🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phương Pháp Cứu Thương
Ebooks
Nhóm Zalo
Tên sách : PHƯƠNG-PHÁP CỨU-THƯƠNG
Tác giả : MỘT NHÓM BÁC-SĨ BIÊN SOẠN
Nhà xuất bản : THỜI TRIỆU
373 đại lộ Võ-Di-Nguy, Phú-Nhuận
SAIGON–VIỆT-NAM
Năm xuất bản : In lần thứ ba năm 1965
------------------------
Nguồn sách : Diễn đàn TVE-4U
Đánh máy : haycuoi9802
Kiểm tra chính tả : Thư Võ
Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 29/11/2017
Ebook này được thực-hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA I000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG
Cảm ơn các BÁC-SĨ và nhà xuất bản THỜI TRIỆU đã chia sẻ những kiến thức quý giá.
MỤC LỤC
ĐÔI LỜI CẢM TẠ
LỜI TỰA
CÁCH DÙNG BẢNG SÁCH-DẪN
I. TẠI SAO CÓ CỨU-THƯƠNG VÀ CỨU-THƯƠNG CÁCH NÀO ?
2. CÁC VẾT-THƯƠNG THƯỜNG và CÁCH ĐIỀU-TRỊ VẾT-THƯƠNG ĐƯỢC CHIA LÀM BỐN LOẠI
SỰ NHIỄM-ĐỘC
CỨU-CẤP CÁC VẾT-THƯƠNG
3. CÁC VẾT-THƯƠNG ĐẶC-BIỆT và CÁCH ĐIỀU-TRỊ CÁC VẾT THƯƠNG LỦNG
VẾT-THƯƠNG DO ĐẠN BẮN
CÁC VẾT PHỎNG VÌ THUỐC SÚNG
CÁC VẾT-THƯƠNG NHIỄM ĐỘC
CÁC VẾT-THƯƠNG Ở BỤNG
BỊ LOÀI-VẬT CẮN
ĐIÊN-DẠI HAY KHIẾP NƯỚC
RẮN CẮN
VẾT-THƯƠNG CÓ VẬT-THỂ Ở TRONG
VẬT THỂ LẠ TRONG MẮT VÀ CÁC VẾT-THƯƠNG NƠI MẮT CHẢY MÁU CAM
XUẤT-HUYẾT BÊN TRONG
CÁC NỘI-THƯƠNG
4. KÍCH-NGẤT
5. GÃY XƯƠNG
BỊ THƯƠNG NƠI ĐẦU VÀ BỂ SỌ
GÃY XƯƠNG MŨI
GÃY XƯƠNG HÀM
GÃY XƯƠNG QUAI-XANH
GÃY XƯƠNG SƯỜN
GÃY XƯƠNG CÁNH TAY TRONG
GÃY XƯƠNG CÙI-CHỎ
GÃY XƯƠNG CÁNH TAY VÀ KHUỶU TAY
GÃY HAY DẬP XƯƠNG BÀN TAY VÀ CƯỜM TAY GÃY XƯƠNG NGÓN TAY
GÃY XƯƠNG-SỐNG VÀ GÃY CỔ
BỂ XƯƠNG CHẬU
GÃY XƯƠNG ĐÙI
BỂ XƯƠNG BÁNH-CHÈ
GÃY XƯƠNG ỐNG CHƠN
DẬP BÀN CHƠN VÀ NGÓN CHƠN
SAI KHỚP XƯƠNG
BONG GÂN
GIÃN GÂN
VẾT BẦM
6. CÁCH BĂNG-BÓ
BĂNG BỐN ĐUÔI
7. TRÚNG ĐỘC
CÁCH ĐIỀU-TRỊ NHỮNG CHẤT ĐỘC THÔNG-THƯỜNG TRÚNG ĐỘC VÌ THỨC ĂN
NẤM ĐỘC
8. HÔ HẤP NHƠN-TẠO
CỨU-CẤP NHỮNG TAI-NẠN NGỘP THỞ
CHẾT VÌ ĐIỆN GIỰT
SÉT ĐÁNH
9. CỨU-CẤP NHỮNG TRƯỜNG-HỢP THÔNG-THƯỜNG PHỎNG NẮNG
TRÚNG NẮNG VÀ TRÚNG NÓNG
LẢ VÌ NÓNG
VỌP BẺ VÌ NÓNG
LÀM KINH
KINH-PHONG
XỈU (chết ngất)
10. DỜI CHỖ NẠN-NHƠN
CÁC KIỂU BĂNG-CA
CÁCH ĐẶT NẠN-NHƠN VÀO BĂNG-CA
DÙNG GHẾ ĐỂ KHIÊNG
DÙNG TAY KHÔNG ĐỂ KHIÊNG NẠN-NHƠN
ĐỠ NẠN NHƠN ĐI
TÁM NGƯỜI KHIÊNG
CHUYÊN-CHỞ BẰNG XE
11. TRANG-BỊ HỘP CỨU-THƯƠNG
In lần thứ nhất 20.000 quyển
(Tháng I0 năm I962)
In lần thứ nhì I5.000
(Tháng 3 năm I963)
In lần thứ ba 27.000 quyển
(Tháng 4 năm I965)
Nhà xuất bản giữ bản quyền
Phương-pháp CỨU-THƯƠNG
MỘT NHÓM BÁC-SĨ BIÊN SOẠN
NHÀ XUẤT BẢN THỜI TRIỆU
373 đại lộ Võ-Di-Nguy, Phú-Nhuận SAIGON–VIỆT-NAM
PHƯƠNG-PHÁP CỨU-THƯƠNG
Quyển sách được thực-hiện với sự hợp-tác của các vị: Bác-sĩ Hubert Swartout
Bác-sĩ Clifford R. Anderson
Bác-sĩ Robert V. Shearer
Bác-sĩ Ellsworth E. Wareham
Cùng các bác-sĩ chuyên khoa:
Harry S. Grandle, nhãn-khoa
Dudley Jackson, nọc rắn
D. L. Harris, thú-y
Ronald H. Selvester, nội-thương
Alonzo J, Neufeld, chỉnh-hình
A. Kendal Brown, giải-phẫu
Vernon L. Nickel, giải-phẫu xương
L. Harold Caviness, thần-kinh
Và nhiều vị bác-sĩ khác …
ĐÔI LỜI CẢM TẠ
TRONG lần xuất bản đầu, quyển PHƯƠNG-PHÁP CỨU THƯƠNG được ấn-hành 20.000 bản và đã được bán hết trong vòng ba tháng. Các đại-lý của chúng tôi yêu-cầu gởi thêm sách đến cho họ mỗi ngày mỗi cấp-bách hơn, nhưng khốn nỗi, ngay nhà xuất-bản cũng không còn lại một quyển nào cả. Đây là một hiện-tượng hiếm-có, nếu không muốn nói là mới có lần đầu-tiên trên đất Việt Nam. Sở-dĩ có được hiện
tượng nầy là vì quí độc-giả đã ý-thức được nhiệm-vụ của mình đối với sự sống-còn của chính bản-thân mình, cũng như đối với sự an-khương chung của xã-hội mà mình đang sống.
Chúng tôi cũng muốn làm phận-sự mình cách đầy-đủ nên vội cho tái-bản quyển PHƯƠNG-PHÁP CỨU-THƯƠNG sau khi đã nhuận-chính, thêm nhiều mục cần-thiết và hình-ảnh chỉ-dẫn rõ-ràng. Các chương-mục cũng được sắp-xếp lại cẩn
thận để tiện việc nghiên-cứu.
Nếu quyển PHƯƠNG-PHÁP CỨU-THƯƠNG trước được coi là đầy-đủ, thì quyển tái-bản lại càng đầy-đủ hơn. Quyển PHƯƠNG-PHÁP CỨU-THƯƠNG mà bạn đang cầm trong tay không phải là ý-kiến riêng của một người, nhưng được rút ra từ những tài-liệu học-tập của Hội Hồng-Thập-tự Mỹ, Hội Hồng-Thập-tự Anh, Hội St. John Ambulance, Hội Andrews Ambulance; theo tài-liệu của các sách Modern Ways to Health, The New Modern Medical Counselor, Guardian of Health; cùng các tạp-chí Vie et Santé, Home and Health, Life and Health và Reader’s Digest. Bạn có thể vững lòng tin và làm theo cách-thức chỉ-dẫn trong quyển sách nhỏ nầy, vì đây là tập tài-liệu mới và xác-thực nhứt được toàn thế-giới công-nhận qua các tác-phẩm kể trên.
Để tỏ lòng biết ơn và đáp lại một phần nào sự ủng-hộ của độc giả, nên chúng tôi tự mang lấy mọi khoản phí-tổn mà chúng tôi có thể chịu-đựng nổi, để quyển sách thuộc loại
chuyên-khoa nầy được bán ra với giá bình-dân. Chúng tôi xin thành-thật chịu lỗi cùng quí-vị độc-giả phải chờ khá lâu mới nhận được quyển sách nhỏ nầy, và với I5.000 quyển của lần tái-bản chúng tôi cũng không cung-cấp đủ cho số nhu-cầu cấp-bách hiện nay, nên mới có lần ấn-hành thứ ba nầy.
Chúng tôi xin thành-thật cảm-tạ quí độc-giả bốn phương đã thúc-đẩy cho quyển PHƯƠNG-PHÁP CỨU-THƯƠNG phải lại tái-bản trong thời-gian quá ngắn, và nguyện sẽ cố-gắng hơn nữa trong chức-vụ mình.
NHÀ XUẤT BẢN
LỜI TỰA
CHÚNG TA ai nấy đều vui-mừng tiếp-đón và tận-dụng những sản-phẩm của văn-minh, vì chúng giúp đời sống ta thêm tiện-nghi mọi bề, rất thích-ứng cho cuộc sống vội-vã của thế-đại nầy.
Song song với những phát-minh quí-báu kia, tai-nạn – dưới mọi hình-thức – càng ngày càng tăng; dân-chúng tựu lại xem – trong các tầng lớp – càng lúc càng đông; người góp ý thì nhiều nhưng mấy ai chịu ra tay cứu-giúp. Không phải họ lãnh-đạm với sự đau-khổ của các nạn-nhơn, nhưng có lẽ họ không biết nên khởi-sự từ đâu và kết-thúc chỗ nào cho hợp lý. Đôi khi có người quá hăng-hái, xông vào tiếp-trợ bằng cách ẵm bừa nạn-nhơn ra khỏi chỗ vừa xảy ra tai-nạn, hoặc kéo lê nạn-nhơn ra khỏi chiếc xe bị bẹp dúm rồi đưa ngay lên một chiếc taxi hoặc cyclo, cho chở thẳng đi bệnh-viện mà tuyệt-nhiên không quan-sát, tìm-kiếm hay săn-sóc các vết thương trước. Việc cứu-giúp như vậy chẳng khác nào lấy xăng tưới vào căn nhà đang cháy. Săn-sóc nạn-nhơn không đúng cách có thể giết chết họ trong khi bịnh-trạng không có gì nguy-kịch; hoặc làm cho nạn-nhơn phải tàn-tật suốt đời trong lúc chỉ cần điều-trị vài tuần-lễ là khỏi hẳn.
Không ai muốn tai-nạn đến cho mình hay người thân-yêu của mình. Nhưng không muốn không có nghĩa là sẽ chẳng bao giờ gặp nạn vì nó có thể xảy ra bất-cứ nơi nào và lúc nào. Một cây diêm quẹt trong bàn tay trẻ thơ có thể gây biết bao tang-tóc. Một đoạn dây điện bừa-bãi có thể gây tai-nạn thảm-khốc, mà người cứu-giúp nếu không biết cách, cũng đồng chịu chung số-phận với nạn-nhơn. Một phút nô-đùa vô ý-thức trên chiếc thuyền con với một người không thạo bơi
lội có thể làm ta ân-hận suốt đời nếu chính mình ta, hoặc người lân-cận không biết cách vớt-vát lại lỗi-lầm.
Trong lúc nước ta chưa có đủ phương-tiện để lập trạm
cứu-cấp ở các nẻo đường, thì mỗi người dân phải là mỗi người cứu-thương, để chẳng những chỉ lo cho mình, mà còn có thể cứu-giúp cho người khác nữa, vì học cứu-thương, trước hết, để tránh tai-nạn, sau mới đến việc cứu-cấp nạn nhơn một khi tai-nạn đã xảy ra.
Cũng vì ý-thức được nhiệm-vụ mình, nên chúng tôi cho phát-hành và phổ-biến sâu rộng những phương-pháp cứu thương thực-tế nầy. Dầu quí độc-giả ở trong thành-phần nào: Quân-nhân, cảnh sát, lao-công hoặc y-tá, huấn-luyện viên cứu-thương hay học sinh đều sẽ tìm thấy những lời chỉ-dẫn vô cùng quí-báu, vì quyển sách nầy được viết ra sau nhiều năm nghiên-cứu và thực-nghiệm của các bác-sĩ chuyên-môn trong ngành.
Đây là quyển sách KHÔNG THỂ THIẾU ĐƯỢC trong tủ sách gia-đình, học-dường, các đoàn-thể thanh-niên cũng như công, tư sở. Nó cũng là sách chỉ-dẫn duy nhứt mà mọi người nên đem theo bên mình trong mọi cuộc du-lịch cuối tuần hay những chuyến xê-dịch quan-trọng. Hãy-dành cho nó một chỗ tốt nhứt trong mọi phương-thức vận-chuyển phòng khi hữu sự nó sẽ luôn ở bên cạnh để giúp ta trong cơn bối-rối.
Nếu dùng nó làm sách giáo-khoa cấp-cứu trong các đoàn thể hướng-đạo, thanh-niên, cứu-thương quân sự, thì đây là quyển sách đầy-đủ và rõ-ràng nhứt trong các sách thuộc loại nầy, vì những phương-pháp nầy hiện đang được áp-dụng trong quân-đội của các nước tiền-tiến trên thế-giới và trong hội Hồng Thập-tự Quốc-tế.
Bây giờ quyển sách đã ở trong tay, chúng tôi tha-thiết mong quý độc-giả nghiên-cứu thật kỹ và tập-luyện cho thuần-thục trước khi thực-thụ bắt tay vào việc cứu-giúp bất cứ người nào; vì sự sống, chết của nạn-nhơn đã được quyết định ở trong tay người cứu-thương trước khi bác-sĩ chuyên nghiệp đến.
Nhà xuất-bản THỜI-TRIỆU
CÁCH DÙNG BẢNG SÁCH-DẪN
Đã có một quyển sách « PHƯƠNG-PHÁP CỨU-THƯƠNG » trong tủ thuốc gia-đình hay trên kệ sách, vào chỗ vừa tầm tay nhứt, vẫn chưa đủ, nếu không biết cách dùng bảng sách dẫn (trang I55 dến I58) để tìm mục đang cần trong thời-gian tối-thiểu.
Những mục cần-thiết được sắp-đặt theo mẫu-tự A, B, C, cho dễ tìm. Thí-dụ một trường-hợp mà ta nghi nạn-nhơn bị gãy xương nhưng không nhớ rõ dấu-hiệu, ta lật lại phần cuối của quyển sách cứu-thương nơi có BẢNG SÁCH DẪN rồi dò theo mẫu tự đến chữ G, ta sẽ gặp chữ GÃY XƯƠNG (trang 67). Trong đó có ghi rõ dấu-hiệu, các loại gãy xương và cách trị từng loại.
Muốn biết phương-thức trị rắn cắn, cũng theo cách-thức trên để tìm chữ RẮN CẮN (trang 39) ta cũng có thể tìm chữ Cắn. Trong đó khi đầy-đủ các loại thú cắn. Đọc lần xuống ta sẽ thấy chữ CẮN, rắn (trang 30).
PHỎNG là một tai-nạn rất thông-thường do nhiều yếu-tố gây nên. Trong trường-hợp cứu-cấp nguời bị phỏng, nên lật lại phần bảng sách-dẫn để tìm chữ PHỎNG. Trong ấy có thảo luận đến các loại phỏng như PHỎNG a-cít (trang 49), PHỎNG nắng (trang I35), PHỎNG vì thuốc súng (trang 33) và cách điều-trị từng loại một.
Trên đây chỉ là một vài ví-dụ. Quí độc-giả sẽ tìm thấy các phương điều-trị khác được liệt-kê đầy-đủ trong bảng sách dẫn.
Cầu chúc quí độc-giả thành-công trong việc cứu-cấp, để hàn-gắn vết-thương của người đau-khổ đang mong được sự cứu-giúp của quí-vị.
NHÀ XUẤT BẢN
I. TẠI SAO CÓ CỨU-THƯƠNG VÀ CỨU THƯƠNG CÁCH NÀO ?
TRƯỚC khi mời được bác-sĩ đến điều-trị, người chẳng may gặp tai-nạn phải được cứu-cấp ngay. Cứu-thương có nghĩa là sự khác nhau giữa sự sống và sự chết, giữa sự bình phục mau-lẹ và nằm điều-trị lâu ngày lại nhà thương, giữa sự suy-nhược tạm-thời với sự tổn-thương vĩnh-viễn. Trong mọi trường-hợp việc cứu-cấp thích-đáng làm giảm bớt cơn đau đớn và giúp việc điều-trị của bác-sĩ được dễ-dàng hơn. Khi bác-sĩ bắt đầu điều-trị thì trách-nhiệm của người cứu-thương đã xong. Người cứu-thương săn-sóc nạn-nhơn cho đến khi bác-sĩ tới.
