🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phong Cách Hồ Chí Minh
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. CÙ THỊ THÚY LAN ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. VŨ THỊ MAI LIÊN BÙI BỘI THU
NGUYỄN MẠNH HÙNG LÊ MINH ĐỨC
VŨ THỊ MAI LIÊN
VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/12-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5363-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-6107-6.
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Nguyễn Khắc Nho
Phong cách Hồ Chí Minh / Nguyễn Khắc Nho. - H. : Chính trị Quốc gia, 2020. - 172tr. ; 21cm
ISBN 9786045754498
1. Hồ Chí Minh, 1890-1969, Lãnh tụ Cách mạng, chính trị gia, Việt Nam 2. Phong cách
959.704092 - dc23
CTK0229p-CIP
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Phong cách Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho dân tộc và nhân loại. Phong cách của Bác là một hệ thống chỉnh thể, gắn bó chặt chẽ với nhau, phát triển theo lôgích từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến nói, viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện qua phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt hằng ngày. Đó là phong cách của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là phong cách của một người chân chính, bình thường, gần gũi, ai cũng có thể học để làm theo và trở thành công dân tốt trong xã hội.
Nhằm giúp bạn đọc có thêm tư liệu hiểu rõ hơn về phong cách của Người, góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Phong cách Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Khắc Nho. Nội dung cuốn sách tập trung nghiên cứu sáu phong cách sau: (1) Phong cách suy nghĩ và học tập độc lập, sáng tạo; (2) Phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; (3) Phong cách ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân;
5
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(4) Phong cách nói đi đôi với làm, nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; (5) Phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương, sống thanh cao, giản dị, lạc quan; (6) Phong cách kiên trì và nhẫn nại, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, sống ở đâu cũng được nhiều người yêu quý, giúp đỡ và làm theo.
Bằng sự tổng hợp, chắt lọc, đúc kết cùng tâm huyết nhiều năm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tác giả đã gợi mở hướng tìm hiểu mới về phong cách của Người, một phong cách sống có sức cảm hóa kỳ diệu, tạo niềm tin yêu và sức sống mãnh liệt. Từ đó chúng ta càng cảm nhận rõ hơn niềm tự hào vì dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh - người Việt Nam đẹp nhất.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 01 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
Nguyễn Khắc Nho
I. PHONG CÁCH SUY NGHĨ VÀ HỌC TẬP:
SUY NGHĨ KỸ, ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO, LUÔN GẮN CHẶT LÝ LUẬN VỚI THỰC TẾ.
HỌC TẬP ĐỂ TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC,
ĐỂ LÀM NGƯỜI CÁCH MẠNG MẪU MỰC,
HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH
Bác Hồ sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu
nước, rất thương người và hiếu học, ở miền quê Nghệ An giàu truyền thống yêu nước chống ngoại xâm. Nguyễn Sinh Cung - tên thời thơ ấu của Bác - là cậu bé ham hiểu biết và hay hỏi những điều mới lạ. Khi trời mưa có tiếng sấm, cậu hỏi người lớn sấm ở đâu, khi biết sấm ở trên trời, cậu lại hỏi: “Thế ở trên trời còn có gì nữa không, có người ta không?”.
Khi học ở trường tiểu học, Nguyễn Sinh Cung lần đầu tiên được biết đến khẩu hiệu nổi tiếng của Đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, “Đây là điều hoàn toàn mới lạ và rất tự nhiên cậu Cung nảy ra ý muốn “tìm hiểu những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”1.
1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An: Bác Hồ thời niên thiếu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 54.
7
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi đỗ phó bảng thì được dân làng thường gọi là “Quan phó bảng”. Cụ đã viết lên xà nhà: Không lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình. Vì cụ không muốn con mình trở thành cậu ấm1.
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị nô lệ, đau thương, biết bao cuộc khởi nghĩa và đấu tranh chống thực dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại, tình hình tăm tối như không có đường ra, do đó mặc dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc chú bác, nhưng Nguyễn Tất Thành không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, anh Thành suy nghĩ rất nhiều. Như chợt nhớ lại trong sách Tứ thư đã dạy: muốn tu thân thì trước hết phải “cách vật”, “trí tri”2, nghĩa là phải nghiên cứu kỹ để hiểu thấu đáo, hiểu đến tận cùng cái lý của sự vật nên cuối cùng anh quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Anh Thành đến huyện đường Bình Khê thăm cha, sau đó ra đi. Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã khuyên nhủ con trai: Con phải tự tìm ra cho mình một hướng đi, một con đường. Đời cha không có con đường, đành chịu phận: chí đoản hận trường - chí nhỏ hận dài. Lúc ta còn thơ ấu thì thuộc quyền cha mẹ, lúc ta lớn lên thuộc về đất nước, lúc về già lại phải dành cho lớp người sau là quan trọng
1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An: Bác Hồ thời niên thiếu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 45.
2. Xem Tứ thư, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 14. 8
Nguyễn Khắc Nho
nhất. Cứu nước là có hiếu với cha rồi đấy... Anh Thành rất thương cha!...1
Anh Thành vào Sài Gòn, thấy ở đây có điều kiện để thực hiện ước mơ của mình. “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”2. Anh muốn rủ một người bạn cùng đi. Người bạn ngạc nhiên hỏi: “Chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?”. Anh Thành giơ hai bàn tay lên và nói: “Đây, tiền đây. Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”3. Nhưng sau đó anh bạn không có đủ can đảm để cùng đi với anh Thành.
Anh Thành đã lên tàu xin việc làm. Chủ tàu thấy anh có dáng vẻ một học trò hơn là một người lao động nên đã hỏi: “Anh có thể làm việc gì?”. Anh Thành trả lời: “Tôi có thể làm bất cứ việc gì”4. Chủ tàu nói: “Được, ta sẽ lấy anh làm phụ bếp”.
Ngày 05/6/1911, tàu Amiral Latouche - Tréville rời bến cảng Sài Gòn đi Mácxây (Marseille, Pháp), mang theo một thanh niên Việt Nam tên là Văn Ba, 21 tuổi, tràn đầy lòng nhiệt huyết yêu nước, thương dân, quyết tâm ra đi để tìm hiểu, học hỏi nền văn minh của thế giới, rồi trở về giúp đồng bào mình.
1. Xem Sơn Tùng: Búp sen xanh, Nxb. Kim Đồng, Hà Nội, 2008, tr. 240.
2, 3, 4. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 16, 18.
9
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Cuộc hành trình tìm đường cứu nước ấy đã kéo dài 30 năm, qua ba đại dương, bốn châu lục và khoảng 40 nước. Người đã sống và hoạt động ở các trung tâm nghèo khổ nhất, giàu có nhất và cách mạng nhất của thế giới lúc bấy giờ. Đó là cuộc hành trình vĩ đại, mở đầu cho tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo và thật sự là trường đại học lớn trong cuộc sống.
Làm phụ bếp trên tàu, mọi việc với anh Ba đều mới lạ nên phải học tất cả. Suốt ngày, từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối, người anh Ba đẫm nước, mồ hôi bụi than, làm việc mệt lử, nhưng anh vẫn thức tới nửa đêm để đọc hay viết.
Anh Ba làm quen và kết thân với hai hành khách là người lính trẻ tuổi giải ngũ về Pháp. Họ cho anh mượn những quyển sách nhỏ, dạy cho anh đọc và viết. Anh Ba lại dạy họ học quốc ngữ. Qua đó, anh ngạc nhiên nhận thấy: “Cũng có những người Pháp tốt”1.
Tàu đến Mácxây, anh Ba càng ngạc nhiên: “Ơ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”2. Trông thấy những gái điếm đến làm tiền trên tàu, anh Ba tự hỏi: “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta”3. Lần đầu tiên vào tiệm cà phê, được người Pháp gọi anh bằng “ông”, anh Ba suy nghĩ: “Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông Dương”4.
1, 2, 3, 4. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 21, 22.
10
Nguyễn Khắc Nho
Tàu đến đâu anh Ba cũng để ý xem xét. Mỗi lần tàu cập bến anh đều tìm cách đi thăm thành phố. Đến Đaca, biển nổi sóng dữ dội, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra liên lạc với tàu, họ bị sóng cuốn đi. Cảnh tượng đó làm cho anh Ba rất cảm động, anh đã khóc và nhớ lại cảnh ấy cũng đã từng xảy ra ở Phan Rang nước ta. Bọn Pháp cười sặc sụa trong khi đồng bào ta chết đuối vì chúng nó. Anh suy nghĩ: “Những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo... Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu”1.
Anh Ba theo con tàu đi vòng quanh châu Phi, rồi qua Trung Mỹ, Nam Mỹ và dừng chân ở nước Mỹ vào cuối năm 1912. Anh đi làm thuê để kiếm sống với lương tháng 40 đôla Mỹ. Anh có dịp tìm hiểu về cuộc đấu tranh giành độc lập của Nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, ngắm tượng Nữ thần Tự do, đi qua các khu phố hoa lệ có những ngôi nhà cao chọc trời ở Niu Oóc (New York) và cả những căn nhà ổ chuột của người da đen ở khu Háclem (Harlem).
Tại Niu Oóc, ngày 15/12/1912, anh Thành viết thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ cho biết tình hình và địa chỉ của cha. Trong thư anh nói đã gửi cho cha ba ngân phiếu nhưng mới chỉ nhận được một lần trả lời.
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 30.
11
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Năm 1913, anh Thành đến nước Anh để học tiếng Anh - một công cụ giao tiếp rất quan trọng lúc bấy giờ. Để có tiền học, anh nhận việc cào tuyết trong một trường học, rồi chuyển sang đốt lò trong hầm. Công việc quá vất vả, mệt và đói thường xuyên, lại không có đủ quần áo ấm nên anh bị cảm, phải nghỉ việc liền hai tuần lễ. Với số tiền để dành, sau khi trả tiền phòng, tiền bơ, bánh mì và sáu bài học tiếng Anh, anh chỉ còn lại 6 hào rưỡi.
Sinh thời, các lãnh tụ của giai cấp vô sản đều là tấm gương lớn về học ngoại ngữ, công cụ giao tiếp quan trọng nhất của nhân loại. Mác biết thành thạo 10 ngoại ngữ và “đã đọc hầu hết các sách quan trọng của thời đại mình”. Ăngghen biết đến 21 ngoại ngữ. Mác và Ăngghen khi trên 50 tuổi, do yêu cầu phải nghiên cứu mà hai ông đã học thêm tiếng Nga. Lênin biết thành thạo tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp, đọc được tiếng Ba Lan và tiếng Italia1.
Anh Thành phải đến sở tìm việc và được giới thiệu đến làm ở khách sạn Caclơtơn (Carlton Hotel) ở Luân Đôn (London). Câu chuyện anh thu dọn những miếng ăn thừa còn ngon lành, không vứt đi mà để cho những người nghèo đã khiến ông vua đầu bếp Étcôpphie cảm mến. Ông không để anh phải rửa bát nữa mà sắp xếp anh vào chỗ làm bánh, với mức lương cao hơn. Nhờ đó, anh Thành có thêm nhiều thời gian để học tiếng Anh.
1. Xem Kể chuyện Bác Hồ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003, t. 2, tr. 216. 12
Nguyễn Khắc Nho
Anh Thành là người rất giàu tình cảm. Có lần khi đọc một bài viết trên báo, anh đã chảy nước mắt vì biết tin về cái chết dũng cảm của thị trưởng Coóc - một nhà đại ái quốc Ái Nhĩ Lan1. Anh lại nhớ tới cái chết của cụ Tống Duy Tân ở nước ta và khẳng định: “Cái chết của họ làm cho Tổ quốc họ sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt”2.
Từ nước Anh xa xôi, anh Thành vừa lao động, học tập, vừa tham gia Hội những người lao động hải ngoại Luân Đôn. Anh được gặp gỡ, trao đổi với luật sư Phan Văn Trường và thường viết thư qua lại với cụ Phan Châu Trinh đang ở Pari (Paris), đồng thời gửi thư về nước thăm hỏi cha.
Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp. Khi gặp lại những người Việt Nam, anh nói với họ: “Trong khi vua Duy Tân nổi dậy ở Huế, Nhân dân Thái Nguyên và nhiều nơi khác khởi nghĩa, thì chúng ta phải làm gì chứ”3. Những ngày đầu ở Pari, anh đã nhận được sự giúp đỡ của cụ Phan Châu Trinh. Cụ Phan dạy cho anh nghề làm ảnh. Sau đó cụ Phan và anh cùng ở chung với luật sư Phan Văn Trường, nơi đây trở thành điểm hội tụ của nhiều người Việt Nam sinh sống trên đất Pháp. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực các dân tộc thuộc địa và theo đuổi lý tưởng cao quý: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”.
