🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phong Cách Lãnh Đạo, Quản Lý Hồ Chí Minh Giá Trị Lý Luận Và Thực Tiễn
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. BÙI ÁNH HỒNG
TS. HOÀNG MẠNH THẮNG BÙI BỘI THU
NGUYỄN MẠNH HÙNG PHẠM THU HÀ
NGUYỄN MAI THẢO NHUNG VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/9-301/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5004-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/06/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 6 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-5662-1.
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th viÖn Quèc gia ViÖt Nam
Lý ViÖt Quang
Phong c¸ch l·nh ®¹o, qu¶n lý Hå ChÝ Minh - Gi¸ trÞ lý luËn vµ thùc tiÔn / Ch.b.: Lý ViÖt Quang , TrÇn ThÞ Hîi. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2019. - 176tr. ; 21cm
1. Hå ChÝ Minh, L·nh tô C¸ch m¹ng, chÝnh trÞ gia, 1890- 1969, ViÖt Nam 2. Phong c¸ch l·nh ®¹o 3. Qu¶n lÝ 959.704092 - dc23
CTM0321p-CIP
TẬP THỂ TÁC GIẢ
PGS.TS. LÝ VIỆT QUANG - ThS. TRẦN THỊ HỢI (Đồng chủ biên)
PGS.TS. NGUYỄN XUÂN TRUNG
TS. ĐẶNG VĂN THÁI
TS. LÊ THỊ THU HỒNG
ThS. NGÔ XUÂN DƯƠNG
ThS. HÀ THỊ BÍCH THỦY
ThS. VI THỊ LẠI
ThS. LÊ THỊ HẰNG
ThS. THIỀU THỊ DUYÊN
P
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
hong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh là tổng hòa các phương pháp, biện pháp, cách thức thực
hiện nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng của Người. Phong cách đó được quy định bởi vị trí, vai trò, uy tín, vốn sống, điều kiện chính trị; phản ánh các phẩm chất cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, tình cảm, tri thức, ý chí, tính cách... và gắn liền với thực
tiễn hoạt động cách mạng của Bác. Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh vừa thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa mang đậm bản sắc văn hóa, tâm hồn, cốt cách con người Việt Nam, tạo nên nhiều nét độc đáo, đặc sắc, phong phú. Việc nghiên cứu, học tập, vận dụng phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có phong cách lãnh đạo, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu nhằm phát huy tinh thần làm chủ, ý thức trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của người lãnh đạo, quản lý, từ đó nâng cao chất lượng thực hiện vai trò, chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng trong tình hình hiện nay.
Nhằm giúp cán bộ, đảng viên nghiên cứu, quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo phong cách lãnh đạo, quản lý
5
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách: Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn do PGS.TS. Lý Việt Quang, ThS. Trần Thị Hợi đồng chủ biên. Cuốn sách trình bày một cách có hệ thống về một số vấn đề lý luận về phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh, nội dung phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh, đồng thời làm rõ giá trị lý luận
và thực tiễn của phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh. Mặc dù đã cố gắng trong quá trình biên tập, xuất bản, song cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 6 năm 2019
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
P
LỜI NÓI ĐẦU
hong cách Hồ Chí Minh nói chung và phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh nói riêng
là một bộ phận quan trọng trong di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng, dân tộc và Nhân dân ta. Phong cách lãnh đạo, quản lý của Người với nhiều nét đặc sắc, góp phần khắc họa nên nhân cách mẫu mực của một lãnh tụ chính trị lỗi lạc, một nhà văn hóa kiệt xuất, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc mang đậm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo cao cả, đó là giải phóng con người, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho con người, đặt con người ở vị trí xứng đáng với đúng nghĩa của nó.
Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh được kết tinh trong các bài nói, bài viết của Người, đặc biệt trong thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam với cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước. Phong cách
lãnh đạo, quản lý đó được thể hiện qua những nội dung chủ yếu là phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ; phong cách lãnh đạo, quản lý quần chúng; phong cách lãnh đạo,
7
quản lý năng động, sáng tạo; phong cách lãnh đạo, quản lý khoa học; phong cách lãnh đạo, quản lý nêu gương; phong cách lãnh đạo, quản lý quyết đoán, chủ động.
Đặc điểm nổi bật của phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh chính là không dựa vào quyền lực hay bằng sức mạnh của vũ lực, mà tác động đến con người một cách “có lý, có tình” trong việc giải quyết những vấn đề gắn với công việc và con người. Vì vậy, phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh không chỉ tác động đến nhận thức, mà còn có sức cảm hoá con người sâu sắc, đồng thời rất gần gũi, thiết thực, tạo thành những giá trị bền vững, có sức lan tỏa, có ý nghĩa to lớn đối với việc rèn luyện phong cách của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp trong điều kiện hiện nay. Đó là những bài học quý báu,
những chỉ dẫn quan trọng cho việc xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cán bộ là “cái gốc của mọi công việc”, vì vậy phong cách lãnh đạo, quản lý của cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng, không chỉ xây dựng nên hình ảnh và uy tín cá nhân, mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước ta; đồng thời, tác động đến kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức, đến phong cách làm việc của cán bộ cấp dưới, của Nhân dân. Bởi vậy, việc xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý chuẩn mực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.
8
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong thành tựu chung đó của toàn dân tộc, có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và những nỗ lực trong việc rèn luyện theo phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh. Phần đông cán bộ lãnh đạo, quản lý có phong cách ngày càng sâu sát cơ sở, phát huy dân chủ, làm việc một cách có tổ chức, khoa học, tính chuyên nghiệp ngày càng cao, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,...
Tuy nhiên, còn một bộ phận không nhỏ cán bộ bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong phong cách lãnh đạo, quản lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và mở cửa như hiện nay. Một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chuyên quyền, độc đoán, hống hách, xa dân, khinh dân, nói không đi đôi với làm. Một số cán bộ coi thường tính nguyên tắc trong lãnh đạo, quản lý, có lúc rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, cảm tính, thói quen tùy tiện, không coi trọng tính khoa học trong lãnh đạo, quản lý dẫn đến hiệu quả công việc thấp. Thậm chí, một số cán bộ vi phạm quy định, Điều lệ Đảng, những điều đảng viên không được làm, vi phạm pháp luật của Nhà nước, để lại những hậu quả rất nghiêm trọng. Còn tình trạng làm việc tùy tiện, thiếu dân chủ, nói nhiều làm ít ở một bộ phận cán bộ
9
lãnh đạo, quản lý, làm giảm hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và nghiêm trọng hơn là làm giảm niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước - một yếu tố đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ.
Công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải tiếp tục phát huy mạnh mẽ nguồn lực, sức mạnh của Nhân dân; nâng cao vị thế của dân tộc, tiềm lực của quốc gia, đưa đất nước sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý đúng đắn, hiệu quả. Để đẩy mạnh công tác xây dựng, rèn luyện cán bộ, đảng viên, ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu, học tập và làm theo phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhất là đối với các cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở nhận thức những
vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, kế thừa kết quả
10
nghiên cứu của các tác giả đi trước, nhóm tác giả đã tập trung làm rõ cơ sở hình thành, nội dung cơ bản và giá trị lý luận, giá trị thực tiễn của phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh.
Nhóm biên soạn xin chân thành cảm ơn sự góp ý của các nhà khoa học để cuốn sách sớm hoàn thành và đến được với bạn đọc, đặc biệt là sự tham gia góp ý của PGS.TS. Nguyễn Xuân Trung, PGS.TS. Vũ Văn Thuấn, TS. Đặng Văn Thái, TS. Lê Thị Thu Hồng, ThS. Ngô Xuân Dương, ThS. Hà Thị Bích Thủy, ThS. Vi Thị Lại. Trong lần xuất bản đầu tiên này, cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Hà Nội, tháng 6 năm 2019
T/M NHÓM BIÊN SOẠN
PGS.TS. LÝ VIỆT QUANG
11
Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ HỒ CHÍ MINH
I- MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Khái niệm “phong cách”
Từ “phong cách” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “stylus”, tiếng Hy Lạp là “stylos”. Ở phương Tây, phong cách đã được đề cập đến từ lâu và thường được hiểu theo nghĩa là một hiện tượng độc đáo, nhất là trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, với ý nghĩa là các dấu hiệu đặc trưng nghệ thuật của một thời đại, một xu hướng hoặc một bút pháp cá nhân của người nghệ sĩ. Phong cách cũng được hiểu với các nghĩa khác như: các dấu hiệu đặc trưng, đặc biệt, những thuộc tính riêng của ai đó; tổng thể các phương pháp sử dụng công cụ ngôn ngữ đặc trưng của một nhà văn, một tác phẩm nào đó; các cách thể hiện của cá nhân như cách nói, cách ăn mặc,...
Theo Từ điển tiếng Việt, phong cách được hiểu là: “Vẻ riêng biệt trong lối sống, làm việc của một người
13
hay một hạng người nào đó; phiên dạng của ngôn ngữ có những đặc điểm trong lựa chọn, kết hợp và tổ chức các phương pháp ngôn ngữ liên quan tới giao tiếp; toàn bộ các thủ pháp sử dụng phương tiện ngôn ngữ đặc trưng cho từng nhà văn, tác phẩm, thể loại; việc lựa
chọn phương tiện ngôn ngữ theo nguyên tắc tu từ”1. Theo tác giả Đặng Xuân Kỳ, phong cách không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp, giới hạn trong văn học, nghệ thuật, mà còn “được hiểu theo nghĩa rộng tức là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái và phẩm cách, trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết)... tạo nên những giá trị, những nét riêng của chủ thể đó”2.
Từ những quan niệm trên đây, có thể hiểu: phong cách là những nét riêng, mang tính độc đáo, có tính hệ thống, trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc một nhóm người, một tổ chức được thể hiện trong các mặt hoạt động như: lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử...
_______________
1. Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1998, tr.1337.
2. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên): Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.153.
14
Phong cách không phải là yếu tố mang tính bẩm sinh mà chịu sự chi phối, tác động bởi các nhân tố như: truyền thống văn hóa, đạo đức; điều kiện sống, môi trường khách quan và được hình thành, hoàn thiện trong quá trình sinh sống, phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi từ sự trải nghiệm thực tiễn, lối sống, thói quen của mỗi người và nhóm người. Do đó, phong cách thường mang dấu ấn cá nhân sâu sắc.
2. Khái niệm “lãnh đạo”
Có nhiều quan niệm khác nhau về lãnh đạo. Một số tác giả nước ngoài định nghĩa: “Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Lãnh đạo là chỉ dẫn, điều khiển, ra lệnh và đi trước”1; hay: “Lãnh đạo là một quá trình gây ảnh hưởng đến các hoạt động của một cá nhân hay một nhóm nhằm đạt được mục đích trong tình huống nhất định”2. Về vai trò của lãnh đạo, nhà tâm lý học A.G. Kôvaliốp cho rằng: “Việc thực hiện các mục tiêu đòi hỏi phải có một hoạt động có kế hoạch, một mối liên hệ hữu cơ giữa thành viên này với thành viên khác trong tập thể. Do đó,
_______________
1. H. Koontz và các tác giả: Những vấn đề cốt yếu của quản lý, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1999, tr.499.
