🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ôn bệnh Ebooks Nhóm Zalo TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI KHOA Y HỌC CỔ TRUYỂN GS. TRẤN THUÝ - PGS. TS. NGUYỄN NHƯỢC KIM NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI KHOA Y HỌC CỔ TRUYỀN GS. TRẦN THUÝ PGS. TS. NGUYỄN NHƯỢC KIM ÔN BỆNH ■ NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC HÀ NỘI - 2005 LỜI NÓI ĐẦU Chúng tôi biên soạn phần Ôn bệnh - là phần nằm trong chương trình giảng dậy cho các sinh viên và học viên của các bậc học sau đại học của chuyên ngành Y học cô truyền, nhằm giúp người đọc tham khảo thêm những Y văn kinh điển về những chứng bệnh thường gặp đặc biệt trong các bệnh ngoại cảm có sốt và những bệnh truyền nhiễm của y học cô truyền. Cơ sở biên soạn chủ yếu của chúng tôi dựa trên cuốn Ôn bệnh của Diệp Thiên Sĩ (1667 - 1746) cuối đời nhà Thanh - Trung Quốc và Ôn dịch luận của Ngô Hựu K hả (1587 - 1657) cuối đời Minh - đầu đời Thanh Trung Quốc, cùng với các tác giả Việt Nam như Ôn bệnh biệt nam của Nguyễn Gia Phan (1814) và một s ố tác giả khác ... Chúng tôi biên soạn cuốn "Ôn bệnh" là nằm trong chương trình nghiên cứu k ế thừa vốn quí của Y học cổ truyền phương Đông - của Bộ Y tế. Kiến thức của người xưa rất rộng, ngôn từ nhiều nghĩa nên biên soạn những sách kinh điển là vấn đề khó khăn. Do vậy trong quá trình biên soạn, khó tránh khỏi sai sót rất mong được sự đóng góp của các đồng nghiệp, đ ể hy vọng những lần biên soạn sau được hoàn chỉnh hơn. Các tác giả 3 KHÁI NIỆM 1 - ĐỊNH NGHĨA Ôn bệnh là các bệnh cảm phải ôn tà. Ôn bệnh nằm trong phạm trù của bệnh ngoại cảm, bệnh có tính chất nhiệt như: Nóng, khát, miệng khô, mồ hôi ra nhiều họng háo, tâm phiền, đại tiện táo, xuất huyết, điên cuồng, mê sảng, co giật, mạch sác v.vễ.ế 2ể ỒN BỆNH VÀ ÔN DỊCH Ôn bệnh là bệnh lẻ tẻ từng người, ôn dịch là bệnh hàng loạt người bị, Chu Dương Tuấn nói: Một ngưòi bị bệnh gọi là ôn, một địa phương nhiều người bị bệnh giống nhau gọi là dịch. 3ể PHÂN LOẠI Ồn bệnh là do ôn tà gây nên nhưng mỗi ôn tà gặp các thời tiết (quý tiết) khác nhau phát sinh ra bệnh khác nhau. Cho nên dựa vào thòi tiết khác nhau mà chia ra các bệnh sau: 3.1. PHONG ÔN (PHONG ÔN BỆNH ĐỘC). Bệnh xuất hiện cuối đông (đông mạt) và đầu xuân (xuân sơ) Khí hậu có nhiều gió (phong) và ấm (ôn) kết hợp gây bệnh. 3.2. XUÂN ỒN (XUÂN ÔN BỆNH ĐỘC). Bệnh xuất hiện.giữa mùa xuân 3.3. THỬ ÔN (THỬ ÔN BỆNH ĐỘC). Bệnh xuất hiện mùa hạ vì mùa hạ có nắng nhiều (thử). 3.4. THẤP ÔN (THẤP ÔN BỆNH ĐỘC). Bệnh xuất hiện ở trưởng hạ (cuối hạ) vì cuối hạ có mưa nhiều (thấp). 3.5. THU TÁO Bệnh xuất hiện ở mùa thu vì mùa thu khí hậu khô hanh. 3.6. PHỤC THỬ. Bệnh xuất hiện bệnh ở mùa thu và mùa đông. 3.7. ĐÔNG ÔN. Bệnh xuất hiện mùa đông, mùa đông thường là khí hậu lạnh nhưng lại nóng (ôn) gọi là trái tiết. 3.8. ÔN ĐỘC. Bệnh xuất hiện ở hai mùa đông xuân, xuất hiện những chứng cục bộ sưng nóng đỏ đau, nặng thì vỡ lở loét. 5 PHẦN I CHẨN TRỊ ÔN BỆNH ■ ■ C hương I BỆNH PHONG ÔN I. ĐẠI CƯƠNG Phong ôn là bệnh ôn nhiệt phát ở hai mùa Đông - Xuân, do cảm phải độc tà phong nhiệt mà gây ra, cho nên gọi là phong ôn. Đặc trưng của nó là khí mới phát bệnh có những chứng về phế như phát sô't, hơi sợ gió, lạnh, miệng hơi khát. Nguyên nhân do cảm phải độc tà phong nhiệt của mùa xuân hoặc mùa đông mà gây nên vì mùa xuân khí phong mộc hành bệnh, dương khí bốc lên, khí hậu ấm áp nhiều gió, ngưòi nào bẩm thụ kém, tấu lý sơ hở, hoặc vì làm việc, nghỉ ngơi không điều độ dầu dãi trước phong nhiệt sẽ cảm thụ độc tà, mà sinh bệnh. Diệp Thiên Sĩ nói: "Chứng phong ôn là mùa xuân của phái phong tà, phong khí đã ấm (ôn)" tức là chỉ về bệnh này. Nếu đang mùa đông mà khí hậu trái thường, đáng lý rét lại ấm, người nào chính khí kém có thể cảm phải độc tà phong nhiệt mà phát ra bệnh này. Do bệnh này phát sinh ở mùa đông, cho nên gọi tên là đông ôn. Vì thế Ngô Khô An nói "Phàm tròi lạnh ấm, gió ấm ấm quá, cảm phải khí đó tức là tà của phong ôn". Đấy cũng đã nói rõ nguyên nhân gây bệnh của phong ôn là ỏ trong điều kiện "gió ấm ấm quá" mà hình thành. Bệnh này lúc mới phát lấy tà ở phế trung tâm bệnh. Vì độc tà ôn nhiệt phần nhiều cảm vào từ thượng bán thân trước vị trí của phế rất cao, tà tất làm tổn thương trước. Bởi vì phế hợp với bì mao, vệ khí thông với phế, vì sao lại là nơi vệ khí phân bô", cho nên độc tà vào phế tất nhiên vệ khí là chỗ xung yếu trước hết, mà xuất hiện ra chứng hậu về phế vệ khí là phát sốt sợ gió, ho, hơi khát nước. Nếu tà ở phế và không giải được xu hướng phát triển của nó sẽ dẫn đến hai tình huống: một là thuận truyền xuống tâm vị; hai là nghịch truyền sang tâm bào. Diệp Thiên Sĩ nói: "Ôn tà cảm thụ ở trên đầu tiên phạm vào phế, nghịch truyền sang tâm bào "không chỉ rõ bệnh biến của bệnh phong ôn khí mới phát mà còn vạch ra qui luật diễn biến của nó nữa. Phàm nhiệt là thuận truyền xuống vị phần nhiều hiện rõ dấu hiệu Dương minh nhiệt thịnh, nếu nhiệt tà ở dương minh không được thanh giải kịp thời, thường dễ vào sâu đến hạ tiêu, làm tổn hại phần âm của can thận mà thành chứng hậu thực tà ít hư nhiều, ôn tà nghịch truyền sang tâm bào, thì tất thấy những chứng hậu về thần chí như mê man nói sảng. Ngoài ra trong quá trình diễn biến dễ biến, dễ phát ra chứng sởi, và xuất hiện 7 những chứng kinh quyết động phong đàm nóng, suyễn cấp, đó cũng là một trong những đặc điểm của bệnh này. Chữa bệnh phong ôn, khi mới phát hiện tà còn ở phế vệ nên dùng phép "tân lương tuyên giải" để đuổi tà ra ngoài, nếu tà truyền vào phần khí thì nên dùng phép " tân hàn thanh nhiệt", hoặc "khổ hàn công hạ", nếu là hãm vào tâm bào thì tất phải "thanh tâm khai khiếu". Diệp Thiên Sĩ đã nói ở trong "Tam thời phục khí ngoại cảm thiên" rằng: “Chứng này lúc đầu phát sốt, ho trước dùng thuốc thanh lương để làm dịu mát thượng tiêu,... nếu sắc xanh, nhiệt thắng, phiền khát dùng Thạch cao. Trúc diệp tân hàn thanh tán, chứng sởi cũng nên chữa theo cách này”, nếu sô" ngày nhiều dần, tà không giải được thì bài Cầm Liên hương cách cũng nên sử dụng đến khí nhiệt tà nghịch truyền vào Đản trung, hôn mê mắt mờ, mũi không chảy nước, các khiếu muôn bế tắc, thế bệnh nguy cấp, tất phải dùng Chí bảo đan hoặc Ngưu hoàng thanh tâm hoàn. Còn dư nhiệt sau khi bệnh đã bớt chỉ nên dùng thuốc Cam làm thanh dưỡng vị âm là đủ . về cách chữa từng giai đoạn trong quá trình phát triển của bệnh này trình bày cụ thể sau: II. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ • • • 2.1. T à x â m vào p h ế vệ 2.1.1. P hong ôn lưu ở biểu a. Chứng hậu: Phát sốt, hơi sợ gió lạnh, không mồ hôi hoặc ít mồ hôi, nhức đầu, ho, hơi khát nước, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch phù sác. b. Cơ ch ế bệnh: Bệnh phong ôn mới phát, tà xâm nhập vào phần biểu, vệ khí bị uất, mất chức năng mở đóng, cho nên thấy những chứng phát sốt, hơi sợ gió lạnh, không mồ hôi hoặc ít mồ hôi, đầu nhức, rêu lưỡi mỏng trắng. Vệ khí thông với phế, vệ khí uất trở, thì phế không tuyên thông, cho nên ho. Tính chất của tà phong ôn thuộc nhiệt, lúc mới phát bệnh tà còn ở phần vệ, cho nên mạch phần nhiều phù sác. Tà phong ôn hoá nhiệt rất nhanh, để hao tôn tân dịch, cho nên mới mắc bệnh thì cảm thấy hơi khát nước, nhưng so với chứng khát nhiều uống luôn của chứng lý nhiệt quá thịnh thì khác nhau. Những chứng phát sốt, hơi sợ gió lạnh không mồ hôi hoặc ít mồ hôi, nhức đầu, ho, rêu lưỡi mỏng trắng của chứng này, hơi tương tự với chứng ngoại cảm phong hàn, nhưng phong hàn ỏ phần biểu, phát sốt nhẹ hơn mà sợ gió lạnh lại nặng hơn và lại không khát nước, mạch phần nhiều phù hoãn hoặc phù khẩn còn phong ôn ở phần biểu thì phát sốt nặng hơn, sỢ gió lạnh nhẹ hơn, hơi khát nước, mạch phần nhiều phù sác, cho nên biện chứng của hai bệnh này được phân biệt rõ ràng. c. Pháp chữa: Phàm khí tà còn ở ngoài cơ biểu thì tất cả cách chữa đều nên dùng thuốc tân tán để khu trừ ngoại tà. Chứng này đã thuộc tà lưu ở vệ biểu tất nhiên phải dùng thuốc tân ôn thích hợp với chứng phong hàn ở phần biểu, chứng này là phong nhiệt lưu ở phần biểu tất nhiên phải dùng thuốc tân lương. Thiên Chí Chân yếu đại luận sách "Tô" vấn" nói: "Phong khí lan tràn ở trong, chữa bằng thuốc tân lương là bằng thuốc khổ cam, dùng thuốc ngọt để làm hoà hoãn" cũng tức là ý này. Nếu dùng nhầm thuốc tân ôn thì biểu tà chưa chắc đã giải được, mà 8 nhiệt tà lại tăng thêm. Chứng này dùng Ngân kiều tán, tức là có ý dùng tân đế giải biểu, lương để thắng nhiệt. d. B ài thuốc: Ngân kiều tán (ôn bệnh điều biện). Liên kiều 40g Đạm đầu sị 20g Bạc hà 24g Cát cánh 24g Kinh giới tuệ 16g Cam thảo 20g Ngân hoa 40g Ngưu bàng tử 24g Trúc diệp 16g Các vị trên tán nhỏ mỗi lần uống 6 đồng cân sắc với Rễ lau tươi khi thấy hơi thơm bốc lên thì rót ra uống, chớ nên sắc quá mức, thuốc chữa phế cần lấy trong nhẹ, sắc quá mức thì vị đậm mà dẫn vào trung tiêu. Bệnh nặng 2 giò uô"ng 1 lần, ngày uống 3 lần, đêm uống 1 lần; bệnh nhẹ thì 3 giò uống 1 lần, ngày uống 3 lần, đêm uống 1 lần. Bệnh chưa khỏi thì nên uống thêm thang nữa. Ngô Cúc Thông nói: "Chữa ở thượng tiêu thì cần như lông, không nhẹ thì không cất lên được". Cho nên bài này lấy thuốc nhẹ trong tuyên đạt để tuyên thông tà ở phế vệ. Trong bài có Kinh giới tuệ, Đậu sị, Bạc hà, giải biểu phát hãn, đuổi tà ra ngoài, Ngưu bàng, Cam thảo, Cát cánh, nhẹ nhàng tuyên thông phế khí để trừ ho, Liên kiều, Ngân hoa, Trúc diệp thanh nhiệt làm chủ, mà hơi kiêm thuốc tân ôn, cho nên Ngô Cúc Thông gọi nó là Tân lương bình tễ", dùng vào chứng phong nhiệt lưu ở phần biểu mà sợ lạnh không mồ hôi là rất thích hợp. Nếu sỢ lạnh rồi thì Kinh giới. Đậu sị cũng không nên dùng nữa. Nếu bệnh nhân không tiện dùng thuốc tán mà rút bớt đi, thời gian sắc thuốc cũng không nên lâu quá. Sau bài có chép cách tuỳ chứng gia giảm nên tham khảo. Kiêm có uế trọc ngăn trở ở phần khí, mà tức ngực thì gia them Hoắc hương, Uất kim để lấy thơm tho trừ uế, thông lợi khí cơ. Vì ôn nhiệt đốt tân dịch mà khát nước nhiều, thì gia thêm Thiên hoa phấn để sinh tân thanh nhiệt. Kiêm ôn tà ghé độc mà cổ sưng họng đau, thì gia Ngưu bàng tử, Huyền sâm để giải độc tiêu thũng. Vì phế khí không giáng xuống ho nhiều khá nặng, nên gia Hạnh nhân để tuyên lợi phế khí. Vì nhiệt thương tổn dương lạc mà nạo huyết nên bỏ Kinh giới, Đậu sị là thuốc tân ôn hay sợ nhiệt, gia những vị Bạch mao căn, Trắc bá đốt thành than, Chi tử đốt thành than để làm mát phần dinh, cầm máu. Nếu nhiệt dẫn vào lý mà hại tới phần dinh, thì gia Sinh địa nhỏ củ, Mạch đông để thanh nhiệt tư dưỡng phần dinh. Nếu nhiệt làm hao tổn tân dịch mà tiểu tiện ngắn, nên gia Tri mẫu, Hoàng cầm, Chi tử khổ hàn và Mạch đông, Sinh địa là thuốc cam hàn để thanh nhiệt dưỡng âm. 2.1.2. P h o n g tà xâm p h a m vào p h ê a. Chứng hậu: Chỉ ho, mình không nóng lắm, hơi khát nước. 9 b. Cơ chê bệnh: Chứng này là chứng hậu phong ôn xâm phạm vào phế, cảm phải tà khí nhẹ hơn, cũng là chứng thấy của bệnh phong ôn mới bắt đầu" Vì bệnh thể nhẹ hơn, trọng tâm của cơ chế bệnh là ở phế, phế khí không tuyên thông được cho nên biện chứng lấy ho làm chủ yếu. Còn các chứng khác như phát sốt, khát nước đều nhẹ hơn. c. Pháp chữa: Thể của chứng này nhẹ hơn, cho nên chữa nó nên tân lương thấu biểu. Dùng bài Tang cúc ẩm là rất thích hợp. d. B ài thuốc: Tang cúc ẩm (ôn bệnh điều biện). Hạnh nhân 8g Liên kiều 6g Bạc hà 7g Tang diệp 8g Cúc hoa 4g Cát cánh 8g Cam thảo 8g Lô căn 8g Bài này thuộc tân lương khinh tễ. Thuốíc dùng Tam diệp, Cúc hoa, Liên kiều, Bạc hà, tân lương nhẹ thấu biểu để tiết phong nhiệt, Cát cánh, Cam thảo, Hạnh nhân tuyên khai phế khí để chỉ ho, Lô căn để sinh tân, chỉ khát. Phương này với Ngân kiều tán đều là phương tân lương, cho nên hai bài đều thích dùng vói chứng phong nhiệt lưu ở phần biểu, nhưng trong Ngân kiều tán có Kinh giới, Đậu sị hợp vào trong thuốc tân lương, cho nên gọi là tân lương bình tễ. vả lại lượng thuốc nhiều hơn, sức giải biểu mạnh hơn, Tang cúc ẩm phần nhiều là thuộc tân lương, và lượng thuốc nhẹ hơn, cho nên gọi là tân lương khinh tễ, sức giải biểu của phương này kém hơn Ngân kiều tán. Sau bài có chép cách tuỳ chứng gia giảm nên tham khảo thêm. Kiêm nhiệt vào phần khí mà hơi thở to như suyễn gia Thạch cao, Tri mẫu để thanh nhiệt ở phần khí. Kiêm nhiệt vào phần dinh mà lưỡi đỏ, về chiều sốt nhiều hơn, gia Tê giác, Huyền sâm để thanh dinh tiết nhiệt. Nêu nhiệt vào phần huyết, nên bỏ Bạc hà, Lô căn, gia Mạch đông, Sinh địa nhỏ củ, Ngọc trúc, Đan bì. Vì nhiệt vào phần huyết, biểu tà đã nhẹ, cho nên không cần dùng Bạc hà để thấu biểu, nhiệt vào phần huyết, phần nhiều không khát nước, cho nên bỏ Lô căn là thuốc sinh tân chỉ khát, phần huyết có nhiệt, cho nên dùng những vị Mạch đông, Sinh địa, Ngọc trúc, Đan bì để thanh nhiệt ở phần huyết. Nếu phế nhiệt hơn, nên gia Hoàng cầm để thanh phế nhiệt. Nếu nhiệt tổn thương tân dịch mà khát nước nên gia thêm Thiên hoa phấn để thanh nhiệt sinh tân. 2.2. N h iệt vào p h ần khí 2.2.1. N hiêt uất ỏ lồng ngực. a. Chứng hậu: Mình nóng, tâm phiền bứt rứt, nằm ngồi không yên, rêu lưỡi vàng. b. Cơ c h ế bệnh: Đây là biểu chứng đã giải, nhiệt tà vào lý, quấy rối phần lý ở 10 lồng ngực, uất mà không thông, cho nên thấy chứng mình nóng, tâm phiền bứt rứt, nằm ngồi không yên. Nhưng chứng này tà tuy truyền vào lý mà lý không nóng lắm, chưa đến nỗi nhiệt thịnh tổn hại đến tân dịch, cho nên rêu lưỡi chỉ lộ ra hơi vàng mà không có chứng lưỡi khô, miệng khát. c. Phép chữa: Cần thanh tuyên thấu nhiệt, đưa tà ra ngoài, nên dùng Chi tử sị thang rất là đúng chứng. Bài này dùng Chi tử thanh nhiệt, Đậu xị tuyên uất đạt biểu, hợp lại để thanh tuyên nhiệt ở trong ngực. Nếu biểu tà chưa hết, nên gia Bạc hà, Ngưu bàng tử để giải biểu thấu tà, tân dịch hao, miệng khát, nên gia Thiên hoa phấn để sinh tân thanh nhiệt. 2.2.2. N hiệt tà làm b ế tắc p h ế khí. a. Chứng hậu: Mình nóng, phiền khát, mồ hôi ra, ho suyễn, mạch sác, rêu lưõi vàng. b. Cơ c h ế bệnh: Chứng này là tà của phong ôn hoá nhiệt vào lý, nhiệt làm bế tắc phế khí mà gây nên. Đã hoá nhiệt vào lý cho nên mình nóng mà không sợ lạnh, rêu lưỡi cũng từ trắng chuyển thành vàng. Lý nhiệt bốc, tân dịch tổn hao, cho nên mồ hôi ra mà khát nưốc cũng nhiều hơn. Tổng hợp các chứng trên mà xét thì cơ chế bệnh là nhiệt làm bế tắc phế khí so với chứng phong ôn mới phát, là ở phế vệ có phân biệt rõ ràng. c. Phép chữa: Nhiệt tà làm bế tắc phế khí cần phải thanh tuyên nhiệt tà ở trong phế, phế khí được tuyên giáng, cho nên cần dùng Ma hạnh thạch cam thang để thanh tuyên phế nhiệt mà dẹp cơn suyễn. d. B ài thuốc: Ma hạnh cam thạch thang (thương hàn luận) Ma hoàng 12g Chích thảo 12g Hạnh nhân 12g Thạch cao 16g Phương này dùng Ma hoàng, Hạnh nhân tuyên thông phế khí, Thạch cao thanh tiết nhiệt tà, Cam thảo điều hoà các thuốc. Hợp lại cùng thành công hiệu thanh tuyên phế nhiệt. Ma hoàng tân ôn, vốn là thuốc phát hãn giải biểu, Thạch cao tân hàn, chuyên thanh nhiệt ở phần khí của Dương minh nhưng hai thứ này phối hợp với nhau thì tác dụng của Ma hoàng lại không ở phát hãn giải biểu, mà chủ yếu là ở tuyên phế định suyễn, Thạch cao phối hợp với Ma hoàng thì không phải thanh nhiệt ở Dương minh mà lại là tiết nhiệt tà ở trong phế. Vì thế phương này tuy cũng thuộc loại thuốc tân lương tuyên thấu, nhưng tác dụng chủ yếu là tuyên phế thấu nhiệt mà không phải giải biểu, so với những Ngân kiều tán, Tang cúc ẩm, tân lương giải biểu là khác nhau. 2.2.3. Đ àm nhiêt n gă n trởphếy p h ủ có nhiệt kết a. Chứng hậu: Sốt cơn, đại tiện bí, thở dốc không yên, đòm bị ngưng trệ, mạch hữu thốn thực đại. b. Cơ c h ế bệnh '. Sốt cơn, đại tiện bí, là chứng có Dương minh phủ thực, nhiệt uất ở phế, nung đốt tân dịch hoá đòm, phá mất chức năng túc giáng, khí ngược lên thành suyễn, đàm nhiệt ngăn trở phế, do đó mạch hữu thôn thực đại. Phế với đai trưòng là tương quan biểu lý với nhau, phế khí không giáng xuống thì phủ khí 11 cũng không dễ đi xuống vì phủ nhiệt kết không thông thì nhiệt tà ở trong phế cũng ít cơ hội tiết ra ngoài, cho nên chứng này tà ỏ phế với đại trường là làm hậu quả lẫn nhau. c. Phép chữa-. Nên tuyên phế hoá đàm, tiết nhiệt công hạ. Và đàm nhiệt ngăn trở phế, tự nhiên phải thanh hoá, phủ có nhiệt kết, lại cần nên công hạ. Nếu không chiếu cố cả hai mặt, thì bệnh tà khó thanh trừ được, bài Tuyên bạch thừa khí thang là bài thuốc đúng chứng. d. B ài thuốc: Tuyên bạch thừa khí thang (ôn bệnh điều biện) Sinh thạch cao 7g Sinh đại hoàng 12g Hạnh nhân phấn 8g Qua lâu bì 4g Nước 5 chén, sắc lấy 2 chén, nước uống 1 chén, nếu chưa khỏi thì uống lần nữa. Bài này lấy ý nghĩa của hai bài Bạch hổ, Thừa khí mà biến chế ra. Trong bài dùng Thạch cao để thanh nhiệt cả nhiệt ở phế, vệ, Hạnh nhân, Qua lâu bì tuyên giáng phế khí, hoá đàm định suyễn, Đại hoàng công hạ phủ thực. Cho nên bài này là một bài thuốc thanh tuyên phế nhiệt, thông giáng phủ khí chữa chung cả trên lẫn dưới. 2.2.4. Đ àm nhiêt kết h u n g (ở ngực) a. Chứng hậu: Mặt đỏ, mình nóng, khát muốn uống nước lạnh, ngực bụng tức đầy, ấn vào đau nhức, buồn nôn, đại tiện bí, rêu lưỡi vàng trơn, mạch hồng hoạt. b. Cơ ch ế bệnh: Mặt đỏ mình nóng, khát muôn uống nước lạnh, là nhiệt thịnh ở lý, ngực bụng đầy tức ấn vào đau. Nhức là triệu chứng đàm nhiệt kết hung, đó là mấu chốt để biện chứng của chứng này. Buồn nôn, đại tiện bí là đàm nhiệt ngăn trở ỏ trong mà vị khí được đưa ngược lên, mất chức năng thông giáng. Rêu lưỡi vàng trơn, mạch hồng hoạt, cũng là dấu hiệu đàm nhiệt ngăn trở ở trong. Chứng này mặt đỏ, mình nóng, khát muốn uống nước lạnh, tựa như chứng Dương minh nhiệt vô hình càng thịnh, nhưng rêu lưỡi vàng trơn mà không phải vàng khô, và có cảm giác ngực bụng tức đầy, thì rõ rệt không phải hiện tượng Dương minh kinh chứng. Trong đó đại tiện bí kết, tựa như chứng Dương minh phủ thực, nhưng chứng phù thực, đại tiện bí kết, tất thấy sốt cơn hoặc bụng rắn đầy đau nhức, nay đại tiện bí mình nóng mà bụng không rắn đau, vả lại rêu lưỡi cũng không vàng dầy khô ráo, mạch cũng không trầm thực, thì biết không phải là chứng phủ thực, đại tiện bí. Lại chính đàm nhiệt kết hung này với chứng đàm nhiệt ngăn trở phế, vị trí bệnh tuy cũng ở thượng tiêu, mà cơ chế bệnh và chứng thể hiện thì tuyệt đôi khác nhau. Chứng đàm nhiệt ngăn trở phế tất ảnh hưởng đến sự tuyên giáng của phế khí, cho nên ho suyễn, ho đờm là chứng tất yếu phải có, kết hung là đàm nhiệt kết ở ngực bụng mà tà không ở phế, cho nên chứng này lấy ngực bụng đầy tức làm chủ yếu. c. Phép chữa: Chữa chứng này nên dùng Tiểu hãm hung gia chỉ thực thang để thanh nhiệt hoá đàm khai kết. Vì đàm với nhiệt kết lại với nhau. Nếu không thanh nhiệt tà không trừ, không hoá đàm thì đàm trọc không tiêu, lại cần phải có thuổc khai kết, mới làm cho đàm nhiệt phân giải được. 12 d. B ài thuốc: Tiểu hãm hung gia Chỉ thực thang (ôn bệnh điều biện). Hoàng liên 12g Qua lâu 12g Chỉ thực 8g Bán hạ 20g Dùng nước 5 chén, sắc lấy 2 chén, chia uống 2 lần. Bài này tức là Tiểu hãm hung thang ở trong. "Thương hàn luận" mà gia vị, dùng Hoàng liên thanh nhiệt. Qua lâu hoá đàm, Bán hạ hoà vị, chỉ nôn, Chỉ thực giáng khí khai kết, hợp lại cũng có đủ công hiệu thanh nhiệt hoá đàm khai kết. Kinh nghiệm trên lâm sàng thấy được chứng ngực bụng tức đầy, nếu chỉ sử dụng Tiểu hãm hung thang, thì hiệu quả thường thường không bằng gia Chỉ thực, lại chứng này nôn lợm nhiều hơn thì nên gia vào ít nước Sinh khương. 2.2.5. N hiệt tắc trở ở lồng ngực, hơi kiềm p h ủ thực a. Chứng hậu: Mình nóng không thôi, buồn phiền vật vã không yên, lồng ngực nóng ran như đốt. Môi xám họng khô, khát nước, đại tiện bí, lưỡi khô, xung quanh lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng hoặc trắng, mạch phù hoạt mà sác. b. Cơ c h ế bệnh: Mình nóng không thôi mà không sợ lạnh, là vì tà đã vào lý, mà lý nhiệt đã nhiều, buồn phiền vật vã không rêu lưỡi, lồng ngực nóng ran, môi xám họng khô, giữa lưỡi khô, xung quanh lưỡi hồng, rêu lưỡi hoặc vàng hoặc trắng đều là tà nhiệt ở thượng tiêu qúa thịnh. Đại tiện bí là chứng Dương minh phủ thực, nhưng bụng lại không đầy rắn và đau, và mạch không trầm thực mà thấy phù hoạt đới xác, thì có thể biết là phủ thực chưa nặng lắm. Chứng này với chứng dùng Chi tử sị thang cùng là nhiệt ở thượng tiêu, nhưng thể bệnh có phân biệt nặng nhẹ, cơ chế bệnh cũng có chỗ khác nhau. Chứng Chi tử sị thang chỉ nhiệt uất ở lồng ngực, mà không kiêm phủ thực, chứng này là nhiệt ngăn trở ở lồng ngực, mà hơi kiêm phủ thực. Và chứng này với chứng Tuyên bạch thừa khí thang đều là tà ở thượng tiêu và trung tiêu, nhưng chứng Tuyên bạch thừa khí thang là đàm nhiệt ngăn trở phế mà kiêm phủ thực, cho nên ở trung tiêu chứng phủ thực đại bí thì giông nhau, mà chứng ở thượng tiêu thì rõ ràng là có khác nhau. c. Phép chữa: Lồng ngực nóng dữ không nhanh thì không khỏi, trong ruột phủ thực không hạ thì không trừ, cho nên chứng này phải dùng Lương cách tán để thanh trên tiết dưới. d. B ài thuốíc: Lương cách tán (Cục phương) Đại hoàng (tẩm rượu) 80g Mang tiêu 40 lạng Cam thảo 24g Sơn chi tử (sao cháy) 32g Bạc hà 28g Hoàng cầm (tẩm rượu sao) 40g Liên kiều 40g Tán nhỏ, mỗi lần uống 4,5 đồng cân đến 1 lạng, gia Trúc điệp 15 lá, nước trong sắc, bỏ bã uống ấm, ngày 3 lần, đêm 2 lần, đi ngoài được là độ dừng thuốc. Bài này dùng Liên kiều, Bạc hà, Trúc diệp, Sơn chi, Hoàng cầm để thanh tiết nhiệt tà ở lồng ngực, Đại hoàng, Mang tiêu công hạ phủ thực mà thông đại tiện bí. Làm cho nhiệt ở thượng tiêu theo ngoài mà tiết ra, thực ở trung tiêu theo 13 dưới mà đi xuống. Tuy nó có sức thông phủ, nhưng tiêu chuẩn để áp dụng là chỗ đại tiện bí, giả sử đại tiện không bí, mà lồng ngực nóng như đốt cũng không sử dụng được. 2.2.6. N hiệt ở d ư ơ n g m inh Nhiệt tà phong ôn truyền vào Dương minh, có khi đơn thuần lý nhiệt quá thịnh, có khi nhiệt tà với tích trệ cô' kết lẫn nhau, có khi nhiệt bức bách đường ruột mà đi ỉa lỏng. Vì thế nhiệt ỏ Dương minh lại có mấy chứng như sau: • C h ứ n g nhiệt thinh vô h ìn h a. Chứng hậu: Mình nóng, mặt đỏ, sợ nóng, tâm buồn bực, ra mồ hôi nhiều, rêu vàng mà khô, khát muốn uống nước lạnh, mạch hồng đại ấn tay vào càng mạnh hơn. b. Cơ ch ế bệnh : Chứng này là triệu chứng Dương minh lý nhiệt quá thịnh. Lý nhiệt bốc mạnh, thì thấy mình nóng dữ, sự nóng, buồn bực, mồ hôi ra nhiều. Nhiệt Dương minh đi lên vinh nhuận ở mặt má. Dương minh nhiệt thịnh cho nên mặt hồng đỏ, nặng thì mắt cũng đỏ hồng. Nhiệt tà đã thịnh lại ra nhiều mồ hôi, tân dịch hao tổn nhiều quá cho nên miệng khô khát nước và hay thích uống nước lạnh. Rêu lưỡi vàng khô cũng thuộc về chứng trạng nhiệt thịnh tân hao. Nhiệt tà bức bách ở trong, chính khí cố chống lại cho nên mạch hồng đại có lực. Nói tóm lại, nóng dữ ra mồ hôi, khát nưốc mạch đại, là mấu chốt để biện chứng về chứng này. . cể Phép chữa: Phần khí Dương minh nhiệt thịnh hao tổn dịch, cho nên khi chữa nên dùng bài Bạch hổ thang để thanh nhiệt ở phần khí Dương minh, làm cho nhiệt lui mà tân dịch trở lại, nếu dùng thuốc sinh tân mà không thanh nhiệt tà, thì tân dịch chưa chắc đã kịp sinh ra, nhiệt tà kết chặt lại mà không giải ra được. d. B ài thuốc: B ạch hổ thang (ôn bệnh điều biện) Thạch cao 40g (tán vụn) Cam thảo 12g Tri mẫu 20g Gạo tẻ trắng 1 chén. Tám chén nước, sắc lấy ba chén, chia 3 lần uống ấm, bệnh đỡ thì giảm lần uống sau, chưa khỏi lại uống lần nữa. Bạch hổ thang là chủ phương thanh tiết Dương minh lý nhiệt, Thạch cao tân hàn thanh tiết lý nhiệt, Tri mẫu khổ nhuận thanh nhiệt sinh tân, Cam thảo, gạo tẻ dưỡng vị sinh tân dịch, hợp lại có công hiệu thanh tiết lý nhiệt mà giữ gìn tân dịch. Dùng được đúng, thực có công hiệu ngay, nhưng dùng không đúng thì nguy hại cũng rất lớn, vì thế phải nên chú ý phạm vi cấm kỵ của nó. Sách "Thương hàn luận" đã từng vạch ra "chứng biểu chưa giải được thì không nên cho uô'ng Bạch hổ thang". Ngô Cúc Thông cũng từng vạch ra dùng Bạch hổ thang có điều cấm: "Mạch phù huyền mà tế, không cho uống Mạch trầm không cho uông Không khát không cho uống" Đại ý biểu tà chưa giải hoặc lý nhiệt chưa thịnh, hoặc bệnh không phải là Dương minh thực nhiệt, đều xếp vào loại cấm dùng. 14 • C h ứ n g nhiêt kết h ữ u hìn h a. Chứng hậu: Sốt cơn về chiều, thường có khi nói sảng, đại tiện bí kết, hoặc đi ngoài ra thuần nưốc loãng, bụng ấn vào thì đau, rêu lưỡi vàng khô, mạch trầm có lực. b. Cơ c h ế bệnh: Chứng này là nhiệt tà nhập lý đã sâu, kết hợp với đồ tích trệ mà thành chứng Dương minh phủ thực, cho nên sốt cơn về chiều. Lý nhiệt hun bốc thần minh làm trí rối loạn, thì thường hay nói sảng. Phủ thực kết trệ cho nên đại tiện bí kết không thông. Cũng có khi vì phân táo kết ở trong ruột cho nên, nước phân chen lẫn đôi bên mà đại tiện ra thuần nước loãng gọi là "nhiệt kết bàng lưu" Chất đi ra thối khắm lạ thường, và hậu môn có cảm giác nóng. Không kể là đại tiện bí không thông hoặc nhiệt kết bàng lưu, đều vì trong ruột có phân táo kết trệ, cho nên bụng ấn vào thì đau, rêu lưỡi vàng mà khô, mạch trầm có lực, đều là biểu hiện lý nhiệt đã thành thực. c. Phép chữa: Trong ruột táo kết nhiệt thực, không dùng thuốc làm mềm rắn công hạ tiết nhiệt, thì phân táo bón không hạ, nhiệt tà không trừ. Bài điều vị thừa khí thang rất là đúng chứng. d. B ài thuốc: Điểu vị thừa khí thang (Thương hàn luận) Đại hoàng Mang tiêu Chích cam thảo 12g (tẩy rượu) 12g 12g Trong phương, dùng Mang tiêu mặn lạnh để làm mềm chất rắn, Đại hoàng đắng lạnh để công hạ tiết nhiệt, Cam thảo để hoãn sức mạnh của Tiêu, Hoàng, khiến cho hai vị đó lưu ở trung tiêu mà chậm xổ, thì phân táo uất nhiệt có thể xổ mà giải được. • C h ứ n g ỉa chảy nóng trong ruột a. Chứng hậu: Đi ỉa sắc vàng nóng thối, hậu môn nóng ran, bụng không rắn đau, rêu lưỡi vàng, mạch sác. b. Cơ c h ế bệnh: Chứng này do nhiệt tà ở phế vị đi xuống đại tràng mà gây ra. Phế với đại tràng có tương quan biểu lý với nhau, vị với đại tràng liên thuộc với nhau, nhiệt tà ở phế vị không theo ngoài mà giải ra, lại không kết ở trong mà đưa xuống đại tràng, cho nên đi ỉa nóng thối, hậu môn nóng rát phân này tựa như chứng nhiệt kết bàng lưu,nhưng chứng nhiệt kết bàng lưu thì phân táo kết ở trong, đến nỗi nước phân phải chen lẫn hai bên mà ra, cho nên đi ra mùi thường hơi khẳn, nưóc loãng, mà bụng ấn thì đau, còn chứng này là nhiệt đưa xuống đại tràng, cho nên đi ngoài thường sắc vàng phân loãng mà không phải nước loãng. Vì trong không có phân táo, cho nên ấn vào bụng không có cảm giác rắn đau. c. Phép chữa: Chứng này nên dùng Cát căn cầm liên thang, với tính vị đắng lạnh để thanh nhiệt cầm ỉa chảy. 15 d. B ài thuốc: Cát căn Hoàng cầm Hoàng liên thang (Thương hàn luận) Cát căn 12g Chích cam thảo 8g Hoàng cầm 12g Hoàng liên 4g Phương này dùng Cát căn nhẹ để thăng phát, có công thanh nhiệt cầm ỉa chảy, Cầm, Liên đắng lạnh trực tiếp giải lý nhiệt, Cam thảo ngọt hoãn hoà trung tiêu. Uất nhiệt ở trong ruột đã thanh giải rồi thì ỉa lỏng tư khỏi. Cho nên đây cũng là phương thuốc chủ yếu chữa ỉa chảy vì nhiệt. 