🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nỗi băn khoăn của Kim Dung Ebooks Nhóm Zalo VĂN MỚI thư từ giao dịch SÂM THƯƠNG hộp thư 2623 S A I G O N Cùng một tác giả __________________________________________ - Vào Đời (truyện dài) - Qua cầu gió bay (tập truyện) - Đêm trên thung lũng (tập truyện) Nỗi băn khoăn của Kim Dung NGUYỄN MỘNG GIÁC NỖI BĂN KHOĂN CỦA KIM DUNG VĂN MỚI 1972 MỤC LỤC * PHẦN MỘT Bước đầu của tên du ca : Nỗi băn khoăn của Kim Dung PHẦN HAI Những bước chân vào đời. Chương 1 : Tâm sự Nhạn môn quan Chương 2 : Những bước vô chiêu của Lệnh hồ Xung Chương 3 : Chặng cuối của một niềm tin PHẦN BA Những suy niệm lịch sử Chương 1 : Sự kỳ thị địa phương Chương 2 : Sự kỳ thị tôn giáo Chương 3 : Huyễn diệu của phương pháp Cộng Sản Chương 4 : Du kích chiến như một câu hỏi. P H Ầ N M Ộ T Bước đầu của tên du ca : NỖI BĂN KHOĂN CỦA KIM DUNG Gạt bỏ tất cả mọi thành kiến tự tôn, ta thấy phải công nhận tiểu thuyết Kim Dung ảnh hưởng lớn lao đến nếp sống tinh thần người Việt hiện nay. Tạo được đam mê cho đám đông đâu phải dễ dàng. Với máu trước mắt và lửa sau lưng, con người có thể dẫn mình vào những hành động bất cần, không suy tính. Nhưng khi khói súng nhạt và hào khí hạ xuống, tàn lụi như lửa rơm, người ta chỉ còn lại nỗi chán chường thụ động. Chỉ có Kim Dung là nhà văn ngoại quốc giữ được sự đam mê thường xuyên đó. Tất cả những người biết đọc đều say mê từ Cô gái đồ long cho đến Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Lục mạch thần kiếm, Tiếu ngạo giang hồ. Độc giả nhật báo tăng hay giảm tùy theo báo đó đăng Lộc đỉnh ký nhanh hay chậm. Dòng chữ cáo lỗi: VÌ MÁY BAY HỒNG KÔNG KHÔNG QUA KỊP… nhiều khi làm độc giả buồn hơn là tin vật giá leo thang, phân suất kiệm ước, thảm sát khủng bố. Mấy năm trước, tờ báo độc nhất cố gắng không chìu độc giả thân mến của bổn báo là Chính luận. Nhật báo có uy tín nầy nhất định không chịu đăng Tiếu ngạo giang hồ. Rồi sau một cuộc đình bản ngắn, cuối cùng Chính Luận cũng phải mở rộng cửa đón tiếp đôi tình nhân Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung. Bây giờ, hầu hết các báo đều có đăng Lộc đỉnh ký. Trong tâm trạng chán chường mệt mỏi của đám đông, cái đám đông đã một thời mê tiếng hát trác táng của Bích Chiêu, cái đám đông đang lắng nghe một cách trân trọng tiếng hát mệt mỏi bất cần của Khánh Ly, bất cứ sự đam mê nào cũng có ý nghĩa tâm lý và xã hội khác thường. Có người đã gọi đó là hiện tượng, một biến chứng của cuộc chiến. Trong không khí căng thẳng của những tranh chấp nội bộ và áp lực chính trị ngoại lai, nếu đôi lúc người Việt thoát ly ra ngoài được cái tê dại lười lĩnh, cái chai đá ù lì của tâm hồn, chắc họ phải thấy lạc lõng băn khoăn. Nếu những bước đường hành hiệp của các kiếm sĩ trong tiểu thuyết Kim Dung có tác dụng nhất thời làm họ quên được những phiền nhiễu của cuộc sống thực thì ít ra, tận cùng thâm sâu của tâm thức, có cái gì gần gũi, thật gần gũi giữa Kim Dung và chúng ta. Nỗi băn khoăn của Kim Dung chắc chắn giống nỗi băn khoăn của chúng ta, và sự lạc lõng bơ vơ của ông cũng phải giống với hoàn cảnh tâm trạng chúng ta. Chắc chắn phải vậy. Nhưng nỗi băn khoăn đó là nỗi băn khoăn gì? Thật ra ban đầu, Kim Dung chưa từng có sự xao xuyến do dự nào. Băn khoăn là một cách hoài nghi. Mà ban đầu, như một nhà văn Trung Hoa theo truyền thống văn dĩ tải đạo, Kim Dung phân biệt thật rõ ràng thiện và ác, chính và tà. Trong Võ lâm ngũ bá, người đọc có cảm tưởng đang nghe lời thuyết giáo của một đồ đệ Khổng Khưu, Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Nhân vật đúng là một biểu tượng, thuần túy là một biểu tượng, vì họ có một cá tính duy nhất. Nhân vật đều hoàn toàn, hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu. Dĩ nhiên kẻ xấu phải trả giá đắt cho ác tính và kẻ tốt qua bao nhiêu gian nan nhất thời, đương nhiên hưởng thụ vinh hoa phú quý với một giá hời. Nhân vật vì vậy hoàn toàn biệt lập, chưa từng bị hoàn cảnh chi phối. Cho đến khi viết Cô gái đồ long, vấn đề phân biệt thiện ác chính tà mới được trình bày theo một nhãn quan khác. Có những nhân vật qua vài hành động tàn bạo cuồng sát ban đầu, ta tưởng có thể xếp vào loại ác. Chẳng hạn như trường hợp Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Khi nghe Trương Thúy Sơn bênh vực cho thứ luân lý truyền thống: “Hành hiệp trường nghĩa để thân trường chính nghĩa, thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Tạ Tốn cười ha hả hỏi lại: “ Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo ư? Thật là nói bậy. Phái Võ Đang của người chỉ thích đọc sách Trang tử, chắc người nào cũng học thuộc lòng sách ấy phải không? Nếu vậy, tôi hãy hỏi Ngũ hiệp câu này: Người có địa vị cao nhất trên thế gian này là Hoàng đế. Mà Hoàng đế vẫn chưa phải người toàn đức, vì trận đại chiến ở cánh đồng Trác Lộc, Hoàng đế đã khiến máu chảy trăm dặm. Ngoài Hoàng đé ra, còn sáu người nữa được thiên hạ cho là người cao cả nhất thời là: Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Võ Vương, Văn Vương. Nhưng sáu người ấy đều có những hành vi khả ố cả, vẫn không thể gọi là những kẻ toàn được. Mấy lời ấy là nghĩa lý gì? Ngũ hiệp có hiểu không? Hoàng đế là đại thánh nhân, đại hiền quân như vậy mà còn giết người đổ máu hàng trăm dặm. Tôi giết có mấy người, máu chảy có một bước thôi, như vậy vẫn chưa thể nói là tàn bạo được” (Cô gái đồ long trang 3 II) Con người có quan niệm đó, dám nghi ngờ huyền thoại cao tột của đạo đức, tất nhiên không cần nương tay giết người. Để báo thù nhà, Kim Mao Sư Vương chém giết bừa bãi, tạo cảnh máu sông xương núi trong chốn võ lâm. Mà chém giết nào có lý do chính đáng hợp lý cho cam. Tiếng rú của Tạ Tốn, cũng như bom đạn và trái phá vốn không có tim và mắt, đâu có phân biệt được người thiện kẻ ác. Tất cả quần hào có mặt ở Vương Bàn sơn, ngược hẳn với nhân quả, đều phải chết để giữ bí mật cho con đao đồ long. Với hành động cuồng sát như vậy, tất nhiên Kim Mao Sư Vương phải là kẻ đi ngược đạo lý, chà đạp nhân phẩm. Nhưng càng về sau, thành kiến ban đầu của độc giả đã thay đổi. Nếu xét hành động cuồng sát của Tạ Tốn trong dây chuyền biến cố của đời ông (sự phản trắc của sư phụ, cái chết bi thảm của gia đình, cuộc sống trơ trọi trong hận thù chất chồng) nghĩa là xem Tạ Tốn là con người sống trọn vẹn với ràng buộc của hoàn cảnh, và chỉ là con thú cùng quẫn trước sự nghiệt ngã của đời, thì ông không còn là ác tinh nữa. Ác tinh là Lão Tặc Thiên, nếu thật sự có một Lão Tặc Thiên. Trong khi chờ đợi xác nhận một nghi vấn siêu hình, Tạ Tốn cảnh cáo chú bé Vô Kỵ: “Lòng người đời rất nham hiểm, trừ cha mẹ ra, con đừng tin ai hết. Ai cũng định tâm hại con đó” (Cô gái đồ long trang 404). Một nhân vật nữa cũng đứng trong tranh tối tranh sáng như vậy là Hân Tố Tố. Ra tay tàn sát tất cả già trẻ trai gái súc vật trong Long môn tiêu cục, chỉ vì Tống tiêu đầu phạm một lỗi lầm mà chính nàng cũng công nhận là không tránh khỏi, Hân Tố Tố chắc chắn không thể đứng ngang hàng kế cận với Võ Đang thất hiệp. Cách hành sự quỷ quyệt và độc ác, bất chấp trật tự, tôn ti đạo lý, Hân cô nương chính là nhân vật tượng trưng cho cái tà. Sắc đẹp của nàng không cứu vãn được nhân cách, mà còn làm tăng thêm nguy hiểm cho cạm bẫy. Nhưng Lão Tặc Thiên lại đẩy đưa cho Trương thúy Sơn, Hân Tố Tố cùng Tạ Tốn sống chung với nhau trên Băng hỏa đảo, và trong những lúc nguy khốn, cái ác của Tố Tố lại hữu hiệu hơn cái thiện của Thúy Sơn. Thúy Sơn trở nên cố chấp, ngượng nghịu khôi hài trước nghịch cảnh trong khi Tố Tố lại quyền biến. Cuộc sống tách xa khỏi cơ cấu xã hội, vượt ra ngoài thành kiến đó được Hân Tố Tố xem là cuộc sống lý tưởng thần tiên. Nhưng Tạ Tốn còn một mối thù phải trả, và Vô Kỵ cần phải trở về xã hội loài người để mai sau lập gia đình. Phải về Trung nguyên! Bấy giờ Tố Tố mới thực sự tranh chấp đối đầu với chính phái. Ác giả ác báo, tất cả cao thủ võ lâm chính phái cũng dựa vào thứ công lý trường cửu đó mới ngầm nhau tụ hội ở núi Võ Đang. Dù họ lấy danh nghĩa chúc thọ Trương chân nhân, nhưng như nhận xét chua xót của Võ Đang ngũ hiệp, đi chúc thọ một Võ Lâm Bắc đẩu mà lễ vật đều là thổ sản tầm thường dưới chân núi và người nào cũng giấu đao kiếm, quả thật phe chính cũng biết nói dối, và hơn thế nữa, không cần che đậy sự dối trá lộ liễu. Đằng sau cái chiêu bài chúc thọ, tất cả chính phải lên núi Võ Đang vì nghe tin vợ chồng Thúy Sơn trở về. Phái Thiếu lâm đến để vấn tội Thúy Sơn, kẻ bị quàng cho trách nhiệm cái chết thê thảm gia đình Tống tiêu đầu, nguyên là đệ tử xuất gia của Thiếu Lâm. Các môn phái khác cũng tụ họp ở Võ Đang để hỏi tông tích Tạ Tốn đòi nợ máu kẻ đã giết sư phụ, ái thê hoặc huynh đệ của họ. Cao đẹp thay những kẻ thế thiên hành đạo. Vậy mà, những lý do cao đẹp vừa kể, vẫn còn là một chiêu bài. Động cơ chính của tất cả mọi anh hùng hào kiệt chính phái không phải là thù nhà, không phải là hành hiệp trượng nghĩa, không phải là thi hành công lý nhân danh xã hội con người. Đằng sau lớp sơn lòe loẹt, là tham vọng chiếm được con đao đồ long, để nếm hương vị đệ nhất cao thủ võ lâm. Hóa ra cái chết của vợ chồng Trương Thúy Sơn là cái chết vô nghĩa. Thúy Sơn tự vận vì chính khí hấp thụ ở Trương chân nhân, mà cũng vì tin rằng tất cả danh môn chính phái đến đây để vấn tội kẻ bạo sát. Còn Hân Tố Tố, sáng suốt hơn, thấy rõ mục tiêu đê hèn của mọi người, nhưng cũng tự vận, vì thương chồng và chán chường ghê tởm sự giả dối của bọn ngụy đạo đức. Cái chết của vợ chồng Thúy Sơn xóa mờ luôn ranh giới giữa thiện và ác, chính và tà. Từ đó về sau, độc giả đôi lúc phải dừng lại để tự vấn lương tâm. Nếu sự phân cách giữa đạo đức và giả ngụy rõ ràng phân minh và nếu nhân vật chỉ là một biểu tượng như truyền thống văn học cổ điển, người đọc nào thương xót cho Tố Tố, cảm phục cho hào khí của Tạ Tốn, Dương Tiêu, nhất định họ đã bán linh hồn cho quỷ. Kết luận như vậy là hồ đồ và giả thiết như vậy là quá lạc quan. Thật vậy, chúng ta phải nhìn sự việc bằng cái nhìn của Vô Kỵ, cái nhìn trong sáng chưa từng bị thành kiến chi phối, chưa bị ảnh hưởng lệch lạc của xã hội. Bằng trực giác và lương tâm, Vô Kỵ phân biệt chính tà theo lối riêng của mình. Khi bọn Nhuệ Kinh Kỳ thuộc ma giáo bị đại bại trước các chính phái Nga My, Côn Luân, Không Động, Võ Đang, chưởng môn Nga My là Diệt Tuyệt sư thái quát bảo bọn ma giáo rằng: - Các người của ma giáo hãy nghe ta nói đây, ai muốn sống sót cứ việc lên tiếng van lơn thì ta tha chết cho ngay. Ngờ đâu, bà vừa nói xong, lạ nghe rất nhiều tiếng cười nổi dậy. Thì ra bọn ma giáo đều lớn tiếng cả cười. Diệt Tuyệt sư thái nổi giận: - Các ngươi cười cái gì? Ngô Kinh Thảo, chưởng kỳ phó sứ của Nhuệ Kinh Kỳ lớn tiếng đáp: - Chúng ta với Trang đại ca đã thề cùng chết, mi mau dùng kiếm giết hết chúng ta đi, chứ chúng ta không sống đâu. Diệt Tuyệt sư thái dùng giọng mũi hừ một tiếng, rồi nói tiếp: - Giỏi thật, lúc nầy mà các người còn tự nhận là anh hùng hảo hán nữa, các ngươi muốn chết một cách nhanh chóng phải không? Làm gì có chuyện dễ thế! Nói xong, chỉ thấy bà rút trường kiếm ra khẽ rung động một cái, cổ tay của Kinh Thảo bị chém đứt lìa. Không ngờ sắc mặt của Kinh Thảo vẫn như thường. Y ha hả cười và nói: - Mình giáo thay trời hành đạo, tế thế cứu dân, coi sự sống chết như thường, lão tặc ni muốn chúng ta khuất phục đầu hàng thì thực là chuyện mơ tưởng. Diệt Tuyệt sư thái càng tức giận thêm, liền múa kiếm chém thêm ba nhát, lại chém gãy lìa