơn khi đầu tư vào chỉ số S&P 500. Mục đích của cuốn sách này là trình bày những nguyên lý đó theo cách mà các nhà đầu tư thận trọng có thể hiểu và sử dụng được. 2. HỌC VẤN CỦA WARREN BUFFETT Rất ít người có thể tiến gần tới kỷ lục đầu tư của Warren Buffett, và sự thực là không ai có thể vượt kỷ lục này. Suốt bốn thập kỷ chứng kiến những thăng trầm của thị trường chứng khoán, ông vẫn tiếp tục gặt hái những thành công mà không ai có thể sánh kịp. Việc ông làm không có gì là hào nhoáng, thậm chí đôi khi còn rất không thiện ý. Tuy vậy, hết lần này đến lần khác, ông đánh bại những nhà đầu tư khác - những người mà hành động mạo hiểm mang lại cho họ thành công tạm thời, và danh tiếng nhất thời. Rồi, ông quan sát, mỉm cười và tiếp tục con đường của mình. Vậy Buffett đúc kết triết lý đầu tư của mình như thế nào? Ai là người có ảnh hưởng tới lối suy nghĩ của ông, và ông kết hợp những hướng dẫn của họ vào thực tiễn ra sao? Hay nói cách khác, thiên tài đặc biệt tạo ra sự khác biệt như thế nào? Phương pháp đầu tư của Warren Buffett là của riêng ông, tuy vậy nó dựa trên những triết lý được lĩnh hội từ bốn nhân vật nổi tiếng: Benjamin Graham, Philip Fisher, John Burr Williams, và Charles Munger. Chính họ ảnh hưởng tới những kiến thức tài chính của Buffett, cả chính thức và không chính thức. Ba người đầu tiên là những nhà giáo dục cổ điển, và người cuối cùng vừa là cộng sự, vừa là người bạn chí cốt của ông. Tất cả đều có ảnh hưởng quan trọng tới lối suy nghĩ của Buffett. Họ đều có rất nhiều lý thuyết để cung cấp cho nhà đầu tư hiện đại. Benjamin Graham Graham được coi là một nhân vật xuất chúng trong phân tích tài chính. Ông xứng đáng với danh hiệu này bởi “trước ông không hề có nghề phân tích tài chính chuyên nghiệp và sau ông, người ta bắt đầu gọi tên nó như thế”. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Securities Analysis (Phân tích chứng khoán), đồng tác giả với David Dodd, được xuất bản lần đầu năm 1934; và tác phẩm The Intelligent Investor (Nhà đầu tư thông minh), được xuất bản lần đầu năm 1949. Phân tích chứng khoán xuất hiện chỉ vài năm sau đợt khủng hoảng thị trường chứng khoán năm 1929 và giữa cuộc suy thoái trầm trọng của nước Mỹ. Trong khi những học giả khác tìm kiếm lời giải thích cho hiện tượng kinh tế, thì Graham lại giúp đỡ mọi người giành lại vị thế vững chắc về tài chính và tiếp tục đầu tư để thu về lợi nhuận. Graham bắt đầu sự nghiệp tại phố Wall với nghề đưa tin tức tại công ty môi giới Newburger, Henderson &Loeb, niêm yết giá cổ phiếu và trái phiếu trên bảng với mức lương 12 đô la một tuần. Từ một người đưa tin tức, ông tiếp tục phát triển sự nghiệp với việc viết các bản báo cáo nghiên cứu và sớm được chấp nhận là một thành viên của công ty. Đến năm 1919, mức lương của ông tăng lên 600 nghìn đô la một năm. Lúc đó, ông 25 tuổi. Năm 1926, cùng với Jerome Newma, Graham thành lập Công ty hợp danh đầu tư. Mười ba năm sau, chính công ty này đã thuê Warren Buffett. Graham-Newman sống sót qua cuộc khủng hoảng 1929, cuộc Đại khủng hoảng, Chiến tranh Thế giới thứ hai, và chiến tranh Triều Tiên trước khi bị giải thể vào năm 1956. Từ năm 1928 đến hết năm 1956, khi đang làm việc cho Graham - Newman, Graham tham gia giảng dạy các khoá học buổi tối về tài chính tại Đại học Columbia. Rất ít người biết rằng, trong cuộc Đại khủng hoảng năm 1929, Graham bị thiệt hại nặng nề về tài chính. Lần thứ hai trong cuộc đời, (lần đầu xảy ra khi cha ông qua đời, để lại một gia đình không hề được đảm bảo về mặt tài chính), Graham bắt đầu xây dựng lại cơ nghiệp. Nơi trú ẩn của giới học thuật mang đến cho ông cơ hội để suy ngẫm. Cùng với những ý kiến đóng góp của David Dodd, cũng là một giáo sư tại Đại học Columbia, Graham viết một tác phẩm mà sau đó trở thành một chuyên luận kinh điển về đầu tư thận trọng: Phân tích chứng khoán. Graham và Dodd đã có hơn 15 năm kinh nghiệm đầu tư. Hai người mất bốn năm để hoàn thành cuốn sách. Về bản chất, Phân tích chứng khoán là một danh mục đầu tư chứng khoán thường đa dạng, được lựa chọn kỹ lưỡng dựa trên cơ sở giá cả hợp lý, hứa hẹn những vụ đầu tư hoàn hảo. Từng bước, từng bước đầy thận trọng, Graham giúp các nhà đầu tư nhìn ra logic trong phương pháp của ông. Khó khăn đầu tiên đó là Graham phải giải quyết sự thiếu hụt định nghĩa chung về đầu tư để giúp khái niệm này thực sự khác biệt với đầu cơ. Xem xét tính phức tạp của vấn đề, Graham đưa ra định nghĩa riêng: “Đầu tư là một hoạt động dựa trên phân tích kỹ lưỡng, hứa hẹn sự an toàn của nguồn vốn và một lợi nhuận thoả đáng. Những hoạt động không đáp ứng được các yêu cầu này là đầu cơ”. Ở đây, Graham muốn nói gì khi dùng từ “phân tích kỹ lưỡng’’? Chỉ đơn giản là: “Một nghiên cứu cẩn thận về số liệu thực tế nhằm cố gắng rút ra những kết luận dựa trên các nguyên lý đã được xây dựng và tính logic hoàn hảo’’. Phần tiếp theo trong định nghĩa của Graham có tính chất bình phẩm: Một vụ đầu tư thực sự phải có hai tiêu chuẩn là mức độ an toàn nhất định của nguồn vốn và tỉ lệ lợi nhuận thoả đáng. Theo ông, tính an toàn không hề tuyệt đối. Những sự cố bất ngờ hoặc không chắc chắn có thể biến một trái phiếu an toàn thành không trả được nợ. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư nên tìm kiếm những thứ được coi là an toàn từ sự thất bại. Lợi nhuận thoả đáng - Yếu tố cần thiết thứ hai - không chỉ bao gồm lợi tức mà còn cả sự gia tăng trong giá cả. Graham nhấn mạnh “sự thoả đáng” là một thuật ngữ chủ quan. Lợi tức có thể bao nhiêu cũng được, tuy nhiên không được thấp, chỉ cần các nhà đầu tư hành động khôn ngoan và tôn trọng triệt để định nghĩa đầy đủ về đầu tư. Vào khoảng giữa những năm 1929 và 1932, Graham đưa ra định nghĩa này và khi trái phiếu trung bình Dow Jones giảm từ 97,70 điểm xuống còn 65,78 điểm, trái phiếu từ lâu không còn bị coi là những vụ đầu tư thuần túy thiếu cân nhắc. Giống như cổ phiếu, trái phiếu mất giá trị đáng kể và rất nhiều công ty đã bị phá sản. Vì vậy, chúng ta cần phân biệt rạch ròi giữa những đặc điểm đầu tư của cả cổ phiếu và trái phiếu với bản sao đầu cơ của chúng. Graham biến khái niệm đầu tư hoàn hảo thành một khẩu hiệu mà ông gọi là “biên độ an toàn”. Với khẩu hiệu này, ông đưa ra một phương pháp độc nhất trong đầu tư cả chứng khoán, cổ phiếu và trái phiếu. Thực chất, biên độ an toàn tồn tại khi chứng khoán được bán với mức giá thấp hơn giá trị thực. Trong những năm 1930 và 1940, khái niệm mua chứng khoán dưới giá trị mà không quan tâm tới mức giá thị trường là một ý kiến mới lạ. Mục tiêu của Graham là thực hiện một chiến lược như vậy. Theo Graham, đưa ra một khái niệm về biên độ an toàn cho trái phiếu không quá khó. Chúng ta không cần xác định chính xác lợi tức tương lai của một công ty nhưng lại cần lưu ý sự chênh lệch giữa lợi nhuận và chi phí cố định. Nếu biên độ an toàn đủ lớn, nhà đầu tư sẽ được bảo vệ trước sự giảm giá đột ngột trong thu nhập của công ty. Ví dụ, nếu một nhà phân tích tổng kết lịch sử hoạt động của một công ty và phát hiện ra rằng, trung bình năm năm trước đây công ty đạt mức lợi nhuận hàng năm gấp năm lần chi phí cố định thì trái phiếu của công ty đó có biên độ an toàn. Thử nghiệm thực tế đã chứng minh khả năng của Graham áp dụng lý luận đó đối với cổ phiếu thường. Ông đưa ra lý do là nếu phần chênh lệch giữa giá một cổ phiếu và giá trị nội tại của một công ty đủ lớn, thì chúng ta có thể sử dụng khái niệm biên độ an toàn để lựa chọn cổ phiếu. Để thực hiện có hệ thống chiến lược này, Graham thừa nhận, các nhà đầu tư cần biết cách xác định loại cổ phiếu nào đang bị định giá dưới giá trị thực. Điều đó có nghĩa là họ cần một phương pháp xác định giá trị nội tại của một công ty. Khái niệm về giá trị nội tại của một công ty mà Graham nêu ra trong Phân tích Chứng khoán, là giá trị “được xác định bằng số liệu thực tế”. Những số liệu thực tế này bao gồm tài sản của công ty, lợi tức và cổ tức, và bất kỳ triển vọng tương lai nào của công ty. Graham thừa nhận rằng, nhân tố quan trọng duy nhất để xác định giá trị của một công ty là mức doanh lợi tương lai. Nói đơn giản, giá trị nội tại của một công ty được tìm ra bằng cách ước tính lợi nhuận của công ty và nhân lợi nhuận với một nhân tố vốn thích hợp. Tính ổn định của lợi nhuận, tài sản, chính sách cổ tức và tình trạng tài chính lành mạnh của công ty có ảnh hưởng tới nhân tố vốn này. Graham yêu cầu chúng ta chấp nhận rằng giá trị thực là một khái niệm khó hiểu. Nó khác biệt hoàn toàn với giá niêm yết trên thị trường. Trước tiên, giá trị thực thường được hiểu giống giá trị sổ sách của một công ty, hoặc tổng tài sản thực trừ đi nợ. Khái niệm này dẫn tới sự tin tưởng ban đầu rằng giá trị thực là rõ ràng. Tuy vậy, các phân tích chỉ ra rằng giá trị của một công ty không chỉ là giá trị tài sản thực mà còn bao gồm giá trị lợi nhuận do những tài sản này sinh ra. Graham đề xuất ý kiến rằng không cần xác định chính xác giá trị thực của một công ty. Thay vào đó, các nhà đầu tư nên chấp nhận phương pháp khoảng giá trị. Thậm chí, một giá trị tương đối so với giá bán sẽ đủ để đánh giá biên độ an toàn. Theo Graham, có hai quy tắc trong đầu tư. Quy tắc thứ nhất là đừng để thua lỗ. Quy tắc thứ hai là đừng quên quy tắc thứ nhất. Triết lý “đừng để thua lỗ” là kim chỉ nam hướng Graham tới hai phương pháp lựa chọn cổ phiếu thường gắn với biên độ an toàn. Phương pháp thứ nhất là mua một công ty với giá thấp hơn 2/3 giá trị tài sản ròng của nó còn phương pháp thứ hai là tập trung vào những cổ phiếu có tỉ lệ giá thị trường và lợi nhuận ròng trên mỗi cổ phiếu của công ty (chỉ số P/E) thấp. Mua chứng khoán với giá thấp hơn 2/3 giá trị tài sản ròng rất phù hợp với khả năng phán đoán của Graham và thoả mãn mong muốn lý giải trên cơ sở tính toán của ông. Graham không quá quan tâm tới nhà xưởng, bất động sản và trang thiết bị của một công ty. Hơn nữa, ông đã khấu trừ toàn bộ khoản phải trả trong ngắn hạn và dài hạn của công ty. Khoản còn lại sẽ là giá trị tài sản ròng hiện tại. Graham giải thích, nếu giá cổ phiếu ở dưới giá trị mỗi cổ phần, biên độ an toàn đã tồn tại và việc mua vào được đảm bảo. Graham coi đây là một biện pháp đầu tư hết sức dễ hiểu, nhưng ông thừa nhận rằng chờ đợi thị trường điều chỉnh trước khi đầu tư có thể là bất hợp lý. Ông bắt đầu xây dựng phương pháp thứ hai để mua cổ phiếu. Ông tập trung mua những cổ phiếu đang giảm giá và được bán với tỉ lệ P/E thấp. Thêm vào đó, công ty phải có giá trị tài sản ròng; nợ của công ty phải ít hơn giá trị của công ty. Qua nhiều năm, nhiều nhà đầu tư khác đã tìm kiếm con đường tắt tương tự để xác định giá trị thực của cổ phiếu. Tỉ lệ P/E thấp là một lựa chọn chung. Tuy vậy, chúng ta biết rằng, đưa ra quyết định chỉ dựa vào tỉ lệ P/E không đủ để đảm bảo lợi nhuận. Ngày nay, hầu hết các nhà đầu tư dựa vào định nghĩa có giá trị kinh điển của John Burr Williams, được mô tả ở phần sau của chương này: giá trị của bất kỳ vụ đầu tư nào là giá trị hiện tại được chiết khấu của dòng tiền tương lai. Những ý tưởng cơ bản nhất về đầu tư là xem xét các cổ phiếu như các công ty dưới góc độ kinh doanh, biến những biến động của thị trường thành lợi thế của mình và tìm kiếm một biên độ an toàn. Đó là điều Ben Graham dạy chúng ta. Một trăm năm sau, chúng sẽ vẫn là nền tảng của đầu tư. WARREN BUFFETT, 1994 Cả hai phương pháp của Graham - mua cổ phiếu với giá thấp hơn 2/3 giá trị tài sản ròng và mua cổ phiếu với tỉ lệ P/E thấp - có một đặc điểm chung. Cổ phiếu mà Graham lựa chọn dựa trên những phương pháp này thường không được thị trường ủng hộ. Một số sự kiện vĩ mô hoặc vi mô khiến thị trường định giá những cổ phiếu này thấp hơn giá trị thực. Graham cảm thấy rõ ràng rằng những cổ phiếu, được định giá “thấp không công bằng’’ là những vụ mua bán hấp dẫn. Kết luận của Graham dựa trên một số giả thuyết cụ thể. Trước hết, ông tin rằng thị trường thường định giá cổ phiếu theo cảm giác lo sợ hoặc tham lam của con người. Ở đỉnh cao của sự lạc quan, tính tham lam đẩy giá cổ phiếu lên mức cao hơn giá trị thực, tạo ra thị trường định giá quá cao. Tại những thời điểm khác, nỗi sợ hãi đẩy giá xuống thấp hơn giá trị thực, tạo ra thị trường định giá thấp. Giả thuyết thứ hai của ông dựa trên hiện tượng có tính chất thống kê được gọi là “sự trở lại giá trị trung bình”, mặc dù ông không sử dụng thuật ngữ đó. Nói cách khác, ông dẫn lời nhà thơ Horace: “Nhiều thứ hiện tại đang sa sút sẽ được phục hồi và nhiều thứ hiện tại vinh quang sẽ sa sút”. Tuy vậy, như nhà thống kê hay nhà thơ đã phát biểu, Graham tin rằng một nhà đầu tư sẽ thu lợi nhuận từ những tác động đúng đắn vào thị trường thiếu hiệu quả. Philip Fisher Trong khi Graham đang viết cuốn Phân tích chứng khoán, thì Philip Fisher khởi nghiệp với nghề tư vấn đầu tư. Sau khi tốt nghiệp trường Quản trị Kinh doanh Stanford, Fisher bắt đầu làm việc với tư cách là nhân viên phân tích chứng khoán cho Anglo London&Paris National Bank tại San Francisco. Trong khoảng gần hai năm, ông trở thành trưởng phòng thống kê của ngân hàng. Chính từ vị trí này, ông chứng kiến vụ sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929. Sau một khoảng thời gian ngắn làm việc không hiệu quả với phòng môi giới chứng khoán địa phương, Fisher quyết định mở công ty tư vấn đầu tư của riêng mình. Ngày 1 tháng Ba năm 1931, công ty Fisher&Company chính thức bắt đầu tư vấn cho khách hàng. Tại Stanford, một trong những lớp học kinh doanh yêu cầu Fisher phải đi cùng thày giáo tới thăm thường kỳ các công ty tại khu vực San Francisco. Tại đây, người thày lắng nghe các nhà quản lý kinh doanh nói về hoạt động của họ, và giúp đỡ họ giải quyết những vấn đề trước mắt. Trở lại Stanford, Fisher và người thày của ông tóm lược lại những gì họ quan sát từ các công ty và những nhà quản lý mà họ đã tới thăm. Fisher nói: “Thời gian đó là khoá học đào tạo hữu ích nhất mà tôi được học’’. Từ những kinh nghiệm này, Fisher tin tưởng rằng mọi người sẽ thu được những khoản lợi nhuận tối ưu bằng cách: (1) đầu tư vào những công ty có tiềm năng trên mức trung bình và (2) kết hợp bản thân chúng với khả năng quản lý chuyên nghiệp nhất. Để lựa chọn đúng những công ty đặc biệt này, Fisher phát triển một hệ thống điểm đánh giá phân loại thông qua các đặc điểm kinh doanh và quản lý của công ty. Đối với cách phân loại thứ nhất - những công ty có tiềm năng trên mức trung bình - đặc điểm gây ấn tượng mạnh mẽ nhất đối với Fisher là tỷ lệ tăng trưởng doanh số bán hàng qua nhiều năm của một công ty lớn hơn tỉ lệ trung bình của ngành. Sự tăng trưởng đó là sự kết hợp của hai nhân tố: đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu triển khai (R&D), và một doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả. Một công ty sẽ phát triển được những sản phẩm và dịch vụ vượt trội chỉ khi được “kinh doanh chuyên nghiệp’’, nếu không nỗ lực nghiên cứu và triển khai sẽ không bao giờ biến thành doanh thu. Tuy vậy, theo quan điểm của Fisher, tiềm năng của thị trường chỉ làm nên một nửa câu chuyện, phần còn lại là những khoản lợi nhuận thích hợp. “Doanh số tăng sẽ không tạo ra phương tiện đầu tư thích hợp nếu qua nhiều năm, lợi nhuận không tăng trưởng tương ứng’’. Theo đó, Fisher nghiên cứu lợi nhuận biên của một công ty, những nỗ lực duy trì và cải thiện những đường biên này, và cuối cùng là phân tích chi phí và kiểm soát tài chính. Theo Fisher, không có công ty nào có thể duy trì lợi nhuận ổn định, trừ khi giảm các chi phí kinh doanh Fisher cũng hiểu rằng không thể cắt giảm chi phí của mỗi bước trong quá trình sản xuất. Ông giải thích để cắt giảm chi phí, một công ty phải thấm nhuần việc kiểm soát tài chính thích hợp và phân tích chi phí. Fisher lưu ý, chi phí thông tin sẽ cho phép một công ty trực tiếp chuyển nguồn lực thành các sản phẩm hay dịch vụ với tiềm năng kinh tế cao nhất. Hơn thế nữa, kiểm soát thanh toán sẽ giúp xác định những sai sót trong cách điều hành công ty. Những sai sót trong điều hành công ty hay điều hành không hiệu quả này đóng vai trò như một thiết bị cảnh báo nhằm bảo vệ toàn bộ khả năng lợi nhuận của công ty. Sự nhạy cảm của Fisher về khả năng lợi nhuận của một công ty dẫn đến một mối lo ngại khác: Khả năng phát triển trong tương lai của một công ty không yêu cầu cung cấp thêm vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Ông nói, nếu một công ty phát triển chỉ bằng cách bán cổ phiếu, thì số lượng cổ phiếu lớn hơn còn tồn sẽ huỷ bỏ bất kỳ khoản phúc lợi nào mà các cổ đông có thể nhận được từ sự tăng trưởng của công ty. Fisher giải thích rằng, một công ty với lợi nhuận biên cao có khả năng tạo ra quỹ nội bộ tốt hơn và vì vậy sẽ duy trì mức tăng trưởng mà không cần phải ”pha loãng’’ quyền sở hữu với những cổ đông hiện tại. Tiêu chuẩn thứ hai của Fisher để xác định những công ty vượt trội là chất lượng quản lý. Ông tin rằng, những nhà quản lý cấp cao kiên quyết phát triển sản phẩm và dịch vụ mới, qua đó tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng doanh thu trong dài hạn sau khi những sản phẩm hay dịch vụ hiện tại đã được khai thác triệt để. Ban quản lý nên đề ra những chính sách để đảm bảo duy trì số tiền lãi liên tục trong 10 hoặc 20 năm, thậm chí phải hạ thấp tầm quan trọng của lợi nhuận trước mắt. Ông nhấn mạnh hạ thấp chứ không hi sinh. Nhà quản lý trên cấp trung bình có thể đưa ra những kế hoạch dài hạn của công ty trong khi vẫn tập trung vào những hoạt động điều hành hàng ngày. Một đặc điểm mà Fisher coi là có ý nghĩa then chốt: Liệu một doanh nghiệp có được quản lý liêm chính và trung thực không? Liệu các nhà quản lý có cư xử như thể họ là những người đáng tin cậy đối với các cổ đông, hay chỉ quan tâm tới lợi ích của riêng mình? Fisher bật mí một cách xác định mục đích của họ. Đó là quan sát cách các nhà quản lý giao tiếp với cổ đông. Một hoạt động kinh doanh, dù tốt hay xấu, đều phải trải qua những giai đoạn khó khăn không mong đợi. Nói chung, khi hoạt động kinh doanh thuận lợi, nhà quản lý có thể nói tuỳ thích, nhưng khi công ty lâm vào tình trạng suy thoái, thì một số nhà quản lý ngồi im thin thít. Fisher lưu ý rằng cách ban quản lý phản ứng trước khó khăn nói lên rất nhiều điều về công ty. Ông đưa ra ý kiến, với một doanh nghiệp thành công, thì ban quản lý cũng phải xây dựng mối quan hệ công việc tốt đẹp với mọi nhân viên. Nhân viên nên cảm thấy công ty của họ là nơi làm việc lý tưởng. Những nhân viên lao động tay chân nên cảm thấy họ được đối xử tôn trọng và theo đúng phép tắc. Những nhân viên điều hành nên cảm thấy sự thăng tiến dựa vào năng lực, chứ không phải do sự thiên vị. Fisher cũng xem xét mức độ sâu sắc của quản lý. Ông hỏi, liệu một Giám đốc Điều hành có một đội ngũ nhân viên tài năng và liệu CEO có thể uỷ quyền để điều hành một phần của công ty hay không? Cuối cùng, Fisher nghiên cứu một doanh nghiệp cụ thể và những đặc điểm quản lý của một công ty và so sánh nó với những doanh nghiệp khác trong cùng ngành. Trong nghiên cứu này, Fisher cố gắng khám phá ra những manh mối giúp ông hiểu được sự vượt trội của một công ty so đối thủ cạnh tranh. Ông kết luận, chỉ đọc những báo cáo tài chính của một công ty không đủ để đánh giá một vụ đầu tư. Ông giải thích, điều cần thiết trong đầu tư thận trọng là càng khám phá nhiều về một công ty từ những cá nhân quen thuộc với công ty thì càng tốt. Fisher thừa nhận điều này là một yêu cầu quản lý thông tin mà ông gọi là ‘’tin đồn’’. Ngày nay, chúng ta gọi nó là “tin vịt” trong kinh doanh. Fisher khẳng định nếu kiểm soát hợp lý tin đồn sẽ cung cấp cho nhà đầu tư những đầu mối quan trọng để xác định những vụ đầu tư đáng chú ý. Nghiên cứu về tin đồn của Fisher khiến ông phải tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin. Ông nói chuyện với khách hàng và những người bán rong. Ông tìm kiếm những nhân viên cũ cũng như những nhà tư vấn từng làm việc cho công ty. Ông liên lạc với những nhà nghiên cứu khoa học của các trường đại học, nhân viên chính phủ, và những nhà điều hành hiệp hội thương mại. Ông trò chuyện với các đối thủ cạnh tranh. Mặc dù những nhà điều hành đôi khi ngần ngại bật mí quá nhiều về công ty của họ, nhưng Fisher phát hiện ra rằng họ luôn nói nhiều về các đối thủ cạnh tranh. Hầu hết các nhà đầu tư đều không sẵn sàng dành thời gian và sức lực mà Fisher cho là cần thiết để hiểu một công ty. Phát triển mạng lưới tin đồn và sắp xếp những cuộc phỏng vấn rất tốn thời gian. Tái tạo quá trình tin đồn cho mỗi một công ty dưới sự giám sát có thể làm kiệt sức. Fisher tìm ra một cách thức đơn giản để giảm khối lượng công việc - ông giảm tối đa số lượng công ty mà ông sở hữu. Ông luôn nói rằng ông thích sở hữu một số ít công ty nổi bật hơn là nhiều công ty trung bình. Nói chung, danh mục đầu tư của ông ít hơn 10 công ty, và thường là có ba tới bốn công ty chiếm 75% tổng số danh mục tài sản của ông. Fisher tin rằng, để thành công, nhà đầu tư chỉ cần làm một số việc thật tốt. Một trong số đó là chỉ đầu tư vào những công ty nằm trong vòng tròn khả năng của họ. Bản thân Fisher từng phạm phải sai lầm ngay từ khi khởi nghiệp. “Tôi bắt đầu đầu tư bên ngoài phạm vi ngành kinh doanh mà tôi tin là tôi hiểu thấu đáo, và một số hoạt động xảy ra ngoài tầm hiểu biết của tôi”. John Burr Williams John Burr Williams tốt nghiệp trường Đại học Harvard năm 1923 và tiếp tục theo học trường Kinh tế Harvard, nơi lần đầu tiên ông tiếp xúc với phương pháp phân tích chứng khoán và dự báo kinh tế. Sau khi rời Harvard, ông làm việc với tư cách một nhân viên phân tích chứng khoán tại hai công ty nổi tiếng ở Phố Wall. Ông làm việc tại đó suốt giai đoạn đầu của những năm 1920 và cuộc Đại khủng hoảng năm 1929. Kinh nghiệm đó khiến ông tin rằng để trở thành một nhà đầu tư giỏi, cũng cần phải trở thành một nhà kinh tế học giỏi. Vì vậy, trong năm 1932, ở tuổi 30 và đã là một nhà đầu tư tốt, ông đã ghi danh vào trường Khoa học và Nghệ thuật thuộc Đại học Harvard. Williams làm việc với một niềm tin kiên định rằng điều gì xảy ra trong nền kinh tế sẽ ảnh hưởng tới giá trị của cổ phiếu, nên quyết định tiếp tục học để trở thành tiến sĩ kinh tế học. Khi chọn đề tài luận án tiến sĩ, Williams xin lời khuyên của Joseph Schumpeter, một nhà kinh tế học người Áo nổi tiếng với lý thuyết sự phá huỷ sáng tạo, sau đó trở thành thành viên của khoa kinh tế học. Schumpeter đã gợi ý rằng Williams hãy xem xét “giá trị nội tại của một cổ phiếu thường”. Shumpeter cho rằng việc này phù hợp với kinh nghiệm và nền tảng học vấn của Williams. Sau đó, Williams nhận xét rằng, có lẽ Schumpeter có một lý do hoài nghi hơn: Đề tài sẽ giúp Williams không phải chạm chán với số sinh viên còn lại của khoa, “không ai trong số họ muốn thách thức ý kiến của tôi trong lĩnh vực đầu tư”. Tuy vậy, gợi ý của Schumpter chính là động lực cho luận án tiến sĩ nổi tiếng của Williams, đó là