2.3. N hiệt vào p h ần dinh 2.3.1. C hứng nhiệt đốt din h âm a. Chứng hậu: Mình nóng về đêm nhiều, tâm phiền vật vã, hơn nữa có khi nói sảng, ban chẩn lờ mờ, lại không khát lắm, chất lưỡi đỏ hồng, không rêu, mạch tế sác. b. Cơ ch ế bệnh: Nhiệt tà ở phần khí không giải mà hãm vào phần dinh, dinh âm hao tổn thì mình nóng lại không khát lắm, hoặc hơi có ban chẩn lò mờ. Chứng này so với chứng nhiệt nhập vào phần huyết mà ban chẩn hơi rõ là có khác nhau rõ rệt. Dinh khí với tâm khí thông nhau, nhiệt tà vào dinh, tâm thần bị rối loạn, thì thấy tâm phiền vật vã, hơn nữa có lúc nói sảng, chứng này so với chứng nói sảng của chứng Dương minh phủ thực nhiệt thịnh hôn mê, có thể dựa theo đại tiện có bí kết hay không? Bụng có đau rắn hay không? Trên lưỡi có rêu cáu hay không? để tiến hành phân biệt. c. Phép chữa: Diệp Thiên Sĩ vạch ra rằng "vào dinh còn có thể thấu nhiệt chuyển ra khí", cho nên chứng này nên dùng Thanh dinh để thanh dinh tiết nhiệt khiếu cho tà nhiệt ở phần dinh chuyển ra phần khí mà giải, không thì nhiệt tà hãm vào trông thêiĩỊ*một bước nữa, sẽ có cái mối lo "nhiệt bế tắc tâm bào hoặc nhiệt thịnh động huyết". d. B ài thuốc: Thanh dinh thang (Ôn bệnh điều biện) Tê giác 12g Sinh địa 12g Huyền sâm 12g Trúc diệp 4g Mạch đông 12g Đan sâm 8g Hoàng liên 6g Ngân hoa 12g Liên kiều 8g (dùng cả lõi) Nước 8 chén sắc còn 3 chén, ngày uống 3 lần. Trong phương, Tê giác, Hoàng liên để thanh nhiệt ở tâm dinh, Sinh địa, Huyền sâm, Mạch đông, Đan sâm thanh dinh nhiệt mà tư dưỡng dinh âm. Ngân hoa, Liên kiều, Trúc diệp nhẹ tuyên tiết nhiệt, làm cho nhiệt tà ở phần dinh chuyển ra phần khí mà giải. 2.3.2. C h ứ n g p h ế nhiệt p h á t sởi (chẩn) a. Chứng hậu: Mình nóng, ho tức ngực, ngoài mọc sỏi. 16 b. Cơ c h ế bệnh: Nhiệt tà ở trong uất tại phế, cho nên mình nóng mà không sợ lạnh. Nhiệt uất, phế khí không tuyên đạt, thì sinh ra ho, ngực tức, phế nhiệt lan đến phần dinh, lọt vào đưòng huyết lạc, thì ngoài phát sởi. "Chương Hư Cốc nói: ban là nhiệt độc ở Dương minh, sỏi là phong nhiệt ở Thái âm" cơ chế của chứng phong ôn phần nhiều thiên về phế, cho nên trong quá trình diễn biến của bệnh để phát ra sởi cũng là một đặc trưng của bệnh này. c. Phép chữa: Nhiệt tà uất ở phế, không tuyên phế tiết nhiệt thì phế nhiệt không thanh giải. Phần dinh có nhiệt, không cho mát dinh thấu tiết, thì sởi không mọc suốt. Cho nên chứng này nên dùng Ngân kiều tán bỏ Kinh giới, Đậu sị, gia Sinh địa, Đan bì, Đại thanh diệp, Huyền sâm để tuyên phế, tiết nhiệt, thanh dinh, thấu chẩn. d. Bài thuốc: Ngân kiều tán, bỏ Kinh giới, Đậu sị gia Sinh địa, Đan bì, Đại thanh diệp, Huyền sâm ("ôn bệnh điều biện") Liên kiều 40g Cam thảo 20g Ngân hoa 40g Sinh địa nhỏ 16g Cát cánh 24g Đại thanh diêp nhỏ 12g Bạc hà 24g Đan bì 12g Trúc diệp 20g Huyền sâm 40g Ngân kiều tán là bài thuốc cay mát bình hoà, dùng về chứng phong ôn mới phát ở phần vệ. Chứng này là không ở biểu cho nên bỏ Kinh giới, Đậu sị là thuốc giải biểu, vì phế nóng lan đến phần dinh mà phát sởi, cho nên gia Sinh địa, Đan bì, Đại thanh diệp, Huyền sâm để thanh dinh tiết nhiệt giải độc, cùng tạo thành công hiệu thông phế tiết nhiệt, thanh dinh thấu chẩn. 2.4. N hiệt h ãm vào tâ m bào 2.4.1. C h ứ n g n gh ịch truyền vào tăm bào. MB9SỊHẴI H!ỊYf ẵ a. Chứng hậu: Nóng ran, hôn mê, nói sảng, hoặc mê rr ngọng, chân tay quyết lạnh. ĨRUNGĨẰM HỌC LIỆU Ị b. Cơ c h ế bệnh: Tà ở vệ kinh Thủ Thái âm, vì chữa lầm, hoặc không được chữa, hoặc vì tâm khí vốn kém mà đễn nỗi nhiệt hãm vào tâm bào là nghịch truyền, chứng này trong qúa trình bệnh Phong ôn thường thấy nhiều, thể bệnh cũng nguy hiểm. Nhiệt tà hãm vào trong, nung đốt tân dịch hoá đàm, đàm nhiệt vít lấp tâm bào, thần chí bị che lấp, thì sinh chứng hôn mê nói sảng hoặc mê man không nói. Lưỡi là nằm ngoài của tâm, đàm nhiệt ngăn trở ở tâm khiếu, cho nên dẫn đến nói ngọng hoặc nói năng ú ớ. Nhiệt tà ngăn lấp ở trong cho nên, mình nóng nhưng mà chân tay quyết lạnh. Chứng hôn mê nói sảng của chứng này so với chứng hôn mê nói sảng của chứng nhiệt vào phần dinh, thì cơ chế bệnh có hơi khác nhau, trình độ cũng có phân biệt nhẹ với nặng. Chứng hôn mê của chứng nhiệt vào phần dinh là vì phần dinh nóng mà tâm thần rối loạn, chưa có đòm đục bít lấp ở trong cho nên hôn mê nói sảng không nặng lắm, hoặc có lúc còn tỉnh táo, chứng này vì đờm nóng bít lấp ở tâm khiếu, cho nên thần chí mê man, nói sảng nặng hơn, hoặc mê man không nói. vả lại nhiệt vào phần dinh thì không có hiện tượng nói ngọng, chân tay quyết lạnh. Hai chứng lấy điểm đó mà phân biệt. 17 cệ Phép chữa: Chữa chứng này nên thanh tâm khai khiếu, để thanh nhiệt ở tâm bào mà khai thông bế tắc của đòm đục, cho nên dùng Thanh cung thang, An cung ngưu hoàng hoàn hoặc Chí bảo đan, Tử tuyết đan. d. B ài thuốc: Thanh cung thang (ôn bệnh điều biện) Huyền sâm 12g Liên kiều 8g Liên tử tâm 12g Tê giác 8g Trúc diệp 8g Liên tâm mạch đông 12g (Mạch đông để cả lõi) - An cung Ngưu hoàng hoàn (ôn bệnh điều biện) Ngưu hoàng 40g Xạ hương 10g Uất kim 40g Trân châu 20g Tê giác 40g Sơn chi 40g Hoàng liên 40g Hùng hoàng 40g Chu sa 40g Hoàng cầm 40g Mai phiến 10g Tán cực nhỏ, luyện mật tốt làm viên mỗi viên nặng 4g vàng thếp làm áo, bọc sáp mỗi lần 1 viên, ngưòi lốn bệnh nặng thể thực ngày uống 2 lần, nặng thì uống đến 3 lần, trẻ con nửa viên, không khỏi lại uống nửa viên. Tử tuyết đan (ôn bệnh điều biện) Hoạt thạch 360g Hàn thuỷ thạch 360g Thạch cao 360g Từ thạch 720g oỊiq bã rối cho các thuốc săc vào. Mộc hưdrig 200g Thăng ma 360g Lưiíi dương giác 200g Đinh hương 40g Tê giác 200g Huyền sâm 360g Trầm hương 200g Chích cam thảo 180g Tám vị trên đều giã nát cho vào nước thuốc trên sắc, bỏ bã, rồi cho các vị thuốc sau đây vào. Phác tiêu, Thạch tiêu đều 720g Lọc sạch vào trong nước thuốc trước, đun nhỏ lửa dùng cành liễu khuấy luôn tay, chò khi nước đông lại, cho hai vị sau đây vào. Thần sa (nghiền nhỏ) 120g Xạ hương 44g (nghiền nhỏ cho vào thuốc đã sắc quấy đều). Hợp xong, chờ hết hơi lửa. Uống với nước lạnh mỗi lần 1 - 2 đồng cân. 18 Chí bảo đan ("ôn bệnh điều biện") Tê giác 40g (chẻ ra) Hổ phách 40g (nghiền ) Ngưu hoàng 20g Chu sa Đồi mồi Xạ hương 40g (phi) 40g (chẻ vụn) 20g Dùng An tức hương nấu cách thuỷ cho tan ra, hoà vào thuốc viên 100 viên, bọc sáp. Thanh cung thang chuyên thanh nhiệt tà ở bào lạc, bào lạc là cung thành của tâm, cho nên thanh nhiệt ở tâm bào gọi là thanh cung, tê giác thanh tâm nhiệt, Huyền sâm tâm, Liên tử tâm, Liên tâm Mạch đông thanh tâm thêm tân dịch, Trúc diệp, Liên kiều thanh tâm tiết nhiệt, hợp dùng để làm cho nhiệt tà ở tâm bào thấu đạt ra ngoài mà bệnh khỏi. An cung Ngưu hoàng hoàn, Tử tuyết đan, Chí bảo đan, đều là thuốc thanh tâm khai khiếu chễ sẵn, đều có công hiệu định lại thần chí. Trong đó An cung Ngưu hoàng hoàn thì thiên về thanh nhiệt kiêm giải độc. Tử tuyết đan thì kiêm cả tức phong, Chí bảo đan thì thiên về phương lương trừ uế. 2.4.2. N hiệt vào tăm bào, kiêm có p h ủ thực. a. Chứng hậu: Mình nóng, hôn mê, nói ngọng, chân tay quyết lạnh, đại tiện bí, bụng ấn vào rắn đau. b. Cơ c h ế bệnh: Nhiệt hãm vào tâm bào, cho nên thấy mình nóng, hôn mê, lưỡi ngọng, chân tay quyết lạnh. Phủ thực kết trệ thì đại tiện bí kết mà bụng rắn đau. c. Phép chữa: Chữa chứng này dùng Ngưu hoàng thừa khí thang, một là để thanh tâm khai khiếu, hai là để công hạ phủ thực, nếu chứng tâm bào nghiêm trọng thì nên cho khai khiếu trước rồi sau mới tiến hành công hạ. d. B ài thuốc: Ngưu hoàng thừa khí thang ("ôn bệnh điều biện"). Tức là dùng An cung Ngưu hoàng hoàn một viên làm cho tan ra với bột Đại hoàng sống 3 đồng cân, trước uống một nửa, không khỏi lại uống lần nữa. Bài này lấy nghĩa là An cung Ngưu hoàng thanh nhiệt hãm ở tâm bào, Đại hoàng sống công hạ Dương minh phủ thực. 2.5. N h iệt th ịn h động phong. 2.5.1. C h ứ n g Can kin h nhiệt thịnh dộng p h ong. a. Chứng hậu: Mình nóng dữ dội, đầu choáng đau, chân tay vật vã nặng thì co quắp hay buông xuôi, cuồng loạn kinh quyết, lưỡi hồng rêu khô không tân dịch, mạch huyền sác. b. Cơ ch ế bệnh: Nhiệt tà thịnh ở trong, cho nên mình mẩy nóng dữ, nóng qúa sinh phong, làm rối loạn lên đầu, thì choáng chướng đau, đi lọt vào kinh mạch, thì chân tay vật vã, nặng hơn thì chân tay co giật, kinh quyết mà uốn ván, nhiệt làm rối thần minh, thì cuồng loạn không yên. Đều do can kinh nhiệt thịnh động phong mà gây nên, vì thế phần nhiều lưỡi hồng rêu khô không tân dịch mà mạch huyền sác. 19 c. Phép chữa: Chữa nên dùng Linh giác câu đằng thang, để thanh can tức phong. d. B ài thuốc: Linh dương câu đằng thang ("Thông tục thương hàn luận") Linh dương giác (chẻ mảnh) (sắc trước) 6g Câu đằng 12g (cho vào sau) Xuyên bối (bỏ ruột) 12g Phục thần 12g Sinh địa 20g Cam thảo 6g Trúc nhự tươi 20g dùng Linh dương giác trước để thay) Lá dâu qua sương 8g Cúc hoa 12g Bài này dùng Linh dương giác, Câu đằng, Lá dâu, Cúc hoa để thanh can tức phong, Phục thần để yên thần định chí. Nhiệt đốt tân dịch thì sinh đàm, cho nên dùng Xuyên bối để tiêu đàm. Hoả vượng sinh phong, phong giúp thêm cho hoả, cho nên dùng Xuyên bối để tiêu đàm và rất dễ tổn thương âm dịch, cho nên dùng Thược, Cam thảo, Sinh địa tươi chua ngọt hoá âm, nuôi dưỡng quyết dịch để hoãn cân mạch co quắp, Trúc nhự để tuyên thông mạch lạc. 2.5.2. C hứng D ương m inh nhiệt thịnh dẫn động Can p h o n g . a. Chứng hậu: Nóng dữ như đốt, miệng khát muốn uống nước lạnh, chân tay co giật thậm chí uốn ván, rêu lưỡi vàng mà khô. b. Cơ ch ế bệnh: Nóng dữ khát nước, là Dương minh vị nhiệt quá thịnh. Chân tay co giật, uốn ván, là biểu hiện can phong động ở trong. Cơ chế thuộc về nhiệt vô hình ở Dương minh thịnh dẫn động quyết âm can phong, khuấy động ở trong. cử Phép chữa: Nhiệt vô hình ở Dương minh thịnh dẫn động can phong, nên dùng Bạch hổ thang gia Linh dương giác, Câu đằng, một là để thanh tiết vị nhiệt, hai là để thanh can tức phong, nếu thuộc chứng Dương minh phủ thực mà dẫn động can phong, nên dùng Điều vị thừa khí thang gia Linh dương giác, Câu đằng, một là để công hạ phủ thực hai là để thanh can tức phong. Tóm lại, chữa chứng do Dương minh nhiệt thịnh động can phong, cần phải dùng phép chữa "vừa thanh vừa hạ" làm chủ yếu, mà dùng phép vừa thanh nhiệt, vừa thanh can tức phong. d. B ài thuốc: Bạch bổ thang Điều vị thừa khí thang (xem ở trên) 2.5.3. Tâm d in h nhiêt thinh, d ẫ n động can p h ong. a. Chứng hậu: Nóng ran chân tay quyết lạnh, thần chí hôn mê, chân tay co giật, chất lưỡi đỏ hồng. b. Cơ ch ế bệnh: Nóng ran, chân tay quyết lạnh, thần chí hôn mê, lưỡi đỏ là dấu hiệu nhiệt hãm vào tâm bào, tay chân co giật là triệu chứng can phong động ở trong, cho nên chứng này là hai kinh Thủ, Túc quyết âm cùng bị bệnh, do phần 20 dinh ở tâm bào nhiệt thịnh, dẫn động can phong gây nên. Đứng về mặt lâm sàng mà xét, chứng này với chứng "Dương minh nhiệt thịnh động phong" bệnh hình thức phong đều phần nhiều hay thấy, vì vậy hai chứng này cần phân biệt rõ rệt. Phàm Dương minh nhiệt thịnh động phong thì rêu lưỡi tất vàng khô, hoặc vàng sém đen xám, miệng tất khát muôn uống nước lạnh, chứng tâm dinh nhiệt thịnh động phong, thì tất có hôn mê, chân tay quyết lạnh, chất lưỡi đỏ mà không rêu, nên lấy những điểm ấy để phân biệt. c. Phép chữa: Chứng này đã do tâm dinh nhiệt thịnh mà dẫn động can phong, cho nên chữa phải dùng Thanh cung thang cũng gia Linh giác, Câu đằng, Đan bì hoặc Tử tuyết đan, một là để thanh tâm khai khiếu, hai là để thanh can tức phong. d. B ài thuốc: Thanh cung thang. Tử tuyết đan (xem ở trên). 2.6. N hiệt đ ốt ch â n âm . 2.6.1. C h ứ n g d ư ơ n g ca n g âm hư. a. Chứng hậu: Trong lòng buồn bực không nằm được, mình nóng, rêu lưỡi vàng chất lưỡi hồng, mạch tế sác. b. Cơ ch ế bệnh: Chứng này là chứng hậu âm dịch hư suy mà dương nhiệt quá thịnh, tức như Ngô Cúc Thông nói: "Chứng thiếu âm ôn bệnh chân âm sắp kiệt hết, tráng hoả lại bốc cháy. Nhiệt tà vào sâu đến kinh Thiếu âm, giúp tâm hoả bốc cháy ở trên, bức đốt thận thuỷ hư kiệt ở dưới, thận thuỷ không đưa lên trên được thì tâm hoả càng bốic cháy, tâm hoả càng bốc cháy thì thận thuỷ càng hư suy, đến nỗi sinh ra chứng thuỷ suy hoả bốc trong lòng bứt rứt khó chịu không được ngủ yên. Những chứng mình nóng, rêu lưỡi vàng, lưỡi hồng, mạch tế sác, cũng đều là dấu hiệu âm hư dương thịnh thường thấy. Trọng tâm bệnh biến của nó là ở kinh Thiếu âm tâm thận, tức như Diệp Thiên Sĩ nói: "Dương thịnh không vào phần âm, âm hư không thu nạp dương" c. Phép chữa: Chữa chứng này nên dùng phép thanh nhiệt dưỡng âm, dùng Hoàng liên A giao thang để chữa. Vì chúng thuộc dương thịnh âm hư, cho nên không thể đơn thuần dùng tư âm, hoặc đơn thuần dùng thuốc thanh nhiệt mà chữa được. d. B ài thuốc: Hoàng liên A giao thang (ôn bệnh điều biện) Hoàng liên 16g Thược dược 4g Hoàng cầm 4g Lòng đỏ trứng gà 2 cái A giao 12g Nước 8 chén sắc còn 3 chén bỏ bã, cho A giao vào tan hết, lại cho lòng đỏ trứng gà vào, khuấy đều, ngày uống 3 lần. Bài này dùng Hoàng liên, Hoàng cầm để thanh nhiệt tà, Lòng đỏ trứng gà, Thược dược, A giao để cứu chân âm cùng đạt được công hiệu thanh nhiệt dưỡng âm. 2.6.2. C h ứ n g can thân âm thương. • C hân ảm sắp kiêt hết. a. Chứng hậu: Mình nóng, mặt đỏ, lòng bàn tay chân nóng hơn mu bàn tay 21 bàn chân, miệng khô, lưỡi ráo, hoặc tinh thần mỏi mệt, tai điếc, mạch hư đại. b. Cơ ch ế bệnh: Đây là chứng hậu của chân âm ở hạ tiêu suy kém, tà ít hư nhiều, ôn bệnh dễ hao tổn âm dịch, nhiệt tà lưu lâu, thường phần nhiều vào sâu hạ tiêu, bức đốt âm dịch của can thận. Cho nên ôn bệnh ở thòi kỳ cuốỉ phần nhiều đã xuất hiện chứng này. Mình nóng, mặt đỏ là biểu hiện âm tinh hao tổn, hư nhiệt ấy rối ỏ trong, nên phân biệt với chứng nhiệt tà quá thịnh gây raề Lòng bàn tay bàn chân nóng hơn mu bàn tay bàn chân là chứng cớ rõ ràng hư nóng ở trong. Còn các chứng khác như lưỡi khô, miệng ráo, cũng là hiện chứng âm dịch hao tổn. Nếu âm tinh hao tổn khá nặng, thần không được nuôi dưỡng, thì có thể hiện ra chứng hư, tinh thần mỏi mệt, buồn ngủ. Chứng này so với chứng vật vã không ngủ của chứng tâm hoả quá thịnh thì khác nhau rõ rệt. Ngoài ra, nếu tinh bị đoạt mà không đưa lên được, thì có thể gây ra tai điếc không tỏ, chứng điếc này so với chứng điếc thuộc thực do nhiệt uất ở kinh Thiếu dương thì khác nhau xa. Tai điếc của chứng Thiếu dương là do Thiếu dương phong nhiệt quấy rối lên trên, thanh khiếu không thông lợi gây nên, tai điếc là "Hai tai không nghe thấy gì" phần nhiều có cảm giác đầy tức, vả lại tất có một loạt hiện chứng Thiếu dương, tai điếc của chứng này là do thận tinh không đưa lên được mà gây bệnh, trong "Nội kinh" có những thuyết "thận khai khiếu ở tai" và "Tinh thoát thì tai điếc" vì có âm tinh thiếu kiệt không thể thừa tiếp lên trên, loại tai điếc này phần nhiều không có cảm giác đầy tức mà chỉ thấy đầy đủ một loạt chứng tượng âm tinh hao tổn. Ồn bệnh hiện ra vậy, là tình thế rất nguy hiểm, cho nên cùng một chứng tai điếc, lại có thể chia ra hư thực nhẹ nặng khác nhau. Thứ nữa, chứng này mạch thấy hư đại cũng thuộc chứng âm suy tổn. Riêng đem chứng này so với chứng trên, hai chứng cùng thuộc về chân âm khuy tổn, nhưng chứng trên là âm hư mà dương nhiệt bốc lên, chứng này là hư nhiệt nhiều mà nhiệt tà ít, vả lại trình độ hư lại nghiêm trọng hơn, lâm sàng xét chứng không nên lẫn lộn. c. Phép chữa: Chữa chứng này nên dùng phép tư âm dưỡng dịch để trừ bỏ hư nhiệt. Nên dùng gia giảm Phục mạch thang mà chữa. Nếu vì chữa lầm phát hãn không đúng bị tổn thương, chữa nên dùng phép tư âm trấn nhiếp, nên dùng Cứu nghịch thang mà chữa, nếu hạ không đúng mà âm dịch tiết xuống kiêm thấy đại tiện hơi sệt sệt, thì nên dùng pháp tư âm cố nhiếp, dùng Nhất giáp phục mạch thang mà chữa. d. B ài thuốc: Gia giảm phục mạch thang (ôn bệnh điều biện) Chích cam thảo 24g Mạch đông 12g (không bỏ lõi) Can địa hoàng 24g Bạch thược 24g A giao 8g Ma nhân 8g Địa hoàng 32g Uống ngày 3 lần, đêm 1 lần. Nưốc 8 chén, sắc còn 3 chén, chia uống 3 lần. Nặng thì gia Cam thảo 1 lạng. Bài này do Chích cam thảo thang của Thương hàn luận bỏ Sâm, Quế, Khương, Táo gia Bạch thược mà tổ chức thành, làm chủ phương chữa độc bệnh ôn 22 nhiệt vào sâu hạ tiêu, can thận bị tổn thương. Ngô Cúc Thông nói "Nhiệt tà vào sâu, hoặc ở Thiếu âm, hoặc ở Quyết âm đầu tiên nên dùng bài phục mạch" trong Phương dùng Địa hoàng, A giao, Mạch đông, Bạch thược để tư âm bổ huyết, Chích cam thảo, Ma nhân để phù chính nhuận táo. Ngô Cúc Thông lại nói: "Đương thời Trọng Cảnh, chữa bệnh thương hàn mạch kết đại, mới dùng Sâm, Quế, Khương, Táo để phục hồi dương ở trong mạch, ngày nay chữa bệnh thương ôn vì dương thịnh âm kiệt, không được bổ phần dương nữa dùng phép cổ mà không câu nệ phương cổ, là do người thày thuốíc khéo biến hoá vận dụng". Cứu nghịch thang (ôn bệnh điều biện). Tức là bài gia giảm Phục mạch thang bỏ Ma nhân, gia Sinh long cốt 4 đồng cân, Sinh mẫu lệ 4 đồng cân, cách sắc như Phục mạch thang. Mạch hư đại muốn tán gia Nhân sâm 2 đồng cân. Phương này dùng Phục mạch thang bồi bổ chân âm bỏ Ma nhân hoạt tiết, lại gia Long cô"t, Mầu lệ trấn tâm an thần, giữ vững tân dịch, để đưa đến công hiệu tư âm trấn nhiếp. Nếu mạch hư tán đại, là dấu hiệu khí hư muốn thoát, cho nên gia Nhân sâm để bền vững chính khí. Nhất giáp phục mạch thang (ôn bệnh điều biện) Tức là bài Gia giảm Phục mạch thang bỏ Ma nhân, gia Mẫu lệ 1 lạng: Phương này cũng dùng Gia giảm phục mạch thang tư bổ chân âm, vì Ma nhân tính hoạt tiết hay nhuận trường thông đại tiện, người đại tiện đi sệt sệt thì không dùng được, cho nên bỏ mà không dùng, lại gia Mẫu lệ để giữ vững âm dịch, hợp lại mà thành bài thuốc tư âm cố nhiếp. • H ư đ ô n g ở trong. a. Chứng hậu: Chân tay máy động, nặng hơn thì co giật, trong tim đập thình thịch, tinh thần mỏi mệt, mạch hư, lưỡi đỏ rêu ít, nặng thì thường thường như muốn thoát. b. Cơ c h ế bệnh: Đây là thuỷ không nuôi dưỡng mộc, đến nỗi hư phong động ở trong, phần nhiều do chứng chân âm sắp kiệt, mà phát triển ra, cho nên phần nhiều thấy ở thòi kỳ cuối của ôn bệnh. Can là tạng phong mộc, chủ thuộc gân mạch và nhò thận thuỷ để tư dưõng, tức là nghĩa "At quý đồng nguyên". Nhiệt tà ở lâu, chân âm bị đốt, thuỷ suy mộc vượng, cân mạch mất tư dưỡng mà co quắp, đến nỗi hiện ra những chứng động phong chân tay máy động, hoặc co giật. Chứng trong tim đập thình thịch cũng là do âm hư thuỷ suy, hư phong ấy rối ở trong mà gây ra. Tinh thần mỏi mệt, mạch hư lưỡi đỏ rêu ít, hơn nữa hoặc sắp thoát, đều là hư tượng âm tinh hao thiếu. Chứng này với chứng Nhiệt thịnh động phong tuy cùng là can phong động ở trong nhưng vì nhiệt tà quá thịnh, cân mạch khô ráo có khác nhau. Chứng thưc phong thì chân tay co giật, thể bệnh rất là kịch liệt, mà còn kiêm có triệu chứng nhiệt thịnh cực độ. vả lại hiện chứng của hai loại ấy cũng có khác nhau. Chứng thực phong thì chân tay co giật, thể bệnh rất là kịch liệt, mà còn kiêm có triệu chứng nhiệt thịnh nóng ran, chân tay quyết lạnh, tinh thần hôn mê, chứng này thì chân tay máy động dữ hoặc co giật vả lại còn kiêm có một loạt triệu chứng âm 23 hư, hai chứng khác nhau rõ rệt. Hà Tú Sơn nói: "Huyết hư sinh phong, không phải là phong thật. Kỳ thực vì huyết không nuôi dưõng cân, cân mạch co quắp, co duỗi không được tự nhiên, cho nên chân tay co giật, giông như phong động, vì thê gọi là "nội hư ám phong". Vê thòi kỳ cuối của bệnh ôn nhiệt phần nhiều thấy có chứng này, là do nhiệt làm tổn thương huyết dịch". c. Phép chữa: Chữa chứng này lấy tư âm dưỡng huyết, bình can tức phong làm phương pháp chủ yếu, so với chứng nhiệt thịnh động phong, chữa bằng thuốc thanh nhiệt lương can tức phong thì khác nhau. Nhưng khi lâm sàng lại nêu căn cứ vào trình độ nặng nhẹ của bệnh tình mà lựa dùng bài thuốc khác nhau. Như chứng nội phong sắp phát mà chỉ thấy chân tay máy động chưa đến nỗi kinh quyết, nên dùng Nhị giáp phục mạch thang mà tư âm tiềm dương, để phòng phát chứng kính, nếu kiêm trong tim đập thình thịch, mạch tế sác, thì là âm suy khá nặng mà can phong đã có thể bổc mạnh lên, chữa nên dùng Tam giáp phục mạch thang mà tư âm tiềm trấn, nếu đã thấy chân tay co giật, tinh thần mỏi mệt, mạch hư, lưỡi đỏ ít rêu, thường thường muốn thoát thì là âm tinh cực thiếu, hư phong quấy rối, nên kíp cho uốhg phương Đại định phong châu để tư âm cố thoát, tiềm dương tức phong. d. B ài thuốc: Nhị giáp mạch thang (ôn bệnh điều biện). Tức là bài Gia giảm phục mạch thang gia Sinh mẫu lệ 5 đồng cân, Sinh miết giáp 8 đồng cân. Bài này dùng Gia giảm phục mạch