Đời sống hằng ngày là bằng chứng rõ-ràng cần phải huấn-luyện cứu-thương. Bạn thấy một xe ca-mi-ông đụng một xe chở hành-khách, làm xe nầy lăn xuống ruộng. Tài xế ca-mi- ông đem một nạn-nhơn lên khỏi ruộng, để người ngồi trong xe bạn, đưa đến bịnh-viện. Là người cứu-thương, bạn biết rằng nếu đỡ không đúng cách chỗ gãy ở xương-sống có thể làm tổn-thương đến dây tủy và gây nên tê-bại. Vậy bạn hãy điều-khiển để việc cứu-cấp được đúng cách.
Bạn sẽ gặp những trường-hợp khẩn-cấp như thế nhiều hơn bạn tưởng. Mỗi năm hằng ngàn người chết vì bị thương khi gặp tai-nạn xe hơi. Biết bao nhiêu nạn-nhơn có thể thoát chết, nếu trong đám đông thường tụ lại khi tai-nạn xảy ra, có người được huấn-luyện cứu-thương kỹ càng.
Rắn cắn người là việc thường xảy ra. Ngay ở Huê Kỳ, mỗi năm rất nhiều người chết vì bị rắn cắn. Giả-tỉ con bạn bị rắn cắn trong lúc bạn đi nghỉ hè, thì-giờ ngắn-ngủi và những sự mê-tín vì rắn cắn thì rất nhiều và rất vô-dụng, nhưng một người cứu-thương biết cách hút nọc độc ra sẽ cứu được mạng người.
Tai-nạn về bơi-lội làm cho hằng ngàn người bị chết chìm mỗi năm. Phương-pháp cứu-thương thích-ứng có thể cứu được nhiều người hơn.
Tai-nạn là nguyên-nhơn của sự chết. Cứu-thương là một trong những phương-pháp hay nhứt để giảm bớt tai-nạn. Bảng thống-kê chứng-tỏ rằng những công-nhơn được huấn luyện về cứu-thương ít bị tai-nạn hơn những người không được huấn-luyện 50%. Biết phương-cách cứu-thương phòng ngừa tai-nạn vừa giúp cho việc điều-trị thích-đáng khi có tai nạn xảy ra. Cuốn sách nầy sẽ dạy ta hai điều quan-trọng như sau: Phải làm gì và đừng làm gì ?
Mục-đích của quyền cách cứu-thương nầy là:
a. Phòng-ngừa tai-nạn.
Kinh-nghiệm chứng-tỏ rằng những người được huấn luyện cứu-thương hiểu rõ về sự an-ninh và ít bị tai-nạn hơn những người không có ý-niệm gì về cứu-thương.
b. Huấn-luyện người ta làm điều phải đúng lúc.
Một người cứu-thương không coi mạch nạn-nhơn như một bác-sĩ, nhưng y biết đoán-định tính-chất và sự lan rộng của một vết-thương, cùng cách điều-trị vết-thương ấy.
c. Phòng-ngừa việc gây vết-thương thêm nặng hay nguy-hiểm.
Cứu-thương để phòng-ngừa các vết-thương làm độc, làm giảm hay ngăn-ngừa sự kích-ngất. Biết những điều không nên làm cũng quan-trọng như biết các phương-pháp thích đáng phải áp-dụng.
d. Biết cách chuyên-chở thích-đáng khi cần.
Nhiều tai-nạn xảy ra ở những địa-điểm xa nhà thương hay trạm cấp-cứu, thường cần phải chở nạn-nhơn đi để cứu
mạng sống họ hay nhờ nhà chuyên-môn điều-trị, nên phải dùng những phương-tiện thích-đáng để chở họ đặng phòng ngừa vết-thương nặng thêm.
HÃY NHỚ: Cứu-thương chỉ là điều-trị tạm-thời. Cách băng-bó phải đơn-giản và mau-lẹ để khi bác-sĩ đến, người khỏi mất nhiều thì-giờ trong việc tháo băng. Dụng-cụ của bạn phải hạn-chế.
Những lời chỉ-dẫn thông-thường sau đây sẽ giúp ta giải quyết vấn-đề cứu-thương một cách tin-cậy và thông-minh.
Nếu nạn-nhơn mửa, có thể quay đầu y sang một bên để phòng-ngừa nghẹt cổ.
I. Để người bị thương nằm cách thoải-mái, đầu và mình bằng nhau cho đến khi bạn biết rằng vết-thương có nặng hay không.
Đây là cách đề-phòng nạn-nhơn ngất-xỉu và tình-trạng gọi là kích-ngất. Một người không được huấn-luyện thường muốn người bị nạn ngồi dậy, hay cố giúp họ đứng lên. Bạn có thể nhắc đầu nạn-nhơn lên nếu mặt họ tụ máu. Nếu họ mửa, bạn có thể quay đầu họ sang một bên để phòng-ngừa ngẹt cổ.
2. Tìm xem có xuất-huyết, ngừng thở, trúng độc, phỏng, gãy xương, và trật khớp xương không ? Phải tìm đủ các vết-thương.
Sự đau-đớn là dấu-hiệu của bất-cứ vết-thương nào. Khi xem-xét một người bị thương, hãy hỏi họ xem có vết-thương nào nặng không.
Khi xem-xét một người bị thương, hãy cổi áo-quần đủ để
đoán-định bề rộng của vết-thương. Nếu cánh tay, chơn hay thân mình bị thương, tốt hơn hết là xé hay cắt bỏ mảnh quần-áo chỗ bị thương. Nếu có thể, xé chỗ đường chỉ may. Cổi quần-áo theo lối thông-thường có thể gây thêm sự đau
đớn vô-ích hay làm vết-thương nặng thêm. Nếu bạn thấy máu thấm qua quần-áo hay chảy ở cánh tay áo ra, cổi quần áo đủ để xem vết-thương rõ-ràng.
Bạn có thể đỡ nạn-nhơn lên nếu mặt họ tụ máu.
HÃY NHỚ: I-Chảy máu nhiều. 2-Ngừng thở, và 3- Trúng-độc. Phải điều-trị tức-thì theo thứ-tự như trên trước khi làm việc khác.
Trong nhiều trường-hợp, bạn có thể ghé sát tai vào ngực nạn-nhơn trong vài giây để đoán-định người ấy có còn thở hay không. Nếu ngừng thở vì nghẹt – như chết đuối, hít hơi độc, hay kích-ngất điện – cần phải tập thở nhơn-tạo liền (xem chương về thở nhơn-tạo). Nếu nạn-nhơn mà ngừng thở, mặt xám cũng cần phải áp-dụng phép thở nhơn-tạo.
Trong trường-hợp nhiều người cùng bị thương trong một tai-nạn, điều quan-trọng nhứt là người cứu-thương phải quan-sát mau-lẹ, và nạn-nhơn nào nặng nhứt, phải được điều-trị trước.
Điều quan-trọng phải làm trước nhất: Hãy hỏi thăm nạn nhơn để xem họ còn tỉnh không. Nếu còn tỉnh, thường thường họ có thể nói cho ta biết họ bị thương ở chỗ nào.
HÃY NHỚ: Nếu nạn-nhơn bất-tỉnh sau một tai-nạn dữ-dội, thường bị thương ở đầu.
Khi mũi hay hai tai chảy máu mà những bộ-phận ấy không bị thương, thường thường là dấu-hiệu bể sọ.
Xem môi và miệng có bị phỏng hay bầm tím không. Đây là những dấu-hiệu bị độc. Máu sùi ở môi là dấu-hiệu bị kinh giản. Ngửi hơi thở của nạn-nhơn xem có bị độc hay không, nhứt là khi không tìm thấy vết-thương nào.
Hãy dò mạch nạn-nhơn. Nên nhớ rằng mạch không nhảy không phải là dấu-hiệu chết. Chú-ý sắc mặt, mặt đỏ hay như thường, chỉ rằng mạch và máu chạy điều-hòa. Mặt tái chỉ rằng mạch yếu và máu chạy không đều. Trong những trường-hợp chảy máu nhiều, bị nghi chảy máu bên trong, hay bị thương ở đầu đừng cho nạn-nhơn uống thuốc kích-thích.
3. Nên giữ nạn-nhơn cho ấm.
Tránh đắp nóng quá, nhưng giữ thân-thể ở độ nóng thường. Điều nầy cốt để phòng-ngừa kích-ngất nặng. Nếu thời-tiết mát, cần phải lót và đắp kín nạn-nhơn.
4. Phái người đi mời bác-sĩ hay xe hồng thập-tự.
Người được phái đi phải cho biết: địa-điểm của người bị thương, tính-chất, nguyên-do và bề rộng của vết-thương cùng những vật-dụng sẵn có để cứu-cấp. Việc báo-cáo đầy đủ rất cần-thiết để bác-sĩ biết phải đến chỗ nào, đem dụng cụ gì, và những phương-pháp phải áp-dụng, trước khi ông đến.
5. Giữ bình-tỉnh và đừng vội dời người bị thương nếu không thật cần-thiết
Đừng dời nạn-nhơn cho đến khi nào bạn biết rõ tính-chất và bề rộng của các vết-thương, và đã cứu-cấp rồi.
6. Không bao giờ nên cho người bất-tỉnh uống nước hay chất lỏng nào khác.
Nước có thể vào khí-quản và làm nghẹt thở người bất tỉnh. Nhưng nếu người ấy không bị thương nặng ở bụng và vẫn còn tỉnh-táo, ta có thể cho họ uống nước tùy thích nhưng uống chậm chậm từng hớp một. Rượu mạnh không phải thuốc thích-đáng để cứu-cấp. Chúng có thể làm hại lớn. Trà và cà-phê nóng rất tốt, nhất là khi nạn-nhơn bị lạnh.
7. Đừng cho người xem đứng gần người bị thương. Họ thường-thường ngăn-trở việc điều-trị
8. Làm cho nạn-nhơn được tiện-nghi và vui vẻ, nếu có thể.
Trấn-tỉnh để họ khỏi sợ và làm cho họ hy-vọng. Người bịnh cần phải vững tâm để tiện-lợi cho sự cứu-giúp và mau bình-phục.
9. Đừng để nạn-nhơn thấy vết-thương mình.
Trong những trường-hợp nặng, đừng cho họ biết họ bị thương nặng. Đừng làm bất-cứ việc gì cho họ tổn-thương thêm. Đừng làm bất cứ việc gì cho họ tổn-thương thêm. Đừng cho thân-nhơn họ biết đúng bịnh-tình để họ khỏi lo hoảng. Nói cho họ biết nạn-nhơn ở đâu, hay đã được đem vào dưỡng-đường, và cho biết những tin-tức khác cũng hữu
ích như vậy. Nhớ đừng mô-tả những vết-thương của nạn nhơn hay cho thân-nhơn họ biết những chi-tiết về thuốc men. Vì đó không phải nhiệm-vụ của người cứu-thương.
2. CÁC VẾT-THƯƠNG THƯỜNG và CÁCH ĐIỀU-TRỊ
VẾT-THƯƠNG là một sự bể da hay màng-niêm bọc trong một cái bọng thân-thể.
Các loại vết-thương (a) Trầy, (b) Đứt, (c) Rách và (d) Lủng (thủng)
VẾT-THƯƠNG ĐƯỢC CHIA LÀM BỐN LOẠI
I. TRẦY. Những vết-thương nầy do cọ-xát hay cạo da hoặc màng-niêm gây ra. Vết-thương nầy lan rộng bề mặt nên dễ làm độc.
2. ĐỨT. Các vết-thương nầy do dao, kéo, hay kiến bể gây ra. Máu chảy nhiều vì các huyết-quản bị cắt đứt, tổ-chức nhỏ chung-quanh vết đứt bị hủy-diệt, và các vết-thương nầy không dễ làm độc như các vết-thương khác.
3. RÁCH. Những vết-thương nầy do các dụng-cụ cùn (lụt) miểng bom, hay té nhằm những bề mặt có góc, cạnh gây ra. Theo qui-tắc, máu không chảy nhiều, vì các huyết quản bị rách tét chớ không đứt ngọt. Dễ nhiễm-độc vì bụi thường bị dính sâu vào các tổ-chức, máu chảy ít và các mô làm bờ của vết-thương bị hủy-diệt nhiều.
4. THỦNG (lủng). Những vết-thương nầy do những vật nhọn xuyên lủng như đinh, gai, đầu dây kẽm, đạn súng gây ra. Những vết-thương nầy không chảy máu nhiều, trừ khi một huyết-quản lớn bị tổn-thương. Vì khó rửa sạch nên các vết-thương nầy thường bị nhiễm-độc.
HÃY NHỚ: Các vết-thương có hai điều nguy-hiểm: nhiễm-độc và chảy máu nhiều.
Mỗi vết-thương đều có thể làm độc, dầu nhỏ cách nào cũng vậy, nhưng rất may là ít khi bị xuất-huyết.
SỰ NHIỄM-ĐỘC
Khi da bị bể, vi-trùng có thể vào trong vết-thương. Sự vào, lớn lên, sinh-sản nhiều thêm của vi-trùng trong vết thương gọi là nhiễm-độc. Kết-quả là nóng, đau, sưng, đỏ, và thường làm mủ.
Vi-trùng là một động-thực-vật quá nhỏ đến nỗi chỉ dùng kiến hiển-vi tốt mới thấy được. Chúng ở khắp mọi nơi: ngoài da, khắp thân-thể, trong quần-áo, trên bàn tay và ngón tay, trong mũi và miệng, trong mỗi vật ta cầm đến. Vài thứ vi
trùng có lợi như những thứ làm cho sữa chua, làm cho động vật và thực-vật chết bị tan-rả. các thứ khác làm hại thân-thể và sinh ra bịnh-tật như thương-hàn, yết-hầu, lao,… Những thứ khác làm vết-thương nhiễm-độc. Do những vết-thương nhiễm-độc chúng có thể vào trong máu đang tuần-hoàn và gây ra chứng huyết-khuần-nhiễm (septicémie), thường gọi là máu nhiễm-độc.
Da và màng-niêm không bể là sự bảo-vệ rất tốt chống các vi-trùng gây nhiễm-độc. Luôn-luôn có vi-trùng trên da và màng-niêm, nhưng khi da không bể thì ít bị nguy-hiểm vì nhiễm-độc.
HÃY NHỚ: Mặc dầu vết-thương nhỏ cách mấy nó luôn-luôn lớn đủ để hàng ngàn vi-trùng vào.
Bạn không thể ngẫu-nhiên bị thương mà tránh khỏi vô-số vi-trùng vào trong vết-thương. Nhà giải-phẫu phải chuẩn-bị tinh-vi trước khi mổ-xẻ bởi mục-đích chánh là giữ không cho vi-trùng vào trong vết-thương. Mặc dầu trong mọi vết
thương đều có những vi-trùng làm mủ, nhưng không phải hết thảy những vết-thương không điều-trị đều nhiễm-độc. Ba nguyên-nhân định-đoạt việc nhiễm-độc nầy như sau:
I. Số vi-trùng trong vết-thương: Càng ít vi-trùng trong vết-thương càng ít bị hiểm-họa nhiễm-độc, nếu các nguyên-
nhân khác đều quân-bình. Máu chảy giúp việc tống vi-trùng ra ngoài vết-thương.
2. Sức lớn lên và làm độc của vi-trùng: Vi-trùng cũng như hột giống, khác nhau tùy theo sức nhiễm-độc. Những vi trùng trong mủ một vết-thương nhiễm-độc rất mau lớn. Vi trùng phơi ngoài nắng lâu thường mất nhiều sức nhiễm-độc.
3. Sức chịu-đựng của thân-thể: Điều nầy lệ-thuộc nhiều nguyên-nhân và khác nhau từng lúc trong cùng một người. Giữa các nguyên-nhân chống nhiễm-độc khác, bạch-huyết cầu và vài chất khác trong máu có thể tiêu-diệt vi-trùng. Thường-thường tự chúng có thể thắng trận, nếu chúng thất trận, sự nhiễm-độc phát-triển. Một người bề ngoài mạnh khỏe không phải luôn-luôn chịu-đựng giỏi với các vi-trùng làm mủ.
HÃY NHỚ: Không thể nào định rõ ba nguyên-nhân nầy. Chỉ có một điều an-toàn phải làm là săn-sóc thích đáng mỗi vết-thương, ngay khi mới xảy ra, mặc dầu nhỏ cách mấy cũng vậy.
Nhiều hãng kỹ-nghệ đã giảm nhiều trường-hợp nhiễm độc trong vòng công-nhân bằng cách dạy họ săn-sóc thích đáng mỗi vết-thương tức-thì mặc dầu nhỏ cách mấy cũng vậy. Kết-quả là tiết-kiệm thì-giờ, tiền-bạc và phòng-ngừa các vết-thương gây tê-liệt.