1. Ái Nhĩ Lan: Aixơlen (BT).
2, 3. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 39, 40.
13
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Ngày 18/6/1919, nhân Hội nghị các nước đế quốc họp ở Vécxây, những người Việt Nam yêu nước ở Pháp đã cùng thảo ra một bản yêu sách gửi tới Hội nghị, thay mặt nhóm ký tên vào bản yêu sách là Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu tiên tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Cùng ngày, báo Nhân đạo cho đăng toàn văn bản yêu sách. Nguyễn Ái Quốc bỏ tiền ra in thành 6.000 tờ truyền đơn và tự tay viết yêu sách bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán, rồi đem phân phát trong các cuộc họp, mít tinh, sinh hoạt câu lạc bộ và gửi về nước qua đường bưu điện hay nhờ các thủy thủ.
Bản yêu sách gửi tới Hội nghị Vécxây mặc dù không được các nước đế quốc hồi âm, dù chỉ là những yêu cầu khiêm nhường, tối thiểu như tự do báo chí, tự do lập hội,... song lại tác động mạnh mẽ đến người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Đây là lần đầu tiên một người Việt Nam - tên gọi Nguyễn Ái Quốc - đã dũng cảm đưa vấn đề chính trị của Việt Nam ra quốc tế. Còn thực dân Pháp vừa lo sợ, vừa căm tức nên đã ra lệnh khám xét, tịch thu các bản in yêu sách, đe dọa và theo dõi Nguyễn Ái Quốc. Bản yêu sách là quả bom chính trị giữa Pari. Từ thực tế đó, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”1.
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 43.
14
Nguyễn Khắc Nho
Sau này khi muốn đăng tin trên báo, do không đủ vốn tiếng Pháp nên anh Nguyễn phải khẩn khoản nhờ luật sư Phan Văn Trường viết thay. Luật sư Trường viết giỏi nhưng không muốn ký tên và không viết tất cả những điều anh Nguyễn muốn nói. Do vậy, anh Nguyễn đã bắt tay vào việc học làm báo.
Anh Nguyễn đến ở ngõ Côngpoanh vì tại đây có nhà rửa ảnh mà anh làm công cho họ. Anh sống rất cực khổ. Vào mùa đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, anh để một viên gạch vào lò bếp của khách sạn, chiều về lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ rồi để xuống nệm cho đỡ rét1. Từ đây, anh tự lập về kinh tế, tích cực học viết văn Pháp, giao thiệp rộng với các nhà cách mạng, nhất là với anh em châu Phi. Côngpoanh là bước ngoặt kinh tế, chính trị trong đời anh2.
Khi anh Nguyễn đến tòa báo Dân chúng - cơ quan của Đảng Xã hội Pháp và là tờ báo duy nhất ở Pháp cho in những lời yêu cầu của Việt Nam, Chủ nhiệm báo là Giăng Lôngghê (Jean Longuet) - cháu ngoại Các Mác, nghị viên của Quốc hội Pháp - đã tiếp đón anh rất thân mật và khuyến khích anh viết bài. Anh bắt đầu viết rất khó khăn vì thiếu vốn ngữ văn Pháp. Thế rồi anh hết sức vui sướng khi thấy bài viết đầu tiên được đăng báo.
1. Xem Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 51.
2. Xem Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 2, tr. 1085.
15
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Anh đã đọc lại bài báo đã in, kiên nhẫn so sánh và sửa những chỗ viết sai. Ông chủ bút yêu cầu bây giờ anh viết dài hơn một tí, khoảng 7 - 8 dòng. Dần dần anh Nguyễn có thể viết cả một cột báo. Sau đó ông chủ bút lại bảo anh: “Bây giờ anh viết ngắn lại, viết từng này dòng thôi”. Anh Nguyễn hết sức cố gắng và đã thành công.
Về văn học, anh Nguyễn thích đọc Sếchxpia (Shakespeare) và Đíchken (Dickens) bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Quốc và Huygô (Hugo), Dôla (Zola) bằng tiếng Pháp. Truyện ngắn đầu tiên của anh Nguyễn được đăng trên báo Nhân đạo làm hai kỳ. Tòa báo đã trả nhuận bút một trăm quan - một số tiền lớn lúc bấy giờ và là một thành công lớn về hai mặt: văn chương và tài chính1.
Sống ở nước ngoài nhưng anh Nguyễn không một giây phút nào quên Tổ quốc mình, sau nhiều năm suy nghĩ, trăn trở về vấn đề thuộc địa, khi được tiếp nhận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin, anh Nguyễn ví mình như người đi đường đang đói mà có cơm ăn, đang khát mà có nước uống. Sau này Người đã kể lại giờ phút lịch sử ấy: “Luận cương của V.I. Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây
1. Xem Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 47-48.
16
Nguyễn Khắc Nho
là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!””1.
Nguyễn Ái Quốc là người bản xứ duy nhất có mặt tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp tháng 12/1920. Trong lời phát biểu tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi !”2 cả Đại hội vỗ tay tán thành.
Như vậy chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc tin theo Lênin, trở thành người cộng sản. Tinh hoa của dân tộc đã gặp gỡ tư tưởng tiên phong của thời đại, trở thành một “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam, mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng.
Sau Đại hội lần thứ I của Đảng Cộng sản Pháp năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị Ban lãnh đạo của Đảng thành lập một ban nghiên cứu thuộc địa, ý kiến đã được Đảng chấp nhận và chỉ định anh tham gia ban nghiên cứu đó. Anh đã sử dụng chính báo chí Pháp để tấn công chủ nghĩa thực dân. Tiếp đó, được sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã cùng với đại biểu các thuộc địa của Pháp có mặt ở Pari tham gia sáng lập Hội
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 562.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 35.
17
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp ngày 20/7/2021. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện tổ chức liên minh của các dân tộc bị áp bức cùng đấu tranh giải phóng. Hội cho xuất bản tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) làm cơ quan ngôn luận. Ngày 01/4/1922, trên trang nhất số báo đầu tiên đã đăng trang trọng lời kêu gọi:
“Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng loài người”1.
Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, chủ bút, giữ quỹ, kiêm cả việc phát hành, đôi khi còn trực tiếp đi bán báo, đồng thời là cây bút chính của báo.
Sáu năm sống ở Pháp là thời kỳ hoạt động xuất sắc và sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc. Các nhà hoạt động chính trị ở các thuộc địa của Pháp thừa nhận anh là người đồng chí thân thiết, tin cậy, “là người đã dẫn đầu cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa”. Đảng Cộng sản Pháp coi anh là một thành viên sáng lập, “đã góp phần hoàn chỉnh đề cương về vấn đề thuộc địa để hình thành truyền thống chống thực dân, làm vinh quang cho Đảng Cộng sản Pháp”2.
Năm 1923, Quốc tế Cộng sản chính thức mời Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô tham dự và phát biểu về vấn đề
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 491.
2. Xem Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr. 103-108.
18
Nguyễn Khắc Nho
thuộc địa tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Pháp đã bí mật chuẩn bị cho chuyến đi này. Lần đầu tiên đến đất nước Liên Xô, trải qua hơn một năm hoạt động ở trung tâm phong trào cộng sản quốc tế (7/1923 - 10/1924), Nguyễn Ái Quốc được sống chan hòa trong tình đoàn kết quốc tế vô sản. Anh đã phát biểu ở Hội đồng Quốc tế nông dân và được bầu vào Đoàn chủ tịch gồm 11 ủy viên, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên theo học trường Đại học Phương Đông. Ngày 21/01/1924, tin V.I. Lênin qua đời đã gây xúc động lớn trong nhân dân Xôviết và bạn bè trên khắp thế giới. Nguyễn Ái Quốc vô cùng tiếc thương và ân hận vì trong đời mình chưa một lần được gặp V.I. Lênin. Anh đến viếng thi hài Lênin trong thời tiết giá lạnh dưới -30oC, tay chân tê cóng, rớm máu. Khi trở về phòng ở, anh viết bài: “Lênin và các dân tộc thuộc địa”. Ngày 24/01/1924, báo Sự thật - Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Liên Xô - đã đăng trang trọng bài viết này. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào làm cán bộ tại Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản và được mời đến Hồng trường để nói chuyện với những người đi biểu tình ngày 01/5/1924.
Tham dự và phát biểu tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản (diễn ra từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 08/7/1924), Nguyễn Ái Quốc đã chân thành và thẳng thắn phê bình một số Đảng Cộng sản còn coi nhẹ vấn đề thuộc địa. Sau đó Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự Đại hội lần thứ III
19
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên và Hội nghị của tổ chức Quốc tế cứu tế đỏ. Với cương vị mới và tầm nhìn mới, trong những bài báo viết trên đất nước Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã nêu một luận điểm nổi tiếng: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”1. Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, gửi đi Pari cuối năm 1924. Nguyễn Ái Quốc có dịp đến thăm nhiều nơi, tận mắt thấy rõ những thành tựu của Nhà nước Xôviết trẻ tuổi, anh nhận xét: “Từ bé đến lớn chưa bao giờ thấy trong mình tự do, khoan khoái và sung sướng như lúc bấy giờ”2. “Nếu nước Nga chưa phải là một thiên đường cho tất cả mọi người, thì nước Nga đã là một thiên đường của trẻ con”3. Tại Đại hội Quốc tế Phụ nữ, anh đã gặp đồng chí N. Crúpxcaia (Krupskaya, vợ của Lênin). Đồng chí ân cần hỏi anh về phong trào phụ nữ Việt Nam. Anh nhận xét: đồng chí N. Crúpxcaia rất chất phác, hiền lành, khiêm tốn và nói tiếng Pháp rất thạo, đồng chí là Bộ trưởng Bộ Giáo dục4.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 130.
2. T. Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 24.
3. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 85.
4. Xem T. Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Sđd, tr. 27. 20
Nguyễn Khắc Nho
Từ thực tế ở trung tâm phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc dần dần sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận đang đặt ra cho cách mạng thế giới và thấy cần thiết phải phát biểu quan điểm của mình với Quốc tế Cộng sản.
Trong “Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ”, Nguyễn Ái Quốc nêu lên luận điểm: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”1. Vì hoàn cảnh lịch sử khác nhau, có nước không trải qua chế độ nô lệ.
“Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”2 - “động lực vĩ đại và duy nhất”. Do vậy cần bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng chủ nghĩa dân tộc phương Đông, tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Đây là luận điểm mới mẻ và cực kỳ táo bạo. Vì sau khi Lênin mất, lý luận về đấu tranh giai cấp đang có xu hướng bị cường điệu hóa, được coi là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá người mácxít.
Báo cáo chỉ ra phương hướng chung là: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản”3. Khi chủ nghĩa dân tộc thắng lợi, nhất định sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Báo cáo kết luận: “Để một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương có cơ thắng lợi: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng... được nước Nga ủng hộ... trùng hợp với cách mạng vô sản ở Pháp... gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới”4.
1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 508, 511, 513, 520. 21
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Báo cáo “là một tác phẩm lý luận xuất sắc”, “thể hiện một thái độ dũng cảm, thẳng thắn trong truy tìm chân lý, một năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo”, lấy thực tiễn là linh hồn của chủ nghĩa Mác, “Nguyễn Ái Quốc đã vượt lên so với các nhà cách mạng tiền bối của mình”1. Đó cũng là sự chuẩn bị về mọi mặt để lên đường về gần Tổ quốc, Người đến Quảng Châu ngày 11/11/1924.
Với cương vị Ủy viên Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, trong những năm 1925-1930, Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp chuẩn bị về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập đảng cộng sản ở Việt Nam.
Bản án chế độ thực dân Pháp: là một tác phẩm lớn của Nguyễn Ái Quốc, xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Pháp ở Pari năm 1925. Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm đã có tiếng vang lớn trong Nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa. Theo Thủ tướng Phạm Văn Đồng: Đó là những trang trần trụi về cuộc sống thực tế, với những chi tiết khốc liệt, không lý luận mà lại sáng ngời lên triết lý của lịch sử phương hướng đấu tranh của các dân tộc và của loài người. “Tổng cộng có 700.000 người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp, và trong số ấy, 80.000 người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa!”2. “Người An Nam lại đã có: những 10 trường học, những 1.500 đại lý rượu và thuốc phiện cho
1. Xem Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr. 147-154.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 26.