Lý thuyết đầu tư giá trị. Kể từ đó, lý thuyết này có ảnh hưởng tới các nhà phân tích và đầu tư tài chính. Williams hoàn thành luận án vào năm 1937. Mặc dù ông không bảo vệ luận án và trước sự phẫn nộ của một số giáo sư. Ông đã gửi tác phẩm của ông cho Macmillian để xuất bản. Macmillan từ chối. Và nhà xuất bản McGraw-Hill cũng vậy. Cả hai nhà xuất bản đều cho rằng cuốn sách có quá nhiều biểu tượng đại số. Cuối cùng, năm 1938, Williams tìm được nhà xuất bản Harvard University Press, nhưng chỉ sau khi ông chấp nhận trả một phần chi phí in ấn. Hai năm sau, Williams đã thi vấn đáp và sau một số tranh luận sôi nổi về nguyên nhân của cuộc Đại Khủng Hoảng, ông đã thi đỗ. Lý thuyết đầu tư giá trị là một tác phẩm kinh điển. Trong 60 năm, lý thuyết này đóng vai trò là nền tảng cho các nghiên cứu của rất nhiều các nhà kinh tế học nổi tiếng như Eugene Fama, Harry Markowitz, Franco Modigliani, và một số người khác. Warren Buffett gọi tác phẩm này là một trong những cuốn sách đầu tư quan trọng nhất. Lý thuyết của Williams, ngày nay được biết đến là mô hình chiết khấu cổ tức hay phân tích chiết khấu dòng tiền thực, đưa ra một phương thức đưa giá trị vào cổ phiếu hoặc trái phiếu. Giống như nhiều ý kiến quan trọng khác, lý thuyết này được đơn giản hoá thành quy tắc: Để biết một cổ phiếu ngày hôm nay đáng giá bao nhiêu, hãy ước tính dòng tiền mặt nhận được từ cổ phiếu đó trong tương lai và sau đó chiết khấu chúng để đưa về giá trị hiện tại. Đây là một phương pháp luận cơ sở mà Warren Buffett sử dụng để đánh giá cổ phiếu và các công ty. Buffett rút gọn lý thuyết của Williams như sau: “Giá trị của một doanh nghiệp được xác định bằng dòng tiền thực có thể rút ra từ doanh nghiệp trong thời gian hoạt động được chiết khấu với tỷ lệ chiết khấu hợp lý”. Williams mô tả: “Nuôi một con bò để lấy sữa, một con gà để lấy trứng; và một cổ phiếu, tất nhiên là để lấy cổ tức”. Mô hình của Williams là một quy trình gồm hai bước. Trước hết, ước tính lưu lượng tiền mặt để xác định giá trị trong tương lai và hiện tại của một công ty. Ước tính lưu lượng tiền mặt bằng cách nào? Một biện pháp tính toán nhanh chóng đó là số tiền cổ tức được chi trả cho các cổ đông. Đối với những công ty không phân phối lượng cổ tức, Williams tin rằng, theo lý thuyết, tất cả tiền lãi được giữ lại cuối cùng sẽ chuyển thành phần cổ tức. Khi một công ty đạt tới giai đoạn trưởng thành, công ty đó sẽ không cần tái đầu tư phần tiền lãi để tăng trưởng, vì vậy, ban quản lý bắt đầu phân phối tiền lãi dưới dạng cổ tức. Williams viết: “Nếu tiền lãi không được trả dưới dạng cổ tức thì đều được tái đầu tư thành công, sau đó số tiền lãi này sẽ sản sinh ra cổ tức; nếu không, số tiền này sẽ bị mất đi. Nói tóm lại, một cổ phiếu chỉ đáng giá bằng số tiền bạn thu được từ nó”. Bước thứ hai đó là chiết khấu những lưu lượng tiền mặt đã ước tính để đề phòng trường hợp bất chắc. Chúng ta có thể không bao giờ chắc chắn được về việc một công ty sẽ làm, sản phẩm của công ty đó sẽ được bán như thế nào hoặc việc ban quản lý sẽ làm hoặc không làm để cải thiện tình hình kinh doanh của công ty. Yếu tố rủi ro luôn tồn tại, đặc biệt là đối với cổ phiếu, mặc dù lý thuyết của Williams áp dụng công bằng đối với cả trái phiếu. Như vậy, chúng ta nên sử dụng cái gì như một tỉ lệ chiết khấu? Bản thân Williams không hề đề cập đến điểm này rõ ràng, ông tin rằng các độc giả của ông có thể tự xác định điều gì là hợp lý. Phương pháp đo lường của Buffett rất dễ hiểu: Ông sử dụng hoặc là tỉ lệ lãi suất trong dài hạn (có nghĩa là 10 năm) của trái phiếu Mỹ, hoặc là khi tỉ lệ lãi suất rất thấp, ông sử dụng tỉ lệ lợi tức tích luỹ trung bình của toàn bộ thị trường chứng khoán. Thông qua sử dụng tỷ lệ lãi suất với mức rủi ro bằng 0, Buffett sửa đổi bản luận án của Williams. Bởi vì Buffett giới hạn số cổ phiếu sẽ mua ở biên độ an toàn của Ben Graham, nên ông chắc chắn rằng rủi ro đã nằm trong bản thân giao dịch, và vì vậy ông tin rằng sử dụng tỉ lệ chiết khấu có rủi ro bằng 0 là hợp lý. Tác giả Peter Bernstein trong cuốn sách Capital Ideas (Những ý tưởng về vốn), viết rằng hệ thống của Graham là một tập hợp các quy tắc, trong khi mô hình chiết khấu cổ tức của Williams là một lý thuyết, nhưng “cả hai phương pháp đều đi tới đích là gợi ý những loại chứng khoán giống nhau để mua bán”. Warren Buffett sử dụng cả hai phương pháp và đạt được thành công vang dội. Charles Munger Khi Warren Buffett khởi đầu Công ty hợp danh đầu tư tại Omaha năm 1956, ông chỉ có hơn 100 nghìn đô la tiền vốn. Vì vậy, nhiệm vụ ban đầu là phải thuyết phục thêm những nhà đầu tư cùng góp vốn. Trong khi ông đang trình bày chiến lược kinh doanh chi tiết, tỉ mỉ với những người hàng xóm là tiến sĩ Edwin Davis và vợ thì đột nhiên Davis ngắt lời ông và bất ngờ thông báo rằng họ sẽ ủng hộ ông 100 nghìn đô la. Khi Buffett hỏi lý do, Davis trả lời rằng: “Bởi vì ông làm tôi nhớ tới Charlie Munger”. Vậy Charlie là ai? Mặc dù cả Buffett và Charlie đều trưởng thành tại Omaha và có nhiều bạn bè chung, nhưng thực tế họ không hề gặp nhau cho đến năm 1959. Vào thời gian đó, Munger chuyển tới phía Nam California, nhưng khi cha ông qua đời, ông đã quay trở về Omaha. Tiến sĩ David quyết định rằng đó là thời điểm thích hợp để hai người đàn ông trẻ tuổi gặp gỡ nên đã mời họ tới dùng bữa tối trong một nhà hàng địa phương. Đó là nơi khởi đầu cho một mối quan hệ hợp tác phi thường. Munger là con trai của một luật sư và là cháu trai của một thẩm phán liên bang, đã thành lập một văn phòng luật sư thành công tại Los Angeles, nhưng mối quan tâm của ông dành cho chứng khoán cũng rất lớn. Trong bữa ăn tối đầu tiên, cả hai người đàn ông trẻ tuổi nói chuyện về rất nhiều chủ đề, trong đó có cả chứng khoán. Kể từ đó, họ thường xuyên liên lạc với nhau, Buffett thường xuyên hối thúc Munger từ bỏ nghề luật sư và tập trung vào chứng khoán. Cùng một lúc, Munger làm cả hai việc. Năm 1962, ông thành lập một công ty hợp danh đầu tư giống như công ty của Buffett, trong khi vẫn tiếp tục duy trì văn phòng luật sư. Sau ba năm rất thành công, ông hoàn toàn từ bỏ văn phòng luật, mặc dù cho tới thời điểm này, ông vẫn có một văn phòng mang tên ông. Công ty hợp danh đầu tư của Munger tại Los Angeles, và của Buffett tại Omaha, đều có cùng phương pháp đầu tư. Cả hai đều tìm kiếm cơ hội mua cổ phiếu chiết khấu dưới giá trị thực. (Họ tận hưởng những kết quả giống nhau, cả hai đều vượt qua chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones với mức biên đầy ấn tượng). Sau đó, cũng không có gì ngạc nhiên khi họ mua cùng một số loại chứng khoán. Vào cuối những năm 1960, giống như Buffett, Munger bắt đầu mua cổ phiếu của Blue Chip Stamps, và cuối cùng trở thành Chủ tịch Hội đồng Quản trị của công ty đó. Khi Berkshire và Blue Chip Stamps sáp nhập năm 1978, ông trở thành Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Berkshire, và giữ vị trí này cho tới ngày nay. Mối quan hệ công việc giữa Munger và Buffett không được hợp thức hoá thành một hợp đồng hợp danh chính thức, nhưng qua nhiều năm, hai ông ngày càng trở nên thân thiết hơn, cộng sinh hơn. Thậm chí trước khi Munger tham gia Hội đồng Quản trị Berkshire, cả hai đã cùng nhau đưa ra nhiều quyết định đầu tư và thường bàn bạc ý kiến hàng ngày. Những công việc kinh doanh của họ dần trở nên gắn bó với nhau hơn. Ngày nay, Munger tiếp tục giữ chức vụ là Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Berkshire Hathaway và cũng đóng vai trò là Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Wesco Financial - công ty mà Berkshire sở hữu tới 80% và tiến hành nhiều vụ đầu tư tương tự. Về mọi mặt, ông đóng vai trò cộng sự đồng quản lý được thừa nhận và là một người bạn tuyệt vời của Buffett. Để hiểu được hai người thân thiết với như thế nào, chúng ta chỉ đếm trong các báo cáo của Buffett số lần xuất hiện câu “Charlie và tôi” đã làm điều này, hoặc quyết định điều đó, hoặc tin vào điều này, hoặc xem xét vấn đề đó, hoặc nghĩ điều này - như thể “Charlie và tôi” là tên một người vậy. Đối với mối quan hệ công việc của họ, Munger không chỉ nhạy bén về tài chính mà còn am hiểu luật kinh doanh. Ông cũng mang lại một triển vọng tri thức khá khác biệt với Buffett. Munger đặc biệt quan tâm tới kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau - khoa học, lịch sử, triết học, tâm lý học, toán học và tin rằng một lĩnh vực đều có những khái niệm quan trọng mà những con người thận trọng có thể và nên áp dụng cho tất cả nỗ lực của họ, bao gồm cả những quyết định đầu tư. Ông gọi chúng là “những ý tưởng lớn”, và chúng là nền tảng của khái niệm nổi tiếng của ông về “hàng rào mắt cáo của những mô hình trí tuệ” đối với các nhà đầu tư. Tất cả những mảng kiến thức này đều có mối liên hệ mật thiết với nhau - kiến thức tài chính, nền tảng luật pháp, và sự đánh giá cao những bài học từ các môn học khác – khiến triết lý đầu tư của Munger khác biệt với Buffett. Trong khi Buffett vẫn đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư với mức giá hợp lý, thì Munger tin vào việc trả một mức giá tương đối cho các công ty có chất lượng. Triết lý của ông rất có sức thuyết phục. Mua một công ty tuyệt vời với giá tương đối còn tốt hơn là mua một công ty tương đối với giá tuyệt vời. WARREN BUFFETT Chính Munger thuyết phục Buffett trả giá gấp ba lần giá trị sổ sách cho See’s Candy, cuối cùng đây là một thương vụ thành công (Xem đầy đủ câu chuyện tại Chương 4). Đó là khi suy nghĩ của Buffett bắt đầu thay đổi, và ông vui vẻ thừa nhận rằng chính Charlie đã đẩy ông tới một định hướng mới. Cả hai nhanh chóng thêm vào rằng khi bạn tìm thấy một công ty chất lượng cũng đồng thời đang được chào bán với giá chiết khấu, thì có nghĩa là bạn đã “đào đúng mạch dầu”. Hoặc, trong trường hợp của Berkshire, đó chính là điều tốt nhất tiếp theo: Coca-Cola (xem Chương 4). Một nguyên nhân khiến cho Buffett và Munger rất hoà hợp với nhau đó là cả hai người đều kiên quyết đối với những nguyên tắc kinh doanh cơ bản. Giống như Buffett từng chấp nhận mức tiền lãi thu được nghèo nàn trong ngành công nghiệp bảo hiểm và trong một thời gian đã từ chối ký kết các hợp đồng. Với Charlie, trong vai trò là CEO của Wesco, ông cũng từ chối các khoản vay khi phải đương đầu với ngành công nghiệp cho vay và các khoản tiết kiệm đầy bất chắc. Cả hai đều thể hiện những phẩm chất quản lý cần thiết để điều hành những công ty chất lượng cao. Các cổ đông của Berkhire Hathaway may mắn khi có được những cộng sự quản lý chăm sóc phần lợi tức của họ và giúp họ kiếm tiến trong tất cả các môi trường kinh tế. Trong tương lai, các cổ đông của Berkshire vẫn tiếp tục hưởng lợi không phải từ một, mà là từ hai cái đầu thông minh. Bước ngoặt của những ảnh hưởng Một thời gian ngắn sau khi Graham qua đời năm 1976, Buffett trở thành người quản lý được chỉ định cho phương pháp đầu tư giá trị của Graham. Thực sự, cái tên Buffett đồng nghĩa với đầu tư giá trị. Lý do thật đơn giản. Ông là một trong những học trò tận tâm nổi tiếng nhất của Graham, và Buffett không bao giờ bỏ lỡ cơ hội thừa nhận món nợ trí tuệ ông đã nợ Graham. Thậm chí ngày nay, Buffett vẫn coi Graham là người có ảnh hưởng nhiều nhất tới sự nghiệp đầu tư của ông sau cha ông. Vậy thì Buffett hoà hợp món nợ trí tuệ không thể trả Graham với các vụ mua cổ phiếu như Washington Post (năm 1973) và Coca-Cola (năm 1988) như thế nào? Mặc dù chưa bao giờ vượt