Phần nhiều các sự nhiễm-độc là do những vết-thương rất nhỏ sinh ra. Nhất là những vết-thương rất nhỏ ở bàn tay, đặc-biệt là những vết-thương lủng lòng bàn tay, và bề mặt các ngón tay phía lòng bàn tay. Những vết-thương nơi da bọc ngón tay, nếu không được bác-sĩ điều-trị có thể phát-triển thành loại nhiễm-độc nặng nhứt, lan cả đến vỏ bọc gân và những phần mềm của bàn tay và bắp tay. Kết-quả cuối cùng là bàn tay bị liệt.
CỨU-CẤP CÁC VẾT-THƯƠNG
Cứu-cấp các vết-thương tùy theo chảy máu nhiều hay ít. Khi máu chảy ít, sự nhiễm-độc là điều nguy-hiểm chính.
Các vết-thương chảy máu ít
Bổn-phận chính của người cứu-thương là ngăn-ngừa không cho thêm vi-trùng vào trong vết-thương. Tránh đừng rửa vết-thương quá-đáng hay thoa chất sát-trùng vào. Luôn luôn nên đem đến bác-sĩ. Nếu là vết lủng, hay vết-thương ở ngón tay, ngón chân hay các khớp-xương, các kết-quả cuối cùng có thể rất nghiêm-trọng.
Đừng rờ vết-thương bằng tay, miệng, quần-áo hay vật gì dơ-bẩn. Chỉ nên dùng vải thưa đã sát-trùng.
Đừng rửa bằng nước và xà-bong. Làm vậy người cứu thương thế nào cũng đem theo một số lớn vi-trùng ở ngoài da, chung-quanh và ở nước vào trong. Khi chữa, bác-sĩ có thể phải rửa vết-thương nhưng đừng quên rằng, ông điều-trị chớ không phải cứu-cấp. Nhiều năm huấn-luyện giúp ông biết dùng những phương-pháp an-toàn mà người cứu-thương không bao giờ nên thử áp-dụng.
Đắp vải băng hay gạt sát-trùng lên vết-thương rồi băng chặt lại. Điều nầy phòng-ngừa vi-trùng vào trong vết-thương. Đừng để cái băng trợt trên da dơ-bẩn chung-quanh, vì nó sẽ dính vi-trùng và không còn tinh-sạch nữa. Nếu có sẵn, nên dùng vải dính để giữ vải băng khỏi sút.
Đừng làm bề máu đã đông lại. Ví-dụ, đừng xé vải thưa đang đắp trên vết-thương.
Các vết-thương chảy máu nhiều
Bổn-phận chính của người cứu-thương trong trường-hợp nầy là cầm máu tức-thì. Mất nửa phần máu trong thân-thể
luôn-luôn làm chết người. Mất trên một lít máu một lần có thể trầm-trọng hay nguy tính-mạng. Phải hết sức giữ cho vết-thương được sạch.
Luôn-luôn tháo quần, áo đủ để nhìn thấy rõ vết-thương. Làm việc mau chừng nào tốt chừng nấy, vì đây là một trong những trường-hợp phải làm mau-lẹ tuyệt-đối.
HÃY NHỚ: Trong tất-cả các trường-hợp máu chảy nhiều, phải chận mạch máu trước hết.
Không có lý gì mà một người bị ngoại-thương như ở tay, chân, đầu, hay ở cổ, mà máu chảy lại làm hại tính-mạng, nếu có một người hiện-diện biết dùng tay để cầm máu. Hãy lấy bàn tay đè đúng chỗ. (Xem hình những huyệt chánh trong cơ-thể).
Lấy miếng vải băng để đúng chỗ để cầm máu.
Khi máu chảy, nếu có sẵn, đắp ngay một miếng vải băng lên chỗ đang chảy, ấn mạnh xuống, rồi nới áp-lực chỗ đè huyệt để thử. Nếu vải băng giữ chặt có thể cầm máu, thì lấy dây băng cột chặt lại. Phải quan-sát thường để xem máu có chảy lại không. Nếu vải băng đè mạnh mà không cầm máu được, phải dùng dây thắt-mạch.
Bạn có thể đắp một miếng vải thưa sát-trùng dày, hay một khăn mù-soa sạch xếp lại, lên chỗ máu đang chảy, dùng bàn tay bốp mạnh cho đến lúc nào có thể lấy dây băng cột
chặt vải băng lại. Nếu có thể, kê cao chỗ bị thương để giúp việc cầm máu.
Chảy máu động-mạch.
Máu do động-mạch bị đứt phun có vòi – ngoại-trừ những trường-hợp mà động-mạch bị đứt ở sâu trong thịt thì rồi máu chảy có dòng đều.
Khi máu chảy ở các vết-thương trên sọ, và mặt, đắp vải thưa trên vết-thương rồi băng chặt máu sẽ cầm lại. Nếu không có dây băng, ta nên lấy bàn tay bóp mạnh vào chỗ vải băng. Dây băng cà-vạt để băng đầu có thể dùng trong những trường-hợp nầy.
Dùng cách nầy có thể cầm máu trong phần nhiều các vết thương ở các bộ-phận khác của thân-thể. Thường-thường chỉ dùng những phương-pháp khác khi nào một động-mạch hay tĩnh-mạch lớn bị đứt. Nếu khó duy-trì áp-lực bằng bàn tay, và máu chảy một trong tứ-chi, có thể dùng dây thắt-mạch (Tourniquet).
Có hai chỗ thuận-tiện cho việc áp-dụng dây thắt-mạch cách thích-đáng để cầm máu:
I. Chung-quanh cánh tay, cách dưới nách chừng một bàn tay.
Áp-dụng dây thắt-mạch nơi cánh tay để cầm máu.
2. Chung-quanh bắp-đùi, cách dưới háng chừng một bàn tay.
Cách dùng dây thắt mạch nơi chân.
Dây thắt-mạch phải là một cái băng dẹp, rộng ít nhất năm phân. Không bao giờ nên dùng dây thừng (luộc), dây kẽm, hay dây lưng. Dùng dây băng tam-giác xếp lại thành cà-vát hẹp là tốt nhứt, nhưng dùng thắt lưng (dây nịt), bít
tất (vớ), khăn mù-soa, hay vật gì tương-tự để thay thế cũng được.
Quấn băng chung-quanh tay hoặc chân hai vòng, nếu có thể, rồi cột gút lỏng. Để cái que ngắn hay vật gì tương-tự để trên nút lỏng rồi cột nút dẹp. Vặn cái que thật lẹ để thắt chặt dây thắt-mạch, hầu ép động-mạch và cầm máu.
Đừng thắt chặt quá. Giữ que bằng hai đầu dây băng đã cột, hay dùng một băng cà-vát khác buộc vòng quanh đầu dây rồi cột chung-quanh tay hay chơn. Cẩn-thận đừng cột chặt quá, có thể làm tổn-hại đến các động-mạch mãi-mãi.
Trong phần lớn các túi cứu-thương, dây thắt-mạch là một dây đai, cuộn vải. Ống cao-su hay miếng cao-su dẹp cũng là một dây thắt-mạch hảo-hạng, mặc dầu khi xếp để trong túi cứu-thương lâu, nó mất sức-mạnh và sức co-giãn. Dọc đường, có thể cắt một miếng ruột xe rộng chừng năm phân để làm dây thắt-mạch.
HÃY NHỚ: Dây thắt-mạch luôn-luôn là đồ dùng nguy-hiểm; nếu có thể dùng cách khác để cầm máu thì không nên dùng nó.
Dây thắt-mạch cắt đứt sự tuần-hoàn của máu trong chỗ bị thắt chặt, và nếu sự tuần-hoàn bị cắt đứt lâu quá, chỗ nầy sẽ chết, sinh ra chứng thúi thịt (gangrene). Cách I5 hay 20 phút thì nới dây thắt-mạch một lần, nhưng đừng tháo ra. Nếu máu không chảy nữa để dây thắt-mạch lỏng như vậy. Nếu máu còn chảy, gút chặt dây thắt-mạch lại.
Vặn dây thắt-mạch vừa phải để cầm máu trong động mạch. Ngược lại, nó thường làm chảy máu thêm bằng cách ngăn máu trở lại tim qua các tĩnh-mạch.
Đừng phủ dây thắt-mạch bằng dây băng hay que-đỡ. Nó có thể quên và không được nới lỏng khi cần-thiết.
Bây giờ đắp một miếng vải băng sát-trùng lên vết-thương rồi băng chặt lại. Vải thưa cung-cấp những khung để máu đông tụ ở trong đó. Điều nầy giúp-đỡ sự cầm máu nhiều. Nếu không có sẵn vải băng, hãy làm một vải băng cấp-thời; phơi vết-thương ra không-khí không hại gì hết, nhưng đừng dùng đồ dơ đắp lên vết-thương.
Khi lòng bàn tay chảy máu cũng có thể cầm máu bằng cách đắp một cuộn vải có bọc ngoài bằng vải thưa sát-trùng trên lòng bàn tay, nắm cứng tay lại, rồi lấy dây băng cột chặt.
Chảy máu ở tĩnh-mạch
Máu chảy ở tĩnh-mạch ra có dòng đều đều áp-lực yếu hơn máu chảy ở động-mạch nhiều, trừ trường-hợp tay hay chơn bị gãy. Phải cởi những đồ dùng thường thắt chặt cơ-thể như dây nịt, vớ, hay cổ giả, nếu chúng ở giữa vết-thương và trái tim.
Dùng ngón tay bóp mạnh theo bờ vết-thương, nhứt là bờ ở xa trái tim, cho đến khi có vật-liệu để làm vải băng. Khi máu chảy ở tĩnh-mạch ra, ta nên đắp một miếng vải thưa trên vết-thương rồi băng chặt lại, để cầm máu lại. Đoạn, nếu cần, lấy tay bóp mạnh ngay chỗ đắp vải thưa cho đến khi máu đông và thôi chảy, rồi dùng dây băng cột vải băng lại. Nâng cao chỗ bị thương để giúp cho sự cầm máu.
Các vết-thương nơi cổ
Các vết-thương nầy thường do dao, dao cạo hay kiến chắn gió xe hơi gây ra. Động-mạch hay tĩnh-mạch lớn – hoặc cả hai – có thể bị đứt. Trong trường-hợp ấy, dùng tay ấn mạnh cả phần trên và phần dưới vết-thương cho đến khi bác
sĩ bảo thôi mới lấy tay ra. Trong trường-hợp trầm-trọng như vậy đừng lo việc tay có thể đụng vào vết-thương. Có thể dùng vật-liệu nào xem ra là sạch nhứt trong lúc ấy làm băng đắp để lót dưới các ngón tay, vì máu ra làm cho cổ trơn, rất khó bóp chặt với tay không.
Các tĩnh-mạch trướng bị bể
Những tĩnh-mạch ở khắp chơn nhiều khi trương lên. Nếu chúng bị bể, máu do hai đầu của tĩnh-mạch bể chảy ra rất nhiều. Cần phải điều-trị ngay, nếu không có thể nguy đến tánh-mạng nạn-nhơn. Cũng trị như đã mô-tả trước đây: Nhắc cao chơn bịnh-nhơn lên, sau khi đắp vải băng và cột dây băng, bóp chặt ngang vết-thương. Phải nhờ bác-sĩ điều-trị.
Đề-phòng
Luôn-luôn mời bác-sĩ sớm chừng nào tốt chừng nấy. Đề nạn-nhơn nằm yên. Cử-động có thể làm máu đông tróc ra và chảy máu trở lại.
HÃY NHỚ: Trong tất-cả các trường-hợp chảy máu nhiều có thể bị kích-ngất; khi đã cầm máu rồi luôn-luôn
phải để-ý ngay đến điều ấy. Khi máu chưa cầm không nên cho uống cà-phê hay trà.
3. CÁC VẾT-THƯƠNG ĐẶC-BIỆT và CÁCH ĐIỀU-TRỊ
NHIỀU thứ vết-thương cần phải được chú-ý đặc-biệt. Những vết-thương bàn-luận trong chương nầy gồm có các vết-thương lủng, nhiễm-độc, bị thương ở bụng, bị thú-vật cắn, rắn cắn, những vết-thương mà các vật-thể lạ còn nằm ở trong, vật-thể lạ ở trong mắt và mắt bị thương, chảy máu mũi, chảy máu bên trong cơ-thể, và các nội-thương.
CÁC VẾT THƯƠNG LỦNG
Các vết-thương lủng có nhiều sự nguy-hiểm đặc-biệt và dễ nhiễm-độc hơn các vết-thương loét miệng vì những lý-do nầy:
I. Các vết-thương lủng thường ít chảy máu, cho nên không được máu rửa sạch.
2. Khó rửa sạch các vết-thương nầy. Ngay bác-sĩ cũng khó lấy bụi hay các vật-thể lạ ra.
3. Không-khí không vào được trong vết-thương. Sự thiếu không-khí giúp cho vài thứ vi-trùng dễ sinh-sản, nhứt là những thứ sanh ra sài-uốn-ván cũng gọi là phong đòn-gánh (tétanons).
Bịnh sài-uốn-ván sanh ra bởi thứ vi-trùng thường ở trong ruột ngựa hay các động-vật khác. Nó ở rải-rác khắp nơi nào có phân loài-vật – trên đường phố, bãi cỏ, trong vườn là nơi dùng phân để bón, xung-quanh các vựa lúa và chuồng trâu bò, ngoài đồng v. v.. Bụi ngoài đường phố do đế giày đem về nhà, luôn-luôn chứa rất nhiều vi-trùng nầy. Cây đinh sét (rỉ) mà bạn đạp phải không gây ra bịnh sài-uốn-ván, nhưng thường-thường đinh ở ngoài đường phố và chung-quanh các vựa lúa có vi-trùng nầy.
Khi bị liệng ra những chỗ bất-lợi, vi-trùng sài-uốn-ván có một hình-thức đặc-biệt và chịu-đựng được mưa, nắng, nóng, lạnh trong nhiều tháng. Đến khi nó được đặt vào những chỗ thuận-lợi trở lại, như trong một vết-thương lủng, nó lại bắt đầu sinh-sản mau-lẹ. Nó chỉ sinh-sản chỗ nào thiếu dưỡng
khí, và vì cớ không-khí không thể thông xuống vết-thương lủng nên vết-thương nầy trở thành chỗ sanh-sản thích-hợp đặc-biệt.
Để-phòng-ngừa bịnh sài-uốn-ván, nhưng rất khó trị lành nếu nó đã phát-triển. Vì thế những vết lủng phải được săn-
sóc đặc-biệt.
Cứu-cấp
Muốn cứu-cấp một vết-thương lủng, phải ấn nhẹ vết thương để máu chảy dễ-dàng, nhưng coi chừng đừng làm bầm-dập các mô chung-quanh vết-thương.
Luôn-luôn phải mời bác-sĩ
Bác-sĩ không những trị vết-thương thôi, nhưng thường chích thuốc phòng-ngừa bịnh sài-uốn-ván. Phương-pháp phòng-ngừa ấy thật hiệu-nghiệm. Trong trận đại-chiến thứ hai, người ta đã dùng rất nhiều thuốc nầy, và những binh-sĩ đã được chích ngừa ít khi bị sài-uốn-ván, dầu bịnh nầy là một trong những căn-nguyên chính làm hại tánh-mạng của nhiều người bị thương trong những trận chiến-tranh trước. Nhờ huấn-luyện và kinh-nghiệm, bác-sĩ biết rõ nên chích thuốc phòng-ngừa bịnh sài-uốn-ván hay không.
Một người mạnh-khỏe đã chích thuốc ngừa sài-uốn-ván sẽ không mắc bịnh nầy trong nhiều năm. Trong trận đại chiến thứ hai, toàn thể quân-nhân của các lực-lượng Hoa-Kỳ đều được chích thuốc nầy.
VẾT-THƯƠNG DO ĐẠN BẮN
Vết-thương nầy luôn-luôn chảy máu và ít nhất da bị lủng sâu ở chỗ đạn vào trong thân-thể. Có thể còn có một vết thương khác nữa, và thường lớn hơn nhiều, ở chỗ đạn ra khỏi thân-thể. Đạn súng săn có thể gây ra một vết rách lớn và nhiều lỗ thủng nhỏ. Nạn-nhơn có thể cảm thấy như thường, hay bị kích-ngất, bất-tỉnh và sắp chết.
Hậu-quả của vết-thương còn tùy-thuộc diện-tích của nó, chảy máu nhiều hay ít và có sự tổn-thương của các cơ-cấu thân-thể do một hay nhiều viên đạn gây ra. Một biến-chứng nguy-hại đến tánh-mạng nạn-nhơn là phong đòn gánh do vi
trùng ở quần-áo hay đất bị nhiễm-mầm đem vào trong vết thương.