22
Nguyễn Khắc Nho
1.000 làng kia đấy!”1. “Một cựu nghị sĩ đi thăm thuộc địa về, đã phải kêu lên: “So với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cướp đường còn là những người lương thiện!”2. Với 12 chương và một phụ lục, tác phẩm đã tố cáo và lên án đanh thép những tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân, vạch rõ nguồn gốc của mọi nỗi khổ cực của Nhân dân ở các thuộc địa, vạch ra đường lối đấu tranh, thức tỉnh, cổ vũ nhân dân các thuộc địa chủ động làm cách mạng để tự giải phóng mình. Bản án chế độ thực dân Pháp ra đời đã giáng đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa đế quốc, soi đường cho cách mạng Việt Nam, cách mạng các thuộc địa, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX và cho tới ngày nay; đồng thời thức tỉnh loài người tiến bộ phải xóa bỏ chế độ thực dân - vết nhơ bẩn của nhân loại.
Là người luôn chủ động, chắc chắn, rất chú ý thực hành, cho nên đi tới đâu, Nguyễn Ái Quốc cũng tận dụng mọi hoàn cảnh để tuyên truyền, tổ chức, xây dựng lực lượng, từ đó góp phần thi hành bản án mình đã viết. Quảng Châu là địa bàn cư trú và hoạt động của nhiều thế hệ người Việt Nam yêu nước, lúc đó lại là trung tâm cách mạng của Trung Quốc - “Mátxcơva của phương Đông”. Nguyễn Ái Quốc nói thông thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Quảng Đông và biết tiếng Nga, làm phiên dịch trong văn phòng của đoàn cố vấn Xôviết tại Quảng Châu.
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 42, 77.
23
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Sau khi liên lạc và trao đổi với các nhà cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu, xây dựng nhóm trung kiên làm chỗ dựa là Tâm tâm xã, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tháng 6/1925), mở các lớp huấn luyện cho Hội và xuất bản tờ báo Thanh niên (ngày 21/6/1925). Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên bằng tiếng Việt. Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập, là cây bút chủ chốt. Nhiều số báo đã được bí mật đưa về nước, phổ biến khắp ba kỳ và tổ chức in lại trong nước. Báo Thanh niên góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị mọi mặt để tiến tới thành lập Đảng.
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là tổ chức quần chúng tập hợp những thanh niên yêu nước, theo khuynh hướng mácxít, dần dần huấn luyện họ trở thành người cộng sản. Đây được xem là tổ chức cách mạng đầu tiên, tiền thân của Đảng. Nguyễn Ái Quốc biên soạn chương trình, trực tiếp giảng bài, tổ chức các lớp huấn luyện, hướng dẫn thảo luận, thực hành. Kết thúc mỗi lớp học, cán bộ được cử về nước gây dựng cơ sở. Trước khi về, các anh đến nghĩa trang Hoàng Hoa Cương để viếng mộ đồng chí Phạm Hồng Thái. Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn cử học viên sang Nga học Trường Đại học Phương Đông, Trường Quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu. Với tầm nhìn xa, anh còn muốn gửi một nhóm thiếu nhi từ 12 đến 15 tuổi sang Nga để trở thành những thiếu nhi cộng sản đầu tiên của nước An Nam. Trong những năm 1925-
24
Nguyễn Khắc Nho
1927, Nguyễn Ái Quốc đã đào tạo cho đất nước trên dưới 200 cán bộ cách mạng. Đó đều là những hạt giống đỏ tiêu biểu cho cách mạng Việt Nam sau này như: Ngô Gia Tự, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Đức Cảnh, Hà Huy Tập, Lê Hồng Sơn, Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng,...
Đường cách mệnh là cuốn sách tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, xuất bản năm 1927. Đây là một trong những tác phẩm lớn đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, đồng thời là văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng, đặt nền tảng tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam. Mở đầu tác phẩm là bài “Tư cách một người cách mệnh”1
với 23 điều về tư cách, phẩm chất người cách mạng. Vấn đề con người, vấn đề cán bộ phải là vấn đề hàng đầu, quyết định của cách mạng.
Thực tế ở Mỹ, 94 năm sau Tuyên ngôn độc lập (1776- 1870), người da đen mới được quyền bầu cử; sau đó đến năm 1920, người phụ nữ mới được hưởng quyền đó. Từ lịch sử cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, cách mạng Nga, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ bài học, ý nghĩa nên nhớ là cần: “Phải cách mạng đến nơi”2, nghĩa là sau khi tiến hành cách mạng rồi thì chính quyền phải giao cho dân chúng số nhiều, thế mới khỏi phải hy sinh làm cách mạng nhiều lần, thế dân chúng mới được hưởng hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật sự. Quả thật vấn đề tư cách phẩm chất
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 280-281, 292. 25
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
cán bộ và vấn đề cách mạng đến nơi, triệt để là hai vấn đề chiến lược, là giá trị đặc sắc lâu dài, là cống hiến vô cùng quý báu của Đường cách mệnh.
Để tiếp tục nắm rõ hiểu và hiểu sâu sắc về tư cách người cách mạng, ngày 18/9/1926, trên báo Thanh niên ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đăng bài “Người cách mạng mẫu mực”. Sự nghiệp cách mạng rộng lớn và khó thực hiện, đòi hỏi người cách mạng kiểu mẫu phải:
“1. Đêm ngày nghĩ đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại.
2. Hy sinh tiền bạc, thời gian và cả máu vì lợi ích các dân tộc bị áp bức; tóm lại, phải vị tha và không ích kỷ, phải tuân thủ theo phương châm “TỔ QUỐC TRÊN HẾT” ở mọi nơi và mọi lúc.
3. Làm việc không mệt mỏi tùy theo phương tiện và năng lực của mình...
4. Xem thường cái chết, bất chấp hiểm nguy, vì cách mạng là một cuộc chiến đấu trường kỳ và gian khổ... 5. Thuận theo hoàn cảnh về thời gian, không gian, không bỏ qua điều gì... luôn luôn nói và hành động một cách có ý thức.
6. Suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động, vì việc thực hiện một kế hoạch phụ thuộc vào công tác chuẩn bị... 7. Lãnh đạo nhân dân vì sức mạnh của họ không thể thiếu được đối với sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Dân chúng vốn ít học, ngây thơ, khó liều mạng, dễ
26
Nguyễn Khắc Nho
bị lừa và bị mua chuộc... phải giáo dục họ, sửa chữa cho họ và chiếm được sự tin cậy của dân chúng... 8. Thành lập thật nhiều những tổ chức hùng mạnh thúc đẩy mau đến thắng lợi của cách mạng. 9. Xem thường danh vị, ngôi thứ và tiền bạc, vì chúng là cội nguồn sinh ra đố kỵ và hận thù và là nguyên nhân của những hành động chỉ điểm, phản bội làm tổn hại nghiêm trọng đến sự nghiệp cách mạng.
10. Không cục bộ, bởi vì cách mạng phải vì lợi ích của dân tộc chứ không phải của một cá nhân...
11. Không kiêu ngạo. Kẻ kiêu ngạo thì xa lánh nhân tâm quần chúng và tạo cho mình kẻ thù. Người cách mạng mẫu mực phải khiêm tốn, khoan hòa, lượng thứ, can đảm khi sa cơ, bình tĩnh khi thắng thế, không bao giờ được quên rằng cuộc đời mình và sự nghiệp của mình thuộc về toàn nhân loại chứ không thuộc về mình.
12. Kiên trì và nhẫn nại. Sự nghiệp cách mạng là lâu dài, khó khăn và nguy hiểm. Nếu người cách mạng thiếu kiên trì và nhẫn nại, thì những khó khăn sẽ làm anh ta thối chí và sẽ đào ngũ giữa trận tiền”1.
Khi ôn lại 12 điều về người cách mạng mẫu mực cách đây gần 100 năm, chúng ta vô cùng tự hào nhớ tới biết bao người Việt Nam yêu nước, dũng cảm, thông minh và đời đời biết ơn cả một thế hệ vàng của cách mạng Việt Nam.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 513-515.
27
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Có người thầy vĩ đại mới có những học trò xuất sắc, nên Nguyễn Ái Quốc luôn thể hiện sự cảm phục và ca ngợi đạo đức, học vấn của Khổng Tử: “Ông nghiên cứu và học tập không mệt mỏi, ông không cảm thấy xấu hổ tí nào khi học hỏi người bề dưới... Công thức nổi tiếng của ông “Nhìn ngoài, nhìn vào việc từ chỗ nào đi đến như thế, xem cái người ta đi tới chỗ đó, xét cái người ta hòa lòng, thì người ta giấu làm sao được mình”, biểu hiện chiều sâu về trí tuệ của ông”1. Nguyễn Ái Quốc cũng đã ca ngợi: “Mạnh Tử là một lý luận gia cách mạng của thế hệ ông bởi vì ông là tác giả đầu tiên của câu nói: “Dân là tất thảy, vua không là gì cả””2. Người đi tới kết luận: “... những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”3. Đó là biện chứng của lịch sử và khẳng định lời dạy của Lênin là đúng đắn: “Chỉ có những người cách mạng chân chính, mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”.
Muốn làm cách mạng phải có một đảng cách mạng chân chính. Do vậy, khi được tin trong nước đã hình thành nhiều tổ chức cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã gấp rút đi Hương Cảng để chủ động, kịp thời hợp nhất các tổ chức cộng sản, xóa bỏ sự chia rẽ. Hội nghị hợp nhất đã thành công tốt đẹp gắn liền với tên tuổi, trí tuệ, uy tín
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 562, 455, 563. 28
Nguyễn Khắc Nho
và đạo đức cách mạng trong sáng của Nguyễn Ái Quốc. Công lao to lớn đó thể hiện tính chủ động, sáng tạo và năng lực hoàn thành được sứ mệnh lịch sử trọng đại của Người.
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt nguy cơ chia rẽ, thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối đã kéo dài trong nhiều thập niên, mở đầu một thời kỳ mới vô cùng oanh liệt trong lịch sử dân tộc.
Trong những năm 1930-1941, từ nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc vẫn luôn theo dõi và chỉ đạo sát phong trào cách mạng ở trong nước: Người phê bình Đảng còn kém đường bí mật công tác1, cần tìm cách sửa đổi. Mặc dù Nguyễn Ái Quốc đã ngăn ngừa trước xu hướng khủng bố và bạo động non, nhưng khi phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh bùng nổ, Người nhiệt liệt biểu dương: “Nghệ - Tĩnh thật xứng đáng với danh hiệu “đỏ”!”2, và khuyến khích tổ chức các đội tự vệ nông dân để chống lại sự đàn áp, chứ không phải để tiến hành cuộc khởi nghĩa địa phương.
Về phong trào mặt trận dân chủ 1936-1939, Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo: “Lúc này Đảng không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao... sẽ rơi vào cạm bẫy của phát xít Nhật... Đối với bọn tờrốtxkít không thể có thỏa hiệp nào, một
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 93, 80.
29
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
nhượng bộ nào... phải liên hệ chặt chẽ với Mặt trận nhân dân Pháp... Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”1.
Từ khi Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thì những suy nghĩ của Người đã trở thành đường lối chiến lược và sách lược độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta, góp phần đưa đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Về phong cách học tập, Bác đã để lại những lời dạy rất quý báu. “Khẩu hiệu “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”... chính là của Khổng Tử. Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”2. “Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”3. “Phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch những vết xấu xa trong đầu óc... Nếu còn tự kiêu, tự mãn thì học biết nhiều chỉ thêm hại”4. Bác nhắc lại: “Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 167-168.
2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 356, 356, 359. 30
Nguyễn Khắc Nho
học tập”1. “Phải biết tự động học tập... Học để sữa chữa tư tưởng... Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng... Học để tin tưởng... Học để hành: Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích... Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học Nhân dân là một thiếu sót rất lớn”2.
Về quan hệ giữa lý luận và thực hành, biết và làm, Bác chỉ rõ: “Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành”3. Vì “Thực hành là nền tảng của lý luận... Chỉ có thực hành mới là tiêu chuẩn của sự thật... Không thực hành thì nhất định không thể hiểu biết... Thực hành, hiểu biết. Lại thực hành, lại hiểu biết nữa. Cứ đi vòng như thế mãi, không bao giờ ngừng. Và nội dung của thực hành và hiểu biết lần sau cao hơn lần trước. Đó là quan điểm biết và làm thống nhất của duy vật biện chứng”4.
Trong chuyến thăm Ba Lan năm 1957, trong không khí thân mật của bữa tiệc chiêu đãi, Chủ tịch nước Ba Lan Davátxki có hỏi Bác rằng: “Đồng chí là người nổi tiếng về đạo đức khiêm tốn, vậy đồng chí có thể cho biết khiêm tốn là thế nào?”. Bác trả lời: “Khiêm tốn là nền tảng đạo đức của cả dân tộc Việt Nam. Đối với bản thân tôi thì bao giờ cũng nhìn ra điều kém cỏi của mình. Đối với đồng chí và bạn bè thì ai cũng là thầy học của mình,
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 98.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 360-361.