thang tư bổ chân âm, gia Mẫu lệ, Miết giáp thuộc loại có mai để tiềm dương. Tam giáp phục mạch thang (ôn bệnh điều biện). Tức là bài Nhị giáp phục mạch thang gia Sinh Quy bản 1 lạng. Bài này là trong bài Nhị giáp phục mạch thang gia một vị Quy bản để giúp sức tư âm tiềm trấn. Đại định phong châu (ôn bệnh điều biện). Bạch thược 24g Sinh mẫu lệ 16g A giao 12g Mạch đông 24g Sinh quy bàn 16g Can địa hoàng 24g Chích cam thảo 16g Ma nhân 8g Lòng đỏ trứng gà 2 cái (để sông) Sinh miết giáp 16g Nước 8 chén, sắc lấy 3 chén lọc bỏ bã, hoà lòng đỏ trứng gà vào, quấy nguội cho đều, chia uống 3 lần. Bài này do bài Tam giáp phục mạch thang gia vị mà tổ chức thành. Trong phương dùng A giao, lòng đỏ trứng gà lấy nghĩa là loại huyết nhục hữu hình để bổ âm dịch mà tắt nội phong. Thược dược, Cam thảo, Ngũ vị tử ngọt chua hoà âm, bổ âm liêm dương. Lại dùng 3 vị thuôc loài có mai có tính tiềm dương, mạch động. Địa hoàng tư âm nhuận táo. Hợp lại làm thành phương thuốc chủ yếu chữa chứng hư phong động ở trong. Chỉ có phương này các vị thuốc đều là một loạt thuốc tư bổ, khi lâm sàng cần phải hiểu rõ nhiệt tà đã trừ mà thuần thuộc chứng âm khuy phong động, mới nên sử dụng. 24 • Tà lưu ở p h ầ n ảm. a. Chứng hậu: Đêm nóng, buổi sớm mát, nóng lui không có mồ hôi, ăn được mà ngưòi gầy. b. Cơ ch ế bệnh: Chứng này phần nhiều thấy ở thòi kỳ cuối của ôn bệnh, thưòng thường, dai dẳng không khỏi. Bệnh thế khá chậm thấy chứng khá nhẹ phần nhiều do hư tà của ôn bệnh ẩn nấp ở phần âm mà không giải ra ngoài, cho nên nóng lui không có mồ hôi. Vì bệnh tà không ở phần khí, vị trường không bệnh, cho nên bệnh nhân vẫn ăn được. Xét vì bệnh ở phần âm, tuy thấy chứng không nặng lắm, nhưng thòi gian lâu dần, âm huyết tốt cũng hao hụt, cho nên thấy hình thể gày mòn. Ngô Cúc Thông nói: "Đêm đi vào phần âm mà nóng, ngày đi vào phần dương mà mát, đủ biết tà khí nấp sâu vào phần âm, nóng lui không có mồ hôi, tà không ra phần biểu mà vẫn về phần âm lại càng rõ hơn". c. Phép chữa: Chữa chứng này nên dùng phép tư âm thấu tà làm cho tà ở phần âm thấu ra phần dương mà bệnh khỏi. Ngô Cúc Thông nói: "Tà khí ẩn sâu trong phần huyết, lẫn lộn trong huyết lạc, không nên đơn thuần dùng thuốc dưỡng âm, lại không phải là làm mạnh hoả, nên càng không được dùng thuốc đắng ráo" cho nên dùng Thanh hao Miết giáp thang vào phần âm đuổi tà để chữa. d. B ài thuốc: Thanh hao Miết giáp thang (ôn bệnh điều biện). Thanh hao 12g Sinh địa nhỏ 16g Miết giáp 20g Tri mẫu 8g Đan bì 8g Nước 5 chén sắc lấy 2 chén, ngày uống 2 lần. Bài này dùng Miết giáp tư âm, vào đường lạc đuổi tà, Thanh hao thơm thấu đường lạc, dẫn tà ra ngoài. Đan bì, Sinh địa nhỏ củ mát huyết dưỡng âm, Tri mẫu sinh tân nhuận táo. Ngô Cúc Thông nói: "Phương này có cái taì tình là trước đưa vào sau đưa ra, Thanh hao không thể vào thẳng phần âm được, thì nhò có Miết giáp đưa vào, Miết giáp không thể một mình ra phần dương được thì đã có Thanh hao đưa ra". III. TIỂU KẾT Phong ôn là bệnh ôn nhiệt phát sinh ở hai mùa Đông và Xuân. Nguyên nhân gây ra bệnh này là cảm phải độc tà phong nhiệt, khi mới phát bệnh phần nhiều thấy có chứng ở phế vệ, trong qúa trình diễn biến của bệnh có hai loại tình huống thuận truyền và nghịch truyền. Trong quá trình diễn biến của bệnh, dễ phát ra chứng sởi, và xuất hiện những chứng kinh quyết động phong, đòm nhiệt suyễn cấp, đó cũng là đặc điểm của bệnh này. Khi bệnh mới phát tà ở phế vệ, chữa nên dùng phép tân lương thấu biểu, thấy chứng thiên về vệ biểu nên dùng Ngân kiều tán, cảm tà nhẹ hơn, thấy chứng thiên về phế kinh, nên dùng Tang cúc ẩm, Nếu biểu tà không thấy giải bệnh không ngoài lấy ba mặt phế, lồng ngực và trường vị làm chủ yếu, nen chỉ dùng Chi tử sị thang để tiết nhiệt trừ phiền, nếu nhiệt tà làm bế tắc khí thì lấy ho 25 suyễn là chủ yếu, nên dùng Ma hạnh thạch cam thang để thanh tuyên phế nhiệt nên dùng Tuyên Bạch thừa khí thang thanh nhiệt hoá đàm, công hạ phủ thực, nếu thuộc về đàm nhiệt kết hung, nên dùng tiểu hãm hung gia Chỉ thực thang thanh nhiệt hoá đàm khai kết, nếu ở lồng ngực nhiệt tà khá thịnh mà hơi kiêm chứng phủ thực thì nên dùng Lương cách tán để thanh trên tiết dưới. Còn như nhiệt tà truyền vào Dương minh thì không ngoài hai loại nhiệt vô hình và nhiệt hữu hình kết lại. Nhiệt vô hình thịnh mà tân dịch tổn thương, chữa nên dùng Bạch hổ thang để thanh nhiệt bảo tồn tân dịch, nếu nhiệt tà chuyển xuống đại trường, nên lấy Cát căn cầm liên thang để thanh nhiệt chỉ hạ lợi, nếu thuộc chứng nhiệt hữu hình kết thành phủ thực, nên dùng Điều vị thừa khí thang để công hạ tiết nhiệt. Nếu Dương minh nhiệt thịnh mà dẫn động can phong thì nên dùng Bạch hổ thang hoặc Thừa khí thang gia Linh giác, Câu đằng để thanh can tức phong, nếu đòm thuần do can kinh nhiệt thịnh động phong, nên dùng Linh dương giác câu đằng thang để thanh nhiệt lương can tức phong. Nếu nhiệt tà ở phần khí truyền vào phần dinh, còn có thể mong thấu nhiệt chuyển ra phần khí thì dùng Thanh dinh thang thanh dinh tiết nhiệt, nếu tiến triển lên thành chứng nhiệt bế tâm bào, nên dùng phép thanh tâm khai khiếu, dùng Thanh cung thang để chiêu thuốc An cung Ngưu hoàng hoàn hoặc là Chí bảo đan, Tử tuyết đan, chứng nhiệt bế tắc tâm bào mà kiêm phủ thực, nên dùng Ngưu hoàng thừa khí thang vừa thanh tâm vừa công hạ. Chứng tâm bào cấp bách, nên trước khai khiếu rồi sẽ công hạ, nếu tâm dinh nhiệt thịnh mà dẫn động phong, càng nên dùng cả hai phép thanh tâm khai khiếu và lương can tức phong, dùng Thanh cung thang gia Linh dương giác, Câu đằng, Đan bì. Nếu phế nhiệt lan rộng đến dinh mà phát sởi ra ngoài nên cho uông Ngân kiều tán bỏ Kinh giới, Đậu sị gia Sinh địa, Đan bì, Đại thanh diệp để thanh dinh thấu chẩn. Bệnh này ở thài kỳ cuối nhiệt tà vào sâu ở hạ tiêu, thường dễ xuất hiện chứng nhiệt đốt chân âm. Chân âm đã hư, dương nhiệt lại đốt mạnh, nên dùng Hoàng liên A giao thang để tư bổ chân âm. Nếu vì phát hãn và kiêm tâm khí tổn thương dùng Cứu nghịch thang để tư âm trấn nhiếp, nếu vì hạ nhầm mà kiêm nước dịch tiết, đại tiện phân nhão, nên dùng Nhất giáp phục mạch thang để tư âm cố nhiếp. Chân âm hư nhiều, thuỷ không nuôi dưỡng được mà hư phong động ở trong, chữa nên tư âm tức phong cho nên tuỳ chứng mà chọn dùng. Ôn bệnh ở thòi kỳ cuối nhiệt phục phần âm, đêm nóng sớm mát nên dùng Thanh hao miết giáp thang để tư âm thanh nhiệt, thấu tà ra ngoài. Nói tóm lại, chữa chứng nhiệt đốt chân âm, cần phải lấy tư âm làm chủ yếu, kết hợp vói bệnh tình mà dùng loại thuốc thanh nhiệt làm tá. Ngưòi xưa nói: "còn được một phần tân dịch sẽ là còn có một phần sống" ý nghĩa rất là thực tiễn. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Chứng phong ôn hình thành như thế nào? khi mới phát bệnh có đặc điểm chứng hậu gì? Chữa bằng cách nào? 2. Chứng phong ôn có truyền thuận và truyền nghịch như thế nào? Chứng trạng và cách chữa của nó ra sao? 3. Chứng phong ôn hay phát sởi cách nào? Cách chữa trị ra sao? 26 4. Chứng phong ôn có những nhiệt thịnh động phong với âm hư động phong, chứng hậu với cách chữa có gì để phân biệt? PHỤ 1: BỆNH ÁN VỀ BỆNH PHONG ÔN 1. Bệnh phong ôn tà nhập vào tâm bào (Ngô Cúc Thông Y án) Họ Diêu 32 tuổi, bị chứng phong ôn, nhầm là thương hàn cho uống thuổc phát biểu, đến nỗi tinh thần đò đẫn, nói sảng, đại tiện ra nước loãng mà không thông lợi, hiện tại mạch phù, đó là xuống hết mức lại đi lên. Trước khát mà hay không khát, đó là tà dồn lên về phần huyết. Bài: Ngưu hoàng thanh tâm hoàn. Liên kiều 8g Tang diệp 4g Ngân hoa 12g Cam thảo 4g Huyền sâm 12g Mạch đông 12g Trúc diệp 4g Tê giác 8g Đan bì 8g Một ngày uống 3 lần, mỗi lần 6 viên. Chẩn đoán lần thứ hai: Trưóc dùng phép thanh Đản trung, ngày nay tinh thần hơi tỉnh táo nhưng tiểu tiện ngắn đi luôn, đại tiện ra nước lỏng, định dùng phép cam khổ hợp lại để hoá âm khí, vẫn dùng Ngưu hoàng hoàn. Bài: Ngưu hoàng hoàn. Sinh địa (củ to) 20g Xuyên liên (chính) 4g Mẫu lệ để sông 36g Hoàng cầm 8g Đan bì 20g Tê giác 2g Mạch đông 20g Nhân trung hoàng 4g Nước 8 bát Sắc lấy 3 bát, chia uống 3 lần. Sáng ngày mai uống thang nữa. Chẩn đoán lần thứ ba: Cũng dùng phương trước bỏ Tê giác, gia Miết giáp (sông), Bạch thược đều 36g. Chẩn đoán lần thư íỉ/ềẻ Nóng dữ đã bớt, dư nhiệt hãy còn, tiểu tiện vẫn không sướng, dùng phép ngọt đắng hợp lại để hoá âm khí. Sinh địa nhỏ củ 32g Hoàng bá sao 8g Bạch thược 8g Mẫu lệ 20g Mạch môn để cả lõi 6g Miết giáp 32g Cảm thảo 8g Hoàng cầm 8g Buổi chiều hôm nay một thang. Ngày mai hai thang. Chẩn đoán lần thứ năm: Ôn bệnh đã giải, tà ít hư nhiều, dùng phép phục mạch 27 Sinh địa to củ 24g Ma nhân I2g Bạch thược sao 24g Mâu lệ 24g Mạch đông 24g (để cả lõi) Tri mẫu 8g Hoàng bá 8g Chích cam thảo 8g A giao 12g Ba thang uống 3 ngày. - Chẩn đoán lần thứ sáu: Nhiệt tà uất át, tất hại chân âm, dùng phương trước bỏ Hoàng bá, Tri mẫu, gia Miết giáp, Sa sâm, để ngăn ngừa sau khi khỏi bệnh rồi sinh táo. Bài trước bỏ Tri mẫu, Hoàng bá, gia Miết giáp để sống 24g, Sa sâm 12g. Nhận xét: Chứng phong ôn dùng làm thuốc tân ôn phát hãn, mà gây ra tinh thần đò đẫn, nói sảng, là triệu chứng tà nhập vào tâm bào. Trước khát mà nay không khát, là hiện tượng tà vào dinh huyết. Đại tiện ra nước loãng mà không lợi, là nhiệt tà bức bách ở trong gây nên. Mạch phù là nói rõ bệnh tà chữa bí đại tiện ra nước loãng mà hãm xuống, là tà khí vẫn có cái thế muốn giải ra ngoài. Tóm lại, Chứng này mạch phù, không phải tà ở biểu, đại tiện ra nước loãng không thông cũng không phải chứng nhiệt kết bàng lưu. Trọng tâm của bệnh ở phần dinh tâm bào, cho nên dùng Tê giác, Đan bì, Ngân kiều, Tang, Trúc, Ngưu hoàng hoàn, thanh tâm khai khiếu, Lương dinh táo, bệnh có chuyển biến tốt. Nhưng đại tiện ra nước loãng, vẫn là lý nhiệt bức xuống, cho nên dùng thêm Hoàng liên, Hoàng cầm đắng lạnh để tả hoả thanh nhiệt vững âm, thòi kỳ cuối của ôn bệnh tổn thương phần âm ở hạ tiêu mà ỉa chảy, nguyên có dùng phép Nhất giáp tiêu để cố sáp đại tiện, bảo tồn âm dịch, nhưng chứng này lý nhiệt chưa sạch dùng Mâu lệ tựa như sớm quá. Sau dinh nhiệt đã thanh rồi mà âm chưa khôi phục, cho nên bỏ Tê giác, gia những vị Miết giáp, Bạch thược, Sinh địa, A giao để chú trọng dưỡng âm. Chứng này là chứng phong ôn lầm phát biểu mà đến nỗi nhiệt hãm tâm dinhẾ Sau khi dùng thuốc thanh tâm mát dinh, tuy bệnh tình có chuyển biến tốt mà về sau phải liên tục dùng thuốc thanh nhiệt dưỡng âm, bệnh mới khỏi hẳn, có thể thấy rõ chứng phong ôn để nghịch truyền vào tâm bào và ôn bệnh để tổn thương âm dịch, đó là sự thực trên lâm sàng, cũng do đó mà có thể hiểu biết được ý nghĩa thực tiễn: "ôn bệnh cần phải bảo tồn chân âm", không phải chỉ trong quá trình phát triển chú ý vấn đề này, mà tốt nhất là lúc mới chữa cần phải làm sao cho nó không hoá nhiệt làm tổn thương âm dịch. 2. B ện h phong ôn đàm n h iệt kính q u yết (Đ inh ca m N hân y án) Cháu bé họ Từ, phát sốt 6 ngày ra mồ hôi không thấu suốt, thường thường co giật, rêu lưỡi mỏng nhớt mà vàng, mạch hoạt sác không rõ, vân tay sắc tím đã lên đến khí quan, thầy thuốc đã nhiều lần cho uống những thuốc Linh dương, Thạch cao, Câu đằng, mà bệnh tình cứ nặng thêm. Nguyên do vì tà khí phong ôn vô hình vói đàm nhiệt hữu hình, cùng ngăn trở phế vị, bệnh túc giáng của phế không thi hành, nhiệt của Dương minh đốt ở trong, ôn tà ở Thái âm không giải 28 được, có hiện tượng giống như chứng kính quyết mà thực không phải kính quyết, tức là chứng nặng của Mã tỳ phong, chỉ chữa ở Quyết âm thực là vô ích. Đương lúc nguy cấp này, nếu không phải tướng giỏi thì không thể dẹp được giặc, nghĩ dùng Ma hạnh thạch cam thang gia giảm, mới mong cứu vãn được 1 trong 10 phần mà thôi. Ma hoàng 4g Hạnh nhân 8g Cam thảo 4g Thạch cao 12g Tương bối mẫu 12g Thiên trúc hoàng 8g Uất kim 12g Trúc diệp tươi 30 lá Trúc lịch 20g Lô căn tươi 40g (bỏ đốt) Chẩn đoán lần thứ hai: Trước cho uống Ma hạnh thạch cam thang gia giảm, phát sốt nhẹ hơn, nghiến răng co giật đều yên, là triệu chứng tốt. Chỉ còn ho khí đưa ngược lên, trong họng còn có tiếng đờm, mạch hoạt sác, vẫn tay rút ngắn, miệng khô muốn uống nước, nước tiểu ngắn đỏ, đó là phong ôn đòm nhiệt giao nhau ngăn trở phế vị, một lúc chưa thể thanh trừ hết, vẫn thúc dục phải tiến nữa. Ma hoàng 4g Thiên trúc hoàng 8g Hạnh nhân 12g Mã đâu linh 6g Cam thảo 4g Đông qùi tử 12g Thạch cao 12g Đạm trúc lịch 20g Xuyên bối 12g Lô căn 80g (bỏ đốt) Uất kim 1 đồng cân. Chẩn đoán lần thứ ba: Qua hai lần uống Ma hạnh thạch cam thang, mình nóng bớt, thở gấp yên, nghiến răng co giật cũng đỡ, chỉ còn ho nhiều đờm, miệng khô muốn uống nước, tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện phân hơi nhão, sắc vàng. Phong ôn đã được giải rồi, đàm nhiệt lưu luyến, nhưng thể chất non yếu thì chớ nên dùng nhiều quá, nay chế nhỏ thang thuốc đi. Tĩnh thiên y 6g Hạnh nhân 12g Xuyên bối 6g Viễn chí nướng 6g Kim ngân hoa 12g Đông qùi tử 12g Thiên hoa phấn 12g Đậu linh 6g Thông thảo 3g Đông tang diệp 2g (lá dâu mùa đông) Nưóc củ nàng: 1 chén uống rượu (Mã thầy). Nhận xét: Theo bệnh án ghi chép, chứng hậu chủ yếu của bệnh nhân là ho đờm trợ ngại, thở gấp nghiến răng, co giật, đó là Thủ Thái âm với Túc Quyết âm cùng bệnh không nghi ngò gì nữa, nhưng tại sao đã cho uống những loại thuốc bình can tức phong như Linh dương giác, Câu đằng mà co giật vẫn không thôi, bệnh lại nặng thêm? Mà cho uống hai lần Ma hạnh thạch cam thang rồi mình nóng bốt, thở gấp và nghiến răng, co giật bình, bệnh tình được chuyển biến tốt? Đó là vì co giật tuy là thấy chứng của can kinh, nhưng nguyên nhân bệnh lại là do 29 đàm nhiệt giao nhau ngăn trở phê vị, cho nên dùng Ma hạnh thạch cam thang thanh tuyên đàm nhiệt, không chữa co giật mà co giật tự bình, chữa bệnh phải tìm gốc bệnh, cho nên thu được công hiệu mong muốn. PHỤ 2: THAM KHẢO LÂM SÀNG Bệnh phong ôn mói phát, thường nóng ở ngoài biểu, phép chữa phần nhiều chú trọng tân lương, nhưng cũng có khi khách hàn bao lấy hoả (biểu hàn bó ở ngoài nặng lắm) thì thuốc tân lương lại không nên dùng sớm hoặc dùng qúa nhiều để đề phòng thuốc mát thì làm ngăn trở. Nói chung có thể dùng phép hơi cay giải nhẹ, tán biểu hàn trước. Nhưng cũng không nên dùng thuốc tân ôn cương táo, để khỏi giúp cho nhiệt, làm hao tân dịch, hoặc dùng nhầm thuốc tân ôn đến nỗi cướp hao tân dịch, thì hậu quả thường có khi đưa đến hư tổn thanh lao, cần phải cẩn thận. Bệnh phong ôn mới phát ngoài những chứng hậu phải có như nóng khát, ho, nhức đầu, mạch phù ra, thường kiêm có chứng đau họng. Nhưng chứng đau họng này nói chung không có sưng mấy, cách chữa nên lấy sơ tán phong nhiệt làm chủ yếu, nên ở trong thuốc cay mát giải biểu gia vào loại Ngưu bàng, Cát cánh, nhất thiết không nên vội dùng những loại ngọt lạnh mát bổ để khỏi ngăn tà ra được. Lại có khi bệnh còn ở biểu đã thấy ngay chứng đổ máu mũi, cơ chế của loại đổ máu mũi này, vẫn là phong nhiệt ở phế vị, nên dùng Ngân kiều tán gia Bạch mao căn cay mát tiết nhiệt, biểu tà thấu đạt ra ngoài được thì chứng đổ máu mũi tự hết. Nhất thiết không nên mới thấy đổ máu mũi mà đã nhầm cho là nhiệt vào dinh huyết, rồi chữa bừa bãi bằng phép thanh dinh lương huyết. Ho là chứng tất phải có của bệnh phong ôn, nếu ngưòi tuổi già thận khí hư suy, hoặc ngưòi vôn có chất ẩm ứ đọng lúc bấy giò hay phát cả chứng suyễn thỏ, cách chữa nên trong thuốc sơ giải biểu tà châm chước gia thêm thuốc chữa suyễn. Nếu người thận khí hư suy, nên gia Hồ đao nhục, Tử thạch anh, nếu người vốn có chất ẩm ứ đọng, nên gia những vị Bán hạ, Trần bì, nếu nhận nhầm là chứng Ma hạnh thạch cam thang, thì sẽ gây ra biến chứng. Trẻ con bệnh phong, do đàm trọc ngăn trở, thường có thể hiện ra chứng hậu kính quyết động phong, phép chữa nên thanh hoá đàm nhiệt. Đàm nhiệt trừ xong thì chứng quyết cũng theo đó mà tự khỏi, nhất thiết không nên thấy phong thì chữa phong, rồi chuyên dùng phép cương can tức phong. Phàm người lúc bình thường âm hư hoả vượng, cảm phải phong ôn, thường dễ bị nhiệt hãm vào tâm bào, khi gặp bệnh nên chú ý. Bệnh phong ôn nói chung phát triển thành tà ít nhiều, can dịch, thận dịch khô cạn cũng ít chỉ có khi nhiệt tà chưa được thanh giải kịp thời, lưu cữu lâu ngày cũng có một đôi khi, nói chung không phải là chứng thường gặp trên lâm sàng. Đau sườn là thường thấy trong bệnh phong ôn, trong phép sơ tiết phong nhiệt, tà bằng loại thuốc thanh tuyên phế lạc như những vị Uất kim, Tỳ bà diệp, Qua lâu bì sẽ được hiệu quả ngay, nhất thiết kiêng dùng bừa bãi những vị hương táo chữa khí như loại Hương phụ, Mộc hương, Trần bì. Bệnh phong ôn nhiệt kết bàng lưu phần nhiều đi ngoài ra phân loãng, hậu 30 môn không nóng rát lắm, chứng trường nhiệt hạ lợi thì phần nhiều hậu môn nóng rát, đi ra nước loãng thối khẳn, hai chứng này tựa hồ giống nhau, nhưng thực ra thì khác. Cho nên trên lâm sàng lấy bài Điếu vị thừa khí thang chữa chứng nhiệt hạ đới cô" nhiên là không nên, nếu dùng Cát căn cầm liên thang chữa nhiệt kết bàng lưu, cũng là không đúng. Thuốic đã trúng bệnh mà lại để nhầm cơ chế bệnh gây nên bệnh tình chuyển nặng, có thể hiện ra chứng trạng đau bụng khó chịu. Chữa bệnh phong ôn nhiệt hãm vào tâm bào tuy dùng thuốc lương khai để giải, nhưng chưa thấy lạnh thuốc bế chứng mà chỉ thấy có khi nói sảng thì thuốc lương khai không nên dùng sớm quá, dùng sớm quá lại hay đưa tà vào sâu. Lại phương Tử tuyết đan nếu không phải hôn mê mà nhiệt độc cực thịnh thì không nên dùng bừa bãi. Bệnh phong ôn nóng quá động phong, co giật mạnh, nếu dùng thuốc thanh nhiệt tức phong chung chung thì khó ngăn chỉ được, nên trong phương thuốic chủ trị gia vào những thuốc định kinh thuộc loại côn trùng như những vị Ngô công, Toàn yết, Địa long, nhưng cần chú ý, nếu chứng động phong thuộc loại âm hư thì không nên sử dụng. Bệnh phong ôn tuy thuộc loại tà dương nhiệt, nhưng cũng có khi kiêm ghé thấp tà, trên lâm sàng thường thấy xuất hiện chứng hạnh bối, phần nhiều là thuộc loại này. Cách chữa nên xen vào loại thuốc hoá thấp trong thuốc thanh sơ phong nhiệt, nhưng hoá thấp không nên dùng thuốc ôn táo, để khỏi giúp nhiệt làm hao tân dịch, chỉ nên dùng thuốc ngọt nhạt lợi thấp như những vị Lô căn, Hoạt thạch. 31 C hương II BỆNH XUÂN ÔN IẾ ĐẠI CƯƠNG Xuân ôn là bệnh nhiệt cấp tính do cảm thụ độc tà ôn nhiệt mà phát sinh về mùa xuân, Căn cứ mùa phát bệnh mà đặt tên. Đặc điểm của nó là: Phát bệnh đột ngột, bệnh tình nghiêm trọng, biến hoá tương đối nhiều, bệnh tình tương đối dài, khi mới phát thấy ngay những chứng hậu lý nhiệt như nóng ran, khát nước, tâm buồn bực, nước đái đỏ. Nguyên nhân bệnh này phát sinh ra là cảm phải độc tà ôn nhiệt của mùa xuân. Vì khí hậu mùa xuân ấm áp, bệnh độc dễ sinh, nên trong ngưòi chính khí kém hoặc làm lụng nghỉ ngơi ăn uông điều độ, thì có thể cảm phải mà thành bệnh. Môi trường cảm thụ ôn bệnh, phần nhiều là do miệng mũi mà vào, cho nên trung tâm mắc bệnh này phần nhiều ở vị trước. Những vì cảm thụ bệnh tà có nhẹ nặng thân thể hư suy có ít nhiều, vì thế cơ chế biến hoá lại có chia ra tà ở phần khí với tà ở phần dinh khác nhau, do đó mà hiện ra chứng hậu ở các mặt vị, trường đởm, tân dịch. Tà ở phần khí là tà chính đấu tranh kịch liệt lúc này tà khí tuy thịnh nhưng sức đề kháng của chính khí cũng mạnh, cho nên bệnh tình so với chứng tà ở phần dinh còn nhẹ hơn, nhưng xu hướng phát triển của nó có thể vào sâu phần dinh, phần huyết. Tà ở phần dinh là nhiệt tà vào sâu, dinh âm thiếu thôn, cho nên bệnh tình so với chứng tà ở phần khí thì nặng hơn. Nếu nóng ở phần dinh không đưa ra ngoài được, thì có thể tiến sâu một bước vào phần huyết, hoặc can thận ở hạ tiêu, nhưng nếu chữa được đúng, thì cũng có thể thấu đạt ra ngoài phần khí mà bệnh tình chuyển nhẹ. Nhưng không cứ ở khí, ở dinh, khi bệnh mói phát đều phần nhiều có kiêm biểu chứng. Nguyên tắc chữa bệnh này là lấy thanh tiết lý nhiệt làm chủ yếu, và cần nên chú ý bảo hộ âm dịch, thấu tà ra ngoài. Nhiệt ở phần khí, thì khi mới phát nên dùng ngay thuốc khổ hàn để thanh lý nhiệt. Nhiệt ở phần dinh, thì cần dùng thuốc thanh dinh giải độc, thấu nhiệt ra ngoài. Nếu kiêm có biểu chứng thì nên căn cứ bệnh tình hoãn hay câp, trước cho thuốc giải biểu, tiếp đó sẽ thanh lý, hoặc cả giải biểu, cả thanh lý, cùng tiến hành một lúc. Còn về cách chữa các loại bệnh chứng hậu trong quá trình phát triển của bệnh này, thì căn cứ vào kết quả của các giai đoạn, rồi tuỳ chứng mà chữa. 32 II. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ • • • 2 .1 . T à ở p hần khí 2.1.1. N hiệt ở T hiếu d ư ơng đờm kinh. a. Chứng hậu: Phát sốt không sợ lạnh, miệng đắng mà khát, tâm buồn bực, nước tiểu ngắn đỏ, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sácẵ b. Cơ ch ế bệnh: Đó là chứng hậu bệnh xuân ôn mói phát, nhiệt ỏ kinh Thiếu dương đởm. Vì nhiệt tà ở lý, cho nên khi bệnh mới phát liền thấy phát sốt mà không sỢ lạnh, so với bệnh phong ôn lúc mới phát tà ở phế vệ mà thấy phát sốt sợ lạnh là vì ở đởm, khác nhau rõ rệt. Nhiệt uất ở kinh Thiếu dương đởm tân dịch hao thương cho nên tâm buồn bực miệng đắng mà khát, tiểu tiện vàng đỏ, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng mà mạch huyền sác. Cơ chế của bệnh này là nhiệt ở kinh Thiếu dương đởm, so với nhiệt ở kinh Dương minh là lý nhiệt thịnh ra ngoài, biểu lý đều nóng, thể nóng rất nặng nề tân dịch hao tổn cũng nhiều, chứng này thì nhiệt tà uất ở đởm kinh, ứ đọng ở trong mà không thoát ra ngoài cho nên chứng thể hiện cũng nóng trong nhiều hơn mà ngoài không nóng lắm. Đó là điểm chủ yếu phân biệt hai chứng khác nhau. c. Cách chữa: Chữa bệnh này bằng thuốc đắng lạnh trực tiếp thanh giải lý nhiệt là chủ yếu. Nên dùng bài Hoàng cầm thang. Nếu kiêm có biểu chứng như sợ lạnh, nhức đầu thì phép chữa nên giải cả biểu và lý, nên dùng Thông sị cát cánh thang gia Hoàng cầm. d. B ài thuốc: Hoàng cầm thang (thương hàn luận) Hoàng cầm 8g Cam thảo 4g Thược dược 8g Đại táo 12g Bài này là thuốic khổ hàn thanh nhiệt kiêm cả bền vững phần âm. Trong bài dùng Hoàng cầm làm quân, đắng lạnh trực tiếp thanh giải lý nhiệt , lại dùng Thược dược, Cam thảo, Đại táo chua ngọt sinh hoá âm dịch. Thông sị cát cánh thang (Thông tục thương hàn luận) Thông bạch 3 - 5 củ Đạm đậu sị Cát cánh 6g Sơn chi sao cháy Liên kiều 6g Cam thảo Đạm trúc diệp chút ít. 12 - 20g 8 - 12g 3g Bài này do Chi sị thang hợp với Cát cánh thang gia giảm mà tổ chức thành. Thông bạch, Đậu sị, Bạc hà, Cát cánh cay tán ngoại tà. Liên kiều, Sơn chi, Cam thảo, Đạm trúc diệp thanh nhiệt giải độc, gia vào Hoàng cầm để thanh lý nhiệt. 