qua được bài kiểm tra tài chính nghiêm ngặt về mua cổ phiếu của Graham, nhưng trong cả hai vụ mua lại trên, Buffett đã thực hiện những vụ đầu tư quan trọng. Đầu năm 1965, Buffett bắt đầu nhận ra rằng chiến lược mua cổ phiếu giá rẻ của Graham không còn lý tưởng nữa. Theo phương pháp tìm kiếm những công ty đang bán với giá thấp hơn vốn lưu động ròng của người thầy dày dặn kinh nghiệm, Buffett mua về những kẻ bại trận đích thực. Ông đã mua được rất nhiều công ty với giá rẻ (điều này phù hợp với bài kiểm tra về mua cổ phiếu của Graham) bởi vì những công ty này đang lâm vào tình trạng khủng hoảng. Từ những sai lầm đầu tư đầu tiên, Buffett bắt đầu dẹp bỏ những bài giảng nghiêm khắc của Graham. Ông thừa nhận: “Tôi đã tiến hoá, nhưng tôi không đi từ vượn thành người hay người thành vượn bằng một thái độ hoà nhã”. Ông bắt đầu đánh giá cao mặt chất lượng của một số công ty nhất định, trong mối quan hệ so sánh với mặt số lượng của những công ty khác. Tuy vậy, bản thân ông vẫn thấy mình sa vào việc tìm kiếm những món hời và thỉnh thoảng thu được những món hời kinh khủng. Ông thừa nhận: “Hình phạt của tôi là một nền giáo dục trong nền kinh tế của những nhà sản xuất cối xay (Dempster Mill Manufacturing), những cửa hàng hạng ba (Hochschild -Kohn), và các nhà sản xuất hàng dệt may New England (Berkshire Hathaway)”. Ông cũng thừa nhận rằng, sự phát triển của Buffett đã bị đình trệ bởi vì điều Graham dạy ông quá đáng giá. Khi đánh giá cổ phiếu, Graham không hề nghĩ về những đặc điểm cụ thể của các công ty. Ông không hề xem xét khả năng của ban quản lý. Ông hạn chế tìm hiểu, nghiên cứu trong phạm vi kết quả kinh doanh và những bản báo cáo thường niên. Nếu có một cơ hội kiếm tiền khi giá cổ phiếu thấp hơn giá trị tài sản của công ty, thì Graham đã mua công ty, bất chấp công việc kinh doanh và ban quản lý của công ty như thế nào. Để tăng xác suất thành công, ông mua càng nhiều cổ phiếu của các công ty có thống kê như vậy càng tốt. Nếu phương pháp giảng dạy của Graham hạn chế những quy tắc này, Buffett sẽ chẳng quan tâm mấy tới ông. Nhưng lý thuyết biên độ an toàn mà Graham nhấn mạnh quá quan trọng đến mức Buffett bỏ qua tất cả những hạn chế hiện tại khác trong phương pháp luận của Graham. Thậm chí cho tới bây giờ, Buffett vẫn tiếp tục ấp ủ ý tưởng ban đầu của Graham, lý thuyết Biên độ an toàn. Buffett ghi chép rằng: “40 năm sau khi đọc nó, tôi vẫn nghĩ chúng là những từ đúng”. Bài học chính yếu mà Buffett học từ Graham đó là đầu tư thành công liên quan tới mua chứng khoán khi giá thị trường đang ở mức chiết khấu đáng kể dưới giá trị kinh doanh. Cùng với lý thuyết biên độ an toàn đã trở thành nền tảng trí tuệ trong lối suy nghĩ của Buffett, Graham giúp Buffett đánh giá được sự hao công tốn sức của sự theo dõi dao động của thị trường chứng khoán. Graham dạy rằng chứng khoán có đặc điểm đầu tư và đặc điểm đầu cơ là kết quả của lòng tham và nỗi sợ hãi của con người. Những cảm xúc này, hiện hữu ở hầu hết các nhà đầu tư, khiến giá cổ phiếu biến động và quan trọng hơn là quá thấp hơn so với giá trị nội tại của một công ty, vì vậy “để lộ ra biên độ an toàn”. Graham đã dạy Buffett rằng nếu ông có thể bảo vệ bản thân trước những cơn lốc xúc cảm của thị trường chứng khoán, thì có một cơ hội khai thác những hành động bất hợp lý của những nhà đầu tư khác, những người mua cổ phiếu dựa trên cảm xúc, chứ không phải sự logic. Buffett học được cách suy nghĩ độc lập từ Graham. Graham tư vấn cho Buffett rằng nếu ông có được một kết luận logic dựa trên những phán đoán hợp lý, thì ông không nên lùi bước chỉ vì những người khác không tán thành. Ông viết: “Bạn không đúng hoặc sai bởi số đông không đồng ý với bạn. Bạn đúng bởi số liệu và lập luận của bạn đúng”. Trong nhiều trường hợp, Phil Fisher có ý kiến trái ngược với Ben Graham. Fisher tin rằng để đưa ra những quyết định hợp lý, nhà đầu tư cần phải có đầy đủ thông tin về một doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là họ cần phải điều tra tìm hiểu mọi khía cạnh của công ty. Họ cũng cần phải nhìn xa hơn những con số và hiểu biết về bản thân ngành kinh doanh bởi vì thông tin đó đóng vai trò quan trọng trong một thương vụ làm ăn thành công. Họ cũng cần phải nghiên cứu những đóng góp của ban quản lý công ty, vì khả năng quản lý có thể ảnh hưởng tới giá trị nội tại của doanh nghiệp. Họ nên biết càng nhiều càng tốt về ngành kinh doanh của công ty, và về các đối thủ cạnh tranh. Họ nên khai thác mọi nguồn thông tin. Khi xuất hiện trong chương trình truyền hình Money World của kênh truyền hình PBS năm 1993, Buffett được hỏi sẽ khuyên một nhà quản lý mới vào nghề điều gì. Ông trả lời: “Tôi sẽ bảo ông ta làm chính điều mà tôi đã làm cách đây hơn 40 năm, đó là tìm hiểu mọi công ty ở Mỹ đã phát hành cổ phiếu ra công chúng”. Người dẫn chương trình Adam Smith phản bác: “Nhưng có tới 27 nghìn công ty đã phát hành cổ phiếu”. Buffett trả lời: “Ồ, vậy thì hãy bắt đầu với các công ty vần A”. Fisher giúp Buffett hiểu được giá trị của tin đồn. Qua nhiều năm, Buffett phát triển một mạng lưới quan hệ rộng rãi với những người hỗ trợ ông khi đánh giá các doanh nghiệp. Cuối cùng, Fisher dạy Buffett về lợi ích của đầu tư tập trung. Ông tin rằng dạy các nhà đầu tư “đặt trứng vào nhiều giỏ” để giảm thiểu rủi ro là một sai lầm. Ông cảm thấy mối nguy hiểm khi mua quá nhiều cổ phiếu, khi các nhà đầu tư ngày càng không kiểm soát được tất cả “trứng” trong tất cả các “giỏ”. Theo quan điểm của ông, mua cổ phiếu của một công ty mà không dành thời gian để tìm hiểu công ty còn rủi ro hơn nhiều so với việc hạn chế đa dạng hoá. John Burr Williams mang đến cho Buffett một phương pháp luận xác định giá trị nội tại của một doanh nghiệp - là “viên đá tảng” cho phương pháp đầu tư của ông. Sự khác biệt giữa Graham và Fisher rất rõ ràng. Graham, nhà phân tích định lượng, chỉ nhấn mạnh những nhân tố có thể tính được: Tài sản cố định, tiền lãi hiện tại, và cổ tức. Nghiên cứu của ông chỉ hạn chế ở kết quả kinh doanh của công ty và các báo cáo thường niên. Ông không dành thời gian phỏng vấn khách hàng, đối thủ cạnh tranh và nhà quản lý. Phương pháp của Fisher hoàn toàn trái ngược với Graham. Fisher, nhà phân tích định tính, nhấn mạnh những yếu tố mà ông tin rằng làm tăng giá trị của một công ty: khả năng quản lý và triển vọng tương lai. Trong khi Graham chỉ quan tâm tới việc mua cổ phiếu giá rẻ, thì Fisher lại quan tâm tới việc mua những cổ phiếu của những công ty có tiềm năng tăng giá trị nội tại trong dài hạn. Ông tiến những bước xa hơn, bao gồm cả tiến hành những cuộc phỏng vấn mở rộng để tìm ra một số luồng thông tin có thể cải thiện quá trình lựa chọn. Theo Buffett, mặc dù phương pháp đầu tư của Fisher và Graham khác nhau, nhưng họ “song hành trong thế giới đầu tư”. Tận dụng cơ hội được tự do viết lại, tôi xin mạn phép sửa rằng thay vì song hành, trong cách giảng dạy Warren Buffett họ rất ăn khớp với nhau: Phương pháp đầu tư của Buffett kết hợp cả sự hiểu biết định tính về doanh nghiệp và ban quản lý của công ty đó (như Fisher dạy) và hiểu biết định lượng về giá cả và giá trị (như Graham dạy). Warren Buffett từng nói: “Tôi có 15% Fisher, và 85% Benjamin Graham”. Lời nhận xét đó được trích dẫn rộng rãi, nhưng điều quan trọng cần phải nhớ là ông nói điều đó vào năm 1969. Buffett dần thay đổi và rõ ràng chuyển hướng theo triết lý của Fisher về mua một số ít những công ty hiệu quả và sở hữu những công ty này. Tôi nghĩ, nếu ngày hôm nay ông vẫn tiếp tục làm như thế, thì sự cân bằng sẽ tiến gần tới con số 50/50 (50% Fisher - 50% Graham). Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Charlie Munger là người góp phần vào quá trình chuyển lối suy nghĩ của Buffett theo lối suy nghĩ của Fisher. Thực tế, chính Munger là hiện thân tích cực của những lý thuyết định tính của Fisher. Ngay từ đầu, Charlie đã đánh giá chuẩn xác về giá trị của một công ty tốt hơn, và sự thông minh khi trả một giá hợp lý. Qua nhiều năm cùng nhau làm việc, Charlie tiếp tục giảng giải về sự khôn khéo khi trả giá cho một thương vụ có lợi. Tuy vậy, xét theo một khía cạnh cụ thể quan trọng, Munger cũng là hiện thân hiện tại của Ben Graham. Những năm đầu tiên, Graham dạy Buffett hai sắc thái cảm xúc trong đầu tư - những cảm xúc sai lầm gây ra đối với những người đưa ra những quyết định không hợp lý dựa trên cảm xúc, và tất nhiên là tạo ra cơ hội cho những người có thể tránh được những cái bẫy tương tự. Munger, qua những hiểu biết của ông về tâm lý học, đã tiếp tục phát triển chủ đề đó. Ông gọi nó là “tâm lý học của sự đánh giá nhầm lẫn”, một khái niệm chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn ở Chương 11. Ông liên tục nhấn mạnhnó như một phần không thể thiếu khi đưa ra quyết định cho Berkshire. Đó là một trong những đóng góp quan trọng nhất của ông. *** Lời đề tặng của Buffett dành cho Ben Graham, Phil Fisher, John Burr Williams, và Charlie Munger là hoàn toàn có thể hiểu được. Graham cho Buffett nền tảng trí tuệ cơ bản để đầu tư, biên độ an toàn, và giúp Buffett học cách làm chủ cảm xúc để dành lợi thế trước biến động của thị trường. Fisher cho Buffett một phương pháp luận cập nhật, hợp lý để giúp ông xác định được những vụ đầu tư có lợi dài hạn và quản lý danh mục đầu tư trong dài hạn, đồng thời cũng dạy ông giá trị của việc chỉ tập trung vào một số ít các công ty có triển vọng. Williams cho ông một mô hình tính toán giá trị thực. Munger giúp Buffett đánh giá cao khoản tiền lãi từ những vụ mua lại và sở hữu những công ty lớn. Sự lúng túng thường trực xung quanh những hoạt động đầu tư của Buffett thực sự dễ dàng hiểu được khi chúng ta thừa nhận rằng Buffett là sự tổng hợp của cả bốn người trên. Descartes đã viết: “Chỉ thông minh thôi chưa đủ, điều quan trọng là phải vận dụng nó tốt”. Đó là sự vận dụng khiến Buffett khác biệt với những nhà quản lý đầu tư khác. Nhiều đồng nghiệp của ông rất thông minh, có kỷ luật, và tận tuỵ. Buffett vượt lên trên tất cả bọn họ bởi khả năng xuất chúng của ông trong việc kết hợp chiến lược của bốn người thầy thông thái thành một phương pháp duy nhất. 3. “NGÀNH KINH DOANH CHÍNH CỦA CHÚNG TÔI LÀ BẢO HIỂM” Thuở ban đầu của Berkshire Hathaway Khi Công ty hợp danh đầu tư Buffett giành quyền kiểm soát Berkshire Hathaway vào năm 1965, cổ phiếu của công ty rớt giá xuống một nửa và kinh doanh thua lỗ vượt qua mức 10 triệu đô la. Buffett và Ken Chace, người quản lý Công ty dệt may, làm việc chăm chỉ để tìm cách xoay chuyển tình thế của công ty dệt may. Kết quả thật đáng thất vọng: Tiền lãi thu được từ cổ phiếu khó khăn lắm mới đạt được mức hai con số. Giữa tình trạng ảm đạm đã xuất hiện một điểm sáng, một tín hiệu tốt: Đó là sự quản lý khéo léo danh mục đầu tư cổ phiếu thường của Buffett. Khi Buffett mua lại, công ty có 2,9 triệu đô la cổ phiếu được bán trên thị trường. Cuối năm đầu tiên, Buffett đã tăng số lượng chứng khoán tới 5,4 triệu đô la. Năm 1967, phần tiền lãi thu được từ đầu tư gấp ba lần số tiền thu được từ toàn bộ bộ phận dệt may, gấp 10 lần vốn căn bản từ phát hành chứng khoán. Tuy vậy, trong thập kỉ tiếp theo, Buffett dần hiểu được một số điểm thực tế. Trước hết, bản chất ngành dệt may làm cho phần lợi tức cao thu được từ cổ phiếu trở nên không chắc chắn. Cạnh tranh từ bên ngoài - thuê nhân công rẻ hơn - đang thu hẹp dần lợi nhuận biên. Thứ hai, để tiếp tục cạnh tranh, các nhà máy dệt