🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phê Bình Văn Học, Nghệ Thuật Ở Việt Nam Hiện Nay - Thực Trạng Và Định Hướng Phát Triển
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:
TS. LÊ HỒNG SƠN
TS. HOÀNG MẠNH THẮNG NGUYỄN THỊ MINH HƯỜNG VŨ THỊ HỒNG THỊNH
PHAN THỊ HƯƠNG GIANG PHẠM THỊ NGỌC AN
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU ĐƯỜNG HỒNG MAI
NGUYỄN QUỲNH LAN PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT HƯƠNG GIANG
HỒNG THỊNH
VIỆT HÀ
Giấy đăng ký xuất bản số: 1459-2021/CXBIPH/17-12/CTQG. Quyết định xuất bản số: 312-QĐ/NXBCTQG, ngày 11/5/2021. Mã số ISBN: 978-604-57-6790-0.
Nộp lưu chiểu tháng 5 năm 2021
CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
PGS.TS. NGUYỄN THẾ KỶ
PHẠM CHÍ THÀNH
TỔ CHỨC BẢN THẢO
PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG TS. NGUYỄN THỊ TỐ NINH
TS. ĐINH VĂN THUẦN
ThS. NGUYỄN THẾ BẮC
TS. LÊ HỒNG SƠN
NGUYỄN THỊ MINH HƯỜNG
PHAN THỊ HƯƠNG GIANG
VŨ THỊ HỒNG THỊNH
PHẠM THỊ NGỌC AN
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Phê bình văn học, nghệ thuật là lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn học, nghệ thuật nói riêng, sự phát triển xã hội nói chung. Trong những năm qua, hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật đã phát huy vai trò định hướng giá trị xã hội, định hướng sáng tác, là cầu nối giữa sáng tạo và tiếp nhận, tác động sâu sắc đến thị hiếu của công chúng văn nghệ. Các cây bút phê bình luôn đồng hành cùng hoạt động sáng tác, phân tích, đánh giá những giá trị tư tưởng và thẩm mỹ của tác phẩm; dự báo, cổ vũ những xu hướng phát triển lành mạnh, đúng đắn, đồng thời cảnh báo, đấu tranh với các xu hướng, quan điểm sai trái, cực đoan trong đời sống văn học, nghệ thuật, góp phần bảo vệ, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh những dấu ấn, thành tựu cũng tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém trong công tác phê bình văn học, nghệ thuật. Sự thiếu hụt đội ngũ phê bình chuyên nghiệp, công tác đào tạo gặp nhiều khó khăn; môi trường sinh hoạt phê bình thiếu tinh thần khoa học, tranh luận và đối thoại, xuất hiện nhiều bài phê bình cảm tính, không có sức thuyết phục, khen chê dễ dãi, “dĩ hòa vi quý”... Những biểu hiện trên đang làm nhiễu loạn các giá trị thẩm mỹ, nhân văn, gây ra nguy cơ lệch chuẩn trong đời sống văn nghệ.
Trước đòi hỏi của tình hình thực tiễn, được sự đồng ý của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học toàn quốc với chủ đề: Vai trò định hướng
5
của phê bình trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật hiện nay.
Từ kết quả Hội thảo, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tuyển chọn hơn 50 bài tham luận để xuất bản cuốn sách Phê bình văn học, nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và định hướng phát triển. Các bài viết được tập hợp theo bố cục từng phần, từng chủ đề và sắp xếp theo thứ tự A, B, C tên tác giả.
Với những phân tích cụ thể, sâu sắc, các tác giả đã đề cập đến bức tranh chung của đời sống phê bình văn học, nghệ thuật Việt Nam những năm qua và đi sâu đánh giá thực trạng hoạt động phê bình trong từng lĩnh vực như văn học, âm nhạc, điện ảnh, múa, nhiếp ảnh, mỹ thuật..., nêu lên những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến thành tựu và hạn chế, đồng thời đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật trong thời gian tới.
Những bài viết trong cuốn sách là tiếng nói tâm huyết, đầy trách nhiệm của các nhà nghiên cứu, quản lý, các văn nghệ sĩ, cung cấp những cơ sở khoa học, tư liệu quý giá để các cấp, các ngành và công chúng có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về công tác phê bình văn học, nghệ thuật, từ đó có những chính sách, hành động thiết thực thúc đẩy phê bình văn học, nghệ thuật đổi mới mạnh mẽ, tích cực, khẳng định vai trò định hướng trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật, góp phần dựng xây nền văn hóa dân tộc trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
HƯỚNG TỚI MỘT NỀN PHÊ BÌNH VĂN HỌC,
NGHỆ THUẬT KHOA HỌC, DÂN CHỦ, NHÂN VĂN, ĐỒNG HÀNH CÙNG VĂN NGHỆ SĨ TRONG SÁNG TẠO*
VÕ VĂN THƯỞNG
Kính thưa các vị đại biểu,
Thưa các nhà khoa học và các đồng chí,
Hôm nay, tôi rất vui mừng được đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc với chủ đề Vai trò định hướng của phê bình trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật hiện nay do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức. Thay mặt Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng, tôi trân trọng gửi tới quý vị đại biểu, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, anh chị em văn nghệ sĩ và lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc lời chúc mạnh khỏe, hạnh phúc, phấn đấu đạt nhiều thành tựu mới trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật!
_____________
* Phát biểu của đồng chí Võ Văn Thưởng - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương tại Hội thảo khoa học toàn quốc Vai trò định hướng của phê bình trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật hiện nay, tổ chức tại Vĩnh Phúc ngày 05/12/2019.
7
Kính thưa các vị đại biểu,
Thưa các nhà khoa học và các đồng chí,
Như chúng ta đã biết, phê bình là một lĩnh vực, một bộ môn có vai trò rất quan trọng trong sự vận động, phát triển của văn nghệ nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Có thể xem phê bình văn học, nghệ thuật là “cánh chim song đôi”, là người bạn đồng hành để thấu hiểu, đồng cảm, góp phần điều chỉnh, định hướng cho sáng tác. Đồng thời, phê bình cũng là cầu nối giữa sáng tạo và tiếp nhận, tác động sâu sắc đến sự lựa chọn thẩm mỹ của công chúng văn nghệ. Trải qua lịch sử hình thành và phát triển với nhiều bước thăng trầm, phê bình văn học, nghệ thuật hiện đại Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu và dấu ấn, tác động tích cực đến hoạt động sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, đến thị hiếu, nhu cầu và trình độ thẩm mỹ của công chúng, đến công tác lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn nghệ yêu nước và nhân văn, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ khi thành lập Đảng đến nay, Đảng ta luôn quan tâm và tạo điều kiện cho sự phát triển lĩnh vực đặc thù này. Bước vào thời kỳ Đổi mới, ngay sau khi có Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI vào năm 1987, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 52-CT/TW, ngày 08/6/1989 Về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học, nghệ
thuật. Từ đây, trong nghị quyết của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc và các nghị quyết chuyên đề về văn hóa,
8
văn nghệ, như Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X, và gần đây nhất là Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định: phát triển phê bình là một trong những giải pháp trọng tâm để
thúc đẩy sự phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong quá trình triển khai thực hiện các nghị quyết quan trọng đó, nhiều vấn đề của thực tiễn hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật đã và đang đặt ra, đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu và tìm lời giải đáp. Tôi hoan nghênh Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã lựa chọn chủ đề rất cần thiết này để
tổ chức hội thảo. Đây là dịp để các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, phê bình, anh chị em văn nghệ sĩ cùng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có dịp cùng nhau bàn thảo, phân tích, làm rõ thực trạng cùng nguyên nhân, từ đó đề ra những giải pháp thiết thực, hiệu quả để thúc đẩy sự phát triển của phê bình văn học, nghệ thuật, đáp ứng yêu cầu phát triển nền văn nghệ của chúng ta trong tình hình mới.
Tôi vui mừng được biết, trong điều kiện đời sống văn học, nghệ thuật không ngừng vận động, biến đổi với nhiều xu hướng, trường phái cùng tồn tại; với sự tiếp xúc, giao lưu ngày càng sâu rộng, công tác phê bình đã góp phần phát hiện, định hướng, giới thiệu đến công chúng những giá trị văn học, nghệ thuật mới cả ở trong nước và nước ngoài. Trước những nỗ lực cách tân về nội dung, hình thức nghệ thuật, phê bình ít nhiều đã giữ được vai trò là “con mắt xanh”, kịp thời khích lệ những tìm tòi, sáng tạo và củng cố niềm tin,
9
cổ vũ dũng khí đổi mới ở người sáng tác. Nhìn một cách tổng thể, phê bình văn học, nghệ thuật đã từng bước khắc phục được lối phê bình xã hội học dung tục, võ đoán, quy chụp, góp phần định hướng sáng tác và tiếp nhận của công chúng; giúp những người lãnh đạo và quản lý có cái nhìn toàn diện, đúng đắn hơn về các hiện tượng văn học, nghệ thuật.
Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng công tác phê bình văn học, nghệ thuật thời gian qua, chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, so với thực tiễn sáng tác rất sôi động, đa dạng, phong phú, thậm chí phức tạp hiện nay, phê bình đang có vẻ trầm lắng, chưa phát huy hết vai trò và sức mạnh của mình. Trong khi những bất cập và hạn chế từ lâu còn tích tụ chưa được giải quyết thì thực tiễn lại đang xuất hiện những vấn đề mới, phức tạp, khiến chúng ta không khỏi lo lắng. Sự thiếu hụt về đội ngũ, nhất là ở các lĩnh vực nghệ thuật như Âm nhạc, Múa, Điện ảnh, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh,... diễn ra từ nhiều năm qua, đã được chỉ ra, nhưng các giải pháp khắc phục chưa thật sự hiệu quả. Ở một số diễn đàn, đã xuất hiện không ít những bài viết cảm tính, thiếu cơ sở khoa học, khen chê dễ dãi, thậm chí chịu tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, chẳng những không định hướng được sáng tác và tiếp nhận, mà còn làm tăng nguy cơ lệch chuẩn, loạn chuẩn giá trị trong đời sống văn nghệ. Môi trường sinh hoạt phê bình thiếu vắng tinh thần khoa học, tranh luận và đối thoại, vốn là một trong những đặc trưng bản chất của phê bình. Trước hàng loạt sự kiện, hiện tượng nóng bỏng xuất hiện trong đời sống văn học, nghệ thuật, thì nhiều khi phê bình còn
10
lúng túng, thiếu nhạy bén chính trị và nghệ thuật, chưa phản ứng kịp thời, thậm chí còn mơ hồ trong nhận định, đánh giá và lý giải, những biểu hiện đó khiến phê bình đang phải đối diện với nguy cơ hiện hữu là sự “quay lưng” của giới sáng tác và công chúng văn nghệ.
Thưa các đồng chí,
Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, nền văn học, nghệ thuật nước nhà đang đứng trước những cơ hội to lớn và cả những thách thức gay gắt trong quá trình phát triển, đã và đang đặt ra cho phê bình văn nghệ những yêu cầu mới. Nhiệm vụ nâng cao tính lý luận, trình độ
khoa học, trình độ thẩm mỹ, vốn hiểu biết thực tiễn sáng tác và thực tiễn cuộc sống nhằm đưa phê bình văn nghệ phát triển mạnh mẽ, đồng thời “kiên quyết khắc phục những yếu kém kéo dài của hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật” như Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X đã nhấn mạnh là rất cấp thiết.
Để nâng cao chất lượng phê bình văn học, nghệ thuật, chắc chắn không thể không bắt đầu từ việc xây dựng đội ngũ các nhà phê bình chuyên nghiệp. Phê bình văn học, nghệ thuật là công việc khó khăn, nhọc nhằn, đòi hỏi người làm nghề phải hội tụ, kết tinh được cả tư duy khoa học và nghệ thuật, trí tuệ và cảm xúc, thật sự nhạy bén và có bản lĩnh chính trị vững vàng để nhận diện, đánh giá đúng và trúng những vấn đề đang diễn ra và dự báo xu hướng vận động trong đời sống văn nghệ. Vì vậy, các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu đang gánh vác trách nhiệm đào tạo,
11
bồi dưỡng đội ngũ các nhà phê bình cần đặt mục tiêu từng bước tiệm cận với trình độ của thế giới và phải giữ vững bản sắc riêng, lấy đó làm cơ sở, phương hướng để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình, giáo trình và hoạt động giảng dạy, học tập. Tôi biết những năm gần đây, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương theo nhiệm vụ được giao đã liên tục mở các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ lý luận, phê bình cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và hoạt động văn học, nghệ thuật ở nhiều địa phương, nhưng chỉ như vậy thôi thì chưa đủ, không thể thay thế hoạt động đào tạo ở các nhà trường và các viện nghiên cứu.
Chúng ta cần thực hiện tốt hơn nữa yêu cầu tự do sáng tác phải gắn liền với tự do phê bình. Cần củng cố và phát huy không khí phê bình lành mạnh, dựa trên tinh thần tôn trọng khác biệt và đối thoại, tranh luận dân chủ, khách quan, trung thực về mọi vấn đề đặt ra trong đời sống văn nghệ. Kiên quyết khắc phục lối phê bình dung tục, cực đoan, quy chụp, nhưng đồng thời cũng cần khẩn trương ngăn chặn tình trạng nể nang, né tránh, khen chê cảm tính, hời hợt trong phê bình. Xuất phát từ tính chất đặc thù của công việc phê bình văn học, nghệ thuật, chúng ta mong đợi và đòi hỏi cao nhưng không khắt khe, định kiến, mà cần bao dung, kiên nhẫn, ngay cả với thất bại của một số cây bút viết phê bình, nhất là với những nhà phê bình trẻ.
Tôi được biết, một số trường đại học đào tạo chuyên ngành lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật và khoa học xã hội nhân văn đang rất khó khăn, thậm chí “đầu vào” trống vắng so với nhiều ngành nghề khác. Trong khi đó, “đầu ra”
12
cho công việc và chế độ đãi ngộ lại hết sức eo hẹp, không tương xứng với lao động nghề nghiệp của các nhà phê bình. Cho đến nay, chắc không còn mấy người có thể sống thuần túy bằng nghề viết phê bình văn học, nghệ thuật. Đó là sự thật mà chúng ta buộc phải đối diện, không thể né tránh. Tại Hội thảo này, tôi đề nghị các cơ quan chức năng tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, tư vấn giúp Đảng, Nhà nước có những biện pháp phù hợp, hiệu quả để tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật nói chung, và đội ngũ làm công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật nói riêng.
Thưa các đồng chí,
Để góp phần chấn hưng phê bình văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện nay, một nhiệm vụ cần đặc biệt quan tâm là sớm hoàn thành việc xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam hiện đại, khoa học, đủ sức giải đáp những vấn đề
đặt ra trong thực tiễn như Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X và các văn kiện quan trọng của Đảng đã đề ra. Với quan điểm rộng mở trong giao lưu và hội nhập, trong thời gian vừa qua, hầu hết các lý thuyết văn nghệ nước ngoài đã được giới thiệu, tiếp nhận và vận dụng ở nước ta với các mức độ khác nhau. Những nỗ lực đó đã mang đến bức tranh sinh động về lý thuyết, nhưng ở chiều ngược lại, việc tiếp thu có phần vội vàng, chưa thực sự hệ thống, cẩn trọng, kỹ lưỡng trên tinh thần đối thoại, đã khiến cho tư duy lý luận chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra của đời sống văn nghệ. Những vấn đề
cốt lõi của lý luận, như mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính
13
hiện đại, giữa văn nghệ và chính trị, giữa văn nghệ và hiện thực, giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, giữa hoạt động sáng tạo và tiếp nhận,... khi được kiến giải thấu đáo sẽ tạo cơ sở, tiền đề và là nguồn sinh lực mới cho hoạt động phê bình.