Cứu-cấp
Phải điều-trị vết-thương đạn bắn như các vết-thương khác. Cố ngăn không cho máu chảy nhiều. Nếu dùng vải thưa hay vải gai sạch ấn mạnh vào vết-thương mà máu vẫn còn chảy, thì phải dùng đến dây thắt-mạch ở những bộ-phận nào có thể dùng được. Đừng rửa vết-thương nhưng phải lấy vải băng đã sát-trùng để lên rồi cột lại. Đừng cố lấy viên đạn ra. Những người chưa được huấn-luyện việc nầy mà cứ tìm cách để lấy viện đạn ra chỉ làm cho vết-thương trầm-trọng thêm. Để nạn-nhơn nằm yên. Đắp mền cho họ và nếu cần, nên dùng chai nước nóng để ấp cho ấm. Nên đưa nạn-nhơn đến bác-sĩ sớm chừng nào tốt chừng nấy với phương-pháp vận chuyển thích-đáng.
CÁC VẾT PHỎNG VÌ THUỐC SÚNG
Các nguyên-nhơn thông-thường là bị thuốc pháo hay thuốc súng văng phải. Có thể là da bị phỏng thật, nhưng sự nguy-hiểm chính thường bởi các vết-thương lủng do những miếng vụn của thuốc súng bị cháy ăn sâu vào da. Da có thể bị bụi đường phủ lên và các miếng vụn đem theo vi-trùng sài-uốn-ván vào vết-thương. Trừ khi được điều-trị thích-đáng bịnh sài-uốn-ván thường phát-triển. Việc cứu-cấp thì còn tùy nạn-nhơn bị phỏng thật hay chỉ là một vết-thương nhẹ. Luôn luôn phải đem nạn-nhơn đến bác-sĩ để ông điều-trị thêm và chích thuốc ngừa sài-uốn-ván.
Trong những trường-hợp nầy, không nên coi thường giá-trị của thuốc phòng-ngừa sài-uốn-ván.
CÁC VẾT-THƯƠNG NHIỄM ĐỘC
Vết-thương nhiễm-độc là một vết-thương mà các vi-trùng đã vào trong nhưng không bị giết bởi sức chiến-đấu của cơ thể hay bởi việc điều-trị. Vi-trùng có thể sanh-sản ngay trong vết-thương và trong những tổ-chức quanh đó.
Nguyên-nhân
Mỗi vết-thương ngẫu-nhiên đều có vi-trùng. Chúng có thể dính vào vật làm bị thương, hay là bị thương rồi, ở ngoài da bò vào vết-thương. Không bao lâu vi-trùng bắt đầu sanh-sản trong vết-thương và các tổ-chức chung-quanh. Liền khi ấy có một bức-tường ngăn không cho vi-trùng lan ra những bộ
phận khác của cơ-thể và vào trong máu đang tuần-hoàn. Hằng triệu tế-bào trắng trong máu đến để xây bức-tường nầy. Rất nhiều tế-bào chết trong lúc chiến-đấu và chi-thể của chúng hợp thành phần lớn của mủ thường có trong một vết
thương nhiễm-độc. Nặn vết-thương nhiễm-độc, sẽ làm sụp đổ bức-tường phòng-vệ nầy và sự nhiễm-độc có thể lan rộng.
Phòng-ngừa
Mỗi người phải cố-gắng phòng-ngừa các vết-thương nhiễm-độc. Cho nên khi bị thương phải điều-trị thích-đáng ngay từ lúc đầu. Sau khi đã băng-bó vết-thương nên tránh chà-xát hay làm tổn-thương thêm.
Các triệu-chứng
Hầu-hết mỗi người đều quen với những triệu-chứng nầy: sau khi bị thương vài giờ thấy nhức-đầu, tay hoặc chơn bị thương sưng lớn gấp hai hay ba lần lúc thường, ửng đỏ chung-quanh vết-thương nóng, thường có mủ, khi nào không có mủ thì có những vạch đỏ dài chung-quanh vết-thương tiến lần về thân mình. Các hạch bị sưng là một dấu-hiệu thường
xuyên của sự nhiễm-độc. Khi chơn bị nhiễm-độc, các hạch ở
háng bị sưng; khi tay bị nhiễm-độc, các hạch ở nách bị sưng; khi bị nhiễm-độc ở đầu các hạch ở cổ sưng lên. Sau rốt nếu bóp ở chỗ bị thương, thấy rất đau-nhức. Khi sự nhiễm-độc trở nên nặng, cơn sốt cũng phát-triển thêm.
Cứu-cấp
Quy tắc chánh yếu là: Luôn-luôn nhờ bác-sĩ khám ngay.
Nhiễm-độc luôn-luôn là một trạng-thái-quá nặng đến nỗi người cứu-thương không thể điều-trị được. Ngay bác-sĩ điều trị cũng khó lắm. Hãy đem đến bác-sĩ sớm chừng nào tốt chừng nấy để giúp sự điều-trị được dễ-dàng.
Có khi không thể mời bác-sĩ đến sớm được. Trong lúc chờ-đợi nên để người bịnh nằm nghỉ, tốt nhứt là ở trên giường. Bạn có thể đắp nước muối nóng. Dùng nước nấu sôi đựng trong cái xoang vừa dùng để nấu. Chế chừng ba muỗng xúp vung muối thường hay chừng sáu muỗng canh vung thuốc xổ muối với một lít nước. Nước phải nóng đến độ ta còn chịu nổi. Nếu có thể nên nhúng chỗ bị nhiễm-độc ngay vào trong nước muối. Nếu không, dùng một miếng vải xếp lớn nhúng vào nước muối vắt ráo rồi đắp lên vết-thương. Dùng khăn tắm mới giặt để đắp rất tốt. Nên thay vải đắp thường để giữ cho nóng, và đắp liên-tiếp trong I giờ. Cách ba bốn giờ lại đắp cho đến khi mời được bác-sĩ. Nâng cao chỗ bị thương cho bớt đau. Hãy nhớ rằng những điều nầy chỉ là những biện pháp tạm-thời. Phải nhờ bác-sĩ tức-thì.
CÁC VẾT-THƯƠNG Ở BỤNG
Các vết-thương do đạn bắn hay dao đâm rất nguy-hiểm. Bao-tử, ruột, một huyết-quản lớn, hay cơ-quan khác bên trong thường bị tổn-thương nặng và ngay bác-sĩ khi ngó bên ngoài cũng khó đoán chính-xác được. Thường cần phải giải
phẫu.
Để nạn-nhơn nằm ngửa yên-tịnh. Giữ cho ấm. Đừng cho uống gì hết, cả nước cũng vậy. Đừng cho uống thuốc kích thích, vì nạn-nhơn có thể bị xuất-huyết ngầm. Đừng thử rửa sạch vết-thương. Nên đắp một miếng vải băng sát-trùng lên rồi cột lại. Để nạn-nhơn nằm yên rồi chở đến bịnh-viện, cách cẩn-thận và mau-lẹ. Trong những trường-hợp nầy nạn-nhơn thường bị kích-ngất nặng.
Bị đứt bụng mà đổ ruột ra ngoài có thể do đồ dùng như dao hay dao cạo gây ra. Trong trường-hợp nầy, để nạn-nhơn nằm ngửa, lót áo dầy hay gối dưới đầu-gối. Đừng cố ấn ruột vô. Hãy đắp một miếng vải xếp sát-trùng lên và giữ cho ướt, vì nếu những cơ-cấu tế-nhị này trở nên khô có thể bị tổn
thương đến chết. Hãy pha một muỗng cà-phê muối với nửa lít nước chín để dùng giữ cho ruột ướt. Dùng bất-kỳ thứ nước nào mà ta thấy là sạch còn an-toàn hơn là để ruột khô. Để nạn-nhơn nằm rồi chở đi cẩn-thận. Nạn-nhơn thường bị kích
ngất nặng.
BỊ LOÀI-VẬT CẮN
Sau khi bị loài-vật cắn có thể bị nhiễm-độc nặng. Người ta thường bị chó và mèo cắn nhiều nhứt. Vết mèo cắn nguy hiểm đặc-biệt hơn vì răng mèo bén và cắn sâu. Mối nguy hiểm đặc-biệt do loài-vật cắn là bị nhiễm-độc có thể thành
điên-dại, hay khiếp nước.
ĐIÊN-DẠI HAY KHIẾP NƯỚC
Bịnh nầy do mầm-độc trong nước miếng của động-vật điên sanh ra. Tất-cả các loài-vật đang cho con bú đều có thể bị nghi là có mầm-độc nầy. Mầm-độc nầy thường vào thân thể do vết cắn hay vết-thương mới mà bị thú-vật liếm phải, hoặc khi nước miếng của loài-vật điên đụng vào màng-niêm của môi hay mũi. Khi da bình-thường, không bị trầy-trụa, nó không thể nào vào bên trong thân-thể được.
Bịnh điên-dại luôn-luôn làm hại đến tính-mạng khi các triệu-chứng đã phát-triển. Nên phòng-ngừa ngay khi bị cắn bằng phương-pháp miễn-dịch gọi là cách điều-trị Pasteur. Bất-kỳ ai bị loài-vật cắn, cần phải được chỉ-dẫn cách điều-trị ngay.
Bị loài-vật cắn ở mặt hay đầu thật vô-cùng nguy hiểm; nên đưa đi bác-sĩ ngay.
Cứu-cấp
Rửa thật sạch nước miếng ở vết-thương. Dùng vải xếp và nước pha xà-bong hơi đặc để cọ vết-thương, đoạn rửa lại với thật nhiều nước trong rồi đắp vải-xếp sát-trùng, như trong các vết-thương ngoài da khác. Về các vết-thương do loài-vật cắn nên dùng dung-dịch canh-ti-dót nhẹ để đắp.
Phải nhờ bác-sĩ khám ngay
Khi cần-thiết ông sẽ rửa sạch vết-thương và điều-trị triệt để, hoặc quyết-định xem có nên điều-trị theo phương-pháp miễn-dịch của Pasteur không. Ông sẽ quan-sát các trạng huống lúc bị cắn và con vật để quyết-định việc nầy.
Giữ con vật đã cắn
Không bao giờ nên giết con vật đã cắn, trừ khi phải bảo vệ những người khác khỏi bị nguy-hiểm vì nó. Nếu có thể bắt
con vật cách an-toàn, nhốt hay xiềng nó lại chỗ nào ít gây nguy-hiểm đến người và thú khác. Đừng dùng dây thừng để cột chó dại, vì nó có thể gặm đứt dây, khoét đất, tận-dụng sức-lực của nó để trốn thoát.
Con chó điên không phải luôn-luôn hung-dữ. Dưới một hình-thức gọi là « điên câm » bịnh bắt đầu bằng sự tê-bại hàm dưới hay bốn chân. Con chó không muốn cắn, nhưng nước miếng cũng độc như loại « điên dữ ».
Nước miếng con chó có thể có mầm-độc bốn hay năm ngày trước khi bị triệu-chứng điên. Sau khi đã nhốt mười ngày, nếu con vật vẫn mạnh-khỏe, ăn uống như thường và không có gì thay-đổi, thi khi cắn, nước miếng của nó không độc. Nhưng nếu nó bị giết, nếu không bắt, nhốt, và canh nó trong mười ngày, hay nếu các triệu-chứng nhứt-định hiện ra và nó chết trong thời-gian đó, cần phải dùng phương-pháp Pasteur ngay.
Mầm-độc điên đi qua dây thần-kinh mà vào óc, chớ không vào máu, vì thế các triệu-chứng phát-triển rất chậm. Khi bị những vết cắn rộng lớn ở đầu, mặt hay hai bàn tay, tốt hơn nên dùng phương-pháp miễn-dịch Pasteur ngay, nhưng nếu sau vài ba ngày quan-sát, con vật tỏ ra bình-thường, bác-sĩ có thể ngưng chích và nếu nó cứ tiếp-tục tỏ ra bình thường thì không cần chích lại nữa. Khi thấy có chó dại, phải thông-tin cho sở cảnh-sát, hay ty y-tế sớm chừng nào tốt chừng nấy. Tất-cả các con chó bị nghi có bịnh dại phải được thú y-sĩ xem-xét.
Nếu cần phải giết con vật để bảo-vệ những người khác, tránh đừng làm tổn-thương bộ óc nó. Phải gởi đầu nó đến phòng thí-nghiệm để nghiên-cứu và xác-định chó ấy có bị bịnh điên hay không.
Giá-trị thời-gian của việc chích ngừa để bảo-vệ chó khỏi bịnh dại vẫn chưa được quyết-định. Người ta cũng chưa biết
rằng sau khi đã dùng phương-pháp trị liệu Pasteur thì người bị cắn được bảo-vệ trong bao lâu, nhưng có lẽ không hơn một năm, và có thể ít hơn.
Nếu bị thú không điên cắn, chỉ cần điều-trị như vết thương thường. Nếu vết-thương cắn lủng sâu, nên đưa nạn nhơn tới bác-sĩ, để tùy trường-hợp, ông cho chích thuốc kháng sinh và phòng-ngừa phong đòn-gánh.
RẮN CẮN
(A) Đầu một con rắn độc
(B) Dấu răng (a) của rắn hổ-mang, (b) dấu răng của rắn không độc.
Rắn độc cắn người là để tự-vệ và nó thường cố lánh đi xa cách yên-lặng để tránh bị hại. Có con nằm trên hay cạnh đường mòn để đợi mồi, và có thể cắn người nào đến gần quá. Sáu mươi phần trăm vết rắn cắn là ở bàn chân và bắp chân; phần nhiều những vết rắn cắn khác đều ở bàn tay và bắp tay. Chỉ trừ một phần trăm là ở mình hay đầu.
Trong xứ có nhiều rắn ta nên hết sức đề-phòng. Phải cẩn thận coi chừng chỗ mình sẽ bước đến, chỗ đặt bàn tay cũng như chỗ ngồi. Khi đi trong đồng ruộng nên mang giày cao ống, hay ghết. Hết sức thận-trọng khi hái trái cây hay bông hoa, khi leo núi hay vượt rào cao mà tay có thể với tới chỗ rắn đang nằm nghỉ.
Rắn mai đi đâu thường cảnh-cáo bằng tiếng rít như tiếng ve kêu. Nhưng có khi nó cắn mà không cảnh-cáo trước. Chỉ người chuyên-môn mới nên cầm rắn độc.
Các triệu-chứng
Cảm thấy đau-nhức ngay sau khi bị cắn, vết-thương sưng lớn mau-lẹ và da tím bầm. Thường thấy rõ hai vết răng của rắn, nhưng trong vài trường-hợp chỉ thấy một dấu.
Khi nọc độc thấm vào cơ-thể, các kết-quả thông-thường bắt đầu hiện ra: người bải-hoải, hơi thở ngắn, sây-sẩm mặt mày, mạch yếu và mau, nôn mửa, thường bất-tỉnh hay nửa tỉnh nửa mê. Khi rắn cắn vào một huyết-quản và nọc độc đã thấm vào dòng máu thì những triệu-chứng nầy hiện ra mau lẹ vô-cùng và có thể hại đến tánh-mạng trong vài phút. Tuy vậy, trong hầu-hết mọi trường-hợp, nọc độc thấm vào khá chậm, phải vài ngày sau mới thấy nguy-kịch và nạn-nhơn thường chết trong ngày sau.
Khi bị một vài thứ rắn, như hổ-mang chẳng hạn, cắn thì bộ-phận bị cắn nhức-nhối ghê-ghớm, bị sưng và viêm mau lẹ. Trong một giờ hay ít hơn, nạn-nhơn trở nên lờ-đờ và yếu ớt, rồi nôn, mửa, sùi bọt mép. Lưỡi và cơ-quan phát-âm tê liệt. Trong trường-hợp trầm-trọng, trung-tâm hô-hấp trong
não cũng bị tê-liệt theo và thần-kinh-hệ bị tổn-thương nhiều nhứt.
Vết cắn của các loài rắn khác, như rắn lục và rắn gió chẳng hạn, làm nhức-nhối cực-điểm, các tổ-chức lân-cận vết cắn bị tổn-thương nhiều hơn, nhưng ít tê-liệt hơn vết cắn của loại trên. Tuy-nhiên, nôn, mửa và bất-tỉnh thường phát-triển. Sự thương-tổn các tổ-chức chung-quanh vết cắn có thể gồm có sự làm mủ, hư-thúi, lột da, và xuất-huyết, ngay cả xuất
huyết trong bọng đái và ruột.
Trong trường-hợp sự tê-liệt biến khỏi trước khi chết trong những trường-hợp đã luận ở đoạn trên, nạn-nhơn không những có hy-vọng thoát chết mà còn bình-phục mau-lẹ. Những trường-hợp đã luận ở đoạn dưới thường ít nguy đến tính-mạng, nhưng vì các tổ-chức chung-quanh vết-thương bị tổn-thương nhiều nên lâu bình-phục. Trong vài trường-hợp, nạn-nhơn không bao giờ khỏi hoàn-toàn.
Cứu-cấp
Cứu-cấp khi bị rắn độc cắn, cột dây, cắt da chỗ bị cắn va hút nộc độc.
Cần phải hành-động mau-lẹ vì việc lấy nọc độc ra rất khó, có khi không thể lấy ra được.