ba cánh tay của ba tên ma giáo cạnh đó, rồi bà hỏi người thứ tư có van lơn không? Người đó trả lời: - Đừng có mở mồm chó ra hỏi nữa. Tĩnh Hư vội tiến lên, giơ kiếm chém vào tay phải người đó và nói với Diệt tuyệt sư thái: - Xin sư phụ cho đệ tử chém chết những tên yêu tà này. Nói xong ni cô liền hỏi mấy người giáo chúng, người nào cũng không chịu khuất phục hết, Tĩnh Hư chém luôn mấy người đó, chém đến tay đã nhũn, liền quay đầu lại hỏi: - Thưa sư phụ, những yêu nhân ngoan cố lắm! Ý của ni cô chỉ muốn xin sư phụ nới tay, nhưng Diệt Tuyệt sư thái vẫn khăng khăng đáp: - Hãy chém hết tay phải chúng, nếu tên nào còn bướng thì chém nốt tay trái. Tĩnh Hư bất đắc dĩ phải chém thêm vài người nữa. Vô Kỵ không chịu thêm được, liền tung mình nhảy tới trước mặt Tĩnh Hư ngăn cản, mồm la lớn: - Hãy khoan. Mọi người đều không ngờ mà cả Tĩnh Hư cũng giật mình nhảy lui về phía sau một bước. Vô Kỵ lớn tiếng nói tiếp: - Các người tàn nhẫn vô nhân đạo thế này thực không biết xấu hổ chút nào. Tĩnh Hư cả cười hỏi lại: - Tà ma ngoại đạo, ai cũng có quyền tru diệt, cần gì phân biệt tàn nhẫn hay không tàn nhẫn. Vô Kỵ lại tiếp: - Các vị đại ca tiền bối này, người nào cũng nghĩa khí can vân, khẳng khái cầu chết, như vậy mới thực là anh hùng hảo hớn, tại sao các người lại bảo họ là tà ma ngoại đạo? Tĩnh Hư lại đáp: - Chúng là đồ chúng của ma giáo, không phải là tà ma chớ là gì? Cứ như tên Thanh Dực Bức Vương hút máu giết người, hại sư muội sư đệ của tôi như thế nào, chắc cậu đã trông thấy rõ rồi, như vậy chẳng phải yêu tà sao? Vô Kỵ đáp lại: - Thanh Dực Bức Vương chỉ giết có hai người, mà bây giờ các ngươi giết gấp mấy lần như vậy rồi. Bức Vương dùng răng giết người, còn Tôn sư thì dùng Ỷ thiên kiếm giết người, nói tóm lại, dùng gì để giết người cũng là giết người mà thôi, sao lại phân biệt thiện ác được. (Cô gái đồ long trang 253, 254 quyển 3) Vô tình lý luận của Vô Kỵ giống lý luận của Kim Mao Sư vương, và điểm nòng cốt là: trước khi rút gươm đao ra khỏi vỏ để chém giết nhân danh cái này nhân danh cái nọ, mọi người nên nhớ rằng MÌNH SẮP GIẾT MỘT NGƯỜI. Tội ác của kẻ giết hai người lớn hơn của kẻ giết một người. Tội ác của kẻ giết ba người lớn hơn tội ác của kẻ giết hai người. Sự sống cao cả này, có thể nhân danh cái viễn vông hư huyễn nào để hủy diệt nó? Vì vậy mà Tạ Tốn cho mình nhẹ tội hơn Hoàng Đế, và Vô Kỵ nghi ngờ chính khí của chưởng môn phái Nga My. Biến cố thứ nhì làm cho Vô Kỵ nghi ngờ thêm về lẽ chính tà là cuộc tấn công Quang Minh đỉnh của chính phái. Nhân danh công lý và đạo đức, chính phái hợp lực tiêu diệt ma giáo. Khẩu hiệu là TRỪ GIAN DIỆT BẠO. Nhưng một vấn nạn đặt ra: Tạm công nhận mục tiêu cao đẹp của hành động, (mục tiêu mà trước kia Kim Dung đã vạch trần sự giả trá trơ trẽn) nhưng có thể dùng những phương pháp gian manh để trừ gian, và có thể bạo hành để diệt bạo không? Và nếu vì lý tưởng là bảo vệ giá trị làm người, chính phái sử dụng gian và bạo, thì sử dụng đến mức nào chính phái còn xứng đáng là chính phái, và quá mức nào họ chỉ là kẻ gian ác đội lốt đạo đức? Vô Kỵ cho rằng Diệt Tuyệt sư thái đã đi quá mức đó, ngụy tín chấp thuận cho mình một thứ bùa phép : cùng đích biện minh cho phương tiện. Viễn Kiều và Liên Châu của phái Võ Đang biết dừng ở mức đó, khi từ chối lợi dụng cơ hội nghìn năm một thủa giết chết Hân Thiên Chính và toàn thể giáo chúng Minh giáo. Biết tri chỉ, than ôi, đâu có dễ! Cho nên như Khổng Khưu nói, vì không biết tri chỉ, con người không thể định được đâu là tà, đâu là chính. Sử dụng xảo ngôn, khuếch đại bằng dụng cụ âm thanh, bơm phồng từ ngữ, đâu phải là độc quyền của riêng ai? Có hiểu như vậy ta mới thông cảm được nỗi bàng hoàng của Vô Kỵ khi nghe lời kinh tử biệt của ma giáo: “Đốt tàn xác ta, ngọn lửa thánh bốc cháy hồng hồng. Sống đã chi làm sướng, chết không lấy chi làm khổ. Vì thiện trừ ác, chỉ vì quang minh mà nên. Hỉ lạc bi sầu đều trở về cát bụi. Tội nghiệp thay người đời hoạn nạn quá nhiều”. Tuy có trực giác sáng suốt, và chút ít kinh nghiệm. Vô Kỵ vẫn không thể phân biệt được hai nẻo chính tà . Cả hai vẫn cùng một nhân danh VÌ THIỆN TRỪ ÁC, THẾ THIÊN HÀNH ĐẠO. Và cả hai đểu độc quyền VÌ THIỆN TRỪ ÁC, đều đã THẾ THIÊN HÀNH BẠO. Tạ Tốn tuy mù, nhưng quả sáng suốt hết sức khi gọi Trời là Lão Tặc Thiên. Sau Cô gái đồ long, Kim Dung vẫn chưa tìm thấy được tia sáng nào để soi rõ khoảng ranh giới mơ hồ giữa chính và tà. Vì chiêu bài và nhân danh ngày càng nhiều, từ ngữ ngày càng bị lạm dụng, cuối cùng rỗng tuếch vô nghĩa. Cho nên, chúng ta thấy càng về sau, nhân vật Kim Dung càng tách rời khỏi đám đông. Trong Anh hùng xạ điêu, Hồng thất công là nhân vật chính phái đích thực, thứ chính phái đích thực phỉ nhổ (Hồng thất công ăn ở rất bẩn) và chế diễu mỉa mai (Hồng thất công ưa khôi hài) chính phái giả ngụy ảo vọng. Trong Thần điêu đại hiệp, Kim Dung lại cho Hồng thất công, kẻ xứng đáng xưng tụng là nhà đạo đức, và Âu Dương Phong Tây độc, kẻ xứng đáng phỉ nhổ là tên vô đạo, ôm nhau chết trên đỉnh núi tuyết. Chính phái, ngay cả chính phái đích thực, không còn thắng nổi tà nữa ư? Sao không xếp đặt câu chuyện, cho Tây độc vì luyện lầm võ công mà nổi điên khùng, tự cào cấu rách mặt mày mà chết? Viết như vậy các nhà đạo đức sẽ xoa tay yên chí, vì như vậy cái tà đã chứa mầm tự diệt ngay trong bản chất của nó. Sao không cho kẻ ác rơi xuống vực sâu từ đỉnh tuyết cao, trong khi Hồng thất công oai nghi đường bệ, rú lên cho vang động trời mây và nước, để báo hiệu bước về khải hoàn? Đã tàn rồi, thời đại của những niềm tin ngây thơ! Trong nỗi băn khoăn, Kim Dung như muốn nói ở bên trên ở ngoài xa cái thực tế nheo nhóc kèn cựa ganh ghét là đám đông nầy, ở trên đỉnh núi tuyết hay ở băng hỏa đảo, chính tà không cần phân biệt nữa? Hay nếu cơ chế xã hội vẫn còn giữ nguyên trạng, nghĩa là chuyên nhân danh để cưỡng chế, chuyên lấy mục đích biện minh phương tiện, không thể phân biệt chính tà? Ngược lại, nếu có nhập thế cuộc, thái độ hợp lý nhất là vô chấp, cương quyết gạt bỏ thành kiến như thái độ của Đoàn Dự và Lệnh Hồ Xung. Tìm một đỉnh tuyết cao nào đó, con người vứt bỏ thành kiến, ngụy tín, cố chấp dưới chân núi để trở về nguyên vẹn hình người, xử sự nguyên vẹn tình người là điều viễn mơ. Tìm một kẻ can đảm phi thường như Lệnh Hồ Xung (dám ngạo nghễ cười cợt cả Nhậm Ngã Hành, không thèm làm đồ đệ của Thiếu Lâm, dám làm chưởng môn nhân một đám ni cô, dám kết bạn với bàng môn tả đạo) để tuyên dương như một thần tượng mới cho đạo đức đích thực trong khung cảnh xã hội cưỡng chế của thế giới hiện đại, cũng là điều viễn mơ. Kim Dung biết vậy, và tất cả người Việt chúng ta, đã từng nhọc nhằn vì bao cuộc thăng trầm chiến chinh, chạm mặt với bao sự giả trá sỗ sàng, chúng ta cũng biết vậy. Cho nên chung cuộc, nỗi băn khoăn hoài nghi vẫn còn đó. Làm sao được? Nói cho cùng, nhà văn chỉ là kẻ: Nói láo mà chơi nghe láo chơi. Chỉ là thức giác cô đơn nghìn năm vì đành cam chịu bất lực trước những trạng huống nghịch lý. Chúng ta chỉ là kẻ chịu đựng lịch sử mà thôi. Đừng tự cao. Hãy nhận sự thực: Victor Hugo viết Les misérables với tất cả nhiệt tình, Sartre đòi dấn thân, nhưng lịch sử vẫn trôi theo một chiều kỳ quặc, khác hẳn dự tưởng của nhà văn. Kẻ trực tiếp ảnh hưởng đến đến phận người vẫn là kẻ cầm quyền, dự tiếp tân, cắt băng khánh thành, ban huấn từ và ký giấy tuyên chiến. Nhà văn là người gợi ý, hay quá lắm, chỉ là người khuyến cáo. Phải nhận nỗi băn khoăn của chúng ta, hãy rành rành còn mãi đó. P H Ầ N H A I Những bước chân vào đời Tuy vậy, Kim Dung vẫn gắng đóng trọn vai trò tên du ca. Ở tửu quán, có thể người đời vẫn mãi lo ăn uống không thèm để ý tới lời hát. Trong các cung điện nguy nga, những người làm lịch sử vẫn đang hãnh diện cắt băng khánh thành, hả hê ban huấn từ, thản nhiên ký giấy tuyên chiến. Có đáng gì, lời ca một tên hát dạo già nua. Giọng khàn yếu không át nổi lời nịnh hót, tiếng vỗ tay và những tràng súng nổ. Giống như chúng ta, trước sau Kim Dung cũng chỉ là một người chịu đựng lịch sử. Nhưng chính trong thái độ khiêm nhường của một người chỉ dám nhận vai trò gợi ý, bừng sáng sức mạnh của người trí thức, ý chí bậc trượng phu, cái dũng của kẻ sĩ không bịt tai lại để ăn cắp nhạc ngựa. Trong suốt văn nghiệp đồ sộ của ông, Kim Dung đã dự phóng những cách nhập thế, phác họa những giải pháp để con người trở lại sống thật với tình người. Dù ban đầu có ngập ngừng, tên du ca ấy vẫn không thể đứng ngoài vòng thị phi. Hoài nghi, băn khoăn, không biết đâu là biên giới chính tà, nhưng Kim Dung không thể tự dối bằng cách phủ nhận tất cả hay tìm riêng cho mình một băng hỏa đảo. Tên du ca vẫn phải vào đời, tuy thực tình chưa biết đi về đâu. Nhìn chung mọi cuộc hành trình, chúng ta buồn rầu mà nhận rằng niềm hăm hở của Kim Dung càng ngày càng vơi. Đầu tiên, ông tin một mẫu quân tử chí tình như Tiêu Phong có thể giải quyết được vấn đề. Giữa những tranh giành hèn kém về quyền lợi và kỳ thị nòi giống tích lũy trong lịch sử, Tiêu Phong đã thất bại. Vượt được biên giới thành kiến, họa chăng chỉ có loài chim. Sau đó, ông ước mong tuyên dương một thần tượng mới - Lệnh Hồ Xung - kẻ may mắn được truyền thụ Độc cô cửu kiếm, lấy vô chiêu thắng hữu chiêu, đem tinh thần vô chấp phóng khoáng hòa giải bao nhiêu ganh ghét tranh chấp. Kết luận đột ngột của Tiếu ngạo giang hồ chứng tỏ nỗi thất vọng của người viết, vì Kim Dung đã phải nhờ đến thủ thuật sáng tạo để giữ chút vốn tin tưởng cuối cùng. Sau hết, những cao vọng trở thành hư không, những giấc mơ phũ phàng, Kim Dung đành công nhận những thực tại không mấy hoa mỹ. Thế giới này đã hết tình thương chăng? Cuộc đời này không còn chỗ cho kẻ sĩ chăng? Lòng nhân đạo đã trở thành một xa xỉ thừa thãi chăng? Trong thâm tâm Kim Dung, những thoáng nghi ngờ cay đắng càng nhiều, nên tác giả mới tạo ra mẫu người mới của thời đại: Vi Tiểu Bảo. Tuy câu chuyện chưa kết thúc, nhưng chúng ta đã thấy trước thế giới Kim Dung không còn chỗ nào, dù là khiêm nhường, cho những Tiêu Phong, Vô Kỵ, Đoàn Dự, Quách Tĩnh, Lệnh Hồ Xung… Những bước chân vào đời đều lỡ lầm. Những toan tính, dự phóng của Kim Dung đủ khiến chúng ta suy nghĩ. Sự thất bại của mỗi nhân vật cho chúng ta một kinh nghiệm làm người. Điều đó đủ quý giá rồi. Trong các chương sau đây, chúng ta lần lượt theo dõi những bước chân vào đời của TIÊU PHONG, LỆNH HỒ XUNG và VI TIỂU BẢO. *** C H Ư Ơ N G I Tâm sự Nhạn Môn quan Vách núi sừng sững như chọc thủng khoảng mây, ngăn tầm mắt người Khất Đan bên nầy và người Tống bên kia. Những cuộc nam chinh của nước Liêu từ cửa ải này xuất phát, cuồn cuộn chảy vào Trung Nguyên để nổi lửa đốt cháy nhà cửa và bật cung khơi nguồn máu chảy. Rồi nếu muốn bắc phạt để trả nợ máu, quân Tống cũng từ cửa ải này tuôn vào những sa mạc nước Liêu dậm nát không còn ngọn cỏ xanh hay một tiếng khóc tiếng cười. Nhạn môn quan là tuyến đầu, biên giới giữa nước Liêu và nước Tống. Quân lính hai bên sẵn sàng ở thế tác chiến, đôi mắt xoi mói hoài nghi. Trừ trường hợp do nội tình, một bên bị suy yếu để bên kia thừa cơ lấn áp cướp bóc, bình thường cửa ải đóng kín, không ai được qua khỏi. Chỉ có chim hồng chim nhạn nhờ góp gió vào đôi cánh, từ ngả nhạn môn quan bay xuôi về phương nam tìm hơi ấm. Tâm sự Nhạn môn quan là hoài bão của kẻ muốn làm kiếp chim, bay bổng lên trên, xóa hết biên giới nhỏ hẹp để sống theo tình người. Kẻ đó vẻ mặt hiên ngang, tính khí cao ngạo, to lớn hào sảng như con hùng sư (1), lớn mật mà cẩn thận, trí dũng song toàn (2), là nhân vật mà Kim Dung tha thiết đặt hết niềm tin, cố gắng thâu góp tất cả mọi đức tính lý tưởng giao cho hắn, nhờ hắn thay mình vào đời để bình thiên hạ. Nhân vật tuyệt vời ấy là TIÊU PHONG, trong Lục Mạch Thần Kiếm. Cuộc đời của Tiêu Phong gắn liền vào cửa ải này. Nếu Tiêu Viễn Sơn và người vợ bất hạnh không bồng con về thăm ngoại, thì Tiêu Phong vĩnh viễn là một vương tử Khất Đan, suy nghĩ theo quan niệm thuần túy Khất Đan, hành động theo quyền lợi người Khất Đan, nghĩa là ông sẽ bằng lòng với thế đứng của kẻ ở mạn bắc Nhạn môn quan. Cuộc đời run rủi cho mọi sự bi đát mâu thuẫn có thể xảy ra, do mưu ly gián Liêu Tống của Mộ Dung Bác, quần hào trung nguyên tưởng một nhóm võ sĩ Đại Liêu âm mưu tấn công Thiếu Lâm tự để đoạt kinh, nên cùng nhau ra Nhạn môn quan phục kích. Vợ chồng Tiêu Viễn Sơn vô tình mắc nạn, mẹ Tiêu Phong bị thảm sát, cha Tiêu Phong tuyệt vọng tưởng vợ con chết hết nên ôm xác thân nhân nhảy xuống vực sâu tự vận. Nhưng như lời Trí Quang đại sư thuật lại: “Gã người Liêu trong lúc lơ lửng chưa xuống đến đáy vực mới phát giác ra con mình chưa chết. Gã liền lập tức quăng con lên. Tâm linh gã mau lẹ đã đành, nhưng tung con đúng chỗ không sai mảy may thì võ công này ai mà không khiếp sợ. Tôi nhìn anh em chết thảm, khóc ròng một lúc rồi nhấc đứa nhỏ lên toan đập nó vào tảng đá cho chết đi. Nhưng vừa toan liệng vào; bỗng nghe nó khóc thét lên. Tôi nhìn mặt nó một cái, thấy má nó bụ bẫm đỏ hây, mắt nó đen láy và trong sáng đang nhìn tôi. Nếu tôi không trông vào mặt nó, thì đã quật chết tươi rồi, chả còn chuyện gì nữa”. (trang 146 quyển 1) Cậu bé Tiêu Phong sống sót nhờ một cái nhìn. Trí Quang đại sư đã nhìn thẳng vào gương mặt đứa bé, để thấy trong đôi má bụ bẫm đỏ hây quyền sống thiêng liêng của một con người, trong đôi mắt đen láy chan chứa niềm vui, tình thương yêu, tình liên đới giữa người với người, không phân biệt Liêu hay Tống, già hay trẻ. Tiêu Phong được quyền sống sót nhờ ở tình người, và dĩ nhiên lớn lên, cũng phải có nhiệm vụ phụng sự cho tình người. ___________________________________ (1) Theo nhận xét của A Châu (2) Theo ý kiến Bảo Thiên Linh THỰC TRẠNG PHÂN TRANH CỦA CÁC CHỦNG TỘC Bọn Uông Bang chúa, Thủ lãnh đại ca, Triệu thiền tôn, Trí Quang đại sư… hối hận vì đã vô tình giết oan vợ chồng Tiêu Viễn Sơn nên không nỡ giết đứa con, đem nó qua hẳn bên này biên giới, thật xa về phía nam Nhạn môn quan, giao cho vợ chồng họ Kiều ở dưới chân núi Thiếu Thất nuôi dưỡng. Chùa Thiếu Lâm rèn luyện võ công và đạo đức, rồi Uông bang chúa hướng dẫn đào tạo cậu bé thành một người Tống hoàn toàn. Sau nhiều trắc nghiệm thử thách gay go, Tiêu Phong mới được giao cây Đả cẩu bổng cho. Quần hào trung nguyên giấu nhẹm gốc gác của Tiêu Phong, và chính ông cũng cư xử như một người Hán thuần túy. Cái nhìn Tiêu Phong giống y cái nhìn mọi người, hạn chế trong biên giới quyền lợi dân tộc, nhắm mắt tuân hành theo hệ thống huyền thoại nhằm đề cao Hán tộc và phỉ báng bọn man di chung quanh. Những huyền thoại đó là căn bản của lịch sử tất cả các nước trên thế giới, nó là chất liệu chính của mọi chặng huyền sử, là nguyên tố, mục tiêu để các sử gia sưu tập tài liệu chứng minh diễn tiến sinh tồn của dân tộc. Chúng ta thử điểm mặt các anh hùng dân tộc, sẽ thấy thành tích lớn lao nhất của họ là giết được hằng hà sa số người lân bang để bảo vệ quyền lợi chủng tộc, mở mang bờ cõi. Cho nên chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy bên này biên giới, nhân vật ấy là một tên đại ác, còn ở bên kia biên giới lại là một nhân vật lịch sử siêu việt oai hùng từng làm sáng đôi mắt ấu thơ. Cũng chính vì tinh thần dân tộc này mà người ta tự cho phép làm ngơ trước những hành động phi nhân, như nỗi vui sướng phấn khởi của một đứa trẻ da trắng Hoa kỳ khi xem trên màn ảnh cảnh quân biên phòng tàn sát không thương tiếc bọn mọi da đỏ. Tự tôn dân tộc, tự ái quốc gia là một thực tại trường cửu, cho nên dù cùng theo một chủ nghĩa, người cộng sản bên này biên giới vẫn gườm súng thủ thế với đồng chí bên kia biên giới. Hơn thế nữa, khi do một nguyên nhân riêng, những người cùng chủng tộc chém giết nhau, người ta vẫn thường trấn an lương tâm bằng cách gán cho người đồng bào là tay sai ngoại bang, nghĩa là không còn đáng được cư xử như một kẻ đồng giống nòi (một bên bị gọi là tay sai đế quốc Mỹ, một bên bị gọi là tay sai đế quốc đỏ Nga Tàu). Lòng tự tôn quốc gia đã là một thực tại trường cửu thì biên giới quốc gia, muôn ngàn Nhạn môn quan, càng được phòng thủ cẩn mật. Sức người khó có thể xô ngã hay chui qua lọt. Họa hoằn chỉ có thể lọt qua được là những loài chim. Tiêu Phong lớn lên, nuôi dưỡng trong truyền thống, mê hoặc bởi huyền sử, căm hận đến tận xương tuỷ bọn Khất Đan độc ác, và hãnh diện là người Hán. Ông ở xa biên giới quá, nên không thể thấy được những thực tại Nhạn môn quan. Phải chờ đến lúc vì vấn đề chủng tộc, ông bị truất ngôi bang chúa, Tiêu Phong mới trở về Nhạn Môn quan để thấy rõ thực tại phân tranh. Ông đã thấy gì? Trên Nhạn môn quan chất ngất, mây phủ chập chùng, không khí thanh khiết và yên tĩnh thần tiên. Ở cõi cao nhìn xuống nhân gian, chắc chắn mọi sự trở thành bé nhỏ tầm thường mà dễ thương như đồ chơi con nít: từ một khoảng vườn hẹp, một mái nhà nhỏ, một cánh đồng xanh. Nhưng Tiêu Phong về lại đây với một nỗi hận trùng trùng. Ông thắc mắc: Có phải mình là người Khất Đan không? Khất Đan có tàn ác không? Người Hán có đẹp như huyền sử không? Thực tại đã trả lời: “Trong lúc Tiêu Phong đang băn khoăn nghĩ ngợi, bỗng nghe thấy có tiếng trẻ con khóc. Ông giật mình như người trong giấc mơ, tự hỏi: Tại sao lại có trẻ nít khóc? Kế đó, ông lại nghe thấy tiếng đàn bà lanh lảnh, liền thò đầu trông ra để xem cho rõ thì thấy bọn quan binh nhà Đại Tống tên nào cũng cướp đêm về một vài người đàn bà con nít. Bọn người bị bắt đều mặc quần áo Khất Đan theo kiểu chăn trâu bò. Nhiều tên quan binh nhà Đại Tống đưa tay sờ nắn vào những người đàn bà con gái Khất Đan trông rất bỉ ổi và khả ố. Người đàn bà nào kháng cự là bị quan binh đánh đập… Đột nhiên một đứa con nít đang ngồi trong lòng mẹ khóc thét lên. Người mẹ Khất Đan hất tay tên quan binh Đại Tống ra, quay lại gọi đứa nhỏ đang khóc. Tên quân cả giận, nắm lấy đứa nhỏ quật xuống đất, rồi cho vó ngựa xéo lên mình. Lập tức ruột gan đứa nhỏ lòi ra, Người đàn bà Khất Đan sợ, mặt xám ngắt, muốn khóc mà không khóc thành tiếng. Cả bọn quan binh xúm lại cười rộ… Lũ quan binh này đi qua rồi thì lại một toán hơn mười tên khác la ó đi tới. Toán quan binh Đại Tống này cũng đều cưỡi ngựa, tay cầm đao dài giơ lên. Đầu mũi đao đều có bêu một cái thủ cấp máu chảy đầm đìa. Khúc đuôi một con ngựa có buộc quãng dây dài trói năm người đàn ông Khất Đan. Cách ăn mặc những người Khất Đan này cũng toàn là hạng bình dân chăn trâu bò. Hai người đã già lắm, đầu tóc bạc phơ, còn ba người nữa là thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi. Tiêu Phong hiểu ngay: Khi thấy quan binh Đại Tống đến ăn cướp, bọn tráng niên Khất Đan khỏe mạnh đều chạy thoát nên lũ quan binh chỉ cướp được những người già nua yếu đuối và đàn bà trẻ con đem về." (trang 182, 183 quyển 2) Cảnh ấy khiến Tiêu Phong hết còn hãnh diện là người Tống. Ông thành thực thú nhận với A Châu trên Nhạn môn quan là ông hãnh diện được làm người Khất Đan. Tiêu Phong không giữ được lâu niềm kiêu hãnh ấy. Lần thứ nhì lên Nhạn môn quan, Tiêu Phong được mục kích một cảnh khác: “Ông thấy đội quân binh Khất Đan ước chừng dư tám trăm người trên lưng ngựa chất đầy vải lụa cùng đồ vật, và số người bị bắt cũng đến dư tám trăm, phần đông là con gái ít tuổi, và một số trai tráng. Họ đều mặc y phục người Tống, ai nấy khóc lóc kêu gào, vẻ mặt cực kỳ buồn thảm… Ngày trước Tiêu Phong đến ngoài ải Nhạn môn quan chính mắt ông đã trông thấy bọn quan binh nhà Đại Tống hiếp đáp nhân dân Khất Đan, lần này ông lại thấy binh Khất Đan đi bắt con dân Đại Tống. Vẻ mặt của những người bị bắt bữa nay cũng sầu khổ chẳng khác gì những người Khất Đan bị bắt ngày nọ." (trang 263, 264 quyển 3) Trong những tên quân Đại Tống bỉ ổi khả ố với đàn bà Khất Đan, có thể sau này nhiều người trở thành anh hùng bảo vệ biên cương bờ cõi. Cũng như nếu một trong số 800 tên Khất Đan thảo khấu rủi ro bị chết, hắn sẽ được long trọng quốc táng, vì VỊ QUỐC VONG THÂN. Đó là bản chất của mọi huyền sử, cũng như vẻ mặt sầu khổ của những người dân Tống lẫn bọn bình dân chăn trâu bò Khất Đan là bản chất của lịch sử nhân loại. Sâu bên trong các kinh kỳ, bên trong các tuyên ngôn huấn từ, bên trong các sách sử yếu dành cho quần chúng, ý niệm quốc gia và sự duy trì niềm tự tôn chủng tộc đủ chất men khích động đám đông, để họ sẵn sàng tham dự vào tất cả mọi mưu đồ. Nhưng người đứng trên những Nhạn môn quan phải là những người sáng suốt. Cái nhìn của Tiêu Phong là cái nhìn của chim nhạn chim hồng: “ (Gần Nhạn môn quan), là một khu đồng ruộng bát ngát hoang vu, lúa má cùng cỏ dại mọc chen nhau, chỗ nào cũng đầy chông gai vì lâu ngày không người đi lại. Tiêu Phong nghĩ thầm: - Người Tống vì sợ Khất đan đến đây cướp lương thảo nên đành bỏ hoang mấy trăm vạn khoảng ruộng tốt này. Mỗi một khoảng ruộng này đều nuôi nấng được bao nhiêu sinh linh. Họ đã tốn bao nhiêu huyết lệ mới làm thành ruộng tốt như vậy...” (trang 274 quyển 8) Từ trên cao nhìn thấu được niềm vui nỗi buồn của một bác tiều phu người Tống, ao ước thái bình, để hằng ngày đem củi xuống chợ đổi nồi gạo trách mắm, nhìn thấu được màu xanh huyền diệu của một đọt cỏ, màu vàng ửng của trái chín, sắc vàng mênh mông của mùa. Nhìn được như vậy, Tiêu Phong mới sa vào niềm băn khoăn chưa từng có nơi mọi người Tống và mọi người Khất Đan. Thân thế đặc biệt của ông đưa ông đến một vị trí đặc biệt buộc ông nhận một thân phận đặc biệt. NỖI BĂN KHOĂN CỦA TIÊU PHONG Sự thức tỉnh đưa đến những hậu quả không mấy may mắn. Ông trở thành người cô đơn, xa lạ với đồng loại từ lúc ông tự hỏi: - Làm sao đã là người cả lại còn phân chia làm người Khất Đan, người Đại Tống, rồi Nữ Chân, người Cao Ly… Bọn người bên này sang bờ cõi nước kia để kiếm lương, rồi bọn người bên kia lại qua đất bên này để giết người đốt nhà? Người bên này mắng người bên kia là CON CHÓ LIÊU, người bên kia mắng lại người bên này là CON HEO TỐNG. (Trang 271 quyển 3) Hay xa hơn nữa, từ khi ông dùng trực giác và sự tha thiết đến tình người để phân biệt phải trái, chân nguỵ trong lời kể chuyện Nhạn môn quan của Trí Quang đại sư. Trí Quang kể lại cuộc phục kích quân Khất Đan mấy mươi năm về trước để giải thích thân thế Kiều Phong: “ Thủ lãnh đại ca thấy quân Liêu cẩu đến gần liền hú lên một tiếng dài để ra hiệu. Sau các tảng đá lớn, ám tiễn tới tấp bay ra: nào cương tiễn, nào tụ tiễn, nào phi đao, nào thiết chuỳ đều tẩm thuốc kịch độc. Bỗng nghe những tiếng oai oái vang dậy, cả bọn Liêu cẩu nhốn nháo, ngã ngựa đến quá nửa. Lúc nầy tôi đã đếm được rõ ràng bọn võ sĩ Khất Đan có mười tám tên cả thảy, mười một tên trúng ám khí, thế là chỉ còn bảy tên. Chúng tôi liền nhất tề xông ra khoa đao lên chém giết một lúc sạch cả, không còn một mống chạy thoát. (Trang 139, 140 quyển 1) Nghe xong cuộc thắng lợi vẹn toàn này, do lòng tự ái quốc gia, nhiều người trong Cái bang hoan hô nhiệt liệt. Bọn chó Liêu dĩ nhiên tàn ác như dã thú , giết được càng nhiều càng tốt. Vậy mà các bậc tiền bối anh hùng đã giết sạch trong chớp mắt mười tám tên