2.1.2. N hiệt ỏ D ươ ng m inh vị kỉnh Bệnh Xuân ôn nhiệt Dương minh vị trường chứng hậu biến hoá cũng không 33 ngoài hai loại nhiệt vô hình thiêu đốt và nhiệt hữu hình kết lạiẽ Chứng trước là Dương minh kinh chứng, cho nên nóng dữ, khát nước, ra mồ hôi nhiều, mạch hồng đại, chữa nên dùng Bạch hổ thang để thanh khí tiết nhiệt. Chứng sau tức là Dương minh phủ chứng, thấy sốt cơn nói sảng, bụng đầy đại tiện bí, rêu lưỡi vàng ráo, mạch trầm thực, chữa nên dùng Điều vị thừa khí thang công hạ tiết nhiệt. Bệnh này so vổi bệnh phong ôn nhiệt Dương minh nên dùng phép hạ là chỗ giống nhau. Nhưng bệnh Xuân ôn nhiệt kết vị trường, thường nên liên tục công hạ thì bệnh tà mới giải trừ được. Đó là chỗ khác nhau với bệnh phong ôn nhiệt dùng phép hạ. Dưới đây chú trọng trình bày hai loại kiêm chứng của bệnh Xuân ôn khi thấy Dương minh phủ chứng. • C hứng p h ủ thực kiêm âm hao tổn a. Chứng hậu: Mình nóng, bụng đầy, đại tiện bí, miệng khô, môi nứt, rêu lưỡi khô xám. b. Cơ ch ế bệnh: Ồn bệnh rất dễ làm tổn thương âm, cho nên chứng dương minh phủ thực của ôn bệnh rất dễ kiêm thấy âm dịch hao tổn. Phủ thực chưa trừ, âm dịch đã tổn thương, cho nên ngoài chứng phủ thực thấy đầy bụng, đại tiện bí, còn có hiện tượng âm dịch hao tổn như miệng khô, môi nứt, rêu lưỡi khô xám. c. Phép chữa: Chữa bệnh này, nên dùng phép tư âm công hạ. Dùng bài Tăng dịch thừa khí thang, một mặt công hạ thực tà, một mặt tư dưỡng âm dịch, để đạt tới mục đích tà trừ mà tân dịch khôi phục. Nếu thực tà trừ, chỉ vì âm dịch tổn thương mã gây ra trường táo, đại tiện bí, thì chữa nên dùng Tăng dịch thang, tư âm nhuận táo "thêm nước cho thuyền đi". d. Bài thuốc. Tăng dịch thừa khí thang (ôn bệnh điều biện). Huyền sâm 36g Mạch đông 32g Mang tiêu 6g Sinh địa nhỏ củ 32g Đại hoàng 12g (cả lõi) Nước 5 chén, sắc lấy 3 chén, trước uống 1 chén, chưa chuyển lại uông lần nữa. Tăng dịch thừa khí thang tức là Tăng dịch thang gia Mang tiêu, Đại hoàng mà thành. Phương dùng Tăng dịch thang có Huyền sâm, Mạch đông, Sinh địa để tư dưỡng âm dịch, nhuận trường thông tiện, lại gia Đại hoàng, Mang tiêu để tả nhiệt làm mềm chất rắn, công hạ phử thực, cũng đưa đến công hiệu tư âm công hạ. Tăng dịch thang (ôn bệnh điều biện). Huyền sâm 1 lạng Sinh địa nhỏ củ 32g Mạch đông (cả lõi) 32g Nước 8 chén, sắc còn 3 chén, miệng khô thì cho uống hết, không đi đại tiện thì cho uống thang nữa. Phương này đều là thuôc sinh tân dưỡng dịch, cho nên khi chứng ôn bệnh phu thực tà đã trừ rôi mà chỉ vì nước dịch khô, đại tiên bí, dùng phương này rất là thích hợp. 34 ộ C h ứ n g p h ủ thưc kiêm khí dịch đều hư. а. Chứng hậu: Mình nóng, bụng đầy, đại tiện bí, miệng khô, họng ráp, môi nứt lưỡi xám, mỏi mệt ít rêu, rêu lưỡi vàng, hoặc xám đen, mạch trầm nhược hoặc trầm sác. б. Cơ c h ế bệnh: Chứng này vì Dương minh phủ thực nên hạ mà không hạ, đến nỗi thực tà ở vị phủ chưa trừ mà khí dịch của ngưòi đã hư, cho nên ngoài những chứng phủ thực mình nóng, bụng đầy, đại tiện bí ra, lại thấy chứng hậu âm dịch thiếu là miệng khô lưỡi xám đen, môi nứt, rêu lưỡi khô, và hiện tượng chính khí hư yếu như mỏi mệt ít hơi, mạch trầm nhược hay trầm sác. Chứng này so với chứng trước, bệnh tình cũng thuộc hư thực lẫn lộn, nhưng chứng trước chỉ là tà thực mà âm dịch đủ, chứng này thì tà thực mà âm dịch thiếu, chứng này thì tà thực mà khí dịch đều hư, đó là chỗ phân biệt chủ yếu của hai chứng. c. Cách chữa: Chứng này đã có thực tà kết ở trong, chữa nên công hạ, nếu lại thấy khí dịch đã hư, thì cũng nên bồi bổ, nhưng cũng không nên thuần bổ, mà nên chữa bằng phép "vừa bổ vừa công" nên dùng bài Tân gia Hoàng long thang. d. B ài thuốc: Tân gia Hoàng long thang (ôn bệnh điều biện) Sinh địa nhỏ củ 20g Mạch đông (dùng cả lõi) 20g Nhân sâm (sắc riêng) 6g Đương quy 6g Hải sâm (rửa) 2 con Nước gừng 6 thìa Cam thảo 8g Huyền sâm 12g Đại hoàng sổng 12g Mang tiêu 4g Nước 8 chén, sắc lấy 3 chén, trước uống 1 chén pha Sâm 5 phân, nưóc Gừng 2 thìa uống hết. Trong bụng có tiếng sôi hoặc trung tiện muốn đi đại tiện, chờ 2 giờ sau nếu không đi đại tiện theo cách trên uống 1 chén.ẵ. nếu uống một chén mà đi đại tiện được, thì thôi đừng uông lần sau. Bài này là theo bài Hoàng long thang của Đào Tiết Âm gia giảm mà thành. Trong bài dùng Nhân Sâm, Cam thảo bồi bổ chính khí, Đại hoàng, Mang tiêu tả nhiệt làm mềm chất rắn, Mạch đông, Sinh địa, Huyền sâm, Đương quy tư âm nhuận táo, Hải sâm bồi bổ âm dịch, mặn lạnh làm mềm chất rắn. Nước Gừng tuyên thông kết trệ ở phần khí. Phương này là thuốc dùng cả bổ và công chữa cả tà và chính. 2 .2. T à ở D inh h u y ết 2.2.1. C h ứ n g n h iệt ở p h ầ n dinh. Bệnh Xuân ôn nhiệt ở phần dinh về chứng hậu, cơ chế của nó so với chứng nhiệt vào phần dinh của phong ôn là giông nhau, phép chữa cũng dùng Thanh dinh thang để thanh dinh tiết nhiệt. Nhưng nếu nhiệt ở phần dinh kiêm có biểu chứng mà thấy những chứng phát sốt, sợ lạnh, nhức đầu, không mồ hôi hoặc là ít mồ hôi, tâtn buồn bực, lưỡi đỏ, họng khô, thì nên dùng Ngân kiều tán gia Sinh đia, Huyền sâm, Đan bì để chữa. 35 Bài thuốc: Thanh dịch thang (xem ở chương phong ôn) Ngân kiểu tán (xem ở chương phong ôn). Ngân kiều tán là bài thuôe tân lương giải biểu, lại gia là Đan bì, Sinh địa, Huyền sâm để thanh dinh dưỡng âm, hợp lại để chữa chứng nhiệt ở phân dinh mà kiêm ngoại cảm, lấy công hiệu thấu biểu thanh dinh. 2.2.2. N hiệt vào p h ầ n huyết. а. Chứng hậu: Nóng ran, vật vã, nặng thì mê cuồng, nói sảng, nói càn, ban chẩn tím đem hoặc thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, chất lưỡi đỏ sâm. б. Cơ ch ế bệnh: Dinh là tầng nông của huyết, nhiệt ở phần dinh không phải được vào sâu đến phần huyết, nóng làm rối loạn tâm thần, cho nên thấy nóng ran vật vã, nặng thì mê cuồng, nói sảng, nói càn. Nhiệt tà bức huyết đi lung tung, cho nên thấy chứng thổ huyết, nục huyết, tiểu tiện huyết, ban chẩn mọc ra. sắc lưỡi đỏ sẫm càng là đặc trưng của huyết nóng bốic dữ. Do đó có thể biêt chứng nhiệt vào phần huyết, so vối chứng nhiệt vào phần dinh càng nghiêm trọng hơn, và phần nhiều thấy có chứng ra huyết. c. Phép chữa: Nhiệt vào phần huyết bệnh tình nặng hơn, nên cho uống Tê giác địa hoàng thang để lương huyết giải độc. Đây là phép chữa như Diệp Thiên Sĩ đã nói: "Vào phần huyết chỉ sợ hao huyết động huyết, cần phải mát huyết tán huyết". d. Bài thuốc: Tê giác Địa hoàng thang (ôn bệnh điều kiện) Can Địa hoàng 40g Đan bì 12g Bạch thược 12g Tê giác 12g Nưóc 5 chén, sắc lấy 2 chén chia uống 2 lần, bã sắc lại lấy 1 chén uống. Bài này dùng Tê giác thanh nhiệt giải độc. Đan bì, Sinh địa, Thược dược lương huyết tán huyết, hợp lại mà cùng đưa tới công hiệu thanh nhiệt giải độc, lương huyết tán huyết. 2.2.3. K hí dinh huyết đều bị thiêu đốt. а. Chứng hậu: Nóng dữ, khát nước, buồn bực vật vã không yên, rêu lưỡi vàng. Lưỡi đỏ, hoặc da nổi ban, nặng thì thổ huyết, nục huyết. б. Cơ ch ế bệnh: Chứng này vì nhiệt tà ở phần khí chưa giải được mà nhiệt là ở phần dinh để thịnh đến nỗi hình thành chứng huyết (dinh) đều thiêu đốt. Chứng này nóng dữ, miệng khát, rêu lưỡi vàng là hiện tượng phần khí bị nhiệt đốt, Lưỡi đỏ, buồn bực vật vã là triệu chứng nhiệt quấy rối tâm dinh. Nếu lại thấy da dẻ nổi ban, nặng thì thổ huyết, nục huyết là thuộc chứng huyết nhiệt bốic thịnh không ngờ nữa. Đặc điểm của nó là đã có chứng phần khí, lại có chứng phần dinh, hoặc phần huyêt, khác hẳn với những hiện chứng đơn thuần nhiệt đốt phần khí hoặc nhiệt vào phần dinh, phần huyết. c. Phép chữa: Chữa chứng này nên dùng phép thanh cả khí huyết (dinh). Nói chung chứng khí huyết (dinh) đều thiêu đốt, nên dùng gia giảm Ngọc nữ tiễn; nếu thấy nổi ban, nên dùng Hoá ban thang, nếu lại thấy chứng thổ huyết, nục huyết thì nên chữa bằng hợp phương Bạch hổ thang kết hợp với Tê giác, Địa hoàng thang. 36 G?ử B ài thuốc: Ngọc nữ tiến khử Thục địa, Ngưu tất, gia Huyền sâm... (ôn bệnh điều biện). Thạnh cao sông 120g Huyền sâm 16g Mạch đông 24g Tri mẫu 16g Sinh địa nhỏ củ 24g Nước 8 chén sắc lấy 3 chén, chia uống 2 lần, bã sắc lấy lại 1 chén uống. Bài này là theo bài Ngọc nữ tiễn của Cảnh Nhạc gia giảm mà thành Trong bài dùng Thạch cao, Tri mẫu để thanh nhiệt ỏ phần khí, Huyền sâm, Sinh địa, Mạch đông để lương dinh dưỡng âm, cũng được công hiệu thanh cả khí huyết (dinh). Hoá ban thang (Ôn bệnh điều biện). Thạch cao (để sông nghiền nát) 40g Tri mẫu 16g Cam thảo 12g Huyền sâm 12g Tê giác 8g Gạo tẻ 1 chén Nước 8 chén, sắc còn 3 chén, ngày uống 3 lần. Bã lại sắc lấy 1 chén. Đêm uống 1 lần. Bài này tức là Bạch hổ thang gia Huyền sâm, Tê giác. Bạch hổ thanh nhiệt ỏ phần khí của Dương minh (vị), lại gia Tê giác, Huyền sâm để thanh dinh lương huyết giải độc. Tức là phép chữa mà "Nội kinh" đã nói: "Nhiệt tà lan tràn ở trong chữa bằng thuốc mặn lạnh, tả bằng thuốc ngọt". Tê giác địa hoàng thang (xem ở trước). B ạch hổ thang (xem ở chương phong ôn). 2.2.4. N hiệt kết với huyết. a. Chứng hậu: Bụng dưới rắn đau nhói, tiểu tiện tư lợi, thần chí như cuồng, hoặc tỉnh hoặc mê, mạch trầm thực. b. Cơ c h ế bệnh: Đây là chứng hậu hạ tiêu đọng huyết, phần nhiều do tà vào phần huyết, nhiệt kết với huyết đọng ở hạ tiêu mà gây nên. Nay bụng rắn đầy đau nhói, mà tiểu tiện tư lợi, là vì nhiệt với huyết kết hợp. Tâm chủ có những chứng thần chí như cuồng, hoặc tỉnh hoặc mê. Tổng hợp toàn diện chứng hậu mà phân tích, có thể biết chứng súc huyết do ứ nhiệt giao kết lẫn nhau. cệ Phép chữa: Chữa chứng này nên dùng Đào nhân thừa khí thang để thanh nhiệt, thông hạ, hoạt huyết trục ứ để mong lý huyết với nhiệt tà, theo đại tiện mà tống hết ra. d. B ài thuốc: Đào nhân thừa khí thang (ôn bệnh điều biện) Đại hoàng 20g Đương quy 12g 37 Mang tiêu 12g Thược dược 12g Đào nhân 12g Đan bì 12g Bài này tức là Đào nhân thừa khí thang gia giảm mà thành. Chứng thuộc nhiệt tà vào âm huyết, cho nên không dùng Quế chi tính ôn, muốn cho thuốc có sức đi xuống hạ tiêu cho nên không dùng Cam thảo tính hoãn. Trong phương có Đào nhân, Đan bì, Thược dược, Đương quy hoạt huyết hành huyết, Đại hoàng, Mang tiêu thông ứ kết thanh nhiệt thì các chứng tự khỏi. 2.3. P h ần âm củ a can th ận tổn thương Chứng Xuân ôn, lý nhiệt nặng hơn tân dịch càng dễ tổn thương, cho nên bệnh đến thòi kỳ cuối nhiệt tà rất dễ vào sâu ở hạ tiêu, cướp đốt phần âm của can thận, so với chứng phong ôn, càng thấy càng nhiều hơn, chứng trạng và cách chữa của nó thì cũng giống nhau. Như nhiệt đốt chân âm, dương thịnh âm hư, chữa bằng phép " thanh nhiệt dưỡng âm", chân âm sắp hết chữa bằng phép "tư bổ chân âm", âm hư phong động, chữa bằng phép "tư âm tức phong", về lý pháp phương dược, nên tham khảo nội dung chứng trị của chứng phong ôn bị nhiệt đốt chân âm. Cần nêu ra, trong quá trình phát triển của chứng Xuân ôn, cũng có cải biến vì dinh huyết nhiệt thịnh mà bế tắc tâm bào ở trong, xuất hiện ra chứng mê man nói sảng hoặc nhiệt thịnh động phong mà sinh ra chứng kính quyết chứng trạng và cách chữa của nó cũng đều giông như chứng phong ôn, cho nên không trình bày lại nữa. IIIỂ TÓM TẮT Xuân ôn là bệnh nhiệt cấp tính cảm thụ độc tà ôn nhiệt của mùa xuân mà phát sinh. Trên lâm sàng thấy phát bệnh đột ngột, bệnh tình nghiêm trọng và lúc mới phát bệnh liền thấy xuất hiện chứng hậu lý nhiệt khá thịnh làm đặc trưng. Cơ chế của bệnh này có phân biệt tà ở phần khí và tà ở phần dinh nhưng bắt đầu phát bệnh phần nhiều kiêm có biểu chứng. Bệnh này mới mà nhiệt ở kinh Thiếu dương đởm, thì chữa nên dùng Hoàng cầm thang để thanh nhiệt vùng âm, nhiệt ở phần dinh thì chữa nên dùng Thanh dinh thang để thanh dinh tiết nhiệt. Nhưng không cứ tà ở phần khí hay tà ở phần dinh, nếu kiêm có biểu chứng, cách chữa nên hợp với phép giải biểu, chứng khí nhiệt kiêm biểu, nên dùng Thông sị cát cánh thang gia Hoàng cầm để giải biểu thanh lýể Chứng dinh nhiệt kiêm biểu, thì dùng Ngân kiều tán gia những vị Đan bì, Sinh địa, Huyền sâm để tiết vệ thấu dinh. Chứng nhiệt ở Dương minh trường vị cũng không ngoài hai kinh chứng và phủ chứng, chứng trạng và cách chữa giống như chứng phong ôn. Nhưng chứng phủ thực mà kiêm khí dịch đều hư chữa nên vừa công vừa bổ, dùng Tân gia Hoàng long thang để phù chính khu tà, chứng thực tà tư âm công hạ, nếu thực tà đã trừ rồi vì tân dịch khô, đại tiện bí thì nên dùng Tăng dịch thang để tư âm thông đại tiện. Tà ở dinh huyết, chứng khá nặng, nếu là nhiệt vào phần huyết thì dùng Tê giác Địa hoàng thang để lương huyết giải độc, ở phần khí nhiệt tà đã thịnh, đó là 38 chứng huyết (dinh) đều thiêu đốt, nên thanh cả huyết (dinh) các bài gia giảm Ngọc nữ tiễn, Hoá ban thang nên tuỳ chứng mà chọn dùng, chứng nhiệt kết với huyết, chữa nên dùng Đào nhân thừa khí thang để tiết nhiệt trục ứẻ Tà vào hạ tiêu cướp đốt âm dịch của can thận, cơ chế biến hoá cũng không ngoài mấy loại lương thịnh tâm hư, chân âm sắp hết, âm hư động phong, chứng trạng và cách chữa cũng giống với chứng phong ôn. Trong quá trình phát triển của bệnh này cũng xuất hiện những chững nhiệt hãm vào tâm bào, nhiệt thịnh động phong, về chứng trạng và cách chữa của nó cũng giông như chứng phong ôn. PHỤ 1: BỆNH ÁN VỀ BỆNH XUÂN ÔN l ề B ện h xu â n ôn biến ch ứ n g vì p h át h ãn n h ầm (thời bệnh luận). Ông Chương ở Thành đông, mắc bệnh xuân ôn, thầy thuốc trước không hiểu, lại cho là thương hàn, bèn dùng những thuốc Kinh, Phòng, Khương, Độc, uống 1 thang ra mồ hôi mình nóng lui hết, thang sau vô hiệu, lại nóng như đốt, khát nhiều uống nước lạnh, thế bệnh như cuồng. Thay thầy khác chữa, bảo là hoả chứng, lại dùng Tam hoàng giải độc làm quân. Không những thế nóng không bớt, lại còn biến ra chứng hôn mê, chân tay co giật, vội vàng lại bàn với tôi để chữa. Xem mạch thấy huyền hoạt có lực, xem lưối thấy vàng khô không tân dịch. Tôi nói: "Đây là bệnh Xuân ôn, mới phát vốn nên phát hãn, để giải hàn ở biểu cho nhiệt theo mồ hôi mà giải. Tiếc rằng lại uống tiếp nguyên phương, mồ hôi ra quá nhiều trở thành táo lại thêm thuốc đắng lạnh ngăn nhiệt tà lại, đến nỗi biến chứng lung tung, nên theo chứng tà vào tâm bào, can phong động ở trong mà chữa". Kíp dùng phép chữa khu nhiệt tuyên khiếu gia Linh dương giác, Câu đằng, uống một thang thì chứng chân tay co giật hơi yên, tinh thần cũng tỉnh, chỉ còn tân dịch chưa trở lại, môi lưỡi còn khô. Giữ y phép chữa trưóc, bỏ Viễn Chí và Xương bồ, gia Sa sâm, Sinh địa tươi, uống liền 3 thang, các bệnh đều khỏi. Nhận xét: An này theo lòi nói "mới phát vốn nên phát hãn" của họ Lôi mà xét, thì có thể biết được rằng bệnh xuân ôn nhiệt tà ở lý kiêm có biểu chứng. Vì thấy thuốc trước nhận lầm là thương hàn mà hại cần cho uổng thuốc tân ôn phát biểu, để đến nỗi lý nhiệt thừa cơ bốc mạnh, nhiệt tà nung đốt, tân dịch càng hao, cho nên thấy chứng mình nóng như đốt, khát nhiều uống nước lạnh. Lúc đó nếu mau dùng trọng tễ thuốic cay mát, tán bằng thuốc ngọt lạnh, hoặc có thể đè được thể lửa cháy mạnh, mà lại đi dùng Tam hoàng đắng lạnh để chữa, đắng lạnh trầm giáng, thì tà không thông được ra ngoài, đắng hoá táo, thì tân dịch càng hao, cho nên uông thuốic rồi không những các chứng không bớt, mà lại xuất hiện những chứng hôn mê, chân tay có quắp. Họ Lôi chẩn đoán là Tà vào tâm bào, can phong đang ở trong mà dùng phép khu nhiệt tuyên khiếu (Liên kiều, Tê giác, Xuyên bối mẫu, Thạch xương bồ tươi, Chí hắc đan) gia vào thuốc bình can tức phong, thực là đúng vối cơ chế bệnh. Cho nên uống thuốc rồi thấy hiệu quả ngay như hình với bóng. Duy chứng này đã là nhiệt thịnh hao tổn mà rêu lưỡi vàng khô thì Sinh địa, Huyền sâm là loại thuốc thanh nhiệt sinh tân đáng lẽ phải ứng dụng sớm. 39 2. B ện h X u ân ôn n h iệt k ết Dương m inh (Vương Mạch Anh Y án). Em Vương Sô Thạch bị bệnh Xuân ôn lúc đầu thì nói sảng phát cuồng, uống liền đại tễ thanh giải sinh ra mê mẩn, không nói, chân tay lạnh như nước đá, măt nhắm không mở, són đái, không uông nước, thầy thuốc đành bó tay. Mạnh Anh xem mạch thấy huyền đại mà hoãn hoạt, rêu lưỡi vàng nhớt khắp lưỡi, hơi thối xông ra. Cho uổng Thừa khí thang gia Ngân hoa, Thạch hộc, Hoàng cầm, Huyền sâm, Thạch xương bồ đi ngoài ra phân keo đen rất nhiều mà tinh thần tỉnh dần, cho ăn chút nước cháo. Hôm sau bỏ hai vị Tiêu, Hoàng gia các vị La bạc tử, Hoàng liên, Thạch cao, uống hai thang thì rét run đổ mồ hôi mà khỏi, chân tay ấm lại, rêu lưỡi tróc đi, cho ăn cháo ... mà khỏi. Nhận xét: Bệnh nhiệt đã đến hôn mê nói sảng, thường không ngoài hai chứng tà vào tâm bào hay Dương minh nhiệt thịnh. Nhưng nhiệt vào tâm dinh, phần nhiều chất lưỡi đỏ hồng mà ít rêu cáu, tinh thần phần nhiều vật vã mà vị tất đã phát cuồng. Nay nói sảng mà đến phát cuồng là đủ biết chứng tà thịnh ở Dương minh. Nhưng chữa tà nhiệt vô hình ở Dương minh, vẫn có thể thanh giải mà khỏi, giả sử nhiệt tà với phần táo giao kết lại, thì nếu không phải thang Thừa khí để tẩy trừ thì không công hiệu. Xem đã uống liền Đại tễ thuốic thanh giải mà bệnh không chuyển biến tốt, chính vì thuốc lạnh mát ngăn trở làm cho nhiệt không đạt được ra ngoài, cho nên uống thuốc rồi lại thấy chứng mê mẩn không nói, chân tay lạnh, mắt nhắm tựa như chứng dương khí hư suy mà thực là chứng nhiệt nhiều quyết lạnh nhiều. Theo chứng rêu lưỡi vàng khắp lưổi hơi thối xông ra, xác đinh được là chứng cớ của nhiệt lượng, cho nên dùng Thừa khí thang để tẩy hết phủ thực, gia Thạch hộc, Huyền sâm để sinh tân dịch, Ngân hoa, Hoàng cầm để thanh nhiệt giải độc, Xương bồ để trừ hết khí uế trọc. Uống thuốc rồi đi ra phân keo đen mà thần chí thấy tỉnh táo dần. Chính là thuốc đúng với bệnh, uất nhiệt đã thấy giảm bốt tiếp tục cho thuốc thanh nhiệt giải độc để quét sạch tà khí rớt lại. Chính thắng tà lui thì bệnh theo chỗ ra mồ hôi rét run mà khỏi. 3. B ệnh X u ân ôn sú c h u yết (Nghiêm Chấp, Trung Y án, chép trong Toàn quổic danh y nghiệm án loại biên). Bệnh nhân: Em gái ông Trương Đông Lâu, 19 tuổi, ở ngõ Trần Châu Thưòng. Tên bệnh: Xuân ôn. Nguyên nhân: Cuối năm trước hơi cảm hàn tà, hàn uất hoá nhiệt, sang xuân năm nay lại mới cảm phong hàn mà phát, thầy thuốc trước cho uống vài thang thuốc giải biểu, ra mồ hôi nóng không lui. Chứng hậu: Khi mới phát bệnh nhức đầu đau mình tức ngực, ăn ít, khát nước uông luôn, khoảng về chiều nóng dữ, có khi nói lầm thầm. Sau một tuần hành kinh bỗng ngừng lại, nhân đó mà bụng đau dữ, liền đêm nói sảng, ho đòm dính, cô sức khạc mà đờm vẫn không ra, răng khô lưỡi gai, đòi nước mà không uống nhiều tính ra đã 27 ngày. Chân đoán: 6 bộ mạch huyền sác, bộ Xích tê ấn mức trầm thì súc, chứng thuộc Xuân ôn, mà tà vào âm phần, đọng huyết ở bào cung rõ rệt. May mà bệnh nhân mới 18 tuôi, chân âm còn chưa bị thiêu đốt lắm, nếu cấp cứu đúng phép còn có thể chữa khỏi được. 40 Phép chữa: Chữa bệnh tất phải tìm gốc, cho nên trọng dụng Huyền sâm, Mạch đông, Sinh địa, Tri mẫu, Đan bì, tư âm thanh nhiệt làm chủ yếu. Xuyên bối mẫu, Ngưu bàng tử, Trần bì, lý khí hoá đàm làm phụ tá. Lại nghĩ rằng huyết đọng ở hạ tiêu, đại tiện táo kết thì "quấy nóng ngăn trào, không bằng rút củi dưới nồi". Vì thế dùng Đào nhân, Đại hoàng để chữa cả trước sau, dùng Đan bì giúp sức cho Đào nhân, Cam thảo giúp sức cho Đại hoàng, dụng ý một là để phong chậm, một là vì sợ cấp. Ngoài ra, như Lô căn, Mao căn, Ngân Kiều vói Xuyên bối mẫu, Ngưu bàng chẳng qua là tà từ ngoài vào, thì lại làm cho tà theo ngoài mà ra, cho nên các ông Ngô Cúc Thông, Diệp Thiên Sĩ, Trần Bình Bá, Vương Mạch Anh đều bảo đó là thuốíc chủ yếu để phát biểu ôn tà. XỬ PHƯƠNG Tri mẫu 12g Xuyên bối mẫu 12g Sinh cam thảo 12g Sinh địa 12g Huyền sâm 12g Đan bì 8g Mao căn 10g Liên kiều 10g Kim ngân hoa 12g Trần bì 20g Mạch đông 12g Ngưu bàng tử 12g Đào nhân 8g Đại hoàng 6g Lô căn 8g Hiệu quả: Tôi đề ra phương thuốc này, các thầy thuốc lúc đó bàn bạc lung tung bảo là sắp chết đến nơi, mà còn dùng Đại hoàng 3 lần cân, rồi xúi giục người nhà bệnh nhân đừng cho uống. Nhưng người nhà bệnh cho bệnh nhân uống liền 2 thang, quả nhiên lại thấy kinh mùi tanh khẩn khó ngửi, đêm không nói sảng, ngày không mơ hồ, mình nóng cũng lui hơi muốn ăn uống. Mòi tôi xem lại rêu lưỡi vàng đã tan, mạch huyền sác đã hoãn chỉ có ho đòm đặc, so với trước càng nhiều hơn. Tôi lại theo phương trước bỏ Đại hoàng, Đào nhân gia Hạnh nhân nô, Toàn Qua lâu, uống liền 4 thang nữa là khỏi. Ông Liêm nhận xét: Bệnh thuộc về nhiệt phục ở mạch Xung mạch Nhân Thang Đào nhân Thừa khí gia giảm, chính là hợp với cơ chế bệnh, nhưng không phải là người có kiến thức can đảm thì không dám sử dụng. Nhận xét: Bệnh án này khi bệnh mới phát lý nhiệt mà kiêm biểu chứng, thầy thuốc trước cho uống giải biểu, trên nguyên tắc vẫn không nhầm. Nhưng đã có lý mới là đúng hướng. Nếu chỉ nghĩ đến phát biểu mà không thanh lý nhiệt, thì tuy mồ hôi tiết ra ngoài lần nữa thế tất càng hao tâm dịch, nóng ở trong càng đốt mạnh, biến cố’ nhân đó mà sinh ra. Bệnh án này khi mới phát bệnh liền khát nước, tức ngực, đêm nóng nhiều , có lúc nói lẩm nhẩm, tức là chứng cố nhiệt uất tân dịch tổn thương rõ rệt. Nóng trong nung đốt lại thêm mấy lần phát hãn nhầm, tân dịch nung nấu thành đòm, cho nên dính chặt khó khạc ra. Sau một tuần kinh nguyệt lại đình chỉ, nhiệt vào huyết thất mà nói sảng luôn mấy đêm, chính như chứng "tối thì nói sảng, như thấy ma quỷ" đã chép ở điều nhiệt nhập huyết thất trong Thương hàn luận. Nhiệt vào huyết thất mà ứ huyết ngăn trở ở trong cho nên bệnh nhân tuy rằng khô lưỡi gai, chỉ đòi nước mà không uống nhiều. 41 Bệnh đã 27 ngày, lúc này bệnh nhân đương nhiên là gầy yếu, cho nên các thầy thuốc dùng Đại hoàng công hạ, tức thì bàn luận lung tung. Nhưng nhiệt vào huyết thất mà ứ huyết trở ngại ở trong chắc chắn là thực chứng. Ngưòi xưa có lời dạy rõ ràng "một bên hư một bên thực, thì phải chữa thực", cho nên Đào nhân thừa khí thang gia giảm, để công ứ thanh nhiệt lý khí thoát đàm mà chữa, thuoc hợp với bệnh, cho nên mối uống vài thang mà bệnh đã khỏi hắn. PHỤ 2: THAM KHẢO LÂM SÀNG. Bệnh Xuân ôn mới phát, bệnh này phần nhiều biểu chứng với lý nhiệt đều thấy cả. Người trước đại khái dùng phép phát biểu thanh lý mà chữa, nhưng rút cuộc lấy thấu biểu đạt ra, cho dù tà ở phần khí, phần dinh cũng nên lấy thấu đạt tà ra làm chủ yếu. Người gần đây thường dùng bài Bắc cao phương ở sách "Trửu hậu" (Sinh địa với Đậu sị cùng giã nát, gia giảm, dùng Sinh địa tươi để thanh dinh, dùng Đậu sị để thấu đạt tà ra ngoài, dùng về chứng tà mới vào phần dinh, có vi điểu là thấu đạt tà mà không thương tổn âm dịch nuôi dưỡng âm dịch mà không lưu tà lại). Ngưòi trước chữa bệnh Xuân ôn nhiệt ở Thiếu dương đởm dùng Hoàng cầm thang để trực tiếp thanh nhiệt ở lý, tuy có căn cứ, nhưng theo thực tiễn lâm sàng mà xét thì đó vẫn là chưa đủ. Phương này chỉ là thuốc đắng lạnh thanh nhiệt, lại có tác dụng thấu đạt tà ra, vả lại trong phương có một vị Bạch thược tuy có cái tệ chua hay thu liễm. Chủ chương của Liễu Bảo Di gia Đậu sị và Huyền sâm, đã hay thanh phần lý, lại hay thấu đạt tà ra tương đối thích hợp hơn. Nhưng nếu vì lý nhiệt bức bách xuống mà đưa đến chứng trường nhiệt hạ lợi, thì thang Hoàng cầm lại là đúng đích, có thể không nên thêm bớt gì nữa. Bệnh xuân ôn tà ở phần vệ hoặc truyền vào phần khí, mà chưa đến nỗi Dương minh nhiệt thịnh, thì trong phương tiết vệ thanh khí gia một vị Thuyền y, công hiệu lui nhiệt càng rõ rệt. Vì là Thuyền y khó thanh nhiệt thấu tà. Lại chứng Dương minh nhiệt thịnh dùng Bạch hổ thang gia vào những vị Bạc hà, Trúc diệp, Ngưu bàng, giúp cho tà thấu đạt ra ngoài, đã có công phân giải uất nhiệt, lại không có cái tệ là "mát lạnh quá sinh co lại". Đấy là phép cay mát ngọt lạnh thanh giải biểu lý, so với đơn thuần dùng Bạch hổ thang về phương pháp thì linh hoạt hơn nhiều. Tà vào phần dinh, trình độ sâu nông cũng có khác nhau, có khi tà mới vào dinh có khi dinh đã chuyển dần vào huyết. Nếu tà mới vào phần dinh, sắc lưỡi tuy đỏ, nhưng hẳn rêu vàng chưa sạch, là tà ở phần khí còn chưa thanh hết, cách chữa cần phải nhiệt chuyển ra khí, ở trong bài thuốic thanh dinh gia vào Ngân hoa , Liên kiều, làm cho nhiệt tà ở phần dinh, vẫn theo phần khí mà giải. Nhất thiết kiêng dùng huyết dược sớm, như rêu lưỡi vàng lui hết, lưỡi chuyển đỏ sẫm, thì là dinh chuyên sang huyêt, lúc này thì trong thuốíc thanh dinh nên gia thuốc lương huyêt như Sinh địa, Đan bì. Vì lúc ấy nhiệt tà đã tách ròi phần khí, thê không thể thâú nhiệt chuyên ra khí dược nữa, vì thê phải nên bỏ khí dược, mới là hợp cách. Bệnh Xuân ôn tà nhiệt ở lý thường phần nhiều âm dịch bị tổn thương trước, chữa phải nuôi dưỡng âm dịch để hợp với ý tư âm thoát nhiệt, nhưng kiêm có thấp 42 tà, thì loại thuổc âm như bổ béo dùng phải cẩn thận, để khỏi trợ thấp mà không giải ra được. Nhưng mà không thể đơn thuần cho thuốc hoá thấp phòng hại âm dịch nữaể Loại chứng hậu này khi chữa rất là mắc mớ, cần phải nắm vững nguyên tắc hoá thấp mà không hại phần âm, tư âm mà không trở ngại thấp. Bệnh Xuân ôn, vị nhiệt lan đến dinh huyết dễ sinh phát ban, nêu ban chẩn phát ra ngoài, nhiệt tà sẽ có cơ thấu đạt ra ngoài. Nhưng có khi vị lý nhiệt, khí ủng tắc quá, ban mọc ra mà không thấu suốt, thì nên cho uống chút ít thuốc thông phủ, làm cho khí ở lý thông, ban sẽ mọc hết ra ngoài. Thông lý thì dùng Kim trấp là rất tốt, vì Kim trấp có khả năng tả nhiệt giải độc. Nếu Dương minh táo kết quá, cũng nên sử dụng điều vị thừa khí thang, nhưng không nên sổ mạnh quá, khỏi đến nỗi tà hãm vào trong sinh ra biến chứng. Ôn bệnh tà vào hạ tiêu, hư phong động ở trong, nếu kiêm có thấp tà không hoá, thì là chứng trong hư ghé thực nếu chữa thì trỏ ngại thực, chữa thực thì trở ngại hư, dùng thuốc so với chữa hư chứng đơn thuần lại khó hơn, nhưng chứng này lấy hư làm chủ yếu, thêm chữa thấp tà thì lại làm cho chính khí càng chuyển thành hư, loại chứng hậu này tiên lượng phần lớn là không tốt. Bệnh Xuân ôn đã có lý nhiệt, lại có biểu chứng, khí chữa dù là biểu chứng nặng hơn, cũng chỉ nên cho thuốc hơi cay giải biểu, rất kỵ thuốic nhưng thuốc tân ôn phát hãn như Khương, Độc, Kinh, Phòng, vì phong dược tính phần nhiều cương tác, dùng nhầm thì rất dễ hao tốn tân dịch mà sinh ra biến chứng. Bệnh Xuân ôn nhiệt ủng tắc ở vị, rồi từ vị bốc lên phế, tân dịch trong phế bị nung nấu thành đàm, thường sinh chứng ho nhiều đòm, đưòng lạc ở phế không thông, phần nhiều thấy chứng ngực sưòn đau nhói. Nhiệt uất lâu ngày, thế tất ho mà kiêm suyễn, hoặc mà đới huyết, nặng thì đòm đục như mủ, gần giống như chứng phế ung. Chữa chứng này nên thanh tả phế vị, vì nhiệt ở trong phế phần nhiều do vị nhiệt bổc lên, nên thanh phế mà không thanh vị, thì phế nhiệt không trừ được, bệnh khó khỏi được, nhưng phương Ma hạnh thạch cam thang, Thanh táo cứu phế thang, dùng chữa chứng này rất thích hợp, vì trong hai phương đều có Thạch cao, tức là lẽ thanh vị mà đạt đến thanh phế. Sau khi uống thuốic nhiệt bớt mà đòm đục chưa hết, nên dùng Thiên vĩ hành thang (Vĩ hành, Ý dĩ nhân, Đào nhân, Đông qua nhân) tham gia với thuốc hoà đưòng lạc thường thu được hiệu quả tốt. Chữa lại bệnh biến này, biện chứng cần phải rõ ràng, đã không vì thấy thở gấp mà coi là ngoại cảm tầm thưòng để dùng bừa thuốíc phát tán, lại không vì thấy nhiều đòm mà dùng bừa Nhị trần thang, lại cũng không thể cho là chứng hư suyễn mà dùng Sinh địa, Thục địa. Tóm lại những phương thuốc hao tổn dịch, trợ nóng, sinh đòm, liễm bổ, đều cần kiêng cả. Phàm ôn bệnh đòm nhiệt, đã lâu không hoá, mình nóng trước sau không lui, nên dùng Tuyết canh thang (Phiên hải triết, Bột tễ, dùng uống luôn luôn, về tác dụng hóa đờm thanh nhiệt có công hiệu mau, nếu nhiều đòm, nên đem riêng củ năng (bột tà) giã lấy nước củ hoặc củ cải hoà vào thuốc thì công hiệu càng rõ rệt hơn). 