Đặt nạn-nhơn nằm yên-tịnh. Cố giúp nạn nhơn càng bình-tĩnh chừng nào tốt chừng nấy, vì bất-kỳ điều gì khiến mạch đập mau đều nguy-hiểm, và sự cố-gắng của bắp-thịt làm cho nọc độc lan mau. Nếu vết cắn ở tay hay chơn, nên cột dây thắt-mạch (tourniquet) quanh tay hay chơn, phía trên vết cắn. Cột vừa đủ chặt để máu và tân-dịch bị nhiễm
độc không thể chảy, nhưng đừng chặt quá đến nỗi máu động mạch không tuần-hoàn được và làm tổn-thương các động và tĩnh-mạch dưới sâu. Cứ cách I0 phút lại nới dây thắt-mạch I5 giây. Nếu vì sưng mà dây cột thành chặt quá, nên nới dây một tí, và nếu chỗ sưng lan lên quá chỗ cột dây, người cứu thương nên tùy sự cần-thiết, theo trí phán-đoán của mình mà dời dây lên trên.
Sau khi đã cột dây thắt-mạch, hãy lập tức lấy lưỡi dao cạo hay vật nào bén và mỏng, hơ lên ngọn lửa, hay nhúng vào canh-ti-dót hoặc rượu cồn để sát-trùng, rồi cắt thành hình chữ thập trên mỗi dấu rắn cắn. Mỗi vết cắt dài chừng sáu ly (6 mm). Khi các dấu cắn gần nhau, ta có thể cắt thành hình song thập. Phải cẩn-thận tránh các tĩnh và động-mạch lớn gần mặt da cùng các cơ-cấu tế-nhị khác như gân, và thần-kinh.
Vì da có chỗ dầy, chỗ mỏng, nên phải cắt chừng 6 ly hay sâu hơn, để động tới tổ-chức nằm dưới mặt da là chỗ nọc độc thấm vào, để hút nọc ra.
Tìm dụng-cụ hút nọc độc ra lập-tức và nên tiếp-tục hút mãi cho đến khi bác-sĩ tới. Nên nhớ rằng phải cho người đi mời bác-sĩ ngay sau khi tai-nạn xảy ra. Có thể dùng bất-cứ ống giác hay ống hút nào tìm thấy trong túi cứu-thương để hút nọc. Tách hút bằng cao-su hiệu-nghiệm hơn ống chích vì khi cần, ta có thể dùng nhiều cái để sát cạnh nhau. Cũng có thể hút bằng miệng, nhưng các bắp-thịt má và môi mau mệt, cho nên dụng-cụ hút vẫn tốt hơn vì có khi ta phải hút liên tiếp trong nhiều giờ. Nếu không sẵn ống hút hay ống giác, ta có thể lấy một cái chai hay lọ nhỏ miệng đem ngâm nước nóng, hoặc đốt giấy hay bông-gòn, bỏ vào trong chai, đoạn úp lên vết cắn. Nọc độc sẽ được hút ra trong khi chai nguội lần.
Trẻ con dễ bị rắn cắn hơn người lớn, cần phải được điều trị càng sớm càng tốt vì sự nguy-hiểm sẽ tăng thêm bởi tầm thước của nạn-nhơn rất nhỏ sánh với số-lượng nọc độc thấm vào.
Nếu có sẵn nên dùng thuốc giải nọc rắn. Ta có thể theo lời chỉ-dẫn trên hộp thuốc mà chích, nhưng tốt hơn nên để cho bác-sĩ làm việc nầy. Phải chích ít nữa 50 phân khối thuốc vào các tổ-chức chung-quanh vết cắn.
Nếu không gọi được bác-sĩ, ta có thể đi quá sự cứu-cấp thông-thường, vì khi nọc độc lan đến các tổ-chức chung quanh, chỗ sưng cũng lớn thêm. Khi chỗ sưng lan rộng về phía thân mình, cách chỗ bị cắn chừng bảy phân, ta có thể cắt da thêm cách nhau và cách chỗ cắt trước chừng năm phân.
Mỗi giờ nên hút mỗi vết cắt chừng I5 phút. Khi gỡ ống giác ra, nên dùng vải xếp thấm nước nóng pha muối hay thuốc xổ muối (sulfate de magnésie) đắp lên những vết cắt. Vì xẻ da chỗ sưng, nên sẽ hút ra một chất lỏng, trong, có ít nhiều máu. Nếu huyết-quản bị cắt đứt, nên dùng miếng vải xếp nhỏ đắp lên rồi lấy ngón tay bóp mạnh để cầm máu.
Đừng hút chỗ cắt ấy. Trong trường-hợp nặng, có khi phải cắt da thịt từ 30 đến 40 chỗ. Hãy để tay hay chơn bị rắn cắn thấp hơn thân mình nạn-nhơn.
Việc hút nọc độc sẽ có hiệu-nghiệm thỏa-đáng trong trường-hợp loại nọc làm tổn-thương hệ-thống tuần-hoàn; trái lại, nó không ích-lợi bao nhiêu nếu gặp phải nọc làm tổn thương thần-kinh hệ. Tuy-nhiên, không phải vì thế mà ta không nên thi-hành phương-pháp hút nọc độc.
Nên cho nạn-nhơn uống thật nhiều nước, đồng-thời nên cho uống thuốc xổ muối để xổ. Phải đề-phòng kích-ngất. Giữ nạn-nhơn luôn ấm. Cho nằm đầu thấp hơn thân mình. Đừng để mất nhiều máu, và nên đưa nạn-nhơn đến bịnh-viện để sang máu, nếu cần. Đừng cho uống rượu. Đừng đắp hay chích thuốc tím bột vì nó làm lột da thêm, và cách ấy không công-hiệu bao nhiêu.
HÃY NHỚ: Chỉ nên điều-trị thêm theo cách vừa mô tả khi phải chờ lâu mới có bác-sĩ tới.
VẾT-THƯƠNG CÓ VẬT-THỂ Ở TRONG
Miếng gỗ (dằm), miếng thủy-tinh nhỏ hay mạt kim-khí thường là nguyên-nhân của vết-thương nầy. Nếu vật-thể ở gần mặt da, ta có thể lấy ra được.
Dùng thuốc sát-trùng thoa lên chỗ bị thương. Hơ mũi dao, kim hay kềm trên ngọn lửa để sát-trùng, xong dùng dụng-cụ nầy để lấy dằm hay mảnh thủy-tinh ra. Đoạn, ấn nhẹ trên vết-thương, nặn máu để rửa sạch bên trong. Sau khi máu ngưng chảy, đắp lên một miếng vải băng hay gạt đã được sát-trùng.
Khi bị dằm đâm dưới móng tay, cũng làm như vậy, trừ khi mảnh gãy và bị kẹt ở trong. Gặp trường-hợp nầy, phải cạo móng tay chỗ bị thương cho mỏng, xong cắt một miếng theo hình chữ V trên mảnh dằm rồi lấy ra như trên.
Nếu vật-thể găm sâu, hoặc vết-thương lớn quá, phải nhờ bác-sĩ lấy giúp. Trong trường-hợp đó ta chỉ băng-bó thích đáng rồi đem bịnh-nhơn tới bác-sĩ.
VẬT THỂ LẠ TRONG MẮT VÀ CÁC VẾT-THƯƠNG NƠI MẮT
Băng mắt bị thương bằng thớ vải dính.
Mắt chỉ có một mục-đích là thấy. Bất-kỳ ai cứu-cấp vết thương nơi mắt đều phải lưu-ý tới điều đó. Nên nhớ rằng chỉ nhãn-khoa bác-sĩ mới có thể chữa con mắt bị thương và giữ cho nạn-nhơn khỏi mù. Vì vậy điều cốt-yếu của việc cứu-cấp là tránh làm tổn-thương thêm và cố giữ mắt y-nguyên cho đến khi nhãn-khoa bác-sĩ tới.
Nhãn-cầu là một vật-thể hình cầu, chứa-đựng đầy những tổ-chức cần-thiết cho việc nhìn thấy. Nó nằm trên lớp mỏng ở bên trong một cái lỗ bằng xương. Lớp mở nầy giúp cho nhãn cầu có thể xoay đi mọi hướng và giảm bớt sự va-chạm mạnh bị tổn-thương. Lông nheo mí-mắt có công-dụng bảo-vệ nhãn cầu khỏi bị thương-tích vì bụi-bặm, khỏi bị khô vì gió và không-khí, đỡ bị tổn-thương vì quá nóng hoặc lạnh, cùng những ảnh-hưởng khác có thể gây nên đui-mù vĩnh-viễn.
Nhờ sáu bắp-thịt trong mỗi mắt trì-kéo nên nhãn-cầu có thể xoay đi mọi hướng. Nếu một trong mười hai bắp-thịt nầy bị hủy-hoại ta không còn nhận thấy sự-vật rõ-ràng nữa.
Nhãn-cầu gồm một lớp bọc bằng mô dày, trắng. Ở phần trước của mắt, các mô nầy lại trong-suốt để những tia-sáng có thể xuyên vào trong mắt. Phần trong-suốt nầy là phần nhạy-cảm nhứt của mắt. Một bức màn chắn có màu-sắc được treo lơ-lửng phía sau trong lớp nước trong – tròng đen – có
một lỗ hổng ngay giữa, gọi là cái lỗ con ngươi. Tròng đen dùng để ngăn, không cho ánh-sáng nhiều hơn mắt có thể thâu dùng được lọt vào, và lỗ con ngươi cũng có công-dụng ấy. Ngay phía sau con ngươi có một tiếp-vận kính tức một cơ cấu hoàn hảo và trong-suốt, hình-dáng nó có thể thay-đổi được do các bắp-thịt trong mắt, để những tia-sáng vào lỗ con ngươi sẽ được điều-chỉnh cho đúng mức.
Phía sau con mắt có một cơ-cấu mỏng-manh nhứt của mắt, là vỏng-mạc. Bộ-phận nầy dùng để biến những tia-sáng thành những xung-đột thần-kinh mà chúng ta gọi là thấy. Mọi cơ-cấu nầy được duy-trì đúng vào vị-trí của chúng nhờ áp-lực của một chất lỏng như xu-xoa chứa đầy trong nhãn
cầu.
Băng-bó
Con mắt có thể thấy được:
I. Băng lỏng, để bảo-vệ sau khi bị thương, hoặc 2. Băng chặt để ngăn-ngừa cử-động.
Có thể dùng một trong những phương-pháp sau đây để băng-bó vết-thương ở mí-mắt, các tổ-chức xung-quanh mắt hoặc nhãn-cầu. Nếu bị thương ở nhãn-cầu, ta chỉ cần băng lỏng để che bụi. Nhưng nếu con ngươi không bị tổn-thương mà chỉ mí-mắt hay các tổ-chức xung-quanh mí-mắt bị rách – việc nầy thường xảy ra trong các tai-nạn xe hơi – phải băng chặt để các bộ-phận bị tổn-thương khỏi cử-động.
Hình-thức đơn-giản nhứt của phép băng lỏng là xếp một miếng vải sạch, mềm, bề dài ít nhứt là 75 phân, thành một miếng băng khổ 7 phân 5. Đặt miếng miếng vải băng ấy tréo trên trán, che mắt bị thương-tổn dưới vành tai cùng một bên ấy vòng ra sau và cột hai đầu băng lại.
Nếu vải sạch, không cần lót gì giữa mắt và dây băng.
Nhưng nếu dây băng không được sạch, ta phải lấy một miếng vải sạch và mềm, vuông-vức 7 phân 5 đắp lên mắt bị thương trước khi băng. Có thể đắp bằng khăn mu-soa sạch xếp lại. Không nên cột chặt quá đến đè mạnh nhãn-cầu.
Có thể dùng băng lỏng nhưng không bị xê-dịch bằng cách lấy một miếng vải sạch, xếp lại vuông-vức cỡ 7 phân 5 hay I0 phân, đắp lên mắt bị thương, rồi dùng vải dính (băng keo) dán chặt lại. Khi dán vải dính, nên nhờ người khác giữ chặt tấm vải băng, hay cho nạn-nhơn nằm ngửa. Dán miếng vải thứ nhứt lên trán, phía góc trong của mắt bên kia, đè lên cạnh vải băng gần mũi, kéo da má phía mắt đau lên một chút rồi dán chặt miếng vải dính vào. Dán miếng vải thứ hai lên da trán ngay khoảng giữa trên mắt bị thương, đè lên vải băng, xéo ra phía ngoài mắt. Kéo da má lên rồi dán chặt vải dính vào. Khi má chạy trở xuống, vải dính bị căng-thẳng và giữ chặt vải băng, nhưng không đè mạnh lên nhãn-cầu.
Chỉ băng-bó chặt khi chính nhãn-cầu không bị thương. Có thể băng chặt bằng lối băng lỏng, nhưng phải thêm vào một xấp vải sạch, mềm, khá dầy, lót dưới dây băng cột chặt quanh đầu và phủ kín lên mắt đau.
Dùng dây băng cuộn rộng cỡ 5 hay 7 phân 5, để băng chặt là tốt nhứt. Quấn một vòng quanh trán để giữ chặt, nên quấn vòng ra từ mắt bị thương. Xong lấy một miếng vải băng sạch, dầy, đắp lên mắt bị thương, một tay giữ chặt, một tay cầm cuộn băng quấn quanh đầu. Lòn dưới vành tai, cùng một phía với mắt đau, đè lên miếng vải đắp rồi vòng quanh đầu. Mỗi vòng quấn lần thứ hai, chỉ quấn chung-quanh đầu nhưng không phủ lên mắt. Khi băng đã phủ lên vải đắp rồi, cắt cuộn dây băng và dùng vải dính dán chặt đầu dây băng lại. Nếu không phải vải dính, xé dôi dây băng theo chiều dọc độ 30 phân rồi cột gút chặt để phòng-ngừa soạt thêm. Đoạn vòng hai đầu dây xung-quanh đầu rồi cột lại.
Các vật-thể lạ trong mắt
Phần nhiều vật-thể lạ lúc lọt vào mắt thì nằm trên bề mặt của các màn bọc mí-mắt, hay dính vào nhãn-cầu. Chúng làm cho mắt xốn xang, đặc-biệt khi nhắm mắt lại, làm chảy nước mắt, và rất khó-chịu khi nhìn vào ánh-sáng. Những người không được huấn-luyện chỉ có thể lấy ra những vật-thể lạ nằm trên bề mặt. Sự thử chữa mà không hiệu-quả thường làm tổn-thương con ngươi, có khi làm cho nạn-nhơn bị đui. Nên theo những chỉ-dẫn sau đây để phòng-ngừa làm vết
thương nặng thêm:
Đừng bao giờ dụi mắt. – Dụi mắt thường ấn vật-thể lạ vào sâu trong các tổ-chức và làm cho khó lấy ra hơn.
Đừng bao giờ vạch xem-xét con ngươi để tìm vật-thể lạ nếu chưa rửa tay thật sạch, vì bụi dơ có thể vào mắt và làm cho vết-thương nặng thêm.
Đừng bao giờ làm nặng tay, vì có thể làm vết-thương ở nhãn-cầu nặng thêm.
Đừng bao giờ thử lấy vật-thể lạ bằng cây tăm, quẹt, lưỡi dao, hay bất-kỳ vật gì cứng.
Đừng bao giờ quên đem nạn-nhơn đến bác-sĩ, nếu vật thể lạ dính chặt vào nhãn-cầu. Tuy-vậy, vẫn có một vài phương-pháp mà người cứu-thương có thể áp-dụng để lấy vật-thể lạ không dính chặt ra.
I. Kéo mí-mắt dưới xuống và xem vật-thể lạ có nằm trên lớp màn bọc mí-mắt không. Nếu có, ta có thể dùng góc khăn mu-soa sạch, hay miếng bông-gòn quấn đầu cây tăm rồi nhúng nước cho ướt để lấy ra. (Không bao giờ nên dùng bông-gòn khô xung-quanh con mắt).
2. Cầm vành mí-mắt trên bằng ngón tay cái và ngón trỏ, bảo nạn-nhơn ngước lên, rồi kéo mí-mắt trên xuống phủ lên mí-mắt dưới. Như vậy một vật-thể lạ trên màng bọc mí trên có thể bị mí-mắt đẩy ra.
3. Rửa mắt bằng a-cít-bô-rít (nửa muỗng cà-phê với một ly nước chín). Có thể dùng ống chích nhỏ hay ống nhỏ nước mắt để làm việc nầy.
4. Nếu dùng các phương-pháp nầy đều không có hiệu quả, có thể dùng dầu ô-liu, dầu đu-đủ (thầu-dầu) hay dầu mỏ để nhỏ vào mắt.
Nếu vật-thể lạ vẫn không ra hay dính vào tròng mắt, nên đem nạn-nhơn đến bác-sĩ ngay. Vật-thể lạ nằm lâu trong con mắt có thể làm độc các tổ-chức bị thương.
Mắt bị phỏng
Sức nóng hóa-chất hay hơi (khí) có thể làm phỏng con mắt. Khi sức nóng trực-tiếp như ngọn lửa chẳng hạn, áp gần mắt, tự-nhiên mí-mắt khép lại thật mau nên chỉ có da mí mắt bị tổn-thương. Điều-trị vết phỏng nầy cũng như điều-trị bất-kỳ vất phỏng da nào trong thân-thể.