chó chết. Quần chúng nhiệt liệt tán thưởng, giống như khán giả vỗ tay khi thấy quân biên phòng da trắng giết sạch cả bộ lạc da đỏ, giống như độc giả nhật báo vui mừng đọc tin thắng trận ở Sơn Mỹ: Lực lượng đồng minh Hoa Kỳ thuộc sư đoàn Americal phối hợp với không quân và pháo binh, đã tấn công vào một làng chiến đấu phòng thủ kiên cố của cộng quân sáng ngày 16-3-1968 vừa qua. Giao tranh diễn ra ác liệt suốt buổi sáng và xế trưa. Kết quả: 128 xác địch đếm được tại trận, 13 tình nghi bị bắt giữ và 3 vũ khí bị tịch thu. Nhưng sau những vui mừng đột khởi ban đầu, một hai tháng hay một hai năm sau, phải có những hoài nghi nhân bản: Tại sao 128 tên địch bỏ xác tại trận mà quân bạn chỉ tịch thu được có 3 vũ khí? Chính câu hỏi này đã đưa đến vụ án thời danh Calley. Đoàn Dự và Tiêu Phong khi nghe Trí Quang đại sư kể chuyện, cũng có những hoài nghi tương tự. Tiêu Phong thầm hỏi: Đại sư vừa nói bọn võ sĩ Khất Đan này tất được tuyển chọn rất kỹ mà sao chỉ trong khoảnh khắc, chúng đã bị giết hết. Đó là những băn khoăn xuất phát từ lòng nhân đạo, đòi phân biệt người dân vô tội chịu đựng lịch sử và kẻ chiến đấu. Bên kia Nhạn môn quan, chưa phải là vùng oanh kích tự do, nên cả hai con người chí tình Đoàn Dự và Tiêu Phong đều tỏ vẻ hoài nghi, trong lúc quần hào vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Tuy nhiên sự thức tỉnh chỉ mới bắt đầu, nên Tiêu Phong chưa dám có thái độ nào. Ông vẫn im lặng, nghe Trí Quang đại sư kể tiếp: Chúng tôi đành ỷ bên mình đông người xúm lại uy hiếp, sáu bảy người nhảy xô lại tấn công gã đàn ông và bốn năm người xúm lại đánh thiếu phụ, Không ngờ thiếu phụ này chẳng biết chút võ nghệ nào. Vừa bị chém một đao, cánh tay nàng đã đứt lìa mình. Thiếu phụ bồng con té nhào xuống đất. Một người khác bồi thêm phát nữa hớt mất nửa đầu nàng. Gã đàn ông tuy võ nghệ cao cường nhưng bị bảy tám cao thủ vây đánh thì còn tài nào có thể rảnh tay giải cứu cho vợ con. Mấy chiêu đầu gã chỉ dùng thủ pháp kỳ dị cướp lấy vũ khí chúng tôi, chứ không chém giết ai. Nhưng khi thấy vợ con bị giết rồi thì mắt gã đỏ ngầu, vẻ mặt hung dữ trông mà phát khiếp. Gã người Liêu tưởng đã giết hết bọn cường địch liền chạy lại bên thi thể vợ, ôm lấy thây nàng khóc rống lên, tiếng khóc cực kỳ bi thảm. Tôi nghe tiếng khóc không khỏi mủi lòng. Thì ra tên Liêu cẩu này ác như quỷ, dữ như dã thú mà hãy còn nhân tính. Giọng khóc bi ai của gã tưởng chẳng kém gì người Hán chúng ta. (trang 141 quyển 1) Hoá ra chính Trí Quang đại sư cũng thức tỉnh như Tiêu Phong, Đoàn Dự. Đại sư hơi có chút kinh ngạc, thú nhận tiếng khóc Khất Đan không khác mấy với tiếng khóc Đại Tống. Triệu Thiền Tôn, một cao thủ cũng tham dự vào trận phục kích ấy nói: - Loài dã thú còn có thâm tình giữa cha con và vợ chồng vị tất nó đã thua loài người. Thế thì người Khất Đan cũng là người, người Hán cũng là người, sao nó lại không thương xót bằng người Hán? Mọi người nghe Triệu Thiền Tôn nói đều la ó phản đối, Triệu Thiền Tôn chỉ cười nhạt không đáp. Nụ cười khinh miệt ấy khai ngộ cho Tiêu Phong, con người bị xâu xé giữa cuộc phân tranh khốc liệt về chủng tộc. Không một chút do dự ông tự vạch cho mình một lý tưởng: cố gắng xoá bỏ hận thù giữa các quốc gia chủng tộc, nhìn con người không qua lòng tự ái tự tôn tích luỹ lâu đời do âm mưu chính trị, mà qua tình thương giữa người với người. Con người ra đời với đôi má hây hây bụ bẩm, và đôi mắt trong sáng đen nháy, lớn lên trong tiếng nô đùa hồn nhiên, vào đời hệ luỵ với tình cha mẹ, tình vợ chồng, tình tương thân hàng xóm láng giềng, tình quê hương quyến luyến, từ một cổng làng một bụi tre, một hòn đá bên đường, một cây đa cỗi, con người nguyên vẹn niềm vui và nỗi buồn, dù phút vui phù phiếm mà buồn da diết, vẫn được quyền sống nốt cho hết khoảng thời gian thiên phú. Sự thực phân tranh, cùng với bản tính chân thực chí tình, đã giúp Tiêu Phong ngộ đạo, Từ TỰ GIÁC, ông bắt đầu GIÁC THA. TIẾNG GẦM CỦA CON HÙNG SƯ Không phải bằng những bài kệ. Không phải bằng những câu quát tháo phẫn nộ nơi cửa miệng các vị thiền sư. Là một cao thủ võ lâm, Tiêu Phong có một lối khai ngộ riêng của con nhà võ. Những vấn nạn khai ngộ của ông liên quan đến võ học, đã thức tỉnh từ một vị tăng Thiếu Lâm cho đến đám đông kiếm khách. Có thể có nhiều lối khai ngộ khác. Như bài kệ Trí Quang đại sư viết cho Tiêu Phong trước khi viên tịch: Chúng sinh đều một cuộc Vạn vật thế bình quân Thánh hiền hay súc loại Thảy tới chỗ đồng nhân Khất đan với Hán nhân Bất luận giả hay chân Ân oán cùng vinh nhục Không hơn đống bụi trần Đã thức tỉnh đầu óc những kẻ mang nặng thành kiến, oán thù, khiếp sợ trên cái thế chông chênh ở Nhạn môn quan. Nhưng Tiêu Phong chọn một lối khai ngộ thích hợp với đối tượng: khai ngộ bằng võ học. Điều đó không có gì ngạc nhiên, vì triết lý của sự sống không hạn hẹp trong các suy niệm nghiêm túc về vũ trụ, nhân sinh, mà bàng bạc trong lời chim sớm, nụ cười trẻ thơ, trăng tròn rồi khuyết, bèo hợp rồi tan. Vậy thì tại sao lại không có thể tìm thấy một lẽ sống, một hướng đi trong cách sử một chiêu kiếm, vung một đường quyền, luyện một nội lực. Lấy võ để khai ngộ là đã vượt qua được cái chấp đầu tiên: trọng lý thuyết và các suy niệm thuần lý, xem nhẹ sinh hoạt bình thường của thực tại. Nhờ vậy, cách giác tha của Tiêu Phong đã thức dậy niềm băn khoăn trong mọi người, khiến họ xao xuyến bàng hoàng, đặt ngược vấn đề, tra hỏi về những điều lâu nay tưởng là chân lý vĩnh cửu. Con hùng sư giữa đám quần hùng đã dùng tiếng gầm của võ công để giác tha. Trước hết, ông thức tỉnh tăm tối cho một kẻ tưởng đã xoá hết hình sắc, ý thức vô thường: nhà sư Huyền Tịch. “Lúc này, đôi bên cùng sử dụng toàn Thái tổ trường quyền, ngoài việc so bì các võ công cao thấp, không còn chỗ nào để nhiếc móc nhau nữa. Huyền Tịch thấy Huyền Nạn chỉ trong chớp mắt là nguy hiểm đến tính mệnh, không nói nữa, phóng véo một chỉ ra, điểm huyệt tuyệt kỹ này của phái Thiếu Lâm gọi là Thiên Trúc Phật Chỉ. Tiêu Phong thấy Huyền Tịch phóng chỉ điểm ra, vừa nghe tiếng vù vù rất nhỏ nhẹ, đã nói ngay: - Lâu nay tôi vẫn ngưỡng mộ ngón Thiên Trúc Phật Chỉ quả nhiên lợi hại. Nhưng ngón này là võ công của người Hồ bên Thiên Trúc mà đại sư đem ra để đấu với huyền phát chính tông của Đức Thái Tổ bản triều, thì dù đại sư có thắng được tôi, há chẳng mang tiếng là kẻ thông Thiên bán nước, làm nhục cho bản triều ư? Huyền Tịch vừa nghe, bất giác rùng mình. Hôm nay quần hùng sở dĩ đến đây vây đánh Tiêu Phong vì ông là giòng giống rợ Hồ nước Khất Đan. những môn phái võ Thiếu Lâm được truyền vào Trung Quốc từ lâu. Các môn phái ở Trung nguyên chẳng nhiều thì ít đều có liên quan đến những môn võ của phái Thiếu Lâm. Mọi người cơ hồ quên lãng mối liên quan giữa người Hồ và phái này. Quần hùng nghe Tiêu Phong nói, ai nấy trong lòng rung động, vì trong các vị anh hùng ở đây, có nhiều nhân vật kiến thức rất rộng, không khỏi nghĩ thầm: Bọn ta đã kính cẩn Đạt Ma Lão Tổ như một vị thần minh mà sao lại căm hận người Khất Đan đến xương tuỷ? Cả người Khất Đan cho chí người Thiên Trúc đều là nói giống rợ Hồ chứ đâu có cùng chủng tộc với mình? Xét cho cùng thì hai giống người này khác nhau xa: người Thiên Trúc trước nay không tàn sát đồng bào Trung quốc, còn người Khất Đan thì tàn ác vô cùng. Như vậy thì không phải cứ thấy người Hồ là giết, mà bên trong còn phân biệt kẻ thiện người ác. Thế thì giòng giống Khất Đan không có ai là người tốt ư? (trang 151, 152 quyển 2) Tiêu Phong lấy ngay cái eo hẹp của lượng người để làm vấn nạn. Người Hán có mặc cảm tự tôn của người Hán, hãnh diện với Thái Tổ trường quyền do vị vua sáng lập ra nhà Tống sáng chế. Từ đó, quần hùng Trung nguyên xem thường bọn tây hồ, bắc địch, nam man, đông di. Bây giờ, trong lúc nguy nan, nhà sư nặng lòng dân tộc mà quên đạo pháp lại đem võ công của người Hồ ra tranh đấu với võ công bản triều, không chú ý đến sự nghịch lý trớ trêu của hành động. Nếu vì muốn thắng Hồ mà phải sử dụng võ công của rợ Hồ, thì làm sao phân biệt được phải trái, đen trắng? Huyền Tịch bất giác rùng mình vì Tiêu Phong đã chứng tỏ cho đại sư thấy sự mê lầm, và hơn thế nữa, đánh đúng được niềm băn khoăn bấy lâu Huyền Tịch chưa tìm ra lối thoát: Làm sao giải quyết được mâu thuẫn quyền lợi dân tộc và đao pháp? Nếu tu sĩ phải đứng trước một hoàn cảnh trớ trêu, một bên là sự tồn vong tối thượng của quốc gia một bên là lý tưởng tôn giáo, thì tu sĩ phải dung hoà thế nào giữa đạo và đời? Huyền Tịch trước hết tự nhận là một đại sư xem tất cả không hơn đống bụi trần hay trước hết là một công dân Đại Tống? Nếu vì quyền lợi của Đại Tống mà mê lầm, Huyền Tịch có quyền tiếp tục mặc bộ áo cà sa. Chỉ có các nhà sư Việt Nam thời Lý Trần mới có quyết định cởi áo nâu cầm gươm giệt giặc, rồi rửa tay gác kiếm, thanh thản trở về dưới cội Bồ đề. Mà cho dù có dứt khoát được như vậy, trên toà sen, Đức Phật cũng không khỏi nhìn nhà sư ái quốc với đôi chút ngậm ngùi . Huyền Tịch bất giác rùng mình, rồi từ đó cập thuyền vào bến Giác. Sau đó, Tiêu Phong đặt câu hỏi khai ngộ rõ ràng hơn cho đại sư Huyền Độ: “Đột nhiên Tiêu Phong hỏi: - Huyền Độ đại sư, gia gia tại hạ (chỉ Tiêu Viễn Sơn, người Khất Đan, cha của Tiêu Phong, bây giờ đang tu ở chùa Thiếu Lâm) ở quí tự có mạnh giỏi không? Huyền Độ sửng sốt đáp: - Lệnh Tôn đã quy y, vào thanh tu trong hậu viện chùa Thiếu Lâm. Lúc bần tăng đi Nam Kinh, không muốn đến chào lệnh tôn để khỏi bận lòng trần tục. Tiêu Phong nói: - Tại hạ muốn gặp gia gia để hỏi người một câu. Huyền Độ hắn giọng một tiếng chưa nói gì, thì Tiêu Phong lại tiếp: - Tại hạ muốn hỏi gia phụ: Nếu Liêu binh đến đánh chùa Thiếu Lâm, thì người xử trí ra sao? Huyền Độ đáp ngay: - Bần tăng nghĩ rằng dĩ nhiên cư sĩ sẽ giết địch để bảo vệ Phật pháp. Tiêu Phong nói: - Nhưng gia phụ là người Khất đan, chẳng lẽ lại vì người Hán mà giết người Khất đan ư? Huyền Độ trầm ngâm một chút rồi nói: - Bang chúa (chỉ Tiêu Phong) quả là người Khất đan mà bỏ chỗ tối để theo chỗ sáng, thật là đáng kính phục. Tiêu Phong nói: - Đại sư là người Hán thì nghĩ người Hán sáng mà người Khất Đan tối. Tại hạ người Khất đan cũng tưởng Đại Liêu sáng còn Đại Tống tối, Tổ tiên tại hạ bị giống người Yết tàn sát, lại bị người Tiên ti hà hiếp cực kỳ khốn khổ, chạy hết chỗ này đến chỗ khác. Đời nhà Đại Đường, người Hán võ công cực thịnh, đã giết không biết bao nhiêu là dũng sĩ, cướp bao nhiêu là phụ nữ Khất đan. Bây giờ đời Tống, võ công người Hán kém cỏi, nên lại bị người Khất Đan tàn sát. Hai bên thù oán đời đời biết bao giờ mới hết? (trang 337, 338 quyển 8) Huyền Độ lẳng lặng một lúc, rồi cất tiếng niệm Phật nghĩa là bất đầu nhận thức được lẽ sắc không, vượt qua những cố chấp về kỳ thị chủng tộc và tự ái quốc gia. Sự thức tỉnh của một đại sư ngộ đạo đưa tâm hồn người đến chỗ sáng suốt, nên có thể Huyền Độ đại sư lâm râm niệm kinh Kim Cương hay Viên Giác. Nếu tất cả đều ngộ tự nhiên thiên hạ sẽ thái bình. Mọi người sẽ thành thật thương yêu nhau, tôn trọng lẽ sống và quyền tự do tối thượng, đề cao nhân phẩm. Khổ nỗi tôn giáo chỉ là cái mộc tự vệ, an ủi của kẻ yếu, khi chưa giải quyết được sự bất công. Khi chưa giải quyết được nguồn nheo nhóc trên địa hạt hữu hình cụ thể, khuynh hướng giải thích siêu hình để con người chấp nhận thực trạng khốn khó gần giống như sự làm ngơ, thoả hiệp. Chính đó là nguyên nhân sự lúng túng thụ động của Thiếu Lâm trước những vấn nạn cấp thiết đòi hỏi một giải pháp cấp thời, nhãn