3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 120, 122-130. 31
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
tìm cho được điều mình phải học tập. Đối với kẻ thù, cần biết cái mạnh của địch và chỗ yếu của ta”1.
Nhớ lại chuyện hồi Bác ở Tân Trào, đồng chí Nguyễn Tiến Sự là chủ nhiệm Việt Minh mới 38 tuổi, tuy chưa già nhưng sức khỏe giảm sút, đã được Bác khuyên bảo rằng: “Chú còn khỏe lắm. Nên đi học cho biết chữ. Phải học nhiều. Học văn hóa, học kinh nghiệm công tác ở mọi người, mọi lứa tuổi để làm việc tốt hơn. Không ai khôn hết được đâu” .
Có lần Bác kể chuyện: “Một hôm đi công tác giữa đường gặp mưa to. Đường mòn vừa dốc lại trơn, nên phải đi dò từng bước một. Bỗng gặp mấy cháu bé chăn trâu đang trú mưa ở cái lều bên đường. Một cháu nói: “Chà, cụ già này trời mưa, đường trơn, đi không có gậy chống mà không sợ ngã nhỉ?”.
Từ bữa ấy về sau, hễ đi đường gặp mưa trơn, nhớ lời các cháu kháo nhau, Bác đều tìm gậy để chống. Quả nhiên có gậy đi dễ hơn, nhanh hơn mà lại không sợ ngã”2.
Năm 1959, trong chuyến thăm Inđônêxia, Hiệu trưởng Trường Đại học Pátgiagiaran (Băngđung) đã trao tặng Bác bằng “Tiến sĩ danh dự luật học”. Người cảm ơn và nói: “Tôi không có điều kiện học tập khi còn trẻ, nhưng đã học tập trong xã hội, trong cuộc sống và đã học
1. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 2, tr. 529-530.
2. Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 49.
32
Nguyễn Khắc Nho
tập để biết gần Nhân dân, yêu Tổ quốc, yêu hòa bình và ghét chủ nghĩa đế quốc, ghét áp bức và chủ nghĩa vị kỷ”1. Bác biết nhiều ngoại ngữ và đã kể lại kinh nghiệm của mình là: đến nước nào, mỗi ngày phải học mười từ của tiếng nước ấy. Học cho thuộc. Ngày sau lại học mười từ nữa. Không được quên. Cũng không quá cao hứng, học quá mười từ để rồi có ngày lại không học từ nào. Ba ngày được 30 từ. Lâu dần sẽ học được nhiều... Năm 1924, từ Pháp qua Liên Xô phải qua Đức. Bác chuẩn bị trước 15 ngày. Mỗi ngày học 10 từ. Học được tiếng nào Người tập nói ngay. Biết 150 từ đủ nói tàm tạm và trên đường qua Đức việc học tập kết quả hơn vì nói chuyện trực tiếp với người Đức...2
Đồng chí Vũ Kỳ là thư ký của Bác còn kể lại chuyện: sáng 27/8/1945, lần đầu tiên được làm việc với Bác ở số 48 Hàng Ngang, Bác đọc cho viết một lá thư bằng tiếng Pháp, khi đọc lại, Bác phải sửa cho 3 lỗi. Tôi thanh minh là bỏ lâu, đi hoạt động bí mật nên quên nhiều. Bác cười bảo là “hồi trước, Bác học chưa đỗ bằng chú, lại bỏ học lâu hơn chú, sao Bác không quên?”. Rồi lại kết luận “Cái chính là chú không chịu tự học thêm”3.
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 7, tr. 187.
2. Xem Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh tiểu sử, Sđd, tr. 646.
3. Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Sđd, tr. 49.
33
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Học tập để làm người Việt Nam yêu nước. Học ăn, học nói, học gói, học mở. Bác thường xuyên chú ý đến những bài báo viết về gương người tốt, việc tốt và thưởng huy hiệu cho những người tốt thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi ngành nghề, mọi lứa tuổi, để động viên và phát huy phẩm chất tốt đẹp của những con người mới. Trong 10 năm, từ 1959 đến 1969, Người đã thưởng 3.972 huy hiệu1.
Đầu tháng 6/1968, Bác làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng về việc làm và xuất bản loại sách “Người tốt, việc tốt”. Bác đề nghị: “Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được... Các chú vẫn thường nói: nhân dân ta rất anh hùng, ra ngõ gặp anh hùng. Điều đó rất đúng... Nhưng dù sao, số người và những tập thể được công nhận là anh hùng, dũng sĩ, chiến sĩ thi đua... vẫn chỉ là số ít so với hàng triệu, hàng chục triệu con người hằng ngày góp gió thành bão, đang gánh vác mọi việc nước, việc nhà... Có tập thể vĩ đại ấy mới có Đảng ta vĩ đại, mới có Cách mạng Tháng Tám thắng lợi... Một số cán bộ ta hình như mải làm công tác hành chính, sự vụ hơn là để nhiều tâm sức xây dựng con người... Còn những việc nhỏ, bình thường thôi, nhưng ích nước lợi nhà, thì hay bị xem thường... Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông... Mỗi pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái
1. Xem Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh tiểu sử, Sđd, tr. 646.
34
Nguyễn Khắc Nho
nền vững chắc mới đứng vững được... Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc”1.
Sau khi kể lại những tấm gương người tốt việc tốt rất cụ thể và cảm động, từ cháu bé, đến anh bộ đội, các cụ già, Bác chỉ muốn nhắc các chú một điều: chớ bỏ qua những việc mà các chú tưởng là tầm thường... Chúng ta đánh giặc và xây dựng xã hội mới bằng những việc làm muôn hình muôn vẻ của hàng chục triệu con người như thế, chứ không phải chỉ bằng một vài việc làm nổi bật và vang dội của một số cá nhân anh hùng2.
Từ đó Bác đặt ra câu hỏi: “Anh hùng chiến sĩ có cần học những người bình thường không? Cán bộ, đảng viên có cần phải học quần chúng nhân dân không? Cấp trên có cần phải học cấp dưới không? Như vậy là các chú cũng đồng ý với Bác: Một người phải biết học nhiều người... Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để... xây dựng con người... để giáo dục lẫn nhau... rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn. Đó cũng là cách thực hành đường lối quần chúng trong công tác giáo dục”3.
Về học và hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, Bác chỉ rõ: “cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu... nhưng nhiệm
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 661-663, 664-665, 665. 35
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác... Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà... Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”1.
Về giáo dục thanh niên, Bác nói: “Các chú dạy các cháu rất nhiều điều, nhưng có một điều phải thật rõ: Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của Nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”2.
Về giáo dục đạo đức, bác căn dặn: “Từ nay về sau, nhân dân ta và Đảng ta phải giữ gìn và phát huy mãi mãi đạo đức trong sáng ấy. Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yên mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng... Bây giờ xã hội mới, không có áp bức bóc lột, ai cũng có thể vươn tới đỉnh cao của đạo đức cách mạng... thánh hiền ngày nay bao gồm hàng triệu con người có thật trong
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 668, 669-670. 36
Nguyễn Khắc Nho
nhân dân Việt Nam ta, ở trong nhà hay ra ngõ đều có thể gặp được. Đó là hàng triệu “người tốt việc tốt”... đang cùng nhau viết nên những trang sử vô cùng oanh liệt mà con cháu ta sẽ mãi mãi tự hào1.
Đúng là từ thực hành “người tốt việc tốt” đã sinh ra nhiều hiểu biết mới sâu sắc về học tập, giáo dục con người rất cụ thể, thiết thực, giúp cả dân tộc vừa đánh giặc vừa xây dựng một xã hội mới. Nói về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét: “Cụ Hồ thuộc bậc hiền triết lấy con người thật đang phải sống trên quả đất này làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động”2.
Để kết luận phong cách đầu tiên về suy nghĩ và học tập của Bác, tôi xin kể lại câu chuyện của Nghệ sĩ ưu tú Kim Liên với Bác. Lần thứ tư được gặp Bác, ngày 17/7/1969, Bác cho phép Kim Liên vào ăn cơm với Bác, có cả anh Vũ Kỳ. Ăn cơm xong, Bác cho phép Kim Liên lên thăm nhà sàn của Bác. Đó là một gian phòng nhỏ, tiện nghi quá đơn giản, của cải chẳng có gì. Bác nói giọng trầm buồn: “Bác chẳng có gì cho cháu cả! Bác chỉ có cái thước mà lúc còn trẻ đi bôn ba qua các nước, Bác có nhặt được mảnh gỗ, tự tay đẽo thành một cái thước kẻ để dùng, nay Bác cho cháu để làm kỷ niệm”3.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672-673.
2. GS. Trần Văn Giàu: Hồ Chí Minh - Vĩ đại một con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 79.
3. Xem Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t. 2, tr. 887. 37
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Kim Liên cầm cái thước mà rơm rớm nước mắt, vì không ngờ Bác lại nghèo đến thế. Kim Liên phát hiện trên cái thước có ghi ba chữ cái: S - N - K (Suy Nghĩ Kỹ). Uyên thâm và vĩ đại như Bác mà khi viết và nói gì cũng phải: “Suy Nghĩ Kỹ”. Đó là báu vật thiêng liêng nhất của Kim Liên1.
Nhận thức là một quá trình. Chỉ có suy nghĩ kỹ trong thực hành mới hạn chế được những sai lầm chủ quan và phát hiện ra những hiểu biết mới của chính mình chứ không phải của người khác!
1. Xem Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t. 2, tr. 888. 38
Nguyễn Khắc Nho
II. PHONG CÁCH LÀM VIỆC DÂN CHỦ, KHOA HỌC, KỸ LƯỠNG, CỤ THỂ, TỚI NƠI, TỚI CHỐN
Bác là người đã dành cả cuộc đời để làm việc, cống
hiến không mệt mỏi vì độc lập, tự do và hạnh phúc của Nhân dân. Có thể nói, trừ lúc ngủ ra, Người không có một phút rảnh rỗi.
Ngay từ năm 1921, trong bài báo “Đông Dương” đăng trên tạp chí Le Revue Communiste, Nguyễn Ái Quốc đã dự báo và khẳng định: “Người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến”1. Trong các bài giảng về Đường cách mệnh từ năm 1925, bài học về thời cơ của cách mạng Nga đã được Nguyễn Ái Quốc nói chính xác đến từng ngày.
Là người rất nhạy cảm với tình hình, năm 1938, Nguyễn Ái Quốc đã rời Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, bỏ lại bản luận án nghiên cứu sinh đang viết dở để trở về phương Đông và tìm đường về nước. Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng phát xít Đức, Người nhận định: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 40.
39
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”1. Sáng 28/01/1941, Người trở về Tổ quốc, sau 30 năm thương nhớ, đợi chờ. Khi bước qua cột mốc biên giới, Bác vô cùng xúc động.
Sau ba tháng nắm tình hình và trực tiếp chỉ đạo tổ chức thí điểm các hội cứu quốc ở Cao Bằng, lấy danh nghĩa Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, diễn ra từ ngày 10 đến 19/5/1941, tại Pác Bó, Cao Bằng. Hội nghị đã phân tích sâu sắc tình hình và đi đến nghị quyết: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc”2. Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh; thống nhất tên gọi các hội quần chúng là “Hội Cứu quốc”, góp phần cổ vũ mạnh mẽ, thống nhất tinh thần dân tộc xưa nay trong Nhân dân. Về chính quyền thì không nói chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể Nhân dân, lập chính phủ dân chủ cộng hòa. Về khởi nghĩa vũ trang, Hội nghị nhận định: “...với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 2, tr. 99. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 113.
40
Nguyễn Khắc Nho
trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn1. Hội nghị là sự vận dụng sáng tạo, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của Đảng, thực chất là sự trở về đường lối của Nguyễn Ái Quốc, mở đường thắng lợi cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Hội nghị đã kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư, đồng thời bầu ra Ban Thường vụ gồm ba đồng chí: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt. Tất cả các đại biểu dự Hội nghị lần đầu tiên được gặp Nguyễn Ái Quốc đều có những ấn tượng rất sâu sắc. Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh ra đời, với tuyên ngôn nêu rõ: “Coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy”2. Nguyễn Ái Quốc còn soạn mười chính sách của Việt Minh bằng thơ lục bát, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của Nhân dân.
Ngày 06/6/1941, Nguyễn Ái Quốc viết thư kính cáo đồng bào, gửi đến Nhân dân cả nước, kêu gọi đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật. Người còn quyết định xuất bản báo Việt Nam độc lập, để cùng với các báo: Cờ giải phóng, Cứu quốc động viên, tổ chức quần chúng tham gia cách mạng.
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 132-133, 461.