Trong khi chờ đợi những bước chuyển về cơ chế, chính sách và điều kiện làm nghề, tôi mong rằng các nhà phê bình hãy tiếp tục nuôi dưỡng và truyền giữ ngọn lửa đam mê sáng tạo, phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân của mình để từng bước góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng của phê bình văn học, nghệ thuật. Nhiệm vụ nặng nề ấy đòi hỏi các nhà phê bình cần tiếp tục dấn thân, am hiểu sâu sắc hơn nữa thực tiễn đời sống sáng tác đang vận động nhanh chóng. Hơn bao giờ hết, mỗi văn nghệ sĩ cần nêu cao ý thức trau dồi bản lĩnh chính trị, đề cao dũng khí bảo vệ chân lý, bảo vệ cái đúng, cái hay, cái đẹp, kiên quyết đấu tranh, phê phán những biểu hiện lệch lạc, sai trái trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật như: phủ nhận thành tựu văn nghệ cách mạng, đòi thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, đề cao và cổ xúy những khuynh hướng sáng tạo không phù hợp với thực tiễn hiện nay và truyền thống văn hóa dân tộc. Thực hiện tốt nhiệm vụ đó, văn nghệ sĩ thực sự góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh), bảo vệ và phát triển mỹ học mácxít với tinh thần khoa học và thuyết phục. Do vậy, việc không ngừng nâng cao tri thức, đổi mới tư duy, mở rộng tầm nhìn, làm chủ các phương pháp phê bình hiện đại phải được đặt ra thành yêu cầu thường trực với mỗi nhà phê bình hiện nay.
14
Thưa các vị đại biểu,
Thưa các nhà khoa học và các đồng chí,
Mặc dù những khó khăn, thách thức cả trước mắt và lâu dài là không nhỏ, nhưng tôi tin rằng, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước và nhất là tâm huyết, khát vọng chung của giới văn nghệ hướng tới một nền phê bình văn học, nghệ thuật lành mạnh, khoa học, dân chủ, nhân văn, đủ sức đồng hành cùng nhau và được sự tin cậy của công chúng tiếp nhận, sẽ chính là nguồn sức mạnh, là cơ sở để chúng ta vượt lên khó khăn, thực hiện tốt sứ mệnh nghề nghiệp của mình, đạt những thành tựu mới.
Với tinh thần đó, chúng ta hy vọng được đón nhận bước phát triển mới của hoạt động phê bình văn nghệ, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!
Xin trân trọng cảm ơn!
15
VAI TRÒ CỦA PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ XÃ HỘI, ĐỊNH HƯỚNG SÁNG TÁC VÀ TIẾP NHẬN THẨM MỸ HIỆN NAY*
PGS.TS. NGUYỄN THẾ KỶ
Kính thưa đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Kính thưa quý vị đại biểu! Thưa các đồng chí,
Thực hiện chương trình hoạt động toàn khóa và kế hoạch công tác năm 2019, được sự đồng ý của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương, hôm nay, tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương phối hợp với Tỉnh ủy Vĩnh Phúc tổ chức Hội thảo khoa học toàn quốc với chủ đề Vai trò định hướng của phê bình trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật hiện nay. Thay mặt Thường trực Hội đồng và Ban Tổ chức Hội thảo, tôi nhiệt liệt
_____________
* Phát biểu khai mạc Hội thảo của PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.
16
chào mừng và trân trọng cảm ơn đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; các đồng chí đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc; các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình và văn nghệ sĩ trong cả nước đã về dự cuộc Hội thảo quan trọng này.
Kính thưa quý vị đại biểu và các đồng chí,
Phê bình văn học, nghệ thuật là lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn học, nghệ thuật nói riêng, sự phát triển của xã hội nói chung. Dù có thể còn có những cách hiểu, quan niệm khác nhau về những vấn đề cụ thể nhưng giới nghiên cứu cơ bản đã thống nhất, xem phê bình là một bộ môn khoa học đặc thù, có tác dụng đồng hành, điều chỉnh, hỗ trợ sáng tác và định hướng tiếp nhận thẩm mỹ. Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy, phê bình luôn là nhân tố cần phải được đặc biệt quan tâm và tập trung phát triển. Trong suốt chặng đường lịch sử từ khi thành lập Đảng đến nay, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm, chỉ đạo phát triển phê bình văn học, nghệ thuật như là một trong những trụ cột quan trọng cho sự phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, bên cạnh những kết quả, thành tựu đã đạt được, phê bình văn học, nghệ thuật cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, nhất là việc nhận diện, định hướng hoạt động thực tiễn và hoạt động sáng tạo; tình trạng ngại đụng chạm đến những vấn đề lớn, những quan điểm khác lạ, sai trái, thiếu tính chiến đấu, tính khoa học diễn ra
17
ngày càng rõ hơn, đáng lo ngại hơn. Những điều này cần phải được nhìn nhận, phân tích, đánh giá, lý giải để tìm ra giải pháp phát triển lĩnh vực này trong thời gian tới.
Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học toàn quốc năm 2019 với mong muốn huy động được tâm sức, trí tuệ, trách nhiệm và sự đóng góp của giới nghiên cứu, phê bình văn học, nghệ thuật nhằm bổ sung hệ thống luận cứ khoa học và thực tiễn, từ đó tư vấn Đảng, Nhà nước tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo và có những quyết sách đúng đắn, kịp thời để phát huy vai trò định hướng của phê bình văn học, nghệ thuật trong hoạt động thực tiễn. Chủ đề của Hội thảo là sự tập hợp, tiếp thu ý kiến của các đồng chí ủy viên Hội đồng, của các nhà khoa học; được Ban Bí thư và Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương đồng tình và khích lệ. Đến thời điểm này, Ban Tổ chức đã nhận được hơn 70 bài tham luận, một con số rất có ý nghĩa, chứng tỏ chủ đề Hội thảo đã nhận được sự quan tâm, hưởng ứng của đông đảo các nhà khoa học và văn nghệ sĩ cả nước.
Để Hội thảo đạt được kết quả thiết thực, thay mặt Ban Chỉ đạo và Ban Tổ chức, tôi xin nhấn mạnh một số vấn đề căn cốt, trọng tâm, mong muốn các nhà khoa học, các đại biểu tập trung bàn luận:
1. Nhận diện, đánh giá và lý giải thực trạng phê bình nói chung và ở từng loại hình văn học, nghệ thuật cụ thể, trên các phương diện cơ bản: tình hình đội ngũ, chất lượng chuyên môn, các khuynh hướng chính và những vấn đề đặt ra trong thực tiễn hiện nay. Trên cơ sở nắm bắt chính xác thực trạng, đề nghị các đồng chí và quý vị tập trung vào vấn đề trọng
18
tâm, nhận được sự quan tâm của phần lớn các tham luận, đó là đánh giá vai trò của phê bình văn học, nghệ thuật trong hoạt động thực tiễn và hoạt động sáng tạo. Trong khuôn khổ của Hội thảo, chúng ta không bàn thêm, bàn sâu về những vấn đề lý luận đã cơ bản được thống nhất mà chú trọng đánh giá vai trò của phê bình hiện nay trong định hướng giá trị xã hội, định hướng tiếp nhận thẩm mỹ cho công chúng và định hướng đối với đội ngũ sáng tác.
2. Cùng với phân tích, đánh giá thực trạng, đề nghị các đồng chí và quý vị tập trung làm rõ các yếu tố tác động đến phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay, bao gồm cơ chế chính sách lãnh đạo, quản lý đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật nói chung và hoạt động phê bình nói riêng; thực trạng công bố, xuất bản, tuyên truyền, quảng bá; hệ thống giải thưởng, tặng thưởng và các cơ chế khuyến khích hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật; thực trạng, sức ảnh hưởng của thực tiễn sáng tác đến hoạt động phê bình; vai trò, tác động của các tổ chức văn hóa, khoa học, giáo dục, các tổ chức văn học, nghệ thuật đối với hoạt động phê bình hiện nay... Trên cơ sở đó, chúng ta cần nắm bắt những nguyên nhân cơ bản, cả khách quan và chủ quan dẫn đến thực trạng phê bình văn học, nghệ thuật nói chung, vấn đề vai trò định hướng đối với hoạt động thực tiễn và hoạt động sáng tạo nói riêng.
3. Trên cơ sở phân tích đúng và trúng thực trạng hiện nay, Hội thảo cần tập trung đưa ra những kiến nghị, giải pháp trọng tâm, đồng bộ và khả thi để thúc đẩy, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phê bình văn học, nghệ thuật, khắc phục những hạn chế, yếu kém kéo dài suốt nhiều năm qua trong lĩnh vực phê bình văn học, nghệ thuật. Qua thẩm
19
định bước đầu nội dung các tham luận gửi đến Hội thảo, Ban Tổ chức nhận thấy, không ít tham luận còn nặng về phần miêu tả thực trạng mà chưa chú ý đề cập hoặc đề cập chưa đậm nét nguyên nhân, giải pháp và các kiến nghị, nhất là tính mới, tính chiến đấu, tính khoa học. Tại Hội thảo này, Ban Tổ chức mong muốn các đại biểu tập trung lý giải, phân tích, đề xuất những kiến nghị, giải pháp vừa có tính căn cơ, vừa cụ thể, thiết thực nhằm thúc đẩy phát triển phê bình văn học, nghệ thuật thời gian tới, góp phần tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật nước nhà trong thời kỳ mới.
Kính thưa quý vị đại biểu và các đồng chí,
Hội thảo khoa học toàn quốc lần này là một trong những hoạt động chuyên môn trọng tâm được tổ chức trong năm 2019 của Hội đồng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được Ban Bí thư Trung ương Đảng, Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương giao. Hội thảo được tổ chức vào thời điểm rất có ý nghĩa, khi Đảng ta đang chỉ đạo tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới; tích cực chuẩn bị nội dung các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Vào dịp cuối năm bận rất nhiều công việc quan trọng, nhưng sự hiện diện của đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo
20
Trung ương và các đồng chí lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và tỉnh Vĩnh Phúc đã cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành, địa phương đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật nói chung, phê bình văn học, nghệ thuật nói riêng. Thay mặt Thường trực Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương và Ban Tổ chức Hội thảo, một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo và các nhà khoa học, các nhà quản lý và quý vị đại biểu. Tôi xin tuyên bố khai mạc Hội thảo khoa học toàn quốc với chủ đề: “Vai trò định hướng của phê bình trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật hiện nay”.
Kính chúc quý vị lãnh đạo, các vị đại biểu và tất cả các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc, thành công!
Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!
Xin trân trọng cảm ơn!
21
PHÊ BÌNH VỚI VAI TRÒ PHÁT HIỆN, CỔ VŨ VÀ KHẲNG ĐỊNH NHỮNG NHÂN TỐ MỚI, NHỮNG GIÁ TRỊ MỚI TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT*
PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG
Thưa quý vị đại biểu,
Được sự phân công của Thường trực Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, tôi xin trình bày Báo cáo đề dẫn Hội thảo Vai trò định hướng của phê bình trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật hiện nay với một số nội dung sau đây:
Khi mời viết tham luận, để mở rộng phạm vi, giới hạn chủ đề Hội thảo, Ban Tổ chức đã gợi ý một số nội dung hướng vào thực tiễn và thực trạng phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay để các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình, các văn nghệ sĩ và các nhà quản lý lãnh đạo văn học, nghệ thuật rộng đường tham vấn, trao đổi. Nhưng khi tập hợp tham luận, trên định hướng chung đó, hầu hết nội dung các tham luận đều gặp nhau ở chỗ ít nhiều đề cập đến vai trò _____________
* Báo cáo đề dẫn Hội thảo của PGS.TS. Phan Trọng Thưởng - Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.
22
của phê bình trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật. Chúng tôi cho điều đó có lý do từ thực tiễn. Nhìn vào đời sống văn học, nghệ thuật những năm gần đây dễ dàng nhận thấy sự mờ nhạt, thậm chí sự vắng bóng vai trò của phê bình. Trước các yêu cầu bức thiết của đời sống xã hội và văn học, nghệ thuật như: định hướng giá trị, định hướng thẩm mỹ, định hướng tiếp nhận, định hướng dư luận và định hướng sáng tạo... phê bình dường như im tiếng, rơi vào tình trạng bất lực, buông xuôi. Điều đó thêm lý do để Ban Tổ chức cân nhắc, lựa chọn tiêu đề Hội thảo là: Vai trò định hướng của phê bình trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật hiện nay.
Thực ra, đây là vấn đề không hoàn toàn mới, nhưng lại có ý nghĩa hết sức quan trọng, từng trở đi trở lại nhiều lần trong lịch sử phát triển văn học, nghệ thuật, được nhiều người quan tâm. Và bây giờ, lại đang được đặt ra như một yêu cầu khoa học khách quan, có tính cấp thiết.
Ngay từ năm 1989, khi “cánh cửa” đổi mới vừa mở, trước sự chuyển biến mau lẹ của đời sống xã hội và văn học, nghệ thuật, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 08/6/1989 Về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học, nghệ thuật, chỉ ra thực trạng và định hướng cho hoạt động phê bình thời kỳ đổi mới. Có lẽ đây là chỉ thị hiếm hoi về phê bình, thể hiện sự quan tâm kịp thời và sâu sát của Đảng tới lĩnh vực khá chuyên biệt này. Chỉ thị nêu rõ: “Phê bình văn học, nghệ thuật phản ánh thái độ và ý thức xã hội đối với các giá trị và các khuynh hướng văn học, nghệ thuật, phân tích, đánh giá, định hướng các hoạt động; đề cao ý nghĩa tư tưởng xã hội của văn học, nghệ thuật; tác
23
động tích cực đến hoạt động sáng tạo của văn nghệ sĩ; đến thị hiếu, nhu cầu và trình độ thẩm mỹ của nhân dân; đến công tác lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật”. Thực tiễn cho thấy nhờ sự định hướng này, hoạt động lý luận nói chung, phê bình nói riêng tuy diễn ra khá sôi nổi, bồng bột vào những năm đầu thời kỳ đổi mới nhưng không rơi vào tình trạng hoang mang, mất phương hướng. Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, phê bình tỏ ra là bộ phận nhạy cảm, nhạy bén và tinh tế trong việc phát hiện, cổ vũ và khẳng định những nhân tố mới, những giá trị mới hình thành trong đời sống xã hội và văn học. Đến nay, sau ba mươi năm kể từ khi ban hành Chỉ thị, thực tiễn xã hội và văn học, nghệ thuật đã trải qua một chặng đường dài, đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nghiên cứu lại Chỉ thị chúng ta thấy nhiều yêu cầu đặt ra, nhiều định hướng cho phê bình từ thời điểm đó, đến nay vẫn còn đúng, còn phù hợp và còn nguyên giá trị. Nhưng, hình như chỉ ngần ấy chưa đủ để phê bình phát huy hết vai trò của mình, tạo ra sức mạnh mới làm thay đổi căn bản cục diện phê bình. Bên cạnh thành tựu có vẻ khiêm tốn, vẫn còn đó các khuyết tật, non kém khiến cho phê bình không đảm đương được sứ mệnh của mình, lại luôn luôn mang tiếng là tụt hậu, “ăn theo” sáng tác, là nghiệp dư, là trầm lắng, là thiếu sức sống, là bỏ rơi trận địa, v.v..
Chắc nhiều người còn nhớ vào các năm 2003, 2004 và một số năm tiếp theo, hàng loạt cuộc hội thảo cấp quốc gia và quốc tế về phê bình do Viện Văn học, Hội Nhà văn Việt Nam và các trường đại học phối hợp tổ chức đã thu hút sự tham gia của giới nghiên cứu lý luận, phê bình, các văn nghệ sĩ và các nhà quản lý lãnh đạo văn học, nghệ thuật. Qua trao đổi,
24
tranh luận, hàng loạt vấn đề cơ bản xung quanh bản chất, đối tượng, chức năng của phê bình đã từng bước được minh định, làm rõ. Trong đó, có không ít vấn đề đã đạt được sự thống nhất trên một số tiêu chí lớn làm cơ sở cho nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, bình tĩnh nhìn nhận lại sẽ thấy sự thống nhất đó mới chỉ đạt được trên phương diện học thuật, từ cấp độ lý thuyết và tri thức hàn lâm thông qua các mệnh đề quen thuộc như: “phê bình vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật”, “phê bình là mỹ học vận động”, là “ý thức triết học”, là “trình độ học thức” của mỗi nền văn học, nghệ thuật... vốn được dẫn từ các nguồn nước ngoài. Còn trên phương diện thực tiễn hiện vẫn đang tồn tại không ít những bất cập, thậm chí khác biệt. Chẳng hạn về bản chất, có người cho phê bình là kết quả của tư duy lôgíc, của nhận thức lý tính (khoa học); có người cho phê bình là hoạt động chủ quan, cảm tính, là sự giải phóng xúc cảm cá nhân (nghệ thuật)...; do vậy không cần đến chuẩn mực, không tuân theo chuẩn mực, v.v.. Về đối tượng của phê bình cũng còn không ít những kiến giải khác nhau. Trong khi có người quả quyết rằng đối tượng của phê bình chỉ là tác giả, tác phẩm cụ thể, đương đại, là các hiện tượng đang diễn ra... thì không ít người khác lại cho rằng đối tượng của phê bình là toàn bộ những phương diện khác nhau của hoạt động sáng tạo, thưởng thức và đánh giá văn học, nghệ thuật. Ở đâu có nhu cầu thưởng thức, đánh giá thì ở đó có phê bình... Tương tự như vậy, về chức năng, có nơi, có lúc, có người cho phê bình là công cụ chuyên chính, là “ngọn roi”, là vũ khí... nhưng cũng không ít trường hợp phê bình được coi là tri âm tri kỷ, là bạn đồng hành của sáng tác; là “món ăn” tinh thần; là hoạt động
25
khám phá, sáng tạo và phát hiện; là cầu nối giữa nghệ sĩ và công chúng; là người thẩm định giá trị, hướng dẫn thị hiếu và dư luận...