2. P. Hersey, Ken Blanchard: Quản trị hành vi tổ chức, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002, tr.120.
15
nảy sinh sự cần thiết phải phối hợp hoạt động của mọi người với nhau và điều đó sẽ do một người được cử ra lãnh đạo, thực hiện. Nếu không có sự lãnh đạo thì không thể xây dựng được một tập thể. Ngay cả trong những cộng đồng người tạm thời như trò chơi cũng cần có người lãnh đạo”1.
Lãnh đạo là quá trình tác động một cách có chủ đích, gây ảnh hưởng tích cực của chủ thể tới các thành viên của tổ chức, của cộng đồng, nhằm khơi dậy cảm xúc, cam kết và trí tuệ cùng nỗ lực hành động vì mục tiêu chung. Xuất phát từ thực tiễn, nhất là thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh, lãnh đạo còn có thể hiểu là một quá trình với những khâu nối, những giai đoạn gắn
bó mật thiết với nhau, từ tìm đường - quá trình tìm kiếm, xác định mục tiêu mới; đến mở đường - tạo ra những cơ sở, nền tảng của một trật tự mới, một giá trị mới; và dẫn đường - dẫn dắt cá nhân và tổ chức theo đuổi mục tiêu, hiện thực hóa mục tiêu.
Như vậy, có thể hiểu lãnh đạo là hoạt động của chủ thể lãnh đạo nhằm phát huy cao nhất sức mạnh ở đối tượng lãnh đạo (con người và tổ chức) để họ chủ động, tự giác và tích cực góp sức thực hiện mục tiêu chung.
Chủ thể lãnh đạo là người có khả năng kết nối và tạo ra tầm nhìn cho mỗi người, cho một tập hợp người
_______________
1. A.G. Kovaliop: Tâm lý học xã hội, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1976, tr.149.
16
thành một tổ chức có tính cố kết, đồng thời sử dụng vị thế và quyền lực của mình để gây ảnh hưởng và khích lệ những người khác trong tổ chức cùng thực hiện tầm nhìn đó.
Đối tượng lãnh đạo (người được lãnh đạo, người đi theo): cá nhân khác, nhóm, tập thể, cộng đồng, xã hội. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về lãnh đạo đúng:
“Lãnh đạo đúng nghĩa là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong. 3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”1.
3. Khái niệm “quản lý”
Khái niệm quản lý có thể hiểu là một tiến trình bao gồm tất cả các khâu: lập kế hoạch, tổ chức, giám sát và kiểm tra các nỗ lực của các thành viên trong tổ chức và sử dụng các nguồn lực của tổ chức nhằm đạt mục tiêu đã định trước. Như vậy, theo quan điểm này, quản lý là
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.325.
17
một quá trình chủ động của con người trong việc nhận thức mục đích cần đạt, vạch ra cách thức thực hiện mục đích và tổ chức thực hiện các mục đích đó.
Quản lý là hoạt động điều hành, phối hợp hoạt động giữa các cá nhân, các nhóm nhằm đạt mục tiêu đã định trước; là sự tác động định hướng lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó, hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định... Dấu hiệu cơ bản của quản lý là: 1) Là một quá trình có tổ chức và có chủ đích của con người; 2) Quá trình này vận hành do có tác động định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý; 3) Chủ thể tác động lên đối tượng quản lý thông qua các phương pháp, phương tiện quản lý; 4) Nhận thức của chủ thể về tính quy luật của quá trình quyết định hiệu quả quản lý.
Theo đó, khái niệm quản lý có thể hiểu như sau: Quản lý là quá trình tác động một cách có chủ đích, có tổ chức của chủ thể quản lý lên các đối tượng quản lý thông qua nhận thức và áp dụng những cách thức, phương pháp, phương tiện xác định, nhằm đạt được mục đích quản lý một cách tối ưu, thúc đẩy đối tượng đi đúng hướng và đạt được mục tiêu chung của tổ chức.
Nếu lãnh đạo được hiểu là việc đề ra phương hướng và ý chí để mọi người thực hiện theo, thì quản lý là việc đưa ra các mệnh lệnh hành chính và điều khiển các hoạt động chung. Việc phân biệt rõ lãnh đạo và quản lý là cơ sở để khắc phục hiện tượng chồng chéo chức năng,
18
bao biện làm thay hoặc dựa dẫm, ỷ lại giữa những chủ thể của hai hoạt động này. Tuy lãnh đạo và quản lý là hai phương diện hoạt động khác nhau nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau, có thể được tiến hành bởi cùng một chủ thể. Nói cách khác, một chủ thể có thể vừa là người lãnh đạo, vừa là người quản lý.
Với ý nghĩa đó, lãnh đạo và quản lý càng có vai trò quan trọng trong đấu tranh cách mạng. Bởi lẽ, đây không chỉ là quá trình hoạt động làm thay đổi về chất trong mọi mặt đời sống của xã hội, mà còn là những hoạt động liên quan đến mối quan hệ về quyền và lợi ích giữa các tập đoàn người trong xã hội có giai cấp. Vì vậy, nếu không có lãnh đạo và quản lý, cách mạng không thể giành thắng lợi.
4. Khái niệm “phong cách lãnh đạo, quản lý”
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về phong cách lãnh đạo, quản lý. Ở phương Tây, phong cách lãnh đạo chủ yếu được hiểu ở cấp độ cá nhân người lãnh đạo, là hành vi cá nhân nhằm tác động và định hướng các hoạt động của nhóm hoặc một lực lượng nào đó. Ở một số nước như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam,... phong cách lãnh đạo, quản lý không chỉ được đề cập ở góc độ cá nhân mà còn ở khía cạnh khác là tổ chức (như đảng, nhà nước...).
Ngoài ra, còn có nhiều hướng tiếp cận về phong cách lãnh đạo, quản lý. Cụ thể, cách tiếp cận coi phong cách
19
lãnh đạo, quản lý là tác phong lãnh đạo, quản lý, là tổng thể những phương pháp đặc thù và ổn định nhất nhằm giải quyết những nhiệm vụ tiêu biểu và những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện chức năng lãnh đạo. Cách hiểu này đồng nghĩa tác phong với phong cách trong khi tác phong là sự biểu hiện cụ thể của phong cách, là một bộ phận của phong cách, mang tính cá nhân nhiều hơn; còn phong cách có tính xã hội rộng lớn hơn nhiều lần so với phong cách.
Cách tiếp cận coi phong cách lãnh đạo, quản lý là cách thức lãnh đạo, quản lý. Theo cách tiếp cận này, phong cách lãnh đạo, quản lý được hiểu là hình thức diễn ra một hành động của người lãnh đạo, quản lý. Cách hiểu này chưa thấy được nội dung bên trong của phong cách lãnh đạo, quản lý (những yếu tố thuộc về chủ thể).
Cách tiếp cận đồng nhất phong cách lãnh đạo, quản lý với biện pháp, phương pháp khi cho rằng, phong cách lãnh đạo là hệ thống những biện pháp, phương pháp tác động của người lãnh đạo tới tập thể nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác lãnh đạo,...
Từ những quan niệm trên đây có thể hiểu, phong cách lãnh đạo, quản lý là những nét đặc trưng, độc đáo mang tính ổn định của chủ thể lãnh đạo, quản lý trong quá trình tác động lên đối tượng lãnh đạo, quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
20
5. Khái niệm “phong cách Hồ Chí Minh”
Nói phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người. Phong cách Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô cùng quý giá mà Người để lại cho dân tộc ta. Đó là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách diễn đạt, phong cách sinh hoạt...
Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của người Việt Nam. Đó là phong cách của một con người với nhân cách vĩ đại, cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp, cái trí minh mẫn, hành xử mực thước; phong cách của một lãnh tụ, một chiến sĩ cộng sản chân chính. Đó còn là phong cách của người anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là nhà văn hóa kiệt xuất. Phong cách Hồ Chí Minh không phải để cho người đời ca ngợi, sùng bái, mà là tấm gương thiết thực để tất cả mọi người học tập, noi theo. Không chỉ có người Việt Nam, từ người lao động chân tay đến lao động trí óc, từ già đến trẻ, từ miền xuôi đến miền ngược, từ người tu hành đến các chính khách, thương gia đều tìm thấy ở Hồ Chí Minh những nét phong cách tiêu biểu của chính bản thân mình, mà ngay cả những người tiến bộ nước ngoài, cả ở phương Đông và phương Tây cũng cảm thấy gần gũi và
21
hấp dẫn với phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phong cách của Người không chỉ là bài học, là chuẩn mực cho việc xây dựng phong cách người cán bộ cách mạng, mà còn bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ người Việt Nam
hôm nay và mai sau.
Phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể với nội dung nhiều tầng ý nghĩa, phát triển theo lôgích đi từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến nói, viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện ra qua hoạt động hằng ngày (phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt).
6. Khái niệm “phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh”
Trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước, lãnh tụ tối cao của dân tộc, Hồ Chí Minh đã xây dựng cho mình một phong cách lãnh đạo, quản lý mẫu mực, dân chủ, khoa học, quần chúng... Bước đầu có thể quan niệm, phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh là những nét đặc trưng, độc đáo mang tính ổn định, được thể hiện một cách thường xuyên trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của Người. Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh bao gồm: phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ; phong cách quần chúng; phong cách lãnh đạo, quản lý năng động, sáng tạo; phong cách lãnh đạo, quản lý quyết đoán, chủ động; phong cách lãnh đạo,
22
quản lý khoa học; phong cách lãnh đạo, quản lý nêu gương. Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Nói đến phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh là nói đến những giá trị riêng, độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân, được thể hiện trong mọi lĩnh vực lãnh đạo, quản lý của Người. Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong di sản vô cùng quý giá mà Người để lại cho Đảng và dân tộc Việt Nam.
Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh là phong cách của một nhân cách lớn, tâm trong, đức sáng, trí tuệ mẫn tiệp, hành động mực thước; mang tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân văn sâu sắc. Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh vừa cao đẹp vừa gần gũi, thân thuộc, khiến cho mọi người dân và các cán bộ lãnh đạo, quản lý đều có thể học tập và làm theo. Ngay cả nhiều người nước ngoài cũng nhận thấy ở phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh sự cao quý mà gần gũi, cởi mở; vĩ đại, đáng khâm phục mà không xa cách. Đặc biệt, phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh là bài học, là cơ sở hết sức quan trọng cho việc xây dựng phong cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong sự nghiệp cách mạng hôm nay và mai sau.