41
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5/1941: “Việc đào tạo cán bộ nay đã thành công tác gấp rút, không thể bỏ qua một giờ phút”1. Nguyễn Ái Quốc đã mở những lớp huấn luyện ngắn ngày, chỉ từ 5 ngày đến một tuần lễ. Tháng 6/1941, Người đã yêu cầu chọn một số thanh niên ưu tú để gửi đi học lớp vô tuyến điện ở Liễu Châu (Trung Quốc). Tháng 10/1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định tổ chức một đội vũ trang và giao nhiệm vụ này cho hai đồng chí Lê Thiết Hùng và Lê Quảng Ba. Nguyễn Ái Quốc đã đích thân đến dự lễ ra mắt của đội và trao cho Ban chỉ huy đội bản ghi mười điều kỷ luật và những nguyên tắc hoạt động của đội do Người tự tay soạn thảo.
Cũng trong năm 1941, Nguyễn Ái Quốc đã biên soạn “Cách đánh du kích”, đây là một trong những tác phẩm đầu tiên của Người về quân sự. Với cách viết ngắn gọn nhưng đầy đủ, thiết thực về cách mạng triệt để, dễ hiểu mà khoa học, Bác phân tích: “Du kích là đánh úp hay đánh lén, đánh lúc kẻ thù không ngờ, không phòng. Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc... Du kích bao giờ cũng tiến công. Có hai cách tiến công, một là tập kích, hai là phục kích”2. “Không ít tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay đã từng được khai tâm bằng cuốn sách giáo khoa quân sự vỡ lòng này”3.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 133. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 499-506.
3. Hồ Chí Minh tiểu sử, Sđd, tr. 288-289.
42
Nguyễn Khắc Nho
Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Lịch sử nước ta1. Đây là bài diễn ca lịch sử kể từ thời Hùng Vương dựng nước đến năm 1942. Mở đầu Người viết: Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kết luận Người viết:
Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh! Cuối tác phẩm là bảng kê những năm quan trọng trong lịch sử, kết thúc bằng sự kiện: “1945 - Việt Nam độc lập”. Đây là năm Người tiên đoán trước. Tập diễn ca lịch sử là tài liệu học tập cho cán bộ trong các lớp huấn luyện ở chiến khu thời đó và được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. “Lịch sử nước ta đã in sâu vào tâm trí của nhiều đồng chí và đồng bào ta, có người đến nay vẫn còn thuộc lòng toàn văn hoặc từng đoạn của tập diễn ca này”2. Vượt qua 13 tháng bị giam cầm đọa đày trong các nhà tù ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), cuối tháng 9/1941, Hồ Chí Minh về đến Pác Bó (Cao Bằng). Sau khi được nghe báo cáo tình hình và chủ trương của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng phát động chiến tranh du kích, Người đã quyết định đình hoãn chủ trương nói trên vì chủ trương ấy chưa căn cứ vào tình hình cả nước, chỉ thấy bộ phận mà không thấy toàn thể. Quyết định sáng suốt và kịp thời của Người đã tránh cho Cao - Bắc - Lạng những tổn
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 259-267, 664. 43
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
thất. Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh viết “Thư gửi đồng bào toàn quốc”. Trong đó Người dự đoán thời cơ của cách mạng đang đến gần: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”1.
Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh đến kiểm tra đại đội tự vệ chiến đấu Châu Hà Quảng. Ngay sau đó Người quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Trong bản Chỉ thị thành lập, Người nói rõ: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”2. Chỉ thị là một tài liệu ngắn gọn, súc tích, có tính chất cương lĩnh quân sự của Đảng ta. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại một khu rừng nằm giữa tổng Trần Hưng Đạo và tổng Hoàng Hoa Thám ở Cao Bằng, gồm 34 đội viên, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Thực hiện chỉ thị của Người: “Trận đầu phải thắng”3, chỉ vài ngày sau, Đội đã lập hai chiến công oanh liệt: hạ đồn Phay Khắt và đồn Nà Ngần, góp phần cổ vũ phong trào đánh đuổi thực dân Pháp, mở đường cho những thắng lợi tiếp theo.
Tháng 02/1945, Mặt trận Việt Minh xuất bản cuốn sách Phép dùng binh của ông Tôn Tử. Đây là bộ binh
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 538, 539.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 2, tr. 194.
44
Nguyễn Khắc Nho
thư nổi tiếng và sớm nhất, được Hồ Chí Minh dịch làm tài liệu huấn luyện cả về quân sự và chính trị cho cán bộ Việt Minh và toàn dân. Cuối cuốn sách Người viết:
“Kết luận vắn tắt 13 chương của ông Tôn Tử là: Muốn thành công: thì phải biết trước mọi việc”1. Đêm 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm
Đông Dương. Cũng ngay trong đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng (Bắc Ninh) và ra Chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Một cao trào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần phát triển khắp nơi. Tháng 4/1945, Đảng đã thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải phóng quân, xây dựng 7 chiến khu trong cả nước. Trong một chiếc lán đơn sơ giữa rừng, Người làm việc suốt ngày tới tận khuya. Có lần đã nửa đêm, Người trở dậy ngồi viết, cán bộ giúp việc hỏi thì Người trả lời rằng mới nghĩ ra một vấn đề, phải dậy ghi lại cho khỏi quên.
Trước tình hình mới, Hồ Chí Minh đề nghị với Thường vụ Trung ương Đảng thành lập Khu giải phóng, làm căn cứ cách mạng cho cả nước. Ngày 04/6/1945, Khu giải phóng chính thức thành lập, xây dựng thành căn cứ địa vững chắc, rộng lớn. Các ủy ban nhân dân do Nhân dân
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 588.
45
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
bầu ra cùng hơn một triệu đồng bào thuộc nhiều dân tộc khác nhau bắt đầu xây dựng một cuộc sống mới về mọi mặt. Khu giải phóng thật sự là “hình ảnh một nước Việt Nam mới”, tạo thành hậu phương và bàn đạp vững chắc cho thế trận tổng khởi nghĩa trong cả nước.
Tháng 4/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công vào Béclin (Berlin) phát xít Đức đầu hàng. Sau đó Liên Xô chuyển quân về phía Đông, chuẩn bị tuyên chiến với phát xít Nhật. Vào thời điểm này Hồ Chí Minh bị ốm nặng, sốt cao và luôn mê sảng. Trong một đêm tỉnh lại sau cơn sốt, Người đã dặn dò đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”1. Nhờ kinh nghiệm của đồng bào địa phương, sau mấy ngày uống thuốc, bệnh thuyên giảm, Người gượng dậy làm việc và đề nghị với Thường vụ Trung ương Đảng cần triệu tập gấp Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội đại biểu quốc dân, chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa. Theo Người: “Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài Hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”2.
1, 2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 2, tr. 225, 227.
46
Nguyễn Khắc Nho
Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp ở Tân Trào từ ngày 13 đến 15/8/1945. Nhận được tin Nhật đầu hàng quân Đồng minh, Hội nghị đã quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào nước ta để tước vũ khí quân đội Nhật. Các đại biểu về ngay địa phương để phát động khởi nghĩa.
Tiếp đó Đại hội quốc dân đã họp trong hai ngày 16 và 17/8/1945, với sự tham dự của hơn 60 đại biểu Bắc - Trung - Nam. Đại hội ra Nghị quyết kêu gọi toàn dân kiên quyết giành cho được nền độc lập. Đại hội bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội Quốc dân đã hoàn thành nhiệm vụ như của Quốc hội dân cử.
Ngay sau Đại hội, Hồ Chí Minh đã gửi “Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa” đến đồng bào cả nước:
“Hỡi đồng bào yêu quý!... Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”1.
Làn sóng khởi nghĩa của 20 triệu đồng bào cả nước đã trào lên như nước vỡ bờ. Ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn đồng bào Hà Nội mít tinh, đánh chiếm phủ khâm sai bù nhìn ngay trước mũi súng của lính Nhật. Ngày 23 tháng 8, 15 vạn đồng bào Huế khởi nghĩa chiếm dinh thự triều đình Huế. Ngày 25 tháng 8, một triệu đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn biểu tình khởi nghĩa buộc khâm sai bù nhìn
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 596.
47
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
phải từ chức, Ủy ban nhân dân lâm thời Nam Bộ ra mắt đồng bào. Ngày 30 tháng 8, Bảo Đại thoái vị, tự nhận là người dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ. Thế là chỉ trong vòng hơn 10 ngày, cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước. Chế độ thực dân hơn 80 năm, chế độ phong kiến hàng ngàn năm đã bị lật đổ.
Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở phiên họp đầu tiên với Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại Hà Nội. Người đề nghị: Phải mở rộng hơn nữa thành phần Chính phủ, phải thảo ngay một bản Tuyên ngôn độc lập và tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân, đó là ngày nước Việt Nam chính thức tuyên bố độc lập. Người nhấn mạnh những việc đó phải làm ngay, trước khi quân đội Tưởng vào Việt Nam tước vũ khí quân đội Nhật.
Thực hiện chủ trương của Người, một số cán bộ của Đảng và Mặt trận Việt Minh trong Chính phủ đã tự nguyện rút ra khỏi danh sách để nhường chỗ cho những người không phải Việt Minh. Hành động đó được Người đánh giá là cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không xem chuộng địa vị, đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học. Ngày 28 tháng 8, danh sách Chính phủ lâm thời được công bố trên các báo tại Hà Nội. Gần một nửa số bộ trưởng là nhân sĩ, trí thức, không đảng phái. Đó là chủ trương đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta.
48
Nguyễn Khắc Nho
Chiều 31/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị cho Người xem sơ đồ địa điểm tổ chức mít tinh, nhắc Ban tổ chức chú ý cả nơi vệ sinh cho đồng bào và dặn nếu trời mưa thì kết thúc sớm hơn, tránh cho đồng bào bị mưa ướt, nhất là đối với các cụ già và các cháu nhỏ1.
Đúng 14 giờ ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), các thành viên của Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu bước lên lễ đài. Bài Tiến quân ca vang lên hùng tráng, lá cờ đỏ sao vàng từ từ kéo lên.
Một rừng cánh tay giơ lên chào, bàn tay nắm lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu thế hệ người Việt Nam đã hy sinh và mong đợi. Nó chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức, mở ra kỷ nguyên mới dân chủ cộng hòa. Chẳng những Nhân dân Việt Nam tự hào mà giai cấp lao động và các dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”2.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời đã phải đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong,
1. Xem Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Sđd, tr. 19.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 25.
49
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
giặc ngoài. Trong nước số quân Nhật chưa bị giải giáp, quân Tưởng, quân Anh, quân Pháp lên tới gần 30 vạn người. Hậu quả của thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói làm chết hơn 2 triệu người, hơn 90% người dân không biết chữ. Tài chính đất nước kiệt quệ. Nước ta giành được độc lập nhưng chưa có quốc gia nào thừa nhận, lại đang bị đế quốc và phản động bao vây, đe dọa từ mọi phía.
Ngay sáng 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Người nêu lên sáu vấn đề cấp bách và đã được Chính phủ nhất trí là: Giải quyết nạn đói; thanh toán nạn dốt; tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử; giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ ngay ba thứ thuế là thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết1.
Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “... nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”2. Người nghiêm khắc phê bình những lầm lỗi rất nặng nề của nhiều cán bộ như: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người căn dặn cán bộ:
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 7-8, 64.
50
Nguyễn Khắc Nho
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”1.
Phát huy tinh thần yêu nước và chính sách đại đoàn kết toàn dân, mỗi tuần Nhân dân cả nước đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo cứu đói và thực hiện “Không một tấc đất bỏ hoang”. Trong tuần lễ vàng, Nhân dân cả nước đã tự nguyện đóng góp được 370 kg vàng. Về phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, chỉ trong một năm sau ngày độc lập, hơn 4 triệu người dân Việt Nam đã biết đọc, biết viết. Ngày 06/01/1946, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đã diễn ra hơn 90% cử tri cả nước đi bầu Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trúng cử với sự tín nhiệm cao nhất là 98,4%. Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới đầu tiên.
Về mặt trận ngoại giao, chúng ta đã thực hiện chính sách mềm dẻo, biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự. Lúc đầu chúng ta hòa hoãn với quân Tưởng để tập trung chống quân Pháp ở Nam Bộ. Sau khi Pháp - Hoa ký hiệp ước với nhau ngày 28/02/1946, chúng ta đã nghiên cứu tình hình và quyết định ký với Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946 để đẩy nhanh quân Tưởng về nước. Khi hội nghị Phôngtennơblô (Fontainebleau) thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Tạm ước Việt - Pháp ngày 14/9/1946 để tranh thủ thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài mà ta biết là không thể tránh khỏi.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 65.