may sẽ cần phải cải thiện nguồn vốn đáng kể - một triển vọng đang bị đe doạ trong một môi trường lạm phát và đầy nguy hiểm nếu phần tiền lãi thu về không đủ. Buffett không hề cố gắng che đậy những khó khăn, nhưng trong một vài lần, ông đã giải thích lối suy nghĩ của ông: Các nhà máy dệt may là ông chủ lớn nhất trong ngành, nguồn lực lao động là nhóm tuổi già hơn với kỹ năng không thể thay thế được, ban quản lý có lòng nhiệt tình cao; các hiệp hội đều hợp lý, và cuối cùng, ông đã tin rằng ngành kinh doanh dệt may sẽ thu được lợi nhuận. Tuy vậy, Buffett đã làm rõ rằng ông mong đợi nhóm ngành dệt may sẽ thu được một khoản tiền lãi khả quan trên những khoản vốn chi phí khiêm tốn nhất. Buffett nói: “Tôi sẽ không đóng cửa một công ty có tiềm năng lợi nhuận dưới mức bình thường mà chỉ thêm vào một phần nhỏ cho tiền lãi của công ty chúng tôi”. Ông giải thích: “Tôi cũng cảm thấy thật bất hợp lý cho một công ty có tiềm năng lợi nhuận khác thường khi đầu tư vào một công ty dường như sẽ thua lỗ trong tương lai. Adam Smith sẽ không tán thành với ý kiến đầu tiên và Karl Marx sẽ không tán thành với ý kiến thứ hai của tôi, phần ở giữa là vị trí duy nhất khiến tôi thoải mái”. Trong năm 1980, báo cáo thường niên đã chỉ ra những tín hiệu xấu cho tương lai của công ty dệt may. Năm đó, ngành mất vị trí dẫn đầu uy tín trong Bức thư của Chủ tịch Hội đồng Quản trị. Trong năm tiếp theo, ngành dệt may đã hoàn toàn không xuất hiện trong bức thư nữa. Tiếp theo, một sự thật không thể tránh khỏi: Tháng Bảy năm 1985, Bufffett đã gấp những cuốn sách về ngành dệt may, vì vậy chấm dứt hoạt động của một ngành kinh doanh được bắt đầu vào khoảng một trăm năm trước đây. Trải nghiệm đó không phải chỉ là một sự thất bại hoàn toàn. Trước hết, Buffett học được một bài học quý giá về sự thay đổi của công ty: Họ hiếm khi thành công. Thứ hai, tập đoàn dệt may đã tạo ra đủ vốn trong những năm đầu tiên để mua một công ty bảo hiểm và đó là một câu chuyện tươi sáng hơn rất nhiều. Ngành kinh doanh bảo hiểm Tháng Ba năm 1967, Berkshire Hathaway mua cổ phiếu hiện hành của hai công ty bảo hiểm có trụ sở chính tại Omaha với giá 8,6 triệu đô la: National Indemnity Company (Công ty Bồi thường Quốc gia) và National Fire & Marine Insurance Company (Công ty Bảo hiểm Hàng hải và Hoả hoạn Quốc gia). Đó là sự khởi đầu cho một câu chuyện thành công phi thường. Công ty Dệt may Berkshire Hathaway không tồn tại lâu dài, nhưng Berkshire Hathaway sẽ trở thành công ty đầu tư đầy triển vọng. Để đánh giá sự phi thường, chúng ta phải nhận ra giá trị thực sự của việc sở hữu một công ty bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm đôi khi là những vụ đầu tư béo bở, đôi khi lại không. Tuy vậy, các công ty này luôn là những phương tiện đầu tư tuyệt vời. Những người giữ hợp đồng bảo hiểm, thông qua thanh toán phí bảo hiểm, cung cấp dòng tiền mặt thường xuyên, gọi là bong bóng. Các công ty bảo hiểm đặt dòng tiền mặt này sang một bên (gọi là dự trữ) để trả tiền số tiền bảo hiểm mỗi năm, dựa trên khả năng ước tính tốt nhất của họ, và đầu tư phần còn lại. Để chính bản thân chúng có khả năng thanh khoản cao, vì rất khó để xác định chính xác khi cần phải thanh toán tiền bồi thường, hầu hết mọi người lựa chọn cách đầu tư vào những chứng khoán đang chào bán trên thị trường - những cổ phiếu và trái phiếu ban đầu. Vì vậy Warren Buffett đã mua lại không chỉ hai công ty có tiềm lực khiêm tốn mà còn cả một phương tiện cứng cỏi để quản lý các vụ đầu tư. Đối với một người lựa chọn chứng khoán theo mùa như Buffett, đó là một phép toán hoàn hảo. Chỉ trong vòng hai năm, ông tăng danh mục chứng khoán và cổ phiếu kết hợp của hai công ty từ 31,9 triệu đô la lên gần 42 triệu đô la. Cùng thời điểm đó, những công ty bảo hiểm hoạt động tương đối tốt. Chỉ trong vòng một năm, lợi nhuận ròng của Công ty Bồi thường Quốc gia tăng từ 1,6 triệu đô la lên đến 2,2 triệu đô la. Thành công bước đầu của Buffett trong ngành bảo hiểm đã dẫn đường cho ông mở rộng tập đoàn này. Trong thập kỷ tiếp theo, ông mua thêm ba công ty bảo hiểm nữa. Ông không hề đi chậm lại. Tới năm 2004, Berkshire sở hữu 38 công ty bảo hiểm, bao gồm hai đại gia khổng lồ, Government Employees Insurance Company (GEICO) và General Re, mỗi công ty có rất nhiều chi nhánh. Công ty bảo hiểm GEICO Trước hết, Warren Buffett biết đến GEICO từ khi còn là sinh viên tại Columbia vì thầy giáo của ông - Ben Graham - là Tổng Giám đốc. Niềm say mê tri thức của Buffett thể hiện trong câu chuyện của một sinh viên trẻ tuổi tới thăm văn phòng của công ty vào một buổi sáng thứ Bảy và đập cửa thình thịch cho tới khi người gác cửa cho anh ta vào. Sau đó, Buffett mất năm tiếng đồng hồ để có được một buổi đào tạo về ngành kinh doanh bảo hiểm từ một người duy nhất làm việc trong ngày hôm đó: Lorinmer Davidson, nhân viên đầu tư sau này trở thành CEO của công ty. Điều ông học được đã kích thích trí tò mò của ông. GEICO được thành lập dựa trên hai khái niệm đơn giản nhưng công bằng: Nếu bạn chỉ bảo hiểm những người có hồ sơ tốt bạn sẽ mất ít tiền bồi thường hơn. Nếu bạn bán trực tiếp cho khách hàng, không thông qua các đại lý, bạn sẽ giảm thiểu được tổng chi phí. Trở về quê hương Omaha và làm việc cho công ty môi giới của cha ông, một chàng trai rất trẻ như Warren Buffett đã viết một bài báo về GEICO cho một tạp chí tài chính. Ông đã viết: “Có lý do để tin rằng tỉ lệ tăng trưởng nằm ở phía trước”. Buffett đầu tư 10.282 đô la vào công ty, rồi năm sau bán đi và thu được 50% lợi nhuận. Tuy nhiên, ông vẫn luôn theo dõi sát sao hoạt động của công ty. Suốt những năm 1950 và 1960, GIECO rất phát triển. Nhưng sau đó, công ty bắt đầu rơi vào tình trạng hỗn loạn. Trong vài năm, công ty cố gắng mở rộng nền tảng khách hàng thông qua bán hạ giá và nới lỏng những yêu cầu thích hợp, và trong hai năm liền, công ty tính toán sai nghiêm trọng lượng tiền dự trữ cần thiết (ngoài khoản tiền dùng để trả tiền bồi thường). Hậu quả là, vào khoảng giữa những năm 1970, công ty từng vang bóng một thời gần như phá sản. Năm 1976, khi giá cổ phiếu giảm từ 61 đô la xuống còn 2 đô la một cổ phiếu, Warren Buffett bắt đầu mua. Suốt khoảng thời gian năm năm, với niềm tin kiên định rằng đó là một công ty hùng mạnh với những lợi thế cạnh tranh nền tảng bền vững, Buffett đã đầu tư 45,7 triệu đô la vào GEICO. Ngay trong năm sau, năm 1977, công ty lại làm ăn có lãi. Suốt hai thập kỷ tiếp theo, GEICO có tỉ lệ bảo hiểm dương có nghĩa là công ty thu được tiền phí bảo hiểm nhiều hơn số tiền thanh toán bồi thường bảo hiểm - hàng năm chứ không chỉ có một năm. Trong ngành bảo hiểm, khi đó tỉ lệ âm là chuyện thường không phải là ngoại lệ, loại hồ sơ bảo hiểm như của GEICO hầu như không được biết tới. Với sự quản lý hết sức thông minh của Lou Simpson, một người đàn ông có tên tuổi khiến GEICO thu được những nguồn đầu tư cực kỳ lớn. Đến năm 1991, Berkshire sở hữu gần một nửa (48%) cổ phần của GEICO. Kết quả hoạt động đầy ấn tượng của công ty bảo hiểm, cùng sự quan tâm của Buffett dành cho công ty, ngày càng tăng. Trong năm 1994, bắt đầu xuất hiện những buổi thảo luận nghiêm túc về việc Berkshire mua lại toàn bộ công ty, và trong năm tiếp theo, bản hợp đồng cuối cùng đã được thông báo. Tại thời điểm đó, Berkshire sở hữu 51% cổ phần của GEICO, và chấp nhận mua nốt phần còn lại với giá 2,3 tỉ đô la. Đó là thời điểm hầu hết các công ty trong ngành bảo hiểm phải rất khó khăn mới thu được lợi nhuận và hầu hết các nhà đầu tư đều giữ khoảng cách với đa số các công ty trong ngành. Toàn bộ công việc trên giấy tờ hoàn tất vào đầu năm 1996. Từ đó, Berkshire Hathaway chính thức sở hữu GEICO và quản lý độc lập với các công ty cổ phẩn bảo hiểm khác của Berkshire Hathaway. Mặc dù cũng gặp phải một vài khó khăn, nhưng niềm tin của Buffett vào nền tảng cơ bản của GEICO phần nào được đền đáp. Từ năm 1996 tới năm 2003, thị phần của công ty tăng từ 2,7% lên 5%. Thời gian khó khăn nhất đó là vào năm 2000, khi nhiều khách hàng bảo hiểm của công ty chuyển sang sử dụng dịch vụ của các nhà cung cấp khác, và một chiến dịch quảng cáo cực kỳ rầm rộ (tiêu tốn khoảng 260 triệu đô la) đã thất bại, không tạo ra nhiều hợp đồng kinh doanh mới như dự kiến. Mọi thứ bắt đầu ổn định dần vào năm 2001, và sang năm 2002, GEICO quay trở lại đúng quỹ đạo hoạt động, với mức tăng trưởng đáng kể trên thị trường cổ phiếu cũng như lợi nhuận. Năm đó, GEICO thu được 6,9 tỉ đô la tiền phí bảo hiểm, một bước nhảy vọt so với con số 2,9 tỉ đô la hồi năm 1996, năm Berkshire mua lại toàn bộ công ty. Tháng Tư năm 2003, công ty đạt được một bước ngoặt lịch sử với hợp đồng bảo hiểm thứ 5 triệu. Cuối năm 2003, 5 triệu người có hợp đồng bảo hiểm này nộp tổng số phí bảo hiểm là 8,1 tỉ đô la. Do lợi nhuận biên tăng, người có hợp đồng bảo hiểm càng trung thành hơn với công ty, nên GEICO tập trung vào xây dựng những mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Khi Buffett tiếp quản công ty vào năm 1996, ông đưa ra một hệ thống khuyến khích mới để thưởng cho sự tập trung này. Một nửa số tiền thường và tiền chia lãi dựa trên những hợp đồng có ít nhất một năm tuổi, nửa còn lại dựa vào sư gia tăng của người tham gia bảo hiểm. Trung bình mỗi khách hàng của GEICO có nhiều hơn một phương tiện được bảo hiểm, đóng phí bảo hiểm khoảng 1.100 đô la hàng năm, nhưng duy trì một hồ sơ tuyệt vời. Như Buffett từng chỉ ra nguyên lý kinh tế của công thức đó thật đơn giản: “Tiền đổ về thay vì chảy ra ngoài”. Từ thỏa thuận ban đầu là 2 đô la một cổ phiếu hồi năm 1976, Buffett đã trả gần 70 đô la một cổ phiếu cho phần còn lại của công ty trong năm 1996. Ông không đưa ra lời biện hộ nào. Ông coi GEICO là công ty duy nhất có tiềm năng vô hạn, và điều này rất đáng giá. Ở khía cạnh này, theo Charlie Munger – cộng sự có ảnh hưởng sâu sắc tới Buffett, nếu bạn muốn sở hữu những công ty có triển vọng nhất, bạn phải sẵn sàng trả hết khi người ta sẵn sàng bán chúng. Nếu hiểu mối quan hệ công việc gần gũi của họ, chúng ta có thể nói rằng Munger có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định liên quan đến bảo hiểm lớn khác của Berkshire. General Re Corporation Năm 1996, Buffett chi 2,3 tỉ đô la để mua một nửa còn lại của GEICO mà ông chưa sở hữu. Hai năm sau, ông đã chi gấp bảy lần số tiền đó, vào khoảng 16 tỉ đô la trị giá cổ phiếu của Berkshire Hathaway để mua lại một công ty bảo hiểm mang tên General Re. Đó là vụ mua lại lớn nhất từ trước tới nay. Một số người gọi nó là sự kiện lớn nhất trong lịch sử Berkshire. Tái bảo hiểm là một lĩnh vực của ngành bảo hiểm không được nhiều người biết đến, do nó không liên quan đến những sản phẩm quen thuộc trong cuộc sống, sở hữu nhà cửa, hoặc bảo hiểm tự động. Theo cách hiểu đơn giản nhất, các công ty tái bảo hiểm bảo hiểm các công ty bảo hiểm khác. Mặc dù một bản hợp đồng không giải thích rõ ràng phí bảo hiểm và phần thua lỗ được chia như thế nào, một công ty tái bảo hiểm phải chịu trách nhiệm một tỉ lệ phần trăm nào đó phần rủi ro của công ty bảo hiểm. Điều này khiến nhà tái bảo hiểm ban đầu phải chịu mức độ rủi ro cao hơn, giảm thiểu nhu cầu vốn hoạt động, và giảm bớt tỉ lệ thua lỗ. Về phần mình, nhà tái bảo hiểm nhận được một phần phí bảo hiểm, để đầu tư nếu công ty thấy hợp lý. General Re chủ yếu là đầu tư vào trái phiếu. Thực tế điều này là một phần quan trọng trong chiến lược mua lại công ty của Buffett. Khi Buffett