23
II- CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh là điển hình cho phong cách của con người Việt Nam, song lại có những nét đặc sắc trong phong cách của một triết gia, một nhà ngoại giao, một trí thức uyên bác, phong cách của một lãnh tụ, một chiến sĩ cộng sản chân chính. Sự kết hợp hài hòa, biện
chứng giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, quá khứ và tương lai, văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây, dân tộc và quốc tế là cơ sở tạo nên phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh. Hay nói cách khác, phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh là sự chắt lọc, hòa quyện và phát triển những tinh túy về phong cách của nhiều nền văn hóa khác nhau.
1. Những giá trị tốt đẹp của gia đình, quê hương, dân tộc và phong cách của những bậc tiền bối
Sinh ra trong một gia đình khoa bảng giàu truyền thống yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh được hấp thụ một nền giáo dục nho học có tư tưởng tiến bộ, dân chủ từ người cha, người thầy là cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc. Truyền thống gia đình và sự giáo dục nghiêm cẩn của người cha đã ảnh hưởng rất lớn đối với việc hình thành phẩm chất, nhân cách của Hồ Chí Minh. Đặc biệt, những tư tưởng, tình cảm như: yêu dân, thương dân, tôn trọng dân, lấy dân làm cơ sở cho mọi cải cách chính trị - xã hội
24
của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành tư tưởng, phong cách của Hồ Chí Minh. Quê hương Nghệ An, mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, yêu nước, đoàn kết, hiếu học, lối sống giản dị, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, cương trực và ý chí quật cường đã góp phần hun đúc ở Hồ Chí Minh những tình cảm sơ khai, ban đầu. Thời niên thiếu, Nguyễn Tất Thành được sự dạy dỗ của những thầy giáo có tư tưởng tiến bộ trong đó có thầy Vương Thúc Quý, một “sĩ tử Cần Vương”. Với tư chất thông minh, Người được bồi đắp những kiến thức nho học và chịu ảnh hưởng lớn từ chí hướng yêu nước, tình thương yêu những người dân nghèo khổ của Thầy Vương. Hồ Chí Minh cũng sớm được tiếp xúc với tư tưởng cứu nước của những nhà yêu nước tiền bối như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... Người khâm phục tinh thần yêu nước, sự hy sinh vì nghĩa lớn của các cụ, nhưng đồng thời cũng nhận thấy những hạn chế, bất cập trong những tư tưởng cứu nước đó. Bằng thái độ cầu thị, tinh thần tiếp thu chọn lọc biện chứng, Người phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX và đi đến kết luận: Cụ Phan Chu Trinh chủ trương yêu cầu người Pháp thực hiện những cải cách để thực hiện “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, điều đó chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”1;
_______________
1. Xem Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017, tr.14.
25
Cụ Phan Bội Châu nuôi hy vọng dựa vào sự giúp đỡ của Nhật Bản, nước “đồng văn đồng chủng”, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”1; cụ Hoàng Hoa Thám trực tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng vẫn “còn nặng cốt cách phong kiến”2. Sau này, Người kể lại rằng: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật,
người khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thì thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ”3. Như vậy, việc được tiếp xúc với những nhà yêu nước tiền bối và tư tưởng cứu nước của họ đã giúp Hồ Chí Minh học tập được ở họ những điểm tích cực trong phong cách, đặc biệt là tinh thần vì nước, vì dân mà phấn đấu, hy sinh; đồng thời từ những hạn chế trong tư tưởng cứu nước của những nhà yêu nước tiền bối, Người bước đầu xây dựng cho mình cách nhìn nhận, xem xét, đánh giá mọi sự việc, hiện tượng lịch sử một cách khách quan, khoa học.
Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã có tác động sâu sắc đến việc hình thành phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh. Trước tiên, đó là chủ nghĩa yêu nước, giá trị cao nhất trong hệ giá trị
_______________
1, 2. Xem Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.14, 15.
3. A. Lui Stơrông: “Ba lần nói chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Báo Nhân Dân, ngày 18/5/1965.
26
tinh thần của dân tộc, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước và được khái quát thành chân lý: “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”1.
Thực tiễn khi Hồ Chí Minh bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước cho thấy, hành trang lớn nhất và cũng là động lực mạnh mẽ nhất của Người chính là truyền thống yêu nước của dân tộc, quê hương, gia đình được kết tinh ở Người. Yêu nước vừa là nguồn cội sức mạnh để Hồ Chí Minh vượt qua muôn vàn thử thách, khó khăn trên hành trình tìm đường cứu nước, vừa trở
thành căn cứ để Người xác định chân giá trị của các trào lưu tư tưởng, các con đường cứu nước. Từ trải nghiệm thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú của chính bản thân, Người đã khẳng định: “Lúc đầu, chính
là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”2. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam gắn liền với ý thức sâu sắc của mỗi người dân nước Việt về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia đã tác động sâu sắc đến phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh. Trong lãnh đạo,
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 38.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 563.
27
quản lý đất nước, Người luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết, như Người từng nói: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu. Người bộc bạch: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”1. Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh là một tấm gương cao đẹp về lòng kiên trì, chịu đựng khó khăn
gian khổ để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đã định. Mặt khác, một đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam là gắn liền yêu nước với yêu thương con người, quý trọng Nhân dân, gần dân, hiểu dân. Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh thể hiện rõ sự kết tinh và tỏa sáng của những giá trị tích cực, tiến bộ trong truyền thống dân tộc như yêu dân, thân dân, trọng dân, lấy dân làm gốc, làm nền tảng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tư tưởng coi trọng vị trí, vai trò của dân, coi dân là gốc và lấy dân làm gốc là một trong những giá trị tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Là một quốc gia đất không rộng, người không đông, qua hàng nghìn năm lịch sử luôn luôn phải chống chọi với thiên tai bão lũ, đặc biệt liên tiếp phải đối mặt với dã tâm xâm lược thôn tính, đồng hóa của các thế lực ngoại xâm
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187.
28
hùng mạnh, các thế hệ người Việt luôn nhận thức sâu sắc được rằng muốn đứng vững thì nhất thiết phải khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, thương nòi, tình cảm cố kết của mỗi người dân để tạo thành sức mạnh tổng lực. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, muốn duy trì độc lập, bảo vệ chủ quyền của dân tộc và nắm quyền quản lý đất nước, những người lãnh đạo phải biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Những luận đề tiến bộ đề cao vai trò, vị trí của Nhân dân đã được các nhà tư tưởng Việt Nam tiếp thu và vận dụng trong phép chống giặc, đạo trị quốc. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trước khi qua đời đã dặn lại Vua Trần Anh Tông “khoan thư sức dân làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”. Vị khai quốc công thần nhà Hậu Lê, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi cũng nhấn mạnh bài học: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “lật thuyền mới biết dân như nước”,... Những nhà tư tưởng kiệt xuất của dân tộc đã nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của Nhân dân trong sự tồn vong, lẽ thịnh suy của quốc gia, dân tộc.
Trong các triều đại phong kiến, thuận theo “mệnh trời” và hợp với “ý dân” là hai yếu tố có sức thuyết phục nhất, thường được viện dẫn để bảo đảm cho sự “chính danh” và bền lâu của một vương triều, đồng thời cũng là chỗ dựa giải thích cho các quyết định quan
trọng như thay đổi ngôi vua, dời đô, chiến tranh... Bởi vậy, các vương triều tiến bộ luôn chú trọng đến các chính sách kinh tế, xã hội để yên lòng dân và được lòng dân.
29
Lịch sử dân tộc đã ghi lại ngay cả khi ở vị trí tối cao, Hoàng đế Lê Đại Hành cũng sẵn sàng đi cày đầu Xuân để khuyến khích người dân tích cực tăng gia sản xuất, làm cho đời sống sung túc, an vui.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng đã được các cư dân sống trên đất nước Việt Nam xây dựng, hun đúc trở thành một giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Truyền thống này được thể hiện rõ nhất là trong những thời điểm khó khăn, hoạn nạn của đất nước, của cộng đồng. Trong nét đẹp truyền thống đó, mỗi cá nhân không tồn tại riêng biệt mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với gia đình, làng, xã, quê hương và dân tộc một cách bền chặt. Truyền thống ấy đã tác động không nhỏ đến việc hình thành phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh. Người luôn đề cao tính hòa đồng, cộng đồng, tập thể trong quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước. Từ truyền thống đoàn kết của dân tộc, Người đã rút ra bài học: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”1. Cả cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn luôn phấn đấu không ngừng nghỉ vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại ấm no, hạnh phúc, công bằng, văn minh, một thế giới đại đồng, trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc, sự bình đẳng, hữu nghị giữa các quốc gia.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.256.
30
Mặt khác, những truyền thống khác như thông minh, sáng tạo trong lao động, sản xuất, chiến đấu, ý chí tự lực, tự cường được hình thành trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước để sinh tồn và phát triển trước thiên nhiên khắc nghiệt và những kẻ thù xâm lược hung bạo; khả năng tiếp thu và tiếp biến văn hóa cao để làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh, nhằm bảo tồn dân tộc và phát triển đất nước cũng đã tác động đến việc hình thành phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh.
Có thể nói, những giá trị tốt đẹp của gia đình, quê hương, truyền thống của dân tộc và tư tưởng của những nhà yêu nước tiền bối đã đặt những cơ sở ban đầu cho sự hình thành phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh. Trên nền tảng đó, Người tiếp tục có sự tiếp thu, chắt lọc, kế thừa những tinh hoa văn hóa, văn minh của nhân loại, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng và hình thành nên một phong cách lãnh đạo, quản lý khoa học, cách mạng, nhân văn mang đậm chất Hồ Chí Minh.
2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh còn được hình thành trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là những giá trị quý báu của văn hóa phương Đông và phương Tây. Trong tinh hoa văn hóa phương Đông, những tư tưởng của đạo Phật như: từ bi hỷ xả, bác ái, vị tha, cứu khổ cứu nạn, thương yêu con người,
31
nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, sống hướng thiện... đã ảnh hưởng đến phẩm chất và nếp nghĩ, cách làm của Hồ Chí Minh. Khi hoạt động ở Thái Lan, để che mắt sự theo dõi của kẻ địch, Hồ Chí Minh đã từng khoác áo cà sa, cùng với các vị chân tu luận bàn về triết lý nhân sinh của nhà Phật. Người đã đứng ra vận động kiều bào góp sức, góp của để xây dựng chùa chiền. Sau khi nước nhà độc lập, Người cũng đã nhiều lần viết thư và tiếp chuyện các tăng ni, phật tử, khẳng định những triết lý sâu sắc của nhà Phật. Đạo Phật góp phần hình thành ở Người tư tưởng thương yêu, quý trọng con người, lý tưởng cứu dân, cứu nước... tạo cơ sở cho việc xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ, quần chúng. Người am hiểu đạo Phật, trân trọng và biết tìm ra những giá trị tích cực của đạo Phật để vận dụng vào quá trình lãnh đạo cách mạng.