Những hóa-chất như a-cít, chất kiềm, hay các chất ăn mòn da có thể bắn vào mắt trước khi mí-mắt khép lại và thường làm tổn-thương nặng. Người cứu-thương phải dùng thật nhiều chất lỏng sạch (như nước và sữa) để rửa mắt bị thương. Đặt đầu nạn-nhơn nghiên về phía mắt đau, lấy ngón tay banh mí-mắt, rồi đổ chất lỏng từ-từ vào mắt. Dùng một cái tách hay ly thường, hay nếu có sẵn nên dùng quặng (phễu) để điều-khiển dòng nước. Đổ chất lỏng vào góc trong con mắt, để cho nước chảy qua nhãn-cầu và dưới mí-mắt, cho đến hết ít nữa một lít chất lỏng để rửa mắt.
Nếu bị một số-lượng lớn chất ăn mòn da tạt vào mắt, ta nên tiếp-tục rửa mắt đến lít thứ hai, có khi lít thứ ba. Đoạn nhỏ vài giọt dầu mỏ, dầu ô-liu hoặc dầu đu-đủ vào mắt, rồi băng lỏng mắt bị thương và đưa nạn-nhơn đến bác-sĩ ngay.
Điều-trị vết phỏng do hơi (khí) gây ra cũng giống như cách điều-trị các vết phỏng do hóa-chất vậy.
Mắt bầm
Các tổ-chức mềm chung-quanh mắt nằm trên một miếng xương cứng. Nếu va-chạm mạnh để thành vết u hay vết bầm ở chỗ nầy thường làm bể huyết-quản, máu sẽ rịn ra vào các tổ-chức và đọng lại ở đấy, làm thành một vết đen và xanh dương. Nếu chận máu ngay thì vết-thương sẽ nhẹ hơn. Một vết đen và xanh dương đã phát-triển hoàn-toàn phải mất từ một tuần đến một tháng mới biến hết.
Cách trị liệu
Sau khi bị thương phải đắp ngay vải-xếp lạnh hay túi nước đá trong một giờ. Đoạn, cứ cách nửa giờ lại đắp như vậy, mỗi lần đắp vải-xếp hay túi nước đá trong I0 phút, cho đến khi chỗ sưng xẹp đi. Hai ngày sau bắt đầu thoa bóp bằng dầu dừa hay kem lạnh, hoặc đắp thường-thường dầu ô-liu nóng cho đến khi vết-thương lành.
Vết-thương ở mí-mắt và các tổ-chức chung-quanh mắt
Những vết-thương nầy thường do tai-nạn xe hơi gây ra và ít khi phạm đến nhãn-cầu. Vị-trí thích-đáng của mí-mắt tương-quan với nhãn-cầu rất cần-thiết để mắt làm nhiệm-vụ mình cách thích-đáng, nên điều cực-kỳ quan trong là đừng điều-trị vụng-về để làm vết-thương nặng thêm. Hơn nữa có thể cần phải khâu lại ngay mí-mắt bị tổn-thương, để sau nầy nó vẫn hoạt-động như thường và không biến-dạng. Vì vậy nếu vết-thương chỉ hạn-chế trong các tổ-chức mềm mà không phạm đến nhãn-cầu, ta chỉ cần đắp một miếng vải sạch lên trên rồi lấy dây băng cột lại. Nếu nhãn-cầu dường như bị thương, nên băng lỏng. Trong cả hai trường-hợp đều phải đem nạn-nhơn đến nhãn-khoa bác-sĩ sớm chừng nào tốt chừng nấy.
Các vết-thương ở nhãn-cầu
Có rất nhiều loại vết-thương nầy, từ vết nhẹ là vết trầy ở giác-mô do một cành cây nhỏ gây ra cho đến vết-thương nặng do miếng thép văng vào nên không thể mô-tả hết được. Nếu có thấy vật-thể lạ dính vào vết-thương, ta đừng thử lấy nó ra. Vì làm thế có thể ta sẽ kéo theo ra vài chất quí-báu của con mắt. Hãy đắp một miếng vải sạch lên rồi băng lỏng. Phải để nạn-nhơn nằm thẳng và dung băng-ca khiêng đi. Ngồi dậy hay bước đi có thể làm nhãn-cầu lớn thêm. Càng được nhà chuyên-môn điều-trị sớm càng có hy-vọng chữa lành con mắt hơn.
Mắt đỏ
Mắt đỏ chỉ rằng mí-mắt hay nhãn-cầu bi sưng. Phải nhờ bác-sĩ khám-nghiệm và điều-trị thích-đáng. Nếu bác-sĩ chưa đến ngay được, ta nên rữa mắt đỏ bằng a-cít-bô-rít (nửa muỗng cà-phê với một ly nước chín), rồi đắp nóng. Xếp một chiếc khăn tắm nhỏ, sạch còn từ I5 hay 20 phân vuông, nhúng vào nước nóng với nhiệt-độ cao nhứt mà tay có thể chịu được, vắt ráo rồi đắp lên mí-mắt (đã nhắm kín). Khi miếng vải nguội, lại nhúng nước nóng để đắp thêm. Tiếp-tục làm như vậy cho đến khi đã đắp được 5 hay I0 phút. Nếu chỉ đắp nước ấm thôi thì không hiệu-nghiệm mấy. Thêm vào nước với muối, trà hoa-cúc a-cít-bô-rít hay vật gì khác cũng chẳng lợi thêm bao nhiêu.
Cách săn-sóc thông-thường
Bình-thường ta không cần rửa con mắt. Nước mắt và sự cử-động của mắt cũng đủ để tự rửa sạch rồi. Cũng không cần phải đeo kiến màu để bảo-vệ, trừ khi ở trên núi cao, hoặc lúc phải nhìn ánh-sáng chói lòa của tuyết ở Bắc-cực. Nếu đeo kiến phải lau chùi sạch-sẽ và đeo ngay-ngắn.
Đừng nhỏ bất-kỳ thứ thuốc nào vào mắt nếu không có lời khuyên của bác-sĩ. Nên dùng a-cít-bô-rít thay nước muối để rửa mắt (nửa muỗng cà-phê với nửa lít nước chín).
Chỉ có bác-sĩ mới điều-trị được các chứng bịnh và vết thương trong con mắt.
Ánh-sáng đầy-đủ rất cần-thiết cho thị giác. Đừng đọc sách trong chỗ tối.
Hãy đối-xử cặp mắt như ta đối-xử hai chơn. Đừng lạm dụng đến chúng phải mệt đừ.
CHẢY MÁU CAM
Mũi thường tự-nhiên chảy máu gọi là chảy máu cam, nhứt là con nít. Còn người lớn, đặc-biệt những người có áp huyết cao, hay chảy máu mũi trong lúc không bị thương-tích gì cả. Nhưng thường sau khi bị thương, họ hay chảy máu mũi hơn.
Cứu-cấp
Thường không cần phải điều-trị, nhưng nếu máu cứ chảy mãi ta có thể cầm máu bằng những phương-pháp sau đây:
Để người bịnh ngồi, đầu hơi ngã về đằng sau, cho thở bằng miệng. Nới rộng cổ áo hay bất-cứ vật gì chung-quanh cổ. Nên đắp vải lạnh, ướt lên mũi và mặt. Thường máu chảy một bên thôi, và trong phần nhiều trường-hợp máu chảy từ chỗ ngăn giữa phía trong mũi một chút. Nên ấn mạnh lỗ mũi đang chảy máu độ 4 hay 5 phút để máu có dịp đông lại. Nhớ dặn người bị chảy máu cam không được hỉ mũi trong vài giờ.
Ta cũng có thể làm cách khác là lấy một rẻo vải thưa sát trùng nhét nhẹ vào lỗ mũi bị chảy máu chừa một đầu ra ngoài để dễ lấy ra. Nên cho người ấy nằm yên đầu cao hơn mình.
Trong trường-hợp không cầm máu được, hoặc chảy máu rất thường nên nhờ bác-sĩ điều-trị.
XUẤT-HUYẾT BÊN TRONG
Những chỗ hay bị xuất-huyết bên trong là bao-tử, phổi và ruột.
Máu chảy từ bao-tử thường bị mữa ra, và màu giống cặn cà-phê.
Nước tiêu-hóa đã tác-động máu, biến thành nâu và máu đông lại thành từng cụt nhỏ cỡ bã cà-phê lớn. Các nguyên nhân thông-thường cả chứng chảy máu nầy là do những vết thương hay mụt lở trong bao-tử. Đừng lẫn-lộn máu ở miệng, mũi, phổi với máu ở bao-tử chảy ra.
Máu ở phổi ho ra đỏ tươi và như đầy bọt. Bịnh lao-phổi là nguyên-nhân thông-thường nhứt của chứng tự-nhiên chảy máu ở phổi. Những vết-thương lủng, nhất là khi một xương sườn bị gãy và đâm vào phổi, cũng làm chảy máu.
Khi ruột chảy máu, nếu ra từ một điểm hơi cao, một phần máu bị tiêu-hóa và biến thành một khối đen sậm. Nếu máu lẫn trong phẩn mà máu đỏ tươi, tức máu chảy từ một điểm tương-đối thấp trong ruột.
Có ba triệu-chứng chính của việc xuất-huyết bên trong là:
1. Bần thần khó chịu.
2. Lo sợ.
3. Khát nước.
Ba triệu-chứng nầy thường hiện ra trước khi có bằng-cớ ở bên ngoài chứng-tỏ có sựu xuất-huyết ở bên trong. Thật ra trong bất-kỳ trường-hợp nào mà nạn-nhơn có ba triệu-chứng nầy, nhứt là mặt tái-mét, mạch nhảy yếu và sau cùng suy
nhược toàn-diện, ta phải coi như người ấy đang bị xuất-huyết bên trong.
Cứu-cấp
Phương-pháp cứu-cấp đều giống nhau trong cả ba trường-hợp.
Để bịnh-nhơn nằm ngửa, thẳng chừng nào tốt chừng nấy. Nên quay đầu họ sang một bên để trong trường-hợp bị ho hay mửa, họ không bị nghẹt và ngộp thở.
Nên để bịnh-nhơn được yên-tịnh hoàn-toàn. Khi thật cần thiết mới được dời đi, nhưng vẫn ở vị-trí nằm thẳng.
Giữ nạn-nhơn cho ấm. Hãy an-ủi họ. Một người xuất huyết từ phổi hay từ bao-tử thường sợ-hãi lắm. Điều nầy tăng thêm sự tuần-hoàn, làm máu đông chậm và thường xuất-huyết nhiều thêm.
Khi ngực bị thương mà phổi lủng và máu chảy lộn trở vô, nếu để nạn-nhơn nằm, có thể họ không thở được. Gặp trường-hợp nầy ta cần phải đỡ nạn-nhơn dậy, nhưng chỉ đủ cao để thở thôi.
Phải mời bác-sĩ điều-trị sớm chừng nào tốt chừng nấy. Ngoại-lệ
Nếu nạn-nhơn bị kích-ngất, nên để nạn-nhơn nằm thẳng, nhơn hơi cao hơn mình (Xin xem thêm chương Hô-hấp Nhân Tạo).
CÁC NỘI-THƯƠNG
Các nội-thương do những cú đánh vào bụng thường gây nên một vấn-đề khó-khăn đặc-biệt, vì tính-chất và diện-tích của vết-thương không rõ-ràng. Thường bị kích-ngất nặng.
Hãy tuân theo những lời-chỉ-dẫn thông-thường về cứu thương. Đặt nạn-nhơn nằm xuống, trị kích-ngất và mời bác sĩ. Nếu cần hãy dời người bị nạn. Vẫn để họ nằm và chuyên chở nạn-nhơn cẩn-thận.
4. KÍCH-NGẤT
TRONG các chương trước ta hay nói đến « kích-ngất », dặn phải đề-phòng và điều-trị kích-ngất. Trong những chương sau ta sẽ còn nói đến kích-ngất nhiều nữa. Nhưng kích-ngất là gì? Phải điều-trị như thế nào mới hợp cách?
Kích-ngất (bất-tỉnh) là một danh-từ y-học, dùng để diễn tả những trạng-thái bất-thường khác nhau và thường không liên-quan nhau, lại có ảnh-hưởng đến cả phần tâm-trí cũng như thể-xác của nạn-nhơn. Chữ nầy cũng được dùng trong nhiều trường-hợp, nhiều nghĩa mà người cứu-thương tập sự hay bị hoang-mang.
Có những chứng kích-ngất tinh-thần như khi bị xúc-cảm mãnh-liệt, sợ-hãi, v.v... mà người ta thường gọi là chết giấc (ngất) hay bất-tỉnh. Kích-ngất điện là sự tổn-thương trầm trọng sẽ được nghiên-cứu sau. Lại có cơn kích-ngất hóa-chất, khi nạn-nhơn bị trúng-độc, hay bị chích vào cơ-thể quá nhiều chất thuốc insulin trong trường-hợp bị đái đường. Những người mà tinh-thần không ổn-định rất dễ bị kích-ngất.
Nơi đây chúng ta chỉ nghiên-cứu đến kích-ngất trong nghĩa kiệt sức, đình-trệ mọi hoạt-động của cơ-thể vì sự tuần hoàn kém-sút. Đó là kích-ngất vì bị thương.
Những tổ-chức trong cơ-thể, cái nầy dễ cảm-xúc hơn cái kia, nhưng nếu bị tổn-thương, hầu-hết đều sinh ra kích-ngất. Bất-kỳ một bộ-phận nào trong cơ-thể bị nghiền nát bằng bất cứ nguyên-do nào, thường sinh ra chứng kích-ngất, ngay trong cuộc giải-phẫu có chuẩn-bị chu-đáo cũng vậy.
Bị thương nơi màng bao bên trong lồng ngực, nơi dạ dưới, bên trong sọ hoặc những khớp-xương quan-trọng như đầu gối chẳng hạn sẽ bị kích-ngất. Ta cũng có thể bị kích-ngất vì bị xuất-huyết trầm-trọng, bị gãy xương, bị mảnh bom, đạn súng v.v… Những vết phỏng dầu lan rộng ngoài da hay ăn
sâu trong thịt, bị đói, khát và bịnh-tật cũng gây ra kích-ngất.
HÃY NHỚ: Một người bị thương-tổn vì một trong bất-kỳ loại thương-tích nào kể trên đều sẽ bị kích-ngất. Phải điều-trị kích-ngất ngay mà không cần đợi những triệu-chứng phát-hiện vì kích-ngất dễ ngừa hơn điều
trị.
Để hiểu rõ trạng-thái gọi là kích-ngất, trước hết ta nên biết qua hệ-thống tuần-hoàn tổng-quát. Sự tuần-hoàn của máu được diễn-tiếp là do:
I. Trái tim, một máy bơm, theo nhịp đập mà đẩy máu vào động-mạch.
2. Huyết-quản, gồm có động-mạch, tĩnh-mạch và vi-ti huyết-quản, đồng hợp-tác cách cùng chặt-chẽ để tống đẩy máu ra rồi thu-hồi trở về tim lại, còn phần thứ …
3. Máu, kết-hợp bởi một chất lỏng, huyết-tương và các tế-bào.
Mục-đích của sự tuần-hoàn là để đem dường-khí và lương-thực đi tiếp-tế khắp cơ-thể, đồng-thời đem chất cặn-bã và cát-bon đi-ô-xít loại ra khỏi cơ-thể. Để duy-trì sự tuần hoàn cách đều-đặn thì máu phải được đẩy đi với một cường độ nhứt-định nào đó, do một cái máy bơm, tức trái tim, do sự co-giãn của thành huyết-quản và phải có đầy-đủ máu trong cả hệ-thống. Cường-độ kia cũng gọi là áp-huyết.
Áp-huyết có thể bị hạ xuống khi bất-kỳ một trong các yếu-tố trên bị kém-sụt. Nếu tim không làm nhiệm-vụ nó cách đầy-đủ nổi, ta gọi là yếu tim. Nếu huyết-quản không ở đúng vào kích-thước cùng sức co-giãn thường-lệ của chúng thì áp
huyết không thể duy-trì được. Áp-huyết cũng bị giảm khi bị mất máu nhiều trong trường-hợp xuất-huyết, hay bị mất chất lỏng, huyết-tương, trong trường-hợp bị phỏng. Khi một người bị kích-ngất vì thương-tích, lỗi-lầm ấy không do quả tim,
nhưng do các huyết-quản và số-lượng huyết trong đó.
Cái hệ-thống máy-móc tạo ra chứng kích-ngất thật khá phức-tạp, và sự thay-đổi quan-trọng đầu-tiên nầy là do sự tuần-hoàn bị sút-kém và kết-quả là áp-huyết hạ thấp xuống. Khi áp-huyết bị hạ xuống như vậy, tim đạp mau hơn để bổ
khuyết. Các huyết-quản đặc-biệt là ở tay và chân, co lại để chống lại sự yếu-ớt của việc tuần-hoàn. Chính điều nầy làm tay, chân và thân-mình người bị kích-ngất lạnh và rít. Đó cũng là hành-động bảo-vệ nhằm mục-đích tiếp-tế số máu cần-thiết lên thần-kinh trung-khu trong não và cả thần-kinh hệ nữa.