Trước một thực trạng còn ngổn ngang như vậy thì từ một khía cạnh khác, không ít ý kiến cho rằng phê bình hiện nay đang rơi vào tình trạng loạn chuẩn, thiếu chuẩn và lệch chuẩn... Như vậy thì làm sao phê bình có thể đảm đương được vai trò định hướng của nó? Nhất là trong hoàn cảnh thực tiễn sáng tạo văn học, nghệ thuật của chúng ta, dưới các tác động có tính quy luật của nhiều yếu tố, đang không ngừng vận động và phát triển với nhiều khuynh hướng đa dạng, nhiều phẩm chất cách tân, nhiều tìm tòi phát hiện không chỉ mời gọi mà còn thách đố phê bình. Không thể phủ nhận được rằng, từ khi đổi mới và hội nhập, các lý thuyết nghệ thuật trên thế giới có cơ hội được phổ biến, tiếp thu và vận dụng rộng rãi ở Việt Nam, đang phát huy ảnh hưởng, tác động sâu sắc tới tư duy nghiên cứu, hoạt động sáng tạo, tiếp nhận và thưởng thức văn học, nghệ thuật trong đó có phê bình. Theo sự chỉ dẫn của lý thuyết, nhiều ý tưởng phê bình đã được thi triển nhưng đúng, sai, hay, dở, phù hợp hay không phù hợp... chưa được luận chứng rõ ràng. Có nhà nghiên cứu đã mô tả cảnh tượng lý thuyết ở ta hiện nay như một “bãi thử”, một thứ “chợ trời” khó phân định chân - giả.
Trên bình diện giá trị, tình hình cũng không mấy khả quan. Từ ngày hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, cơ chế thị trường được xác lập và vận hành, hệ giá trị đạo đức xã hội cũng như hệ giá trị tinh thần thẩm mỹ và văn học, nghệ thuật cũng thay đổi theo. Chưa bao giờ công chúng nghệ thuật lại bị phân hóa về thị hiếu sâu sắc như hiện nay.
26
Từ công chúng văn học đến sân khấu, điện ảnh, âm nhạc... chúng ta đều thấy một thực trạng đáng lo ngại. Song, hình như công chúng mới là người có quyền uy thực sự với nghệ thuật? Còn các nhà phê bình thì ít ai lên tiếng. Có chăng thì bị “ném đá”, chỉ trích nặng nề trên mạng xã hội. Trước một thực tiễn nghệ thuật như vậy, hơn lúc nào hết, vai trò của phê bình cần được xác định lại, được nhận thức rõ hơn và đề cao hơn. Thông qua sự phán xét của lý trí, sự rung động của khiếu cảm thụ, sự đồng điệu của tâm hồn và nhu cầu sẻ chia..., phê bình không chỉ đơn giản là phát hiện, khen chê, mà còn hướng tới chủ thể sáng tạo, tới công chúng tiếp nhận, tới chiều hướng vận động và phát triển của tiến trình văn học, nghệ thuật, tới mục tiêu hoàn thiện xã hội và cuộc sống. Trong bối cảnh đời sống xã hội và văn học đang cùng lúc tồn tại nhiều xu hướng, khuynh hướng tư tưởng nghệ thuật và thẩm mỹ khác nhau, trong đó không ít những biểu hiện cực đoan, sai trái, lệch lạc, những động cơ thiếu trung thực, đi ngược lại xu thế tiến bộ và nhân văn, đi ngược lại lợi ích của dân tộc và nhân dân thì tinh thần đối thoại, tính thuyết phục, bản lĩnh và tính chiến đấu của phê bình cần được trau dồi, củng cố và khích lệ.
Trước một lịch sử vấn đề có vẻ thiên về lý thuyết như trên vừa nói, tại Hội thảo này, chúng ta tạm gác sang một bên việc duy danh định nghĩa và giải thích các khái niệm về cơ bản đã thống nhất để tập trung vào những vấn đề của thực tiễn. Với dũng khí phê bình, trí tuệ tập thể và trách nhiệm cao trước Đảng và nhân dân, trước đời sống xã hội và văn học, nghệ thuật; giới nghiên cứu lý luận, phê bình và sáng tạo cần bám sát thực tiễn, đối mặt với thực trạng diễn ra ở từng lĩnh vực,
27
từng địa phương, từng vùng, chỉ ra các yếu tố tác động, đánh giá đúng thành tựu và hạn chế, phân tích rõ nguyên nhân. Xuất phát từ yêu cầu chủ quan và khách quan để xác định rõ vai trò định hướng của phê bình trong hoạt động thực tiễn và sáng tạo văn học, nghệ thuật. Đồng thời, đề xuất các kiến nghị, giải pháp khả thi thúc đẩy phê bình, xây dựng đội ngũ, nâng cao chất lượng chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội và văn học, nghệ thuật; từng bước thay đổi cục diện để phê bình đảm đương được vai trò và thiên chức của nó. Từ mục tiêu trên, hướng tiếp cận chủ yếu của chúng ta cần xác định là thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn nhưng như thế không có nghĩa là tách rời bản chất khoa học, bản chất lý thuyết của nó. Do đây là Hội thảo khoa học liên ngành, liên lĩnh vực cho nên một mặt chúng ta cần tôn trọng đặc trưng, đặc thù, tôn trọng sự khác biệt, nhưng mặt khác cần cầu thị trước chân lý, hướng đến tiếng nói chung có sức thuyết phục, có cơ sở khoa học và với thái độ điềm tĩnh.
Hy vọng kết quả Hội thảo này sẽ cung cấp thêm thông tin, củng cố thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, tạo luận cứ khoa học vững chắc để phát triển phê bình.
Thưa quý vị đại biểu! Với hơn 70 bản tham luận, thời gian giới hạn của Hội thảo chỉ có một buổi làm việc, sẽ khó có thể đáp ứng hết được yêu cầu trao đổi, thảo luận. Rất mong các đại biểu bám sát chủ đề Hội thảo, chủ động rút ngắn tham luận, tập trung vào những luận điểm chính, tôn trọng quy định về thời gian để tăng tính hấp dẫn và hiệu quả tham luận.
Xin kính chúc sức khỏe quý vị đại biểu! Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn.
28
Phần thứ nhất
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
29
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT VÀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ ĐỐI VỚI VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
LÊ CHƯƠNG
Phê bình văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp và nhạy cảm trong đời sống văn hóa, có tác động không nhỏ tới đời sống tinh thần của xã hội. Vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phê bình văn học, nghệ thuật là hết sức quan trọng.
1. Thực trạng và vai trò phê bình ở các loại hình văn học, nghệ thuật hiện nay
Chúng ta khẳng định rõ, vai trò của lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật là đặc biệt quan trọng. Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) đã nêu rõ: Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật phải làm tốt chức năng đồng hành và định hướng sáng tác; thông qua lý luận, phê bình để
trực tiếp tham gia quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị nghệ thuật và tư tưởng. Sáng tạo, lý luận và phê bình có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau. Có sáng tạo tức là có phê bình, có phê bình tức là có lý luận.
31
Lý luận càng chặt chẽ, thỏa đáng, thuyết phục thì những tác phẩm văn học, nghệ thuật của sự sáng tạo sẽ giảm bớt được yếu tố phê bình. Nhưng khi đã có phê bình tức là phải có lập luận để làm sáng tỏ những yếu tố phê bình đó và những tác phẩm văn học, nghệ thuật của sự sáng tạo ít nhiều sẽ có sự thay đổi. Điều này cho chúng ta thấy Sáng tác văn học, nghệ thuật - Lý luận - Phê bình không những là một tổ hợp có sự liên quan mật thiết mà còn không ngừng thay đổi. Tuy nhiên, trên thực tế có rất ít yếu tố phê bình đi ra từ cơ sở lý luận mà thay vào đó là những ý kiến chủ quan, những nhận định cá nhân từ một chiều. Với thói quen đưa ra nhận xét nhanh chóng về một vấn đề, có thể làm giảm đi “tinh thần” của sự sáng tạo, dẫn đến công tác lý luận, phê bình cũng bị bỏ ngỏ, dở dang. Như vậy có sự liên hệ gắn kết mật thiết giữa các loại hình văn học, nghệ thuật - lý luận - phê bình - sáng tác.
Phía sau của sự sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật bao giờ cũng có lĩnh vực lý luận và phê bình để nhằm đánh giá, nhìn nhận, xem xét, khen chê, mà tìm ra các giá trị, hướng đi mới để định hướng cho phát triển và sáng tác văn học, nghệ thuật. Một nhà lý luận, phê bình chuyên nghiệp cần phải được đào tạo, bồi dưỡng, có trình độ, tri thức, kiến văn và một quan niệm giá trị vững vàng. Việc đào tạo chính quy phải được xem là nền tảng vững chắc để hình thành tư cách nhà nghiên cứu, phê bình, cùng với đó là quá trình tự học, tự bồi dưỡng, tự trưởng thành qua thực tiễn văn chương của mỗi người. Bên cạnh chương trình đào tạo chính quy có hệ thống, các lớp tập huấn, bồi dưỡng của các hội chuyên ngành Trung ương, Liên hiệp các Hội Văn học,
32
nghệ thuật Việt Nam, các trại sáng tác, các lớp tập huấn nâng cao năng lực lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức, các diễn đàn trao đổi kinh nghiệm phê bình văn học đã mang lại nhiều hiệu quả. Chính vì vậy, lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật không phải là phong trào, thỉnh thoảng dấy lên, mà phải thường xuyên, mài giũa để trở thành lĩnh vực học thuật thông qua phản biện xã hội mang tính chuyên nghiệp. Nó đòi hỏi người viết lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật phải có tâm sáng, uyên thâm trong học thuật, lý luận sắc bén được kết hợp với thực tiễn. Có như vậy lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật mới tìm được chỗ đứng trong tiến trình phát triển văn học, nghệ thuật của dân tộc. Thành tựu của lý luận, phê bình về văn học, nghệ thuật mang tính toàn cầu hóa. Lý luận, phê bình được hình thành qua các trường phái, trào lưu văn học, nghệ thuật và xâm nhập vào các quốc gia. Có thể kể qua các trào lưu, trường phái lý luận, phê bình nở rộ qua từng thời kỳ và ảnh hưởng đến lý luận, phê bình của Việt Nam như: Phê bình theo phương pháp phản ánh hiện thực, phê bình thi pháp học, phê bình cấu trúc, phê bình bản thể luận, phê bình phân tâm học... Hiện nay với khuynh hướng tiếp nối, đổi mới, cách tân trên nền tảng truyền thống vẫn đang đóng vai trò chủ đạo mà dòng chảy chính đó là chủ nghĩa yêu nước và nhân văn, gắn bó với dân tộc, phản ánh chân thực cuộc sống đấu tranh cách mạng qua các thời kỳ và lao động sáng tạo của nhân dân. Cho dù viết về đề tài lịch sử, chiến tranh hay cuộc sống đương đại, các tác giả đã dựa trên nền tảng mỹ học truyền thống để lý giải và tìm câu trả lời cho những vấn
33
đề của dân tộc, nhân sinh, góp phần tích cực đẩy lùi cái ác, cái xấu, cái lạc hậu, thấp hèn, vì sự tiến bộ và phát triển của xã hội, trong đó con người là vị trí trung tâm, cốt lõi. Nhưng, bên cạnh những thành tựu đó đã xuất hiện những biểu hiện đáng lo ngại cần phải ngăn chặn kịp thời, đó là thái độ dễ dãi, lệch lạc, lợi dụng chính lịch sử để xuyên tạc lịch sử, hạ bệ lịch sử, hạ bệ thần tượng; moi móc và khoét sâu vào những mặt tiêu cực, những vùng tối của xã hội hiện tại vì những mục đích ngoài văn học, nghệ thuật. Khuynh hướng thị trường ngày càng tác động đến đời sống văn học, nghệ thuật hiện nay. Vì vậy, lý luận, phê bình phải trở thành sự tự ý thức của văn nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo. Khi văn nghệ sĩ tự ý thức về đặc trưng của từng loại hình văn học, nghệ thuật và cơ chế sáng tạo của người nghệ sĩ thì sẽ khai mở được thế giới nội tâm và chuyển hóa được chất liệu sống thành tác phẩm văn học, nghệ thuật. Lý luận, phê bình có chức năng phát hiện, định hướng và cổ vũ cho cái mới trong hoạt động sáng tạo của văn nghệ sĩ, giúp văn nghệ sĩ thức tỉnh “cái tôi” sáng tạo để khơi gợi những góc khuất thẳm sâu trong thế giới nội tâm. Văn nghệ sĩ không hiểu bản chất của cơ chế sáng tạo mà chỉ sáng tác theo bản năng thì chỉ có thể tạo ra những tác phẩm thiếu chiều sâu về tư tưởng và thiếu sự độc đáo về nghệ thuật. Việc sáng tạo của người nghệ sĩ là sự bí ẩn mà lý luận, phê bình cần tìm hiểu, phát hiện và giải mã tác phẩm. Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật giữ vai trò đồng hành với quá trình sáng tạo của văn nghệ sĩ, vừa phải hướng tới sự khai phá và mở đường vừa phải soi bóng vào tác phẩm văn học, nghệ thuật. Nếu không, lý luận, phê bình sẽ bị tụt hậu so
34
với sáng tác và sự tồn tại của lý luận, phê bình sẽ không có giá trị nữa. Lý luận, phê bình đúng nghĩa cũng chính là sự sáng tạo hoặc ít nhất phải là sự khơi gợi, kích thích sự sáng tạo của văn nghệ sĩ. Bên cạnh đó việc nghiên cứu một cách có hệ thống các hệ hình lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật trên thế giới để tiếp thu một cách có chọn lọc và hiệu quả. Trên cơ sở quan điểm khoa học về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, chúng ta cần nhìn nhận về lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật là một hệ thống mở. Như một dòng chảy và hòa nhập các dòng chảy với nhau, hệ thống lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật cần khai mở và dung nạp những quan niệm, hệ hình phê bình mới để làm phong phú, đa dạng hệ thống lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Sự sáng tạo của văn nghệ sĩ luôn thay đổi và vận động theo sự biến đổi và nhu cầu của thời đại. Lý luận văn học, nghệ thuật chỉ thật sự làm tốt vai trò nếu nắm bắt kịp thời, khái quát kịp thời những vấn đề mới nảy sinh trong vận động, phát triển của thực tiễn văn học, nghệ thuật của từng địa phương và quốc gia. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng đạo đức, nhân cách, lối sống con người Việt Nam, điều được nhấn mạnh nhất là phải có một chuẩn mực về đạo đức, nhân cách và lối sống của con người Việt Nam. Ở góc độ này, các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật phải nhìn thấy rõ cả hai mặt ưu điểm và khuyết điểm, trong đó điều quan trọng nhất là thấy mặt khuyết để sửa chữa chứ không phải để chê bai và kịp thời phát hiện, cổ vũ những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị nghệ thuật, tư tưởng cao, có giá trị bồi dưỡng đạo đức và nhân cách con người Việt Nam. Để có bước đột phá, đổi mới
35
hoạt động lý luận, phê bình hiện nay, đặc biệt là lực lượng trẻ, thì ở các trường văn hóa, nghệ thuật cần phối hợp với Hội Văn học, nghệ thuật các địa phương và các trường phổ thông để phát hiện những tài năng trẻ, có năng khiếu và yêu thích văn học, nghệ thuật, dạy cho các em học sinh biết phân biệt cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật, biết thưởng thức các giá trị văn học, nghệ thuật. Các cơ sở đào tạo chuyên ngành nghệ thuật từ Trung ương (Học viện Âm nhạc, Đại học Mỹ thuật, Đại học Mỹ thuật Công nghiệp, Đại học Sân khấu - Điện ảnh, Đại học Kiến trúc, Đại học Văn hóa - Nghệ thuật quân đội, Đại học Sư phạm nghệ thuật Trung ương...) cùng các cơ sở đào tạo khác ở các địa phương phải có phương pháp giảng dạy theo hướng toàn diện, cung cấp cho sinh viên nền tảng mỹ học, triết học, kiến thức nghệ thuật. Đi đôi với việc đó thì Nhà nước cần có cơ chế chính sách gửi những sinh viên ưu tú về lĩnh vực này đi đào tạo ở những nước có nền văn học, nghệ thuật phát triển và phải có quỹ hỗ trợ nghiên cứu và quảng bá các công trình lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam cũng như các tạp chí Mỹ thuật, Âm nhạc, Sân khấu Điện ảnh, Nhiếp ảnh, Hội Nhà văn Việt Nam, Kiến trúc...