Xuất thân trong một gia đình nhà nho, Hồ Chí Minh đã được nuôi dạy và tiếp thu tinh thần của Nho giáo từ rất sớm. Từ đó, Người đã khai thác và tiếp thu những mặt tích cực nhất của Nho giáo, nhưng là Nho giáo đã được Việt hóa khi du nhập vào Việt Nam, mang theo những giá trị mới như: đề cao lòng yêu nước, thương dân, coi trọng tính nhân văn, nghĩa tình, sự khoan dung và dung hòa giữa cá nhân với cộng đồng, coi trọng lợi ích cộng đồng trên lợi ích cá nhân, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích dân tộc. Nho giáo du nhập vào Việt Nam đặt ra tiêu chuẩn đòi hỏi những bậc
32
chính nhân quân tử nói chung, trong đó có vua, quan phải đặt lên hàng đầu phẩm chất trung thành với Tổ quốc, yêu thương dân, lấy tu thân làm gốc; ca ngợi vua sáng, tôi hiền, quan tâm, chăm lo đến đời sống dân chúng; với triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời; tư tưởng về một xã hội bình trị, an ninh, hòa mục, một thế giới đại đồng; triết lý nhân sinh tu tâm, dưỡng tính... Những giá trị tích cực nổi bật của Nho giáo Việt Nam đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển lên tầm cao mới.
Bên cạnh ảnh hưởng của văn hóa phương Đông, ngay từ khi học tiểu học, Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa phương Tây, đó là tư tưởng tiến bộ của Đại cách mạng Pháp về “tự do, bình đẳng, bác ái” đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Người và trở thành một trong những yếu tố thôi thúc Người đi sang phương Tây để tìm đường cứu nước, cứu dân. Sống, lao động, học tập và hoạt động ở nước ngoài trong suốt 30 năm, Hồ Chí Minh đã có điều kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và trải nghiệm nhiều giá trị văn hóa phương Tây.
Những giá trị tích cực, tiến bộ trong văn hóa phương Tây đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ, hành động và tư tưởng của Hồ Chí Minh. Người đã trực tiếp tìm hiểu về cách mạng dân chủ tư sản Mỹ và cách mạng dân chủ tư sản Pháp với những điểm tiến bộ về
quyền con người và tư tưởng dân chủ. Từ những thành công và hạn chế của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản
33
điển hình, Hồ Chí Minh rút ra những giá trị tích cực trong các cuộc cách mạng này để vận dụng vào lãnh đạo, tổ chức sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam. Đối với cách mạng Mỹ, Người nhận xét:
“1. Chính sách Pháp đối với An Nam bây giờ xấu hơn Anh đối với Mỹ trước, vì Pháp đã vơ vét hết của cải dân ta, đã ngăn cấm dân ta làm việc này việc khác; nó lại bắt dân ta hút thuốc phiện và uống rượu. Anh chỉ
ham tiền Mỹ, Pháp đã ham tiền lại muốn làm mất nòi, mất giống An Nam đi. Thế mà dân An Nam còn chưa học Mỹ mà làm cách mệnh!
2. Trong lời tuyên ngôn của Mỹ có câu rằng: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn cho sung sướng... Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đập đổ Chính phủ ấy đi, và gây lên Chính phủ khác...”.
Nhưng bây giờ Chính phủ Mỹ lại không muốn cho ai nói đến cách mệnh, ai đụng đến Chính phủ! 3. Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai.
Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi. Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn
34
ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”1.
Đối với cách mạng Pháp, Người chỉ rõ: “Cách mệnh Pháp dạy cho chúng ta:
1. Dân chúng công nông là gốc cách mệnh, tư bản là hoạt đầu, khi nó không lợi dụng được dân chúng nữa, thì nó phản cách mệnh.
2. Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền mới thành công.
3. Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều.
4. Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại.
5. Cách mệnh Pháp hy sinh rất nhiều người mà không sợ; ta muốn làm cách mệnh thì cũng không nên sợ phải hy sinh”2.
Trực tiếp sinh sống ở các nước phương Tây, bằng chính những hoạt động trong quá trình làm việc, học tập, sinh hoạt trong các tổ chức xã hội và chính trị ở các quốc gia này, Hồ Chí Minh đã tiếp thu được phương thức tổ chức xã hội dân chủ, phong cách làm việc dân chủ với tính kỷ luật cao, góp phần định hình trong tư duy của Người phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ, khoa học.
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.291-292, 297. 35
Quá trình sinh sống, lao động và học tập ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã có cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc tìm hiểu về một số chính trị gia, lãnh tụ, những nhà hoạt động chính trị dân chủ tư sản như: Môngtexkiơ, Rútxô,
Oasinhtơn, Lêông Blum... Người chắt lọc và tiếp thu ở họ những điểm tích cực, phù hợp để xây dựng và hình thành nên phong cách cá nhân của Người.
Ngoài ra, văn hóa phương Tây coi trọng lý tính và khoa học, phong cách ứng xử lịch thiệp cũng tác động đến nhận thức của Hồ Chí Minh.
3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Trong hành trình dài 30 năm bôn ba ở nước ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Tháng 7/1920, Người được đọc Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin, Người kể lại: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!””1.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.562.
36
Chủ nghĩa Mác - Lênin được Hồ Chí Minh ví như “cẩm nang thần kỳ”, là “kim chỉ nam”, “mặt trời soi sáng”, giúp cho Người có thế giới quan và phương pháp luận khoa học để nhìn nhận, phân tích, đánh giá các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Từ thực tiễn khảo nghiệm các trào lưu tư tưởng trên thế giới, Người khẳng định: chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất và cách mạng nhất. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã thấm sâu vào tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng tới quá trình Người tuyên truyền, giáo dục và tổ chức, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, trong đó có cả việc hình thành phong cách lãnh đạo, quản lý.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập phong cách lãnh đạo lêninnít để xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý của mình và vận dụng, phát triển sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Phong cách lêninnít luôn coi trọng tính nguyên tắc của Đảng, đề cao ý thức trách nhiệm trong công việc được giao, đảm bảo thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy vai trò của Nhân dân trong quản lý xã hội; đề cao nói đi đôi với làm, kiên quyết về nguyên tắc, mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo về sách lược... Phong cách lãnh đạo
37
lêninnít còn thể hiện phương pháp lãnh đạo khoa học, tính hệ thống, tầm nhìn, tính chuyên nghiệp và sự thông thạo trong công tác, có tổ chức và khả năng kiểm tra, giám sát có hiệu quả trong các hoạt động.
Không những thế, trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn lấy tấm gương của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, những người đứng về phía nhân dân lao động, đấu tranh bảo vệ quyền lợi, quyết tâm giải phóng quần chúng cần lao bị áp bức, bóc lột, để học tập và noi theo. Viết về V.I. Lênin, Người khẳng định: “Nếu giai cấp vô sản phương Tây coi Lênin là một thủ lĩnh, một lãnh tụ, một người thầy thì các dân tộc phương Đông lại coi Lênin là một người con vĩ đại hơn nữa, cao quý hơn nữa... Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”1.
Với thế giới quan và phương pháp luận mácxít, Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến về chất để chuyển hóa được những giá trị tích cực và tiến bộ từ truyền thống văn hóa tốt đẹp dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại, giúp cho Người nghiên cứu lý luận và thực tế, tổng kết thực tiễn, đúc rút lý luận và hình thành _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.317.
38
nên phong cách của riêng mình, trong đó có phong cách lãnh đạo, quản lý.
4. Nhân tố chủ quan thuộc về tư duy, trí tuệ và phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Thời niên thiếu, Hồ Chí Minh đã được tiếp thu các giá trị văn hóa nền tảng của quê hương, gia đình, để hình thành nên tình yêu quê hương, đất nước, sự cảm thông sâu sắc với thân phận khổ đau của người dân lao động dưới ách thống trị của chế độ thực dân nửa phong kiến tàn bạo và phản động. Tình yêu quê hương, đất nước; thương yêu, quý trọng con người chính là động lực lớn nhất, là điểm tựa vững chắc để Hồ Chí Minh vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách trên con đường bôn ba khắp năm châu bốn biển tìm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Đây chính là cơ sở quan trọng góp phần hình thành phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh sau này. Cùng với đó, Người chứng kiến sự thất bại, bế tắc trong các phong trào yêu nước của các sĩ phu yêu nước chống Pháp. Đó là động lực thúc đẩy Người quyết định sang Pháp và các nước phương Tây để tìm kiếm con đường mới, cách đi mới.
Kiến thức sâu rộng, uyên bác, cộng thêm kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú là yếu tố cá nhân quan trọng hình thành phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh. Điều quan trọng và khác biệt ở Hồ Chí Minh là
39
Người không chỉ dừng lại ở vốn kiến thức đã có, mà quá trình tìm đường cứu nước, quá trình hoạt động thực tiễn Người luôn học hỏi và bổ sung kiến thức cho riêng mình, chủ yếu bằng con đường tự học. Thực tiễn sống, làm việc và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, đổi mới, rộng mở và nhạy bén, Người nghiên cứu, tìm hiểu những tinh hoa văn hoá nhân loại, sàng lọc, phân tích, tiếp thu, làm nên tri thức mới phù hợp với dân tộc, với con người Việt Nam. Cũng qua thực tiễn sinh động ấy, Người đồng cảm sâu sắc với nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người đã gạn lọc, tiếp thu và thâu thái nhiều giá trị của văn hóa phương Tây như tính dân chủ, coi trọng con người, tính chính xác, tính chặt chẽ trong làm việc. Đặc biệt, Người đã tiếp thu phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, không ngừng lăn lộn hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Điều đó góp phần hình thành ở Người phong cách làm việc khoa học, biện chứng. Từ đây, phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh được hình thành rõ rệt và định hướng cho Người để chỉ đạo hoạt động thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Trở về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng, vốn kiến thức sâu rộng, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú trên cơ sở học tập và tự học tập cùng với thực tiễn sinh động của cách mạng là cơ sở để Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện
40
phong cách của mình. Đó là kết quả của sự tác động biện chứng giữa nhận thức và hành động, giữa lời nói và việc làm, lý luận và thực tiễn. Có thể nói, quá trình sống và hoạt động, lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng hết sức phong
phú của Hồ Chí Minh là cơ sở để Người tiếp nhận, chuyển hóa các giá trị văn hóa - tư tưởng ở các môi trường xã hội thành những giá trị riêng của cá nhân.
III- BẢN CHẤT PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ HỒ CHÍ MINH
1. Bản chất khoa học
Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh mang bản chất khoa học chân chính, bởi nó được hình thành trên nền tảng tư tưởng khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Lý luận Mác - Lênin đã cung cấp
cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương pháp luận khoa học, biện chứng để tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra con đường lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Bản chất
khoa học trong phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ, trong bất cứ công việc nào Người cũng xác định rõ phương hướng, mục đích; chương trình, kế hoạch cụ thể; kết hợp phương pháp thực hiện khoa học.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh theo đuổi và thực hiện mục tiêu đem lại độc lập cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc
41
cho Nhân dân. Người nói: “Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”1.