43 C hương III BỆNH THỬ ÔN I. ĐẠI CƯƠNG Bệnh Thử ôn là bệnh nhiệt cấp tính phát sinh về mùa hạ. Lấy chứng hậu Dương minh vì nhiệt như nóng dữ, phiền khát, mồ hôi nhiều làm chủ chứng. Đặc điểm của nó là: Phát bệnh cấp, chuyển biến nhanh, dễ thương tân hao khí. Bệnh này là vì cảm thụ độc tà thử nhiệt của mùa hạ mà gây nên. Vì mùa hạ thử khí hành bệnh. Vì tà cứu thử nhiệt hại người rất nhanh, cho nên bệnh mới phát phần nhiều đi tắt vào Dương minh vị. Diệp Thiên Sĩ nói: "Bệnh hạ thử phát từ Dương mmh" tức là nói về bệnh này. Vì tà của thử nhiệt dễ làm tổn thương nguyên khí, càng hay làm tổn thương tân dịch, cho nên bệnh này rất dễ hiện ra những chứng khí thương, tân hao. Lại vì mùa hạ ĩriưa ẩm khá nhiều , hoặc vì trời nắng dọi xuống, thấp khí dưới đất bốc lên, tà thấp nhiệt dễ dàng nung nấu mà gây bệnh. Nhân đó chứng bệnh thử ôn lại thường thương kiêm ghé thấp tà mà thành chứng "thử ôn ghé thấp", nhưng vẫn lấy nhiệt tà làm chủ, kiêm thấp làm khách. Ngoài ra, vì nóng nực quá, ham mát uông lanh cũng là thưòng tình của người ta, ví hoặc hóng mát uống lạnh thái quả, tà thử nhiệt dễ bị hàn thấp lấn át, mà thành chứng thử kiêm hàn thấp. Bệnh này mới phát, Dương minh vị nhiệt thịnh nên dùng thuốc tân lương để thanh tiết nhiệt tà, nếu tiến lên mà thành chứng tà nhiệt thương tâm thì nên dùng thuốíc cam hàn để thanh nhiệt sinh tân, nếu đến kỳ cuối nhiệt tà tuy trừ hết mà dinh hao tổn thì nên dùng thuốc ngọt chua, để bổ khí liễm tân. Trong sách "Thương thử toàn thư" của Trương Phụng Quì nói: "Bệnh thử đầu tiên dùng thuốc cay mát, tiếp đó dùng thuôc ngọt lạnh cuối cùng dùng thuốc ngọt chua liễm tân, không cần dùng thuốc hạ, có thể gọi là tổng kết được phép lớn chữa bệnh thử ôn trong toàn bộ quá trình bệnh biến”. Nhưng cần nêu rõ, nói trước tiên dùng thuốc tân lương là chỉ về thuốíc tân lương mạnh tức là phép tân hàn thanh khí, phủ thực kết trệ ít hơn, cho nên nói chung không cần dùng thuốc hạ, nhưng nếu thấy hiện ra chứng phủ thực thì tất nhiên cũng cần phải công hạ. Nếu thử tà truyền dinh vào huyết hoặc cướp đốt phần âm của can thận, cách chữa cũng giông như chữa bệnh phong ôn, Xuân ôn. Còn như chữa chứng Thử ôn ghé thấp, thì thanh thử tất phải kiêm lợi thấp. Sách "Minh y tạp trưốc" của Vương luan nói: "Phép chữa chứng thử thanh tâm lợi tiểu tiện là rất tốt”, đáng làm nguyên tắc chữa chứng thử ôn ghé thấp. Thử vì hàn thấp ngăn trở, chữa nên dùng thuốc tân ôn để tán hàn ở ngoài, hợp với thuốc hoá thấp thấu nhiệt. II. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ 2.1. Thử tà vào Dương m inh vị: aế Chứng hậu: Sợ nóng, tâm phiền, đầu nhức và choáng váng, hơi thở to, 44 miệng khô khát nước, mồ hôi nhiều, lưng hơi sợ lạnh, mạch hồng đại mà khâu. b. Cơ ch ế bệnh: Thử là tà khí hoá nhiệt, nung đốt Dương minh, cho nên mới phát bệnh là thấy ngay chứng mình nóng dữ dội mà sợ nóng, tâm phiền. Thử nhiệt bốc lên, thì đầu nhức choáng váng, mà mặt đỏ hồng, chứng này so với chứng nhiệt nung nấu ở trong, bức tân dịch tiết ra ngoài thì háo khát nhiều mồ hôi mà thở hơi to nhiệt thịnh mồ hôi, tổn thương đến khí dịch, thì lưng hơi sợ lạnh, mạch hồng đại mà khâu. Chứng này nhức đầu sợ lạnh của tà ở biểu, tất không có mồ hôi hoặc ít mồ hôi, mà mạch phù, và cũng không đến háo khát, thở to. Nay tuy đầu nhức và choáng váng, nhưng lưng hơi sợ lạnh mà mạch hồng đại và háo khát nhiều mồ hôi, sợ nóng tâm buồn bực thì rõ ràng là lý nhiệt bốc lên, tổn thương đều khí dịch mà gây nên như vậy. c. Phép chữa: Chứng Dương minh vị nhiệt thịnh, cần phải thanh khí tiết nhiệt; nguyên khí tân dịch tổn thương, lại cần phải bổ khí sinh tân. Cho nên chứng này dùng Bạch hổ gia Nhân sâm thang, để thanh nhiệt, ích khí, sinh tân. Nếu thử nhiệt tuy thịnh mà tân khí chưa tổn thương, thì nên cho uổng Bạch hô thang trực tiếp thanh nhiệt tà ở phần khí bảo tồn tân dịch. d. B ài thuốc Bạch hổ gia Nhân sâm thang (ôn bệnh điều biện). Sinh thạch cao (nghiền ra) 40g Gạo tẻ 1 chén Nhân sâm Cam thảo 12g 12g Tri mẫu 20g Nước 8 chén, sắc lấy 3 chén, chia uống ấm 3 lần. Bệnh đỡ thà giảm lần uống sau. Không khỏi thì lại uống thang nữa. Các vị thuốc tổ chức thành phương này, tức là trong Bạch hổ thang gia Nhân sâm, Bạch hổ thang thanh khí tiết nhiệt gia Nhân sâm để bổ khí sinh tân. B ạch hổ thang (xem ở chương phong ôn) 2 ẻ2. T h ử tà làm tổ n thư ơng tâ n dịch và chín h khí. a. Chứng hậu: Mình nóng, hơi thở to, tâm phiền, nước tiểu vàng, khát nước, tự ra mồ hôi, chân tay mỏi, tinh thần mệt, mạch hư không có lực. b. Cơ c h ế bệnh: Mình nóng, hơi thở nóng, tâm phiền, nước tiểu vàng là lý có nhiêt tà. Khát nưóc, tự ra mồ hôi, là tân dịch đã bị tổn thương. Chân tay mỏi, tinh thần mệt, mạch hư không có lực là nguyên khí hư suy. Tổng hợp các chứng mà phân tích thì chứng này cũng là do nhiệt làm tổn thương tân dịch và khí mà gây nên, nhứng so với chứng trước thì chứng này nhiệt tà nhẹ mà tân dịch tổn thương nặng hơn. c. Phép chữa: Chứng này nên dùng Vương thị thanh thử ích khí thang, một là để thanh nhiệt tiêu thử, hai là bổ khí sinh tân. d. B ài thuốc: Vương thị thanh thử ích khí thang (ôn nhiệt kinh vĩ) Tây dương sâm 12g Thạch hộc 12g 45 Mạch đông 8g Hoàng liên 3g Trúc diệp 12g Ngẫu tiết 12g Tri mẫu 12g Cam thảo 4g Tây qua 4g Gạo tẻ 12g Trong phương dùng Tây dương sâm, Thạch hộc, Cam thao, gạo te đe bô khí sinh tân. Hoàng lien, Tn mâu, Trúc diệp, Ngẫu tiết, Tây qua để .thanh tiêu thử. Bài này so với bài Bạch hổ gia Nhân sâm thang sức thanh nhiệt kém mà sức sinh tân lại trội hơn. 2.3. T ân dịch và chứ ng khí sắp th o á t. a. Chứng hậu: Mình nóng đã lui, mồ hôi ra không dứt, thở suyễn sắp thoát, mạch tán đạiẳ b. Cơ ch ế bệnh: Chứng này tà thử nhiệt tuy đã giải trừ, nhưng vì chính khí tổn thương nhiều quá, không giữ vững ở ngoài được, cho nên mình không nóng mà mồ hôi vã ra không dứt, mạch tán đại mà không có lực, tân dịch và chính khí tổn thương quá nhiều, hơi ít không đủ để thở, cho nên thở suyễn sắp thoátễ Đó là dấu hiệu tân khí đại hư, nguồn thở hoá sắp hết, so với chứng dương khí ở ngoài mất mà mồ hôi ra tay lạnh, mạch vi sắp tuyệt, đều không giông nhau. c. Phép chữa: Mồ hôi ra càng nhiều thì tân dịch và chính khí càng hao, chính khí càng tổn thương thì mồ hôi tiết ra càng nhiều. Nếu không dùng Sinh mạch tán để bổ liễm tâm khí, thì sẽ gây ra thể ngoại thoát. d. B ài thuốc: Sinh mạch tán (Ôn bệnh điều biện). Nhân sâm 12g Ngũ vị tử 4g Mạch đồng 8g (không bỏ lõi) Nước 3 chén sắc còn 8 phần chia uống làm hai lần. Bã lại sắc uống lần nữa. Nếu mạch không liễm được thì lại uống thang nữa, cho đến khi mạch liễm lại mới thôi. Bài này dùng Nhân sâm để bổ ích nguyên khí, Mạch đông, Ngũ vị chua ngọt sinh âm, giữ lưu dương, khiến cho nguyên khí được vững thì mồ hôi không tiết ra ngoài nữa, âm dịch giữ lại ở trong, thì dương không thoát ra ngoài nữa. Đó tức là ý nghĩa "cuối cùng dùng thuốc ngọt chua liễm tân" trong phép chữa chứng thử của Trương Phụng Quỳ. Nhưng bài này thuần thuốc về bổ liễm, nếu thử nhiệt chưa hết thì nhất thiết không nên dùng, để khỏi lưu tà làm hạiể Từ Linh Thái nói: "Sinh mạch tán là một phương thuốc bảo tồn tân dịch sau khi cảm thử. Dùng bài thuốc này phải hiểu rõ thử tà có hay không, nên theo thói quen mà gọi là bài thuốc chữa cảm thử được". Kinh nghiệm này thật là đáng nên chú ý. 2.4. T hử tà làm tổn th ư ơng tâ m th ận . a. Chứng hậu: Tâm nóng buồn phiền vật vã, tiêu khát không thôi, lưỡi đỏ, rêu lưỡi khô. b. Cơ ch ế bệnh: Chứng này là vì thử nhiệt lưu lại lâu ngày tổn thương tới 46 tâm thận mà gây nên. Nhiệt tà giúp tâm hoả ở trên mạnh quá, thì tâm nóng, buồn phiền vật vã. Thử nhiệt đốt thận âm ỏ dưới, thận thuỷ không giao tê lên trên được thì tiêu khát không thôi, lưỡi đỏ cũng là dấu hiệu tổn thương âm. Rêu lưỡi vàng khô là triệu chứng lý nhiệtắ c. Phép chữa: Chứng này nên dùng Liên mai thang, một để thanh tâm nhiệt mạnh quá, hai là để bổ thận dịch thiếu thôn. d. B ài thuốc: Lỉên mai thang (ôn bệnh điều biện)ẵ Hoàng liên 8g A giao 8g Sinh địa 12g Mạch đông 12g Ô mai 12g Nước 5 chén sắc lấy 2 chén, chia uống hai lần Mạch hư đại mà khâu, gia Nhân sâm. Bài này là do Hoàng liên, A giao thang ở sách "Thương hàn luận" bỏ Hoàng cầm, Thược dược, Lòng đỏ trứng gà, già Ô mai, Mạch đông, Sinh địa mà thành. Trong phương dùng Hoàng liên để thanh tâm nhiệt, A giao để bổ thận dịch, Mạch đông, Sinh địa ngọt nhuận để tư âm, lại dùng 0 mai vị chua, hợp với đắng tiết nhiệt, hợp với ngọt thì chữa sinh âm, làm cho tâm nhiệt hết mà tân dịch trở lại, thì những chứng tâm phiền tiêu khát, cũng đều khỏi hết. 2.5. T h ử tà n h ập v ào dinh h uyết. 2.5.1. T h ử tà nhâ p vào tâm dịch a. Chứng hậu: Mạch hư lưỡi đỏ, tâm phiền, miệng khô, đêm ngủ không yên, có lúc nói sảng. b. Cơ c h ế bệnh: Thử để vào tâm, cho nên trong quá trình chứng thử ôn rất dễ hiện ra chứng tà vào tâm dinh. Thử tà vào phần dinh, tâm dinh bị hao tổn cho nên mạch hư lưỡi đỏ. Nhiệt quấy rối tâm thần thì tâm phiền không ngủ, nặng thì có lúc nói sảng, nhưng chứng này với chứng hôn mê nói sảng của trường hợp nhiệt bế tắc tâm bào, trên bệnh tình có nhẹ nặng sâu nông khác nhau. c. Phép chữa:Chứng này cũng nên dùng Thanh dinh thang để thanh tâm mát dinh, nếu phần dinh nhiệt thịnh mà đến nỗi bế tắc tâm bào ở trong hiện ra chứng hôn mê nói sảng, thì nên dùng Thanh dinh thang chiêu với thuốc An cung Ngưu hoàng hoàn để thanh tâm khai khiếu. d. B ài thuốc: Thanh dinh thang (xem ở chương Phong ôn). An cung Ngưu hoàng hoàn (xem ở chương Phong ôn). 2.5.2. T h ử tà n h ậ p vào p h ầ n huyết. a. Chứng hậu:Nóng rát buồn phiền vật vã, sắc ban tím đen, lưỡi đỏ rêu khô, nặng thì hôn mê, nói càn, hay cười. 47 b. Cơ ch ế bệnh: Chứng này là độc bệnh thử nhiệt thịnh quá, vào sâu đến phần huyết. Nhiệt tà thịnh qúa, âm huyết tổn thương nặng thì nóng rát, buồn phiền vật vã. Độc tà đốt cháy ở dinh huyết, thì sắc ban tím đen, lưỡi đỏ rêu khô. Tâm chủ huyết, huyết nóng hãm tâm bào, tâm thần rối loạn, cho nên hôn mê, nói càn, hay cưòi, chứng này so với chứng trước lại sâu hơn một mức, cho nên thể bệnh rất là nặng. c. Phép chữa: Nên kíp dùng Thần tê đan hợp với An cung Ngưu hoàng hoàn, để lương huyết giải độc, thanh tâm khai khiếu. d. B ài thuốc: Thần tê đan (Ôn nhiệt kinh vĩ). Ô tê giác tiêm (Mài lấy nước) Thạch xương bồ đều 240g Hoàng cầm, sinh địa (nước lã rửa sạch giã vắt nước côt) 360g Ngân hoa (nếu có hoa tươi giã vắt nước dùng càng tốt) đều 360g Bản lam căn (nếu không có thì lấy Thanh đại phi sạch thay vào) 280g Phấn thanh, Hương sị 320g Liên kiều, Huyền sâm 280g Hoa phấn, Tử thảo 120g Đều phơi thái nhỏ (kiêng sao lửa), dùng nước mài Tê giác, nước Địa hoàng, Phần thanh hoà giã làm viên (không được cho mật, nếu khó viên thì đem Hương sị nấu nhừ) mỗi viên nặng 3 đồng cân. Đây là bài thuốc lương huyết giải độc, trong phương dùng Tê giác, Phấn thanh, Ngân hoa, Liên kiều, Huyền sâm, Hoàng cầm, Bản lam căn để lương huyết giải độc, Sinh địa, Tử thảo, Đậu sị để lương huyết thấu ban, Hoa phấn để sinh tân chỉ khát, Thạch xương bồ thơm tho khai khiếu, hợp dùng sẽ có công hiệu lương huyết giải độc, thanh tâm khai khiếu. An cung Ngưu hoàng hoàn (xem ở chương Phong ôn). 2.6. Chứng th ử th ấp làm tr ở ngại tru n g tiêu a. Chứng hậu: Nóng dữ, phiền khát, mồ hôi nhiều nước tiểu ít, mạch hồng đại, rõ ràng là dấu hiệu Dương minh vị nhiệt qúa thịnh. Bụng tức mình nặng, là triệu chứng thái âm thổ chưa thấp. Đó là chứng hậu thử thận làm trở ngại trung tiêu, nhiệt nặng thấp nhẹ. c. Phép chữa: Nên dùng Bạch hổ gia Thương truật thang, để thanh nhiệt ở Dương minh vị, kiêm hoá thấp ở thái âm tỳ. d. B ài thuốc Bạch hổ gia Thương truật thang (chứng trị chuẩn thằng). Thạch cao (nghiền nát) 40g Tri mẫu 12g Thương truật I2g Cam thảo 4g Gạo tẻ 16g 48 Các vị thuốc tổ chức thành phương này, tức là do Bạch hổ thang Thương truật mà thành, Bạch hổ thang thanh nhiệt ở Dương minh vị, Thương truật làm ráo thấp ở Thái âm tỳ. 2 ề7. T hử th ấp lan trà n ở ta m tiêu . a. Chứng hậu: Mình nóng, mặt đỏ, tai điếc, ngực tức bụng đầy, đi ỉa nước loãng, tiểu tiện ngắn ít, ho đờm có dính huyết, không khát nước lắm, lưỡi đỏ hồng, rêu lưỡi vàng trơn. b. Cơ c h ế bệnh: Chứng thử thấy uất ở trong rồi, bốc lên thì thấy chứng mình nóng, mặt đỏ, tai điếc. Diệp Thiên Sĩ nói: "Thấp là tà nặng đục, nhiệt là khí hun bốc, nhiệt ở trong thấp, khí hun bốc đưa lên bức bách thanh khiếu, tai mắt thông tỏ, khác với tai điếc của chứng Thiếu dương. Tai điếc của chứng Thiếu dương tất kèm những chứng nóng điếc của chứng nóng rét qua lại, miệng đắng họng khô, mạch huyền, cùng với chứng này vì thử thấp uất bốc, rõ ràng có phân biệt. Phế chủ khí của toàn thân, thử thấp xâm nhập vào phế, phế khí không tuyên thông, thì ngực tức khạc đờm có dây máu. Lưỡi tuy đỏ hồng, rêu lưõi còn vàng trơn, thì đủ biết bệnh tà còn ở phần khí. Thở thấp uất bốc ở trung tiêu, thì bụng tức đầy mà không khát nước lắm, thử thấp bức bách ở đường ruột, mất chức năng khơi trong gạn đục, thì tiểu tiện ít mà đỏ, đi ỉa nước loãng, chứng này so với chứng nhiệt kết bàng lưu đi thuần nước loãng mà bụng ấn thấy đau cũng dễ phân biệt. Lại chứng này cùng chứng Bạch hổ gia Thương truật thang đều là thử thấp lan tràn suốt tam tiêu, cho nên ngoài những chứng thấy ỏ trung tiêu như miệng khát bụng đầy, lại còn có biện chứng ở thượng tiêu như ngực tức tai điếc và biện chứng ở hạ tiêu như đi ỉa nước loãng, nước tiểu ít mà đỏ". c. Phép chữa: Thử thấp uất bốíc, cần nên thanh nhiệt, lợi thấp. Chứng này đã là thử thấp lan tràn suốt hạ tiêu, cho nên dùng Tâm thạch thang để thanh giải tà thử thấp ở Thượng tiêu, Trung tiêu và Hạ tiêu. d. B ài thuốc: Tam thạch thang (Ôn bệnh điều biện). Phi hoạt thạch 12g Sinh thạch cao lOg Hàn thuỷ thạch 12g Hạnh nhân 12g Trúc nhự (sao) 8g Ngân hoa 12g Kim trap 1 chén uống rượu (Ngân hoa lô càng tốt) (hoà vào thuốc) Thông thảo 2g Nước 5 chén, sắc thành 2 chén, chia làm 3 lần uống ấm. Phương này dùng Hạnh nhân để khai thông phế khí ở Thượng tiêu để thông đạt xuống bàng quang, Thạch cao, Trúc nhự để thanh tiết nhiệt ở trung tiêu. Hoạt thạch, Hàn thủy thạch, Thông thảo để tiết lợi nhiệt ỏ hai tiêu, Ngân hoa, Kim trấp thì tiêu thử giải độc, cùng đạt được công hiệu thanh tuyên thử thấp ở tam tiêu. 49 2 ệ8 ẻ Chứng th ử kiêm h àn th ấp . aỂ Chứng hậu: Đầu nhức, mình nóng, sợ lạnh, không ra mồ hôi, thân hình co quắp, bụng đầy tâm phiền, rêu lưỡi mỏng nhớt. b. Cơ ch ế bệnh: tháng hè cảm thử, lại vì hóng mát, uống nước lạnh, đến nỗi thử bị hàn thấp ngăn át, Hàn uất cơ biểu, thì đầu nhức mình nóng, sợ lạnh không ra mồ hôi, thân hình co quắp. Thấp tà ngăn trở ở trong thì rêu lưỡi nhớt bụng đầyử Thử nhiệt uất ỏ trong thì tâm phiền không yên. Chứng này so với hiện chứng thử thấp uất ở trong của chứng thương hàn thuần là tà ở biểu mà không có rêu lưỡi nhớt bụng đầy tâm phiền, rõ ràng có khác. c. Phép chữa: Chứng này nên dùng bài Tân gia Hương nhu ẩm, để giải biểu tán hàn, hoá thấp tiêu thử. Nếu gai gai sợ lạnh, mình nóng, phiền táo mà khát nưóc, đi ỉa sệt sệt thì nên dùng bài Hoàng liên hương nhu ẩm. d. B ài thuốc: Tân gia Hương nhu ẩm (ôn bệnh điều biện). Hương nhu 8g Ngân hoa 8g Hoa biểu đậu tươi 12g Hậu phác 8g Liên kiều 8g Nước 5 chén, sắc lấy 2 chén, uống rồi hễ ra được mồ hôi thì thôi uông lần sau, nếu chưa ra mồ hôi thì uống lần nữa, nếu uổng hết cũng không thấy ra mồ hôi, lại uống thang nữa. Bài này tức là bài Tam vật Hương nhu ẩm bỏ Biển đậu gia Ngân hoa, Liên kiều, Hoa Biển đậu mà thành. Trong phương dùng Hương nhu cay ẩm thơm thấu để giải biểu trừ thử. Hậu phác để lý khí hoá thấp, Ngân hoa, Liên kiều, Hoa biển đậu để thanh nhiệt tiêu thử. Hoàng liên Hương nhu ẩm (Loại chứng hoạt nhân thử) Hoàng liên 2g (sao với rượu) có bản chép là 3g; có bản chép là cùng sao với nước gừng 12g Hương nhu 8g (bỏ đất) có bản chép là 12g Hậu phác 12g (chế bằng Gừng) có bản chép là 6g (Một phương có Biểu đậu, Cam thảo) Sắc với nước, chế vào ít rượu, uống nguội (hoặc chép là Hoàng liên để thanh uất nhiệt ở trong, Hậu phác để lý khí hoá thấp. Bài này với bài tân gia Hương nhu ẩm đều là bài thuốc tán biểu hàn ở ngoài, thành thử thấp ỏ trong, giải cả biểu lý. Chô khác nhau là bài Tân gia Hương nhu ẩm thì chủ trị chứng ngoại hàn với thử tà đều khác nhau, mà bài Hoàng liên Hương nhu ẩm thì chủ trị chứng thử thấp ở lý nhiều hơn). 50 PHỤ: CÁC CHỨNG MẠO THỬ, THỬ QUYẾT, THỬ PHONG, THỬ SÁI, THỬ UẾ. 1. Chứng m ạo th ử (cảm nắng) Về mùa hè cảm thụ độc tà thử nhiệt hoặc bệnh thử thấp, mà lấy Thái âm phế làm trọng tâm bệnh biến, gọi là Mao thử. а. Chứng hậu: Mình nóng, khát nước, ho xốc không đờm, ngực tức sườn đau, mạch nhu hoạt mà sác, hai mạch thốn có lực, hoặc chóng mặt, nóng rét, ra mồ hôi, rêu lưỡi mỏng trắng hơi nhớt. б. Cơ c h ế bệnh: Vì cảm thụ thử nhiệt, chứng hàn nhiều thấy mình nóng khát nước ho không có đờm, ngực tức sườn đau, mạch nhu hoạt mà sác, hai mạch thốn có lực. Thử tà dễ lưu ỏ phần khí, nay vì thử nhiệt khá nhẹ, cho nên không lưu ỏ Thủ Thái âm phế. Thử nhiệt ở lý, cho nên mình nóng miệng khát, phế kim bị nhiệt tà làm tổn thương, cho nên thấy những chứng ho xốc không đòm, ngực tức sưòn đau. Lôi Thiếu Đạt gọi là chứng Thử khái. Nếu khi bệnh mới phát thấy những chứng đầu choáng váng nóng rét ra mồ hôi, ho, rêu lưỡi mỏng trắng hơi nhớt, thì là tà thử xâm nhập vào phế mà gây nên. Tà ngăn trở ở phế vệ mở đóng mất chức năng, cho nên nóng rét ra mồ hôi. Thử thấp ngăn trở, khi thận dương không nên được, cho nên đầu choáng váng, vệ khí bị khốn, phế khí thăng giáng thất thường, vì thế mà khí đưa ngược lên sinh ho, vì cảm phải khí thấp còn nhẹ, cho nên rêu lưỡi thấy mỏng trắng hơi nhớt. So sánh chứng này vối chứng trước, nguyên nhân của chứng trước là cảm thụ phải thử nhiệt, cơ chế bệnh là thử nhiệt thương phế, lúc mới phát không thấy chứng ở phần vệ, rêu lưỡi cáu nhớt, nguyên nhân của chứng này là thử thấp, cơ chế bệnh là thử uất ở phế vệ, lúc mới phát thấy có hiện chứng ỏ phần vệ mà rêu lưõi hơi nhớt. c. Phép chữa: Thử nhiệt hại phế, thì dùng Lôi thị thanh tuyên kim tạng pháp để thanh nhiệt túyên phế: Thử thấp xâm nhập vào phế vệ, thì dùng Lôi thị thanh lương dịch thử pháp Hạnh nhân, Qua lâu xác để tuyên thông tà thử thấp ở phế vệ. d. B ài thuốc: Lôi thị thanh tuyên kim tạng pháp (Thời bệnh luận). Ngưu bàng tử 6g Trầm qua lâu xác 12g Xuyên bối mẫu (bỏ ruột) 8g Cát cánh 6g Mã đậu linh 4g Tang diệp 12g Hạnh nhân 8g Gia Tỳ bà diệp 12g (bỏ vỏ đầu nhọn nghiền) (bỏ lông tẩm mật nước) làm thuốc dẫn. Trong phương dùng Ngưu bàng, Bốì mẫu, Đậu linh, Tang diệp để tan tuyến phế nhiệt, Hạnh nhân, Qua lâu, Cát cánh, Tỳ bà diệp để tuyên giáng phế khí phế nhiệt hết rồi, phế khí lại tuyên giáng bình thường, thì các chứng tự nhiên khỏi hết. Lôi thị thanh dương dịch thử pháp (thời bệnh luận). 51 Hoạt thạch 12g Liên kiều (bỏ ruột, thuỷ phi) 12g Sinh cam thảo 3g Bạch phục linh 12g Thanh hao 6g Gia: vỏ dưa hấu 1 miếng sắc uông. Bạch biểu đậu 6g Phương này dùng Thanh hao, Biển đậu, Liên kiều, vỏ dưa hấu để thanh thử tiết nhiệt, Hoạt thạch, Cam thảo, Phục linh, Thông thảo để thanh lợi thử thấp gia Hạnh nhân, Qua lâu xác giáng phế khí mà chỉ ho. 2. Chứng th ử q u yết (say nắng) Vì mùa hè đột nhiên trúng phải tà thử nhiệt, mà đến nỗi phát ngay ra chứng hôn mê, chân tay quyết lạnh, gọi là chứng thử quyết, (nếu chân tay không quyết lạnh gọi là trúng phải thử). a. Chứng hậu: Đột nhiên choáng váng ngã ra, hôn mê không biết gì, mình nóng, chân tay quyết lạnh, hơi thở to như suyễn, nói không ra tiếng, hàm răng hơi cắn lại, hoặc há miệng, mạch hồng đại hoạt sác. b. Cơ ch ế bệnh: Chứng này phần nhiều phát về mùa nắng nực quá thịnh, dưới ánh nắng gay gắt, ngưòi lại hoạt động vận tải đi xa dễ phát sinh vì đột nhiên trúng phải tà thử nhiệt bế tắc thanh khiếu, cho nên thấy ngay chứng hôn mê ngã ra. Thử nhiệt nung bức ở trong, cho nên mình nóng mà thở hút hơi to như suyễn, mạch hồng đại phát sác. Nhiệt uất khí cơ cho nên chân tay lại thấy quyết lạnh, đó cũng thuộc về loại nhiệt quyết. Nhiệt nhiều thì quyết lạnh cũng nhiều, nhiệt vừa thì quyết lạnh cũng vừa. Thanh khiếu bế tắc, tâm thần mất linh hoạt, cho nên miệng hơi cắn lại hoặc há miệng mà lặng lẽ không lên tiếng. Chứng này phát bệnh mau chóng, hơi tựa như chứng trúng phong nhưng trúng phong phần nhiều có chứng miệng mắt méo xệch, mà chứng này thì không, vả lại chứng này phần nhiều thấy ở mùa hè nóng nực cho nên hai chứng ấy cũng dễ phân biệt. cế Phép chữa:Chứng thử nhiệt bế tắc thanh khiếu, cần cho uống thuốc thanh tâm khai khiếu như An cung Ngưu Hoàng hoàn, Tử tuyết đan, và nên kết hợp với pháp châm những huyệt Nhân trung, Thập tuyên, Khúc trạch, Hợp cốc để thanh tiết nhiệt tà, thức tỉnh thần chí. Nếu sau khi tỉnh lại chân tay khỏi quyết mà bệnh còn chưa khỏi, nên chiểu theo chứng của bệnh thử ôn mà chữa, cho uống thuốc thanh khí tiêu thử, hoặc thanh dinh dưỡng âm, đang khi thử nhiệt bế tắc ở trong nhất thiết kiêng dùng thuốc lạnh mát, để tránh khỏi thử tà càng bị uất át càng vào sâu, đến nỗi không giải ra được. d. B ài thuốc: An cung Ngưu hoàng hoàn (xem ở chương Phong ôn) Tử tuyết đan (xem ở chương Phong ôn). 