2. Tiếp tục đổi mới chính sách lãnh đạo, quản lý đối với văn học, nghệ thuật
Từ những quan điểm cơ bản được Đảng xác định đối với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, các cơ quan chỉ đạo, hướng dẫn, quản lý hoạt động tư tưởng và văn nghệ các cấp
36
cần phải có những định hướng cụ thể, khoa học, sát hợp với chức năng, đặc trưng của văn học, nghệ thuật và hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật. Với tư duy mới của sự phát triển trong xã hội hiện nay, sự phân công theo từng cấp chính là để đáp ứng có hiệu quả công tác quản lý văn học, nghệ thuật ở một lĩnh vực đang có sự phát triển rất nhanh, sâu rộng và phong phú. Đó là những chuyển động, sáng tạo nội tại trong nước cũng như chịu sự ảnh hưởng và du nhập từ các dòng, các khuynh hướng nghệ thuật quốc tế, vì vậy rất cần có sự điều chỉnh hết sức khoa học, làm sao vừa đảm bảo nguyên tắc vừa hài hòa với sự phát triển mạnh mẽ của văn học, nghệ thuật.
Văn học, nghệ thuật là một lĩnh vực nhạy cảm, gắn liền với cảm xúc của con người trong bối cảnh xã hội là sự tổng hòa của những cung bậc, trạng thái cảm xúc khác nhau. Vì vậy, việc đúng - sai, hay - dở, đẹp - xấu... thật khó xác định được quan điểm chung tuyệt đối, không thể có đáp số rành mạch như lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Do vậy, đòi hỏi và yêu cầu đặt ra đối với những người làm công tác quản lý trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và phê bình văn học, nghệ thuật thì cần phải có trình độ chuyên môn vững vàng, phải có tư duy xã hội sâu sắc và nhạy cảm chính trị cũng như sẵn sàng đồng cảm, chia sẻ, cảm thông với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ cùng những người nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Bên cạnh đó người quản lý “ngoại đạo” (tức là không học những bộ môn thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật) khi được giao nhiệm vụ lãnh đạo thì cần lắng nghe, cầu thị để bổ sung kiến thức cho công tác lãnh đạo của mình lên một tầm cao hơn. Giá trị chân, thiện, mỹ của tác phẩm là
37
sự tự tỏa sáng, mà ở đó, với cảm xúc và tâm hồn của mình, người thưởng thức (độc giả, khán giả) sẽ cảm nhận và cảm thụ được. Do vậy quản lý văn học, nghệ thuật hiện nay rất cần sự nhạy cảm và bản lĩnh. Bản lĩnh là sự vững vàng, kiên định đường hướng nghệ thuật chân chính, là sự chia sẻ, cảm thông với giới nghệ sĩ, là sự nhạy cảm nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, những khát khao, trăn trở, những khó khăn, vướng mắc của họ... Người nghệ sĩ sẽ thấy người lãnh đạo thật sự xứng tầm khi được giao nhiệm vụ này, người lãnh đạo luôn thật tâm gần gũi, định hướng, đồng cảm, chứ không phải là đứng trên giới văn nghệ sĩ. Người quản lý phải ý thức được tính đặc thù của văn học, nghệ thuật để có thái độ quản lý khoa học, phù hợp và các chính sách linh hoạt. Tư duy lý luận và quan điểm của người quản lý về văn học, nghệ thuật luôn cần được đổi mới, bổ sung và phát triển.
Văn học, nghệ thuật là tinh hoa của văn hóa và trong lĩnh vực này vai trò cá nhân người nghệ sĩ là chủ thể sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật. Hoạt động sáng tạo là một loại hình lao động đặc thù, độc lập, in đậm dấu ấn chủ quan và “cái tôi” của nghệ sĩ. Do vậy, việc lãnh đạo và quản lý văn học, nghệ thuật phải khuyến khích người nghệ sĩ phát huy tài năng, thăng hoa cảm xúc, đề cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân trong lao động, sáng tạo nghệ thuật. Cuộc sống đương đại đang đòi hỏi văn nghệ sĩ phải có bản lĩnh vững vàng, người nghệ sĩ cần phải bám sát cuộc sống, bám sát thực tiễn đổi mới của đất nước, kết hợp hài hòa tinh thần nghệ sĩ - chiến sĩ, ý thức cống hiến cho sự nghiệp văn học, nghệ thuật của dân tộc để sáng tạo nên những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, góp phần đắc lực vào xây dựng và
38
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Như vậy, để đưa văn học, nghệ thuật phát triển mạnh mẽ, đủ sức đáp ứng yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới, trách nhiệm đặt lên vai những người làm công tác văn học, nghệ thuật là rất nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang. Các cấp ủy đảng, các cơ quan quản lý văn hóa, văn học, nghệ thuật, các cấp chính quyền cần phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần để đội ngũ lao động, sáng tạo văn học, nghệ thuật được giải phóng tiềm năng sáng tạo, phát huy cao nhất tài năng và sức lực của mình, tạo ra nhiều đỉnh cao nghệ thuật như Ðảng ta và nhân dân ta hằng mong đợi.
3. Một số kiến nghị, giải pháp
- Khẳng định vai trò chủ đạo của lý luận văn nghệ mácxít, quán triệt đường lối văn nghệ của Ðảng, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
- Phải coi sự phát triển văn học, nghệ thuật là sức mạnh nội sinh bền vững trong hội nhập quốc tế nhằm tạo ra sự phát triển hài hòa giữa chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội.
- Tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo của Ðảng đối với văn học, nghệ thuật, xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý phù hợp.
- Tiếp tục đổi mới công tác lãnh đạo và quản lý văn học, nghệ thuật phải đi cùng với việc kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý về văn học, nghệ thuật.
- Cần có chính sách đầu tư xứng đáng cho sáng tạo văn học, nghệ thuật đối với văn nghệ sĩ.
39
- Tạo điều kiện thuận lợi cho văn học, nghệ thuật phát triển phong phú, mạnh mẽ, đa dạng vì đa dạng là bản chất của nghệ thuật và phát huy tối đa sức ảnh hưởng của văn học, nghệ thuật đến đông đảo quần chúng nhân dân trong việc khẳng định cái mới, cái tích cực và phê phán không khoan nhượng các tiêu cực, xấu xa cản trở sự phát triển của đất nước.
- Tiếp tục khẳng định Hội Văn học, nghệ thuật trong cả nước là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước, được đầu tư chăm lo phát triển để các hội viên nâng cao ý thức trách nhiệm trước Ðảng, trước nhân dân, say mê sáng tạo và cống hiến cho đất nước nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị.
- Phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc xây dựng nhân cách con người và đạo đức xã hội, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI của Đảng Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
40
NGHĨ VỀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH NHẰM
CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
GS.TS. ĐINH XUÂN DŨNG
Về vấn đề đặt ra trên đây, tôi tự đặt cho mình nhiệm vụ trả lời hai câu hỏi đơn giản: Vì sao? và Làm gì?
I- VÌ SAO?
1. Khi suy nghĩ và dự định viết về vấn đề này, tôi bỗng nhớ ra rằng, hình như đã có nhiều kiến nghị, đề xuất, bài viết về các giải pháp củng cố và phát triển đội ngũ, lực lượng cán bộ làm công tác lý luận, phê bình văn nghệ ở nước ta trong thời gian qua. Tìm đọc lại một số văn bản, báo cáo, bài báo của các cơ quan và của nhiều người viết đã gửi đi hoặc đã đăng tải trên các báo, tạp chí, tôi cho rằng, phần lớn các đề xuất, kiến nghị đó đều đúng và cần thiết. Một số kiến nghị đã được triển khai và bước đầu đạt được những kết quả khả quan. Ví dụ như việc Ban Bí thư quyết định thành lập Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương vào năm 2003 cũng như cho ra đời Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật - cơ quan ngôn luận của Hội đồng.
41
Hoặc như việc xây dựng và thông qua Chiến lược xây dựng và phát triển các trường văn hóa, nghệ thuật, trong đó có nhắc đến, tuy chỉ ít dòng, về đào tạo đội ngũ này. Song, khách quan mà nhận xét và từ khảo sát thực tiễn, lắng nghe ý kiến tâm huyết, nguyện vọng chính đáng của nhiều đồng nghiệp đang hoạt động trên lĩnh vực này, tôi nhận thấy, tình hình chưa có tiến triển được bao nhiêu, hiệu quả của những dự định tốt đẹp để phát triển đội ngũ lý luận, phê bình văn nghệ mang tính hệ thống và vững chắc còn nhiều bất cập. Nhiều đề xuất, kiến nghị vẫn còn nằm trên giấy và trên mặt báo, chưa thấy có phản hồi. Trước thực tế đó, việc tiếp tục suy nghĩ đề xuất các giải pháp, có thể mới hoặc không mới, nhưng vẫn cần thiết. Mặt khác, có lẽ, cần phải tự đặt ra cho mình một nhiệm vụ, vừa nêu ra các giải pháp chính, vừa lý giải vì sao cần nó và đề xuất nên làm như thế nào để từng bước được hiện thực hóa trong đời sống văn nghệ nước nhà. Như một thao tác quen thuộc, tôi đặt câu hỏi đầu tiên: “Vì sao?”.
Cũng có người nghĩ rằng, đất nước đang phải giải quyết những vấn đề vĩ mô như kinh tế, chính trị, chống tham nhũng, đối ngoại, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ... vì vậy, vấn đề đội ngũ lý luận, phê bình văn nghệ trở nên nhỏ bé, không cấp thiết, lọt thỏm giữa những vấn đề “khổng lồ” đang và chưa giải quyết xong. Hãy tự lo để đỡ “gánh nặng” cho xã hội. Thế nhưng, có khi chỉ một sáng tác văn học, nghệ thuật, một bài lý luận, phê bình văn nghệ được coi là “có vấn đề” đã làm “vất vả” không chỉ người lãnh đạo mà còn tác động trực tiếp, ngay tức khắc đến xã hội. Thành ra, vấn đề tưởng là nhỏ mà không hề nhỏ, tưởng là thoáng qua, mà
42
thực ra đã để lại những dấu hỏi ẩn sâu trong tư duy người đương thời không phải dễ tìm đáp số. Xin lấy một ví dụ: Cách đây khoảng hơn 20 năm, nhà văn quân đội tài năng Nguyễn Minh Châu, một trong những người đi đầu trong đổi mới tư duy sáng tạo về đề tài quen thuộc của Anh - đề
tài chiến tranh - đã đưa ra luận điểm: “Hãy viết lời ai điếu cho một nền văn học minh họa”. Luận điểm đó đúng - sai như thế nào khi đối chiếu với thực tiễn văn học Việt Nam trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt, đến nay, vẫn còn tồn tại những đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược, đối nghịch nhau. Người khen hết mực, người chê hết lời. Và có lẽ, với tình hình lý luận văn nghệ hiện nay, trong tương lai, vẫn còn bỏ ngỏ sự đánh giá luận điểm trên của Nguyễn Minh Châu! Và điều ấy không chỉ tác động đến giới sáng tác lý luận, phê bình văn học khi nhìn nhận một thời kỳ văn học mà còn liên quan đến việc đánh giá tâm thế, thế giới tinh thần của con người Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử đặc thù của dân tộc. Lấy một dẫn chứng đó để trình bày một ý định rằng, tôi định viết giải pháp số 1 trong bài viết này là “nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật”, nhưng cảm thấy, câu ấy đã quá quen thuộc, lặp đi lặp lại nhiều lần, vì vậy, rất dễ trở thành mòn cũ, công thức và mất đi tác động “thức tỉnh” của nó. Không ít các bài phát biểu có tính chỉ đạo, định hướng đều nói đến giải pháp này. Hàng vài chục năm nay, người ta đã nhắc đến, nhấn mạnh yêu cầu và giải pháp “nâng cao”, song hiệu quả và việc làm cụ thể để “nâng cao” còn quá ít ỏi. Vì thế, thay cho tiêu đề “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” trên, tôi đặt câu hỏi “Vì sao phải củng cố và phát triển đội ngũ này?”.
43
Rõ ràng là, dẫn chứng về một ý kiến rất ngắn của Nguyễn Minh Châu cho ta thấy, tác động của lý luận, phê bình văn nghệ không chỉ nằm bó hẹp, khép kín trong giới này, mà nó là “hàn thử biểu” để đo xu hướng, khuynh hướng vận động của tư tưởng xã hội. Còn rất nhiều dẫn chứng khác minh chứng cho nhận định trên. Nhiều vấn đề của lý luận, phê bình văn nghệ đã và đang xuất hiện trong đời sống xã hội còn bị bỏ lửng, đồng tình hay phê phán vừa là dấu hiệu của quá trình dân chủ hóa, vừa là biểu hiện của sự lúng túng, lảng tránh trước cái cần khẳng định và cái cần điều chỉnh hay phê phán. Và đó không còn là vấn đề nhỏ của văn học, nghệ thuật nữa!
Cũng có ý kiến cho rằng, theo quy luật phổ quát của sự phát triển văn học, nghệ thuật nhân loại từ hàng ngàn năm nay, đó là, đã có sáng tác văn học, nghệ thuật thì tất yếu sẽ có lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, vì vậy, cần gì phải tìm giải pháp để củng cố và phát triển nó. Quy luật “thuận theo tự nhiên”, hai lĩnh vực đó song hành với nhau, về cơ bản là sự “đồng hành”, còn có những lúc, do tác động của sự phát triển lịch sử - xã hội, lý luận, phê bình hoặc là tụt hậu, đi sau sáng tác hoặc ngược lại, đi trước, đón trước để dự báo, đoán định và góp phần định hướng cho sự vận động và phát triển của các trào lưu, khuynh hướng sáng tác.
Để có được một đời sống văn nghệ, một nền văn học, nghệ thuật phát triển toàn diện, cân đối, hài hòa, đồng bộ, chúng ta cần đồng thời phát triển về chất lượng của hai lĩnh vực không thể thiếu nhau trên: sáng tác và lý luận, phê bình vì như đã trình bày ở trên, lý luận, phê bình văn nghệ chính là quá trình văn nghệ tự ý thức về mình. Trong quá
44
trình đó, thực tiễn chỉ ra rằng, lý luận, phê bình thường đứng ở một trong ba vị trí so với sáng tác. Một là, đồng hành, bạn đường, bạn đối thoại. Hai là, vừa đồng hành vừa góp phần đánh giá, điều chỉnh, dự báo, định hướng. Và ba là, tụt hậu, lạc hậu, đi sau sáng tác. Vậy, hiện nay, lý luận, phê bình văn nghệ của ta đang đứng ở vị trí nào? Tôi đã rà soát, đọc lại nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước và chú tâm lục tìm các bài viết về thực trạng lý luận, phê bình của nhiều bạn đồng nghiệp đều nhận thấy một điểm gặp nhau là: bên cạnh việc biểu dương “dè dặt” một số bước tiến “đáng khích lệ” của lý luận, phê bình những năm qua là sự chỉ rõ hoặc tự ý thức về những bất cập, yếu kém kéo dài trên lĩnh vực này. Dù là có phần xấu hổ của người tự xếp mình vào lĩnh vực này, cũng xin trích ra đây những đánh giá có tính tổng quát: “Lý luận văn nghệ còn lạc hậu về nhiều mặt, chưa giải đáp được nhiều vấn đề của thực tiễn văn học, nghệ thuật; còn xa rời thực tiễn sáng tác; có biểu hiện xơ cứng, kém năng động, chưa hình thành được tiêu chí khoa học cho phê bình, đánh giá các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Lý luận văn học, nghệ thuật mácxít chưa được nghiên cứu tương xứng với vai trò và giá trị của nó. Lực lượng làm lý luận, phê bình vừa mỏng lại phân bố không đều. Nhìn chung, lý luận, phê bình có biểu hiện tụt hậu so với yêu cầu phát triển của văn học, nghệ thuật. Chất lượng khoa học và tính chuyên nghiên của phê bình bị xem nhẹ, xuất hiện lối phê bình cảm tính, thiếu một hệ thống chuẩn mực tin cậy để đánh giá tác phẩm; văn hóa phê bình bị hạ thấp...”.