mua lại công ty, General Re sở hữu gần 19 tỉ đô la trị giá trái phiếu, 5 tỉ đô la trị giá cổ phiếu, và 15 tỉ đô la tiền thả nổi. Bằng cách sử dụng cổ phiếu của Berkshire để mua lại công ty và danh mục trái phiếu nặng ký của nó, chỉ bằng thao tác đơn giản, Buffett đã chuyển cán cân toàn bộ số cổ phần của Berkshire từ 80% cổ phiếu xuống 60%. Cuối năm 1998, Sở Thuế vụ (IRS) đưa ra quy định sáp nhập không bao hàm phần lợi nhuận vốn, điều đó có nghĩa là ông đã cố gắng “bán” gần 20% cổ phần của Berkshire, vì vậy không tránh sự biến động giá cả tồi tệ nhất, về bản chất là miễn thuế. Điều thay đổi quan trọng duy nhất theo sát quá trình sáp nhập đó là sự biến mất của đơn vị đầu tư General Re. Khoảng 150 người có quyền quyết định đầu tư các quỹ của công ty vào đâu, chúng được thay thế bởi một cá nhân duy nhất. Đó chính là Warren Buffett. Chỉ sau khi Berkshire mua lại General Re, công ty trải qua một trong những năm tồi tệ nhất. Năm 1999, GenRe thanh toán số tiền bồi thường từ những thảm hoạ thiên nhiên (mưa đá ở Australia, những trận động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ, và một loạt cơn bão khốc liệt ở Châu Âu), từ vụ cháy nhà lớn nhất trong lịch sử, và sự thất bại của một công ty chiếu phim danh tiếng (công ty đã mua bảo hiểm số hoá đơn bán vé). Vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi GenRe tham gia một nhóm các nhà bảo hiểm và tái bảo hiểm dính líu vào vụ lộn xộn đền bù công nhân mà cuối cùng kết thúc bằng một vụ tranh chấp phức tạp và khoản thiệt hại hữu hình xấp xỉ 275 triệu đô la trong hai năm hoạt động (1998 và 1999). Vấn đề sau đó được làm sáng tỏ là do GenRe đã bán phá giá sản phẩm của mình. Hãy nhớ rằng, số phí bảo hiểm thu vào cuối cùng sẽ được thanh toán cho những người có hợp đồng bảo hiểm được bồi thường. Khi phải thanh toán nhiều hơn số tiền thu được, kết quả sẽ là vụ bảo hiểm thua lỗ. Tỉ lệ thua lỗ so với số phí bảo hiểm nhận được trong một năm bất kỳ được gọi là chi phí thả nổi cho năm đó. Khi cả hai phần của công thức cân bằng nhau, chi phí thả nổi bằng 0 là một điều tốt cho công ty. Thậm chí còn tốt hơn nếu tỉ lệ đó thấp hơn con số 0, hay chi phí thả nổi âm, điều này xảy ra khi tiền phí mua bảo hiểm thu được vượt xa số tiền thanh toán bồi thường thiệt hại, tạo ra lợi nhuận bảo hiểm. Điều này muốn nói tới chi phí thả nổi âm, nhưng thực tế thì nó luôn dương: Công ty bảo hiểm được thanh toán để giữ vốn. Phần thả nổi là một điều tuyệt vời, Buffett thường nhận xét như vậy, trừ khi nó trở thành một chi phí quá cao. Tiền phí bảo hiểm thu được quá thấp, hoặc thiệt hại phải bồi thường cao bất thường sẽ gây tác động xấu cho chi phí thả nổi. Khi cả hai đồng thời xảy ra, chi phí thả nổi sẽ tăng vọt. Đó chính là điều đã xảy ra với GenRe, mặc dù lúc đầu không hẳn là như vậy. Ngay đầu năm 1999, Buffett đã nhận ra rằng các hợp đồng bảo hiểm được bán với giá thấp hơn quy định, và ông bắt đầu chỉnh sửa lại sai lầm này. Tuy vậy, những ảnh hưởng của sự thay đổi này không thể một sớm một chiều mà có được. Năm 2000, General Re đã trải qua một vụ thua lỗ bảo hiểm trị giá 1,6 tỉ đô la, tạo ra chi phí thả nổi lên tới 6%. Tuy vậy, Buffett cảm thấy có thể báo cáo trong thư gửi cổ đông năm 2000 rằng tình thế đang dần được cải thiện và ông mong đợi xu hướng phát triển sẽ xảy ra, Sau đó, trong một khoảnh khắc khủng khiếp, ông thêm vào một câu mà không hề có ý định trước: “Trừ khi không có thảm hoạ khủng khiếp nào, chúng ta kỳ vọng chi phí thả nổi sẽ giảm trong năm 2001”. Khoảng sáu tháng sau, vào ngày 11 tháng Chín, nước Mỹ đã trải qua một thảm hoạ khủng khiếp mà chúng ta không bao giờ tưởng tượng được. Trong thư gửi cổ đông gửi kèm báo cáo quý III năm 2001, Buffett viết: “Một thảm hoạ khủng khiếp không có gì đáng ngạc nhiên nữa. Đôi khi nó xảy ra, và lần này không phải là lần cuối cùng của chúng ta”. Buffett ước tính thiệt hại phải bồi thường của Berkshire từ vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng Chín lên tới 2.275 tỉ đô la, trong đó 1,7 tỉ đô la là của General Re. Mức độ thiệt hại đã châm ngòi một sự thay đổi cho GenRe. Họ đã nỗ lực hơn để đảm bảo những hợp đồng bảo hiểm được định giá chuẩn xác, và số tiền dự trữ được giữ lại đủ để thanh toán các vụ bồi thường. Sự thay đổi, sửa đổi này đã thành công. Năm 2002, sau năm năm thua lỗ, GenRe đã báo cáo khoản lợi nhuận bảo hiểm đầu tiên của công ty, là động lực để Buffett thông báo trong cuộc họp Hội đồng Quản trị thường niên năm 2002: “Chúng ta đã trở lại”. *** Warren Buffett vốn nổi tiếng là người luôn giữ vững lập trường. Với “thương hiệu” là người ngay thẳng, ông là người đầu tiên thừa nhận rằng ông không hề thấy GenRe có vấn đề gì cả. Đối với những người quan sát Warren Buffett, bản thân nhận định đó là một sự thú vị kỳ lạ. Đó là trường hợp mà một người lão luyện như Buffett có thể bỏ qua những vấn đề phức tạp của ngành bảo hiểm. Nếu những vấn đề đó rõ ràng, tôi chắc chắn rằng Buffett sẽ không trả cái giá mà ông đã dành cho GenRe. Tuy vậy, tôi cũng khá chắc chắn rằng ông sẽ tiếp tục bởi vì tầm nhìn của ông luôn hướng về dài hạn. Ngành tái bảo hiểm mở ra tiềm năng khổng lồ, và một công ty tái bảo hiểm hoạt động tốt sẽ tạo ra giá trị khổng lồ cho các cổ đông. Buffett hiểu rõ điều đó hơn bất kỳ ai. Vì vậy, mặc dù sai lầm khi định giá của GenRe gây ra những vấn đề trong ngắn hạn, và mặc dù ông đã “mua” những vấn đề này cùng với công ty, điều này không phủ nhận kết luận cơ bản của ông rằng một công ty tái bảo hiểm được quản lý tốt tạo giá trị lớn cho Berkshire. Trong một tình huống như thế này, bản năng của Buffett là sẽ khắc phục vấn đề, chứ không từ bỏ công ty đi. Như vẫn thường làm, Buffett tin tưởng những nhà quản lý của công ty với bảo hiểm đang dần được khôi phục thông qua định giá hợp lý những hợp đồng bảo hiểm và đặt ra mức dự trữ tương đối đủ. Dưới sự quản lý của họ, ông đã viết trong thư gửi cổ đông năm 2003, General Re “sẽ là một phương tiện mạnh mẽ thúc đẩy khả năng lợi nhuận trong tương lai của Berkshire”. Trong bức thư này, General Re là một trong hai công ty tái bảo hiểm toàn cầu quan trọng duy nhất được xếp hạng AAA (hạng cao nhất). Công ty còn lại cũng là một công ty của Berkshire: The National Indemnity Reinsurance Operation (Công ty tái Bảo hiểm Bồi thường Quốc gia) Tập đoàn tái bảo hiểm Berkshire Hathaway Công ty tái bảo hiểm Bồi thường Quốc gia thuộc Berkshire ngày nay rất khác biệt so với công ty mà Buffett mua lại năm 1967. Điểm khác biệt đó là cách tổ chức hoạt động và quy mô chứ không chỉ khác biệt trong triết lý kinh doanh cơ bản. Một bộ phận của Công ty Bồi thường Quốc gia trước đây không tồn tại dưới thời của người sáng lập ra nó - Jack Ringwalt - là bộ phận tái bảo hiểm. Ngày nay, bộ phận này, được điều hành từ văn phòng của Công ty Bồi thường Quốc gia tại Stamford, Connecticut, đóng góp tích cực vào tổng doanh thu của Berkshire. Tập đoàn tái bảo hiểm do Ajit Jain đứng đầu. Ajit sinh ra tại Ấn Độ, tốt nghiệp Học viện công nghệ Ấn Độ và trường Đại học Harvard. Gần đây, ông nói vui rằng khi ông gia nhập Berkshire hồi năm 1982, ông thậm chí không biết tái bảo hiểm là gì, tuy vậy ông đã xây dựng một công ty có mức lợi nhuận khổng lồ, và nhận được sự khen ngợi cao nhất của Buffett trong nhiều năm. Hoạt động dựa trên nền tảng sự hùng mạnh tài chính của Berkshire, tập đoàn tái bảo hiểm có thể thảo ra những hợp đồng bảo hiểm mà các công ty khác, thậm chí là các công ty tái bảo hiểm khác, không bao giờ dám “béng mảng” tới. Một số công ty đứng ngoài lề bởi vì những hợp đồng bảo hiểm này quá đặc biệt: một hợp đồng bảo hiểm cho trường hợp làm tổn hại đến thân thế hoặc thanh danh đối với siêu sao Alex Rodriges của đội bóng chày Texas Rangers, hay cho một vụ thanh toán trị giá 1 tỉ đô la của một tấm vé số trên Internet. Nhận xét vụ bảo hiểm thứ hai, Phó Chủ tịch Tập đoàn tái bảo hiểm cho rằng: “Chỉ cần phí bảo hiểm cao hơn tỷ lệ, thì chúng ta hoàn toàn cảm thấy thoải mái”. Số lượng tham gia bảo hiểm tại tập đoàn bảo hiểm không phải quá là hào nhoáng. Tuy vậy, công ty thu được nhiều lợi nhuận. Doanh thu tăng đáng kể trong năm 2002 và 2003. Sau vụ khủng bố ngày 11 tháng Chín, nhiều công ty và cá nhân đã tăng danh mục bảo hiểm của họ lên rất nhiều, tuy vậy trong hai năm tiếp theo không hề xảy ra thảm hoạ nào. Trong năm 2003, Tập đoàn tái bảo hiểm Berkshire Hathaway thu được 4,43 tỉ đô la tiền phí bảo hiểm, mang lại tổng số tiền thả nổi xấp xỉ 14 tỉ đô la. Có lẽ quan trọng hơn là chi phí tiền mặt thả nổi năm đó âm 3% - có nghĩa là không có chi phí, mà chỉ có lợi nhuận. (Trong trường hợp này, hãy nhớ rằng “âm” là một số dương). Đó là bởi vì trong năm 2003, Tập đoàn tái bảo hiểm thu được lợi nhuận bảo hiểm (thu được nhiều phí bảo hiểm hơn số tiền phải thanh toán bồi thường thiệt hại) trị giá hơn 1 tỉ đô la. Để dễ dàng so sánh, trong cùng một năm, lợi nhuận bảo hiểm của GEICO là 452 triệu đô la, và của General Re là 145 triệu đô la. Không có gì phải phân vân khi Buffett nói về Ajit Jain: “Nếu bạn nhìn thấy Ajit tại đại hội thường niên của chúng ta, thì hãy tôn kính cúi chào ông ấy”. *** Warren Buffett hiểu biết về ngành bảo hiểm theo cách mà ít người có thể làm. Thành công của ông xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Đó là từ sự thừa nhận bản chất hàng hoá thiết yếu của ngành và nâng tầm những công ty bảo hiểm của ông lên trở thành công ty có quyền kinh doanh độc lập. Các công ty bảo hiểm bán sản phẩm mà không thể phân biệt được với những sản phẩm của đối thủ cạnh tranh khác. Các hợp đồng bảo hiểm được tiêu chuẩn hoá và bất kỳ ai cũng có thể sao chụp lại. Không hề có bất kỳ thương hiệu, bằng sáng chế, lợi thế nào. Có được giấy phép thật dễ dàng và tỉ lệ bảo hiểm là một cuốn sách công cộng. Nói cách khác, bảo hiểm là một sản phẩm tiện nghi. Trong kinh doanh sản phẩm tiện nghi, cách thông thường để giành thị phần là giảm giá. Trong những giai đoạn cạnh tranh khốc liệt, những công ty khác sẵn sàng bán hợp đồng bảo hiểm dưới giá trị của hoạt động kinh doanh còn hơn là để mất thị phần. Buffett khẳng định Tập đoàn bảo hiểm Berkshire sẽ không rơi vào tình trạng không có lợi nhuận. Chỉ khi tại General Re điều này xảy ra mà Buffett đã không nhận ra. Bạn có thể luôn thảo những hợp đồng bảo hiểm cố định. Có một thị trường không biên giới cho những hợp đồng bảo hiểm cố định. Chúng rất có vấn đề, bởi vì trong ngày đầu tiên thu được phí bảo hiểm, đó cũng là lần cuối cùng bạn nhìn thấy bất kỳ khoản tiền mới nào. Kể từ đó, tất cả mọi thứ đều chảy ra. Và đó không phải là mục đích trong cuộc sống của chúng ta. WARREN BUFFETT, 2001 Không sẵn sàng cạnh tranh về mặt giá cả, thay vào đó, Buffett cố gắng làm các công ty bảo hiểm của Berkshire trở nên khác biệt theo hai cách khác nhau. Trước hết, thông qua thế mạnh tài chính. Ngày nay, xét về lợi nhuận và doanh thu. Tập đoàn tái bảo hiểm Berkshire xếp thứ hai, chỉ sau AIG, trong ngành tổn thất bất động sản. Thêm vào đó, tỉ lệ danh mục đầu tư của Berkshire (35,2 tỉ đô la) so với tổng phí bảo hiểm (8,1 tỉ đô la) tương đối cao hơn mức trung bình của ngành. Biện pháp tạo sự khác biệt thứ hai liên quan tới triết lý bảo hiểm của Buffett. Mục tiêu của ông thật đơn giản: Luôn luôn thảo số lượng hợp đồng lớn nhưng chỉ với những mức giá có thể chấp nhận được. Nếu giá thấp, ông bằng lòng hạn chế việc kinh doanh. Triết lý này được thấm nhuần tại Công ty Bồi