51
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Lúc đó, mục đích của quân Tưởng là tiêu diệt Đảng ta, phá tan Mặt trận Việt Minh và giúp bọn phản động đánh đổ chính quyền nhân dân. Do vậy đòi hỏi Đảng không được do dự, phải quyết đoán mau chóng. Đảng đã tuyên bố tự giải tán, sự thật là Đảng rút vào hoạt động bí mật tiếp tục lãnh đạo chính quyền và Nhân dân đấu tranh. Nhà nước cộng hòa non trẻ đơn độc giữa vòng vây trùng điệp của kẻ thù đã vượt qua thử thách cực kỳ hiểm nghèo, tiếp tục chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”1. Lời kêu gọi là đường lối chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính; đồng thời là lời khẳng định kháng chiến nhất định thắng lợi.
Ngay sau đó, nhân dân cả nước cùng đứng lên thực hiện lời thề độc lập. Mở đầu là cuộc chiến đấu của Trung đoàn Thủ đô với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, đã giam chân địch suốt 60 ngày đêm, góp phần giúp cả nước chuyển sang thời chiến, dàn xong thế trận, sẵn sàng chiến đấu lâu dài. Tiếp đó, chúng ta đã đập tan kế hoạch đánh nhanh, tiến nhanh của địch trong chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 534.
52
Nguyễn Khắc Nho
Tháng 10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết xong cuốn sách Sửa đổi lối làm việc. Đây là sách “gối đầu giường” của cán bộ để tu dưỡng tư tưởng, đạo đức và phong cách công tác. Người đặc biệt nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”1. “Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong”2. “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được Nhân dân”3. Người chỉ ra 12 điều về tư cách của một đảng chân chính cách mạng. “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”4.
Sửa đổi lối làm việc thật sự là cuộc sửa đổi cách mạng, là sách dạy làm người, dạy làm cán bộ. Đây là một văn kiện vô giá về xây dựng Đảng, đóng góp to lớn và thiết thực vào việc đẩy mạnh kháng chiến, kiến quốc.
Là linh hồn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng lực lượng kháng chiến, kiến quốc về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao. Người đặc biệt chú ý phê phán các căn bệnh chủ quan, máy móc của cán bộ, sẽ làm hỏng
1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309, 280, 292, 301. 53
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
công việc, đồng thời chỉ ra các đơn thuốc chữa bệnh rất cụ thể và sâu sắc. Theo Người:
“Bất kỳ việc to việc nhỏ:
Phải xem xét kỹ lưỡng,
Phải bàn bạc kỹ lưỡng,
Phải hỏi dân kỹ lưỡng,
Phải giải thích kỹ lưỡng cho dân,
Phải luôn luôn gần gụi dân”1.
Lời Bác dạy cách đây gần 70 năm thật sự là phong cách làm việc muôn đời của người cán bộ vì dân. Ngày 01/10/1949, cách mạng Trung Quốc thành công. Ngày 02/01/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật sang Bắc Kinh rồi sang Liên Xô. Sau đó Chính phủ Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ Đông Âu lần lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Tháng 7/1950 ta quyết định mở chiến dịch Biên giới. Tháng 9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đi chiến dịch. Để Bác đi đỡ mệt, anh em làm một chiếc cáng, nhưng Bác đã từ chối không dùng đến. Anh em lại chuẩn bị một con ngựa. Bác bảo mình cưỡi sao tiện, để ngựa thồ đồ dùng, ai mệt sẽ ngồi ngựa. Đi mặt trận, có hôm trời mưa, đường trơn như mỡ, bùn lút mắt cá chân. Bác bảo rút dép cao su ra, xắn quần quá đầu gối, tay thì chống gậy mà đi. Đến đường số 4, đồng chí tổng tư lệnh đưa một chiếc xe díp ra đón, anh em mừng khẽ bảo nhau: “Bây giờ khỏi
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 308.
54
Nguyễn Khắc Nho
cuốc bộ rồi”. Không ngờ Bác bảo đồng chí cán bộ “đưa xe về cho bộ đội chở tiếp tế. Bác đi bộ quen rồi, không cần đi xe”1.
Trên đường đi, Bác thường ghé thăm các đơn vị bộ đội, dân công, động viên, dặn dò mọi người, chiến dịch này quan trọng, chỉ được thắng, không được thua. Việc lãnh tụ tối cao ra mặt trận là điều bất ngờ lớn, nguồn động viên vô giá với mọi người. Bác đã theo dõi từng bước đi, từng phương án và trực tiếp ngồi trên đài quan sát trận mở đầu Đông Khê ngày 16/9/1950. Bác còn hóa trang làm cán bộ bị thương để hỏi chuyện ba tên quan năm Pháp bị ta bắt giam trong hang núi. Có lần thấy một tù binh Pháp rét run, Bác đã cởi áo ngoài đưa cho mặc, người tù binh nhận và ứa nước mắt. Trong hơn một tháng đi thăm mặt trận, có ngày đi bộ tới 40 cây số. Khi trở về, Bác rất vui, nói với mọi người rằng: “Bác đi công tác ở mặt trận, tiến bộ nhiều lắm. Thầy học của Bác là bộ đội, là dân công, là Nhân dân”2.
Chiến dịch Biên giới toàn thắng đã làm thay đổi cục diện chiến tranh, tạo ra thế và lực mới, đưa cuộc kháng chiến của ta chuyển sang giai đoạn mới “phản công và tiến công”. Hai chuyến đi của Bác năm 1950 là “chuyến đi phá vỡ vòng vây đế quốc”.
1. Xem T.Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Sđd, tr. 7-10. 2. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t. 2, tr. 337.
55
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Tháng 02/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Đại hội lần thứ II của Đảng. Đây là Đại hội kháng chiến và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Mỗi bước phát triển của cách mạng lại đòi hỏi một bước tiến mới về mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân. Sau buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 03/3/1951, Bác đã có bài viết “Người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam phải thế nào?”. Theo Người:
“Người đảng viên - dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp - ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng... Mà muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình, thì người đảng viên, từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở, phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu... Đảng viên nào không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chưa xứng đáng là một người đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam”1.
Đúng vào ngày quốc khánh năm 1950 và năm 1951, Bác công bố hai bài báo về việc phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Năm 1952, Bác lại công bố hai bài báo nữa về chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Theo Bác: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ... Muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”2. “Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ... làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 55, 357.
56
Nguyễn Khắc Nho
chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”1. Thật hiếm có vị lãnh tụ nào nói cụ thể và sâu sắc về chống “giặc nội xâm” như thế!
Những điều Bác đã nói về tư cách người cách mạng mẫu mực từ năm 1925 đã dần được cụ thể bằng công việc hằng ngày. Theo Bác cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới và thi đua ái quốc. “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”2. “Sau mỗi một việc cần phải rút kinh nghiệm... Như vậy, khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm, công việc sẽ rất mau tiến bộ”3. “Từ việc lớn đến việc nhỏ, cán bộ đều phải làm kiểu mẫu... Như thế thì quân đội ta sẽ là một quân đội vô địch, và kháng chiến nhất định thành công”4.
Cuối năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ. Khi trao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bác nói: “Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ phải thay đổi cách đánh từ đánh nhanh trong vài ba ngày đêm, sang đánh chắc tiến chắc. Đây là “một quyết định khó khăn nhất” trong cuộc đời cầm quân của Đại tướng.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 362.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 234, 238.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 486.
57
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Sau này, qua những lần hội thảo về Điện Biên Phủ, có tướng lĩnh trong quân đội ta thừa nhận, nếu không thay đổi cách đánh thì cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có thể lùi lại 10 năm, và phần lớn chúng tôi đã không còn có mặt trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ1.
Qua 56 ngày đêm chiến đấu, ngày 07/5/1954, lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta đã tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch, tướng ĐờCáttơri và toàn bộ ban tham mưu bị bắt sống. Hơn một vạn quân Pháp ở Điện Biên Phủ ra hàng. Cả đất nước hân hoan, tự hào, mừng vui chiến thắng.
Ngày 08/5/1954, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương khai mạc. Đến ngày 21/71954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, thực dân Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân khỏi Việt Nam, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời và sẽ tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước sau hai năm.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân. “Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1924) sau 30 năm đã được thi hành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 5, tr. 335.
58
Nguyễn Khắc Nho
mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch”1. Vì thực tế lúc này Mỹ đã thay chân Pháp trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của Nhân dân ta. Hàng vạn cán bộ và học sinh miền Nam đã được tập kết ra Bắc, chuẩn bị đào tạo cho miền Nam sau này. Đó là tầm nhìn xa và chủ động về ý chí thống nhất đất nước trong giai đoạn cách mạng mới.
Đặc điểm và nhiệm vụ lớn nhất của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là đất nước đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đúng như lời khai mạc của Bác ở Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng là: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”2.
Về chính sách của Đảng và Chính phủ, Bác nhấn mạnh: “... phải hết sức chăm nom đến đời sống của Nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi... Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”3.
Về phân công công việc, Người khẳng định: “Bất kỳ ở một chức vụ nào, cao hay thấp, to hay nhỏ, tất cả mọi người làm thành một bộ máy. Thiếu một người nào hay có một người làm không tròn nhiệm vụ là hỏng cả”4.
1, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 466, 219.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 673.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 518.
59
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
“Không có việc gì là sang, việc gì là hèn... Việc gì làm tròn nhiệm vụ là sang, không làm tròn nhiệm vụ là hèn”1. Bác đã lấy khăn lau nước mắt khi báo cáo trước Quốc hội về những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Tại Hội nghị Trung ương 10 (khóa II), Bác đề nghị: “Hội nghị xét sai và sửa sai cấp tốc, không được cầu toàn. Trên cơ sở thi hành kỷ luật nghiêm minh mà bảo vệ Đảng”2. Bác đã tự phê bình nghiêm túc: “Vì ta thiếu dân chủ, nên nghe ít, thấy ít, nên bây giờ ta phải dân chủ. Tôi nhận trách nhiệm trong lúc sóng gió này”3. Tại Hội nghị Bộ Chính trị ngày 08/8/1958, Bác nhận định: “Cương lĩnh đưa ra đúng nhưng không biết cụ thể hóa, Đảng có chủ quan, giáo điều, máy móc... Người tự phê bình đã “quan liêu, không sát quần chúng, không sát thực tế, chỉ xem báo cáo, tin vào người báo cáo””4. Bác đã nêu tấm gương trung thực, dũng cảm, đầy trách nhiệm và tình nghĩa trong lúc Đảng ta có sai lầm nghiêm trọng.
Điều bản chất và sâu sắc nhất của chế độ ta là hai chữ “dân chủ”. Từ suy nghĩ, tình cảm, đến lời nói việc làm của Bác đều thể hiện điều đó. Bác đã nhiều lần nói vào Đảng không phải để làm quan phát tài, vì Đảng ta ngoài lợi ích của Nhân dân, của cách mạng không có lợi
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 67.
2, 3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 6, tr. 262, 263.
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 7, tr. 96.
60
Nguyễn Khắc Nho
ích nào khác. Những căn bệnh và sai lầm của cán bộ, đảng viên có nhiều nguyên nhân, nhưng đều vì thiếu dân chủ. Bài thuốc để chữa các căn bệnh và sai lầm đó là thực hành dân chủ, gần gũi, gắn bó sâu sát với dân. Trong bài báo “Cái chìa khóa vạn năng”, Bác đã kết luận khái quát rằng: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”1.
Về cách mạng ở miền Nam, Bác khẳng định: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta”2. Nghị quyết Trung ương 15 khóa II (tháng 01/1959) đã chỉ ra con đường cách mạng tiến công, tạo bước ngoặt lịch sử cho cách mạng miền Nam. Phong trào Đồng khởi và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời năm 1960 là thất bại lớn đầu tiên của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Bác luôn động viên các đơn vị, Nhân dân phải làm tốt và nhiều hơn nữa nhiệm vụ tiếp sức cho cách mạng miền Nam. Đón đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Người đặt tay lên ngực mình và nói: “Hình ảnh của miền Nam yêu quý ở trong trái tim tôi”3. Bác theo dõi từng bước đi, từng thắng lợi hằng ngày, kịp thời đánh giá và dự báo xu hướng phát triển của cách mạng miền Nam.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 325.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 360.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 8, tr. 230.
61
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Với chiến thắng Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đã bị phá sản hoàn toàn, buộc chúng phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ào ạt đưa quân vào miền Nam và phát động chiến tranh phá hoại miền Bắc, âm mưu “đẩy lùi miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 đã phân tích rõ thế và lực của ta, đồng thời khẳng định ta nhất định thắng.
Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa III ngày 10/4/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”1 và long trọng kêu gọi: “Tất cả chúng ta hãy đoàn kết nhất trí triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!”2.