Có thể không nên bàn xem đánh giá trên có “nặng” hay không, mà cần coi đó là sự cảnh báo thẳng thắn và cần thiết.
45
Nguyên nhân nào làm nên “thảm cảnh” (dùng từ này hơi cường điệu) đó? Lãnh đạo có, quản lý có, không thể lảng tránh. Song, trước hết và trực tiếp là thuộc về đội ngũ, như một nhận định được nêu ra ở trên “lực lượng làm lý luận, phê bình vừa mỏng lại phân bố không đều” và xem xét kỹ hơn, tất cả các bất cập, yếu kém nêu trên đều có nguyên nhân từ lực lượng này. Có nghĩa là, không nên quy tất cả các bất cập, yếu kém trên cho lãnh đạo và quản lý, mặc dù theo chức trách, bổn phận được giao, họ có trách nhiệm đối với lực lượng, đội ngũ lý luận, phê bình văn nghệ, và cùng đồng trách nhiệm với họ là chính chúng ta - những người hoạt động trên lĩnh vực này.
Với những nhận định trên, rõ ràng là trong quan hệ với sáng tác, lý luận, phê bình văn nghệ Việt Nam hiện nay đang đứng ở vị trí thứ ba “tụt hậu, lạc hậu, đi sau sáng tác”, và một trong các nguyên nhân gây nên thực trạng đó nằm trong đội ngũ, lực lượng hoạt động trên lĩnh vực này. Có nghĩa là, bài toán đặt ra là: làm sao phải đưa lý luận, phê bình văn nghệ lên vị trí thứ nhất (đồng hành, bạn đường, bạn đối thoại) hoặc cao hơn là vị trí thứ hai (vừa đồng hành vừa góp phần đánh giá, điều chỉnh, dự báo và định hướng) đối với sáng tác văn học, nghệ thuật. Không làm được điều đó, chúng ta sẽ khó xây dựng được một nền văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện, cân đối, đồng bộ và hài hòa. Không ai khác, đội ngũ lý luận, phê bình phải trực tiếp gánh vác trọng trách này bằng cách hợp lực đưa lý luận, phê bình văn nghệ vượt qua sự tụt hậu, lạc hậu... để đồng hành cùng sáng tác, trở thành một thành tố hữu cơ có ích cho sự phát triển của văn học, nghệ thuật.
46
Như vậy, củng cố và phát triển đội ngũ lý luận, phê bình văn nghệ là một quy luật phổ quát của sự phát triển một nền văn nghệ hiện đại, và qua đó, nó là hàn thử biểu để “đo” thực trạng, trình độ phát triển của tư duy, nhận thức của một thời kỳ lịch sử. Vì vậy, xin ai đó đừng nghĩ rằng, đó chỉ là công việc của một nhóm người, của năm, ba nghìn người hoạt động trên lĩnh vực “hẹp” này. Xét cho cùng, đó là diện mạo tinh thần của một xã hội hiện đại có phát triển theo đúng quy luật khách quan hay không?
2. Tôi đang viết những dòng trên thì phải dừng lại vì nghe một biên tập viên - người dẫn chương trình đối thoại, tọa đàm trên truyền hình - nói về một sự kiện “nóng” đang được cư dân mạng và dư luận báo chí - xã hội bàn tán, bình luận cả phê phán và bảo vệ sôi nổi, đó là 12 bức tượng tạc 12 con giáp với đầu và mặt là con vật (các con giáp), còn thân là hình người nhưng hoàn toàn sex (khỏa thân) được đặt tại một bờ biển - khu du lịch nổi tiếng ở Hải Phòng. Để xoa dịu dư luận phản bác gay gắt, chủ khu du lịch đã phải mặc bikini cho các bức tượng rồi lại đeo các chùm lá nho vào “chỗ kín” mà lâu nay để hở hang hoàn toàn. Dư luận quần chúng (bảo vệ hay phê phán) còn khác nhau và chưa có hồi kết, tuy sự chê bai có phần mạnh mẽ, quyết liệt hơn. Tôi không có ý định bàn về sự kiện này, mà qua đó, muốn lạm bàn hai thiển ý sau: Một là, việc 12 bức tượng trên không phải là hiện tượng cá biệt trong điêu khắc nói riêng, trong mỹ thuật nói chung của nước ta. Những năm qua, sự vận động và phát triển của mỹ thuật Việt Nam đã và đang đặt ra rất nhiều những tìm tòi khác lạ, tạo nên những “ẩn số” chưa thể lý giải ngay. Cái gọi là tìm tòi cách thể hiện ở 12 bức tượng trên còn giản đơn
47
và ít nhiều thô thiển. Sự phức tạp và khó tìm ra đáp số là những trăn trở thực sự của các hoạ sĩ đi theo các trào lưu hiện đại như sắp đặt, tượng trưng, lập thể... Số phận của nó sẽ ra sao trong lịch sử phát triển của mỹ thuật Việt Nam? Quần chúng tiếp nhận các trào lưu đó như thế nào, khi mà khoảng một thế kỷ qua, người tiếp nhận Việt Nam chủ yếu là thưởng thức những tác phẩm mỹ thuật theo khuynh hướng tả thực, tả chân? Và Hai là, trả lời cho các câu hỏi, tìm lời giải cho các ẩn số trên, không ai khác, trực tiếp là thiên chức của các nhà lý luận, phê bình mỹ thuật. Không làm được thiên chức đó, họ sẽ đứng ngoài, đứng bên lề của sự vận động đang diễn ra hết sức mau lẹ, đa dạng và phức tạp của mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Những dấu hiệu, hiện tượng mới, khác lạ không chỉ diễn ra trong mỹ thuật, mà từ hơn 20 năm nay, nó đã hình thành và phát triển trong tất cả các loại hình văn học, nghệ thuật Việt Nam, nó vừa là biểu hiện của sự tìm tòi, đổi mới để đi đến quá trình hiện đại hóa, hòa nhịp với thế giới, vừa đặt ra gay gắt những ẩn số cần đến “con mắt xanh” của các nhà lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật để dự đoán số phận và quy luật phát triển của nó trong thực tiễn chính trị - xã hội - văn hóa - văn nghệ Việt Nam và trong quan hệ của nó với truyền thống văn hóa Việt Nam. Từ bộn bề các dẫn chứng, chỉ xin khái lược ở đây một vài dấu hiệu và hiện tượng mới, khác lạ đó. Đối với văn học là tiểu thuyết sắp đặt, là các tác phẩm thơ và văn xuôi được một số cây bút phê bình xếp vào “hậu hiện đại”, là sự xâm nhập lẫn nhau giữa các thể loại... Đối với âm nhạc là các thể loại nhạc Jazz, Pop, Hiphop, Rap, Bolero, âm nhạc dân gian đương đại và cả nhạc “ma túy”...
48
Đối với múa là sự xuất hiện của các tác phẩm múa đương đại hoàn toàn khác với múa dân tộc truyền thống. Đối với điện ảnh là các phim truyền hình nhiều tập, phim “chế biến” từ kịch bản vay, mượn của nước ngoài, bên cạnh là các phim cực ngắn... Trong tình hình đó, khi mà sự bùng nổ không cưỡng lại được, sự xâm nhập ồ ạt và cả sự lên ngôi, chiếm thị phần ngày càng lớn hơn của các thể loại mới thì vị trí của các thể loại vốn quen thuộc với công chúng tiếp nhận sẽ ra sao? Tiểu thuyết, hội họa... tả thực có còn giữ vai trò lớn như trước đây? Âm nhạc trữ tình truyền thống của 30 năm (1945-1975) mà gần đây, người ta muốn lưu giữ nó bằng “Giai điệu tự hào”, giữ vị trí ra sao trong tương quan với “nhạc trẻ”, với Jazz, Pop, Hiphop,?... Liệu thể loại “sang trọng” làm nên chất lượng cao và sự phát triển toàn diện của một nền âm nhạc hiện đại như giao hưởng, nhạc không lời sẽ có vai trò như thế nào trong sự phát triển của âm nhạc Việt Nam hiện đại? Và ngay cả đối với các thể loại mới được du nhập vào nước ta, những thể nghiệm, tìm tòi mới, liệu số phận của nó ra sao trong tiến trình phát triển, nếu quá trình “Việt hóa” không đạt được các kết quả đáp ứng nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng tiếp nhận Việt? Ai sẽ trả lời - bằng nghiên cứu công phu và dự báo khoa học - cho những câu hỏi đó. Có người nói, theo luật đào thải và chọn lọc tự nhiên. Nhưng để chủ động xây dựng và phát triển một nền văn học, nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì nhiệm vụ trên chủ yếu thuộc về những người trực tiếp hoạt động trên lĩnh vực lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Như vậy, có nghĩa là, nói rằng, lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật có vai trò định hướng thì có vẻ hơi to tát, song, không thể phủ nhận,
49
bằng nghiên cứu, nghiền ngẫm nghiêm túc, bằng tư duy khoa học và bằng năng lực cảm thụ tốt, người làm lý luận, phê bình hoàn toàn có thể nhận định, đánh giá và dự báo sự vận động và phát triển của văn học, nghệ thuật trong một thời kỳ mà văn học, nghệ thuật của chúng ta đang ở giai đoạn giao thời, quá độ, vất vả, khó khăn, chưa định hình như ngày hôm nay.
3. Trong những năm gần đây, lý luận, phê bình văn nghệ đặc biệt quan tâm đến vấn đề tiếp nhận và người tiếp nhận tác phẩm văn học, nghệ thuật và xác định người tiếp nhận như người đồng sáng tạo và chỉ thông qua hiệu quả tiếp nhận thì giá trị của một tác phẩm từ là một tiềm năng mới trở thành giá trị hiện hữu. Với vị trí đó, người tiếp nhận trở thành một thành tố không thể thiếu, rất quan trọng và chủ động trong “vòng đời” của một tác phẩm. Chủ thể tiếp nhận đó, trong những năm vừa qua và có lẽ, trong những năm sắp tới, đang diễn ra một quá trình biến đổi cực kỳ nhanh chóng theo các chiều hướng sau: đa dạng hóa, cá thể hóa, phân nhóm và phân hóa. Không còn dễ dàng tìm thấy sự đồng nhất, thống nhất trong đánh giá, thưởng thức văn học, nghệ thuật như nhiều năm trước. Không chỉ biến đổi theo hướng đa dạng hóa, phân nhóm thị hiếu mà còn bộc lộ rõ cả sự khác nhau, thậm chí đối chọi nhau, ngược nhau trong tiếp nhận, đánh giá, cảm thụ tác phẩm. Những ý kiến trái ngược nhau xuất phát từ các nguyên nhân sâu xa khác nhau, là một thực tiễn, ví dụ đối với các tác phẩm và cả các khuynh hướng sáng tác như “Thân phận tình yêu”, “Cánh đồng bất tận”, “Bóng đè”, Thơ và nhạc trẻ, “Bi ơi, đừng sợ”, múa đương đại, nghệ thuật sắp đặt...
50
Trong sự biến đổi phong phú, phức tạp trên của thị hiếu người tiếp nhận đang có sự cùng tồn tại, đan xen nhau giữa cái đúng và cái lệch lạc, cái truyền thống và cái mới, cái đã định hình và cái đang trong quá trình tự tìm kiếm. Đặc điểm đó đã và đang tác động mạnh sâu đối với đời sống và sáng tác văn học, nghệ thuật, không chỉ hôm nay mà chắc chắn đối với nhiều năm sắp tới.
Cần nhận thức rằng, sự biến đổi, biến động của công chúng văn nghệ là một quy luật khách quan, và cao hơn là sự phát triển của quá trình dân chủ hóa. Vấn đề đặt ra là một mặt, tôn trọng sự phát triển hợp quy luật đó và mặt khác cần có năng lực, bản lĩnh điều chỉnh, định hướng và đáp ứng các nhu cầu tốt đẹp, lành mạnh, phong phú của công chúng nghệ thuật. Bên cạnh xu hướng cảm thụ mới mẻ, lành mạnh, đã và đang xuất hiện sự lệch lạc, tầm thường, thiếu hiểu biết trong thị hiếu của một bộ phận người tiếp cận. Đồng thời, vẫn còn tồn tại cách tiếp nhận cũ, lỗi thời, đặc biệt là xu hướng xã hội học dung tục. Những dấu hiệu trên đang đồng thời tác động trực tiếp đến đời sống văn học, nghệ thuật của chúng ta.
Không ai khác, giới lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, cả những người hoạt động trực tiếp, chuyên nghiệp và cả các thầy cô giáo giảng dạy văn học, nghệ thuật ở nhà trường, từ phổ thông đến đại học, có trách nhiệm trong công việc cần nhiều công phu, tâm huyết, kiên nhẫn, tỉnh táo nhưng đầy khó khăn này.
4. Những năm gần đây, tôi chăm chú, chịu khó và rất hứng thú đọc một số bài và một số công trình nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học của thế hệ được quen gọi là trẻ
51
(nhưng thường đã trên dưới 30, 40 tuổi). Rõ ràng có một giọng điệu mới, những dấu hiệu đổi mới trong tư duy - khoa học và cả nghệ thuật - của các cây bút này. Nhiều người trong số họ đã có thành tựu riêng và trở thành lực lượng “tác chiến” trên lĩnh vực này, đang thay thế dần cho đội ngũ lão thành. Đó là quy luật. Một trong những đặc điểm nổi trội của họ là luôn tìm sự đồng hành, song hành, đối thoại với sáng tác và qua đó, thể hiện mình. Mặt khác, sự tự thể hiện đó, ở một số cây bút, còn ở chỗ luôn chú ý tiếp nhận, vận dụng trực tiếp các lý thuyết phê bình của nước ngoài trong các bài, công trình lý luận, phê bình của mình. Đó là một bước tiến trong tư duy lý luận, phê bình của ta những năm qua khi giao lưu, tiếp biến và hội nhập văn hóa, có nghĩa là, đó là một đòi hỏi khách quan. Tuy vậy, có lúc tôi thất vọng khi đọc xong một bài phê bình tác phẩm cụ thể, tôi không hình dung nổi nội dung tác phẩm đó là gì, cái mới, cái riêng của nó ở đâu, mà chỉ thấy một mớ lý thuyết được áp đặt cho tác phẩm, chỉ được đọc những dòng tư biện, cao đàm, khoát luận của người viết tỏ ra biết nhiều, đọc nhiều (cả nguyên bản tiếng nước ngoài) các lý thuyết văn học, nghệ thuật của phương Tây. Từ cái “khuôn” đó, người viết đã “gọt chân cho vừa giầy”, đánh mất đi năng lực cảm thụ nghệ thuật, một trong những đòi hỏi không thể thiếu của phê bình cùng với yêu cầu tư duy khoa học nhuần nhuyễn, chuẩn xác của nó. Đó là hai mặt của một tờ giấy, có hai mặt đó, mới có phê bình văn học, nghệ thuật đích thực. Thực ra, nêu vấn đề trên, bài viết không có ý định đánh giá, mà qua đó, mong rút ra một suy nghĩ rằng, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc am hiểu sâu
52
rộng truyền thống, đặc trưng của văn học, nghệ thuật dân tộc với năng lực vận dụng linh hoạt, tỉnh táo các thành tựu lý thuyết phê bình hiện đại, giữa bản lĩnh khoa học và năng lực cảm thụ nghệ thuật là những yêu cầu, đòi hỏi mới và cao đối với đội ngũ lý luận, phê bình văn nghệ thời kỳ mới - hiện nay và những năm sắp tới. Và phải chăng, đó là một nội dung quan trọng trong hệ thống các giải pháp nhằm củng cố và phát triển đội ngũ lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Việt Nam.