3. Chứng th ử phong Là chứng phong bệnh đột nhiên trúng phải thử nhiệt mà dẫn động can phon a. Chứng hậu: Mình nóng, chân tay co giật, nặng hơn thì uốn ván, răng cắn chặt, hôn mê bất tỉnh, mạch huyền sác. 52 b. Cơ ch ế bệnh: chứng này là thử nhiệt dẫn động can phong mà phát ra, cho nên thấy một loạt chứng hậu nhiệt cực sinh phong. Ngô Cúc Thông nói: "Trẻ con mắc chứng thử ôn, mình nóng, đột nhiên kính quyết gọi là chứng Thử giản". Chứng này với chứng thử phong tên gọi tuy khác nhau mà thực tế là cùng một bệnh. c. Phép chữa: Thử nhiệt thịnh quá dẫn động can phong, cần phải dùng phép thanh nhiệt tức phong làm chủ yếu, có thể dùng Linh giác Câu đằng thang. Dương minh vị nhiệt thịnh thì gia Thạch cao, Tri mẫu, tán hàn để thanh khíỗ Tân dinh nhiệt thịnh thì gia Tê giác, Đan bì để thanh dinh tiết nhiệt, hoặc dùng Thanh dinh thang gia Linh giác, Câu đằng để thanh dinh mát can. Nếu co giật khá nặng, thì gia những loại Ngô công, Toàn yết, Địa linh, Cương tàm để chấn kinh tức phong. d. B ài thuốc: Linh giác, Câu đằng thang (xem ở chương Phong ôn). 4 Ệ Chứng th ử sái Vì cảm phải thử nhiệt mà đột nhiên thổ huyết, tựa như chứng ho lao (lao sái), gọi là chứng thử sái. a. Chứng hậu: Đột nhiên thổ huyết, nục huyết, đầu mắt không thanh sáng, phiền nóng khát nước, ho suyễn, mạch ấn nhẹ tay thì hồng, ấn vừa tay thì trông không, ấn nặng tay lại thấy. b. Cơ c h ế bệnh: Thử nhiệt tà tổn thương phế, phế mất chức năng tuyên giáng, thì ho suyễn thử nhiệt nung bức, thì phiền nóng khát nước, đầu mắt không thanh sáng. Nhiệt tổn thương đường dương lạc, huyết ở đường lạc trào lên, thì đột nhiên thổ huyết, nục huyết. Nhiệt nung đốt ở lý, cho nên mạch ấn nhẹ tay thì hồng, mà lại vì: thổ, nục thất huyết, cho nên ấn tay vừa thì trông không, tuy thể nục mà chính khí còn chưa hư lắm cho nên ấn nặng tay lại thấy. Chứng thử để ghé thấp, nếu vì thử thấp thương phế mà thổ nục ho suyễn, rêu lưỡi tất trắng trơn, miệng phần nhiều không khát. Tóm lại, chứng thử sái, không kể là có ghé thấp hay không so với chứng lao sái do chân âm hao tổn, bệnh phát chậm, dẫn đến ngưòi gầy trơ xương ra, là rõ ràng có hư thực khác nhau. c. Phép chữa: Thử nhiệt thương phế, chữa nên thanh thử nhiệt để giữ phế, thanh nhiệt ở đưòng lạc để chỉ huyết. Nếu bệnh vừa mối phát thổ chất thực, thì dùng Lôi thị thanh tuyên kim tạng pháp gia Khổ, cầm, Hắc, Chi, người thể chất hư thì dùng Lôi thị khước thử điều nguyên pháp bỏ Bán hạ, Gạo tẻ gia Sinh địa tươi, Thạch lạc tươi, Ngó sen tươi, Đan bì, cỏ nhọ nồi mà chữa. Nếu thuộc thử thấp thương phế, thì dùng Thanh lạc ẩm gia Hạnh nhân, Đan bì, Hoạt thạch thang, để thanh hết tà khí thử thấp. d. B ài thuốc: Lôi thị thanh tuyên kim tạng pháp (xem ở trên). Lôi thị khước thử điều nguyên pháp (Thòi bệnh luận). Thạch cao 16g Nhân sâm 8g 53 Hoạt thạch (phi) 12g Mạch môn đông (bỏ lõi) 8g Bạch phục linh 12g Phấn cam thảo 3g Bán hạ chế 4g Gia 1 nhúm Gạo tẻ để dẫn thuốc. Bài này dùng Thạch cao, Hoạt thạch, Cam thảo để thanh tiết thử nhiệt, Nhân sâm, Mạch đông để thanh kim giữ phế. Bỏ bán hạ, là sợ thuốc cay ráo giúp nóng mà ra huyết càng nhiều. Bỏ gạo tẻ là sự lưu tà gây bệnh, gia Sinh địa tươi, Thạch hộc tươi, Ngó sen, Đan bì, cỏ nhọ nồi để lương chỉ huyết. Thanh lạc ẩm gia Hanh nhân, Đan bì, Hoạt thạch thang (ôn bệnh điều biện). Rìa lá sen tươi 8g Vỏ mướp 8g Ngân hoa tươi 8g Nõn lá tre tươi 8g Vỏ dưa hấu 8g Hạnh nhân 8g Hoa biển đậu tươi 3g Mạt hoạt thạch 12g Sa nhân 12g Hai chén nước sắc lấy 1 chén, ngày uông 2 lần. Bài này là bài thuốc nhẹ mát để thanh tiết thử nhiệt, thanh hết thử thấp. Thử thấp hết, phế khí hồi phục, thì chứng thổ nục ho suyễn cũng khỏi. Nếu lạm dụng thuốic lương huyết, chỉ huyết thì có hại là làm lưu trệ thấp tà. 5. Chứng thử uế Vì cảm thụ khí thử thấp uế trọc, mà gây nên bệnh, đột nhiên buồn phiền vật vã và gọi là chứng thử uế. a. Chứng hậu: Đầu nhức mà chướng, ngực bụng tức đầy, buồn phiền vật vã nôn lợm, da nóng có mồ hôi, nặng thì hôm mê tai điếc. ỏế Cơ ch ế bệnh: Thử thấp uế trọc giao trở ở trong, ngăn át khí cơ, thì ngực bụng tức đầy buồn phiền vật vã, nôn lợm. Thử thấp lưu ở lý, cho nên da nóng có mồ hôi nhưng nói chung không nóng lắm, mồ hôi cũng không nhiều uế thấp trở át thanh dương, thì đầu đau mà chướng, u ế trọc che lấp thanh khiếu thì tai điếc hôn mê, chứng này so với chứng hôn mê do nhiệt hãm vào tâm bào, phần nhiều thấy lưỡi ngọng, chân tay quyết lạnh, nóng rát, lưỡi đỏ, rõ ràng là khác nhau. Chứng này thử mà thử nhiệt nặng, thì rêu lưỡi trắng nhợt mà miệng cũng không khát. c. Phép chữa: Nên dùng Lôi thị phương hương hoá trọc pháp để trừ tà khí thử thấp uế trọc. Thử nhiệt nặng hơn thì gia Hoạt thạch, Cam thảo, thử thấp nặng hơn thì gia Thần khúc, Thương truật, uế trọc che lấp thanh khiếu, thì dùng Thông quan tán thổi vào lỗ mũi cho hắt hơi, và uống Ngọc khu đan thơm tho, trừ uế, khai khiếu. d. B ài thuốc: - Lôi thị phương hương hoá trọc pháp (thòi dịch luận) Lá hoăc hương 4g Đại phúc bì 6g (tẩybằng rượu). Lá bội lan 6g Gia lá sen tươi 12g để dẫn thuốc. 54 Phương này dùng Hoắc hương, Bội lan thơm tho trừ uế. Trần bì, Bán hạ, Hậu phác để lý khí hoá thấp, Lá sen tươi để thanh thấu thử nhiệt. Thông quan tán (Đan khê tâm pháp phụ dư) Trư nha tạo, Tế tân bằng nhau, nghiền nhỏ hoà đều, thổi vào lỗ mũi. Ngọc khu đan (Lại có tên là Tử kim dĩnh). Vị thuốc lược. Hai phương trên đều là thuốc chễ sắn. Thông quan tán thổi vào mũi cho hắt hơi, có công hiệu khai thông khí cơ. Ngọc khu đan bì là thuốic ôn khai, có công hiệu thơm tho trừ uế, nếu thuộc chứng nhiệt hãm vào bào thì phương này không thích hợp. III. TÓM TẮT Chứng thử ôn là bệnh nhiệt cấp tính vì cảm phải khí thử nhiệt của mùa hè mà sinh ra. Thử là tà khi hoá nhiệt, rất dễ hại khí, cho nên bệnh này lúc mới phát thì: tà 'ích khí sinh tân. Vì tà thử nhiệt dễ tương khí hao tân, cho nên trong quá trình bệnh biến phần nhiều thấy tân khí hao tổn. Nếu thử thương tân khí mà nhiệt tà không nặng lắm thì nên dùng Vương thị thanh thử ích khí thang để thanh nhiệt tiêu thử, ích khí sinh tân, nếu nặng hơn mà làm cho chính khí hao quá, khí dịch sắp thoát mà thử nhiệt đã hư thì nên dùng Sinh mạch tán để bổ tân liễm khí, nếu không thì sẽ có bệnh thử ôn. Trương Phụng Quỳ cho là: "Bệnh thử đầu tiên dùng thuốc cay mát, rồi dùng thuốc ngọt lạnh, cuối cùng dùng thuốíc ngọt chua" tức là phỏng theo ý này mà đặt ra. Nếu thử thương tâm thận, tâm nhiệt quá thịnh mà tân dịch thiếu thôn, nên dùng Liên mai thang chua đắng tiết nhiệt, chua ngọt sinh âm. Nếu thử vào tâm dinh, dinh âm hao tổn, nên dùng Thanh dinh thang để thanh tâm mát dinh. Nếu tử độc vào sâu phần huyết mà tà bế tắc tâm bào, nên cho uống Thần tê đan hợp với An cung Ngưu hoàng hoàn để lương huyết giải độc, thanh tâm, khai khiếu. Mùa hè thử nhiệt đã thịnh mà mưa thấp cũng nhiều, đồng thòi tròi nắng oi bức thì khí ẩm thấp dưới đất đã bốc lên, cho nên chứng thử ôn càng nhiều chứng hậu ghé thấp. Nếu nhiệt đốt ở vị mà thấp hạ ở tỳ, thì nên cho uông Bạch hổ gia Thương truật thang để thanh nhiệt hoá thấp, thử thấp lan tràn ở tam tiêu, nên dùng Tam dịch thạch thang để thanh tuyên thử thấp ở Thượng tiêu, Trung tiêu và Hạ tiêu. Tóm lại, chứng thử ôn ghé phần nhiều là chứng hậu nhiệt nặng thấp nhẹ. Nếu thấy thấp nhiệt đều nặng hoặc thấp nặng hơn nhiệt, nên thảm khảo với chứng thấp ôn mà chữa. Nếu tử tà ghé thấp chưa chất ở trong mà lại cảm hàn tà ở ngoài, thì là chứng thử kiêm hàn thấp, chữa nên dùng Tân gia Hương nhu ẩm hoặc Hoàng liên Hương nhu ẩm, một đằng là để cay ấm tán hàn, một đằng là để thanh thử lợi thấp. Nếu thử nhiệt không phát ở Dương minh vị mà đi tắt vào tâm bào, tức là chứng thử quyết, trước nên dùng Ngưu hoàng hoàn hoặc Tử tuyên đan để thanh tâm khai khiếu, chò khi tinh thần tỉnh lại rồi thì cho uống thuốc thanh thử tiết nhiệt. Nếu vì cảm thụ thể nhiệt mà dẫn động can phong, tức là chứng thử phong 55 nhưng cơ chế bệnh của hai bài này có chỗ khác nhau. Nếu thử ở Dương minh vị, tà có cơ chuyển hướng ra ngoài, hiện ra các chứng nóng dữ, nhiều mồ hôi khát nưốc, mạch hồng và khâu, thì nên dùng Bạch hổ gia Nhân sâm thang, nếu thử nhiệt uất ở phần lý, hiện ra các chứng mình nóng, tâm phiền, nước tiểu vàng, miệng khô mà khát thì dùng Vương thị thanh thử ích khí thang, Bài trước có Thạch cao để thấu nhiệt ra ngoài, phương sau có Hoàng liên, thanh nhiệt trừ phiền, tuy rằng thanh thử ích thì là một, nhưng có chỗ khác nhau là một đằng chủ đạt biểu, một đằng chủ thanh lý. Mùa nắng vẫn nhiều chứng thử ôn, nhưng mùa nắng lại hay thấy chứng hàn, hàn có chia ra ngoại hàn và nội hàn. Chứng ngoại hàn phần lớn là do hứng mát lâu quá, hoặc nắng trần ở ngoài, da dẻ cảm phải tà, hàn tà bó chặt ở ngoài mà sinh ra những chứng nhức đầu sợ lạnh, phát sốt không ra mồ hôi, cách chữa dùng Hương nhu ẩm cay ấm phát hãn để giải ngoại han, chứng nội hàn phần lớn là do ăn bừa dưa quả sống lạnh, hàn trúng vào trường vị mà sinh ra đau bụng thổ tả, cách chữa nên dùng Đại thuận tán nặng nữa thì dùng những phương lý trung Tứ nghịch làm ấm trung tiêu để trừ nội hàn. Hàn tuy là một, lại chia ra nội ngoại hai đường, cần phải phân biệt rõ ràng, không nên chữa lẫn lộn. Mùa hè chứng thử ôn nhiệt ở vị, hoặc là chứng thử sái nóng khát ho ra máu, đều nên ăn dưa hấu, có công hiệu tiêu thử giải khát chỉ huyết, mà không có cái tệ mát phục ứ đọng tà lại, ngưòi trưóc khen dưa hấu là "Thiên sinh Bạch hổ thang” thật có ý nghĩa thực tiễn của nó. Trẻ con thể chất bẩm thụ thuần dương, vì cảm phải thử nhiệt mà dẫn đến chứng thử phong khế nhiều, chứng thử phong khác nhau với chứng thử quyết, về chứng hậu là một bên thì chân tay co giật, một bên thì hôn mê chân tay quyết lạnh, về cơ ch ế thì một bên là can phong nội động mà ở can, một bên thử nhiệt nhiệt bế khiếu mà ở tâm bào. Do đó, chữa chứng trước nên lương can tức phong, chữa chứng sau nên thanh tâm khai khiếu. 58 C hương IV BỆNH THẤP ỐN Iẵ ĐẠI CƯƠNG Thấp ôn là một bệnh thấp nhiệt thường phát về mùa thu ẩm thấp nhiều, khi mới phát mình không nóng lắm, nhức đầu sợ lạnh, mình nặng đau nhức, bụng không khát, sắc mặt vàng nhợt, rêu lưỡi nhớt, mạch nhu hoãn là chủ chứng. Đặc điểm của nó là: phát bệnh chậm, bệnh tình thường kéo dài, để phát chứng bạch bồi. Nguyên nhân bệnh này sinh ra là cảm thụ độc thấp nhiệt mà gây nên, cũng có khi vì là tỳ thấp không hoá, rồi lại cảm phải ngoại tà mà phát ra bệnh nàyề Tiết Sinh Bạch nói: "Thái âm nội thương thấp ẩm đình trệ, khách tà lại đến, trong ngoài hấp dẫn nhau, cho nên sinh ra bệnh thấp nhiệt", tức là nói về chứng này. Vị là bể chứa thuỷ cốc, tỳ là tạng thấp thổ, cho nên chứng thấp ôn, đều lấy tỳ vị làm trọng tâm bệnh biến. Đúng như Chương Hư Cốíc nói. "Khí thấp vối thổ cùng loại hấp dẫn nhau, cho nên tà thấp nhiệt lúc đầu tuy cảm thụ ở ngoài, cuối cùng cũng về tỳ vị". Vì là dương thổ chủ táo, tỳ là âm thổ chủ thấp cho nên là thấp nhiệt xâm nhập trung tiêu, thì cơ chế bệnh lại vì trung khí trong ngưòi mạnh haỵ yếu mà khác nhau. Người trung khí thực, thì bệnh phần nhiều ở vị, mà nhiệt nặng hơn thấp, người trung khí hư thì bệnh phần nhiều ở tỳ mà thấp nặng hơn nhiệt. Nhưng không cứ thấp mà nhiệt đằng nào nhẹ đằng nào nặng, mà thành ra nhiệt thịnh hao tân, làm thành chứng phủ thực táo kết. Nếu như truyền từ phần dinh vào phần huyết thì cơ chế, chứng trạng và cách đại thể là giống vói bệnh Phong ôn, Xuân ôn. Nhưng cần chú ý rằng, thấp là âm tà. Nếu kéo dài quá lâu cũng có thể làm tổn thương dương khí, đó là chỗ khác với các chứng ôn bệnh khác. Chữa bệnh này, giai đoạn đầu nếu thấp nặng hơn nhiệt, thì nên lấy hoả thấp làm chủ, để làm cho thấp hết mà chỉ còn lại nhiệt. Phép hoá thấp có nhưng thuốc Phương hương hoá trọc. Khổ ôn hoá thấp, Đạm thẩm lợi thấp khác nhau, trên lâm sàng nên căn cứ vào chứng trạng cụ thể mà vận dụng cho đúng. Để thấp uất thượng tiêu thì lấy phép Phương hương hoá trọc làm chủ yếu thấp ngăn trở ỏ trung tiêu thì lấy phép Khổ ôn táo thấp làm chủ yếu, thấp thịnh ở hạ tiêu thì lấy phép Đạm thấp làm chủ yếu. Nếu thấp theo nhiệt hoá mà nhiệt nặng hơn thấp thì chữa nên lấy Khổ hàn thanh nhiệt làm chủ yếu, kiêm cả hoá thấp. Còn về những pháp hãn, công hạ, tư âm, bệnh này mới phát đều nên công cấm kỹ kỵ. Nếu lầm dùng thuốc tân ôn phát hãn thì dễ làm cho thấp nhiệt bốc lên mà thanh khiếu bị trở ngại, công hạ sớm quá thì dễ tổn hại dương khí của tỳ vị lầm dùng thuốc béo bổ âm nhu, thì càng làm cho thấp tà cô' kết không giải được. Ngô Cúc Thông nói: "Phát hãn thì hôn mê tai điếc, nặng hơn thì mắt nhắm không muôn nói, hạ thì đi như tháo, nhuận thì bệnh càng nặng không giải được", tức là đã vạch rõ ba sự cấm kỵ lớn trong việc chữa bệnh thấp ôn mới phát. 59 II. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ • • • 2 .1 ẳ Chứng th ấp lấn á t vệ khí а. Chứng hậu: Nhức đầu sợ lạnh, mình nóng đau nhức hoặc mình không nóng lắm, về chiều thì nóng rõ rệt hơn, ngực tức bụng đầy không đói, không khát nước, sắc mặt vàng nhợt, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch nhu hoãn. б. Cơ ch ế bệnh: Chứng này là do chứng thấp ôn mới phát thấp uất vệ khí gây nên. Thấp tà uất ở ngoài phần vệ, khí thanh dương bị trở ngại thì đầu nhức. Trong "Nội kinh" đã nói: "Vì bị thấp thì đầu như bưng", cho nên đầu nhức của chứng này phần nhiều lấy chướng nặng làm chủ yếu, không như phong hàn ở biểu hoặc tà nhiệt bốc lên mà đau kịch liệt. Thấy uất ở biểu, vệ khí không tuyên thông, vả lại nhiệt vì thấp ngăn trở, cho nên sợ lạnh mà mình không nóng lắm. Bệnh nhân tuy tự cảm thấy làm ôn tà, vượng về phần âm, cho nên buổi chiều không nóng rõ hơn. Thấp tình nặng nề, lưu ở phần da thịt cho nên mình nặng đau nhức, và cảm thấy mỏi mệt không có lực. Thấp ngăn trở ở phần lý, khí cơ không tuyên sướng thì ngực tức bụng đầy, sắc mặt vàng mà rêu lứỡi phần nhiều trắng nhớt, không khát nước, hoặc cũng có khi khát, nhưng phần nhiều khát mà không muốn uống hoặc uống thì phần nhiều thích nước nóng. Bệnh mới phát, thấp tà còn chưa hoá nhiệt lắm, khí cơ bị thấp ngăn cản, cho nên mạch nhu mà hoãn. Chứng này đầu nhức sợ lạnh, mình nặng đau nhức, có khi giống như biểu chứng của bệnh thương hàn, nhưng mạch không phù khẩn mà thấy nhu hoãn, thì không phải hàn tà xâm phạm phần biểu. Ngực tức bụng đầy, có khi giông như lý chứng thực trệ, nhưng rêu lưỡi không vàng nhớt mà thấy trắng nhớt và lại không có những chứng ợ ra mùi thức ăn, thì không phải thực trệ tổn thương trung tiêu, sốt chiều giông như chứng trạng âm hư, nhưng hai gò má không đỏ, mà sắc mặt vàng nhợt, vả lại mạch không tế sác, thì rõ ràng không phải là chứng âm hư. Tóm lại, chứng này, tuy ở lúc mối phát, nhưng bệnh tà không thuần ở biểu, mà là biểu lý cùng bệnh, tuy thuộc tính chất ôn bệnh, nhưng mới phát bệnh phần nhiều thấp nặng hơn mà nhiệt tà không có mấy. c. Phép chữa: Thấp uất ở cả biểu lý, nhiệt tà không nặng thì nên tuyên hoá thấp ở biểu lý. Nếu thấp ở biểu khá nặng, thì dùng Hoắc phác Hạ linh thang, nếu thấy ở lý chưa thành nhiệt thì dùng Tâm nhân thang. d. B ài thuốc: Hoắc Phác hạ linh thang (cảm chứng tập yếu) Hoắc hương 8g Khấu nhân 3g Bán hạ 6g Trư linh 6g Xích linh 12g Trạch tả 6g Hạnh nhân 12g Đạm đậu sị 12g Ý dĩ nhân sông 16g Hậu phác 4g 60 Phương này dùng Hoắc hương, Đậu sị thơm hoá tuyên thấu để trừ biểu thấp, Hạnh nhân thông phế lợi khí, vì phế chủ khí của toàn thân, khí hoá thì thấp cũng dễ hoá, Hậu phác, Khấu nhân, Bán hạ lý khí táo thấpễ Xích linh, Trạch tả, Ý dĩ nhân nhạt thêm lợi thấp. Tổng hợp lại tổ chức của phương này chủ yếu là thuốc đắng ấm thơm hoá và tả bằng thuốc nhạt thảm, làm cho thấp ở biểu lý, theo trong và ngoài mà phân giải, để cho hết thấp thì nhiệt không còn chỗ' nương tựa, mà bệnh dễ khỏiắ Tam nhân thang (ôn bệnh điều biện). Hạnh nhân 20g Trúc diệp 12g Hoạt thạch phi 24g Hậu phác 8g Bạch thông thảo 8g Ý dĩ nhân sống 24g Bạch khấu nhân 8g Bán hạ 20g Cam lan thuỷ 8 chén sắc lấy 3 chén, mỗi lần uống 1 chén, ngày uống 3 lần. Bài này dùng Hạnh nhân thông phê lợi khí để hoá thấp, Khấu nhân, Hậu phác, Bán hạ thơm cay để lý khí táo thấp, Thông thảo, Ý dĩ nhân, Hoạt thạch đạm thấm lợi thấp, Trúc diệp để thấu nhiệt ra ngoài, hợp lại thì đạt được công hiệu tuyên sướng khí cơ, thanh lợi thấp nhiệt. Bài này với Hoắc phác hạ linh thang, đều có những thuốic khai thông thượng tiêu, tuyên đạt trung tiêu, thâm lợi hạ tiêu, ý nghĩa tổ chức đại thể cũng giống nhau, những bài Hoắc phác hạ linh thang có Hoắc hương, Đậu sị là thuốc thơm, thang không có Hoắc hương, Đậu sị, mà có Trúc diệp, Hoạt thạch, nên không có tác dụng thơm hoá thấu biểu mà lại có công hiệu cay mát tiết nhiệt. 2.2. T à ở p h ần khí 2.2.1. C h ứ n g tam tiêu m ất ch ứ c n ă n g th ă n g giá n g. a. Chứng hậu: Bụng đầy chướng, đại tiện khó đi, hoặc đi phân sệt, mình nặng đau, rêu lưỡi trơn hoặc hơi vàng, mạch đập không rõ hoặc nhu hoãnắ b. Cơ c h ế bệnh: Chứng này tuy thuộc thấp tà uất ở tam tiêu, nhưng trọng tâm bệnh nhất là ở trung tiêu cho nên thấy bụng đầy chướng. Phủ khí ở trung tiêu không thông xuống được cho nên đại tiện do đó mà khó đi, nếu thấp tà hơi thắng mà làm vận hoá không mạnh được thì thấy đại tiện đi phân sệt, đó tức là nói "Thấp thắng thì sinh ỉa lỏng"ế Nếu chứng thuộc thấp nặng mà nhiệt tà còn nhẹ, hoặc là hàn thấp ngăn trở ở trong, thì lưỡi phần nhiều trắng trơn, nếu thấy hiện tượng hơi vàng tức là có xu hướng hoá nhiệt. Mạch nhu hoãn là thấp uất ở phần khí mà chưa hoá nhiệt, nếu mạch đập không rõ mà thân thể nặng đau thì lại là thấp ngăn trở kinh lạc mà gây nên. Tóm lại, thấp ngăn trở ở trung tiêu mà khí cơ không thông sướng, thì bụng đầy chướng là chứng tất yếu phải có. Rêu lưỡi trắng nhớt là thấp tà chưa hóa nhiệt, trắng trơn là hàn thấp ngăn trở, nhớt mà thấy vàng, là thấp hoá nhiệt. 61 c. Phép chữa: Vì thấp uất ở Tam tiêu mà trọng tâm bệnh là ỏ trung tiêu, cho nên cách chữa cần sơ thông thấp trọc ở trung tiêu trước làm cho khí cơ ỏ trung tiêu thông sướng, thì công năng thăng giáng của tam tiêu sẽ được hồi phục. Nếu vùng bụng đầy chướng, đại tiện khó đi, thì dùng bài Nhất gia giảm Chính khí tán, để tuyên hoá thấp trọc ở trung tiêu mà thông lợi khí cơ nếu bụng đầy đại tiện phân sệt mình đau, rêu trắng mạch mơ hồ, thì nên dùng Nhị gia giảm chính khí tán để hoá thấp lý khí tuyên thông kinh lạc, nếu rêu vàng bụng đầy, nên dùng Tam gia giảm chính khí tán để lý khí hoá thấp kiêm tiết nhiệt, nếu rêu trắng trơn mà mạch hoãn nên dùng Tứ gia giảm chính khí tán để ôn trung hoá thấp, nếu bụng đầy ỉa táo, nên dùng phương Ngũ gia chính khí tán kiện tỳ táo thấp. d. Bài thuốc: Nhất gia giảm chính khí tán (ôn bệnh điều biện). Cành Hoắc hương 8g Trần bì 4g Hậu phác 8g Thần khúc 6g Hạnh nhân 8g Mạch nha . 6g Vỏ phục linh 8g Nhân trần 8g Đại phúc bì 4g Lấy 5 chén nước sắc còn 2 chén, uống 2 lầnử Hoắc hương chính khí tán, vốn là phương thuốíc chữa hàn thấp uất trở ở biểu lý. Bài này tức là Hoắc hương chính khí tán bỏ Tử tô, Sinh khương, Bạch chỉ cay ấm tán biểu, Cát cánh, Cam thảo thăng đề, Bạch truật, Đại táo ngọt bổ ủng trệ, gia Hạnh nhân, Thần khúc, Mạch nha, Nhân trần mà thành. Trong phương lấy Hoắc hương thơm cay hoá trọc, dùng cành mà không dùng lá, là lấy nghĩa cành Hoắc hương chuyên về sơ hoá trung tiêu làm chủ yếu, mà không muốn tuyên thấu ra ngoài, Hậu phác, Trần bì, Đại phúc bì để lý khí hoá thấp, Hạnh nhân lợi khí của phế và đại trường, để thông lợi trệ trỏ, Thần khúc, Mạch nha để làm tỉnh lại khí của tỳ vị, Nhân trần, Phục linh để thẩm lợi thấp tà. Nhị gia giảm chính khí tán (ở sách: Ôn bệnh điều luận) Cành hoắc hương 12g Mộc phong kỷ 12g Trần bì 8g Xuyên thông thảo 5g Vỏ phục linh 12g Ý dĩ nhân 12g Lấy 8 chén nước, sắc lấy 3 chén, chia uống 3 lần. Thấp ngăn trở trung tiêu mà bụng đầy, đại tiện sền sệt cho nên dùng cành Hoắc hương, Hậu phác, Trần bì để hoá thấp ở trung tiêu, thấp chạy các kinh khác mà mình đau, mạch mơ hồ, cho nên dùng Phong kỷ, Ý dĩ nhân để tuyên thông thấp ở kinh lạc, Biển đậu, Thông thảo thẩm lợi thấp tà, lợi tiểu tiện tức là để đại tiện rắn lại. 62 Tam gia giảm chính khí tán (ồn bệnh điều biện)ễ Hoắc hương 12g (cả cành và lá) Trần bì 6g Vỏ phục linh 12g Hạnh nhân 12g Hậu phác 6g Hoạt thạch 12g Lấy 5 chén nước sắc còn 2 chén, uống 2 lần. Lưỡi vàng, bụng đầy, là thấp ngăn trở ở trung tiêu mà hơi có hiện tượng hoá nhiệt, cho nên dùng cành Hoắc hương, Hậu phác, Trần bì để sơ lý trung tiêu, Hoạt thạch, Vỏ phục linh thảm thấp tiết nhiệt, vì thấp dẫn hoá nhiệt cho nên dùng Hoắc hương thấu nhiệt ra ngoài. Hạnh nhân tuyên lợi phế khí, khí hoá thì thấp nhiệt đều hoá. Tư gia giảm chính khí tán (ở sách "Ôn bệnh điều biện) Cành Hoắc hương 12g Trần bì 6g Hậu phác 8g Thảo quả 4g Phục linh 12g Sơn tra 20g Thần khúc 8g Lấy 5 chén nưốc sắc còn 2 chén, bã sắc lấy 1 chén, uống làm 3 lần. Phương này dùng cành Hoắc hương, Hậu phác, Trần bì, Phục linh để lý khí hoá thấp, Thảo quả để ôn vận tỳ dương, Sơn tra, Thần khúc để thêm sức kiện vân trung tiêu. Ngũ gia giảm chính khí tán (ở sách "ôn bệnh điều luận"). Cành Hoắc hương 8g Đại phúc bì 6g Trần bì 6g Cốc nha 4g Phục linh 12g Trương truật 8g Hậu phác 8g Lấy 5 chén nước, sắc lấy 2 chén, ngày uông 2 lần. Bụng đầy đại tiện lỏng là vì thấp thắng gây nên, cho nên dùng những vị Hoắc hương, Trần bì, Hậu phác, Phúc bì, Phục linh để lý khí hoá thấp, lại lấy Thương truật để táo thấp, Cốc nha để mạnh sự vận hoá của tỳ. Phục linh để đạm thẩm lợi thấp, làm cho thấp tà không chuyên thấm vào đưòng ruột thì chứng đại tiện lỏng tự khỏi. Năm phương trên, phương nhất, nhị, tam, gia giảm chính khí tán đều là phương chữa thấp nặng hơn nhiệt. Phương Tứ Ngũ gia giảm chính khí tán thực tế là phương thuốc chữa bệnh hàn thấp gây bệnh, do ở phương nhất, nhị, tam gia giảm chính khí tán mà liền loại để ra. Nay đem vị thuốc của 5 phương gia giảm chính khí tán kê thành biểu đồ so sánh như sau: 63 Cốc nha (g) 4 Sơn tra (g) 20 Thương truật (g) 8 Thảo quả (g) 4 Hoạt thạch (g) 20 ý dĩ nhân (g) 12 Thông thảo (g) 6 Biển đậu (g) 8 Mộc phòng kỷ (g) 12 Nhân trần (g) 8 Mạch nha (g) 6 Đại phúc bì (g) 4 16 Thần khúc (g) 6 8 Hạnh nhân (g) 8 12 Quảng bì (g) 8 8 6 6 6 Phục linh (vỏ) (g) 8 12 12 12 12 Hậu phác (g) 8 12 8 8 8 Hoắc hương (cành) (g) 8 12 12 12 8 + Vị thuốc * Liều lượng - Phương tế Nhất gia giảm chính khí tán Nhị gia giảm chính khí tán Tam gia giảm chính khí tán Tứgia giảm chính khí tán Ngũ gia giảm chính khí tán Do đó để biết 5 phương gia giảm chính khí tán đều có cành Hoắc hương, Hậu phác, Trần bì, Phục linh lý khí hoá thấp, thơm tho hoá trọc khác nhau là ở chỗ: Phương nhất gia giảm chính khí tán thì có những vị Thần khúc Mạch nha, cho nên hay chữa được chứng đại tiện khó đi vì thức ăn nê trệ không tiêu, Phương nhị gia giảm chính khí tán thì có Phòng kỷ, Ý dĩ, Thông thảo, Biển đậu, cho nên chữa được chứng mình mẩy đau nhức do thấp nhiệt uất trở, phương tam gia giảm chính khí tán trọng dụng Hoạt thạch cho nên lấy nghĩa là thấm lợi thấp nhiệt, phương Tứ gia giảm chính khí tán, có Thảo quả để ôn vận tỳ dương mà hoá thấp trọc, phương Ngũ gia giảm chính khí tán nhò Thương truật để ráo tỳ thấp. 2.2.2. C hứng u ế trọc ỏ m ạc nguyên. a. Chứng hậu: Rét nhiều nóng ít, mình đau có mồ hôi, chân tay nặng nề, nôn xôc trưốc đầy, rêu lưỡi trắng đầy nhớt đục, mạch hoãn mà không huyền. b. Cơ chê bệnh: Chứng này là dấu hiệu thấp tà thịnh hơn mà kiêm uế trọc, 64 dương khí bị uất. Hiện chứng là rét nhiều nóng ít, mình đau có mồ hôi chân tay nặng nề, đều là biểu hiện thấp tà ngăn trở, dương khí uất mà không được điều đạt. Còn như nôn xốc trước đầy, cũng thuộc về hiện tượng thấp tà kiêm uế trọc ngăn trỏ ở trong, khí mất điều sướng. Rêu lưỡi trắng nhớt, mạch hoãn mà không huyền lại là dấu