Bác phân tích rõ việc giặc Mỹ trắng trợn dùng không quân bắn phá miền Bắc là hòng gỡ thế thất bại của chúng ở miền Nam. Đó là hành động tuyệt vọng, khác nào con thú dữ bị thương nặng, giãy giụa một cách hung tợn trước khi trút hơi thở cuối cùng. Ngày 17/7/1966, Người ra lời kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song Nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, Nhân dân ta sẽ xây dựng
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 533, 534.
62
Nguyễn Khắc Nho
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!1 Đó là khí phách kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam; là xu thế tất yếu của thời đại; là chân lý phổ biến của các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập, tự do. Lời kêu gọi bất hủ đó đã in sâu vào trái tim của tất cả người dân Việt Nam và được hàng triệu người dân trên thế giới đồng tình, ủng hộ.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, cả miền Bắc thi đua “Tay cày tay súng”, “Tay búa tay súng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Các cụ lão dân quân ở Thanh Hóa cũng bắn rơi máy bay phản lực Mỹ, các em học sinh vẫn “đội mũ rơm đi học đường dài”.
Để Nghị quyết đi vào cuộc sống, theo Bác “Phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Chỉ tính trong 10 năm (1955- 1965), không quản tuổi cao, công việc bận rộn, Người đã thực hiện hơn 700 lượt đi thăm các địa phương, cơ sở để động viên chiến sĩ và đồng bào, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Tính ra mỗi năm hơn 60 lượt, mỗi tháng khoảng 6 lần Người xuống cơ sở, gặp gỡ quần chúng2.
Ở miền Nam, sau thắng lợi đánh bại cuộc phản công chiến lược của địch ở hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 131.
2. Xem Ban Tuyên giáo Trung ương: Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 50.
63
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Thân năm 1968, địch đã choáng váng, hoảng sợ. Ngày 01/11/1968, Chính phủ Mỹ phải tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc, chấp nhận hội nghị bốn bên ở Pari. Ngày 03/11/1968, Bác kêu gọi và căn dặn toàn dân: “Đó chỉ mới là thắng lợi bước đầu... Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”1. Ngay từ cuối năm 1967 đầu năm 1968, Bác còn dự báo: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua”2.
Về mặt trận ngoại giao, Nhân dân ta đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ rộng lớn của cả nhân loại tiến bộ. Đó là hiện tượng chưa từng có trong lịch sử. Bác đã nói rõ ràng và dứt khoát lập trường của Việt Nam là: “Chúng tôi sẵn sàng trải thảm đỏ và rắc hoa cho Mỹ rút. Nhưng nếu Mỹ không rút thì phải đánh đuổi Mỹ đi”3. Phong trào chống chiến tranh phát triển rộng khắp nước Mỹ, như nhiều cuộc biểu tình lớn đã diễn ra nhằm phản đối Chính phủ Mỹ gây chiến tranh, 16 công dân Mỹ đã tự thiêu,...
Năm 1969, trong thư chúc mừng năm mới Bác viết: “Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”4.
Lời thơ của Bác đã chỉ ra phương châm chiến lược để kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
1, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 512, 532.
2. Hồ Chí Minh - Biên niên sự kiện và tư liệu quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 203.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 9, tr. 251.
64
Nguyễn Khắc Nho
Đúng vào ngày thành lập Đảng 03/02/1969, Bác công bố bài báo “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”1. Đây là bài viết cuối cùng của Bác về xây dựng Đảng.
Đồng chí Vũ Kỳ kể lại, vào dịp Tết Kỷ Dậu, Bác đã trồng thêm một cây đa ở đồi Vật Lại (Ba Vì) và nhớ đến câu nói đẹp như chân lý của Người: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”2.
Ngày 10/5/1969, Bác viết lại đoạn mở đầu bản Di chúc: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn”3.
Thực tế chiến thắng trận Điện Biên Phủ trên không cuối năm 1972 và đại thắng 30/4/1975 đã chứng minh dự báo và niềm tin thắng lợi chắc chắn của Bác. Thiên tài Hồ Chí Minh đã tỏa sáng đến những năm tháng cuối cùng của cuộc đời!
Bác đã suốt đời gắn bó với Đảng và dân tộc. Vì có Đảng mới có người lãnh đạo, dẫn đường, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Có dân tộc mới có lực lượng, sức mạnh, động lực, cội nguồn, mục đích để chiến đấu, phục vụ. Đảng và dân tộc gắn bó không thể tách rời. Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
1, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 546-548, 618. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 528.
65
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
luyện phải luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của Nhân dân.
Đảng và Bác luôn nhạy cảm với tình hình thay đổi, từ đó đề ra đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, để biết cách đánh thắng từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới thắng lợi hoàn toàn, tạo ra những mốc son thắng lợi vĩ đại là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến thần thánh. Chính phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn của Người là những sáng tạo lớn, góp phần thực hiện thắng lợi con đường cách mạng đến nơi, triệt để, thực sự đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho đất nước và Nhân dân.
66
Nguyễn Khắc Nho
III. PHONG CÁCH ỨNG XỬ VĂN HÓA, TINH TẾ, ĐẦY TÍNH NHÂN VĂN, THẤM ĐẬM TINH THẦN YÊU DÂN, TRỌNG DÂN, VÌ DÂN
Phong cách ứng xử của Bác bắt nguồn từ truyền
thống yêu nước, thương dân của dân tộc, “Thương người như thể thương thân”; truyền thống sống tình nghĩa, độ lượng, khoan dung, hòa hiếu. Bác sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho giàu lòng nhân ái, thương người, luôn sẵn lòng giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, những người nghèo khổ.
Trong suốt 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Bác đã sống chan hòa với những người lao động bị áp bức các màu da trên thế giới, với các đồng chí, bạn bè đấu tranh cho phong trào giải phóng dân tộc. Cuộc sống trải nghiệm đầy gian khổ, hy sinh và vô cùng phong phú ấy đã trở thành cội nguồn bồi đắp tình cảm quốc tế trong sáng, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà.
Khi trở về nước, trên cương vị lãnh tụ tối cao của Đảng và dân tộc, Bác vẫn sống giản dị, khiêm tốn và luôn gần gũi, thương yêu nhân dân, cán bộ. Bác sống rất giàu tình cảm, không quên, không sót một ai. Bác rất nhạy cảm và tinh tế với con người. Đã biết bao lần Bác khóc,
67
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
cả lúc vui và lúc buồn. Bác đã vận dụng công thức nổi tiếng của Khổng Tử về biết người và thực hiện tư cách của người cách mạng: “có lòng bày vẽ cho người” và “hay xem xét người”.
Năm 1923, trước khi sang Liên Xô, Bác đã thể hiện tình cảm rất thân thiết và cảm động qua một bức thư gửi lại các bạn đang cùng hoạt động ở Pháp. Vì điều kiện phải hoạt động bí mật, nên Nguyễn Ái Quốc đã gửi lại trước lá thư này ở gia đình một luật sư người Ăngti là ông B. Gia đình ông B có vẻ buồn, hai đứa trẻ khóc, bà B gạt nước mắt nói: “Các bạn đọc đi sẽ biết”. Bác sĩ R người Marốc cầm thư và nói ngay là biết nét chữ của ông Nguyễn.
“Các bạn thân mến... Mặc dầu chúng ta là những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo, chúng ta đã thân yêu nhau như anh em.
Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta... chúng ta không cô độc vì chúng ta có tất cả dân tộc của chúng ta và vì những người Pháp dân chủ, những người Pháp chân chính, đứng bên cạnh chúng ta. Công việc chung của chúng ta là Hội Liên hiệp thuộc địa và tờ báo Người cùng khổ...
Chúng ta phải làm gì?... Điều đó tùy hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ,
68
Nguyễn Khắc Nho
đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập...
Tôi từ giã các bạn. Tôi xa các bạn, nhưng lòng tôi luôn luôn gần các bạn.
Các bạn tha lỗi cho tôi không hôn các bạn trước khi đi. Các bạn biết rằng tôi bị theo dõi riết...
Đại, người đồng hương của tôi, sẽ giao lại cho ông B. thìa khóa của tòa báo, giấy tờ và tài liệu của Hội và của tờ báo; cũng như quỹ của tờ báo. Tôi đã trả tiền thuê nhà cho tòa báo đến cuối năm. Tiền in cũng đã thanh toán. Chúng ta không mắc nợ ai. Sổ thư viện để ở trong ngăn kéo bên phải... Nói tóm lại, các việc đều đâu vào đấy trước khi tôi đi.
Tôi sẽ viết thư cho các bạn... các bạn hãy tin chắc rằng lòng tôi luôn luôn yêu các bạn. Nhờ các bạn bắt tay những người bạn Pháp của chúng ta...
Bây giờ, một vài lời với cháu trai và cháu gái. Các cháu rất yêu chú và chú cũng rất yêu các cháu... Chú sẽ thay mặt các cháu bắt tay các bạn nhỏ Việt Nam. Có lẽ rất lâu, các cháu sẽ không được thấy chú Nguyễn, không được leo lên đùi, lên lưng chú như các cháu thường làm... Chú sẽ luôn luôn nhớ đến các cháu. Các cháu luôn luôn vẫn là cô bé Alítxơ và cậu bé Pôn thân yêu của chú.
Các cháu ngoan. Học thuộc bài. Vâng lời cha mẹ. Đừng đánh con chó nhỏ Mariuýt (Marius) của các cháu. Khi các cháu đã hơi lớn, các cháu sẽ đấu tranh cho Tổ
69
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
quốc của các cháu cũng như ba má, chú Nguyễn và những chú khác.
Các cháu nhỏ thân yêu của chú, chú hôn các cháu rất kêu. Các cháu hôn mẹ hộ chú.
CHÚ NGUYỄN”1.
Lá thư chia tay thật chân thành, chu đáo, đầy lưu luyến, cảm động và tin tưởng sâu sắc một ngày sẽ gặp lại các bạn rất thân thiết cùng hoạt động ở Pháp.
Trong thời gian hoạt động ở trung tâm phong trào cộng sản quốc tế năm 1923, nhà thơ Xôviết Ôxíp Manđenxtam đã gặp và phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc. Anh đã kể cho nhà thơ nghe về tình cảnh đen tối của đất nước và gia đình mình, về việc học tập, tiếp xúc với văn minh Pháp. Cuộc gặp gỡ đã để lại cho nhà thơ những ấn tượng sâu sắc. Nhà thơ nhận xét: “Đó là một thanh niên gầy gò, linh hoạt, mặc cái áo len đan”. Một người “đã đặt chân qua hầu hết các nước thuộc địa trên thế giới”. “Trong đôi mắt mở to, ứa lệ, anh nhìn về xa xăm”. “Tôi đã hình dung ra được một cách rất cụ thể... một dân tộc rất lịch thiệp và độ lượng, rất ghét những gì thái quá”. “Nguyễn Ái Quốc, cũng đang tỏa ra một cái gì lịch thiệp và tế nhị”. “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”2.
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 68-72.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 1, tr. 191.
70
Nguyễn Khắc Nho
“Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”1.
Bài báo của nhà thơ đã làm cho dư luận Liên Xô và bạn bè quốc tế chú ý đến người chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc, đến truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam và dự báo ý nghĩa của một nền văn hóa tương lai tỏa ra từ Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1941, Bác về nước và chọn nơi ở, làm việc đầu tiên là Pác Bó - từng ghi dấu biết bao kỷ niệm yêu thương của Người. Đồng chí Dương Đại Lâm kể lại: “Chúng tôi sơ suất không chú ý đến việc giữ gìn vệ sinh, chỗ nước ăn của Người và chỗ tắm của trâu bò lẫn lộn. Chúng tôi cùng Người bắt tay vào việc dọn dẹp, sửa sang. Xong rồi, Người gọi mấy người cùng khiêng một cái thuyền đập lúa ra chỗ khe nước, xắn tay áo cọ rửa sạch sẽ rồi vào đánh thức đám trẻ con dậy, bảo chúng xếp hàng tiến ra khe nước. Người cởi quần áo cho các cháu bé và lần lượt tắm rửa kỳ cọ cho từng đứa. Chúng vừa tắm vừa nô, bắn cả nước vào mặt Người... Người về đây như về lại gia đình, gặp gỡ con cháu, không nề hà bất cứ việc gì... Bà cố tôi cứ xuýt xoa thán phục mãi: “Ông già này thương người quá,
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 1, tr. 191.
71
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
chả biết vợ con ông ở đâu? Trong nhà mà có một người già như thế này thì thật là có phúc””1.