5. Khi cố gắng lý giải câu hỏi đơn giản “Vì sao?” phải củng cố và phát triển đội ngũ lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật ở nước ta hiện nay, bài viết đã đụng chạm đến một nội dung khác, đó là những lý do nội tại, cần thiết phải nâng cao nhận thức về vị trí và vai trò của lý luận, phê bình văn nghệ trong đời sống văn nghệ đương đại Việt Nam. Hay nói một cách khác, đó là giải pháp tổng quát nhất của hoạt động này. Chỉ có điều, nếu trình bày theo quy chuẩn quen thuộc, luận giải có tính chất lý thuyết chung cho mọi nền văn nghệ, thì bài viết dễ rơi vào công thức. Từ đó, bài viết có ý định gắn chặt vị trí, vai trò (có tính lý thuyết đó) với thực tiễn văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện nay để nhấn mạnh bốn lý do có tính thực tiễn cần phải nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của lý luận, phê bình văn nghệ, đó là:
- Góp phần trực tiếp tạo nên một nền văn học, nghệ thuật phát triển toàn diện, cân đối, hài hòa, đồng bộ. - Tham gia trực tiếp giải đáp những ẩn số đã và đang hình thành trong sự vận động nhanh chóng, phức tạp của văn nghệ Việt Nam đang ở một giai đoạn quá độ của sự phát triển.
53
- Đóng góp trực tiếp định hướng và phát triển trình độ nhận thức, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng nghệ thuật trong giai đoạn đang diễn ra quá trình đa dạng hóa, cá thể hóa, phân nhóm và phân hóa.
- Góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ lý luận, phê bình theo một kiểu mẫu mới: gắn với dân tộc, hiểu biết sâu rộng văn hóa dân tộc và tỉnh táo tiếp thu thành tựu của thế giới hiện đại, bản lĩnh khoa học hòa quyện với năng lực cảm thụ thẩm mỹ.
Mong ước của tác giả bài viết là, những người có trách nhiệm, những cán bộ đang giữ vị trí lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn học, nghệ thuật có sự đồng cảm với ý định trên để không chỉ hiểu giải pháp tổng quát này như là một điều hiển nhiên, không cần làm rõ thêm.
Như vậy, phần thứ nhất của bài viết này có thể hiểu là: Cần nhận thức rõ hơn vai trò của lý luận, phê bình từ đòi hỏi của thực tiễn, thực trạng đời sống văn nghệ Việt Nam hiện nay.
II- LÀM GÌ?
1. Cho phép tôi kể về một kỷ niệm lớn trong đời. Tháng 8/1966, tôi tốt nghiệp Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Thầy giáo tôi là Giáo sư Lê Đình Kỵ, thấy tôi có ít nhiều khả năng nghiên cứu lý luận văn học và có sự ham thích lĩnh vực này, thầy đã gọi tôi lên và nói: Tôi sẽ giới thiệu em với Giáo sư Vũ Khiêu, (Giáo sư Vũ Khiêu lúc đó đang phụ trách bộ môn Mỹ học ở Viện Triết học). Năm đó, cả khoa tôi đang sơ tán ở Đại Từ - Thái Nguyên. Thầy nói cả thầy và tôi sẽ về Hà Nội gặp Giáo sư Vũ Khiêu. Một buổi tối
54
ở Hà Nội, lúc đó rất vắng người, vì người Hà Nội đã đi sơ tán vãn hết, tôi hồi hộp tìm đến nhà Giáo sư Vũ Khiêu. Thầy Kỵ đã giới thiệu tôi với giáo sư. Nhìn tôi, giáo sư hỏi nửa thật, nửa vui đùa: “Thế em muốn trở thành cây dây leo hay thành cây cổ thụ?”. Tôi bị bất ngờ, trả lời ngập ngừng như một bản năng: “Em không muốn trở thành dây leo cũng chẳng nghĩ gì tới cây cổ thụ, nhưng em thích môn này lắm”. Giáo sư Vũ Khiêu cười vui và nói với thầy tôi: “Tôi đồng ý nhận em này”. Nhưng, khoảng vài ba tháng sau, tôi nhận được quyết định ở lại trường, trở thành giáo viên chuẩn bị giảng bộ môn Lý luận văn học do thầy tôi - Giáo sư Lê Đình Kỵ - làm Tổ trưởng. Hơn 50 năm đã qua, tôi vẫn nhớ câu chuyện đó và không bao giờ quên sự chăm lo cho học trò của mình của thầy Lê Đình Kỵ và sự định hướng nghề nghiệp cho tôi của Giáo sư Vũ Khiêu, dù chỉ là một câu hỏi! Kể lại kỷ niệm này, tôi chỉ muốn rút ra một vài nhận thức thực sự bổ ích. Thứ nhất, để làm lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, cần phải đào tạo, trong đào tạo phải có những người thầy giỏi, uyên thâm, luôn chăm lo cho sự phát triển của học sinh mình. Thứ hai, con đường đi tới được thành công trong lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, như gợi ý của Giáo sư Vũ Khiêu, từ đào tạo trong nhà trường, phải qua quá trình dài “tự đào tạo” mới hy vọng đi dài trên con đường ấy. Vậy, đặc trưng của sự đào tạo ấy là gì?
Tôi nghe nói, ở một số trường đại học văn hóa, văn nghệ ở nước ta, khi xây dựng kế hoạch tuyển sinh, thường có đề xuất ngay từ đầu chỉ tiêu tuyển sinh ngành lý luận, phê bình, như Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh chẳng hạn, hoặc như một thời có khoa “lý sáng chỉ” của nhạc viện? Có nghĩa là,
55
ngay từ đầu đã có mục tiêu đào tạo lý luận, phê bình. Tôi nghĩ rằng, có lẽ, điều đó không đúng. Và vì thế mà có trường “xin” được chỉ tiêu sinh viên bộ môn lý luận, phê bình, nhưng hầu như không năm nào tuyển đủ và không biết trong quá trình học có “rơi rụng” tiếp không, đặc biệt, khi tốt nghiệp, còn ai đi tiếp con đường của mình? Phải chăng, đó là một trong những lý do mà đội ngũ lý luận, phê bình các ngành nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, âm nhạc, mỹ thuật, múa... luôn luôn thiếu hụt và không được bổ sung?
Cần phải có một cuộc cải cách thực sự công việc đào tạo đội ngũ này. Đó là nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành, chuyên sâu và chuyên biệt. Chuyên ngành là đào tạo toàn diện một ngành nghệ thuật. Những cây bút lý luận, phê bình tương lai cũng phải được đào tạo như sinh viên các ngành tương ứng để họ có vốn, có kiến thức cơ bản của một ngành nghệ thuật. Chuyên sâu, là sau một thời gian đào tạo chung (3 hoặc 4 năm đại học), cần phát hiện và chọn ra những sinh viên nào có năng khiếu, có ham thích bộ môn lý luận, phê bình để tập trung đào tạo “nghề” cho họ. Như vậy, không nên có “chỉ tiêu” lý luận, phê bình ngay từ đầu vào. Chuyên biệt là trong quá trình đào tạo ở giai đoạn 2, cần đưa những sinh viên này vào không gian và sinh hoạt nghệ thuật thuộc ngành mình để họ từng bước “nhập cuộc”, “tập sự”. Một không khí học thuật, trao đổi, tranh luận, tiếp xúc với quá trình “sản xuất tác phẩm” như biểu diễn âm nhạc, triển lãm mỹ thuật, dàn dựng vở kịch... sẽ vô cùng bổ ích đối với người làm lý luận, phê bình trong tương lai. Quá trình đào tạo đó sẽ tạo ra những người làm lý luận, phê bình nghệ thuật vừa có một hiểu biết đầy đủ về
56
ngành nghệ thuật của mình, vừa là người có năng lực nhận định, đánh giá có tính khoa học các sản phẩm của ngành nghệ thuật đó. Có nghĩa là, họ là người trong cuộc, chứ không phải là người viết lý luận, phê bình “chay”, như một vài “cây bút” chuyên điểm tác phẩm trên báo chí sau khi “lắng nghe” được một vài thông tin, dư luận về tác phẩm đó. Như vậy, đào tạo một người sáng tác, chỉ huy, đạo diễn, diễn viên... đã rất công phu, thì nhiệm vụ đào tạo những người làm lý luận, phê bình lại có một quy trình đặc thù. Cái đặc thù đó còn thể hiện ở nội dung đào tạo, đặc biệt ở giai đoạn 2, giai đoạn chọn những người có năng khiếu, có ham thích, có khả năng tư duy khoa học. Đó là việc cung cấp vốn văn hóa, “phông” văn hóa cho họ. Người làm lý luận, phê bình, nếu chỉ hiểu biết chuyên ngành cụ thể, mà không có sự am tường rộng và sâu các lĩnh vực có liên quan (như văn hóa, triết học, chính trị học, lịch sử, xã hội học, các lý thuyết lý luận, phê bình...) sẽ không thể đi dài, đi xa được trên lĩnh vực của mình. Biết bao tấm gương lớn, cả thế giới và trong nước, đã minh chứng cho điều đó. Có nghĩa là, đào tạo đúng hướng trong nhà trường giữ vai trò vô cùng cần thiết, song tự đào tạo trong toàn bộ cuộc đời bao giờ cũng là nhân tố quyết định cho công việc của nhà lý luận, phê bình, theo đúng nghĩa của nó. Từ suy nghĩ trên, tôi nhận thấy, nếu so sánh với thực tiễn đào tạo lý luận, phê bình hiện nay ở các trường đại học văn hóa - nghệ thuật của nước ta, có lẽ cần phải bàn kỹ lại từ đầu và có một đề án mới. Nếu không làm như vậy, chúng ta chỉ dậm chân tại chỗ và thực trạng yếu kém của đội ngũ lý luận, phê bình nghệ thuật sẽ không thể khắc phục được.
57
2. Đào tạo đội ngũ lý luận, phê bình, từ nhiều năm qua, không được quan tâm đúng mức và không có những giải pháp đột phá. Hạn chế đó lại đi cùng với một hạn chế khác, dai dẳng và nặng nề hơn, đó là vấn đề sử dụng đội ngũ này. Có nhà quản lý, chỉ đạo báo chí cho rằng, “đốt đuốc” đi tìm một cán bộ có năng lực trên lĩnh vực này mà không thấy để đặt họ vào đúng vị trí tham mưu, trợ lý cho Đảng, Nhà nước hoặc có nhiệm vụ “tác chiến” trên lĩnh vực lý luận, phê bình của các tờ báo, tạp chí. May mắn “vớ” được một cây bút nào đó để đưa về cơ quan đang là cách sử dụng, chọn người khá phổ biến hiện nay. Ở đây có mối tương quan tưởng như lỏng lẻo, nhưng thực chất có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, đó là quan hệ giữa đào tạo và sử dụng. Cần phải đào tạo theo nhu cầu, theo vùng miền từ tỉnh, thành phố đến các ngành của Trung ương. Trong cả nước, chúng ta có khoảng 200 tờ báo, tạp chí, nhà xuất bản và vài chục cơ quan nghiên cứu cần người làm công tác lý luận, phê bình văn hóa, văn học, nghệ thuật. Hiện nay, đội ngũ này, đặc biệt trên lĩnh vực các loại hình nghệ thuật, thiếu trầm trọng. Mặt khác, ở một số địa phương, những năm gần đây xuất hiện một số cây bút trẻ viết lý luận, phê bình có triển vọng, song phần lớn họ là “tự bơi”, rất ít được quan tâm thực chất. Như vậy, vấn đề quy hoạch (đào tạo gắn với sử dụng) đội ngũ này trong một thời gian tương đối dài, trở thành một giải pháp lớn, mà lâu nay, hình như chưa hề làm. Nhà trường cần nắm được nhu cầu của các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, của các cơ quan nghiên cứu, của các báo, tạp chí cả ở Trung ương và địa phương để
lập kế hoạch đào tạo theo địa chỉ, từng bước lấp dần chỗ thiếu vắng. Mặt khác, các đơn vị, cơ quan sử dụng người cần
58
có sự liên kết trong đào tạo để bổ sung một cách chủ động cho đội ngũ lý luận, phê bình của mình. Không chỉ đào tạo cử nhân làm lý luận, phê bình mà cao hơn, cần đào tạo những người có bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ trên lĩnh vực khoa học này. Để làm được quy hoạch gắn kết giữa đào tạo và sử dụng, cần có một đề án riêng mà đơn vị chủ trì chắc phải là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và sự phối kết hợp chặt chẽ, thực chất của các cơ quan, đơn vị sử dụng từ trung ương đến địa phương. Tuy địa phương (tỉnh, thành phố) nào cũng cần, song, trong những năm trước mắt, cần tập trung cho các trung tâm lớn về văn hóa, văn học, nghệ thuật như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng.
Trong sử dụng đội ngũ lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, cần đồng thời chú ý hai lực lượng chính: những người nghiên cứu lý luận chuyên sâu và đội ngũ “tác chiến” trên lĩnh vực này, có mặt thường xuyên để đồng hành với đời sống sáng tạo đang diễn ra sôi động, khẩn trương và phức tạp. Cần có sự xuất hiện các tài năng trong cả hai lực lượng này và bằng những việc làm cụ thể, để chủ động tác động cho sự xuất hiện đó. Để làm được điều đó, cần nghĩ tới các giải pháp cụ thể sau:
- Tăng “đất” cho chuyên môn lý luận, phê bình của các báo và tạp chí chuyên ngành và cả các báo, tạp chí chủ lực của Đảng và Nhà nước. Lâu nay, hầu như bài lý luận, phê bình nào trước hết cũng bị “gò” vào số trang, số chữ. Tất nhiên, viết dài không phải là dấu hiệu của chất lượng, song biên tập viên, người đặt bài hầu hết cũng nói câu mở đầu: báo, tạp chí tôi chỉ cho “đất” thế thôi. Tôi được biết, ở nhiều nước, các tạp chí chuyên ngành hoàn toàn có thể chở được các
59
bài lý luận chuyên sâu, nếu bài đó có giá trị phát hiện, có chất lượng khoa học cao.
- Tạo không khí trao đổi khoa học, tranh luận dân chủ đối với một số vấn đề lý luận văn nghệ đang đặt ra và đối với một số sự kiện, hiện tượng, tác phẩm mới xuất hiện đang có dư luận, ý kiến khác nhau. Nếu có định hướng đúng, “người cầm chịch” khách quan, có bản lĩnh, có trình độ, có tâm... chúng ta hoàn toàn có thể tạo ra không khí học thuật dân chủ, khách quan, xây dựng, vì vậy, thiết nghĩ không nên né tránh công việc này. Có lẽ, công việc vốn bình thường đã trở nên “không bình thường”, trở nên “nhạy cảm” nên không khí trao đổi, đối thoại học thuật trên lĩnh vực này, vài năm gần đây, hầu như vắng bóng. Có những hội thảo khoa học lớn, quy mô “quốc gia” nhưng chỉ có người đọc bài viết sẵn, thậm chí có người nói, cố tạo không khí trao đổi, mà chẳng có lời hưởng ứng! Có ai vỗ tay mà chỉ có một bàn tay? Vì vậy, rất nhiều vấn đề lý luận văn nghệ và nhiều sự kiện văn học, nghệ thuật còn bỏ ngỏ. Hậu quả đó, ai cũng biết, nhưng đến nay, chưa có một hướng giải đáp khoa học, hợp lý. Bỏ ngỏ rồi bỏ lửng!
- Xuất bản những công trình nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật với số lượng phù hợp để công bố những kết quả nghiên cứu mới về những đánh giá, phê bình có chất lượng. Những năm gần đây, một số nhà xuất bản đã “dũng cảm” cho ra mắt những công trình đó. Nói là dũng cảm, không hề có ý “ngoa ngữ”, mà là sự thật, vì tiêu thụ các công trình đó trong tình hình hiện nay, quả là khó khăn bội phần. Tôi đã được thẩm định một số công trình thực sự có chất lượng, song số bản in chỉ là 300 (với dân số
60
cả nước gần 100 triệu), và có công trình, tác giả phải tự bán, tự tìm cách phát hành. Vì tình hình đó, gắn liền với đề xuất trên, xin đề nghị thành lập một quỹ cho xuất bản các công trình loại này. (Tôi được biết, ở Hàn Quốc, để dịch, xuất bản, phát hành một tác phẩm văn học, một công trình nghiên cứu văn học của Hàn Quốc ra nước ngoài, người dịch, nhà xuất bản, nhà phát hành được nhận từ quỹ hỗ trợ khoảng 12.000 đôla!). Một bài phê bình văn học, nghệ thuật ở ta được đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành có uy tín, tiền nhuận bút chỉ từ 500.000 đồng đến 900.000 đồng. Cần có những giải thưởng thực sự có giá trị hằng năm trao cho những bài viết, những công trình lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Xin lưu ý, tiền giải thưởng cao rất quan trọng, song, cùng với nó là biểu hiện của sự tôn vinh, tôn trọng các giá trị khoa học, giá trị trí tuệ của người lao động, sáng tạo trên lĩnh vực thầm lặng này.