tiền. Nhiều lúc các đại sư lại còn hiện diện cho kẻ khác lấy cớ hành động mê muội. Quần hào Cái bang truất ngôi bang chúa của Kiều Phong, các đại sư Thiếu Lâm có mặt để đóng vai chủ toạ. Quần hào Trung nguyên tụ họp ở Tụ hiền trang, để xếp đặt kế hoạch tiêu diệt một người chỉ có mỗi cái tội làm người Khất đan, các nhà sư vẫn sẵn sàng tham dự. Với uy tín cao cả môn phái được xem là võ lâm bắc đẩu, nếu các vị sư Thiếu lâm muốn hoà giải giữa hai dân tộc Liêu Tống, muốn ngăn cản một cuộc đổ máu vô ích, muốn giác ngộ kẻ đại ác, muốn bảo vệ công lý, thì hoài bão đó có thể thực hiện được dễ dàng. Ở đây, họ không làm gì hết, chỉ nhìn mọi diễn tiến kỳ quặc của đời sống thế tục với nhãn quan siêu hình. Cho nên Tiêu Phong đã khai ngộ cho các thiền sư, mà sự tranh chấp đố kỵ giữa hai dân tộc láng giềng vẫn không giải quyết được. Những âm mưu tranh bá đồ vương vẫn tiến hành, và tiến hành ngay dưới mái chùa Thiếu Lâm: Mộ dung Bác âm mưu phục hưng cho Đại Yên, Tiêu Viễn Sơn âm mưu thu thập tinh tuý võ học của Trung nguyên cho quyền lợi ưu thắng của Đại Liêu. Chính Mộ Dung Bác hùng hồn chứng minh rằng sở dĩ mình hùng hồn phao vu cho Tiêu Viễn Sơn, chỉ vì muốn gây hiềm khích giữa Liêu Tống. Hai nước giao tranh, họ Mộ Dung mới có thể nhân cơ hội phục hưng nhà Yên. Ngay dưới mái chùa Thiếu Lâm, Mộ Dung Bác đề nghị với Tiêu Phong: “- Nếu nhà Mộ Dung dựng cờ khởi nghĩa dấy quân vào cướp Sơn Đông, mà được Đại Liêu hưởng ứng, đồng thời mấy nước Thổ phồn, Đại Lý cùng Tây Hạ cũng đứng lên thì năm nước chúng ta chia cắt nhà Đại Tống không phải là chuyện khó. Nước Yên của tại hạ không dám động chạm đến một tấc đất của Đại Liêu. Nếu công cuộc phục hưng thành tựu thì chỉ lấy đất Nam triều. Vụ này rất có lợi cho Đại Liêu, sao Tiêu huynh lại không vui lòng cử sự? Tiêu Phong nghiêm nghị nói: - Mối đại thù giết mẹ đâu có thể đem ra làm chuyện mua bán? Báo được thù thì báo, cha con ta chịu chết nơi đây. Những chuyện tham lam hèn hạ, cha con họ Tiêu này đâu có thể làm được. Mộ Dung Bác ngửa mặt lên trời cả cười rồi lớn tiếng nói: - Ta thường nghe nói Tiêu Phong đại hiệp là tay anh hùng quán thế kiến thức phi thường. Dè đâu bữa nay mới thấy rõ y là kẻ không hiểu đại nghĩa mà chỉ sính cường theo cái dũng của kẻ thất phu. Ha ha! Thiệt là đáng tức cười. Tiêu Phong biết lão dùng lời nói khích, lạnh lùng nói: - Tiêu Phong là anh hùng hào kiệt cũng được mà là phàm phu tục tử cũng được, nhưng không thể để kẻ khác dùng làm cái bung xung cho thoả tâm nguyện của họ. Mộ Dung Bác nói: - Kẻ ăn lộc vua phải biết trung quân mà đại hiệp lại nghĩ đến tư cừu của cha mẹ, không đem lòng tận trung báo quốc, há chẳng bất nghĩa với Đại Liêu? Tiêu Phong tiến lên một bước hiên ngang nói: - Ngươi vừa mới nói ngoài biên cương hai nước Tống Liêu thù hận giết nhau gây nên thảm trạng. Ngươi đã thấy cảnh người Tống và người Liêu chia lìa vợ con nhà tan người chết rồi chớ gì? Hai nước Tống Liêu bãi cuộc binh đao mấy chục năm xâm lấn Nam triều, rồi sẽ có bao nhiêu người Tống phải phơi thây? Bao nhiêu người Liêu phải uổng mạng? Cuộc chiến chinh thảm khốc trên thế gian này ai là người nắm chắc được phần thắng? Nhà Đại Tống binh nhiều lương đủ, chỉ cần mấy viên đại tướng hết sức chống cự thì nước Đại Liêu và nước Thổ Phồng có hợp lực chiến đấu mà thắng được cũng phải máu chảy thành sông, thây chất thành núi, để cho họ Mộ Dung nhà ngươi thừa cơ phục hưng Yên Quốc. Việc kiến công lập nghiệp cần phải giữ đất yên dân như thế sao? (trang 225, 226 quyển 7) Tiêu Phong nhìn con người như nhìn một sinh vật tối thượng không thể nhân danh bất cứ điều gì, đưa ra bất cứ chiêu bài nào để hành hạ huỷ diệt. Dù biên giới có là sông rộng nước chảy tràn hai bờ xa lạ hay là những ngọn núi chất ngất đi lại khó khăn, bên này Nhạn môn quan và bên kia Nhạn môn quan, Tiêu Phong chỉ thấy những người dân sống trọn vẹn liên kết với tình cha mẹ vợ chồng anh em láng giềng, hệ luỵ với đất đá cây cỏ ruộng nương. Ngược lại, Mộ Dung Bác chỉ xem con người như một phần tử của cộng đồng thuần nhất bởi nòi giống quyền lợi vì vậy chịu tất cả những áp lực của gánh nặng của áp lực tinh thần, siêu hình, kinh tế, văn hoá. Con người, theo Mộ Dung Bác chỉ xứng đáng tồn tại nếu chịu tuân theo những quy luật có lợi cho cộng đồng, thích hợp với guồng máy chung. Những lời tâm huyết của Tiêu Phong đã thức tỉnh được phần nào Mộ Dung Bác, kẻ chỉ mới mơ ước vươn tới chiếc vương miện uy quyền. Mộ Dung Bác chưa mắc kẹt trong mê hồn trận của sức mạnh uy quyền, chưa đạt danh vọng nên có thể tha làm phúc. Nhưng Tiêu Phong đã thất bại khi muốn can gián một ông vua tại vị dấn mình vào cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi: Gia Luật Hồng Cơ. Tiêu Phong không làm gì được để ngăn cản cuộc nam chinh của hoàng đế Đại Liêu, đành liều thân uy hiếp Hồng Cơ để bắt thề độc là từ nay về sau không bao giờ có ý định xua quân vượt qua Nhạn môn quan. Sau hành động tuyệt vọng ấy, Tiêu Phong chỉ còn một ngõ cụt: cái chết. Đối với Đại Liêu, Tiêu Phong hết còn đất sống, vì đã dám bức bách hoàng đế. Đối với Đại Tống, trước sau ông cũng chỉ là một kẻ xa lạ không thể hoà đồng vào cuộc sống chung của Hán tộc. Kẻ muốn làm kiếp chim, bay bổng lên trên, xoá hết ranh giới nhỏ hẹp để sống theo tình người, kẻ muốn Nhạn môn quan hạ thấp và nâng cao thương yêu, liên đới nhân loại, không thể nào có đất đứng giữa xã hội này. Ông chỉ còn có cách tự vẫn, để cho vó ngựa Khất đan không vượt qua ải. Ông đã thành công một cách tuyệt vọng: “Vó ngựa lộp cộp vang lên một lúc, hàng vạn nhân mã nước Liêu vừa đi vừa ngoảnh cổ lại nhìn thi thể Tiêu Phong nằm thẳng dưới đất ra chiều thương cảm. Trên vòm trời, tiếng chim líu lo gọi nhau. Một đàn hồng nhạn vượt qua đầu đoàn quân Liêu từ phía bắc xuống phía nam lại vượt qua bức tường thành Nhạn môn quan rồi bay mãi đi. Quân Liêu đi mỗi lúc một xa, tiếng vó ngựa dần dần biến thành những tiếng sấm rền khe khẽ phía sau núi. (trang 354 quyển 8) Cuối cùng, vượt qua được biên giới quốc gia, chỉ có loài chim. Loài người hai chân dính chặt vào đất bùn lầy, lòng đầy thành kiến và hận thù, hai tay với mãi không tới được dự ước, làm sao ngông cuồng bắt chước Tiêu Phong? Lục Mạch Thần Kiếm chấm dứt với tiếng thở dài của Kim Dung và lời ríu rít líu lo chế diễu của một loài chim. C H Ư Ơ N G I I Những bước vô chiêu của Lệnh Hồ Xung THỰC TRẠNG PHÂN HÓA CỦA CÁC CHÍNH PHÁI Đến bộ truyện Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung hết sức bi quan khi nhận định về chính phái. Thực trạng phân hoá không những phát sinh giữa phái khác, mà còn manh nha rồi phát tác trầm trọng tạo cảnh nồi da nấu thịt giữa các kiếm khách cùng một phái với nhau. Trong phái Hoa Sơn, có một mối thù truyền kiếp giữa phe khí tông và kiếm tông đến độ Nhạc Bất Quần thà mất một tên đệ tử tài ba còn hơn thấy hắn trọng kiếm hơn trọng khí. Dù Nhạc Bất Quần có che giấu, cái quá khứ đẫm máu của cuộc tương tàn giữa hai phe Hoa sơn vẫn làm cho mọi người trong võ lâm rùng mình. Trong phái Hành Sơn, do tính tình khác biệt, gia cảnh sang hèn, vẫn có sự hiềm khích âm ỉ giữa Mạc Đại tiên sinh và Lưu Chính Phong. Lúc Tung Sơn âm mưu bức tử Lưu Chính Phong, Mạc Đại tiên sinh không ra tay viện trợ. Mãi về sau, khi biết chắc chắn Lưu Chính Phong sắp chết, Mạc Đại tiên sinh mới quyết định giết Phí Bân. Người đọc có thể xem đó là hành động cuối cùng của một chưởng môn chính phái để chuộc lỗi kẻ sắp lìa đời, tự xoá hết mọi mặc cảm tội lỗi để thảnh thơi hưởng hết cuộc đời thừa. Trong phái Thái Sơn, trên Phong thiền đài, chính sư thúc của chưởng môn là Ngọc Cơ Tử đã giết chết chưởng môn là Thiên Môn đạo nhân. Đến lúc Ngọc Cơ Tử trở thành phế nhân cụt cả hai tay, thì Ngọc Khánh Tử lại tranh giành chức chưởng môn Thái Sơn với Ngọc Âm Tử, làm trò cười cho hàng nghìn người cả chính lẫn tà. Sự phân hoá đó bắt nguồn ngay trong bản chất các phái thuộc phe chính. Hầu hết danh môn chính phái đều là những kết tập cục bộ. Mỗi phái vì cùng một nguồn gốc võ học, tự họp nhau lại thành một nhóm người có tổ chức. Trên có chưởng môn, truyền lưu theo võ công, giữ bí quyết tuyệt học của môn phái. Sau đó, theo trình độ, phân chia địa vị huynh đệ. Bản chất của môn phái là sự độc lập, tự tồn. Lý tưởng của võ lâm là làm thế nào để mỗi phái được tồn tại lâu dài ở một địa phương riêng biệt không xâm phạm quyền lợi khu vực của nhau. Đào Hoa Tiên tuy không được bình thường về thần kinh, nhưng nhờ Doanh Doanh, mớm lời đã nói rất đúng thực trạng chia rẽ ngay trong cách tạo lập các chính phái: "Ngũ Nhạc kiếm phái hợp nhất thì được, nhưng năm trái núi Thái Sơn, Hành Sơn, Hoa Sơn, Hằng Sơn và Tung Sơn lại ở năm phương vị khác nhau: đông, nam, tây, bắc, trung, thì làm sao hợp liền vào một khối được? Tả Lãnh Thiền đâu phải đức Thượng đế có quyền di sơn đảo hải để chụm năm tòa núi lớn này vào một chỗ." (trang 2042 quyển 2) Vì được tạo thành trong tinh thần cục bộ địa phương và muốn duy trì trạng thái biệt lập về quyền lợi và bổn phận, nên giới luật của chính phái có chủ ý duy trì trật tự cố hữu, bảo vệ nguyên trạng. Ngay cả hai phái võ uy tín về phương diện đạo đức là Võ Đang và Thiếu Lâm cũng có một thái độ thiếu dứt khoát đối với thực trạng bất công bóc lột tàn nhẫn của xã hội. Chính phái thường làm ngơ trước bất công, gian tà, hay nếu có thái độ, chỉ là một thái độ hoà hoãn, gần như khuyến khích. Chính phái thường hô hào bảo vệ một thứ tôn ti trật tự có lợi cho thiếu số đặc quyền. Chúng ta cứ lấy thất giới của Hoa Sơn làm bằng chứng. Trong lễ bái sư của Lâm Bình Chi, Nhạc Bất Quần uỷ nhiệm cho Lệnh Hồ Xung long trọng tuyên đọc bảy điều giới của môn phái. Lệnh Hồ Xung liền nói: “Lâm sư đệ hãy nghe đây. Nhất giới của bản phái là lừa thầy diệt tổ, bất kính tôn trưởng. Nhị giới là ỷ mạnh hiếp yếu, gia hại kẻ vô tội. Tam giới là gian dâm hiếu sắc, trêu cợt phụ nữ. Tứ giới là đồng môn ghen ghét, tàn sát lẫn nhau. Ngũ giới là thấy lợi quên nghĩa, trộm cắp tài vật Lục giới là ngông cuồng tự đại, khinh khi đồng loại Thất giới là giao thông với địch, cấu kết bọn yêu tà. Hoa Sơn thất giới là thế đó. Đã là đệ tử bản môn nhất luật phải thi hành. (trang 464 Tiếu ngạo giang hồ 3) Chúng ta không dám nghi ngờ trí nhớ xuất chúng của Lệnh Hồ Xung nên chắc chắn đây là những giới luật mọi môn phái Hoa Sơn phải thuộc, để làm phương châm cho hành động. Suốt bảy điều răn, chúng ta đã thấy gì? - Điều thứ nhất và điều thứ tư có mục đích bảo vệ trật tự có sẵn trong môn phái. Điều thứ nhất (lừa thầy diệt tổ, bất kính tôn trưởng) nhằm bảo vệ trật tự hàng dọc và điều thứ tư (đồng môn ghen ghét, tàn sát lẫn nhau) nhằm bảo vệ trật tự hàng ngang. Muốn bảo vệ trật tự đó, người lập thất giới đã tiên liệu những ngoại lệ nguy hiểm. - Trước hết phải ngăn ngừa uy quyền của kẻ thật xuất sắc về võ công hay nắm địa vị thuận lợi để lạm dụng chức vụ. Điều hai ngăn ngừa kẻ mạnh hiếp yếu, điều sáu ngăn ngừa kẻ có tài tự cao tự đại. Còn điều ba và điều năm ngăn ngừa những lạm dụng của kẻ nắm ưu thế, lạm dụng tiền tài và tình yêu. - Tuy vậy, điều răn cuối cùng mới là điều quan trọng nhất, đập mạnh vào trí nhớ kẻ nhập môn. Đó là điều giao thương với địch, cấu kết bọn yêu tà. Nếu không bị ám ảnh bởi thù nhà, chắc chắn Lâm Bình Chi không khỏi thắc mắc tự hỏi: Thế nào là địch? Thế nào là yêu tà? Không phải vô tình mà các cao thủ võ lâm sáng lập Hoa Sơn phải dành rất nhiều mơ hồ trong cách định nghĩa chữ ĐỊCH, chữ YÊU