Kết-quả của việc tuần-hoàn yếu-ớt kia là dưỡng-khí và lương-thực không được tiếp-tế đủ cho các tế-bào, đồng-thời phổi và thận cũng không làm phận-sự bài-tiết đầy-đủ được. Chất cặn-bã thặng dư trong cơ-thể cũng như trong huyết làm hư-hại thêm cái trung-khu thiết-yếu ở trong óc vốn đã lệch
lạc rồi.
Hơi thở của nạn-nhơn mau và ngắn là vì vết-thương, hay vì sự tiếp-tế dưỡng-khí lên phần thần-kinh trung-khu có nhiệm-vụ điều-khiển-việc hô-hấp không đầy-đủ hoặc không đều-đặn. Những thần-kinh khác lo việc kiểm-soát sức thun
giãn của huyết-quản cũng bị ảnh-hưởng lây. Khi những tế bào đặc-biệt và tế-nhị nầy mất sức hoạt-động thì toàn bộ thần-kinh trung-khu bị mất sự bảo-vệ ngay. Nhiệt-độ ngoài da hạ thấp vì các tế-bào không được tiếp-tế đầy-đủ dưỡng khí để làm cho chúng hoạt-động mạnh. Nạn-nhơn thường toát mồ-hôi nhiều.
Những vi-ti huyết-quản, tức những huyết-quản nối liền động với tĩnh-mạch, ở chỗ bị thương, bất-luận đó là vết thương do da bị phỏng hay bị gãy xương đều bị hại. Khi sự kích-ngất kéo dài việc thiếu dưỡng-khí trong máu lại làm cho vách các vi-ti huyết-quản khác bị yếu theo, và do đó chất lỏng trong máu có thể thoát ra ngoài, gây cho việc tuần-hoàn
càng trầm-trệ hơn.
Sau tai-nạn một loạt biến-chuyển đã hủy-hoại hệ-thống bồi-bổ của cơ-thể. Hơn thế, chúng tạo nên ảnh-hưởng bất thuận-lợi cho tình-trạng kích-ngất đã diễn-biến, làm cho nó thêm phần nguy-kịch. Cái vòng nguy-hại bất-thường nầy một khi đã thành hình càng làm cho kích-ngất nặng thêm, và gây ra sự hủy-hoại hệ tuần-hoàn và thần-kinh trung-khu phụ
trách việc nầy đến độ không còn sửa-chữa được nữa. Đã đến mức nầy thì điều-trị cũng vô-ích.
Trong trường-hợp bị kích-ngất nhẹ, chỉ sức cố-gắng tự-vệ của thân-thể thôi, nạn-nhơn cũng có thể lành-mạnh được. Còn trong trường-hợp nặng hơn, sự điều-trị có thể đem đến kết-quả tốt. Trong hầu-hết trường-hợp quá trầm-trọng, nạn
nhân thường phải chết.
Những yếu-tố liên-quan đến kích-ngất
Tuổi-tác là một yếu-tố quan-trọng của kích-ngất. Một người trưởng-thành, khỏe-mạnh có thể chịu-đựng nổi vết thương gây cho trẻ em, người cao-niên và yếu-ớt bị kích ngất. Mất máu là khởi điểm của kích-ngất và nếu cứ tiếp-tục xuất-huyết làm tình-trạng kích-ngất nguy-kịch hơn. Gãy xương có thể gây nên kích-ngất và chuyên-chở một nạn nhơn chưa được cột que-đỡ càng làm cho người kích-ngất nặng thêm. Sự đau-đớn do thương-tích, nếu cứ kéo dài có thể gây nên kích-ngất, và nếu đã bị kích-ngất rồi, càng thêm trầm-trọng.
Những người thiếu ăn, thiếu uống, vì lý-do nầy không thôi, cũng rất dễ bị kích-ngất. Bị phơi lạnh vì nước hay không-khí, hoặc bị nóng quá cũng là cớ để chứng kích-ngất phát-triển. Mệt-mỏi, thiếu ngủ, kiệt-quệ thể-xác cũng như tinh-thần đều dễ bị kích-ngất. Những người mang bịnh kinh
niên – bất-kỳ bịnh gì – đều không chịu nổi những vết-thương như người mạnh-khỏe.
Một người đang bị kích-ngất nếu bị đối-xử không khéo khi khám-nghiệm hay chuyên-chở càng bị kích-ngất nặng thêm.
Tóm lại, kích-ngất là một trạng-thái rất trầm-trọng. Nó không phải là kết-quả của một nguyên-nhơn tầm-phào, và không thể điều-trị sơ-sài được. Người cứu-thương phải lo điều-trị và thắng cơn kích-ngất trước rồi lo đến việc cứu
thương sau.
Triệu-chứng
Người cứu-thương phải nhớ luôn rằng một khi nạn-nhơn bị phỏng, bất luận nặng hay nhẹ, những vết-thương chảy máu, gãy xương, bị thương-tổn bất-kỳ vào mực-độ nào và ở bất-kỳ một bộ-phận nào của cơ-thể đều có thể bị kích-ngất hơn là tìm-hiểu ảnh-hưởng do kích-ngất gây ra, trước khi nó đã phát-triển đến độ không cứu-chữa được nữa.
Sự trầm-trọng của cơn kích-ngất thay-đổi nhiều giữa cơn suy-nhược, choáng-váng cấp-thời đến độ chết thật. Ví-dụ có người làm rớt một miếng sắt dẹp lên ngón chân ta, liền khi ấy ta cảm thấy đau-đớn, rồi bải-hoải cơ-thể, mặt tái mét, toát mồ-hôi trán, hai bàn tay lạnh và rít. Sau đó ta cảm thấy buồn-nôn hoặc mửa. Nếu lúc ấy ta nằm dài ra chừng vài phút, những cảm-giác khó chịu kia sẽ qua và không cần phải áp-dụng những phương-pháp điều-trị quan-trọng.
Người cứu-thương cũng nên lưu-ý điều nầy là sau một tai-nạn, nạn-nhơn có thể vẫn tỉnh-táo như không có việc gì xảy ra cả, ngoại-trừ vết-thương mà người ấy mang trong mình. Nhưng bất-kỳ lúc nào trong khoảng thời-gian vài giờ sau đó, người ấy sẽ có những dấu-hiệu khác. Người sẽ than phiền cái cảm-giác bải-hoải, xây-xẩm mặt-mày và buồn-nôn. Da mặt và tay chơn người sẽ lạnh và ướt bởi mồ-hôi rồi tái lần. Hai mắt lờ-lờ, mất thần trong khi con ngươi mở rộng ra và phồng lên.
Thoạt tiên người có thể trả lời những câu hỏi cách mau mắn và đầy-đủ, nhưng bây giờ không thể nói suông câu nữa. Cần phải có một lượng kích-thích cao độ mới chọc tỉnh người được. Rốt lại người hoàn-toàn bất-tỉnh.
Khi bị kích-ngất, vách huyết-quản trở nên mềm nhũn, yếu-ớt và giãn nhiều. Vì thế tuy tim đập mau nhưng không có ảnh-hưởng đến sự lưu-thông của máu. Đồng-thời mạch rất yếu nên không dễ gì nhận ra được. Khi cơn kích-ngất đã phát-triển đến độ trầm-trọng, người cứu-thương không thể nào dò ra mạch được nữa. Áp-huyết hạ xuống rất thấp, duy chỉ nhà chuyên-môn mới nhận thấy được. Nạn-nhơn thường nôn và mửa. Hơi thở ngắn và mau, về sau không còn đều đặn. Thỉnh-thoảng có tiếng thở dài lẫn-lộn với những hơi thở ngắn. Mọi triệu-chứng nầy đều do ảnh-hưởng của vết-thương và sự kém-khuyết của việc tuần-hoàn như đã luận ở trên.
Thiết-tưởng cũng nên nhắc lại rằng, những triệu-chứng nầy chỉ phát-hiện khi cơn kích-ngất đến lúc trầm-trọng và mạng sống của nạn-nhơn như chỉ mành treo chuông.
Dấu-hiệu kích-ngất.
HÃY NHỚ: Mỗi nạn-nhơn có thương-tích đều đang lâm-nguy, phải được điều-trị kích-ngất ngay, bất luận
có triệu-chứng kích-ngất hay không.
Phòng-ngừa
Nên phòng bịnh hơn trị bịnh. Ta có thể phòng-ngừa kích ngất cách hữu-hiệu là dùng những phương-pháp điều-trị kích-ngất để áp-dụng cho người chưa có triệu-chứng kích ngất.
Điều-trị kích-ngất
Cách điều-trị kích ngất
Trị vết-thương có thể gây kích-ngất. Nên cầm máu ngay, vì chỉ nội việc mất máu cũng không đủ làm cho nạn-nhơn bị kích-ngất nặng rồi. Khi thấy máu đang chảy hay áo-quần dính máu chỉ rằng nạn-nhơn sắp bị kích-ngất. Chỉ dùng đến dây thắt-mạch như là biện-pháp cuối cùng để cầm máu, khi các phương-pháp khác đều không hiệu-nghiệm (Xem lại cách cầm máu ở chương 2). Nếu dùng dây thắt-mạch ở tứ-chi thì phần dưới của chơn hoặc tay bị thương không nên ấp nóng nhơn-tạo. Sau khi bỏ dây thắt-mạch, cơn kích-ngất thường chuyển thành nặng thêm. Bị gãy một hay nhiều khúc xương thường bị kích-ngất vì bị mất máu và huyết-tương nhiều do các tổ-chức nơi bị thương. Cử-động tay, chơn đã bị gãy làm cho mất máu thêm, vì vậy chỗ xương bị gãy cần phải được nghỉ yên bằng que-đỡ mà chúng ta sẽ nghiên-cứu trong chương sau.
Ấp nóng. Tứ-chi của người bị kích-ngất đều lạnh vì các huyết-quản co-thắt lại, vì bị mất máu và bị toát mồ-hôi. Điều quan-trọng nhứt là nên giữ cho người bị kích-ngất được ấm, tránh sự nhiễm lạnh, nếu phơi lạnh, cơn kích-ngất sẽ trầm-
trọng thêm. Từ nhiều năm trước người ta thường hay ấp nóng nạn-nhơn bị kích-ngất, nhưng phương-pháp nầy đã được khảo-xét và điều-chỉnh lại, vì như chúng ta đã biết, sự lạnh ấy một phần lớn do huyết-quản teo nhỏ lại để bổ-khuyết cho việc tuần-hoàn bị kém-khuyết. Ngày nay người ta thường đắp mền cho nạn-nhơn thật kín mà không cần phải thêm sức nóng nhơn-tạo như chai nước nóng, hoặc nướng gạch (đá) nóng rồi ấp thêm cho nạn-nhơn. Nếu sức nóng trong người hơi dưới 37 độ, tức dưới độ trung-bình một ít thì nạn-nhơn cảm thấy dễ chịu hơn. Chúng ta phải phân-biệt giữa sự giữ cho nạn-nhơn ấm và ấp nóng nhơn-tạo.
Trong nhiều trường-hợp, ta phải lót ở dưới và đắp ở trên để giữ hơi nóng đầy-đủ hơn. Nếu để nạn-nhơn nằm trên mặt đất ẩm và lạnh thì dầu có đắp bao nhiêu mền ở phía trên cũng không thể giữ ấm họ được. Ta có thể dùng mền, áo dầy, hay ván gỗ để lót cho nạn-nhơn kích-ngất nằm. Nếu phải nhớm nạn-nhơn lên để lót mền phía dưới, phải hết sức thận
trọng và nhẹ tay. Nếu đắp nhiều lớp mền, ta có thể lấy giấy báo lót xen kẽ. Đó là cách giữ nóng rất tốt. Chỉ nên vén áo quần đủ để xem-xét nạn-nhơn và sau khi xem-xét xong, phải phủ lại ngay. Nếu áo-quần của nạn-nhơn bị ướt, nên thay liền. Ta nên làm nhẹ-nhàng, mau-lẹ và trong mọi sự, nhớ đừng phơi lạnh nạn-nhơn cách vô-ích.
Trong mùa nóng không cần phải ấp nóng nhơn-tạo, nhưng vào mùa lạnh và trong trường-hợp nạn-nhơn than quá lạnh, ta nên ấp nóng nhơn-tạo với tất-cả sự dè dặt. Có thể dùng chai, lọ, keo, túi cao-su v.v… để đựng nước nóng. Nếu tai-nạn xảy ra dọc-đường, nơi không có nhà cửa, ít nữa cũng có nước nóng trong bình xe hơi, hoặc dùng gạch, đá, miếng sắt dẹp cát v.v… đốt nóng để dùng. Đừng bao giờ áp vật nóng thẳng vào da nạn-nhơn. Phải bọc lại cẩn-thận sau khi áp vật ấy gần gò má hay khuỷu tay mình để thử trước. Nên để những vật nóng vào giữa kẽ hai chơn, dọc theo mình và trên bụng, nếu không làm cho nạn-nhơn khó chịu.
HÃY NHỚ: Dễ làm phỏng một nạn-nhơn kích-ngất vì xúc-giác của họ không chính-xác, hoặc họ đã bất-tỉnh, rồi nên không cảm thấy nóng được nữa.
Quá nóng cũng rất nguy-hiểm vì nó làm cho cơ-thể toát mồ-hôi nhiều nên mất thêm chất lỏng, đồng-thời nó phá đổ sức tự-vệ thiên-nhiên của cơ-thể bằng cách làm cho các huyết-quản gần ngoài da nở lớn ra. Trong nhiều trường-hợp kích-ngất, nạn-nhơn bị chết sớm vì cớ bị áp nóng quá.
Thoa bóp tay chơn nạn-nhơn cũng chẳng lợi gì. Tốt hơn nên để họ nằm yên.
Cách nằm của nạn-nhơn. Như chúng ta đã biết, khi cơn kích-ngất phát-triển thì số-lượng máu chảy vào các bộ-phận thiết-yếu như tim và não bị giảm đi. Vì thế cần phải để nạn nhơn nằm dài hoặc kê chơn cao hơn đầu cỡ ba bốn tấc, để máu dồn về các bộ-phận trên. Nếu nạn-nhơn được đặt trên giường, băng-ca hay tấm ván, ta có thể kê chơn lên cách dễ dàng. Nhớ đừng cho nạn-nhơn bị kích-ngất hay sắp bị kích ngất nằm gối.
Tuy-nhiên cũng có một số trường-hợp ngoại-lệ đặc-biệt là khi nạn-nhơn bị thương nơi ngực và có dấu khó thở, nên để nạn-nhơn nằm dài, kê đầu hơi cao một chút để dễ thở. Đừng để nạn-nhơn ngồi dậy, trừ khi họ bị thương nặng nơi ngực và khi bị chảy máu mũi. Nếu bị thương nơi đầu hay bị bể sọ, nên để nạn-nhơn nằm thẳng và đừng kê chơn cao. Cũng nên nhắc lại rằng không bao giờ nên buộc nạn-nhơn phải đứng dậy hay đi.
Vấn-đề uống nước: Nếu nạn-nhơn không bị thương nơi bụng và chịu được nước, ta có thể cho họ uống. Nhưng nếu nạn-nhơn buồn-nôn hay mửa không nên cho uống nước, vì chất lỏng vào sẽ tăng thêm dấu-hiệu nôn mửa và làm cho mệt thêm. Nếu nạn-nhơn được đưa đi bịnh-viện sớm, hoặc phải chịu một cuộc giải-phẫu, tốt hơn không cho uống nước
hay chất lỏng nào khác. Trong các trường-hợp thường, ta có thể cho nạn-nhơn uống nửa ly nước mỗi lần và cách nhau khoảng 30 phút, pha thêm nửa muỗng cà-phê rượu mùi a mô-nhác (ammoniac que aromatisé). Nên cho nạn-nhơn uống từng muỗng nước thay vì đổ cả ly vào miệng họ. Có thể dung trà, cà-phê đậm, sữa hoặc nước canh nóng để cho nạn nhơn uống. Các chất lỏng nầy phải nóng vừa sức chịu của nạn-nhơn vì sức nóng đó rất cần-thiết cho việc chống kích ngất. Khi nạn-nhơn bị kích-ngất vì bể sọ hay xuất-huyết thì không nên cho uống các chất kích-thích.
Đừng bao giờ cho người bất-tỉnh uống chất lỏng nào cả vì nó có thể lọt vào khí-quản, làm cho nạn-nhơn bị ngộp hơi và gây cho họ chứng sưng phổi.
Nếu nạn-nhơn đã bất-tỉnh, nhỏ vài giọt rượu mùi a-mô nhác hay chất a-mô-nhác (nước đái quỷ) vào khăn tay và để gần mũi họ.
Tóm lại
1. Đừng làm hại nạn-nhơn với những đụng-chạm và cật vấn cách vô-ích.