chứng rõ ràng vì thấp uế ngăn trỏ ỏ trong hiện chứng có cả chứng này cũng giống như bệnh thương hàn, nhưng thương hàn thì không mồ hôi, mạch khẩn, chứng này thì có mồ hôi mà mạch hoãn, vả lại kiêm những hiện tượng thấp thắng như bụng đầy, nôn xốc, rêu lưỡi nhớt, so với chứng hàn tà xâm nhập ở phần biểu thì có chỗ khác nhau. c. Phép chữa: Vì chứng này do thấp tà nặng hơn, mà kiêm uế trọc uất trệ, cho nên chữa không phải chỉ dùng phương thuốc hoá thấp chung chung mà thành công được, phải dùng phương Lôi thị tuyên thấu mạc nguyên pháp để sơ lợi thấu đạt tà khí thấp trọc, mới thích hợp được với bệnh tình. d. B ài thuốc: Lôi thị tuyên thấu m ạc nguyên pháp (thời bệnh luận) Hậu phác (chế nước gừng) 4g Tân lang 4g Thảo quả nhân 3g Hoàng cầm (sao với rượu) 4g Cam thảo 2g Hoắc hương 4g Bán hạ (chế với gừng) 6g Gia Gừng sống 3 lát Sinh khương để dẫn thuốc. Phương này nguyên lý theo phương Đạt nguyên ẩm của Ngô Hữu Khả mà biến hoá ra, dùng Hậu phác, Tân lang, Thảo quả thấu đạt thấp tà ngăn trở ở trong dùng chút ít Hoàng cầm để thanh nhiệt uất trệ ở trong thấp. Cam thảo để hoà trung, lại gia Hoắc hương, Bán hạ để táo thấp trung tiêu, Gừng cay thơm để giúp sức thấu đạt. 2.2.3. C h ứ n g tà lưu ở Thiếu d ư ơng Tam tiêu a. Chứng hậu: Nóng rét khi phát khi chỉ, ngực tức bụng, đầu chướng, nước tiểu ngắn, rêu lưỡi nhớt. b. Cơ c h ế bệnh: Chứng này là tà lưu ở Thiếu dương tam tiêu. Tam tiêu là đưòng hoá khí thành thuỷ, thấp nhiệt lưu luyến thì tam tiêu mất chức khí hoá, gây ra những chứng trạng thấp nhiệt ngăn trở ở Thượng tiêu, Trung tiêu, và Hạ tiêu như nóng rét khi phát khi chỉ, ngực tức bụng đầy, bụng chướng, nước tiểu ngắn, rêu lưỡi nhớt. c. Phép chữa: Chứng này nên dùng Hoàng liên ôn đởm thang phân hoá tiết nhiệt, tuyên thông khí cơ hoá được tà khí thấp nhiệt. d. B ài thuốc: Hoàng liên ôn đởm thang (lục nhân điều biện)ề Hoàng liên 12g Cam thảo 4g Bán hạ 12g Gừng sống 12g Trần bì 8g Trúc nhự 12g Phục linh 12g Chỉ thực 6g 65 Bài này tức Ôn đỏm thang gia Hoàng liên, Ôn đởm thang có công năng hoá thấp lý khí, giáng nghịch hoà vị, gia Hoàng liên để táo thấp thanh nhiệt, mà đạt được công hiệu phân hoá tà khí thấp nhiệt ỏ tam tiêu. 2.2.4. C hứng thấp nhiệt uất trệ ở tỳ vị a. Chứng hậu: Vùng bụng đầy tức, bứt rứt nôn lợm, mình nóng khát nước, rêu lưỡi vàng. b. Cơ ch ế bệnh: Thấp ngăn trở ở Trung tiêu, tỳ vị mất sự thăng giáng bình thường, cho nên xuất hiện các chứng vùng bụng đầy tức, nôn lợm, nhiệt nung nấu ở lý thì mình nóng miệng khát mà bứt rứt không yên. Rêu lưỡi vàng nhớt. Là chứng lý nhiệt đã thịnh mà thấp cũng chưa hoá được. d. Phép chữa: Chừng này nên dùng Vương thị liên phúc ẩm là thuốc tân khai (cay khai thông) khổ giáng (đắng giáng xuống), gia Hoàng cầm, Hoạt thạch để thanh lợi thấp nhiệt. cẵ B ài thuốc: Vương th ị liên phác ẩm (hoắc loạn luân). Xuyên liên (tẩm nước gừng sao) 4g Bán hạ chế 4g Hậu phác chế 8g Đạm đậu sị 12g Thạch xương bồ 4g Lô căn 72g Sắc uống ấm. Phương này dùng Xuyên liên đắng lạnh thanh nhiệt hoá thấp. Hậu phác đắng ấm lý khí hoá thấp, Bán hạ giáng nghịch hoà vị, Xương bồ thơm cay hóa trọc, Chi tử, Đậu sị thanh tuyên uất nhiệt, Lô căn thanh lợi thấp nhiệt, và để sinh tân chỉ khát, lại gia Hoàng cầm, Hoạt thạch để giúp thêm thanh nhiệt hoá thấp. 2.2.5. C hứng thấp nhiệt lan tràn ở tam tiêu. a. Chứng hậu: Rêu lưỡi trắng, ngực đầy tức, mình nóng, nôn lợm, phiền khát, ỉa chảy, ra mồ hôi, đi tiểu ít. b. Cơ ch ế bệnh: Rêu lưỡi trắng, ngực tức, ỉa chảy, nôn mửa, là hiện tượng thấp ở lý, mình nóng, phiền khát, mồ hôi ra, đi tiểu chứng nhiệt ở lý. Tà khí thấp nhiệt ngăn trở khí cơ thì sinh chứng ngực bụng đầy tức ngăn trở ở Trung tiêu, vị khí nghịch lên, thì sinh chứng nôn lợm. Thấp nhiệt ngăn trở ở Hạ tiêu, tiểu trường mất chức năng khơi trong gạn đục, thấp tà thấm nhiều xuống đại trường thì đi tiểu ít mà đại tiện tư lợi. Chứng này so với chứng trước tà ở Trung tiêu mà không có chứng ở Thượng tiêu và Hạ tiêu là có khác nhau. c. Phép chữa: Thấp nhiệt cùng chưng bốc, không chữa thiên về hàn hay thiên về nhiệt được, nên dùng Hạnh nhân hoạt thạch thang, là thuốc khổ tân khai tiết, Thanh lợi nhiệt ở tam tiêu. d. B ài thuốc: Hạnh nhân hoạt thạch thang (ôn bệnh điều biện) Hạnh nhân 12g Hoàng liên 12g Hoạt thạch 12g Uất kim 8g 66 Hoàng cầm 8g Thông thảo 4g Quất hồng 6g Hậu phác 8g Bán hạ 12g Nước 8 chén, sắc lấy 3 chén, chia uống 3 lần Bài này dùng Hạnh nhân, Uất kim tuyên thông khí cơ ở Thượng tiêu để khai thông ngực tức, Hậu phác, Quất hồng, Bán hạ sơ lý Trung tiêu để lý khí hoá thấp, Hoàng cầm, Hoàng liên để thanh nhiệt hoá thấp. Thông thảo thấm lợi Hạ tiêu, khiến cho tà thấp nhiệt ỏ tam tiêu đều được phân giải. 2.2.6. C h ứ n g nhiệt kết khó giải. a. Chứng hậu: Mạch hoãn, rêu lưỡi vàng, nhạt mà trơn, mình đau, khát không uôíhg nhiều nước, hoặc lại không khát, mồ hôi ra thì hết nóng, tiếp đó lại nóng. b. Cơ c h ế bệnh: Mạch hoãn, mình đau tựa như chứng Thái dương trúng phong, nhưng mạch không phù, rêu lưỡi vàng nhạt mà trơn, thì không phải là chứng trúng phong mà là chứng thấp nhiệt uất trỏ khí cơ. Mồ hôi ra thì hết nóng, tiếp đó lại nóng là thấp với nhiệt kết lại vối nhau mà gây nên. Nhiệt tà theo mồ hôi tiết ra ngoài, cho nên mình nóng hơi bớt, nhưng tính của thấp dính trệ, không theo mồ hôi mà giải ra được, cho nên tiếp đó lại nóng. Tà thấp nhiệt, làm khôn ở tỳ vị, cho nên khát không uống nhiều nước, hoặc lại không khát. c. Phép chữa:Nên dùng Hoàng cầm, Hoạt thạch thang để thanh hoá tà khí thấp nhiệt cố kết lại. d. B ài thuốc: Hoàng cầm, Hoạt thạch thang (ôn bệnh điều biện) Hoàng cầm 12g Đại phúc bì 8g Hoạt thạch 12g Bạch khấu nhân 4g Phục linh bì 12g Thông thảo 4g Trư linh 12g Nước 6 chén sắc còn 2 chén. Bã sắc lại lấy 1 chén, chia 3 lần uống ấm. Phương này dùng Hoàng cầm, Hoạt thạch, vỏ Bạch linh thanh lợi thấp nhiệt, Khấu nhân, Phúc bì lý khí hoá thấp, Trư linh, Thông thảo thẩm thấp lợi niệu để cùng đạt tới công hiệu trừ thấp thanh nhiệt. 2.2.7. C h ứ n g thấp nhiệt uất trở khí cơế a. Chứng hậu: Phát nóng mệt mỏi, chân tay đau ê, ngực tức bụng đầy, nôn lợm, nước tiểu đỏ, rêu lưỡi trắng nhạt, hoặc đục nhớt. b. Cơ c h ế bệnh: Thấp chứa chất ở trong, ngăn trở khí thanh dương, trên dưới không thông thì ngực tức bụng đầy mà nôn lợm, nước tiểu đỏ. Nhiệt nung nấu ở trong, tỳ khí bị khôn thì phát nóng, mệt mỏi mà chân tay đau ê, rêu lưỡi trắng nhạt hoặc đục nhớt, là thấp nhiệt kiêm với uế trọc mà gây nên. cẵ Phép chữa: Chứng này nên dùng Cam lộ tiêu độc đan để thanh nhiệt lợi thấp, phương hương hoá trọc. 67 d. B ài thuốc: Cam lộ tiêu độc đan (ôn nhiệt kinh vĩ). Hoạt thạch 540g Xuyên bối mẫu 150g Mộc thông 150g Hoàng cầm 400g Hoắc hương 150g Thạch xương bồ 240g Xạ can 120g Bạc hà 160g Liên kiều 120g Khấu nhân 120g Nhân trần 100g Các vị thuốíc kể trên trừ Nhân trần ra, thì các vị kia đều phơi sống tán thành bột nhỏ, đem Nhân trần nước trộn làm viên, bằng hạt đậu xanh hoặc dùng hồ Thần khúc làm viên mỗi lần uống 12g, hoà vào nước sôi mà uông, hoặc dùng 20g đến 40g, bọc lụa sắc uống. Phương này có công năng hóa trọc lợi thấp, thanh nhiệt giải độc, cho nên là bài thuốc có công hiệu chữa thấp ôn, thời dịch. Trong phương có Hoắc hương, Khấu nhân, Xương bồ thơm cay hoá trọc, Hoàng cầm, Liên kiều thanh giải uất nhiệt giải độc, Bạc hà sơ biểu, Xạ can, Bối mẫu tuyến phế giải uất, làm cho khí hoá thì thấp cũng tự hoá, Nhân trần, Hoạt thạch, Mộc thông để lợi thấp. Mấy chứng kể trên, đều là hiện tượng nhiệt đều thịnh, cho nên dùng thuốc, đại khái đều chú trọng cả thanh nhiệt và lợi thấpế Nếu muôn phân lợi tam tiêu, thì dùng Hạnh nhân, Hoạt thạch thang, thanh lợi trung tiêu, thì dùng Hoàng cầm, Hoạt thạch thang, nếu lấy thơm cay giải độc, thì dùng Cam lộ tiêu độc đan. 2.2.8. C hứng thấp nhiêt uất p h á t ra bach bối a. Chứng hậu: Phát nóng mình đau, có mồ hôi mà tà không giải, ngực tức bụng đầy, buồn nôn rêu lưỡi vàng trơn nhớt các vùng ngực bụng phát ra mụn bạch bối. b. Cơ ch ế bệnh: Tà thấp nhiệt lưu luyến phần khí không giải được uất bốc ở tầng ngoài da cho nên phát nóng mình đau, ngực bụng phát ra mụn bạch bối. Tính thấp ngừng trệ trong trọc cho nên ra mồ hôi mà tà vẫn khó tiết ra được. Ngô Cúc Thông nói: "Có mồ hôi mà tà không giải thì không phải phong cũng là thấp". Rêu lưỡi vàng trơn nhớt, là hiện tượng thấp nhiệt uất bốc, ngực bụng đầy tức buồn lợm, là triệu chứng bạch bối thấu ra, vì lẽ tà khí thấp nhiệt có xu thế tiết ra ngoài mà chưa được thông sướng. Phàm nhiệt tà hợp với thấp, uất ở phần khí không giải ra được, thường gây ra bạch bối, cho nên chứng ôn bệnh ghé thấp đều có thê xuất hiện chứng bạch bối, không phải riêng bệnh thấp ôn mới như vậy, mà chỉ là thấp ôn thì càng dễ thấy mà thôi. Phàm chứng bạch bối do thấp nhiệt uất trở, đều giống như thuỷ tinh vỡ ra thì có nước vàng nhạt chảy ra, đó là tà khí thấp nhiệt có cơ thấu tiết ra ngoài, cho nên có khí vì thấp nhiệt không thanh trừ mà xuât hiện bạch bối trở đi trở lại. Nêu mụn bạch bôi sắc khô trắng mà trống rỗng không có nưốc thì gọi là "khô bối", đó là triệu chứng khí dinh khô kiệt. c. Phép chữa: Chứng này có thể dùng Ý dĩ, Trúc diệp tán hoặc Tam nhân thang đê thanh tiêt thấp nhiệt mà thấu tà ra ngoài. Nếu vì khí dịch đều hết, mà sắc mụn bạch bôi như xương khô, nên dùng Sinh mạch tán để bổ khí dinh. 68 d. B ài thuốc: Ý dĩ, Trúc diệp tán (ồn bệnh điều biện). Ý dĩ 20g Liên kiều 2g Trúc diệp 12g Hoạt thạch 20g Phục linh 12g Thông thảo 6g Bạch khấu nhân 6g Cùng tán mạt, mỗi lần uống 5 đồng cân. Bài này dùng Trúc diệp, Liên kiều thanh nhiệt tà, Bạch khấu nhân thơm cay lý khí hoá thấp. Ý dĩ, Hoạt thạch, Phục linh, Thông thảo thẩm thấp thuỷ, lợi thuỷ một là thấu nhiệt ra ngoài, một là thấm ở trong, làm cho tà khí thấp nhiệt theo biểu lý mà phân hoá. Ngô Cúc Thông đã nói về bài này rằng: "Dùng thuốc cay mát để giải nhiệt ở cơ biểu, cay nhạt thẩm thấp ỏ lý, khiến cho biểu tà theo khí hoá tan mà đi lý tà theo tiểu tiện mà tống ra, là một diệu pháp để giải cả biểu lý. Tam nhân thang (xem ỏ trên). - Sinh m ạch tán (xem ở chương Thử ôn)ẵ 2.2.9. C h ứ n g thấp nhiệt gây ra đàm che lấp tâm bào. a. Chứng hậu: Mình không nóng lắm, có lúc hôn mê nói sảng, rêu lưỡi vàng cáu nhớt, Mạch nhu hoạt mà sác. b.Cơ c h ế bệnh: Thấp nhiệt ngăn trỏ ỏ khí phận, cho nên thấy rêu lưỡi vàng cáu nhớt, mạch nhu hoạt mà sác. Thấp nhiệt uất lâu không giải, gây thành đòm đục, che lấp tâm bào, cho nên mình không nóng lắm mà có lúc nói sảng. Chứng này so với nhiệt bế tắc tâm bào, hiện chứng thần chí hôn mê, nói sảng, nói càn không ngớt, hoặc mơ màng không nói, nóng ra chân tay, quyết lạnh, lưỡi đỏ không có rêu, thì rõ ràng có khác nhau. c. Phép chữa: Chứng này nên dùng Xương bồ, Uất kim thang để thanh nhiệt hoá thấp, hoát đờm khái khiếu. Nếu thiên về nhiệt nặng thì nên dùng phương này sắc để chiêu với Chí bảo đan. Nếu uế trọc nhiều, nên dùng Tô hợp hương hoàn. d. B ài thuốc: Xương bồ U ất kim thang (ôn bệnh toàn thư) Thạch xương bồ tươi 4g Uất kim 6g Sơn chi sao 8g Liên kiều 12g Cúc hoa 6g Hoạt thạch 16g Trúc diệp 12g Đan bì 8g Ngưu bàng tử 12g Khương trấp 8g Trúc lịch (pha vào uống) 240g Bột thuốc Ngọc khu đan 2g (pha vào thuốc uống). Tổ chức của phương này phần nhiều là loại thuốc hoá đàm tẩy trọc, phàm 69 chứng hôn mê nói sảng do đàm trọc che lấp thanh khiếu thì nên dùng phương này. Nếu làm cho uống thanh tâm khai khiếu thì lại có hại, là thuốc lạnh làm chặn thấp tà lạiề Chí bảo đan (xem ở chương Phong ôn) Tổ hợp hương hoàn (ở sách "Ngoại dài bí yêu") Bạch truật 50g Phụ tử chế 20g Chu sa 40g Đinh hương 40g Vỏ kha lê lặc 20g Trầm hương 40g Xạ hương 30g Tất bát 20g Đàn hương 40g An tức hương 40g Bắc mộc hương 40g Mạt tê giác (đều 80g) Huân lục hương 40g Tồ hợp hương 20g Long não (đều 2g) Giã nhỏ rây kỹ, hoà Mật ong làm viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi sáng sớm lấy nước giếng, uống. 4 viên cho vào bát sạch nghiền nát mà uống, người già trẻ con uống 1 viên. Chế thuốc vào tháng chạp, đựng trong lọ kín, đừng để hả hơi thuốc (tiết lục). Bảng so sánh chứng trạng và cách chữa chứng nhiệt bế tâm bào và chứng thấp nhiệt gây che đàm lấp tâm bào. Cơ chế Loại nóng Thần chí Rêu lưỡi Mạch Phép chữa Phương Chứng nhiệt bế tâm bào Mình nóng rét Hôn mê nói sảng hoặc mơ màng không nói Lưỡi đỏ không rêu Tế sác Thanh tâm khai khiếu Thanh cung thang, An cung ngưu hoàng hoàn Chứng thấp nhiệt gây đờm che bít tâm bào Mình không nóng lắm Có lúc hôn mê nói sảng hoặc có lúc tĩnh táo Rêu lưỡi vàng cáu nhớt Nhu hoạt mà sác Thanh nhiệt lợi thấp hoá đàm khai khiếu Xương bổ uất kim thang. 2.2.10. C hứng thấp n gă n trở hạ tiêu, m ất ch ứ c n ă n g g ạ n lọc. a. Chứng hậu: Nóng bốc đầu chướng, tiểu tiện không thông, khát không uống nhiều, rêu lưỡi trắng nhớt. b. Cơ chê bệnh: Chứng này là hiện tượng thâp ngăn trở hạ tiêu, thấp nặng nhiệt nhẹ. Vì nhiệt bị thấp ngăn trở, cho nên nhiệt tà tuy không nhiều lắm mà 70 bệnh nhân tự cảm thấy nóng bốc, đầu căng chướng. Thấp tà ngăn trở ở trong, tiểu trường mất chức năng khơi trong gạn đục, cho nên tiểu tiện không thông, chứng này so với chứng tiểu tiện không thông bàng quang mất chức năng khí hoá thì tất nhiên có cả chứng bụng dưới kết căng là có chỗ khác nhau. Rêu lưỡi trắng nhớt mà khát không uống nhiều nước, cũng là chứng có rõ ràng thấp nặng nhiệt nhẹ. c. Phép chữa: Chứng này có thể dùng Phục linh bì thang, lấy vị nhạt đạm thẩm thấp tà làm chủ yếu, khiến cho tiểu tiện thông lợi thì thấp hết mà nhiệt tà cũng dễ tiết ra. dề B ài thuốc: Phục linh bì thang (ôn bệnh điều biện). Phục linh bì 20g Ý dĩ nhân sông 20g Trư linh 12g Đại phúc bì 12g Bạch thông thảo 12g Đạm trúc diệp 8g Nước 8 chén, sắc lấy 3 chén, chia uống 3 lần. Trư Linh, Ý dĩ nhân, Thông thảo, Đạm trúc diệp đều là thuốc nhạt thẩm lợi thấn, Phục linh bì thì hơi kiêm tiết nhiệt. Đại phúc bì lý khí hoá thấp. Tóm lại, công hiệu của phương này, cốt là làm cho thấp tà ỏ lý theo tiểu tiện mà ra. 2.2.11. C h ứ n g thấp n gă n trở đ ư ờng ruôt m ất ch ứ c n ă n g truyền đao. a. Chứng hậu: Tinh thần mơ màng như bị che mò, bụng dưới rắn đầy, đại tiện không thông, rêu lưỡi cáu nhớt. b. Cơ c h ế bệnh: Thấp nhiệt uất lâu, khí cơ ở đường ruột bị nghẽn tắc, mất chức năng truyền đạo đưa xuống bình thưòng, cho nên bụng dưới rắn đầy mà đại tiện không thông, nhưng bụng tuy rắn đầy mà rất ít đau, vả lại vì thấp ngăn trở ở lý nên rêu lưỡi tất cáu nhớt, chứng này so với chứng đại tiện không thông vì phần táo kết ở trong tất có những nóng cơn, bụng ấn đau, rêu lưỡi vàng đầu khô ráo hiện chứng của Dương minh phủ thực là có khác nhau. Thấp tà ngăn trở ở trong, trọc khí công lên, cho nên tinh thần mơ màng như bị che mờ, nhưng ý thức của bệnh nhân còn được rõ ràng so với chứng thần chí hôn mê mà ý thức không thông rõ ràng của chứng nhiệt nhập tâm bào cũng có chỗ khác nhau. c. Phép chữa: Vì chứng này không phải là táo kết ỏ trong, cho nên cấm dùng thuốc khổ hàn xổ mạnh. Đã là vì thấp trở khí cơ, thì phải tuyên hoá thấp troc. Cho nên dùng tuyên thanh đại trọc thang để tuyên thông khí cơ, thanh hoá thấp trọc. d. B ài thuốc: Tuyên thanh đạo trọc thang (ôn bệnh điều biện) Trư linh 20g Hàn thuỷ thạch 24g Phục linh 20g Tầm sa 16g Tạo giác tử 12g Nước 5 chén, sắc còn 2 chén, chia uông 2 lần, hễ đại tiện thông lợi là được. Bài này lấy Trư linh, Phục linh, Hàn thuỷ thạch để lợi thấp thanh nhiệt. Tầm sa, Tạo giác tử để hoá thấp trừ uế, hợp với các thuốc trước, một là để hóa khí 71 vô hình, một là để đuổi thấp hữu hình, thấp tà đã giải thì khí cơ tuyên thông mà đại tiện thông sướng. 2.2.12. C hứng thấp nhiệt g h é tích trệ, n gă n trỏ trong vi trường. a. Chứng hậu: Mình nóng không lui, ngực bụng đầy tức, bụng hơi đau, đại tiện phân sệt mà khó đi, rêu lưỡi vàng đục. b. Cơ ch ế bệnh: Thấp nhiệt ghé tích trệ, ngáng trở nhau ở trường vị, nhiệt uất không lui, khí cơ không thư thái cho nên thấy mình nóng bụng đầy, bụng đau, đại tiện khó đi, rêu lưỡi vàng đục. Chứng này so với chứng Dương minh phủ thực, phân táo kết ở trong mà không kiêm thấp trệ, có chỗ khác nhau. c. Phép chữa: Nói chung, chứng thấp ôn kiêng dùng phép công hạ, Ngô Cúc Thông nói: "Hạ thì sinh chứng đi tháo dạ"ễ Nhưng đó chỉ là nói về lúc bệnh mới phát, sỢ hạ sóm quá mà đến nỗi tỳ dương hãm xuống, chuyển thành chứng đi tháo dạ. Chứng này vị thấp nhiệt hiệp với tích trệ, ngáng trở nhau ở trường vị, thì nên dùng Chí thực đạo trệ hoàn để xổ ra từ từ. d. B ài thuốc: Chỉ thực đạo trệ hoàn (Nội ngoại thương cảm biện luận) Đại hoàng 36g Hoàng cầm Chỉ thực 20g Hoàng liên Thần khúc 20g Bạch truật Phục linh 12g Trạch tả 12g 12g 12g 8g Nghiền nát thành bột nhỏ tẩm nước nóng chưng thành bánh làm viên, to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 50 - 70 viên, chiêu với nước ấm ấm, cách xa bữa ăn, tuỳ ngưòi hư hay thực để gia giảm mà dùng. Phương này dùng Đại hoàng, Chỉ thực để công hạ nhiệt tà, thanh trừ tích trệ, bằng các vị Hoàng cầm, Hoàng liên, Phục linh, Trạch tả để thanh nhiệt lợi thấp, lại dùng Thần khúc, Bạch truật để tiêu trệ hoá thấp kiện tỳ, hợp thành bài thuốc thanh nhiệt lợi thấp, tiêu đạo tích trệ. 2.3. Tà dinh h u yết 2.3.1. C hứng thấp nhiêt hoá táo, đai tiên ra huyết a. Chứng hậu.ễ Đại tiện ra huyết, nóng rát phiền táo, lưỡi đỏ. b.Cơ ch ế bệnh: Chứng này vì thấp nhiệt hoá táo, vào sâu dinh huyết, tổn thương đường âm lạc mà đến nỗi đại tiện ra huyết, nóng rát, phần táo, lưỡi đỏ là nhiệt độc ở dinh huyết quá thịnh. c. Phép chữa: Nên kíp cho uống Tê giác địa hoàng thang gia những vị Liên kiều, Tử thảo, Lô căn, Ngân hoa để lương giải huyết nhiệt, nếu chữa không kịp thời, thì thưòng ra huyêt qúa nhiều, mà thành biến chứng chính khí thoát ra ngoài. d. B ài thuốc: Tê giác đia hoàng thang (xem ở chương Xuân ôn) 2.3.2. Chứng ra huyết qúa nhiêu, khí h ư muôn thoát. a. Chứng hậu: Đại tiện ra huyết, sắc mặt trắng xanh, ra mồ hôi, chân tay lạnh, mạch vi tế. 72 b. Cơ ch ế bệnh: Thấp nhiệt hoá táo mà làm cho đại tiện ra huyết, bệnh tình nguy hiểm, biến hoá cũng gấp. Nếu chữa không kịp thời, thưòng vì ra huyết nhiều qúa mà gây nên chính khí hư thoát. Vì khí là tướng của huyết, huyết là mẹ của khí, hai bên giúp đỡ lẫn nhau. Đại tiện ra huyết qúa nhiều thì khí mất chô nương tựa, cho nên lâm sàng thấy xuất hiện một loại chứng trạng nguy hiểm vì chính khí sắp thoát ra như sắc mặt trắng xanh mồ hôi ra, chân tay lạnh. c. Phép chữa: Huyết hữu hình không thể sinh ra chất tinh hoa được, khí vô hình cần phải củng cô" gấp, đương lúc chỉnh khí sắp thoát, cần cho uống ngay Độc sâm thang để bổ khí cô" thoát. Vì khí có thể giữ được huyết, chính khí vững thì chứng đại tiện ra huyết cũng có thể chỉ lại được một ít. Sau đó có thể dùng Hoàng thổ thang để phù dương bổ âm, dưỡng huyết chỉ huyết. d. B ài thuốc: Độc sâm thang (Thập dược thần thư) Nhân sâm, có công năng bổ khí, phù chính cố thoát, chỉ dùng một vị, thì lực càng chuyên, phàm chứng khí hư sắp thoát, sắc lên cho uống luôn luôn, hiệu nghiệm rất rõ rệt. Hoàng thổ thang (Kim quỹ yếu lược). Cam thảo 6g A giao Địa hoàng khô 12g Hoàng cầm Bạch truật 12g Phụ tử chế Đất vàng trong lòng bếp (hoàng thổ) 16g 12g 8g 40g Bài này dùng Bạch truật, Hoàng thổ, Phụ tử để ôn dương kiện tỳ, vì tỳ có công năng thông quản huyết, tỳ mạnh thì huyết có chỗ thông quản. A giao, Địa hoàng, dưỡng huyết tư âm, Hoàng cầm đắng lạnh bền vững phần âm, và lại để ngăn ngừa Truật, Phụ táo nhiệt, Cam thảo để điều hoà các thuốic, làm cho ấm phần dương mà không đến nỗi thương tổn phần âm, nuôi dưỡng huyết mà không đến nỗi hao tổn dương. III. TÓM TẮT Chứng thấp ôn phần nhiều phát sinh bệnh về mùa mưa ẩm thấp khá nhiều, nguyên nhân chủ yếu của nó là cảm phải độc tà thấp nhiệt mà gây ra. Vì thấp là âm tà trong trọc, hợp với nhiệt lại càng khó giải mau, cho nên bệnh tình của chứng thấp ôn khá dài, lấy tỳ vị trung tiêu làm trọng tâm bệnh biến. Chương Hư Cốc nói: "Trong người ta dương khí vượng thì hoá theo hoả mà về Dương minh vị, dương khí hư thì hoá theo thấp mà về Thái âm tỳ". Vì thế trong qúa trình chứng thấp ôn mới có hai loại hình chứng hậu là thấp nặng hơn nhiệt hay nhiệt nặng hơn thấp, về cơ chế thấp nặng hơn nhiệt thiên về Thái âm tỳ thổ, cách chữa nên hoá thấp làm chủ yếu, về cơ chế nhiệt nặng hơn thấp thì thiên về Dương minh trưòng vị, cách chữa lấy phép khổ hàn thanh nhiệt làm chủ yếu mà kiêm hoá thấp. Cho nên phàm chứng thấp ôn mới phát, thấp uất ở phần vệ phần khí thì dùng Hoắc phác, Hạ linh thang hoặc Tam nhân thang để 78 tuyên hoá thấp tà, thấp uất ở phần khí, tam tiêu mất chức năng thăng giáng thì dùng phương gia giảm chính khí tán để lý khí hóa thấp, thấp trọc ngăn ở mạc nguyên thì dùng phép tuyên thấu mạc nguyên để sơ lợi thấp trọc, tà lưu 0 Thiếu dương tam tiêu thì dùng Hoàng liên ôn đởm thang để phân tiêu tẩu tiết, nếu thấy dần dần hóa nhiệt, nhiệt năng thấp nhẹ ngăn trỏ ở tỳ vị thì dùng phương Vương thị Liên phác ẩm gia vị thuốc khổ hàn để tham nhiệt kiêm cả hoá thấp, thấp nhiệt lan tràn tam tiêu, thì dùng Hạnh nhân, Hoạt thạch thang để thanh lợi ở Tam tiêu, thấp và nhiệt kết chặt khí giải thì dùng Hoàng cầm, Hoạt thạch thang để thanh hoá tà khí thấp nhiệt, thấp nhiệt uất trợ khí cơ thì dùng Cam lộ tiêu độc để thanh nhiệt lợi thấp thơm cay hoá trọc, thấp nhiệt uất phát mụn bạch bối, nói chúng thì nên cho uống Ý dĩ, Trúc diệp tán hoặc Tam nhân thang để tiết thấp thấu nhiệt, nếu khí và dịch cùng hư mà phát ra mụn khô bối, thì dùng Sinh mạch tán để bỏ khí dương âm, nếu thấp nhiệt uất lâu không giải mà sinh đòm, che bít thanh khiếu thì dùng Xương bồ, Uất kim thang để thanh hoá thấp nhiệt khoát đàm khai khiếu thấp nhiệt ngăn trở ở tiểu trường mất chức năng gạn lọc thì dùng Phục linh bì thang để phân lợi thấp nhiệt, thấp nhiệt ngăn trở đường ruột khí cơ nghẽn tắc, thì dùng Tuyên thanh đạo thấp trọc tjhang để thông đạo thấp trọc, thấp nhiệt và tích trệ giao kết ở vị trường, nên dùng chỉ thực đạo trệ hoàn để hạ chậm thấp nhiệt và tích trệ. Thời kỳ cuối của bệnh thấp ôn, thường vì thấp tà hoá táo vào sâu dinh huyết gây ra chứng đại tiện ra huyết, cách chữa này nếu thuộc huyết nhiệt bốc mạnh thì dùng Tê giác - Địa hoàng thang gia vị để mát huyết giải độc, nên vì ra huyết nhiều quá mà dẫn đến khí hư sắp thoát tiếp đó cho uống Hoàng thổ thang để phù dương, bổ âm, sáp trường, chỉ huyết. Tóm lại, bệnh tình biến hóa của chứng thấp ôn là rất phức tạp, khi lâm sàng cần phải nhận rõ thấp nhiệt đằng nào nhẹ, đằng nào nặng với vị trí của bệnh tà ở đâu, như vậy mới có thể tìm được sự chính xác của biện chứng luận trị. PHỤ 1: BỆNH ÁN CHỮA BỆNH THẤP Ôn 1. Chứng th ấp ôn th ấp n ặn g hơn n h iệt (T rư ơng D u ật T h an h y án) Trương X, bị bệnh thấp ôn 10 ngày, phiền nóng không có mồ hôi, nốt chẩn đỏ lò mò không mọc suốt, vùng ngực tức nóng lạ thưòng, ho không thông suốt, thưòng khi nói mê sảng, khát nước luôn mà không muôn uông, uống thì thích nước cực nóng, mạch sác tế hoạt, rêu lưỡi trắng giữa lưỡi vàng, gần cuông lưỡi đầy trệ. Đó là vì tà khí vô hình tuy muôn tiết ra mà thấp giàn giữ nhau không hoá được, tà tuy muốn tiết ra mà thấp ỏ lý uất kết lại thì khí ở biểu không thông ra ngoài được, cho nên sơ thông phát hãn, mà nốt chẩn và mồ hôi vẫn không phát ra được, nhiệt với thấp sẽ như chỗ chứa mây mù, thần cơ trở nên rối loạn, rất sợ thấp bốc làm đờm, che kín ở trong mà sinh chứng hôn mê kính quyếtẵ Dùng Tam nhân thang bỏ Hoạt thạch, Xuyên phác, Trúc diệp, gia Đậu sị, Quất hồng, Uất kim, chỉ xác, Xương bồ, Phật thủ. Chân đoán thứ hai: Trưốc cho uông thuốc cay tuyên, đạm hoá, phần khí 74 thượng tiêu đã hơi thông, thế nhiệt nung nấu đã hơi hoà hoãn, tinh thần hôn mê đã tỉnh dần, nói sảng co giật đã yên, bứt rứt cũng bớt, rêu lưỡi mất