TÀ. Sự chừa rất nhiều tự do để suy diễn quy nạp về đối phương có mục đích ngăn ngừa hầu hết, nếu không bảo là tất cả, các ảnh hưởng ngoại lai. Những gì xâm phạm đến trật tự có sẵn, đều có thể bị gắn chữ YÊU TÀ. Những nhân tài dám ra ngoài khuôn khổ có sẵn, có thể bị xem là ĐỊCH. Không biết các giới luật các phái khác trong Ngũ nhạc kiếm như thế nào, chúng ta chỉ xét riêng trường hợp Hoa Sơn, đã thấy thất giới điều này là cái gươm bén dành cho chưởng môn, để giữ vững trật tự, duy trì nguyên trạng, cắt đứt mọi hy vọng hoài bão canh tân cho phù hợp với hoàn cảnh. Như vậy, xét chung, tính chất cục bộ là bản chất của chính phái. Gạt bỏ âm mưu hiệp nhất để làm minh chủ thống nhất võ lâm, chúng ta thấy lập luận của Nhạc Bất Quần ở Phong Thiền đài thật đáng với thực trạng phe chính: "Sự phân tán trên chốn giang hồ trải hàng ngàn năm đã gây ra những vụ thù hằn chém giết không bao giờ chấm dứt. Số bạn đồng đạo võ lâm bị chết uổng không biết bao nhiêu mà kể. Xét cho cùng thì kiếp nạn giang hồ gây ra chỉ vì ý kiến riêng rẽ bè phái. Tại hạ nghĩ rằng nếu khắp võ lâm không còn môn hộ bang phái riêng biệt, thiên hạ biến thành một nhà, ai ai cũng coi nhau như huynh đệ đồng đạo thì những tai nạn huyết kiếp mười phần bớt được chín. Các vị anh hùng hào kiệt đã không phải bỏ mình trong lúc tráng niên thì dĩ nhiên số cô nhi quả phụ trên đời không còn mấy nữa. Đáng tiếc là các môn phái võ lâm tu luyện võ thuật theo những nguồn gốc khác nhau, vì thế môn phái đã có sự cách biệt do những môn võ công gây nên rồi. Như vậy mà bây giờ muốn cho những người luyện võ không phân biệt tôn phái để thành thiên hạ đệ nhất gia là một việc khó khăn không biết đến đâu mà nói." (trang 2046, 2047 TNGH quyển 12) Sau đó, bản chất của chính phái cũng là tính chất bảo thủ. Nó đưa hành động nhân danh phe chính đến ngõ cụt phi lý hoặc biến thiện chí thế thiên hành đạo của họ thành cố chấp, mâu thuẫn. Không có gì nực cười bằng cảnh vì đuổi theo tru diệt tên yêu tà Hướng Vân Thiên, hằng trăm kiếm khách phe chính sẵn sàng kề cận hợp tác với hàng trăm tên yêu tà của ma giáo. Biên giới chính tà không còn nữa rồi, và từ trên trà đình uống rượu với Hướng Vân Thiên, tên lãng tử phiêu bạt Lệnh Hồ Xung nhìn xuống đám người lúc nhúc dưới kia, không thể nhận ra ai là kẻ đáng trọng, ai là kẻ tà ma mà bảy điều răn của Hoa Sơn đã nhắc nhở đến. NỖI BĂN KHOĂN CỦA LỆNH HỒ XUNG Giống như Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung bước chân vào chốn giang hồ là cuộc đời nhọc nhằn tanh tưởi này với một mối băn khoăn. Có được cái quật cường chí tình của Kiều Phong, cộng với sự hoạt bát lãng mạn của Đoàn Dự, thêm vào sự hào phóng liều lĩnh của tên lãng tử, Lệnh Hồ Xung đã được Kim Dung cung cấp cho đầy đủ mọi hành trang để thay mặt ông giải quyết một vấn nạn cấp thiết thời đại. Trương Vô Kỵ vẽ lông mày cho Triệu Minh, chàng công tử cành vàng lá ngọc nước Đại Lý có lẽ cũng đang vẽ lông mày cho Vương Ngọc Yến. Đến lượt Lệnh Hồ Xung, chàng can đảm nhìn thẳng vào vấn đề, không chạy trốn, không tự dựng một màn giả trang để đóng vai đạo tặc hay hiền triết. Lệnh Hồ Xung đã tự nhủ: "Bịt tai để ăn cắp nhạc ngựa là tự dối mình và dối người. Lệnh hồ Xung này khi nào lại hành động thế được" (trang 521 quyển 3) Can đảm và thẳng thắn, Lệnh hồ Xung nhìn thẳng vào anh em và bọn yêu tà, nhìn sâu đằng sau cái mặt nạ lòe loẹt son phấn. Chàng hỏi Lưu Chính Phong của phái Hành Sơn: "Lưu sư thúc, chúng ta tự hào theo đường nghĩa hiệp, thề chẳng chung trời với bọn tà ma. hai chữ nghĩa hiệp đó nghĩa làm sao? Khinh khi người trọng thương, tàn sát một cô gái nhỏ vô tội, có đáng kể là nghĩa hiệp không? (ám chỉ hành động đê hèn của Phí Bân). Khúc Dương thở dài nói: - Những chuyện này bọn ma giáo chúng ta cũng không làm đâu Lệnh Hồ huynh đệ". (trang 420, quyển 5) Qua bao nhiêu chuyện trường giang, Kim Dung vẫn trở lại khởi điểm: làm sao phân biệt được chính với tà để tìm lại niềm tin đã mất nơi một nhà nho hết sức mong muốn tái lập đạo đức, giữ trọn tình người. Hợp tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ giữa Khúc Dương và Lưu Chính Phong chỉ là một trường hợp đặc biệt, một kẽ hở họa hoằn để con người siêu thoát trên vòng thị phi đố kỵ. Tuy giữ được nhạc phổ, Lệnh Hồ Xung lại chưa thể đem cái lý tưởng tốt đẹp của Tiếu Ngạo Giang Hồ thực hiện trong đời, soi sáng ranh giới chính tà. Mà thực ra, đến cuối truyện, độc giả vẫn thấy chưa có ai can đảm vượt lên trên những quyền lợi, những thành kiến và cưỡng chế xã hội như Khúc Dương và Lưu Chính Phong. Thành thử, khúc Tiếu ngạo giang hồ chỉ thoảng đưa đâu đó, thật xa xôi, như một giấc mơ huyền hồ. Trong lúc vẫn còn liên luỵ với các cuộc tranh chấp giữa đời, nỗi băn khoăn của Lệnh Hồ Xung vẫn còn đó: Ai là chính, ai là tà? Chân tiểu nhân hay nguỵ quân tử? Lệnh Hồ Xung không giấu được vẻ do dự trước mặt sư phụ nên Nhạc Bất Quần đã nghiêm trang đặt vấn đề: - Xung nhi, việc này quan hệ rất lớn đến sự hưng suy vinh nhục của phái Hoa Sơn, mà cũng quan hệ đến cả sự yên nguy thành bại của đời ngươi nữa. Ta chỉ hỏi ngươi một câu: Ngươi thấy người ma giáo có ghét như kẻ thù và quyết tru diệt chẳng dung tha không? Lệnh Hồ Xung không biết trả lời thế nào. Gã trân trân nhìn sư phụ đứng ngẩn ngơ ra. Lệnh Hồ Xung vẫn hoài nghi trong dạ. - Sau này nếu ta gặp người trong ma giáo, ta có nên hỏi cho biết rõ phải quấy, hay là hạ thủ giết ngay… Có thật ma giáo chẳng một ai tử tế? (trang 468 quyển 3) Không chịu nổi sự băn khoăn dày vò, có lúc Lệnh Hồ Xung muốn bịt tai lại, nhắm mắt chấp nhận một giải pháp dễ dàng đánh lừa lương tâm: “Phải rồi! Nếu đã là người tốt sao còn gia nhập ma giáo. Nếu họ lầm đường, thì cũng lập tức rút lui mới phải. họ không chịu rút lui tức là cam tâm về phe tà ma để gây hoạ cho người thế gian rồi”. (trang 471 quyển 3) Nhưng bản tính vốn thành thực, Lệnh Hồ Xung chỉ có thể bịt tai làm người điếc trước mặt một tên nguỵ quân tử như Nhạc Bất Quần. Đối với người trung thực như Phong Thanh Dương, Lệnh Hồ Xung nói thật những gì mình nghĩ. Khi đã không còn tin ở người, không thể phân biệt được nguỵ quân tử và chân tiểu nhân, thì chỉ còn một đường lối xử sự là tin ở ta, vì ta. “Lệnh Hồ Xung cười nói: - Đối với kẻ đê hèn vô liêm sỉ cũng phải dùng đến cách đê hèn vô liêm sỉ. Phong Thanh Dương nghiêm sắc mặt hỏi: - Vậy đối phó với bậc chính nhân quân tử thì sao? Lệnh Hồ Xung ngần ngừ nói: - Chính nhân quân tử ư? Đối với chính nhân quân tử ư? Nếu đối phương là bậc chính nhân quân tử mà muốn giết đồ tôn, dĩ nhiên đồ tôn chẳng thể cam chịu chết. Gặp trường hợp bất đắc dĩ thì dù là thủ đoạn đê hèn vô liêm sỉ cũng phải nhẫn nhục dùng vậy, chứ biết làm sao? (trang 615 quyển 4) Đó là lối giải quyết can đảm, dám nhìn thẳng vào vấn đề, không trốn nấp vào chiêu bài hay lý thuyết. Triết học và tôn giáo phiêu lưu qua bao dòng suối dòng sông, cuối cùng cũng chỉ đến được một bến tiêu sơ: trở về lại lòng ta. Là một kiếm khách giữa chốn giang hồ tráo trở, Lệnh Hồ Xung không thể làm gì khác hơn là thành thực lấy mình làm phương châm xử thế. Giữa cảnh náo loạn ồn ào của biết bao thù hằn mưu đồ giành giật, Lệnh Hồ Xung chỉ biết sống theo một lẽ giản dị: trời sinh ta ra sao thì ta sống như vậy, vốn vậy, như nước chảy xuống triền núi thấp, như gió thổi vào khoảng không, nghĩa là dùng đôi mắt trẻ thơ mà nhìn cuộc đời. GIẢI PHÁP CHO CUỘC TRANH CHẤP VÔ CHIÊU THẮNG HỮU CHIÊU Tinh thần ấy hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của Độc cô cửu kiếm: lấy vô chiêu thắng hữu chiêu. Ở Tiếu Ngạo Giang Hồ, Phong Thanh Dương xuất hiện như một bóng ma thoạt đến thoạt đi. Trong võ lâm, người ta đã tưởng vị tiền bối thuộc kiếm tông của Hoa Sơn đã về trời từ lâu. Độc cô cửu kiếm tưởng đã thất truyền, không ngờ vẫn còn đó, ngay trong lòng người. Xưa nay, các cao thủ chạy đi tìm một định chế cho môn phái, thiết lập hệ thống tinh diệu các kiếm thức, tưởng như vậy là đưa võ học tới mức siêu việt. Nhưng họ đâu có ngờ, càng đặt ra nguyên tác luật lệ, con người càng mất hết sự sáng tạo phóng khoáng, nguồn tự do thiêng liêng và đi gần về những cưỡng chế phi nhân. Bây giờ chân lý của Phong Thanh Dương đơn giản lắm: Người sử kiếm pháp chứ không phải kiếm pháp sử người. Những kẻ đầu tiên gầy dựng môn phái, phát minh kiếm thức muốn minh chứng sức mạnh siêu việt của con người, xác định giá trị sáng tạo vốn là niềm hãnh diện của nhân loại giữa vũ trụ chim muông cỏ cây đất đá. Bàn tay này đây biết lấy đá thành vật bén chém đẵn gỗ, bàn chân này đây biết lội qua sông sâu nước lũ và vượt núi hiểm trở chất ngất. Từ rừng hoang con người biến thành đồng xanh. Từ thác ghềnh, con người biết dẫn nước vào ruộng cằn, vào ao nuôi cá, để hơn thế nữa, biết xếp đặt biến chế những cử động vụng về vô nghĩa thành chưởng pháp, kiếm thức. Con đường sáng tác mời gọi những cuộc phiêu lưu không ngừng, chờ đón sự hăm hở, nghĩa là luôn đòi hỏi sự biến hoá. Bản chất đó là cái động, cái tự nhiên. Triết lý gọi nó là dịch. Tôn giáo gọi nó là vô chấp. Mới nghe Phong Thanh Dương nói, ai cũng tưởng đó là những lời phóng nghiệm, phẫn nộ, phủ nhận hết, phủi tay rồi cười ha hả mà đi. Nhưng đọc kỹ hơn, chúng ta mới thấy Kim Dung đã gửi gắm vào đấy tất cả niềm tin, cho đó là lối giải quyết cho mối băn khoăn dày vò tất cả chúng ta. Phong Thanh Dương nói: - Đáng tiếc là bọn họ không hiểu rõ chiêu số là phần tĩnh, người phát chiêu mới là phần động. Chiêu số tĩnh phá giải kỳ tuyệt đến đâu mà khi gặp chiêu số động liền chịu bó tay, thì chỉ còn đường để mặc cho người ta tru lục. Vậy ngươi phải nghĩ luôn luôn đến chữ động. Học và sử đều cần hướng về chiêu số động, nếu cứ ì ra như cục đất thì có thuộc đến hàng ngàn hàng vạn chiêu số tĩnh, mà gặp phải tay cao thủ chân chính là bị họ phá giải sạch sành sanh. (trang599 Tiếu ngạo giang hồ) Phong Thanh Dương dặn thêm: “Nhất thiết ngươi nên thuận theo tự nhiên. Chỗ nào không làm được thì đừng làm. Chỗ nào phải thôi thì thôi ngay. Không thể cho dính liền lại thành một xâu thì bỏ quách. Tóm lại, đừng có chút nào miễn cưỡng”. (trang 601, 602 Tiếu ngạo giang hồ) Đúng là lời thuyết giáo của môn đồ Lão Đam hay Trang Chu. Cái tinh thần trầm mặc mà rộn rã, siêu thoát mà tích cực tham dự, phóng khoáng và bao la của triết lý Hoa nam lồng trong nguyên tắc luyện kiếm. Thái độ sống hợp lý nhất theo Phong Thanh Dương là hoà đồng trọn vẹn vào cảnh ngộ, thích nghi tự nhiên, đến nỗi không còn có lấy một chút câu thúc cưỡng ép nào từ thiên nhiên, xã hội hay bản thân. Quan niệm ấy giống như lời khuyên của Lão: Nếu gặp trời nóng hãy đổ mồ hôi Gặp lạnh thì hãy run lên. hay thấp thoáng trong hầu hết tư tưởng nho gia và đạo gia xưa nay. Sống trong một môi trường hoàn toàn khác, bị đưa đẩy vào những thế đứng bất trắc không lối thoát, Kim Dung vẫn còn giữ được nguyên vẹn truyền thống tư tưởng đông phương. Cái động trong Độc cô cửu kiếm là cái dịch của triết lý. Tất cả đều chuyển vận. Thuận lẽ chuyển dịch là thuận thiên mệnh. Định chế, khuôn mẫu, luật lệ, tập tục… chỉ là những cố gắng vô vọng của xã hội loài người, muốn ôm lấy vầng trăng sáng hay ngăn dòng nước chảy. Quán thông căn bản của Độc cô cửu kiếm là không để tâm bận rộn về những chiêu thức khô cằn mà giữ cho tâm hư, tâm không, thuận tay đưa kiếm, thuận thời đánh ra, khỏi cần lo âu đến công hay thủ. Chiêu thức tự nhiên mà đến như hoa nở mùa xuân, rồi cũng tự nhiên mà tiêu như hoa tàn mùa hạ. Rồi, Lệnh Hồ Xung chưa kịp