thường Quốc gia từ thời của người sáng lập ra nó là Jack Ringwalt. Buffett nói, kể từ đó Berkshire không bao giờ có ý định bỏ qua phương pháp này. Ngoại lệ duy nhất là General Re, và vụ định giá thấp của công ty gây ảnh hưởng lớn tới toàn bộ kết quả hoạt động của Berkshire trong vài năm. Ngày nay, tình trạng khó khăn đó đã được khắc phục. Sức mạnh tài chính của Berkshire tạo sự khác biệt cho tập đoàn bảo hiểm so với phần còn lại của ngành. Khi các đối thủ cạnh tranh biến mất trên thương trường bởi lo sợ trước những thảm hoạ gần đây, Berkshire vẫn luôn ở vị thế là một một nhà cung cấp bảo hiểm chuyên nghiệp. Nói tóm lại, sự hợp nhất tài chính mà Buffett áp dụng đối với các công ty bảo hiểm của Berkshire đã tạo ra một hệ thống cấp quyền kinh doanh trong đó không gì khác là một ngành kinh doanh sản phẩm tiện nghi. Không có gì đáng ngạc nhiên khi Buffett viết, theo cách thẳng thắn thường thấy ở ông: “Ngành kinh doanh chính của chúng ta là bảo hiểm”. Luồng tiền mặt do tập đoàn bảo hiểm Berkshire tạo ra quả là khó tin: Khoảng 44,2 tỉ đô la trong năm 2003. Điều Buffett làm với số tiền đó thể hiện bản chất công ty của ông và cá nhân ông. Và điều đó đưa chúng ta đến chương tiếp theo của cuốn sách. 4. MUA MỘT DOANH NGHIỆP Berkshire Hathaway là một tập đoàn phức hợp nhưng không phức tạp. Hiện tại, tập đoàn bao gồm gần 100 doanh nghiệp độc lập đó là các công ty tái bảo hiểm mà tôi đã đề cập đến ở chương trước, và rất nhiều các doanh nghiệp phi bảo hiểm khác được mua lại thông qua nguồn lợi tức của tập đoàn bảo hiểm. Sử dụng dòng tiền mặt đó, tập đoàn cũng mua cả cổ phiếu và trái phiếu của các công ty phát hành ra công chúng. Xuyên suốt tất cả các hoạt động này là lối suy nghĩ thực tế của Warren Buffett trong cách nhìn nhận một vụ đầu tư: Khi nào ông xem xét mua lại toàn bộ công ty, hay khi nào thì ông đánh giá để mua chứng khoán. Buffett tin tưởng rằng, không có sự khác biệt cơ bản nào giữa hai công việc trên. Cả hai đều biến ông trở thành chủ sở hữu của một công ty. Vì thế, theo ông, cả hai quyết định đều nên xuất phát từ quan điểm của người chủ. Đây là điều quan trọng nhất để hiểu phương pháp đầu tư của Buffett: Mua cổ phiếu có nghĩa là mua một doanh nghiệp và đòi hỏi một phương pháp tương tự. Thực tế, Buffett luôn ưu tiên sở hữu trực tiếp một công ty, bởi vì việc này cho phép ông gây ảnh hưởng tới việc ông coi là vấn đề then chốt nhất trong một công ty đó là: Phân bổ nguồn vốn. Nhưng khi cổ phiếu thể hiện một giá trị tốt hơn, ông sẽ lựa chọn sở hữu một phần của một công ty thông qua việc mua cổ phiếu thường của công ty đó. Trong bất cứ trường hợp nào, Buffett cũng thực hiện một chiến lược giống nhau: Ông tìm kiếm những công ty mà ông biết rõ, có lịch sử lợi nhuận ổn định, triển vọng phát triển dài hạn, có khả năng thu được lợi nhuận tốt từ vốn thông qua phát hành cổ phiếu với mức nợ thấp, và do những con người có đủ khả năng và chân thật điều hành, và quan trọng là những công ty đó phải luôn được chào bán với giá hấp dẫn. Phương thức hướng về chủ sở hữu khi xem xét những vụ đầu tư tiềm năng là nền tảng cho phương pháp đầu tư của Buffett. Tất cả những gì chúng ta muốn là đầu tư vào những công ty chúng ta hiểu biết, do những người chúng ta yêu quý điều hành, và chào giá hấp dẫn, cân xứng với triển vọng trong tương lai. WARREN BUFFETT Từ quan điểm của chủ sở hữu, Buffett cho rằng mua cổ phiếu cũng giống như mua các công ty, mua các công ty cũng giống như mua cổ phiếu. Nguyên lý giống nhau áp dụng cho cả hai trường hợp, và vì vậy cả hai đều là những bài học quan trọng dành cho chúng ta. Những nguyên lý này được mô tả khá chi tiết từ Chương 5 tới Chương 8. Nói tóm lại, chúng tạo nên Phong cách đầu tư Warren Buffett, và chúng được áp dụng, gần như là theo bản năng, mỗi khi ông xem xét mua cổ phiếu của một công ty, hay mua lại toàn bộ công ty. Trong chương này, chúng ta sẽ đi lướt qua một số vụ mua bán, để từ đó chúng ta hiểu sâu sắc hơn những bài học chúng đưa ra. Bức hoạ khảm với nhiều ngành kinh doanh Tập đoàn Berkshire Hathaway ngày nay được hiểu chính xác nhất là một công ty cổ phần. Cùng với các công ty bảo hiểm, tập đoàn này còn là chủ sở hữu của một tờ báo, một công ty sản xuất kẹo, một chuỗi cửa hàng kem/humburger, một nhà xuất bản từ điển bách khoa, một nhà cung cấp nguyên liệu khung tranh theo đơn đặt hàng, một công ty sơn, một công ty sản xuất và phân phối đồng phục, một công ty kinh doanh máy hút bụi, công ty phục vụ công cộng, một số công ty sản xuất giày, và một nhãn hiệu đồ lót quen thuộc cùng với rất nhiều công ty khác. Một vài trong số những công ty này, đặc biệt, những công ty mới mua lại gần đây là những công ty mà Buffett tìm thấy bằng một cách rất Buffett: Ông đăng quảng cáo cần mua chúng trong những báo cáo thường niên của Berkshire Hathaway. Tiêu chuẩn của ông thật thẳng thắn: một doanh nghiệp đơn giản, dễ hiểu với mức doanh lợi ổn định, lợi nhuận trên vốn tốt, nợ ít, và ban quản lý tốt. Ông quan tâm tới những công ty nằm trong mức từ 5 tỉ tới 20 tỉ đô la, những công ty càng lớn càng tốt. Ông không quan tâm tới sự thay đổi, người tiếp quản thù địch, hay những tình huống không rõ ràng, giá đặt mua không được xác định. Ông hứa sẽ bảo mật hoàn toàn và phúc đáp nhanh chóng. Trong các báo cáo thường niên của Berkshire Hathaway và trong bài bình luận gửi các cổ đông, ông thường mô tả chiến lược mua lại theo cách này: “Việc này đòi hỏi kỹ thuật cao. Charlie và tôi chỉ ngồi lại với nhau và đợi chờ điện thoại reo. Đôi khi đó là một cú điện thoại gọi nhầm số”. Chiến lược này có hiệu quả. Thông qua thông báo công khai này, và cũng thông qua những lời gợi ý từ phía các nhà quản lý ở các công ty hiện tại của Berkshire, Buffett mua lại một loạt các công ty thành công khiến mọi người phải kinh ngạc. Một vài trong số đó là công ty con của Berkshire trong vài thập kỷ, và những câu chuyện về các công ty này đã trở thành một phần trong truyền thuyết về Buffett. Ví dụ như See’s Candy Shops trở thành một chi nhánh của Berkshire kể từ năm 1972. Vụ mua bán này quả là đáng chú ý, bởi vì nó tiêu biểu cho lần đầu tiên Buffett rời bỏ “châm ngôn” của Ben Graham để chỉ mua những công ty bị định giá thấp. Giá mua cuối cùng, 30 triệu đô la, cao gấp ba lần giá trị sổ sách. Chắc chắn rằng, đó là một quyết định sáng suốt. Chỉ riêng trong năm 2003, lợi nhuận thu được trước thuế của See đã đạt con số 59 triệu đô la, xấp xỉ hai lần giá mua thực tế. Trong đại hội thường niên của Berkshire năm 1997, 25 năm sau vụ mua See, Charlie Munger hồi tưởng lại: “Đó là lần đầu tiên chúng tôi chi tiền cho chất lượng”. Buffett nói thêm: “Nếu chúng ta không mua See, chúng ta cũng sẽ không mua Coke”. Phần sau của chương này, tôi sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa đầy đủ của lời nhận xét đó. Một công ty nổi tiếng khác đối với những người luôn theo sát Berkshire đó là Nebraska Furniture Mart. Hệ thống bán lẻ khổng lồ này bắt đầu hoạt động tại Omaha, quê hương của Buffett từ năm 1938 khi một người Nga nhập cư, bà Rose Blumkin bán đồ đạc trong tầng hầm của bà để mở một hàng nhỏ. Năm 1983, khi bà Blumkin được nhiều người biết đến, Buffett đã trả 55 triệu đô la để mua 80% cửa hàng của bà. Ngày nay, Nebraska Furniture Mart, bao gồm các đơn vị bán lẻ chiếm hơn 100 nghìn m2 trên một khoảnh đất rộng, bán nhiều đồ nội thất hơn bất kỳ cửa hàng nào khác trên đất nước. Buffett điều hành cửa hàng thứ hai đó là Mart thứ hai, mở cửa năm 2002 tại thành phố Kansas. Trong thư gửi cổ đông năm 2003, Buffett đã liên hệ thành công của hệ thống rộng hơn 40 nghìn m2 này với bà B. huyền thoại, người vẫn làm việc cho tới khi qua đời ở tuổi 104. Buffett viết: “Một kinh nghiệm bà truyền lại cho chúng ta đó là nếu bạn bán với giá thấp, khách hàng sẽ tìm bạn bằng mọi cách”. Cửa hàng của chúng ta phục vụ thành phố Kansas rộng lớn hơn, toạ lạc tại một trong những vùng dân cư thưa thớt hơn của khu vực, đã chứng minh quan điểm của bà B. Mặc dù có hơn 10 hécta để đỗ xe, nhưng hầu như lúc nào cũng trong tình trạng quá tải, hết chỗ”. Tháng Một năm 1986, Buffett trả 315 triệu đô la tiền mặt để mua Scott & Fetzer, một tập đoàn gồm 21 công ty nhỏ, bao gồm cả nhà sản xuất máy hút bụi Kirby và bách khoa toàn thư World Book. Cho tới thời điểm đó, đây là một trong những vụ mua bán lớn nhất của Berkshire, vượt qua sự mong đợi lạc quan của Buffett. Đó là mô hình của một tổ chức có lợi nhuận trên vốn lớn nhờ phát hành cổ phiếu và có số nợ không đáng kể, đó là một trong những đặc điểm mà Buffett ưa thích. Thực tế, ông tính toán rằng, khoản lợi nhuận trên vốn của Scott Fetzer dựa vào phát hành cổ phiếu sẽ dễ dàng đặt nó vào top 1% trong bảng xếp hạng Fortune 500. Rất nhiều công ty của Scott Fetzer đưa ra một danh mục những sản phẩm công nghiệp chuyên môn hoá (một số người cho rằng thật nhàm chán), nhưng chúng thực sự mang lại tiền cho Berkshire Hathaway. Do Buffett mua nó, Scott Fetzer đã phân phối trên 100% phần tiền lãi của nó cho Berkshire, trong khi đồng thời tiếp tục tăng lợi nhuận. Trong những năm gần đây, Warren Buffett đã chuyển sự quan tâm của Berkshire tới các công ty, thay vì cổ phiếu như trước đây. Bản thân câu chuyện về cách thức Buffett mua lại những công ty đa dạng này quả là thú vị. Có lẽ nên nói kỹ hơn về điểm này. Những câu chuyện giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc giá trị trong cách thức đánh giá các công ty của Buffett. Trong chương này, chúng ta dành một khoảng thời gian để tìm hiểu đôi chút về ba trong số các vụ mua lại này. Dưới đây là một số ví dụ về các vụ mua lại gần đây minh hoạ cho một loạt các ngành rộng lớn trong tập đoàn Berkshire: • Lợi tức của Loom, công ty sản xuất 1/3 số đồ lót nam bán trên thị trường Mỹ. Berkshire mua lại công ty này năm 2002 với giá 835 triệu đô la, sau khi tính toán phần lãi suất thu được trên khoản nợ giả, còn lại 730 triệu đô la. • Garan, nhà sản xuất quần áo trẻ em, bao gồm cả dòng sản phẩm Garanimals nổi tiếng. Berkshire đã mua lại công ty này năm 2002 với giá 270 triệu đô la. • Mitek, công ty sản xuất phần cứng cấu trúc cho ngành công nghiệp xây dựng, được Berkshire mua lại năm 2001 với giá 400 triệu đô la. Một phần thú vị của vụ mua lại này là hiện tại Berkshire chỉ sở hữu 90% công ty. 10% còn lại do 55 nhà quản lý yêu mến công ty và muốn trở thành chủ sở hữu của công ty nắm giữ. Tinh thần doanh nghiệp của của ban quản lý này là một trong những phẩm chất mà Buffett kiếm tìm. • Larson-Juhl, nhà cung cấp vật liệu khung hàng đầu cho các cửa hàng khung theo đơn đặt hàng, được Berkshire mua lại năm 2001 với giá 225 triệu đô la. • Dịch vụ kinh doanh CORT, cho các văn phòng và các phòng đồng sở hữu thuê đồ đạc chất lượng, được Berkshire mua lại năm 2000 với giá 467 đô la, bao gồm cả 83 triệu đô la nợ. • Ben Bridge Jeweler, một chuỗi cửa hàng West Coast do cùng một gia đình sở hữu và điều hành trong bốn thế hệ. Yêu cầu khi mua lại cửa hàng đó là gia đình Brigde vẫn tiếp tục quản lý công ty. Berkshire mua lại công ty này vào năm 2000 với mức giá không được công bố công khai. • Justin Industries, chuyên sản xuất ủng phương Tây (Justin, Tony Lama, và những nhãn hiệu khác) dưới nhãn hiệu Acme, được Berkshire mua lại năm 2000 với giá 600 triệu đô la. • Benjamin Moore, sản xuất sơn trong 121 năm được Berkshire mua lại năm 2000 với giá 1 tỉ đô la. • Shaw Industries, nhà sản xuất thảm