Đối với Hồ Chí Minh, ở bất cứ cương vị nào, Người đều căn cứ tình hình, điều kiện thực tiễn của Việt Nam, vận dụng các quy luật phát triển của cách mạng để đề ra những biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả. Thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, từ nhận thức Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh đã kiên trì tư tưởng dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, đặt yêu cầu phải giải phóng dân tộc trước khi giải phóng giai cấp. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh có thời điểm không nhận được sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản, thậm chí từng bị đánh giá là “dân tộc chủ nghĩa”, song thực tế của cách mạng đã chứng minh đó là một nhận thức đúng đắn, sáng tạo và khoa học của Hồ Chí Minh.
Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải đặc biệt coi trọng việc học tập kinh nghiệm quý báu của các nước anh em. Người nhắc nhở: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác. Các cô,
các chú có thảo luận về Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX không? Đại hội đã chỉ cho ta thấy ta có thể _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.272.
42
đi theo con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”1. Hồ Chí Minh quan niệm, phải dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết kinh nghiệm của Đảng, phân tích những đặc điểm của nước ta, qua đó hiểu được quy luật phát triển của cách mạng và đề ra đường lối, phương châm cụ thể, phù hợp với tình hình đất nước. Người cũng yêu cầu phải xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, thiết thực, phù hợp với phương pháp thực hiện khoa học. Người phê bình cách làm việc đề ra chương trình, kế hoạch thật to tát, nhưng lại ít tìm cách để thực hiện cho đúng: “Chương trình công tác thì quá rộng rãi mà kém thiết thực. Ðặt ra kế hoạch và chương trình không xét rõ năng lực của những người thi hành kế hoạch và chương trình đó. Thành thử việc gì cũng muốn làm mà việc gì làm cũng không triệt để”2. Mỗi khi quyết định một vấn đề trọng đại, Người đều lắng nghe quan điểm của tập thể và tham khảo ý kiến của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt. Chính phong cách làm việc, lãnh đạo khoa học, khách quan, dân chủ đó giúp cho Hồ Chí Minh có được những quyết sách đúng đắn, hành động phù hợp với thực tiễn, góp phần nâng cao uy tín cá nhân và củng cố niềm tin
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.391.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 463.
43
của Nhân dân đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
2. Bản chất cách mạng
Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh mang bản chất cách mạng của một người chiến sĩ yêu nước, hết mực trung thành với lý tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin. Bằng tình yêu nước nồng nàn, với học vấn uyên thâm, năng lực trí tuệ sắc sảo, khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và vốn hiểu biết thực tế phong phú, sinh động, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, nhu cầu hành động, cứu nước, giải phóng dân tộc.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”1. Hồ Chí Minh đã nhận thức được bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân đạo của học thuyết Mác - Lênin, vận dụng một cách sáng tạo học thuyết ấy phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của nước ta. Bởi thấm nhuần tính cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin mà tư tưởng và phong cách của Người cũng in đậm dấu ấn cách mạng và sáng tạo.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.
44
Tính cách mạng trong phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh còn được thể hiện trong quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam phù hợp với từng giai đoạn, từng thời điểm khác nhau. Người đã phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, nhất là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Người cho rằng, các dân tộc thuộc địa cần phải chủ động thực hiện nhiệm vụ tự giải phóng; cách mạng ở các nước thuộc địa không những không phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể và cần phải tiến hành trước cách mạng ở chính quốc. Trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người nhận định: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện đặc biệt, không giống với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, vì vậy, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, phải học tập kinh nghiệm của các nước anh em, nhưng không được sao chép, rập khuôn, bởi ta có đặc điểm riêng của ta... Đây chính là sự sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin thêm một bước bằng chính tư duy và hành động của Hồ Chí Minh, phản ánh tính cách mạng trong tư tưởng và phong cách của Người.
Trong các công việc cụ thể, Hồ Chí Minh không chấp nhận đường mòn, lối cũ, không cố chấp, bảo thủ mà xem xét hoàn cảnh cụ thể để công việc đạt hiệu quả cao nhất. Thậm chí, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, có lúc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm, Hồ Chí Minh đã
45
thay mặt Đảng, Chính phủ để nhận trách nhiệm, nhận lỗi trước toàn thể quốc dân đồng bào, đó là biểu hiện của một người lãnh đạo chân chính, một nhà cách mạng có bản lĩnh, dũng cảm, dám chịu trách nhiệm, một tấm gương sáng về phong cách và đạo đức cho mọi thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý noi theo.
3. Bản chất nhân văn
Bản chất nhân văn trong phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa sáng tạo những giá trị nhân văn truyền thống của dân tộc và nhân loại, trong đó có chủ nghĩa nhân đạo cộng sản của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin. Bản chất nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện tập trung trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân; trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa cái tốt với cái xấu, giữa cái cũ, lạc hậu với cái mới tiến bộ, văn minh.
Bản chất nhân văn trong phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh còn thể hiện ở mục tiêu hướng tới giải phóng con người, gắn liền với “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Hồ Chí Minh cho rằng, mục tiêu giải phóng con người phải nằm trong mục tiêu giải phóng dân tộc. Bởi lẽ, dân tộc chưa được độc lập thì Nhân dân không thể có tự do, hạnh phúc. Hồ Chí Minh coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
46
Trong công tác lãnh đạo, quản lý, Hồ Chí Minh luôn yêu thương con người, bao dung, độ lượng, tin tưởng vào sức mạnh, phẩm giá con người, trước tiên là nhân dân lao động. Người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ”1. Đối với con người nói chung, Hồ Chí Minh luôn khuyến khích, nâng đỡ, khơi dậy ở con người mặt tốt, giúp họ vươn lên, khẳng định bản thân mình.
Người thể hiện tình yêu thương con người sâu sắc; luôn chăm lo, bồi dưỡng, phát huy sức mạnh của Nhân dân, nhằm mục đích giải phóng và mang lại hạnh phúc cho Nhân dân. Hồ Chí Minh tin tưởng tuyệt đối vào Nhân dân, bởi Người thấy được sức mạnh vĩ đại của Nhân dân: Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong2.
Bản chất nhân văn trong phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh chính là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa lý luận và thực tiễn, giữa nói _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.280-281.
2. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.280.
47
và làm, nhằm biến tư tưởng, ý chí, tình cảm yêu thương thành hành động cụ thể, thiết thực để giải phóng con người. Người cho rằng, cần phải xây dựng con người toàn diện về: Đức - Trí - Thể - Mỹ. Con người cần phải được trang bị kiến thức văn hoá và nhân cách, đạo đức cách mạng. Muốn vậy, mỗi người phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lý tưởng và
tình cảm cao đẹp để ngày càng hoàn thiện hơn. Xuất phát từ chính con người Hồ Chí Minh - một nhân cách cao thượng và vĩ đại; một con người nhân ái, khoan dung và thủy chung tình nghĩa; với phẩm chất khiêm nhường, cởi mở, mà suốt quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xử lý đúng đắn và thỏa đáng các mối quan hệ với quần chúng nhân dân; với đồng chí, cán bộ, chiến sĩ; với các vị phụ lão, nhân sĩ, trí thức, đại diện các tôn giáo, dân tộc... Người đã lãnh đạo cách mạng bằng một phong cách vừa bảo đảm tính nguyên tắc, khoa học, cách mạng, vừa bảo đảm tính nhân văn. Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh đã làm lay động và cảm hóa con người, khiến Nhân dân tin yêu, mến phục và lựa chọn đi theo con đường mà Đảng và Người đã chọn, lãnh đạo.
*
* *
Có thể nói, sự kết hợp hài hòa, biện chứng giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại, quá khứ và tương lai,
48
phương Đông và phương Tây, dân tộc và quốc tế đã tạo nên phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh. Trong phong cách lãnh đạo, quản lý của Người, chúng ta thấy được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc như tinh thần yêu nước nồng nàn với ý thức bảo vệ nền độc lập thiêng liêng của dân tộc; kính trọng Nhân dân, lấy dân làm gốc, làm nền tảng... Đồng thời, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có sự kết hợp các giá trị dân chủ, hiện đại, khoa học, tinh tế của phương Tây, thấy được những điểm nổi bật của phong cách lãnh đạo, quản lý lêninnít...
Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh còn là sự kết hợp nhuần nhuyễn, chắt lọc tinh hoa phong cách từ nhiều mẫu người, nhiều nền văn hóa khác nhau; làm cho phong cách lãnh đạo, quản lý của Người mang dấu
ấn cá nhân với những nét độc đáo nhưng lại có giá trị phổ biến. Trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất, Hồ Chí Minh đã xác lập những nguyên tắc, chuẩn mực, những giá trị rộng lớn, phù hợp và tiến hành các hoạt động một cách nền nếp, có phong thái khác nhau. Điều quan trọng là Người không rập khuôn, máy móc mà phát triển sáng tạo và bổ sung nhiều giá trị mới để phù hợp với thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam với Nhân dân Việt Nam, với truyền thống văn hóa Việt Nam. Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh mang bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc.
49
Chương II
NỘI DUNG PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ HỒ CHÍ MINH
I- PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ DÂN CHỦ
Phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ là một trong những nội dung quan trọng của phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh. Trong quan niệm của Người, phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” là phong cách có vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự thành công của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bởi lẽ, Người cho rằng một người cán bộ lãnh đạo, quản lý dù tài giỏi đến đâu đi nữa cũng chỉ thấy một hoặc một số mặt của vấn đề, không thể nắm được hết, hiểu biết hết mọi mặt, mọi công việc và mọi cá nhân trong đơn vị, cũng như đời sống xã hội. Cho nên,
người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải có phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ để phát huy được trí tuệ, sức mạnh của tập thể, của đông đảo quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh phân tích phát huy dân chủ mới đi đến nhất trí, mới biến thành quyết tâm thực hiện, tránh được “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Có phát huy dân chủ,
50
đưa vấn đề ra trước tập thể bàn bạc, cùng nhau thống nhất và cùng nhau quyết tâm thực hiện, thì mới tạo ra sức mạnh, sự đoàn kết và hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Người thường nhấn mạnh: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo”1.
Theo Hồ Chí Minh, phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ còn giúp cho người cán bộ đánh giá được tính đúng sai của những quyết định được đưa ra, đặc biệt là những điểm cần phải sửa chữa, khắc phục của chính người cán bộ lãnh đạo, quản lý đó: “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế, chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng. Nếu cán bộ không nói năng, không đề ra ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.284.
51
những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản”1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình phong cách lãnh đạo, quản lý của một số cán bộ không dân chủ, làm cho cấp dưới và Nhân dân có ý kiến mà không dám nói, muốn phê bình mà không dám phê bình; làm cho cấp trên, cấp dưới không hiểu nhau, cách biệt nhau; Đảng và quần chúng xa rời nhau; không phát huy được sáng kiến và sự hăng hái của cấp dưới và quần chúng nhân dân, làm giảm hiệu quả công tác.
Phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ của người cán bộ, đảng viên, của tổ chức đảng sẽ phát huy được sức sáng tạo, tinh thần cống hiến của cấp dưới và quần chúng nhân dân, đồng thời làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm đoàn kết. Không khí dân chủ thực sự trong nội bộ được tạo ra bằng cách người lãnh đạo, quản lý chú ý lắng nghe, tôn trọng và biết cách tổ chức, điều hành để quần chúng và cấp dưới thể hiện hết quan điểm, ý kiến của cá nhân, chỉ có như vậy mới phát huy được hết sáng kiến của cấp dưới và Nhân dân. Người có phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ là người thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, đó là cách “để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người”.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.319-320.
52
Trái ngược với phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ là phong cách áp đặt, quan liêu, mệnh lệnh hành chính, chuyên quyền, độc đoán hoặc dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan dẫn đến tự do, tùy tiện. Cả hai phong cách này đều làm mất đi trí tuệ tập thể, có thể gây mất đoàn kết, giảm sút niềm tin, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý không cao.
Hồ Chí Minh kết luận: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”1. Người cán bộ không có phong cách lãnh đạo dân chủ hoặc “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ”2. Khi đó, dù có ““đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”3.
Dân chủ phải đi liền với tập trung. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ phải có định hướng, đi đến sự tập trung, hoàn toàn không phải là dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức, vô kỷ luật. Người khẳng định: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”4. Đảng phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức và
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.325.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.176.
3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.637, 620.
53
hành động, đó chính là tập trung. Biểu hiện của tập trung là cá nhân phục tùng tổ chức, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương... Tập trung trên nền tảng phát huy dân chủ, chứ không phải tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện ở nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hồ Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý: “Những việc bình thường, một người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc quan trọng, mới cần tập thể quyết định”1. Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, thực hiện trách nhiệm của người lãnh đạo, người đứng đầu để khắc phục những hiện tượng coi thường tập thể, chuyên quyền, độc đoán hoặc ngược lại, dựa dẫm, ỷ lại tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách nhiệm cá nhân... làm trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý. Người khẳng định: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”2.
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.620.
54
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thực hiện triệt để phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ trong Đảng với tinh thần tôn trọng tập thể. Dân chủ trong Đảng được xác định là vấn đề nguyên tắc, xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của đảng vô sản kiểu mới. Người phân công công việc lãnh đạo và quản lý hài hòa, tranh thủ ý kiến cấp dưới, đưa họ tham gia vào việc xây dựng và thi hành các quyết định; luôn tham khảo, lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của cán bộ, đảng viên đối với các công việc của tập thể, của Đảng. Người đưa ra luận đề về mối liên quan mật thiết với nhau giữa tập trung và dân chủ: tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ phải dưới sự chỉ đạo tập trung. Thực hành dân chủ trong Đảng càng cao bao nhiêu thì sự lãnh đạo tập trung trong Đảng càng đảm bảo đúng đắn bấy nhiêu. Người nhấn mạnh, phải làm cho tất cả mọi đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình ở trong Đảng, không để cho không khí âm âm u u, “trong Đảng ít tiếng”, “ngoài Đảng nhiều mồm”. Tức là, người lãnh đạo, quản lý phải luôn khơi dậy tinh thần trách nhiệm và tính tích cực chủ động của tất cả đảng viên, đưa vấn đề ra trước Đảng để thảo luận rồi đi đến tập trung, thống nhất về ý chí, về hành động, làm sao để “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”. Người khẳng định, lúc đã thống nhất được các ý kiến, tìm ra chân lý
55
thì quyền tự do tư tưởng của đảng viên hóa ra quyền phục tùng chân lý.
Hồ Chí Minh cho rằng, người lãnh đạo, quản lý biết động viên, khuyến khích “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, tức là phải làm cho cấp dưới, các cán bộ, đảng viên không sợ nói ra sự thật và cấp trên không sợ nghe sự thật. Với phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ trong Đảng, Hồ Chí Minh đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để cấp dưới, đảng viên được phát huy sáng kiến, tham gia vào việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, đồng thời tạo ra bầu không khí và tâm lý tích cực trong sinh hoạt đảng. Trong thực tế, trước những vấn đề quan trọng của cách mạng, Người đều đưa ra bàn bạc trong Đảng, lắng nghe ý kiến của đảng viên và cấp dưới, đồng thời so sánh, đối chiếu, phân tích những mặt mạnh, mặt yếu; mặt được, mặt mất; thấy được những thuận lợi và khó khăn, trên cơ sở đó cùng với Trung ương đưa ra các phương án thực thi hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, tránh rơi vào chủ quan duy ý chí. Người luôn giữ thái độ điềm tĩnh, cởi mở, tôn trọng và luôn luôn lắng nghe, phân tích thấu đáo để tìm ra cách giải quyết vấn đề một cách đúng đắn nhất.
Trong quá trình lãnh đạo, quản lý, Hồ Chí Minh luôn thực hiện một cách nghiêm túc phong cách dân chủ. Từ việc lớn đến việc nhỏ, từ việc chuẩn bị nghị quyết của Đảng đến những công văn, chỉ thị... Người đều phát huy
56
tinh thần dân chủ, tham khảo ý kiến những người xung quanh, của cấp dưới. Những vấn đề trong xây dựng và phát triển đất nước, Người tham khảo ý kiến của cán bộ, đảng viên, Nhân dân, nhất là đội ngũ trí thức, kể cả những chuyên gia trong và ngoài Đảng. Các văn kiện của Đảng và văn bản quản lý của Nhà nước, Người đều yêu cầu chuẩn bị kỹ càng, trao đổi sâu rộng để mọi chủ trương, chính sách được thảo luận công khai, tạo sự đồng thuận và nhất trí cao.
Hội nghị chính trị đặc biệt năm 1964 được coi là “Hội nghị Diên Hồng” của lịch sử Việt Nam thời hiện đại, thể hiện sự đoàn kết và ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu; là minh chứng rõ nét cho phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ của Hồ Chí Minh. Hội nghị đã phát huy sáng kiến của hơn 300 đại biểu chính thức, là những người đại biểu cho các ngành, các giới, các bậc lão thành cách mạng, đại biểu anh hùng, chiến sĩ thi đua, trí thức tiến bộ và nhân sĩ yêu nước... đại diện cho hơn 30 triệu đồng bào trong cả nước. Hội nghị đã khơi dậy tinh thần yêu nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng ý chí quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam. Tinh thần của Hội nghị ngay sau đó đã nhanh chóng lan tỏa ra khắp các vùng miền trong cả nước, từ công trường đến nông trường, từ các nhà máy, xí nghiệp ở miền Bắc cho đến chiến trường miền Nam. Hội nghị là
57
minh chứng sống động cho việc phát huy dân chủ trong Nhân dân sẽ tạo lên sức mạnh vĩ đại để hoàn thành sự nghiệp cách mạng.
Phát huy dân chủ trong Nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải nghiêm chỉnh thực hành tự phê bình và phê bình, thường xuyên lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân, thực
hiện sự giám sát, kiểm tra của Nhân dân, nghiêm túc sửa chữa, khắc phục khuyết điểm trước Nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch thông tin trong Đảng, các cơ quan công quyền, các tổ chức đoàn thể để dân biết, dân bàn, dân kiểm tra.
Đặc trưng của phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ đó là người lãnh đạo, người đứng đầu phải biết sử dụng quyền lực của mình một cách hợp lý, không lạm dụng quyền lực. Hồ Chí Minh cho rằng, khi Đảng trở thành đảng cầm quyền thì “cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to
hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””1. Người cảnh báo một bộ phận đảng viên và cán bộ có biểu hiện say mê quyền lực, tranh giành quyền lực, lợi dụng quyền lực để làm những điều “bất nhân”. Do đó, thực hành phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ phải luôn luôn ý thức quyền lực thuộc về Nhân dân, không biến _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.127.
58
quyền lực đó thành quyền lực cá nhân sinh ra lộng quyền và lạm quyền. Bản thân Người, trên cương vị lãnh đạo Đảng và quản lý Nhà nước đã thực hiện phương châm sống “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý”, mà chỉ như “một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”1, theo tiếng gọi của tình yêu Tổ quốc và Nhân dân, có như vậy mới luôn giữ được phẩm chất đạo đức cách mạng, không bị quyền lực làm cho tha hóa, biến chất.
Phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải tin yêu và tôn trọng đối tượng lãnh đạo, quản lý; chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của cấp dưới và của quần chúng nhân dân; sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình; phải
luôn đặt lợi ích của tập thể, của quần chúng lên trên, lên trước; không bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc, không tham lam, cục bộ, vì lợi ích cá nhân mà xâm phạm lợi ích của tập thể, vì lợi ích địa phương, đơn vị mình mà vi phạm lợi ích của tập thể lớn, của quốc gia, làm giảm sút niềm tin của cấp dưới, của quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh đã căn dặn mỗi cán bộ: “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”2. Trong lãnh đạo, quản lý, người cán bộ phải luôn đặt mình trong khuôn khổ của tổ chức, quy định _______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187, 51.
59
của tổ chức, tôn trọng tập thể, không được đặt mình cao hơn tổ chức, cao hơn tập thể hoặc ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức.
Tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể nhưng phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ đòi hỏi người đứng đầu phải có nguyên tắc, phải quyết đoán, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, không đổ lỗi cho tập thể. Hồ Chí Minh cho rằng, trách nhiệm và tính quyết đoán của người đứng đầu phải luôn được đề cao, đôi khi mang tính quyết định đến hiệu quả công việc. Người lãnh đạo, quản lý giỏi khi cần phải đưa ra được những quyết định nhanh chóng, kịp thời, nhất là trong những thời điểm then chốt, không được dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, dẫn đến thiếu quyết đoán, vô trách nhiệm... làm mất đi thời cơ thuận lợi. Người từng chỉ rõ: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí. Gặp thời, một tốt cũng thành công”1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là một minh chứng cho bản lĩnh vượt trội, trí tuệ mẫn tiệp và khả năng dự báo thiên tài của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong nhìn nhận, đánh giá tương quan lực lượng giữa ta và địch, giữa thế và thời, từ đó cùng với Trung ương đưa ra quyết định tổng khởi nghĩa, chớp lấy thời cơ “ngàn năm có một” giành chính quyền trong bối cảnh tình hình trong nước
và thế giới xoay chuyển liên tục. Hồ Chí Minh chính là _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.326.
60
tấm gương mẫu mực về bản lĩnh, là trí tuệ, là phẩm chất quyết đoán, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm của người lãnh đạo, quản lý trước Đảng, trước Nhân dân.
Phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ có vai trò quan trọng, không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của người lãnh đạo, quản lý mà còn ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước; đồng thời, tác động đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức; phong cách của cán bộ cấp dưới; ảnh hưởng đến lợi ích của Nhân dân, của đất nước. Bởi vậy, việc xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý chuẩn mực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.
II- PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ QUẦN CHÚNG
Phong cách lãnh đạo, quản lý quần chúng là một trong những phương thức tiếp cận của nhà lãnh đạo, nhà quản lý để đề ra các phương hướng, thực hiện các kế hoạch và tạo động lực cho quần chúng. Phong cách quần chúng thể hiện ở chỗ: mọi tư tưởng, hành động, mọi chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong công tác lãnh đạo, quản lý đều xuất phát từ quần chúng và phục vụ lợi ích của quần chúng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ
61
của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, và làm cho nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước. Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt”1.
Trong Nhân dân có tất cả các nguồn lực cho sự phát triển: nguồn lực của cải, nguồn lực trí tuệ, nguồn lực sức khỏe...
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”2. Từ kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân Quảng Bình, Người đã đúc rút thành chân lý:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”3.
Sức mạnh của Đảng, của hệ thống chính trị cách _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.330-331.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.453.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.280.
62
mạng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân, tin vào Nhân dân, dựa vào Nhân dân. Nhân dân là nền tảng lực lượng của Đảng, của hệ thống chính trị cách mạng; nếu không có Nhân dân giúp sức thì Đảng không làm tròn được sứ mệnh của mình; rời xa dân chúng là cô độc và cô độc thì nhất định thất bại. Người chỉ rõ: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi.
Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”1.
Do vậy, một trong những yêu cầu quan trọng của lãnh đạo, quản lý là phải dựa vào Nhân dân. Dựa vào Nhân dân để tìm ra và bổ sung vào hàng ngũ của Đảng những người con ưu tú trong Nhân dân; dựa vào Nhân dân để xây dựng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; dựa vào Nhân dân để kiểm tra, kiểm soát cán bộ của Đảng, Nhà nước có đáp ứng yêu cầu được giao cả về đạo đức và năng lực chuyên môn, năng lực hoạt động thực tiễn hay không; dựa vào Nhân dân để kiểm tra, kiểm soát đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước có phù hợp với thực tiễn hay cần sửa đổi, bổ sung thêm.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.326.
63
Hồ Chí Minh nhắc nhở, Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ, dân là gốc. Trên cương vị là người lãnh đạo Đảng, quản lý nhà nước, Người luôn dặn dò cán bộ, đảng viên phải tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng”, thậm chí “vác mặt quan cách mạng”, hống hách với Nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... đều phải được xem xét và giải quyết dựa trên vị trí và tư cách Nhân dân là người chủ và là người làm chủ. Người yêu cầu: “Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết.
Phải làm cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc, chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ”1.
Sau khi thành lập chính quyền mới, dù bận bịu giải quyết rất nhiều những công việc cấp bách, Hồ Chí Minh vẫn sắp xếp thời gian để tiếp xúc, trò chuyện với Nhân dân, tìm hiểu, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những đề xuất của Nhân dân. Người dành thời gian tiếp những đại diện của các tầng lớp nhân dân, từ thường dân cho tới những người có chức, có quyền, bởi Người quan niệm: Chính quyền mới thành lập, Nhân dân còn có nhiều điều
muốn biết, muốn hỏi, người cán bộ phải giải thích rõ chủ _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.116.
64
trương, chính sách của Chính phủ, của đoàn thể để Nhân dân được rõ. Không nên để đồng bào cảm thấy gặp những người trong Chính phủ cũng khó khăn như đến cửa quan thời phong kiến trước kia. Chính những cuộc gặp gỡ đó đã góp phần cung cấp cho Người nhiều thông tin quan trọng, nhằm giải quyết sáng suốt, kịp thời những nhiệm vụ cấp bách của thực tiễn sự nghiệp cách
mạng trong giai đoạn “ngàn cân treo sợi tóc”. Người cũng căn dặn người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải yêu dân, kính dân thì mới được dân tin, dân phục, dân yêu. Dựa vào quyền lực để lãnh đạo và quản lý nhất thời có thể đạt được mục đích nhưng về lâu dài có thể làm cho cấp dưới và Nhân dân e ngại, lo sợ, dẫn đến xa lánh và khinh ghét, mà không giành được tin tưởng, yêu mến, kính phục của họ.
Hồ Chí Minh chính là điển hình, là tấm gương mẫu mực về thực hành phong cách lãnh đạo, quản lý quần chúng. Người đã thâm nhập vào thực tế, nhất là thực tế đời sống, tâm lý, văn hóa của quần chúng nhân dân để
quan tâm, chăm lo lợi ích chính đáng và thiết thực của Nhân dân. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Đối với Hồ Chí Minh, người cán bộ lãnh đạo biết lắng nghe, thấu hiểu và phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo của quần chúng sẽ đoàn kết,
65
quy tụ được Nhân dân, tạo nên động lực và sức mạnh to lớn để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Phong cách lãnh đạo, quản lý và năng lực làm việc của cán bộ là yếu tố quan trọng chi phối và tác động tới niềm tin của Nhân dân với Đảng, với Nhà nước, đồng thời phản ánh mức độ thấu hiểu và gắn bó của Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Theo Hồ Chí Minh: “Lãnh đạo tốt nghĩa là thực hiện đầy đủ những nghị quyết của Đảng, biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của nhân dân”1. Người yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải thường xuyên đi sát thực tế, đấu tranh chống tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, trì trệ, thiếu thực tế, hình thức, qua loa, chiếu lệ, khi ra chỉ thị, nghị quyết không gắn với điều kiện thực tế, với đời sống của Nhân dân, ngồi trên bàn giấy, nghe báo cáo rồi vẽ vời, do chủ quan tưởng tượng mà không đi sâu, theo sát; không chịu điều tra, nghiên cứu kỹ, làm không đến nơi đến chốn, làm cho có chuyện.
Phong cách lãnh đạo quần chúng của Hồ Chí Minh được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”2. Nhân dân là chủ nhân đích thực của nước nhà; cán bộ, công chức là người được _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.40.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.
66
Nhân dân ủy quyền, trao quyền, đại diện cho Nhân dân đứng ra gánh vác, giải quyết những công việc chung của đất nước. Để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phải hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, tạo ra cơ chế thuận lợi
để người dân có điều kiện nói lên tiếng nói của mình, đồng thời cần phải nâng cao năng lực làm chủ, trình độ dân trí, bồi dưỡng văn hóa chính trị, phát triển tính tích cực của Nhân dân, chăm lo cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần của Nhân dân; khuyến khích Nhân dân giám sát công việc của các cơ quan nhà nước. Thứ hai, quan tâm đến lợi ích chính đáng của Nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ là đày tớ, công bộc của Nhân dân, phục vụ cho lợi ích của Nhân dân. Do đó, họ phải hiểu: “Việc đó, làm cho ai? Đối với ai phụ trách?”1; phải đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Điều này thể hiện ở chỗ “việc gì lợi cho dân, phải hết sức làm, việc gì hại cho dân phải hết sức tránh”2. Mọi chủ trương, chính sách, mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý đều phải hướng đến lợi ích vật chất và tinh thần của người dân.
Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng: coi trọng và chú ý chăm lo lợi ích của Nhân dân, nhưng không phải là bao biện làm thay cho Nhân dân, càng không
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.285.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.51.
67
phải là đứng trên Nhân dân, ban phát cho Nhân dân. Theo Người, trong Nhân dân có đầy đủ các nguồn lực cho sự phát triển, trách nhiệm của người cán bộ lãnh đạo, quản lý là phải khơi dậy và phát huy nguồn lực đó,
“Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”1. Theo Người, các cán bộ lãnh đạo, quản lý không bao giờ được cho phép mình hưởng “đặc quyền, đặc lợi”, không được nuôi dưỡng những suy nghĩ lệch lạc rằng phải ăn mặc bảnh bao mới giữ được uy tín, thể diện với Nhân dân. Người cảnh tỉnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”2.
Thứ ba, phát huy vai trò, trách nhiệm của Nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”3. Nhân dân có quyền và có trách nhiệm trong việc tham gia công việc quản lý, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ
_______________
1, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.81, 335.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.16.
68
rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”1. Để phát huy vai trò, trách nhiệm của Nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ, đảng viên phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với tình hình thực tế của quần chúng về trình độ, năng lực của người dân, không được chủ quan, áp đặt theo ý mình vì nếu cứ làm theo ý muốn, tư tưởng chủ quan của mình, rồi đem “cột” vào cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”. Người cho rằng, cách làm việc, cách tuyên truyền, cách tổ chức... của cán bộ, đảng viên đều phải xuất phát từ quần chúng, dựa vào lực lượng quần chúng, phát huy vai trò của quần chúng và quay trở lại phục vụ quần chúng. Bởi lẽ, “Vì không biết gom góp ý kiến của quần chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của những người lãnh đạo thành ra lý luận suông, không hợp với thực tế”2. Những cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh, ức hiếp Nhân dân, xa rời Nhân dân, không chú ý lắng nghe ý kiến phê bình hay góp ý, những kiến nghị, đề xuất của Nhân dân, bỏ mặc, không xem xét những yêu cầu, khiếu nại của Nhân dân là đối lập và hoàn toàn xa lạ với quan điểm và phong cách lãnh đạo, quản lý quần chúng.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 81.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.331.
69
Thứ tư, sẵn sàng học hỏi Nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, Nhân dân là những người trí tuệ, thông minh, tài giỏi. Dân chúng nhiều tai, nhiều mắt, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Làm theo cách quần chúng là việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng. Mỗi một chủ trương, chính sách đưa ra đều phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng. Không học hỏi dân chúng, xa rời Nhân dân sẽ không thể lãnh đạo được họ. Ngược lại, biết làm học trò dân, không ngừng lắng nghe và học hỏi mới lãnh đạo được Nhân dân, quản lý được xã hội. Hồ Chí Minh thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý: “Có người thường cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng. Đó là một sự sai lầm nguy hiểm lắm. Ai có sai lầm đó, phải mau mau sửa đổi. Nếu không sẽ luôn luôn thất bại”1.
Thứ năm, thật thà tự phê bình trước Nhân dân và hoan nghênh Nhân dân phê bình mình. Hồ Chí Minh khẳng định, tự phê bình và phê bình trong Đảng là cần, nhưng cần hơn là tự phê bình trước Nhân dân và hoan nghênh Nhân dân phê bình mình. “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.335.
70
Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”1. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, chỉ sợ có khuyết điểm mà không dám tự phê bình, thật thà tự phê bình trước dân và hoan nghênh Nhân dân phê bình
là một trong những cách tốt nhất để làm cho dân tin. Thứ sáu, trọng dụng nhân tài trong Nhân dân. Biết cách dùng người thực chất là biết phát huy mọi tiềm năng của con người nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp cho khối đại đoàn kết dân tộc để giải quyết nhiệm vụ của cách mạng. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, việc dùng người không bó hẹp ở phạm vi giai cấp, đoàn thể nhất định mà là tất cả mọi người, cho nên ai có tài, ai có đức, ai hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân thì ta đoàn kết với họ.