nghĩ, không kịp nghĩ, tự nhiên thế kiếm biến chiêu như cây kết trái khi hoa vừa tàn, để rồi lại biến mất như lá thu rơi. Cứ như vậy, cứ như vậy, hư chiêu tự nhiên biến thành tuyệt chiêu, và cả người sử kiếm linh hoạt hào khởi phát động chiêu thức theo ý mình tung tăng hớn hở. Chúng ta nghĩ đến cái sảng khoái tuyệt diệu của Đông Pha trên sông Xích Bích: Gió hiu hiu mặt nước như tờ Trăng chênh chếch đều non mới ló Thuyền một lá xông ngang gành bạch lộ Buông chèo hoa len lói chốn sơn cương (Nguyễn Công Trứ) Thật vậy, Lệnh hồ xung cũng đứng trước những đe doạ sinh mệnh trầm tọng như Tô thức. Thác gành nhiều sóng ngầm đá nhọn, sương lại bao phủ mặt sông. Tô Thức thuận lòng trời, hiểu lẽ dịch nên hớn hở như người quên đời một mình mà bay lên tiên, xông ngang qua gành không sợ thác lũ đá ngầm, và tuy sương trắng bao phủ đây đó vẫn dám một chiếc thuyền nhỏ, một túi trăng gió, len lỏi giữa những sườn núi lạ. Lệnh Hồ Xung cũng đã phải đứng trước cái chết kề cận trong tơ tóc, nhưng chàng mặc tình uyển chuyển thư thái với Độc cô cửu kiếm, không bận tâm các tuyệt học võ lâm. Những địch thủ giao đấu với Lệnh Hồ Xung đều sửng sờ, không biết trả đòn thế nào trước những chiêu thức kỳ dị này. Bị thói quen mài dũa tê liệt cả động năng nên khao khát tìm những định chế câu thúc, người ta không thể hiểu được, không thể tưởng tượng nổi trong võ học lại có những chiêu đơn giản vụng về, sai cả ước lệ, như cục đá chưa mài hay một khóm hoa dại bên bờ suối. Nhưng đối diện với thế kiếm trầm tĩnh mà huyền hoặc, vụng về thô thiển mà tinh diệu, họ không biết phải làm gì bây giờ. Trong Độc cô cửu kiếm, cái tĩnh chứa không biết bao nhiêu cái rắc rối, giống như cảnh vật vũ trụ qua mắt một nhà đạo học: Hoa nở luống hay tin gió Đầm thanh còn thấy dáng trăng (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Thành ra muốn khỏi có ngộ nhận, có lẽ phải đổi yếu quyết của Độc cô cửu kiếm VÔ CHIÊU THẮNG HỮU CHIÊU thành ra HƯ CHIÊU THẮNG HỮU CHIÊU. Chữ HƯ theo quan niệm TÂM HƯ của Lão Trang. Nếu dùng chữ VÔ, phải hiểu nghĩa chữ VÔ theo câu kinh Phật: ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SINH KỲ TÂM. (1) Chúng ta tin với một tinh thần tích cực sinh động như vậy, sau khi thụ giáo Phong Thanh Dương, Lệnh Hồ Xung phải thắng mọi trở ngại, san bằng mọi giả tạo, lột trần hết nguỵ kế núp bóng sau màn sương đạo đức nhân nghĩa hay công ích. Lệnh Hồ Xung đã thành công thực. Dùng Độc Cô cửu kiếm, chàng đã đâm mù mười mấy tên đệ tử Tả Lãnh Thiền hèn nhát bịt mặt để ra tay hạ sát thầy trò Hoa Sơn. Chàng đã cương quyết ngăn cản không cho hai tên đồ đệ Võ Đang và Thiếu Lâm trên Ngũ Bá Cương vào uy hiếp Doanh Doanh. Chàng đã khẳng khái dùng Độc cô cửu kiếm viện trợ Hướng Vân Thiên khi hữu sứ bị mấy trăm kiếm khách cả chính lẫn tà bao vây tiêu diệt. Chàng ngang nhiên lên trà đình uống rượu với Hướng Vân Thiên, nổi hào khí tuyên bố: - Giữa đường thấy chuyện bất bằng rút dao tương trợ là lẽ thường. Chàng đã dùng vô chiêu đánh bại Nhạc Bất Quần trên núi Thiếu Thất. Trong những lúc gay cấn, khi những tên nguỵ quân tử mặc áo xanh tú tài nói điều nhân nghĩa mà âm mưu đê hèn, khi chính tà không phân biệt, Lệnh Hồ Xung lại dùng Độc cô cửu kiếm để giải quyết. Thực vậy, bọn Tung Sơn bịt mặt giết hại đồng môn trong Ngũ Nhạc Kiếm phái là bọn chính giả trá. Bọn kiếm khách vì muốn giết Hướng Vân Thiên mà liên lạc hợp tác với đồ đệ Đông Phương Bất Bại là bọn chính giả trá. Nhạc Bất Quần là tên nguỵ quân tử. Những kẻ làm nhơ danh chính phái, làm mờ ranh giới thiện ác, đáng bị trừng trị bằng Độc cô cửu kiếm. Kim Dung đã cho chàng lãng tử của mình lấy tinh thần vô chấp phóng khoáng, cảm hoá bọn cố chấp bảo thủ. Nhưng, có thực Lệnh Hồ Xung đã thắng? Có thực Kim Dung đã tìm ra một phương pháp giải quyết mối băn khoăn nguyên thuỷ? Những người đọc có ý thức, cùng đứng trong những thế tranh chấp đau lòng, bơ vơ liên tục như người Việt chúng ta với cuộc chiến hiện nay, có thể xem kinh nghiệm của Lệnh Hồ Xung là một giải pháp thoả đáng? Chúng ta ngần ngừ không dám trả lời. Như vậy là phải! Vì dù bản tính thế nào chăng nữa, Lệnh Hồ Xung vẫn là một người tầm thường như tất cả chúng ta. Làm sao ƯNG VÔ SỞ TRỤ, tiến đến một trạng thái đạt đạo TÂM HƯ? Làm sao lòng rỗng không, hình lại có thể khiến như tro nguội (2). Lệnh Hồ Xung không thể quên quá khứ, thoáng trong chớp mắt không nhớ gì đến kiếm pháp Hoa Sơn hay công dưỡng dục của Nhạc Bất Quần, mối tình với Nhạc Linh San, mỗi lần tâm không hư, Lệnh Hồ Xung lại tỏ ra bối rối trước đối phương. Những lúc chàng chiến thắng vẻ vang, sử dụng tuyệt diệu được Độc cô cửu kiếm, là những lúc bất cần đời, đứng gần hố thẳm gai ốc của tuyệt vọng, nghĩa là ở cái thế chẳng đặng đừng. Lúc phái Hoa Sơn sắp bị đại nạn trước bọn Phong Bất Bình ở miếu Dược vương, Lệnh Hồ Xung thấy rõ cái chết kế cận bên mình. Chỉ cần một loé kiếm nữa là hết còn lo âu về bệnh hoạn, đau xót vì bị ngờ vực. “Lệnh Hồ Xung buông tiếng thở dài đưa luồng nhãn quan về phía Nhạc Linh San để nhìn lần cuối cùng. Trước khi lâm tử, hắn chỉ mong được nàng lộ vẻ tha thiết tới một chút đặng an ủi nỗi lòng. Quả nhiên, cặp mắt sáng ngời của nàng tỏ ra cực kỳ quyến luyến thiết tha. Lệnh Hồ Xung đang vui mừng thì dưới ánh lửa, hắn thấy bàn tay nhỏ bé mềm mại của Nhạc Linh San buông thõng xuống, nắm lấy bàn tay chàng trai khác, chàng trai đó chính là Lâm Bình Chi. Lòng hắn se lại”. (trang 790 quyển 5) Sững sờ tuyệt vọng cùng cực, quên cả lòng tham sinh, Lệnh Hồ Xung mới sử được các vô chiêu của Độc cô cửu kiếm, đâm mù mắt mười mấy tên đồ đệ Tung Sơn. Lúc được Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm cho biết mình đã bị sư phụ trục xuất khỏi Hoa Sơn, lại biết bệnh tình hết cơ cứu vãn (đến danh y Bình Nhất Chỉ cũng bó tay) Lệnh Hồ Xung liều thân, không còn tha thiết gì nữa. Không thèm nhận làm đồ đệ Phương Chứng để học Dịch cân kinh chữa bệnh: “Lệnh Hồ Xung ra khỏi chùa Thiếu Lâm rồi ngửa mặt lên trời cười rộ một hồi. Tiếng cười chất chứa đầy vẻ thất vọng thê lương, chàng lẩm bẩm: Người chính phái coi ta như thù địch. Kẻ phái tà cũng muốn giết được ta mới vừa lòng. Chắc Lệnh Hồ Xung này không sống qua được bữa nay. Thử xem người hạ sát mình là ai?” (trang 198 quyển 6) Ở vào thế cùng, Lệnh Hồ Xung tìm một cách tự vẫn và có cách nào ngang tàng hào hùng cho bằng liều thân bênh vực Hướng Vân Thiên. Không ngờ trong lúc tuyệt vọng như vậy, Lệnh Hồ Xung lại sử được vô chiêu. Thế thì bản chất cao ngạo liều lĩnh, thích hợp với thái độ vô chấp, giải pháp Độc cô cửu kiếm chỉ có thể thực hiện khi con người bị đẩy vào tận cùng của nghịch cảnh. Bị tình phụ, bị sư nương sư phụ nghi ngờ, tin rằng chính mình đã lỡ tay giết Lục Đại Hữu, Lệnh Hồ Xung tự nhận là một thứ “cô hồn vô chủ, miếu lớn không nhận, chùa nhỏ không thu, hoang sơn dã quỷ”, hết còn tha thiết gắn bó với bất cứ điều gì của đời. Nhờ vậy mà mới sử dụng được Độc cô cửu kiếm. Với những điều kiện bi đát như vậy, dễ gì con người tầm thường chúng ta có thể lấy vô chấp để thắng cố chấp. Người Việt Nam chúng ta đã bị phụ bạc nhiều, không có lấy một niềm tin để mất, và đã giết lầm không biết bao nhiêu anh em bạn bè. Như vậy đã đủ để ở vào cái thế liều lĩnh của Lệnh Hồ Xung mà học Độc cô cửu kiếm chưa? Chúng ta ngần ngừ là phải, vì lấy ngay kinh nghiệm Lệnh Hồ Xung, sự ngộ đạo không phải do trạng thái siêu thoát thăng hoa như ước vọng Lão Trang mà do ở chỗ chịu đựng tận cùng bi đát. Giải pháp vô chiêu thắng hữu chiêu cũng lãng đãng huyền hồ như hình bóng Phong Thanh Dương mà thôi. Điều đó có lẽ cảnh tỉnh được những người Việt không thể chịu đựng mãi thảm kịch phân hoá và tha hoá, đùng đùng nổi giận, đòi san bằng hết để làm lại, đòi đốt cháy hết cho lũ chuột chuyên gặm nhấm đục khoét ra mặt, sau đó dựng xây căn nhà mới. Cho dù có đến tận cùng vực thẳm, con người vẫn khó quên hết thành kiến khó phá hết định chế để chấp nhận vô chiêu. _________________________ (1) Kinh Kim Cương (2) Tề vật luận. Nam hoa kinh của Trang Chu, Nhượng Tống dịch. GIẢI PHÁP THỨ NHÌ: TỊCH TÀ KIẾM PHỔ Dù sao, đó vẫn cũng là một vương đạo. Giải quyết bằng vương đạo, sao mà thiên nan vạn nan, khi những giải quyết bá đạo hấp dẫn quyến rũ nhởn nhơ trước mắt, trong mọi tầm tay. Chỉ cần chộp lấy là có. Đã đành như lời Lâm Chấn Nam giải thích cho con hiểu danh hiệu cơ sở vận tải của gia đình mình: “Phước Oai tiêu cục, chữ Phước ở trên, chữ Oai ở dưới là nói Phước nghĩa quan trọng hơn Oai phong. Nếu đem đổi ngược lại OAI PHƯỚC thì nghĩa khác hẳn đi, nó biến đổi ra LÀM OAI LÀM PHƯỚC”. (trang 23 quyển 1) Nhưng OAI TRẤN GIANG HỒ vẫn luôn là một viễn tượng tuyệt vời. Được làm đệ nhất cao thủ để hàng hàng lớp lớp phủ phục tung hô, là một giấc mơ làm say sưa ngây ngất những kẻ có chút tài ba về võ thuật. Không nói ra, trừ những bậc cao nhân đạt đạo như Xung Hư và Phương Chứng, ai nấy đều ao ước quyền uy tuyệt đối và mênh mông như giáo chủ Triêu Dương thần giáo, ngồi đường bệ trên ngai cao, hớn hở nghe những lời tâng bốc xu nịnh: Giáo chủ là bậc anh minh, kế hoạch không còn thiếu sót, khác nào cây đuốc rạng soi bốn bể, tạo phúc muôn dân. Cờ ra đắc thắng, mã đáo thành công. Thuộc hạ nghiêng mình khép nép tuân theo lệnh dụ, cốt sao giữ vẹn lòng trung, sá quản thân này muôn thác. (trang 1890 quyển 10) Thuộc hạ rất khao khát được ra mắt giáo chủ. Cứ mỗi lần được nhìn kim diện giáo chủ thì lại cảm thấy tinh thần phấn khởi, làm việc rất hăng say, toàn thân rạo rực tưởng chừng công lực trong người tăng lên bằng mười năm tu luyện. (trang 1901 quyển 10) Tiểu tử thuộc hết. Hàng ngày không đọc đến bảo huấn của giáo chủ là ăn không ngon miệng, ngủ không yên giấc. Hễ đọc bảo huấn của giáo chủ là luyện võ tiến bộ rất mau, đấm đá thêm phần khí lực. (trang 1907 quyển 10) Bọn thuộc hạ là đường chúa, phó đường chúa ở thuỷ hoả đường cùng năm vị chính phó hương chủ xin tham kiến giáo chủ văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, trung hưng thánh giáo, bái chúc giáo chủ muôn năm trường trị, thống nhất giang hồ. (trang 1946 quyển 11) Muôn năm trường trị, thống nhất giang hồ! Bấy giờ sự phân hoá chia rẽ không còn, chính tà hết thành vấn đề. Trên ngôi cao rực rỡ hào quang, đệ nhất cao thủ trở thành thần thánh, nắm quyền sinh sát hằng vạn hằng triệu sinh linh, trên đầu, trời ở gần, tiếng phán truyền vang động, thức trăng sao mây nước dậy. Muốn thế, giải pháp gần gũi là chiếm cho được Tịch tà kiếm phổ hay Quỳ hoa bảo điển. Từ tên vô đạo như Mộc Cao Phong cho đến con người cục súc háo thắng như Dư Thương Hải, từ minh chủ Ngũ nhạc kiếm phái là Tả Lãnh Thiền cho đến chưởng môn Hoa Sơn Nhạc Bất Quần. Biết bao nhiêu mưu mô lừa lọc nham hiểm được sử dụng, dù có phạm nặng nề những giới luật chính phái như lừa thầy phản bạn, khi khi đồng đạo, ỷ mạnh hiếp yếu, ăn cắp tài vật… Để TỊCH TÀ (chống lại điều tà) người ta không từ chối sử dụng mọi mánh khoé yêu tà. Cuối cùng, một số người đã thành công, chiếm được bản chính (Đông Phương Bất Bại, Nhạc Bất Quần, Lâm Bình Chi) hoặc bản sao (Tả Lãnh Thiền, Lao Đức Nặc) của Tịch Tà kiếm pháp. Đem áp dụng vào đời, họ phải giải cho xong vấn đề tiên quyết: muốn luyện Tịch tà, trước hết phải tự thiến. Hoá ra phương pháp Tịch tà là toàn trái ngược với Độc cô cửu kiếm. Một bên chủ trương để thuận theo tự nhiên, phủ nhận mọi cái tĩnh gò bó áp chế, giữ nguyên vẹn nguồn tự do, hướng sáng tạo của con người. Một bên chủ trương cắt đứt tình