3. Những người làm lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật thuộc thành viên của các Hội Văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương. Ở ta, nhiều năm nay tổ chức như vậy đã ổn định. Và phải nhận thấy rằng, vượt qua những năm trước đây ít nhiều bị “lép vế”, chỉ như là bộ phận “thêm vào” của sáng tác trong các hội, thì những năm gần đây, lực lượng này đã được chú ý hơn. Tuy vậy, cách tổ chức như vậy không có điều kiện làm rõ tính đặc thù, đặc trưng nghề nghiệp của đội ngũ lý luận, phê bình và mặt khác, đội ngũ này bị xé lẻ ra, không có không gian khoa học để trao đổi, luận bàn, học hỏi và thông tin với nhau. Liệu có một phương án khác có thể khắc phục được các hạn chế trên mà không “xáo trộn”, “phình ra” về mặt tổ chức? Hiện nay, ở các hội
61
cụ thể đều có hội đồng (hoặc ban) lý luận, phê bình của riêng mình. Nếu những người làm lý luận, phê bình thuộc các hội trên tổ chức thành Hiệp hội Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Việt Nam sẽ tạo nên sức tập hợp chung rộng lớn hơn và thể hiện đặc trưng nghề nghiệp của họ rõ ràng hơn. Tổ chức đó có thể trở thành một thành viên của Hội Liên hiệp văn học, nghệ thuật Việt Nam. Đề xuất này không mới, hình như đã có từ vài chục năm trước, nhưng sau một thời gian “rục rịch” chuẩn bị, lại trở về mô hình truyền thống. Có lẽ, cần có một đề án riêng cho giải pháp này.
62
PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
THỰC TIỄN, THÀNH TỰU, THÁCH THỨC, GIẢI PHÁP PHÙNG VĂN KHAI
Trước tiên, phải khẳng định rằng từ rất sớm chúng ta đã có được đội ngũ phê bình văn học, nghệ thuật khá đông đảo. Và không chỉ đông đảo, đội ngũ ấy, trong từng giai đoạn lịch sử, đều hoàn thành xuất sắc sứ mệnh phê bình văn học, nghệ thuật. Càng về sau, đội ngũ này càng có sự phát triển cao hơn, đa dạng và phong phú hơn, đáp ứng tốt nhu cầu phê bình văn học, nghệ thuật trong tương quan xây dựng nền văn hóa mới.
Nói như thế không có nghĩa là đội ngũ phê bình văn học, nghệ thuật không cần thiết phải có những điều chỉnh, bổ sung, thậm chí làm mới ở nhiều lĩnh vực. Văn học, nghệ thuật vốn phát triển không ngừng, có những lúc vừa sôi nổi, vừa phức tạp. Để theo kịp sự phát triển đó, tương tác và đồng hành, thậm chí là dẫn dắt các xu hướng, khuynh hướng của sáng tác văn học, nghệ thuật, rất cần tới đội ngũ phê bình tương ứng. Điều này là một đòi hỏi chính đáng của sự phát triển lành mạnh của nền văn học trong thời kỳ mới. Điều này cũng là thời cơ và thách thức của đội ngũ làm công tác phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay.
63
1. Thực tiễn và thành tựu
Chúng ta đã có một thực tiễn phê bình văn học, nghệ thuật phong phú với những thành tựu đã được ghi nhận. Từ các tác phẩm rải rác phê bình phong trào Thơ mới, phê bình các sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn trước năm 1945 khá sôi động mà tiêu biểu nhất phải kể đến Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân. Đời sống phê bình văn học, nghệ thuật luôn bám sát và đồng hành với đời sống sáng tác. Thời kỳ văn học tiền chiến cũng là thời kỳ nở rộ nhiều khuynh hướng sáng tác và phê bình. Trong một xã hội ngột ngạt về chính trị, kiệt quệ về kinh tế, xuống cấp sâu sắc về văn hóa, đạo đức xã hội nhưng kỳ lạ thay, các sáng tác văn học, nghệ thuật, trong đó có mảng phê bình lại phát triển rất mạnh, nhiều thành tựu về văn học, các loại hình nghệ thuật như điêu khắc, hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh... đều có những cột mốc đáng ghi nhận. Điều này nói lên cái gì? Tại sao trong một xã hội tương đối ổn định như hôm nay không có được sự nở rộ đó? Phải chăng công tác quản lý về sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật của chúng ta có vấn đề? Hàng loạt những câu hỏi đã và đang được đặt ra một cách khách quan, khoa học, đòi hỏi không chỉ giới sáng tác, giới phê bình mà cả giới quản lý phải trả lời.
Quay trở lại thực tiễn sáng tác và những thành tựu mà phê bình văn học, nghệ thuật đã đạt được trong khoảng thời gian sau năm 1945 đến nay, ta thấy có mấy đặc điểm lớn, cũng là những thành tựu đã được ghi nhận:
Thứ nhất, trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945- 1954, từ thực tiễn cuộc chiến đấu gian khổ của nhân dân ta, các tác phẩm văn học, nghệ thuật ra đời, vừa để phục vụ kịp
64
thời đời sống tinh thần của các tầng lớp xã hội, vừa là khẳng định tư duy mới, con người mới, con người khao khát hướng tới độc lập, tự do. Bởi vậy, các sáng tác văn học, nghệ thuật trong thời gian này đã làm tròn vai trò lịch sử. Từ văn học đến các loại hình âm nhạc, hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh... đều bám sát đời sống mọi mặt của quần chúng nhân dân. Các tác phẩm được nhân dân đón nhận. Có tác phẩm ra đời ngay trên chiến hào còn sực mùi thuốc súng, thậm chí còn đang chảy máu như tác phẩm: Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ của Nguyễn Sáng; Viếng bạn của Hoàng Lộc; Trận phố Ràng của Trần Đăng... Ngay như một nhà văn kỹ tính như Nguyễn Tuân cũng đã theo sát cùng bộ đội trực tiếp đánh đồn giặc. Ông còn cầm dùi trống thúc mạnh cho quân ta xông lên giết giặc, sau đó trực tiếp viết luôn về trận đánh đó. Có thể nói, chính cuộc sống chiến đấu cần lao và lẫm liệt của quân và dân ta đã là chất liệu làm nên những thành tựu, những cột mốc sáng tạo của các loại hình văn học, nghệ thuật trong kháng chiến chống Pháp. Chính từ thực tiễn ấy, những sáng tác đã tự cất lên tiếng nói của thời đại mình. Và từ nền tảng sáng tác ấy, phê bình văn học, nghệ thuật đã làm tròn trách nhiệm, thậm chí có lúc đã làm rất tốt công việc dẫn dắt, định hướng cho sáng tác.
Thứ hai, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến năm 1975, từ thực tiễn cách mạng, các thành tựu về văn học, nghệ thuật đã có những xu hướng vận động mới. Cuộc kháng chiến càng bước vào giai đoạn cam go, khốc liệt thì càng đòi hỏi những sáng tác văn học, nghệ thuật trực diện hơn, kích hoạt tính chiến đấu kiên quyết hơn. Vì vậy không tránh khỏi có lúc là cực đoan một chiều, ta đúng - địch sai, nhất nhất tiến
65
thẳng về phía trước, bất chấp những đặc tính của văn học, nghệ thuật luôn đòi hỏi sự cân bằng bản thể, sự thâm trầm được chắt lọc chứ không thể nào văn học, nghệ thuật giống như những nguyên tắc của chiến tranh. Nguyên tắc của chiến tranh là vô nguyên tắc. Văn học, nghệ thuật lại cần sự hữu lý, sự cân bằng và sự nhân văn đến tận cùng. Điều này dường như đối nghịch với nguyên tắc chiến tranh. Bởi vậy mới nói rằng thành tựu của văn học, nghệ thuật thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến năm 1975 đã có những dấu mốc quan trọng, nhưng thời gian đi qua sẽ dần dà bộc lộ những thiếu khuyết của nó. Điều này là chấp nhận được. Nó là tất yếu của một giai đoạn lịch sử văn học chứ không đáng lo ngại như một số người lầm tưởng. Chúng ta có những thời kỳ lịch sử buộc phải diễn ra như vậy. Điều đó bao gồm cả văn học, nghệ thuật. Đây cũng là sự phát triển bình thường, tất yếu, khách quan. Phải hiểu được như vậy thì chúng ta mới dám nhìn thẳng vào những thiếu khuyết của sáng tác văn học, nghệ thuật để vững vàng bước tiếp. Trong khoảng thời gian này, phê bình văn học, nghệ thuật luôn đi cùng sáng tác, cổ vũ, động viên và có những đánh giá kịp thời để sáng tác đi đúng con đường mà dân tộc và nhân dân đòi hỏi.
Thứ ba, sau cột mốc lịch sử năm 1975 đến Đổi mới (1986), trong tư duy của người chiến thắng, dường như chúng ta bị “ngây ngất” một thời gian, trong đó có các sáng tác văn học, nghệ thuật. Sau chiến tranh, cuộc sống bừa bộn và phức tạp hơn nhiều. Phải quản lý và kiến thiết một đất nước từng có vài chục năm chia cắt với những sự khác biệt rất lớn đã đặt lên vai chúng ta quá nhiều việc. Văn học, nghệ thuật thời điểm này phải giáp mặt với những nẻo khuất trong cuộc sống
66
vô cùng phức tạp. Trước xu thế mới của xã hội đòi hỏi văn học, nghệ thuật phải có cách nhìn mới, phải “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Mục tiêu là như vậy, nhưng sự thật ở đây là sự thật nào? Đã có sự phân hóa sâu sắc trong giới sáng tác và đương nhiên hình thành sự phân hóa dữ dội trong giới phê bình văn học, nghệ thuật. Dẫu là thế cũng không thể không nhắc đến những thành tựu đã trở thành cột mốc. Những chuyển động dữ dội đã trở thành những làn sóng mang giá trị tư tưởng, làm tiền đề cho sự đổi mới văn học, nghệ thuật sau này. Chúng ta đã có những đánh giá, tổng kết xác đáng về văn học, nghệ thuật giai đoạn này. Đó vừa là thành tựu của sáng tác, vừa là nền tảng thành công của phê bình văn học, nghệ thuật giai đoạn 1975-1986.
Thứ tư, sau dấu mốc Đổi mới (1986), các sáng tác văn học, nghệ thuật có sự đa dạng và phức tạp đan xen. Các loại hình nghệ thuật tìm đường đi mới cho mình đã bộc lộ nhiều khuynh hướng, trong đó phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa dường như đã chững lại. Đó cũng là một tất yếu mang tính khoa học biện chứng. Ngay như chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và một số nước Đông Âu cũng rơi vào thoái trào, thậm chí sụp đổ. Điều đó vừa bất ngờ, vừa không bất ngờ. Chính sự mới mẻ này đã là nền tảng mạnh mẽ nhất để thúc đẩy các khuynh hướng sáng tác khác nhau. Chỉ riêng lĩnh vực văn học, ở mảng tiểu thuyết, một loạt tác phẩm có khuynh hướng mới, khác trước ra đời, gây tiếng vang như: Thời xa vắng của Lê Lựu; Bến không chồng của Dương Hướng; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh... đã khiến đời
67
sống văn học, nghệ thuật, trong đó có phê bình văn học, nghệ thuật sôi động hẳn lên. Đặc biệt, đến khi Nguyễn Huy Thiệp trình làng các tác phẩm Tướng về hưu, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết, Những ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy thần, Thương nhớ đồng quê... đã tạo ra sự chấn động trong giới văn chương chữ nghĩa. Lúc này, sự phân hóa của giới phê bình văn học, nghệ thuật đã lên tới đỉnh điểm, chia thành hai phái khen - chê quyết liệt. Có lúc điều này đã trở thành lo lắng cho những người làm công tác quản lý văn học, nghệ thuật. Đã có lúc có sự thái quá về khen - chê khiến công chúng yêu văn học dường như bị chênh chao, mất phương hướng khi đi tìm giá trị thẩm mỹ cốt lõi. Sau độ lùi thời gian, chúng ta thấy hiện tượng phê bình Nguyễn Huy Thiệp theo nhiều chiều như vậy cũng là lẽ bình thường, tất yếu của một nền văn học, nhất là trong đổi mới. Điều này là sự lành mạnh đáng khen ngợi. Chúng ta phải biết gạn đục, khơi trong mới có thể tạo điều kiện tốt nhất để văn học, nghệ thuật phát triển tự nhiên. Sự phân hóa của phê bình văn học, nghệ thuật phải được hiểu là một tất yếu khoa học. Các nhà quản lý văn học, nghệ thuật dường như không hiểu hoặc cố tình lờ đi vấn đề này chỉ làm cản trở sự phát triển của văn học, nghệ thuật mà thôi.
Tựu trung lại, từ thực tiễn và thành tựu của sáng tác văn học, nghệ thuật đã dẫn đến những thành tựu từng bước của chuyên ngành phê bình văn học, nghệ thuật. Xưa nay, thường khó có sự thống nhất ý kiến, đánh giá, nhìn nhận của giới sáng tác và giới phê bình. Dường như luôn có sự vênh nhau, phản biện lẫn nhau, thậm chí là phủ định nhau. Điều này đã tồn tại và sẽ còn tồn tại. Chúng ta nên nhìn nó
68
dưới góc độ khoa học sẽ thấy rằng đó cũng là vẻ đẹp của văn học, nghệ thuật. Bất kỳ một sản phẩm văn học, nghệ thuật nào đều cần và phải được đánh giá, phê bình một cách liên tục và công tâm. Đây chính là công sức, thành tựu, lẽ sống của phê bình văn học, nghệ thuật. Chúng ta nên vừa phản biện, vừa lắng nghe nhau; vừa phê bình, vừa dẫn dắt nhau, hướng tới sự đồng thuận để cùng tiến đến bầu trời đích thực của nghệ thuật.
2. Thách thức và giải pháp
Phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay đang chịu rất nhiều thách thức. Thách thức từ chính sáng tác và đời sống văn học, nghệ thuật. Phê bình văn học, nghệ thuật cũng có nhiều “căn bệnh” mà những nhà quản lý, người sáng tác, công chúng thưởng thức văn học, nghệ thuật đã chỉ ra. Có nhiều ý kiến cho rằng phê bình không theo kịp sáng tác, chạy theo sáng tác, màu mè nhõng nhẽo, thậm chí làm “nhiễu” đời sống văn học, nghệ thuật. Bình tâm mà xét, không phải những ý kiến trên thiếu lý lẽ thuyết phục, giới phê bình hãy tự tìm hiểu nguyên nhân. Điều này vừa phù hợp với yếu tố khoa học, vừa là để tìm ra đường đi tất yếu, bền vững, góp phần làm nên thành tựu mới của phê bình văn học, nghệ thuật.
Phải thấy được rằng những bất cập, thậm chí rối ren của phê bình văn học, nghệ thuật đang diễn ra có nguyên nhân trước tiên từ phía những người sáng tác. Những khuynh hướng sáng tác mang quá nhiều tính thử nghiệm, phiêu lưu, gây sốc đã vô hình trung làm phương hại tới công việc phê bình. Nhà văn chẳng hạn, nhiều người, nhất là các tác giả trẻ
69
ưa thích phiêu lưu, muốn sớm nổi danh đã tung ra các tác phẩm bất chấp “luân thường đạo lý” khiến các nhà phê bình lúng túng. Đơn cử trường hợp tác phẩm của một cây bút trẻ nữ ở Thành phố Hồ Chí Minh viết rất rẻ rúng, buông tuồng, tha hóa, một loại văn chương hạ cấp bỗng nhiên trở thành sách best seller. Các nhà phê bình im lặng hoặc khen chê không theo quy cách gì càng khiến người đọc mất phương hướng. Các nhà văn đích thực lúc này đây trông chờ sự minh định của nhà phê bình nhưng mỏi mòn không thấy. Điều này càng kéo giãn khoảng cách, sự ngán ngẩm giữa giới sáng tác và phê bình. Điều này khiến công chúng bất an. Có lẽ nào một cuốn sách hạ cấp như vậy lại bán chạy và nhà phê bình lại vô can và vô cảm?