dần, nhưng khí có khí xung lên thì ho xốc, mạch sác hơi hoạt. Nguyên là uất bốc đã hơi giảm, mà thế của tà thấp vẫn thời kỳ rất thịnh, tuy có cơ bớt, cũng chưa hết được. Phế vị hun bốc thì khí khó hạ xuống. Cho nên chứng khí xung lên muốn ho vẫn chưa bớt. Trong phép trước, lại thêm vào thuốc sơ phế, hạ khí. Dùng: Đình lịch tử 12g Uất kim 8g Thông thảo 12g Vỏ quýt mỏng 8g Hạnh nhân 12g Mảnh hoạt thạch 10g Bán hạ chế 8g Chỉ sao 12g Đông qua tử 12g Tỳ bà diệp 12g Cát cánh 12g Trúc nhự 12g Chẩn đoán lần thứ ba: Ngực tức bứt rứt, khí xung lên ho xốc, dần dần giảm nhẹ, khạc đòm, thổ đòm cũng thấy dễ dàng, rêu lưỡi cũng tróc gần hết, nhưng mạch vẫn không thông ra được, tà không có lối ra, vẫn còn khó cho là đã ổn định. Dùng: Hạnh nhân 12g Bạch khấu nhân 8g Uất kim 8g Ý dĩ nhân 16g hoàng cầm lOg Bán hạ chế lOg Tang diệp 12g Đậu sị sao thơm 12g đình lịch tử 10g Vỏ quýt 8g Cát cánh 12g Tỳ bà diệp 12g Chẩn đoán lần thứ tư: Ho khí xốc lên đã bớt nhiều, đòm cũng thông lợi, nói sảng nóng phiền cũng bớt dần, riêng tiểu tiện trong mà không lợi, đại tiện không đi được thường hay đánh rắm, mạch sác hơi hoạt, rêu lưỡi tróc mà ở giữa lại đầy, vẫn còn là thấp đởm ngăn trỏ ở trong, tà khô tiết ra, lại phải đạo trệ. Dùng: Uất kim 8g Bán hạ chế 8g Quất hồng 8g Xích phục linh 16g Cát cánh 12g Dĩ nhân sống 16g Hoạt thạch lOg Tỳ giải 16g Thông thảo 12g Trúc lịch đạt đàm hoàn 12g Dùng nước sắc Phật thủ. Thông thảo chiêu nóng. Chẩn đoán lần thứ năm: Đại tiện đã di chứng phiền yên hẳn, nóng cũng nhẹ hơn, khát cũng bớt, nhưng nốt chẩn, đỏ tuy mọc mà rất lơ thơ, mồ hôi không ra được, mạch thanh sảng hơn, cuông lưỡi rêu trắng còn trệ, thấp tà nung nấu tuy đã nhẹ dần, nhưng chưa thoát tiết ra được, còn mong vượt được ra ngoài thì mới là ổn thoả. 75 Dùng: Hạnh nhân 12g Đinh lịch tử 12g Uất kim 8g Cát cánh 12g Quất bì 8g Xích phục linh 12g Thông thảo 12g Ý dĩ nhân 16g Mộc thông 12g Chỉ xác 8g Bán hạ chế 8g Mạch hoạt thạch lOg Bạch phục linh 16g Chẩn đoán lần thứ sáu: Thế nung nấu lan tràn của thấp nhiệt tuy nhẹ, nhưng tính thấp dính nhớt không tiêu trừ mau được, lý khí không thông, biểu khí khó thấu đạt, mồ hôi bạch bối đều không ra được, ho khí đưa xốc lên tiểu tiện không lơi, mạch sác rêu trắng, tà và thấp nương tựa lẫn nhau, vẫn còn khó. Dùng: Uất kim 8g Bán hạ chế 8g Hạnh nhân 12g Ý dĩ nhân 16g Quất bì 8g Xích phục linh 12g Đông qua tử 12g Thông thảo 10g Cát cánh 12g Vĩ hành 4 dọc Phật thủ tươi 16g Chẩn đoán lần thứ bẩy: Thế nóng bớt dần, ho cũng nhẹ dần, nhưng thấp bám vào trong tà không vượt ra ngoài được, vì vậy thế nóng lẩn quẩn không lui, không đạt ra ngoài được, mà muốn làm tan ở trong, không thể muôn làm mau mà xong việc được. Đậu quyển 12g Quất bì 8g Hoạt thạch lOg Trư linh 16g Hạnh nhân 12g Cát cánh 12g Uất kim 8g Chỉ xác 8g Bán hạ chế 8g Ý dĩ nhân 16g Thông thảo 12g Phật thử 12g Chẩn đoán lần thứ tám: Dùng Thanh lý dư uẩn phương. Đậu quyển 12g Trạch tả 12g Ý dĩ nhân 16g Hạnh nhân 12g Bán hạ chế 8g Phật thủ tươi 12g Thông thảo 12g Bạch khấu nhân 10g Quất bì 8g Bội lan 12g Nếu ngực tức gia Cát cánh, Uất kim, nặng hơn gia Xuyên phác, Chỉ xác, 76 Hoắc hương, đều nặng gia Tật lê, Thiên ma, Cương tàm, chữa vị gia Côc nha sống, và sao, Trầm hương khúc, Mai khôi hoa. Nguyên án chứng này là thấp ôn, tức ngực, mới phát thì có ngay chứng nói sảng, Trương Công Nhưng Vân chẩn đoán trước, vì thấy nhiều tuổi, thần chí không được sáng suốt, trong bệnh án có ghi đề phòng bế tắc vào trong sinh ra chứng kính quyết, phương đầu dùng những loại Thanh hao, Quất lạc, Tinh gián, tiếp đó dùng những loại Đậu quyển, Ngưu bàng, Xích thược, Tiền hồ, Trúc hoàng, Chu kiều, Phục thần, Ngọc tuyết cứu khổ đan, không có công hiệu. Tiếp mới Sài Sùng Sơn bệnh án ghi những hiện tượng ho không lợi, khát muôn uống nưóc nóng, do phần khí hãm vào trong Quyết âm, Thiếu âm, nói sảng, Phong động, Phương này dùng những vị: Đậu quyển 12g Thạch cao 10g Ý dĩ nhân 16g Cát cánh 12g Tiền hồ 12g Liên kiều lOg Hạnh nhân 12g Chí bảo đan 2g Uất kim 8g Rồi mà thế nóng vẫn bốic mạnh, bệnh án ghi có thể tà hoả sẽ lọt vào tâm bào, nếu thế nó mạnh quá, để phòng động nội phong đổi dùng các loại Linh dương, Lô căn, Tử tuyết vẫn không có hiệu quả, nên mời ông đến xem thấy mạch hơi sác, rêu lưỡi trắng nhớt, xem tinh thần thì hôn mê, cho uống thuốc khai thông khí hoá, nhẹ hơi nhạt tả, sau khi uống 1 thang thì bệnh bớt. Xem bệnh án này, trộm nghĩ tại sao các danh y trên đất Hộ này về một bệnh thấp ôn mà vẫn còn lờ mờ như vậy, thì có gì lạ đối với những ndi hẻo lánh, hết thảy đều dùng một loại thuốc âm nhu như Thanh hao, Hoàng cầm, Thạch hộc, làm một diệu thuật duy nhất để giữ tiếng tăm, thật không thể nín được sự bùi ngùi than tiếc - Thanh Nho ghi thêm. N h ân xét: Bệnh án này trước mới ông, Trương đã từng cho uổng thuốc mấy thang thông lạc khai khiếu mà bệnh chưa bớt, ông Trương xử phương tuy tựa như bình thưòng mà mới uống lần là thế bệnh chuyển tốt ngay, lý do tại sao, đó là chỗ đáng được nghiên cứu thảo luận. Nói chung, bệnh thấp ôn có chia ra thấp nhiều với nhiệt nhiều. Chứng này lưỡi trắng giữa vàng, cuổì lưỡi đầy trệ, khát không muốn uống nước, hoặc thích uống nước nóng, có thể biết tà thấp tà nặng mà kiêm ghé đàm trọc, thấp hợp với nhiệt, lan tràn ở thượng tiêu, cho nên vùng ngực đầy tắc, ho không thông suốt, che bít tâm bào, thì thần chí mơ hồ, có khi nói sảng. Vì nhiệt ở thấp, thấp không trừ thì nhiệt bao giò dứt được. Họ Trương bắt tay dùng thuốc cay thông, nhạt hoá để làm thông khí cơ, phân hoá thấp trọc, cho nên một lần uống đã có hiệu quả ngay, nhưng vì đòm đục lưu ở trong, thấp và nhiệt chưng bốc lẫn nhau, một lúc chưa thể hoá tán ngay được, khí của phế vị, không được giáng xuống, cho nên chẩn đoán lần thứ hai vẫn chủ trương y theo phép trước, gia thêm những vị Đình lịch, Tỳ bà diệp để giáng khí hóa đàm. Chẩn đoán lần thứ ba thì thấp trọc đã lần lượt giảm nhẹ, nhưng bệnh có cơ hoá nhiệt, mà tà không có lối ra, cho nên y theo phép trước gia những vị Hoàng cầm, Đậu sị, Tang diệp để thanh tuyên tiết giáng sau khi uống thuốc khí bốc lên đã bình, phiền nóng đều giảm, chỉ vì thấp đàm 77 ngăn trổ ở trong mà không đi đại tiện, cho nên chẩn đoán lần thứ tư liền bỏ Định lịch mà gia Trúc lịch đạt đàm hoàn để tiết đờm tích. Đợi đại tiện đi được, lại dùng phép tuyên khí hoá trọc, đạm thẩm lợi thấp để trừ hết thấp tà còn rớt lại, đúng như trong bệnh án chẩn đoán lần thứ bẩy đã nói:" ... muôn hoá tán ở trong, không thể muốn làm mau mà xong việc được”. Bệnh án này lập pháp linh hoạt ổn đáng có thể bắt chước được. 2. Chứng th ấp ôn, n h iệt n ặn g hơn th ấp (Đ inh C an N hân ý án) Bệnh nhân là Cưu z, bị chứng thấp ôn đã 8 ngày, nóng dữ có mồ hôi không khỏi, miệng khô muốn uống nước, phiền táo không ngủ, khi nóng quá nói sảng nói càn, ngực tức, lợm giọng, không ăn được, nước tiểu đục đỏ, rêu lưỡi vàng nhiều trắng ít, mạch huyền mà sác, nóng ỏ Dương minh vị rất mạnh, thấp ỏ Thái âm tỳ không hoá được, chứa chất nung nấu ở khí phận, tràn khắp tam tiêu có xu thể "ôn hoá nhiệt, thấp hoá táo" chứng không phải nông nhẹ, tạm nghĩ gia giảm phương Thương Truật, Bạch hổ thang, để xem động tĩnh thế nào. Hoạt thạch 12g Chỉ thực 4g Bán hạ 6g Thông thảo 3g Lô căn tươi 10g Thương truật 3g Ngẫu tiết 10g Phục linh bì 12g Thạch cao sống 12g Trúc nhự sao 6g Tri mẫu 6g Chẩn đoán lần thứ hai: Này xem mạch hồng sác đã hơi hoãn, nóng dữ cũng bớt đi nhiều, dần dần đã được, miệng khô muốn uống nước, ngực tức lợm giọng không ăn được, rêu lưỡi nhớt vàng hoá, ôn tà ẩn phục giải dần, mà thấp tích còn lưu ở trung tiêu. Thấy có hiệu quả, nên không cần thay đổi, và thêm vào loại thuốc phương hương đạm thẩm, làm cho thấp nhiệt có lối thoát ra. Thạch cao nung 12g Trúc nhự sao 6g Bán hạ 6g Thông thảo 3g Chỉ thực đốt than 4g Hoạt thạch phi 12g Trạch tả 4g Hoắc hương tươi 4g Thương truật 3g Bội lan tươi 6g Ngẫu tiết lOg Chẩn đoán lần thứ ba: Nóng lui vài ngày lại chuyển sang hiện tượng nóng rét như chứng sốt rét, ngực tức không muốn ăn, và lợm giọng nưóc tiểu ngắn đỏ rêu lưỡi vàng miệng đắng, mạch tay trái huyền sác, tay phải nhu hoạt. Đó là tà ẩn vào kinh thiếu dương, thấp tích lại lưu luyến ở trung tiêu, vị mất chức năng giáng hoà. Nay nên dùng thuốc hoà giải khu cơ phương hương đạm thẩm, khiến cho phục tà, theo khu cơ mà giải tán, thấp ôn theo tiểu tiện mà ra ngoài. Sài hồ 3g Chỉ thực 4g Bán hạ 8g Trúc nhự sao 6g Hoàng cầm 4g Thông thảo 3g 78 Xích linh 12g Trạch tả 6g Hoắc hương tươi 6g Ngẫu tiết lOg Bội lan tươi 6g N h ân xét: Nóng dữ, có mồ hôi không khói, miệng khô muốn uống nước, đúng là hiện tượng Dương minh vị nhiệt qúa thịnh, Ngực tức lợm giọng, đúng là triệu chứng Thái âm tỳ thổ bị thấp tích. Nói sảng nói càn là thuộc nóng quá tinh thần hôn mê mà không phải là tà vào tâm dinh, cho nên dùng Thương truật, Bạch hô thang để thanh nhiệt ở Dương minh vị, làm ráo thấp ở Thái âm tỳ lại tả bằng thuốc đạm thẩm sơ lợi, làm cho thấp nhiệt có lối thoát. Sau lần chẩn đoán thứ nhất nhiệt tà giảm dần, mà thấp tiết ở tỳ vị chưa tiêu được, cho nên trong phép trước bỏ Tri mẫu có tính nhuận, thêm vào Hoắc hương, Bội lan thơm cay tuyên khí để hoá thấp tà. Sau khi nóng lui được vài ngày, bỗng nhiên lại nóng rét như chứng sốt rét, đó là trong quá trình chứng thấp ôn thường thường hay có như thế là hiện tượng dư tà ra ngoài Thiếu dương đảm phù, cho nên chẩn đoán lần thứ ba, dùng thuốc hoà giải khu cơ, thơm cay đạm thẩm để chữa, làm cho đàm thấp với nhiệt tà đều có lối thoát, lập pháp dùng thuốc đàm thấp với nhiệt tà đều có lối thoát. Lập pháp dùng thuốc đều trùng với bệnh cơ, không phải người thực có cao kiến thì không thể biện biệt dược như thế. 3. Chứng th ấp ôn h oá tá o vào dinh (Đinh cam Nhân Y án) Trịnh X, bị chứng thấp ôn 16 ngày, mình nóng ran, có mồ hôi mà vẫn khồng lui, khát nước muốn uống phiền táo, ít ngủ, nói chiêm bao như nói sản|Ị, mắt đỏ, nưóc tiểu đỏ, lưỡi hồng ráp không tân dịch, mạch huyền sác, nốt chẩn đỏ mọc khắp ở khoảng ngực. Đó là ôn đã hoá nhiệt thấp đã hoá táo, táo vào phần dinh, làm hại âm, hao dịch, có cái thế làm khô nguồn tâm dịch, kiệt nguồn sinh hoá, mà biến thành chứng phong động kinh quyết, nguy hiểm đến ngay trước mắt. Vội cho dùng đại tễ sinh tân mát dinh, để hạ thế nhiệt đang bốc dữ, may ra tân sinh được, tà lui, mà khỏi vòng nguy hiểm. Sinh địa tươi 24g Lá dâu mùa đông 12g Thiên hoa phấn 12g Ngân hoa 3g Xuyên bốì mẫu 3g Linh dương phiến 3g Đan bì 8g Phục thần 12g Liên kiều cả lõi 12g Thạch hộc tươi 16g Trúc diệp tươi 30g Lô căn 40g Chẩn đoán lần thứ hai: Bệnh đã 18 ngày, đã uống hai thang thuốíc cam hàn thanh giải, lưỡi đỏ ráo hơi nhuận, tân dịch khôi phục dần dần, chứng mình nóng ran, khát nước đòi uống luôn đều bớt, đêm ngủ hơi yên, đó là điểm tốt Nốt chẩn đỏ mọc ra khắp mà cứ nhiều dần, tròng trắng mắt có gân đỏ, tiểu tiện ngắn đỏ, mạch sác không yên, phần âm của thiếu âm thận đã tổn thương, thuỷ không giao tế với hoả được, nhiệt ở phần dinh còn thịnh, mộc hoả bốc lên phương trước đã thấy có phần công hiệu, không cần thay đổi nữa. Dùng nguyên Phương gia Tây dương sâm 6g 79 Ngẫu tiết 160g (Thái phiến cho vào sắc) Chẩn đoán lần thứ ba: Bệnh đã đến 21 ngày, ôn đã hoá nhiệt, thấp đã hoá táo, cho luôn thuốc sinh tân lương giải, chứng mình nóng rát bớt nhiều ngủ yên giấc, nói đã hết, nốt chẩn đỏ mọc khắp, nóng ở phần dinh đã được tiết ra ngoài, mạch sác không tỉnh, lưỡi hơi hồng sáng, tiểu tiện vàng, 7 - 8 ngày không đi đại tiện, âm dịch khó khôi phục mau được, can hoả còn đốt mạnh, lửa tàn chưa tắt, vẫn cho dùng thuốc sinh tân tiết nhiệt, tả bằng thuốc thông phủ khí, tuy hạ từ từ, mà cũng có ý bảo tồn âm dịch. Tây dương sâm 6g Cam thảo sống 3g Lá dâu mùa đông 8g Thạch hộc tươi 16g Thiên hoa phấn 12g Phục thần 12g Sinh địa tươi 16g Úc lý nhân 12g Đan bì 8g Ma nhân 16g Xuyên bối mẫu 12g Chẩn đoán lần thứ tư: Bệnh đã 22 ngày, mình nóng rát đã hết, ngủ yên, tinh thần tỉnh táo, nốt chẩn đỏ mọc khắp, mà bay dần, phủ khí cũng thông, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi hơi trắng, mạch nhu huyền mà sác, tinh thần mệt mỏi, nước tiểu vàng nhạt, ăn cơm không ngon, tà khí lui chính khí hoà vị, dè dặt dùng thuốc hàn lương, lo quá cũng như không kịp vậy. Tây dương sâm (sao với gạo) 20g Phục thần 12g Qua lâu bì 8g Thạch hộc 12g Quất bạch (Lòng trắng vỏ quýt) 4g Sinh cam thảo 2g Xuyên bối mẫu 8g Thông thảo 3g Bắc thuật mễ 12g N h ận xét: Nói chung chữa chứng thấp ôn rất kiêng dùng thuốc âm nhu, báo bô" bệnh án này vì ôn đã hoá nhiệt tổn thương tân dịch, thấp đã hoá táo vào đến phần dinh, mà xuất hiện các chứng sốt cao, ra mồ hôi, khát nước uống luôn, lưỡi hồng nháp không tân dịch, nốt chẩn đỏ đã mọc khắp, phiền táo không yên, mắt đỏ nước tiểu đỏ, nói mơ như sảng, cho nên dùng đại tễ thuốc thanh dinh tiết nhiệt, sinh tân cứu dịch mà thu được công hiệu, nếu đóng khung ở lời nói thấp ôn kiêng nhuận, chuyên dùng một loại thuốc tân táo thấm lợi, tất nhiên làm cho âm khô dịch cạn mà chết. 4. Chứng th ấp ôn ch ín h khí hư dương th o á t (Đ inh C am N hân Y án) Chu X, bị chứng thấp ôn hơn một tháng, mình nóng, nhiều mồ hôi, tinh thần mơ màng, nói sảng, nói mê lặp đi lặp lại, môi ráo khô miệng, không muốn uống nước, không ăn cơm cháo, rêu lưỡi khô nhớt, mạch trầm tế, đó là thấp tà, làm khốn ở Thái âm, đã lâu ngày hãm vào Thiếu âm, thấp là âm tà, rất dễ hại dương, vệ dương mất chức năng chống giữ ở ngoài thì ra nhiều mồ hôi, phù dương bốc ra ngoài cơ thể mình nóng, thần không ở yên chỗ thì tinh thần mơ hồ, so với chứng 80 nhiệt vào tâm là khác nhau một trời một vực, cử động thì hơi suyễn là thận khí không liễm nạp, hơn 10 ngày không đi đại tiện là chứng âm kết. Tham hợp mạch với chứng là chính khí tan tác, âm dương ly thoát ngay ở trước mắt. Vội cho dùng Sâm, Phụ để bồi dương, Long cốt, Mâu lệ, để ghìm dương, nếu dương hồi, thần dịch dược, thì may ra mới có thể chuyển nguy thành an được. Nhân sâm 8g Hắc phụ tử 8g Mẫu lệ 12g Sa nhân 3g Bán hạ 8g Viễn chí 4g Táo nhân sao 12g Bắc thuật mễ 12g Phù tiểu mạch 16g Phục thần 12g Long cốt 12g Chẩn đoán lần thứ hai: Hai lần cho uống Sâm, Phụ hồi dương, Long cốt, Mẩu lệ ghìm dương thì mồ hôi liễm lại, tinh thần tỉnh táo, dương khí đã liễm được vào trong. Miệng khô, khát thích uống nóng, ăn kém tinh thần khốn đốn, hơn 10 ngày không đi đại tiện, trong bụng hơi đầy và không khối rắn, rêu lưỡi khô nhớt, mạch đưa xuống được cũng như khi rét quá nước đóng thành băng mà đất nứt nẻ ra, tuy đã xa núi đèo hiểm trở, nhưng chưa tới con đưòng bằng phẳng, lại cho dùng thuốc phù chính trợ dương, ôn thông phủ khí. Nhân sâm 4g Trần bì 4g Hắc nhu tử 6g Ma nhân 16g (nghiền) Phục thần 12g Úc lý nhân 12g (nghiền) Viễn chí 4g Cốc nha sao cháy 16g Tảo nhân sao 12g Bán lưu hoàn 12g Bán hạ 12g Ngoài dùng phép Thông khoan bằng mật sắc. Chẩn đoán lần thứ ba: Sau khi uống hai thang, phù khí đã thông, các chứng khác vẫn như cũ, dùng Nguyên phương bỏ Bán lưu hoàn, úc lý nhân, Ma nhân, gia Bạch truật sao với nước gạo. N h ận xét: Bệnh án này là triệu chứng bệnh đã lâu chính hư tà hãm, nếu chỉ xem những chứng tinh thần mơ màng, khát không muốn uống nước thì rất giống như chứng tà vào tâm bào, lưỡi không đỏ hồng mà thấy khô nhớt, vả lại có những chứng cử động thì hơi suyễn, mạch trầm tế, thì đủ chứng cơ rõ ràng là tâm thận dương suy, đó là chỗ then chốt biện chứng, do đó mà kết luận được chứng cử động thì hơi suyễn là thận khí không liễm nạp, mình nóng mồ hôi ra là dừơng bốc ra ngoài thần chí mơ màng là thần không ở vị trí. Chính vì biện chứng chính xác, cho nên lúc đầu cho uống thuốc hồi dương cố nhiếp mà đã làm cho bệnh tình qua được bước khó khăn ngay, tiếp sau vì âm khí kết ỏ trong mà phủ khí không thông, dùng Bán lưu hoàn hợp với Phụ tử để phá âm đọng, tá bằng những vị Ma nhân Úc lý nhân để hoạt lợi đại trường cho nên sau hai tháng thì phủ khí thông sướng được ngay, bệnh thể chuyển biến tốt. 81 PHỤ 2: THAM KHẢO TRÊN LÂM SÀNG Cách chữa chứng thấp ôn, quy nạp lại, đại khái có 3 điểm, tức là: 1. Hoá 2. Thanh 3. Công hạ "Hoá" là chỉ vào phép dùng thuổc đắng ấm thơm hoá, như loại Hoắc hương chính khí tán, Hoắc hương hạ linh thang, phép này đặt ra là nhằm vào chứng thấp ôn mối phát, mà thấp nặng hơn. "Thanh" là nói về thanh thấp nhiệt, như loại Vương Thị Liên phác ẩm gia Hoàng cầm, Hoạt thạch, phép này lập ra là nhằm vào chứng thấp dần dần hoá nhiệt, thấp nhiệt cùng uất lại, chưng bốc lên. "Công hạ" là nói về công hạ thấp nhiệt tích trệ, như những phương chỉ thực đạo trệ hoàn hoặc lục thị nhuận hoàn, Phác hoàng hoàn, phép này là vì tà theo táo hoá, hoặc hiệp với thấp trệ, đã có đủ chứng nên hạ mà lập ra. Trong ba phép này chỉ có phép hạ là rất khó vận dụng, bởi vì thấp tà tuy có thể hoá táo, nhưng vẫn là thuộc âm tà, nếu chưa có đủ chứng đáng hạ mà đã hạ sớm quá, thì thương tổn trung khí, bệnh đó cũng có thể vì dương chuyển sang âm, từ hoá táo mà chuyển ra hoá hàn. Nhưng đáng hạ thì cần phải hạ: nếu đóng khung ở lời nói thấp ôn kiêng hạ mà chần chừ không hạ, cũng sẽ để lỡ bệnh cơ. Ba phép nói trên là cách chữa chung về bệnh thấp ôn, chớ nên xem nó một cách máy móc. Chứng thấp ôn tà ở Thượng tiêu, thường vì phế khí uất tắc mà phát sinh chứng nấc, có thể dùng phương Tuyên tý thang ở "thiên thượng tiêu sách ôn bệnh điều biện" để khai khí, phế được khai thông, phế khí giáng xuống, thì chứng nấc tự khỏi, không nên mới thấy nấc đã dùng ngay những vị Đinh hương, Thị đế, loại thuốc này là thứ thơm cay giáng nghịch, dùng vào chứng này không những không có công hiệu, và còn có cái hại hoá nhiệt hao tân dịch. Thấp nhiệt chứa ở kinh lạc, nhân đó mà thành chứng tý, trong bệnh thấp ôn thường thấy, cách chữa nên thanh nhiệt trừ thấp, thông lạc chỉ thống, có thể phỏng theo phương Tuyên tý thang ở "Thiên trung tiêu sách ôn bệnh điều biện" gia Ty qua lạc, Lạc thạch đằng, Mộc qua, nhất thiết không nên theo cách chữa của chứng Hàn thấp mà cho uống bừa thuốc Ôn kinh thông lạc. Khi phong tán hàn, vì bệnh nhân khác nhau, nên cách chữa cũng khác nhau. Chứng thấp ôn ở phần biểu, nên cho Tuyên hoá thấp ở phần biểu, phép chữa vẫn không ngoài thuốc thơm cay, nhất thiết không được theo chữa phong hàn mà thuôc sơ biểu phát hãn, đời chưa có lời răn là người có bệnh thấp kiêng phát hãn, nếu dùng lầm phát hãn, thì không những thấp tà không trừ được mà lại dễ làm hao tân dịch. Nếu chữa như chứng phong nhiệt mà cho dùng lầm thuốc lương tiết quá độ thì thấp tà hãm vào trong, rất dễ gây thành chứng lỵ, lại còn thấp tà ở biểu, thường phần nhiều ra mồ hôi không dính là khác nhau. Đương nhiên các hiện chứng khác của hai chứng này cũng khác nhau rõ rệt. Thấp nhiệt uất lại chưng bốc lên thì thường hay phát mụn Bạch bối, nếu khí dịch không hư thì mụn bạch bôi trong suốt đẫy mà có nước, lúc này nên dùng một chén rượu cất để cách thuỷ đun nóng, rôi sau dùng tim bấc vò thành cục chấm 82 rượu nóng, xát nhè nhẹ, tim bấc có thể thấy to nhỏ sắc trắng tựa như lông dê, cho nên tục gọi là chẩn lông dê, nếu khí dịch đều hư mà thành mụn khô bôi thì không được sử dụng cách này. Chứng thấp ôn lâu ngày, thấp tà dần dần hoá nhiệt mà đến nỗi khí dịch đều tổn thương, thường thường buổi sáng không nóng mà buổi chiều cảm thấy mình nóng, gò má đỏ, sắc mặt kém tươi, đó là Âm ngưu phát nóng, nên theo phương Tiết thị sâm mạch thang dùng Nhân sâm thay Tây dương sâm bổ, dưỡng khí âm (dịch), khí âm trở lại thì âm nhiệt tự lui, chứng này thuộc tà ít hư nhiều, cho dùng thanh nhiệt thì vô ích, mà các loại thuốc đắng lạnh càng nên kiêng. Thấp nhiệt uất bốíc, phát ra chứng hoàng đảm, trong chứng thấp ôn rất thưòng gặp nhưng có khác nhau là thiên về nhiệt, cần phải phân biệt rõ ràng: Vì chứng này ngoài cảm thấp khí của thòi bệnh, trong chứa thấp khí của thủy cốc, khí cơ nghẽn nhiều lắm, cho nên chữa đều lấy tuyên thông phần khí làm chủ yếu, nếu chữa sai lầm rất dễ thành chứng thũng chướng. Nếu thành chứng thũng chướng nên theo phương Nhị kim thang ở "Thiên trung sách ôn bệnh điều biện” gia giảm, để khoan trung mà trừ chướng, lợi thấp mà tiêu thũng, nhất thiết không nên mới thũng trước mà cho uống bừa bãi thuốic công phạt, nếu không thì chính khí càng hư, thũng trước càng tăng, cũng có thể gây thành bất trị. Thời kỳ cuối của chứng thấp ôn, thấp đã hoá táo, nếu thấy chất lưỡi sáng trọc như quả hồng, là triệu chứng hạ huyết, cần dùng gấp cách chữa lương huyết tư âm, hoặc có thể ngăn ngừa được. Như thương tổn đến đường âm lạc mà đại tiện ra huyết, nếu thuộc về chứng huyết nhiệt bốc mạnh thì nên dùng Tê giác Địa hoàng thang, nếu là chứng huyết ra không cầm, khi theo huyết thoát ra mồ hôi ra vong dương, thì nên trước dùng Độc sâm thang hoặc Sâm phụ thang để bổ khí cố thoát, tiếp dùng Hoàng thổ thang để phù dương cầm huyết, ranh giới trong đó, rất nên phân biệt cho rõ ràng. Ngoài ra cũng có khi thấp nhiệt còn chưa hoá hết, mà nhiệt làm tổn thương phần huyết, đi lỵ ra mủ máu, đau bụng nặng trệ mót rặn, hậu môn nóng rát, đó là chứng tiện huyết cách chữa nên dùng phương Bạch đầu ông thang gia giảm để thanh nhiệt hoá thấp, bên chắc phần âm chỉ đi lỵ, mới là đúng phép. 83 Chương V BỆNH PHỤC THỬ I. ĐẠI CƯƠNG Phục thử là một loại bệnh nhiệt cấp tính về mùa thu và mùa đôngế Đặc trưng của bệnh này là lúc bệnh mới phát thì tựa như cảm mạo, 'nhưng trong có hiện chứng thử thấp, kế có hình như chứng sốt rét, mà nóng không theo qui tắc, về sau chỉ nóng không rét, về đêm càng nóng dữ hơn, sáng sớm mai ra mồ hôi bốt dần mà ngực bụng nóng rát không khỏi, đại tiện phần nhiều sền sệt mà đi không thông, thể bệnh đã nặng mà lại dây dưa. Vì thòi tiết phát bệnh có mùa thu, mùa đông khác nhau, cho nên lại có tên là "vãn phát" (bệnh phát chậm). Nguyên nhân sinh ra bệnh này là trước cảm phải độc tà thử thấp, sau vì tà của thòi bệnh thu đông dẫn dụ mà phát sinh. Cơ chế của bệnh này là có chia ra tà ở phần khí và ở phần dinh khác nhau. Tà ở phần khí là thử thấp lẫn lộn, tà ở phần dinh là thuộc thử thấp hoá táo gây nên. Nhưng hai chứng này khi mới phát đều kiêm có biểu chứng của phần vệ. Sau khi biểu chứng ở phần khí đã giải rồi, thưòng hay xuất hiện chứng thử thấp uất bốc ở kinh Thiếu dương đởm Nếu chuyển vào tỳ vị trung tiêu mà thấp tà chưa hết, thì phần nhiều là chứng hậu nhiệt nặng thấp nhẹ, chứng trạng và cách chữa của bệnh này, đại thể cũng giống vối bệnh thử ôn, thấp ôn. Ngô Cúc Thông nói: "Ba chứng: Phục thử, Thử ôn và Thấp ôn là cùng một nguồn gốc, trước sau nên tham khảo lẫn nhau, không nên thiên chấp". Chính là nhằm vào tình hình này mà nói. Nếu tích trệ cũ chưa sạch tà vào trường vị, thường hay thấy chứng trạng thử thấp kiêm tích trệ. Còn về chứng tà ở phần dinh thì bệnh cơ, xu hướng phát triển và tình hình chứng trạng vối cách chữa của chứng này cũng giông như chứng tà ở phần dinh của bệnh xuân ôn. Cho nên chứng trạng và cách chữa' tà ở phần dinh của phần này không bàn luận ở đây nữa để khỏi trùng lặp. Bệnh này lúc mới phát, cách chữa nên dùng thuốc cay để giải tà ở cơ biểu, thanh trừ thử thấp ở lý, đến khi biểu tà giải rồi thử thấp uất lại ở kinh Thiếu dương đởm, thì nên hoà giải tuyên thấu. Nếu thử thấp kiêm tích trệ uất ở đường ruột, thì nên dùng thuốc đắng cay thông giáng để sở thông thử thấp về tích trệ. Nếu tà khí và tích trệ đã thông hạ chưa sạch hết thì phải liên tiếp công hạ đến khi tà hết mà đại tiện không có chứng trạng nước lỏng như tương nữa mới có thể thôi không hạ nữa. Đó là đặc điểm của việc vận dụng phép thông hạ đối với bệnh này khác với những loại ôn bệnh khác. II. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ 2.1. Chứng lý n h iệt kiêm biểu chứ n g. a. Chứng hậu: Nhức đầu sợ lạnh, phát nóng không có mồ hôi tâm phiền khát 84