lớn nhất thế giới. Berkshire mua lại 87% công ty hồi năm 2000 và phần còn lại vào đầu năm 2002, với tổng số tiền mua lại là 2 tỉ đô la. Hiện tại, ngoại trừ ngành bảo hiểm, Shaw là công ty lớn nhất của Berkshire với lợi nhuận năm 2003 là 436 triệu đô la. Cayton Homes Năm 1996, James Clayton, con trai của một người lĩnh canh Tennessee, bắt đầu ngành kinh doanh nhà di động với 25 triệu đô la tiền đi vay. Trong vòng bốn năm, Clayton Homes bán được 700 ngôi nhà mỗi năm. Hiện tại, Clayton là một trong những nhà sản xuất nhà di động lớn nhất nước Mỹ, với khoảng 1,2 tỉ đô la doanh thu trong năm 2003. Các mẫu nhà rất phong phú, từ loại khiêm tốn (45 m2 giá 10 triệu đô la) tới loại xa xỉ (100 triệu đô la cho 135 m2, với sàn nhà gỗ cứng, đồ gia dụng thép chống gỉ, và bếp nấu riêng). Clayton có khoảng 976 đại lý bán lẻ tại Mỹ, bao gồm 302 cửa hàng thuộc sở hữu của công ty, 86 văn phòng kinh doanh cộng đồng thuộc sở hữu của công ty, và 588 cộng đồng sản xuất nhà tại 33 bang. Công ty cũng sở hữu và điều hành các chi nhánh bảo hiểm, phục vụ nợ, cho vay tài chính. Công ty phát hành cổ phiếu lần đầu vào năm 1983, và Berkshire Hathaway mua lại công ty vào tháng Tám năm 2003 với giá 1,7 tỉ đô la. James Clayton thu được kinh nghiệm và kiến thức từ khó khăn. Vì cha mẹ ông từng phải làm những công việc nặng nhọc (cha ông nhặt sợi cotton, còn mẹ ông làm việc trong một nhà máy sản xuất áo sơ mi) nên Clayton xác định sẽ phải thoát khỏi khó khăn. Ông kiếm tiền trang trải tiền học tại trường Đại học Tennessee bằng nghề chơi ghi ta trên đài. Cuối cùng, ông trở thành khách mời bán thời gian cho chương trình Startime, một chương trình thay đổi hàng tuần trên kênh truyền hình Knoville và hát cùng những người như Dolly Parton. Khi còn học Đại học, ông bắt đầu kinh doanh ô tô second-hand với một nhóm bạn học, nhưng đến năm 1961 công việc kinh doanh phá sản khi ngân hàng thu hồi khoản vay của ông. “Cha tôi đã chắc chắn rằng chúng tôi sẽ phải vào tù và tôi tự nhủ với bản thân mình rằng tôi vô tội. Tôi sẽ không bao giờ bị tổn hại trước ngân hàng một lần nào nữa”. Vụ mua lại Clayton Homes là một câu chuyện điển hình của Buffett. Nhưng nó lại là một câu chuyện không điển hình so với phần còn lại của giới kinh doanh. Khía cạnh đầu tiên của câu chuyện đó là Buffett có kinh nghiệm thực tiễn với ngành này. Năm 2002, Berkshire mua lại số chứng khoán ế ẩm từ Oakwood Homes, một hãng sản xuất nhà di động khác. Tháng Hai năm 2003, Al Auxier, giáo sư tài chính tại trường Đại học Tennessee, đưa một nhóm sinh viên MBA tới Omaha để gặp gỡ Buffett trong một buổi mà Auxier mô tả là “hai giờ cho và nhận”. Đó là lần thứ 15 Auxier tổ chức chuyến thăm viếng thế này, và nó trở thành truyền thống cho các sinh viên tới thăm mang một món quà cảm ơn dành tặng Buffett. Lần này, món quá là một cuốn tự truyện của James Clayton, người đã đặt công ty của ông tại Knoxville. Sau khi đọc xong cuốn sách, Buffett gọi cho con trai Kevin của Clayton, hiện đang giữ chức CEO. “Như tôi nói với Kevin, rõ ràng ông vừa là người có năng lực vừa là một thợ săn thẳng thắn. Ngay sau đó, tôi đã đưa ra lời mời chào cho một doanh nghiệp chỉ dựa trên cuốn sách của Jim, đánh giá của tôi về Kevin, tình trạng tài chính công khai của Clayton và điều tôi đã học được từ kinh nghiệm Oakwood”. Hai tuần sau, Berkshire thông báo vụ mua lại Clayton Homes. Buffett nói: “Tôi thực hiện thương vụ làm ăn qua điện thoại mà chưa bao giờ nhìn thấy nó”. Mùa thu năm 2003, Buffett được mời tới tham dự hội nghị chuyên đề MBA của trường Đại học Tennessee. Ông kể lại câu chuyện của Clayton, và sau đó thuyết trình trước toàn thể các sinh viên từ trường đại học Berkshire Hathaway. Mỗi sinh viên cũng được tặng một cổ phiếu hạng B của Berkshire và giảng viên của họ, Al Auxier, được tặng một cổ phiếu hạng A. McLance Company Năm 1894, Robert McLane thoát khỏi nạn đói hậu Nội chiến của vùng Nam Carolina, chuyển tới sinh sống tại Cameron, bang Texas, và bắt đầu mở một cửa hàng tạp phẩm nhỏ. Qua nhiều năm, ông phát triển cửa hàng thành một cửa hàng tạp phẩm bán buôn và công ty phân phối. Con trai ông, Robert D. McLane, nổi tiếng với tên đệm Drayton, đã tham gia công ty năm 1921. Con trai của Drayton, Drayton Jr. bắt đầu làm việc trong công ty gia đình khi lên chín tuổi, và đã dành nhiều ngày thứ Bảy suốt thời niên thiếu để lau sàn nhà kho. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông tham gia công ty toàn thời gian. Cuối cùng, Drayton Jr. thuyết phục được cha ông rời công ty tới gần một con đường cao tốc giữa các tiểu bang. Sau đó đến năm 1962, toàn thể công ty tự động hoá với việc sử dụng máy vi tính. Năm 1990, ông bán công ty cho người bạn thân Sam Walton, và McLane trở thành một chi nhánh của Wal - Mart, cung cấp cho các cửa hàng của Wal - Mart và các cửa hàng câu lạc bộ của Sam, cũng như các cửa hàng tiện lợi và các nhà hàng ăn nhanh trên khắp đất nước với tất cả mọi thứ từ đậu phộng tới hạt tiêu. Năm 2003, McLane trở thành nhà phân phối lớn nhất ở Mỹ cho các cửa hàng ở góc phố và cửa hàng tiện lợi. Các hệ thống phần mềm cải tiến giá cả, cước phí, vận chuyển và quy trình bán hàng và dịch vụ vận chuyển hoàn hảo đã biến công ty thành một công ty vận chuyển trọn gói hiệu quả. Một công ty được điều hành tốt, hiệu quả được xây dựng dựa trên nền tảng những nguyên lý bền vững và thể hiện khả năng lợi nhuận bền vững chính là điều Warren Buffett mong muốn. Tháng Năm năm 2003, Berkshire thông báo công ty mua lại McLane với giá 1,45 tỉ đô la tiền mặt và cộng thêm một khoản 1,2 tỉ đô la nợ phải trả. Vụ mua lại khiến McLane tăng trưởng thậm chí mạnh hơn. Ví dụ như, thông qua vụ mua bán giúp công ty theo đuổi những hợp đồng phân phối với một chuỗi siêu thị và các đối thủ cạnh tranh của Wal-Mart như Target, và Dollar General. Trong thư gửi các cổ đông năm 2003, Buffett viết: “Trước đây, một số nhà bán lẻ lảng tránh McLane bởi vì công ty này do đối thủ cạnh tranh chính của họ làm chủ sở hữu. Nhưng Grady Rosier, CEO cấp cao của McLane, đã giành được một số trong các hợp đồng này. Ông đã bước một bước dài trong ngày hoàn tất sự thỏa thuận mua bán và nhiều điều khác nữa sẽ tới”. The Pampered Chef Năm 1980, Doris Christopher, cựu giảng viên môn kinh tế học gia đình và là người mẹ luôn ở nhà, đang tìm kiếm một công việc bán thời gian để có thêm thu nhập cho gia đình nhưng vẫn cho phép bà có thời gian dành cho hai con gái bé bỏng. Bà quyết định nâng cao những gì bà biết đó là nấu ăn và dạy học. Và bà đã nảy ra tới ý tưởng bán những đồ dùng nấu bếp tại nhà. Vì vậy, bà quyết định mượn ba nghìn đô la tiền bảo hiểm nhân thọ, đi mua sắm tại một siêu thị bán buôn và mua hết 75 đô la những mặt hàng bà yêu thích, sau đó bà nhờ một người bạn dẫn chương trình trong bữa tiệc giới thiệu sản phẩm. Christopher có phần lo lắng trước bữa tiệc đầu tiên, nhưng bữa tiệc đó đã thành công rực rỡ. Không chỉ tất cả mọi người đều có một khoảng thời gian tuyệt vời mà một số vị khách mời còn mong muốn được dẫn chương trình cho bữa tiệc. Đó là điểm khởi đầu cho Pampered Chef, một công ty chuyên bán các đồ dùng nấu bếp cho những người sành ăn qua kênh bán hàng trực tiếp và những bữa tiệc tại nhà. Người phụ nữ 34 tuổi Christopher, không hề được đào tạo về kinh doanh, đã khởi nghiệp tại tầng hầm trong ngôi nhà của bà ở Chicago bằng ba nghìn đô la đi vay. Trong năm đầu tiên, làm việc cùng chồng, bà có doanh thu 50 nghìn đô la. Năm 1994, Pampered Chef được xếp hạng trong danh sách 500 công ty tư nhân có tốc độ phát triển nhanh nhất tại Mỹ, và Christopher được tạp chí Working Woman công nhận là một trong top 500 phụ nữ là chủ doanh nghiệp xuất sắc. Doris Christopher khởi đầu công ty với một niềm tin mãnh liệt rằng cùng sum họp trong một bữa ăn sẽ giúp những thành viên trong gia đình gần gũi nhau theo cách mà chỉ một số ít người khác có kinh nghiệm sánh được. Triết lý kinh doanh đó đã hình thành và dẫn lối cho Pampered Chef từ khi mới bắt đầu hoạt động, và nó chính là điểm mấu chốt trong phương pháp kinh doanh: Một bài thuyết trình của người chào hàng thân thiện, thực tế cho những người nội trợ theo cách liên hợp chất lượng của đời sống gia đình với chất lượng của sản phẩm nấu bếp. Rất nhiều “nhà tư vấn bếp núc” của công ty, như họ vẫn được gọi, là những người mẹ luôn ở nhà, và phần lớn việc bán hàng được tiến hành tại nhà họ trong các “chương trình nấu bếp”. Đó là những chương trình nấu ăn nơi những vị khách được chứng kiến trực tiếp những sản phẩm nấu bếp và công thức làm món ăn cùng kết hợp với nhau, học nhanh chóng và dễ dàng những kỹ thuật chuẩn bị đồ ăn và thu nhận những mẹo vặt về cách đãi khách và tạo sự thoải mái cho khách. Các sản phẩm đều là những dụng cụ nấu bếp và tủ để thức ăn có chất lượng cao. Khoảng 80% những sản phẩm này chỉ duy nhất có tại công ty hoặc chỉ có thể mua tại các đại lý bán hàng của The Pampered Chef. Ngày nay, Pampered Chef có 950 nhân viên tại Mỹ, Đức, Anh, và Canada. Các sản phẩm của công ty được bán thông qua trên 71 nghìn nhà tư vấn độc lập trong những chương trình nấu ăn tại nhà. Hơn một triệu chương trình biểu diễn nấu bếp được tổ chức trên khắp nước Mỹ trong năm 2002, tạo ra doanh thu bán hàng đạt 730 triệu đô la. Và món nợ duy nhất công ty đó là 3 nghìn đô la tiền ban đầu. Năm 2002, Doris Christopher nhận ra rằng trong trường hợp bà bất ngờ bị ốm hoặc quyết định phát triển chậm lại, Pampered Chef cần phải có một kế hoạch trù bị. Vì vậy, theo lời khuyên của những chủ ngân hàng của bà ở Goldma Sachs, bà đã tiếp cận Warren Buffett. Tháng Tám năm đó, Christopher và người sau đó trở thành CEO của bà, bà Sheila O’Connell Cooper, đã có buổi gặp gỡ Buffett tại văn phòng trụ sở chính của ông ở Omaha. Một tháng sau, Berkshire thông báo công ty mua lại Pampered Chef với giá xấp xỉ 900 triệu đô la. Nhớ lại buổi gặp gỡ hồi tháng Tám, Buffett viết cho các cổ đông của Berkshire rằng: “Tôi chỉ mất khoảng 10 giây để quyết định rằng đây là hai nhà quản lý mà tôi mong muốn hợp tác, và chúng tôi nhanh chóng ký kết hợp đồng. Tôi tới tham dự một bữa tiệc của Pampered Chef và quả thật là dễ dàng nhận ra tại sao ngành kinh doanh này lại thành công. Những sản phẩm của công ty, trong phần lớn tài sản, đều có phong cách riêng và có tính hữu dụng cao, và những nhà tư vấn có kiến thức uyên thâm và rất nhiệt tình. Mọi người đều có một khoảng thời gian thoải mái”. *** Buffett thường được hỏi là ông sẽ mua những loại hình công ty nào trong tương lai. Ông nói, trước hết, tôi sẽ tránh những công ty sản xuất hàng tiêu dùng và những nhà quản lý mà tôi không mấy tin tưởng. Ông đặt ra ba tiêu chuẩn: Đó phải là loại công ty mà ông hiểu, hoạt động kinh doanh tốt, và phải do những nhà quản lý đáng tin cậy điều hành. Đó cũng là những tiêu chuẩn ông tìm kiếm khi mua cổ phiếu và cùng với lý do tương tự. Đầu tư vào chứng khoán Rõ ràng là rất ít người trong chúng ta sẽ mua toàn bộ công ty như Buffett đang làm. Những câu chuyện về các công ty được đề cập trong chương này bởi vì chúng giúp chúng ta hiểu biêt sâu sắc về lối suy nghĩ của Buffett. Lối suy nghĩ tương tự như vậy cũng áp dụng cho những quyết định của ông khi mua cổ phiếu. Điều đó thể hiện một vài ví dụ mà những người bình thường có thể làm theo. Chúng ta không thể mua cổ phiếu theo quy mô giống như Warren Buffett, nhưng chúng ta có thể thu được lợi nhuận khi quan sát điều ông làm.