Hồ Chí Minh chủ trương phát huy nhân tố con người trên nền tảng dùng người. Người cho rằng: “Tài” hay “nhân tài” được hiểu theo nghĩa rộng rãi nhất: “tài to, tài nhỏ”; “người có danh vọng”, “người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi của Tổ quốc, Nhân dân”, “người hiền tài”, “hiền năng”, “người hay, người giỏi”... nhưng có chung mục đích “vì quyền lợi của Tổ quốc, lợi ích của đồng bào”. Trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ năm 1947, Hồ Chí Minh nói: “Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được”2. Sở dĩ phải khéo dùng _______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.337, 88.
71
người còn vì kiến thiết cần có nhân tài; nhân tài nước ta dù chưa nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều. Song nếu chỉ khéo dùng mà dùng không đúng, theo Hồ Chí Minh, sẽ phạm phải chứng bệnh như ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, ham dùng những kẻ khéo nịnh hót, bợ đỡ
mình mà xa lánh những người chính trực... Một quan điểm lớn trong cách lãnh đạo, quản lý được Hồ Chí Minh nêu ra là việc trọng dụng nhân tài ngoài Đảng: “Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gụi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước”1. Quan điểm này được thể hiện xuyên suốt và thống nhất trong tư tưởng, phong cách của Người, từ Đường cách mệnh, hay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, cũng như trong toàn bộ hành động của Người. Với tinh thần đoàn kết chân thành, không thiên kiến, không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo, miễn có tinh thần yêu nước, cùng phấn đấu vì mục tiêu độc lập cho Tổ quốc và hạnh phúc của Nhân dân, Hồ Chí Minh đã quy tụ nhiều người tài đức, nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước có tên tuổi như: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Phan Anh, Vũ Đình Tụng, _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.315-316.
72
Phạm Bá Trực, Trần Hữu Tước,... cùng chung vai gánh vác việc chung. Đúng như Hòa thượng Thích Đôn Hậu đã nhận xét: “Tất cả những người đã đến với Hồ Chủ tịch thì không bao giờ từ giã Người cả. Tôi đã hiểu vì sao một lãnh tụ sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam mà Người vẫn thu hút được tất cả các thành phần khác trong xã hội đứng chung quanh mình làm việc lớn cho dân cho nước”1.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về tinh thần tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Dù ở trên cương vị lãnh đạo, quản lý rất cao - Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh vẫn luôn gần gũi, gắn bó với Nhân dân. Người đã đến thăm nhiều địa phương, khắp các vùng từ trung du đến đồng bằng, từ miền núi đến miền duyên hải... thường xuyên đi thăm các cơ sở, các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân thuộc đủ các binh chủng, quân chủng để thăm hỏi cán bộ, chiến sĩ; các công trường, xí nghiệp, nông trường, hợp tác xã, bệnh viện, trường học, nhà trẻ, lớp mẫu giáo và nhiều nơi ở của công nhân, cán bộ, các tầng lớp nhân dân để nắm rõ tình hình, kịp thời động viên, khuyến khích mọi người cùng nhau cố gắng làm tốt các công việc được giao.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm nhiều đơn vị, trực tiếp đi
_______________
1. Nguyễn Huy Hoan: “Bản Di chúc lịch sử với vấn đề con người”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10-1999.
73
chiến dịch cùng bộ đội để nắm tình hình, động viên tinh thần binh sĩ, kịp thời khen thưởng các chiến công. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Người nhiều lần đến thăm các địa phương, công trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội, để thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào, xem xét tình hình và kiểm tra cụ thể mọi công việc. Trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1955 - 1965), theo thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh, Người đã thực hiện hơn 700 lượt đi thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Trung bình mỗi năm có hơn 60 lượt Người đi xuống cơ sở, mỗi tháng có khoảng 6 lần Người gặp gỡ quần chúng. Ngoài ra, hằng ngày qua đọc báo, đọc thư của Nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết. Cách làm việc này được thực hiện trên nguyên tắc: “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo, v.v. của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng””1. Trong những chuyến đi thăm các địa phương ở xa, bao giờ Người cũng đề nghị anh em phục vụ chuẩn bị cơm nắm, muối vừng vì Người không muốn địa phương, cơ sở phải tốn kém, lãng phí chuẩn bị tiệc đón rước. _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.288.
74
Người tâm sự với anh em phục vụ: nếu như mình đồng ý để cho họ làm cơm thiết đãi mình, thì chắc chắn họ làm linh đình lắm bởi vì làm cơm đón Chủ tịch nước. Như vậy, rất tốn kém tiền của Nhân dân, trong khi đất nước
còn nghèo, đời sống nhân dân còn khó khăn. Hồ Chí Minh về với Nhân dân một cách rất tự nhiên, bình dị, không có khoảng cách. Khi về thăm lại Pắc Bó (Cao Bằng), các đồng chí cán bộ địa phương muốn tổ chức đón tiếp long trọng, Người không đồng ý và cho rằng: Tôi về thăm nhà mà sao phải đón tôi. Lần Người về Hưng Yên tham gia chống hạn với bà con nông dân, các đồng chí cán bộ tổ chức đón tiếp nhưng Người đã phê bình ngay: “Bác về là đi chống hạn chứ có phải đi chơi đâu mà đón tiếp”.
Hồ Chí Minh ăn mặc quần áo giản dị như một lão nông, cùng đào đất, tát nước với nông dân... Có lần gặp gỡ bà con nông dân xã Xuân Phương (Nam Từ Liêm - Hà Nội) ngay trên đồng ruộng, Người bỏ dép, xắn quần, lội ruộng nước, đến tận nơi bà con đang cày cấy để thăm hỏi, nói chuyện với mọi người như một lão nông quen thuộc việc đồng áng.
Đối với Nhân dân, Hồ Chí Minh vừa là người đồng hành, vừa là người dẫn dắt, vừa là người bạn, người thân trong gia đình. Từ các bài nói, bài viết của mình cho đến những cử chỉ, hành động, Hồ Chí Minh luôn tôn trọng cấp dưới, tôn trọng Nhân dân, tôn trọng từ những người phục vụ, người lao động bình thường. Người luôn quan niệm
75
Nhân dân là gốc, là người chủ nước nhà, còn cán bộ lãnh đạo là đày tớ của dân, là công bộc. Trong cách cư xử, Người luôn lấy sự giáo dục, thuyết phục, cảm hóa là chính, với thái độ ân cần, tôn trọng. Do đó, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, hành động của Người có sức thuyết phục to
lớn, sức cảm hóa kỳ diệu với mọi người, mọi đối tượng. Đêm giao thừa Tết Nguyên đán năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm gia đình mẹ con chị Tín, một lao động nghèo ở phố Hàng Chĩnh, Hà Nội. Cũng giống như nhiều cuộc viếng thăm không theo chương trình, Người cùng một số đồng chí cảnh vệ cải trang như những cán bộ bình thường, bất ngờ vào thăm nhà chị Tín. Gần đến giao thừa, chị Tín vẫn mải miết gánh nước thuê. Gặp Người, chị Tín xúc động để rơi cả đôi thùng gánh nước. Nắm chặt bàn tay Người, chị bộc bạch:
- Cháu... cháu không ngờ lại được Bác đến thăm... - Chỉ nói được vậy, chị đã òa khóc.
- Bác không đến thăm những gia đình như cô thì thăm ai... - Vị Chủ tịch nước ân cần an ủi. Vào nhà chị Tín (thực chất chỉ là cái lều bán mái), trên chiếc bàn gỗ mục chỉ có một nải chuối xanh và một nén hương, bốn đứa nhỏ, lớn nhất 10 tuổi đang ngồi trên giường chia nhau một gói kẹo. Chồng chị Tín là công nhân khuân vác ở bến Phà Đen đã mất cách đó 4 năm, bản thân chị không có việc làm ổn định, lại đông con nên cuộc sống vô cùng vất vả. Người đã trò chuyện, thăm hỏi khá lâu 5 mẹ con chị Tín.
76
Đêm ấy, trên đường về, ngồi trên xe, Người trầm ngâm suy nghĩ. Về đến nhà, các đồng chí trong Bộ Chính trị đang chờ Bác để chúc mừng năm mới. Ai nấy đều băn khoăn vì thấy Người không vui. Người kể lại hoàn cảnh chị Tín cho mọi người nghe. Cuối câu chuyện, Người nói: “Ta có chính quyền trong tay, nhưng chính quyền đó chưa thực sự là do dân, vì dân. Một số cán bộ các địa phương còn quan liêu và nặng về hình thức. Họ không chịu đi sâu, đi sát quần chúng nên phục vụ quần chúng chưa tốt. Nếu chúng ta chỉ nghe báo cáo của họ thì sẽ không bao giờ nắm được chính xác tình hình để có chủ trương, nghị quyết đúng đắn. Đảng quan liêu, chính quyền quan liêu, thực sự là một nguy cơ đối với đất nước chúng ta”1.
Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ 6 diễn ra đúng vào dịp chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 73 Ngày sinh của Người. Trong kỳ họp này, các đại biểu đã nhất trí đề nghị Quốc hội trao tặng Hồ Chí Minh Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta. Biết tin ấy, Người rất cảm động. Người nói: “Tôi vừa nhận được một tin tức làm tôi rất cảm động và sung sướng. Ðó là tin Quốc hội có ý định tặng cho tôi Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của nước ta. Tôi xin tỏ lòng biết ơn Quốc hội. Nhưng tôi xin Quốc hội cho phép tôi
_______________
1. Xem Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
77
chưa nhận huân chương ấy. Vì sao? Vì huân chương là để thưởng cho người có công huân, nhưng tôi tự xét chưa có công huân xứng đáng với sự tặng thưởng cao quý của Quốc hội”.
Người nhắc đến đồng bào miền Nam đang sống khổ cực dưới chế độ dã man của đế quốc Mỹ và tay sai, đang anh dũng kiên quyết đấu tranh xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc” và xứng đáng được tặng Huân chương cao quý nhất. Vì những lẽ đó, Người đề nghị với Quốc hội: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, bắc nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng vui mừng”.
Năm 1967, Ðảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô quyết định tặng Hồ Chí Minh Huân chương Lênin - Huân chương cao quý của Nhà nước Xôviết - nhưng Người cũng từ chối, hẹn đến ngày đất nước Việt Nam
thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà. Nhưng đến ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, trên ngực Người vẫn không một tấm huân chương1.
Bình dị, gần gũi và gắn bó với Nhân dân, phong cách ấy làm cho vị lãnh tụ tối cao của dân tộc và những người dân bình thường dễ dàng có được sự chia sẻ, sự đồng cảm
_______________
1. Xem Mỗi câu chuyện nhỏ một bài học lớn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.100.
78