Thách thức của phê bình văn học, nghệ thuật còn đến từ sự vô lối của các nhà xuất bản. Thời kinh tế thị trường, mọi thứ đều sôi động và phức tạp. Diễn biến xuất bản của các nhà xuất bản trong cả nước không tránh khỏi những hệ lụy. Các loại sách tràn ngập thị trường hiện nay là một thách thức lớn đối với công tác phê bình. Đặc biệt là những sách “vô thưởng vô phạt”, thậm chí sai trái về ngôn ngữ, đạo đức, kiến thức, lệch lạc về tư tưởng chính trị... vẫn được xuất bản và lưu hành. Phê bình văn học, nghệ thuật đứng trước một “núi” sách hay - dở lẫn lộn chỉ biết “thở dài”. Một số đơn vị xuất bản “nhắm mắt” để các tác phẩm như thế ra đời. Các đơn vị xuất bản cũng phải tìm cách để tồn tại và phát triển, nên có xảy ra hiện tượng cho xuất bản một số tác phẩm dở còn hơn in các tác phẩm hay nhưng nhạy cảm về chính trị, để đảm bảo an toàn cho mình. Các nhà phê bình văn học, nghệ thuật dường như bất lực trước đống sách dở được hà hơi tiếp sức
70
từ một số nhà xuất bản. Đây là một thách thức không nhỏ, một ngáng trở không cần thiết đã và đang diễn ra, thách thức không chỉ nhà phê bình mà đối với cả giới sáng tác chân chính.
Một thách thức nữa đến từ phía bạn đọc phổ thông, nhất là những bạn đọc ưa thích ném đá trên mạng càng dễ gây rối cho các nhà phê bình. Năm người mười ý. Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã thông. Đọc vội dăm ba trang rồi phán xét cả cuốn sách. Không vừa ý ở đâu đó là có thể đem tác phẩm bất kỳ nào đó ra thóa mạ. Ngay như trên các trang mạng văn chương đang ngày càng nhan nhản thì những ý kiến đao to búa lớn, đông - tây - kim - cổ rất ghê gớm, thiếu kiểm chứng khiến không chỉ nhà phê bình mà ngay người sáng tác cũng chỉ biết ngơ ngác nhìn nhau. Điều này biểu hiện cái gì? Xin trả lời, đó là chúng ta chưa có sự trưởng thành của một xã hội văn minh. Các nhà văn và các nhà phê bình phải làm gì? Câu trả lời không hề đơn giản. Cần phải có một phương lược dài rộng, sự chung tay góp sức từ những người quản lý cấp cao tới mọi giai tầng trong xã hội ở mức độ quyết liệt nhất.
Một thách thức không nhỏ đến từ chính đội ngũ những người làm công tác phê bình văn học, nghệ thuật. Chính đội ngũ này đang có sự phân hóa rõ rệt. Chia tách nhau ra để khai thác mỗi cá tính, mỗi tiềm năng làm nên sự khác biệt, góp phần để phê bình văn học, nghệ thuật đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc là điều đáng quý, nhưng chia rẽ đến mức chỉ dành thời gian công kích lẫn nhau, “bỏ bóng đá người”, “đánh lận con đen” là một điểm yếu đang hiện hình trong đội ngũ phê bình văn học, nghệ thuật. Phê bình cũng như sáng tác, không chỉ cần trái tim đồng điệu, tài năng toàn diện mà
71
phải biết từ con mắt xanh ấy, từ trái tim nóng ấy, bình tĩnh mà sáng tạo trên những tác phẩm đã được sáng tạo bằng tim óc của nhà văn. Chúng ta vẫn hay phàn nàn thiếu những nhà phê bình tầm cỡ mà không biết trân quý những nhà phê bình tài hoa, tuy chỉ ở từng mảng nhưng đó mới là cuộc sống đích thực. Chưa có ngay được người đại tài để dùng thì hãy nên sử dụng những người tài vừa, tài ít và tôn vinh họ. Đừng đem cái đòi hỏi vô cùng tận để áp đặt vào sáng tác hoặc phê bình văn học, nghệ thuật như hôm nay.
Từ những thực tiễn, thành tựu và những thách thức đã và đang được đặt ra, hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay đang đứng trước những vận hội và thời cơ mới. Vượt lên trên tất cả, dung hòa và tìm hướng đi đúng đắn cho mình, tạo dựng một hệ thống lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chuẩn hóa trên cơ sở lấy sự phát triển toàn diện của các hoạt động văn học, nghệ thuật làm trung tâm, phát huy mọi giá trị sẵn có từ truyền thống tới hiện đại làm diện mạo, tự tin xác lập nền tảng riêng trên tinh thần nền tảng văn hóa, các thành tựu văn hiến của dân tộc và hội nhập quốc tế có chọn lọc... chính là con đường mới của lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay.
Chúng ta đang trong xu thế hội nhập mạnh mẽ, trong đó có hội nhập về văn hóa. Điều này đòi hỏi không chỉ ở nền tảng lý luận, các mảng sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật mà cái đích đến cao nhất chính là xây dựng sự trưởng thành toàn diện, trong đó có trưởng thành về văn hóa của người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong dòng chảy văn minh nhân loại. Chúng ta không chỉ cần tự chủ, tự tin, tự hoàn thiện năng lực và nhân cách của mình mà phải biết
72
bứt phá và bước đi từng bước vững chắc trong xu thế hội nhập. Chúng ta không chỉ mãi trích dẫn người khác từ lý thuyết đến thực hành, từ sáng tác đến phê bình. Ở một đất nước với trên chín mươi triệu dân, với bề dày văn hóa lịch sử hằng nghìn năm dựng nước và giữ nước vô cùng đậm đặc bản sắc, chúng ta phải biết tự mình rèn luyện, trưởng thành. Những thành tựu, trong đó có thành tựu về văn hóa, văn học, nghệ thuật của loài người đem đến đối với người Việt Nam phải biết tiếp nhận và chuyển hóa, nhận thức và sáng tạo trên tinh thần đổi mới, biết cách mở rộng, nâng tầm để đóng góp những tinh hoa của riêng mình vào ngôi nhà chung nhân loại. Điều này phải được mỗi người làm công tác sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật tiếp nhận và tự đặt ra từng mục tiêu riêng, từng mốc sáng tạo, hướng đến xây dựng thành tựu từ riêng mỗi cá thể tới cộng đồng rộng lớn. Đây chắc chắn là ước muốn và khát vọng không chỉ của giới sáng tác, nghiên cứu phê bình văn học, nghệ thuật trong giai đoạn lịch sử sôi động hôm nay. Một dân tộc, một con người nếu thiếu tự tin, cứ tự ti về văn hóa sẽ không thể nào ngẩng cao đầu lao động sáng tạo và đóng góp hữu ích để trưởng thành.
73
PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY - MỘT HIỆN THỰC ĐÁNG BUỒN
NGUYỄN THỊ NAM
Có thể nói “một hiện thực đáng buồn” về thực trạng của phê bình văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện nay mà không sợ quá lời. Công việc phê bình văn nghệ không được coi trọng ở nhiều khâu: từ người cầm bút đến người sử dụng, và hậu quả là công chúng cũng không coi trọng, không chờ đợi, thậm chí quên luôn.
1. Về thực trạng
Rất ít những bài viết chất lượng theo đúng yêu cầu, trách nhiệm của phê bình văn nghệ. Hiểu chữ phê bình đủ nghĩa, không chỉ là “phê” cho người ta thấy cái dở, sự thiếu sót của tác phẩm mà còn phải “bình” đến nơi đến chốn sự thành công, cái hay, cái đẹp không chỉ về nội dung tác phẩm mà cả hình thức thể hiện theo đặc thù ngôn ngữ của ngành nghệ thuật của tác phẩm được viết cũng như giá trị của tác phẩm trong bối cảnh xã hội và của sự phát triển ngành đó nếu có. Hiện nay tồn tại nhiều bài viết “phê” không đến nơi đến chốn, “bình” cũng chẳng thấu đáo.
Nói rằng không có những bài viết phê bình đúng nghĩa và có giá trị thì không đúng nhưng thực sự rất ít và buồn thay
74
đó lại không phải là khuynh hướng chung của những người có điều kiện cầm bút hiện tại. Nói rằng “có điều kiện” là để chỉ những người có chân trong một tòa soạn báo, tạp chí, trong ban văn nghệ của đài phát thanh và truyền hình Trung ương và địa phương. Họ có “đất” để đăng bài hoặc lên sóng. Những người viết phê bình ngoài biên chế của họ, nếu tự viết gửi đến thì không có chỗ vì thực tế họ muốn thông tin sớm, nhanh, họ không chờ được và họ cũng ít đặt viết nếu bản thân biên tập viên và “lãnh đạo” của cơ quan ngôn luận đó không chú ý đến việc phê bình có hiệu quả tốt. Vậy thì có hiện tượng viết theo kiểu “điểm báo, điểm phim, đọc sách”... nghĩa là tóm tắt nội dung là chính, may ra thì có thêm vài nhận xét hay, dở và vài ba câu về đạo diễn hoặc diễn viên nếu là bài “điểm” phim hoặc vở diễn... Và như thế thì điểm phim, điểm sách, điểm vở diễn cũng viết na ná như nhau.
Bởi lẽ trên, đã xuất hiện cụm từ “phê bình kiểu báo chí” để chỉ kiểu viết hời hợt này. Bài của cộng tác viên được xử lý có nhiều lúc tùy tiện. Ở những tạp chí chuyên ngành và người phụ trách có xu hướng theo học thuật thì khi thay đổi hoặc sửa chữa câu chữ, biên tập viên trao đổi với tác giả. Đó là cách làm đúng luật và thể hiện sự tôn trọng người viết. Nhưng ở một số tờ báo không chuyên ngành thì sự sửa chữa, cắt cúp rất chủ quan, nhiều khi cắt cơ học, họa sĩ cũng có thể cắt do... thiếu chỗ. Tôi đã có nhiều kinh nghiệm cay đắng về chuyện bài của mình bị sửa chữa, cắt cúp vô lối này.
Phê bình “kiểu báo chí” này có thể có những bài trung tính, khách quan mặc dù hời hợt. Nhưng không ít trường hợp
75
có những bài viết theo kiểu quảng cáo, tiếp thị; khen quá lời vì mối quan hệ cá nhân, vì mối quan hệ của cấp trên của người viết với người có tác phẩm... Còn đâu tính khách quan của ngòi bút phê bình?
Tôi đã hỏi ý kiến một số nhà văn về phê bình văn nghệ và nhận được những ý kiến của họ. Ngô Thảo - nhà văn, nhà phê bình sân khấu nói: “Chỉ có những ý kiến sau các buổi tổng duyệt là khả dĩ, còn nói chung không có phê bình sân khấu” (Có khi vì nể người phụ trách nhà hát - sợ bị chê thì vở diễn không có khán giả). Nhà báo, nhà văn Trần Chiến nói rằng: “Đôi khi một vài ý kiến vỗ vai nhau nói thì có giá trị”. Nhà văn Bắc Sơn nhận xét về một số bài phê bình - trong đó có bài viết về truyện của ông, rằng: chính những người viết cũng không hiểu hoặc hiểu không đúng tác phẩm.
2. Về nguyên nhân
Nguyên nhân của sự bất cập trong phê bình văn học, nghệ thuật có thể tìm từ hai phía: người viết và người quản lý, sử dụng.
a) Người viết: vấn đề đào tạo, tự đào tạo
Đội ngũ viết chủ lực ở các cơ quan báo chí đều đã tốt nghiệp một trường đại học văn khoa, âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu - điện ảnh, nhưng đại học báo chí là nhiều nhất...
Đại học báo chí chắc chắn sẽ không dạy chuyên sâu về các ngành nghệ thuật. Những người tốt nghiệp các trường văn học, nghệ thuật được đào tạo cơ bản, nhưng nếu chúng ta đi sâu tìm hiểu thì ở một số trường, sự đào tạo này cũng không đạt yêu cầu do điều kiện của môi trường học, do trình
76
độ và nhiệt huyết của giảng viên, do cách học và sự nhiệt tình của sinh viên (Tôi có một kỷ niệm khó quên: một sinh viên đến nhờ hỗ trợ làm luận văn tốt nghiệp Khoa Lý luận - phê bình điện ảnh thật thà nói với tôi: “Thú thật với cô, em cũng chẳng hiểu ngôn ngữ điện ảnh là gì”. Nó là tổng hợp nhiều môn em ấy học trong trường, nhưng không ai giúp em đúc kết lại. Lúc ấy tôi nghĩ, “Trời ơi, những người học lý luận, phê bình như thế này mà ngồi ở một tòa soạn, họ cứ tự nhiên cho quyền nhúng bút vào bài vở của những người như mình - khi viết luôn đắn đo, cân nhắc từng câu, từng chữ - thì thật đau khổ cho người cầm bút”).
Kiến thức ở nhà trường mới chỉ là cơ bản, là sơ đẳng, nếu sau khi ra trường không tiếp tục trau dồi, mở rộng hiểu biết thì năng lực sẽ rất hạn hẹp. Trong khi đó, trong các ban văn nghệ của báo chí, đài không chuyên ngành thì một phóng viên - biên tập viên phải phụ trách vài ba ngành nghệ thuật. Tính không chuyên, kiến thức chưa thể đủ dùng nếu bản thân mỗi người không tự học thêm (và cả việc học văn bằng 2 của môn mình chưa được đào tạo) thì chuyện viết, chuyện sử dụng bài phê bình văn nghệ bị hạn chế là điều không mấy ngạc nhiên.
Việc rèn luyện bản thân để mở rộng sự hiểu biết, nâng cao tay nghề trước hết là của bản thân các nhà báo, nhà phê bình. Nhưng bản thân họ cũng bị nhiều hạn chế do hoàn cảnh khách quan.
b) Người quản lý, cách quản lý
Không phải tất cả những cán bộ quản lý ở các đài, báo, ở bộ phận văn nghệ đều có chuyên môn sâu rộng về văn học,
77
nghệ thuật (trừ ở các tạp chí chuyên ngành) hoặc có tình yêu với các bộ môn này.
Người được cất nhắc lên vị trí quản lý - lãnh đạo trước hết được xét về trình độ nhận thức chính trị. Nhiều người lên chức bắt buộc phải lấy bằng ở các lớp chính trị cao cấp: rất đúng, nhưng chưa đủ. Có lẽ chưa có nơi nào yêu cầu họ dự các lớp về lý luận và thực tiễn văn học, nghệ thuật hoặc học thêm về ít nhất là một trong các ngành văn học, nghệ thuật. Trong khi nếu làm công tác văn hóa tốt thì hiệu quả chính trị rất lớn.
Các cán bộ lãnh đạo báo chí văn nghệ hầu như không quan tâm đến việc tự bồi dưỡng kiến thức văn học, nghệ thuật cho mình. Họ có lẽ cũng ít tạo điều kiện cho cấp dưới được học hành bồi dưỡng thêm, cũng không để tâm đến việc cấp dưới của mình thuận hay nghịch với bộ môn được phân công phụ trách.
Cán bộ quản lý nào có chút tình yêu với văn học, nghệ thuật thì còn chăm chú đến yếu tố nghệ thuật, chất lượng chuyên môn (văn học, nghệ thuật) của bài viết. Còn nói chung, điều quan tâm lớn nhất, gần như tuyệt đối của họ là làm sao không sai phạm về chính trị, sau đó có thể mới tính đến “hay” (mà không hay cũng chẳng sao!). Bởi vậy, họ duyệt cho qua những tin, bài về văn học, nghệ thuật cũng theo tiêu chuẩn chính trị, không phạm luật, không phạm những điều cấm kỵ về chính trị là được. Do đó, ở nhiều báo không xuất hiện những bài phê bình văn học, nghệ thuật có chất lượng, mặc dù vẫn còn có những người viết tốt.
Cách quản lý này đã khách quan làm cho các mục văn học, nghệ thuật thiếu chiều sâu, ít thú vị, ảnh hưởng đến
78