cảm, hủy diệt nhân tính, biến con người thành một phương tiện thuận lợi tối đa cho kế hoạch chương trình sẵn, sử dụng con người như một máy móc hoàn toàn thụ động vô tri. Luyện Tịch tà kiếm pháp, kiếm khách phải dứt bỏ tình người. Không thể nào vừa muốn thành công vẻ vang về võ học lại vừa muốn giữ nguyên vẹn nụ cười trẻ thơ, tiếng ru à ơi của người mẹ, tình liên đới nhân loại, nghĩa là trọn vẹn tình thương yêu. Người mà không dứt khoát tự thiến trước khi luyện kiếm, hoặc võ công không tiến bộ hoặc bị tẩu hoả nhập ma mà chết. Điều kiện tiên quyết gắt gao như vậy vẫn không làm cho người đời thối chí . Lúc nào cũng vậy, sự quyến rũ của quyền hánh tối thượng tìm đủ mọi cớ để biện minh cho sự xem thường tình người, nên số người tự nguyện luyện Tịch tà kiếm pháp không ít. Họ không thèm sống như một con người đích thực, tuy yếu đuối phù du nhưng sáng ngời tình thương yêu. Lâm Bình Chi hoàn toàn thờ ơ với mối tình nồng nàn của Nhạc Linh San, dứt khoát dứt bỏ tình vợ chồng. Suốt đời căm hận Dư Thương Hải, chàng chỉ nghĩ đến hai chữ báo thù . Tất cả cuộc đời chàng trở thành vô nghĩa, tình quyến luyến vợ con trở nên thừa thãi chỉ thích hợp với hạng lãng tử, tầm thường, nếu Lâm Bình Chi chưa tiêu diệt được bọn Thành Thanh. Để thực hiện mục tiêu, Lâm Bình Chi không ngần ngại bấu vào cửa sổ chênh vênh trên vực sâu nghe lén chuyện phòng the của sư phụ, liều lĩnh đoạt cho được gia bảo là Tịch tà kiếm pháp, để cuối cùng đâm chết vợ tỏ lòng thành với Tả Lãnh Thiền. Nhạc Bất Quần trước hết hi sinh tình thầy trò, trân tráo vu oan cho Lệnh Hồ Xung để thực hiện mưu đồ, sau đó tên ngụy quân tử này xem thường luôn cả tình vợ chồng, thấy Nhạc phu nhân bị trói nằm sóng sượt dưới đất không nhúc nhích, nhưng lão vẫn không lộ vẻ xúc động, chỉ lo sát hại cho được tên đại đệ tử, bảo vệ ngôi minh chủ. Đông Phương Bất Bại tự giam mình trong động tối, mặc áo thêu, chăm chút đường kim mũi chỉ cho Dương Liên Đình, trở thành một loại người không ra người, quỷ không ra quỷ. Tuy đã luyện Quỳ hoa bảo điển đến trình độ tuyệt luân, cắt bỏ hết tình thương đến độ thản nhiên, kể lể ân nghĩa trầm trọng với Đổng Bách Hùng rồi thản nhiên giết chết, điều khiển tình cảm ngăn nắp thứ tự theo kế hoạch, thuận lý trí, Đông Phương Bất Bại vẫn thú nhận lâu nay mình đuổi bắt toàn ảo ảnh : " Khi tại hạ mới làm giáo chủ, ý chí nổi lên bồng bột, những muốn ra tay hành động một phen, thành ra có những câu VĂN THÀNH VÕ ĐỨC TRUNG HƯNG THÁNH GIÁO. Thật là những câu huênh hoang vô sự. Về sau vì luyện được Quì hoa bảo điển, mới dần dần tỉnh ngộ, đến chỗ mầu nhiệm của đời người, nào luyện đan nào phục thuốc. Mấy năm sau, lại hiểu rõ về cuộc sinh hóa của con người cùng những mấu chốt nẩy nở của vạn vật ". (trang 1930 quyển 11) Không biết chân lý tìm thấy của Đông Phương Bất Bại là gì, nếu có một nguyên lý mầu nhiệm của đời người, uyên nguyên cuộc sinh hóa trong vũ trụ, ấy chính là lẽ thuận tự nhiên của Độc Cô cầu bại. Trong bóng tối lầm lạc, Đông Phương Bất Bại thú nhận sự huênh hoang vô sự ngày trước, và đã tìm ra chân lý. Tóm lại, trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung đã đưa ra hai giải pháp để giải quyết sự tranh chấp tương tàn thường xuyên trong xã hội loài người. Một giải pháp tôn trọng tuyệt đối quyền sống trọn vẹn, quyền tự do thiên liêng, phủ nhận hết thảy mọi định chế nhân tạo, là phương thức vô chiêu của Độc cô cửu kiếm. Đây là một giải pháp lý tưởng siêu việt, nên dễ trở thành không tưởng viễn vông. Nó chỉ có nghĩa khi con người bị đặt vào trong những nghịch cảnh cấp thiết, bên bờ vực sâu tội lỗi hay kề cận bên cái chết vô nghĩa. Vào những lúc nguy nan của đời người, sự giác ngộ thường đến bất chợt, để thấy tất cả những đam mê tham lam theo đuổi xưa nay chỉ là phù du. Đó là giải pháp vượt quá tầm người. Khốn nổi, thời đại chúng ta chỉ cần một giải pháp cho con người bình thường sống đời bình thường. Một giải pháp cắt bỏ tình người, biến nó thành công cụ trọn vẹn cho một kế hoạch, không cần biết âm thanh Nhạc Bất Quần đã đổi, Nhạc Linh San bị giết, Lệnh Hồ Xung mang oan nghiệt, Lâm Bình Chi mặc áo thêu và thơm phức nước hoa. Tất cả đều tốt, miễn nó phục vụ hữu ích cho cùng đích. Sự lạnh nhạt với tình người đó không có gì vương đạo. Nếu vì muốn tịch tà (chống điều tà) mà phải trở thành gian manh khốn nạn đánh mất nghĩa sống, thì tịch tà mà làm gì? Chính Lệnh Hồ Xung khi nhìn thấy cách sử kiếm của Lâm Bình Chi, phải tự hỏi : - Chẳng lẽ đây là Tịch tà kiếm pháp chăng? … Tịch tà, tịch tà! Sao lại kêu bằng tịch tà? Chính công phu này có vẻ rất bàng môn tả đạo thì còn tịch tà thế nào được. (trang 2202 quyển 13) Những gợi ý của Kim Dung trong Tiếu ngạo giang hồ không giúp cho người đọc tìm ra một giải pháp thỏa đáng, mà đặt họ trước một ngã cụt. Kim Dung thấy rõ sự thất bại của mình. Chắc ông băn khoăn lắm, không biết giải quyết làm sao, làm sao dứt một lần cho xong đi nỗi ám ảnh khốn khổ. Sự lúng túng ấy hiện rõ trong phần kết luận của câu chuyện. Ông kết luận vội quá. Sự tranh dành ngôi cao, rình rập chém giết nhau trong hàng ngũ chính phái kết gọn bằng cái chết chung trong động tối trên ngọn Ngọc phong : từ Mạc Đại tiên sinh của Hành sơn, Tả Lãnh Thiền của Tung sơn, cho đến Nhạc Bất Quần của Hoa sơn, Ngọc Khánh Tử và Ngọc Chung Tử của Thái sơn. Cuộc tranh chấp miên viễn giữa chính phái và ma giáo giải quyết bằng những yếu tố bất ngờ thuộc loại nghìn năm một thuở : Nhậm Ngũ Hành chết trong cơn đắc chí, tân giáo chủ là Doanh Doanh sẵn sàng vì tình yêu cải tà quy chánh. Kết quả : cuộc diện võ lâm sẽ như thế này: Hướng Vân Thiên vẫn quản trị giáo chúng trên Hắc mộc nhai để vì nhu cầu điều khiển vẫn duy trì những câu VĂN THÀNH VÕ ĐỨC, TRUNG HƯNG THÁNH GIÁO MUÔN NĂM TRƯỜNG TRỊ, THỐNG NHẤT GIANG HỒ, Nghi Thanh và đám ni cô vẫn biệt lập ở Hằng sơn, Thiếu Lâm trường tồn trên núi Thiếu Thất, và Võ Đang vẫn tiếp tục bảo tồn và phát huy võ học cao thâm của Trương Chân Nhân. Kiếp nạn tạm thời chấm dứt, nhưng không ai dám quả quyết là sẽ không còn các kiếp nạn khác, nếu có một nhân tài xuất chúng đột nhiên trở lại lòng trần, muốn thống nhất giang hồ muôn năm trường trị. Vấn nạn ban đầu vẫn còn đấy, băn khoăn ban đầu vẫn còn đấy. Lại sa vào trường hợp Vô Kỵ, Đoàn Dự, Lệnh Hồ Xung bỏ cuộc ở lưng chừng con giốc, làm tên đào ngũ. C H Ư Ơ N G I I I Chặng cuối của một niềm tin GIẢ VÀ THỰC ? Sự ái mộ của độc giả Việt nam hiện nay đối với Kim Dung đã giảm sút. Lộc đỉnh Ký không quyến rũ được người đọc như trước nữa. Nhiều người còn thất vọng đến độ nghi ngờ, bảo tác giả Lộc đỉnh Ký không phải Kim Dung. Trong Tạp chí CHÍNH VĂN, số 1, nhà văn Nguyễn mạnh Côn, dưới bút hiệu Đằng Vân Hầu viết : Lộc đỉnh Ký không phải của Kim Dung, nếu của nhà văn nầy không lẽ gì xuống giá quá mức ...Vì sao Đằng Vân Hầu dám quả quyết vậy ? - Vì tác phẩm của Kim Dung luôn luôn có hai đặc điểm. Thứ nhất là trên đường đời của nhân vật chính, hắn thường gặp những nhân vật phụ có khi chỉ xuất hiện trong một đoạn ngắn mà thôi, là những nhân vật rất đặc biệt . Tất cả sở học mênh mông dù sâu sắc của Kim Dung đã được sử dụng để viết về rượu và cách thức cùng vật dụng để uống rượu, về nghệ thuật đánh cờ, viết chữ, vẽ tranh, đánh đàn, về rắn cũng các thứ chất độc, về kinh Phật và các phương pháp tu hành. Đó là một đặc điểm. - Đặc điểm thứ hai là mỗi tác phẩm đều có những nhân vật hoặc hoàn cảnh mà nghệ thuật diễn tả được Kim Dung đưa lên đến mức độ kù diệu. Ví dụ đoạn Kiều Phong đánh lộn với bạn cũ, đoạn Trương Thúy Sơn tuẫn tiết, đoạn Vô Kỵ cù chân Triệu Minh trong cái trống lớn, đoạn Lệnh Hồ Xung quì lạy thánh cô trước mành và đoạn hai người dưỡng thương dưới ánh sao, thấy ngôi sao nào vắng bóng thì biết là em xuống đó. Về nhân vật thì Nhạc Bất Quần, Tạ Tốn... là những nhân vật mà sự sáng tạo (ra nhân vật ấy) bắt buộc những nghệ sĩ khác phải cúi đầu. Đó là đặc điểm thứ hai. Có người nói tên Vi Tiểu Bảo cũng là một nhân vật lớn mà tác giả đặt vào cái thế càng hành động bỉ ổi càng hạ giá trị triều đình Mãn Thanh chắc hẳn bị Kim Dung (người Hán) thù ghét. Điều đó có phần có lý nhưng không đúng hẳn, vì có nhiều lúc tên tiểu quỷ nầy lại tỏ ra đứng đắn, hào hùng (nhất là trung thành và quí trọng vua Khang Hy). Vả lại sự co kéo Vi Tiểu Bảo lên quá cao quả có làm lộ rõ những đồi bại của xã hội như một đôi khi Kim Dung có làm, nhưng Kim Dung không thể lạm dụng kỷ thuật để hạ giá các nhân vật chân tu của phái Thiếu lâm, hoặc làm cho một đoàn thể yêu nước như Thiên Địa hội lọt vào vòng lố bịch. Nói tóm lại, cái hay của Kim Dung, ngoài sự bác học, là lúc nào cũng rất người, dù cho sự bịa đặt có vô lý đến đâu. (Ví dụ quơ một nhát kiếm độc nhất mà chọc mù mườỉ lăm cặp mắt). Lộc Đỉnh Ký đoạn đầu có vẻ do Kim Dung viết thật, cho đến đoạn Vi Tiểu Bảo thú tội với Khang Hy, còn sau đó, chỉ bầy đặt những tình tiết kỳ lạ theo tác phong thông thường của truyện võ hiệp rẻ tiền, như đoạn Tiểu Bảo hài tội Thái hậu, Tiểu Bảo cắt tay tên Lạt ma trêu gái, và giết mấy tên còn lại. (Chính Văn số 1 trang 9, 10) Có lẽ đoạn trên đây chỉ là những ý nghĩ bất chợt đến, phù hợp với một mục tạp văn như NGHĨ TRONG THÁNG của tạp chí, nên ông Đằng Văn Hầu không có chủ ý trình bầy lập luận một cách chặt chẽ mạch lạc. Đại ý ông Đằng Vân Hầu nêu ra các lý do sau đây để hồ nghi xuất xứ của Lộc Đỉnh Ký : - Qua các truyện khác, Kim Dung có một lối viết bác học, sâu sắc khi mô tả các nhân vật. - Nghệ thuật của Kim Dung qua nhiều đoạn đã đến mức độ tuyệt diệu, khiến các nghệ sĩ khác phải cúi đầu thán phục. - Dù tiểu thuyết Kim Dung là giả tưởng, đôi khi phi lý, nhưng câu chuyện luôn luôn đầy nét người. Ông Đằng Vân Hầu bảo rằng Lộc Đỉnh Ký không có được hai đặc điểm trên. Còn cái nét người có tìm thấy trong Lộc Đỉnh Ký hay không, chúng ta không thấy ông đề cập đến. Nhưng nếu gác qua một một hữu lý của lập luận, và chỉ xét hiện tượng ái mộ Kim Dung của độc giả Việt nam như một chứng tích xã hội, thì sự ơ thờ của đám đông, và sự hồ nghi của một số trí thức đối với Lộc Đỉnh Ký thật có ý nghĩa. DẤU TÍCH TÂM TRẠNG CỦA BA THẾ HỆ ? Thật vậy, cứ đem câu hỏi này: Trong tiểu thuyết Kim Dung, bạn thích cuốn nào nhất? ra hỏi nhiều người thuộc nhiều lứa tuổi, chúng ta sẽ tìm thấy những dấu tích tâm trạng của từng thế hệ. Theo ý kiến của Hoàng hải Thủy, trên một bài báo, thì tác phẩm tuyệt diệu nhất của Kim Dung vẫn là CÔ GÁI ĐỒ LONG (tức Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ). Sau tác phẩm nầy từ nhân vật cho đến câu chuyện, Kim Dung không thể sáng tạo được cái gì mới mẻ hơn. Hoàng Dung, Doanh Doanh chỉ là cái bóng mờ của Triệu Minh, còn những vấn nạn quan trọng, Kim Dung đã nói hết trong Cô gái đồ long rồi. Ý kiến của Hoàng hải Thủy được nhiều người thế hệ bốn mươi tàn đồng (1). Điều ấy dễ hiễu. Trong cuộc thăng trầm của lịch sử từ cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, đây là thế hệ độc giả từng cầm cờ đỏ tiến về bắc bộ phủ, gia nhập tự vệ thành, vẫy tay chào người yêu nam tiến rồi dứt khoát bỏ lại đằng sau thành phố quen thân và cuộc sống thư sinh trốn vào bưng biền. Khí thế cách mạng bừng bừng. Có cuộc đời nào đẹp cho bằng cuộc đời dấn thân, sẵn sàng chịu đựng mọị gian khổ và hy sinh để bảo vệ tổ quốc. Nhưng đất đã dần dần trật lở dưới chân họ, và họ đã lảo đảo ngả nghiêng. Họ băn khoăn, so sánh giữa cái giá độc lập dân tộc và cái giá nhân phẩm của chính mình. Thật là một cuộc lựa chọn so bì