2. Cầm máu ngay, nếu có xuất-huyết. Điều-trị các vết thương như cách đã và sẽ bàn tới.
3. Giữ nạn-nhơn được ấm luôn. Đừng phí thì-giờ và năng lực để tìm cách kích-thích nạn-nhơn. Tuy trà và cà-phê là chất kích-thích, nhưng hai chất ấy được dùng để giúp nạn nhơn ấm, dễ chịu và bổ khuyết chất lỏng của cơ-thể bị hao mất vì vết-thương.
4. Mời bác-sĩ đến ngay.
5. GÃY XƯƠNG
XƯƠNG có thể rạn-nứt hay gãy đôi. Để tiện việc cứu-cấp ta có thể phân xương gãy ra làm hai loại: (a) – gãy xương đơn và (b) – gãy xương kép.
Gãy xương đơn là khi xương tuy bị gãy, nhưng không có vết-thương bên ngoài. Gãy xương kép là khi xương gãy và có vết-thương ngoài da. Vết-thương ấy có thể do viên đạn bắn vào hoặc do đầu xương gãy, xé thịt da mà lộ ra ngoài.
Đôi khi nạn-nhơn chỉ bị gãy xương đơn, nhưng người cứu cấp không biết cách hoặc không cẩn-thận để nó biến thành gãy xương kép. Gãy xương kép khó điều-trị hơn gãy xương đơn vì các tổ-chức xung-quanh vết-thương bị hủy-hoại nhiều và dễ nhiễm-độc.
Nguyên-nhơn
Gãy xương thường do sự va-chạm mãnh-liệt bên ngoài. Có vài thứ bịnh làm cho xương dòn nên không cần va-chạm mạnh xương cũng bị gãy được. Tai-nạn xe cộ và trượt té thường làm cho người ta bị gãy xương nhiều nhứt. Phòng tắm
và sân chơi là chỗ gây nên những tai-nạn gãy xương đáng kể mà ta thường ít luu-ý đến nhứt.
Phòng-ngừa
Theo bản điều-tra chung thì hầu-hết những tai-nạn xe-cộ đều do bất-cẩn mà ra. Nếu ta ở nhà lầu hay nhà có gác cao, nên chong đèn cả trên lẫn dưới, sẽ tránh được nhiều tai-nạn vì trợt chơn cách vô lý. Nếu ở trên lầu đi xuống, cẩn-thận nhận-xét nền nhà trước khi đặt chơn lên, có thể có vỏ trái cây hoặc một món đồ chơi nào đó mà em bé trong nhà quên dẹp đi lại gây nên tai-nạn đáng tiếc chăng. Nên dùng cản chận phía trên cầu thang để em bé khỏi té xuống lầu.
Không nên chạy nhảy khi mang guốc cao gót. Đế giày cao-su cũng không bảo-đảm ta được trên nền nhà ướt. Phải hết sức cẩn-thận khi nền gạch được đánh si-ra bóng-láng cũng như đoạn đường lầy-lội.
Tránh việc dùng ghế, thùng gỗ, thùng đựng trái cây hay thùng rượu không, để thế thang. Một thùng gỗ dựng đứng lên không vững chắc gì cả, vì chỉ có vài cây đinh yếu-ớt chống-đỡ mà thôi. Nếu nó không chịu nổi thì những cây đinh long ván rất có thể làm cho ta bị rách da, lủng thịt nguy
hiểm, thêm vào những thương-tích khác do việc ngã-té mà ra.
Phải lựa thang tốt mà dùng. Hãy sửa lại hoặc hủy-bỏ những thang hư. Những thang đứng, cao, dùng trong việc sơn sửa nhà cửa, phải được đặt trên nền đất bằng-phẳng, chêm, chận cẩn-thận, hay phải có người đứng giữ cẩn-thận.
Nền nhà tắm phải được khô ráo và chùi sạch nước xà bong để bớt tai-nạn. Ở các nước Âu-Mỹ, nhà tắm được liệt vào hàng thứ ba trong các chỗ gây tai-nạn chết người.
Khi qua đường nên cẩn-thận ngó trước ngó sau, vì khi ta làm bộ không nhìn thấy xe, không có nghĩa là xe không thể
đụng ta được.
Trên đây chỉ là một vài lời gợi ý. Trong đời sống hằng ngày ta có thể gặp phải bao nhiêu chuyện nhỏ-nhen khác mà nếu chịu khó để-ý sẽ tránh được nhiều tang-tóc.
Dấu-hiệu gãy xương đơn
Không phải mọi dấu-hiệu đều lộ ra trong mỗi trường-hợp gãy xương. Nạn-nhơn thương nghe hay cảm thấy tiếng xương gãy. Trong trường-hợp gãy xương, chỗ bị thương rất đau nhức, đặc-biệt khi rờ mó đến. Nếu nạn-nhơn không thể cử động được hay cử-động cách vô-cùng khó-khăn và nhức-nhối chỗ bị thương, ta nên nghi người ấy bị gãy xương và phải điều-trị theo cách gãy xương. Ví-dụ trong một tai-nạn xảy ra mà nạn-nhơn không thể ngồi dậy được hay không nhúc nhích nổi tay hay chơn bị thương thì tay hay chơn ấy chắc đã bị gãy rồi. Có khi nạn-nhơn bị gãy xương mà có thể vẫn đi đứng được, vì xương mới rạn-nứt chứ chưa gãy lìa.
Theo quan-niệm của nhiều người thì khi không thể cử động các ngón tay được có nghĩa là xương cánh tay trước đã bị gãy, nhưng đó không phải là một lý-cớ vững chắc để ta tin theo. Tuy xương cánh-tay bị gãy thật, nạn-nhơn vẫn có thể cử-động ngón tay được, tuy rất đau-đớn. Trong nhiều trường hợp ta nên yêu-cầu nạn-nhơn lấy tay chỉ đúng chỗ đau có thể biết được chỗ xương bị gãy. Chỗ da thịt bị gãy xương có thể bầm tím, sưng lên và thay-đổi hình-thể. Có thể nạn-nhơn không cử-động được các khớp-xương kế cận. Nạn-nhơn có thể cảm thấy tiếng lộp-cộp của hai khúc xương va-chạm nhau, nhưng người cứu-thương không nên cố tạo ra tiếng ấy hay thử coi có tiếng va-chạm của hai khúc xương chăng.
Ta có thể so-sánh phần nghi bị gãy xương với phần lành lặn ở bên kia cơ-thể coi nó có bị biến dạng chăng. Có thể lấy tay rờ bóp nhẹ dọc theo chỗ bị nghi gãy xương để dò xem, nạn-nhơn cảm thấy đau-đớn nhiều, và lắm khi ta có thể nhận
ra xương gãy.
Gãy xương là bị kích-ngất.
Dấu-hiệu gãy xương kép
Mọi triệu-chứng gãy xương đơn đều có thể phát-lộ trong trường-hợp gãy xương kép, và có một vết-thương từ chỗ xương gãy trồ ra ngoài da. Thường có một đầu xương gãy ló ra ngoài. Vết-thương nầy gây chảy máu nhiều và gây kích
ngất cũng trầm-trọng hơn vết gãy xương đơn. Nếu có một vết-thương gần chỗ xương bị gãy, ta nên coi như đó là trường-hợp gãy xương kép. Như trên đã nói, nếu không săn sóc cẩn-thận vết gãy xương đơn, ta có thể biến nó thành gãy xương kép và điều nầy vô-cùng nguy-hiểm, vì ngoài việc gây cho nạn-nhơn thêm đau-đớn, vết-thương dễ bị nhiễm-độc, lâu lành, nếu không may một huyết-quản lớn hay dây thần kinh bị đứt, có thể làm cho nạn-nhơn chết hoặc phải mang tật suốt đời.
Cách săn-sóc vết gãy xương đơn
I. Gọi bác-sĩ lập-tức. Trong khi chờ-đợi bác-sĩ ta có thể …
2. Dùng que-đỡ để chỗ xương gãy không bị xê-dịch. Không được dời nạn-nhơn đi trước khi cột que-đỡ để tránh làm vết gãy xương đơn thành gãy xương kép. Nếu nghi nạn nhơn bị gãy xương, cứ điều-trị theo cách gãy xương.
3. Ngừa kích-ngất. Nếu đã bị kích-ngất, nên ngừa nó thành nặng thêm.
Nếu bác-sĩ sẽ đến sớm và không có chảy máu, ta không cần phải xé hay cổi quần-áo nạn-nhơn, nhưng trái lại, nếu bác-sĩ không đến ngay được hoặc có dấu máu trong áo-quần, ta cổi hoặc xé ra đủ để xem-xét vết-thương và coi họ có bị gãy xương kép không. Nếu tiện, ta nên cắt theo đường may của áo-quần mặc ngoài, rồi cắt xé cẩn-thận và nhẹ-nhàng
áo-quần lót bên trong. Nếu bị thương ở mắt-cá hay bàn chơn, phải cắt dây hoặc da giày để cổi giày ra.
Nếu tay hay chơn bị gãy, không nên níu-kéo tay hay chơn ấy, cũng không nên dời nạn-nhơn đi trước khi bác-sĩ đến nếu tình-trạng cho phép như vậy.
Cách săn-sóc vết-thương gãy kép
Như đã nói, vết-thương nầy thường chảy máu nhiều. Ta có thể lấy một miếng vải thưa hay khăn sạch chận ngay vết thương để cầm máu. Nhưng nếu một động-mạch bị đứt mà ta không thể cầm máu bằng cách vừa nói, nên tạm cầm máu bằng cách ấn mạnh vào một trong các huyệt thiết-yếu có liên-quan đến vị-trí của vết-thương (xem lại hình các huyệt chánh trong thân-thể). Chận máu động-mạch bằng tay chỉ là một biện-pháp tạm-thời trong lúc chờ-đợi áp-dụng dây thắt
mạch. Đã thắt mạch rồi không nên phủ kín dây thắt-mạch.
HÃY NHỚ: Dây thắt-mạch là một vật-dụng rất nguy hiểm.
Phải dùng dây thắt-mạch với tài khéo-léo đặc-biệt. Nếu thắt lỏng, có thể làm xuất-huyết tĩnh-mạch thêm, còn nếu quá chặt các cơ-cấu ngầm bên dưới sẽ bị hư đi và sanh ra chứng thúi thịt phần ngoài chỗ thắt-mạch. Nên ghi-chú cẩn
thận giờ, phút dùng dây thắt-mạch để gởi theo nạn-nhơn.
Có thể dùng vải thưa sát-trùng đắp lên vết-thương rồi băng chặt lại.
Đừng kéo thêm tay hay nhét khúc xương ló ra ngoài trở vào vị-trí nguyên-thủy của nó. Nếu vì cớ nào đó mà khúc xương ló ra ngoài bị chìm mất trong thịt, người cứu-thương phải ghi-chú điều ấy và gởi theo nạn-nhơn khi được đưa đến bịnh-viện hay phòng mạch bác-sĩ.
Nếu nạn-nhơn bị gãy xương bàn tay, ta có thể băng-bó
cẩn-thận, cột băng-treo và đưa nạn-nhơn đến bịnh-viện mà không sợ bị nguy-hại nhiều. Tuy-nhiên vẫn phải đề-phòng và điều-trị kích-ngất.
Gãy xương ống chơn và Gãy xương cánh tay trong
Que-đỡ
Que-đỡ là một vật-dụng dùng để giữ xương gãy nằm yên một chỗ cho đến khi bác-sĩ sửa lại hai đoạn xương lìa nhau. Một miếng ván, một khúc gỗ, một cành cây, cán chổi, cây gậy, cán dù, một xấp báo cũ, áo mưa v.v… đều có thể dùng làm que-đỡ được cả. Nếu có cấp-bách lắm và không thể tìm được que-đỡ thích-đáng, ta có thể lấy một bó rơm, hay một áo bành-tô (áo tây mặc ngoài) để dùng còn hơn là để xương gãy trơ ra như vậy. Que-đỡ phải đủ dài để giữ chặt cánh tay hay ống chơn. Nên lấy giẻ rách, bông-gòn, len hay vật gì mềm và êm để lót vào giữa lớp băng và que-đỡ. Để cột que đỡ ta có thể dùng dây băng, băng cà-vạt, dây nịch hay rẻo vải cũng được. Nhớ cột vừa đủ chặt để giữ cho xương gãy vào que-đỡ, mà không nên quá chặt. Ta cũng có thể dùng thân-thể nạn-nhơn để làm que-đỡ cho họ. Một ống xương cánh tay gãy có thể được buộc chặt vào ngực. Một ống chơn gãy có thể được buộc chặt vào chơn lành. Đó cũng là một cách dùng que-đỡ hữu-hiệu vậy. Que-đỡ cùng được dùng trong trường-hợp gãy xương-sống mà chúng ta sẽ nghiên cứu sau.
Trong mọi trường-hợp cứu-cấp, người cứu-thương phải thật bình-tĩnh để trí được sáng-suốt hầu nhận-xét và điều-trị hợp cách và có khoa-học.
Nếu nạn nhân bị gãy xương tay, sau khi cột que-đỡ, ta có thể dùng băng-treo để đỡ, treo tay lên, nạn-nhơn sẽ cảm thấy dễ chịu hơn, ít mỏi tay và ít chảy máu. Trong nhiều trường-hợp nạn-nhơn có thể đi tới lui cách dễ-dàng với băng
treo (Xem chương băng-bó, từ trang 39).
Que-đỡ bằng tạp chí, Que-đỡ và băng treo
BỊ THƯƠNG NƠI ĐẦU VÀ BỂ SỌ
Và đầu vào vật cứng hay bị đánh mạnh vào đầu là một thương-tích đáng ngại dầu sọ có bị bể hay không cũng vậy, vì bộ óc có thể bị tổn-thương nặng. Bởi cớ ấy, nạn-nhơn có bị bể sọ hay không ta vẫn phải điều-trị như nhau.
Sau khi bị thương nơi đầu, nạn-nhơn có thể bị bất-tỉnh ngay trong thời-gian rất ngắn. Nếu nạn-nhơn bị bất-tỉnh lâu hơn, có thể óc bị bầm, bị rách hay bị xuất-huyết trong óc. Dầu nạn-nhơn chỉ bất-tỉnh trong khoảng-khắc, ta vẫn xem họ như bị thương nặng ở đầu và phải để họ nằm yên cho đến khi bác-sĩ đến khám-nghiệm cẩn-thận.
Triệu-chứng
Các triệu-chứng thường biến-đổi nhiều, nhiều trường-hợp nạn-nhơn bị vết-thương xem qua rất sơ-sài, sau lại trở thành rất nặng vì bị áp-lực trong óc do huyết và chất lỏng chảy ra tạo thành.
Ngay khi bị thương ta có thể thấy một cục u hay vết tét ở trên đầu nạn-nhơn. Họ sẽ bị choáng váng hay bất-tỉnh. Tai, mũi, miệng có thể chảy máu. Nếu tai chảy máu thì xương ở căn sọ đã bị bể. Mạch chảy mau và yếu là một dấu chỉ khác chứng-tỏ rằng nạn-nhơn phải được bác-sĩ khám-nghiệm càng sớm càng tốt. Sắc-diện có thể thay-đổi tùy theo tính-cách trầm-trọng của vết-thương, trở nên đỏ, tái hay bình-thường. Hai con ngươi không đều nhau chỉ rằng vết-thương khá trầm trọng. Nạn-nhơn có thể sẽ bị tê-liệt một phần cơ-thể.
Cứu-cấp
Đặt nạn-nhơn nằm xuống, đầu và vai cao hơn thân mình nếu sắc mặt của họ vẫn như thường hay đỏ. Nếu mặt tái, để đầu và thân bằng nhau, hoặc hơi hạ đầu thấp một chút. Trong trường-hợp bắt-buộc phải dời nạn-nhơn đi, nhớ thật
nhẹ tay và giữ họ ở vị-trí nằm dài. Đừng cho uống thuốc kích-thích nhưng phải giữ nạn-nhơn ấm. Đừng ấp nóng nhơn tạo nếu nạn-nhơn bất-tỉnh. Nếu có máu và chất nhờn làm nghẹt cổ-họng, nên hạ đầu thấp xuống và nghiêng qua một bên để các chất ấy chảy ra ngoài cho trống khí-quản. Nếu nạn-nhơn bị tét da đầu, nên đắp lên một miếng vải băng sạch rồi cột chặt lại. Nếu máu chảy nhiều, ta nên cột băng chặt hơn hoặc chận cứng thẳng vào vết-thương để cầm máu, hay ít ra cũng làm cho máu bớt chảy.
GÃY XƯƠNG MŨI
Vết-thương nầy rất dễ nhận ra. Như những loại gãy xương khác, nạn-nhơn cảm thấy đau-đớn, sưng, biến hình và chảy máu. Đừng thử cột que-đỡ, vì không sử dụng que-đỡ nơi đây được. Phải cẩn-thận và nhờ bác-sĩ điều-trị, vì nếu không khéo, ta có thể làm cho mũi nạn-nhơn bị biến hình vĩnh-viễn. Nếu có vết-thương, nên đắp một miếng vải băng lên rồi băng lại với băng bốn đuôi (Xem cách băng-bó ở chương sau).