Đầu năm 1961, Bác trở lại Pác Bó. Đồng bào nơi đây biết tin ra đón Bác. Họ còn mang cả ngựa đến đón Bác và phái đoàn đi cho khỏi mệt, nhưng Bác từ chối không đi ngựa mà đi bộ. Khi Bác vừa đến Pác Bó, đồng bào già trẻ, gái trai chạy ùa ra vây quanh Bác. Bác nhìn mọi người và bảo: “Tôi về thăm nhà mà sao lại phải đón tôi”2. Đồng bào ai cũng cảm động rưng rưng nước mắt. Sau khi gặp gỡ thân tình với mọi người, Bác cùng ăn bữa cơm thân mật với đồng bào tại gia đình Đại Lâm. Bác bảo lấy chai rượu thuốc nhỏ của Bác hòa vào hũ rượu của anh Lâm để mọi người cùng uống. Bác bẻ nắm cơm mang theo sẵn, chia cho những người ngồi gần. Bác ngồi giữa mọi người với tình cảm đằm thắm, thiết tha, sâu nặng tình nghĩa của những người ruột thịt.
Sau đó, Bác ra thăm lại hang Pác Bó năm xưa. Xúc động trong chuyến hành hương, Người đọc bốn câu thơ: “Hai mươi năm trước nơi này,
Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây.
Lãnh đạo toàn dân ta chiến đấu,
Non sông gấm vóc có ngày nay”3.
1. Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký), Sđd, t. 1, tr. 392-393. 2, 3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 8, tr. 24, 24-25.
72
Nguyễn Khắc Nho
Đồng chí Vũ Kỳ kể lại vào những đêm giao thừa, Bác thường đến với người nghèo. Mùa Xuân độc lập đầu tiên - Xuân Bính Tuất năm 1946, Chủ tịch nước đã đến các ngõ hẻm ở phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng... để được tận mắt nhìn thấy cảnh Tết vừa, Tết nghèo của bà con lao động Hà Nội. Bác đã chứng kiến cảnh gia đình một người đạp xích lô “Tết mà không có Tết”, vì chỉ có một nén hương đang cháy dở trên bàn, chủ nhà đang đắp chiếu nằm mê mệt vì ốm. Bác đã xúc động lấy khăn lau nước mắt, lặng lẽ bước ra khỏi nhà, bảo đồng chí thư ký ghi lại địa chỉ để hôm sau báo cáo cho đồng chí Chủ tịch Hà Nội biết1.
Tối 30 Tết năm 1960, Bác đến thăm gia đình mẹ con chị Tín, một lao động nghèo ở phố Hàng Chĩnh, Hà Nội. Gần đến giao thừa rồi mà chị Tín vẫn phải đi gánh nước thuê đổi gạo để sáng mai mùng một Tết có cơm ăn cho bốn đứa con của mình. Gặp Bác, chị Tín xúc động để rơi cả đôi thùng gánh nước xuống đất, run run cầm lấy bàn tay của Bác: “Cháu không ngờ lại được Bác đến thăm...”. Chỉ nói được vậy, chị đã òa lên khóc nức nở. Bác đã an ủi chị: “Bác không đến thăm những gia đình như cô thì thăm ai...”. Bác vào nhà, gọi là nhà nhưng thực tế là một cái chái như một túp lều. Chồng chị Tín là công nhân khuân vác đã mất cách đó bốn năm. Trên bàn gỗ mục chỉ có một nải chuối xanh và một nén hương. Bốn đứa nhỏ, đứa lớn nhất mới lên 10 tuổi...
1. Xem Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Sđd, tr. 86.
73
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Đêm hôm ấy, trên đường về, Bác trầm ngâm suy nghĩ, vẻ đăm chiêu. Về đến nhà, Bác kể lại hoàn cảnh gia đình chị Tín cho các đồng chí Bộ Chính trị và mọi người nghe. Cuối câu chuyện Bác nói: “Ta có chính quyền trong tay, nhưng chính quyền đó chưa thực sự là do dân, vì dân. Một số lãnh đạo các địa phương còn quan liêu và nặng về hình thức. Họ không chịu đi sâu, đi sát quần chúng, nên phục vụ quần chúng chưa tốt...”1.
Đồng chí Vũ Kỳ kể tiếp: Tết Dương lịch năm 1946, nữ thi sĩ Hằng Phương đã mua một chục quả cam Giàng, loại cam quý ở Thanh Hóa, mang về Hà Nội biếu Cụ Hồ. Đến Bắc Bộ Phủ, chị mạnh dạn nói với đồng chí đón tiếp: “Thưa ông, tôi vừa mới đi xa về, có mua được mấy quả cam tôi xin kính dâng lên Cụ Chủ tịch. Kèm theo tôi có gửi tặng Cụ một bài thơ. Tôi nhờ ông chuyển món quà nhỏ này của tôi tới Cụ”. Đồng chí cán bộ nói Cụ Chủ tịch đang làm việc ở phòng bên, chị vui lòng chờ một lát. Vì không dám làm mất nhiều thì giờ của Cụ, chị chào người cán bộ rồi ra về.
Thế rồi chỉ vài ngày sau, có người bạn vui mừng mang tặng thi sĩ một tờ báo có dòng chữ: “Thơ của Hồ Chủ tịch trả lời bà Hằng Phương”. “Bà Hằng Phương gửi biếu tôi một gói cam, kèm theo một bài thơ. Vì bà không viết chỗ ở, tôi không biết gửi thơ cảm ơn đến đâu. Nên tôi nhờ báo Tiếng gọi phụ nữ đăng mấy lời cảm tạ của tôi như sau:
1. Xem Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Sđd, tr. 87-89. 74
Nguyễn Khắc Nho
“Cảm ơn bà biếu gói cam,
Nhận thì không đúng, từ làm sao đây!
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai?”.
“Nữ thi sĩ cầm tờ báo áp vào lòng. Những giọt nước mắt trào ra. Chị cất tờ báo cẩn thận như một kỷ vật thiêng liêng suốt cả chặng đường dài 9 năm kháng chiến, cho đến ngày nữ thi sĩ qua đời”1.
Mùa Thu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pháp về nước bằng đường tàu biển. Về đến Hải Phòng, đoàn xe đưa Bác tạm nghỉ ở một trường học phố Ngõ Nghè, gần nhà ông già Thuyết. Ông Thuyết bị mù hai mắt, hồi trẻ làm thủy thủ trên tàu nước ngoài. Ông Thuyết rất sung sướng, gọi đứa cháu nhỏ đưa ông sang gặp Bác Hồ và nói rõ ràng: “Ông là bạn thân ngày trước với Hồ Chủ tịch”. Ông còn mặc bộ quần áo dạ vì ngày xưa ở Pari với Bác Hồ, ông thường mặc bộ quần áo này.
Đến cửa trường, cháu bé rụt rè, anh bộ đội gác lúc đầu không cho hai ông cháu vào. Nhưng nhìn vẻ mặt ông già hiền hậu và thái độ kiên quyết của ông bèn bảo hai ông cháu chờ để vào báo cáo. Lát sau, anh bộ đội chạy ra bảo cháu bé dắt ông già vào gặp Hồ Chủ tịch. Thấy hai ông cháu vào, Bác bước nhanh tới nắm chặt lấy bàn tay ông già Thuyết và thân mật hỏi: “Anh Thuyết đấy à? Lâu lắm chúng ta mới lại được gặp nhau!”. Ông già Thuyết
1. Xem Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Sđd, tr. 414-415. 75
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
cảm động quá, miệng lắp bắp: “Hồ Chủ...” Nhưng Hồ Chủ tịch ngắt lời ông rồi nói: “Đừng xưng hô như thế! Cứ gọi tôi là Ba như ngày trước”. Rồi Người xoa đầu cháu bé và ân cần dắt ông già Thuyết về phòng nghỉ của mình1.
Cuối năm 1945, Bác cử đồng chí Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Bộ Lao động làm đặc phái viên của Chính phủ đi vào Nam. Vua Thành Thái (1889-1907) và con trai là vua Duy Tân (1907-1916) là những ông vua có tinh thần yêu nước chống thực dân Pháp, đều bị truất ngôi và bắt đi đày ở châu Phi. Hai bà vợ vua là những bà Hoàng nhân hậu đã giúp đỡ gia đình Bác lúc rất khó khăn ở Huế. Ngoài công việc chung, Bác dặn riêng đồng chí Lê Văn Hiến tìm gặp hai bà Hoàng quả phụ vua Thành Thái và vua Duy Tân, chuyển lời chúc năm mới, thăm hỏi sức khỏe. Nhân danh Chính phủ nước Việt Nam mới, Bác đề nghị cấp cho mỗi bà một khoản tiền 500 đồng Đông Dương hằng tháng. Hai bà Thành Thái và Duy Tân lúc đó ở chùa, gặp đại diện Chính phủ, hai bà hết sức bối rối, cảm động ứa nước mắt và nói:
- “Khi Hoàng đế bị đi đày, không ai có lấy một lời hỏi thăm tôi. Họ sợ tôi như sợ con bệnh hủi, sợ liên lụy. Mấy chục năm nay tôi sống thui thủi, trông vào sự may rủi của số phận. Cách mạng mới lên tôi càng rất lo, không biết sẽ còn gì xảy ra với chúng tôi nữa. Tôi không thể ngờ
1. Xem Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Sđd, tr. 418-419. 76
Nguyễn Khắc Nho
rằng lại còn được ông Bộ trưởng thay mặt Chính phủ đến thăm hỏi, an ủi và còn trợ cấp cho chúng tôi”. Bà Thành Thái nhờ Bộ trưởng dâng lên Cụ Hồ Chí Minh bản tụng kinh hằng ngày. Cuối bản kinh có câu “Kính chúc Hoàng triều vạn vạn tuế”, từ nay trở đi bà sẽ bỏ câu này và thay vào đó bằng câu “Kính chúc Hồ Chủ tịch vạn vạn tuế”.
Bà Duy Tân vô cùng xúc động, cầm lấy tay đồng chí Lê Văn Hiến khóc mãi:
- “Tôi xúc động quá, không biết nói thế nào để cảm ơn tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tôi. Từ khi anh Duy Tân ra đi, chúng tôi trở thành một người lạc lõng, ghẻ lạnh, không một ai hỏi han, thăm nom đến chúng tôi. Tôi không thể tưởng tượng được có ngày hôm nay. Cầu trời cho cụ Chủ tịch mạnh khỏe sống lâu mang hạnh phúc cho toàn dân”1.
Trong bài báo “Vị Đại tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam” (đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 25/8/2001), Thượng tướng Phùng Thế Tài đã kể lại buổi lễ phong quân hàm đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp năm 1948: Bác và cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội đứng hai bên bàn thờ Tổ quốc, các thành viên Chính phủ đứng xếp hàng ở phía trước. Bác gọi đồng chí Võ Nguyên Giáp ra đứng bên cạnh. Bác giao bản sắc lệnh cho đồng chí Võ Nguyên Giáp và nói: “Nhân
1. Xem Kể chuyện Bác Hồ, Sđd, t. 1, tr. 271-272.
77
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ làm tròn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho”1.
Sau buổi lễ, Người tâm sự với mọi người: “Các cụ ta qua bao thế hệ chiến đấu cho độc lập mà không thành, nhắm mắt mà chưa thấy được dân tộc tự do... Hôm nay việc phong tướng cho chú Giáp là kết quả của bao nhiêu hy sinh, chiến đấu của đồng bào, đồng chí. Chúng ta phải cố gắng, phải quyết giành được độc lập, tự do cho thỏa lòng những người đã mất”2.
Đến mùa luyện quân năm 1949, ở chân đèo Khế, bà mế người Cao Lan đã hót hết số gạo trắng lẫn cùng đất sỏi, do bộ đội vô ý để tuột rơi xuống đường, bọc vào chiếc khăn đội đầu rồi đến nhà chủ tịch xã yêu cầu phải mang bọc gạo ấy đến tay Cụ Hồ.
Chủ tịch xã đã nhờ cảnh vệ chuyển đến tay Bác. Ít lâu sau, Bác tìm người dẫn mình đến nhà chủ tịch xã. Chủ tịch xã hết sức cảm động và luống cuống. Bác nói vui: “Chủ tịch gặp chủ tịch có gì lạ đâu”. Sau khi tìm hiểu cặn kẽ, Bác nói: “Chú đã làm được một việc tốt: Kịp thời phản ánh nguyện vọng của Nhân dân lên Chính phủ. Làm đày tớ Nhân dân là phải chu đáo như vậy”.
Bác đã cùng chủ tịch xã tới thăm nhà bà mế. Sau khi hỏi chuyện sức khỏe, chuyện làm ăn, Bác trân trọng trả lại chiếc khăn chàm và nói:
1, 2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 4, tr. 159, 159.
78