🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những truyện cổ tích Việt Nam hay nhất cho bé
Ebooks
Nhóm Zalo
I. NGUỒN GỐC SỰ VẬT
1. SỰ TÍCH DƯA HẤU
Ngày xưa có một người trẻ tuổi tên là Mai An Tiêm. Chàng là người ở một nước ñâu tận vùng biển phía Nam, bị bán làm nô. Một hôm, chàng bị bọn lái buôn chở ñến bán cho Hùng Vương. Mai An Tiêm học nói tiếng Việt rất chóng. Chàng nhớ nhiều chuyện, biết nhiều ñiều thường thức, lại lắm tài nghề. Càng ngày vua càng yêu dấu, không lúc nào rời. Năm ba mươi lăm tuổi, chàng làm quan hầu cận, có một ngôi nhà riêng ở gần cung vua. Vợ Mai là con gái nuôi của vua ñã sinh ñược một trai lên năm tuổi. Mai có ñủ mọi người hầu hạ, trong nhà của ngon vật lạ không thiếu thứ gì. Tuy oai quyền không lớn lắm nhưng chàng ñược mọi người sợ phục. Nhiều kẻ vẫn thường lui tới cầu cạnh. Nhưng thấy Mai có ñịa vị cao, cũng không hiếm gì những kẻ sinh lòng ghen ghét.
Một hôm, trong một bữa tiệc ñãi các quan khách, giữa lúc mọi người không ngớt lời xưng tụng mình, Mai An Tiêm nhún nhường bảo họ:
- Có gì ñâu! Tất cả mọi thứ trong nhà này ñều là vật tiền thân của tôi cả!
Mai nói rất tự nhiên. Bởi vì tôn giáo xứ sở chàng bảo rằng cái sướng cái khổ hiện tại là kết quả của sự ăn ở tốt hay xấu của tiền kiếp. Nhưng trong số người dự tiệc có mấy viên quan hầu gần vua, vốn ghét chàng từ lâu. Chụp lấy câu nói mà họ cho là ngạo mạn ñó, họ bèn vội vàng về tâu cho vua biết.
Vua Hùng nghe nói vô cùng giận dữ. Vua gầm lên:
- Chà! Thằng láo! Hôm nay nó nói thế, ngày mai nó còn tuôn ra những lời bất kính ñến ñâu. Quân nô lệ phản trắc! Giam cổ nó lại cho ta!
Buổi chiều hôm ấy, Mai bị bắt bỏ vào ngục tối. Bấy giờ chàng mới hiểu chàng lỡ lời. Mai tự bảo: - "Nếu từ nay trở ñi ta bị ñày ñọa là vì kiếp trước ta ñã cư xử không phải".
Trong khi ñó thì ở triều, các quan họp bàn ñể xử án Mai. Nhiều người ñề nghị xử tử. Có người ñề nghị cắt gót chân. Nhưng lời tâu của một ông quan già làm cho Hùng Vương chú ý:
- Hắn bị tội chết là ñúng. Nhưng trước khi hắn chết ta nên bắt hắn phải nhận ra một cách thấm thía rằng những của cải của hắn ñây là do ơn trời biển của bệ hạ chứ chả phải là vật tiền thân nào cả. Tôi nghe ngoài cửa Nga-sơn có một hòn ñảo. Cho hắn ra ñấy với một hai tháng lương ñể hắn ngồi ngẫm nghĩ về "vật tiền thân" của hắn trước khi tắt thở.
86
Vua Hùng gật ñầu chấp thuận. Nhưng sau khi ra lệnh, vua còn dặn: - "Cho hắn lương vừa ñủ dùng trong một mùa, nghe không".
*
* *
Hôm ñi ñày, tuy ai nấy hết lời can ngăn nhưng vợ Mai An Tiêm vẫn nhất quyết theo chồng ra hải ñảo. Nàng bồng cả con trai ñi theo. Tất cả mọi người ñều cho là việc rồ dại. Còn nàng thì tin ở lời chồng: - "Trời sinh voi trời sinh cỏ. Lo gì!".
Nhưng khi bước chân lên bãi cát hoang vu mịt mù, người thiếu phụ ñó cũng không ngăn nổi cảm giác tủi thân, nức nở gục vào vai chồng:
- Chúng ta ñành chết mất ở ñây thôi.
Mai ôm con, bảo vợ:
- Trời luôn luôn có con mắt. Cứ phấn chấn lên. Đừng lo!
Hơn một tháng ñầu, ñời sống của vợ chồng ñã tạm ổn. Nhà ở thì chui trong hốc ñá ñã ñược ñan phên che sương gió. Nước uống thì ñá có suối. Muối không có thì ñã có nước biển. Nhưng còn việc kéo dài sự sống? Hai vợ chồng nhìn vào bồ gạo ñã vơi: - "Nếu chúng ta có ñược một nắm hạt giống thì quyết không lo ngại gì cả".
Tự nhiên, một hôm có một ñàn chim lớn bay từ phương Tây lại, ñậu ñen ngòm cả một bãi cát. Rồi chúng bay ñến trước mặt hai vợ chồng kêu váng cả lên, thả xuống năm sáu hạt. Ít lâu sau từ những hạt ấy mọc ra một loại cây dây bò lan xanh um cả bãi. Dây bò ñến ñâu, những quả xanh non mơn mởn nhú ra ñến ñấy. Ít lâu sau nữa, vợ chồng ra xem thì quả nào quả ấy ñã lớn lên như thổi, da xanh mượt, tròn to bằng ñầu người. Mai trẩy một quả, bổ ra thấy ruột ñỏ hồng, hạt ñen nhánh. Vợ chồng con cái cùng nếm thấy vị thanh thanh dịu ngọt. Càng ăn càng mát ñến ruột gan. Mai reo lên:
- Ồ! ñây là thứ dưa lạ, chưa từng thấy bao giờ. Hãy gọi nó là dưa Tây, vì thứ dưa này ñược bầy chim ñưa từ phương Tây lại, từ ñất liền ra cho chúng ta. Trời nuôi sống chúng ta rồi!
Từ hôm ñó hai vợ chồng cố trồng thêm cho thật nhiều dưa. Họ trù tính ăn dưa thay cơm ñể ñỡ phải dùng số gạo ñã gần kiệt.
Một hôm vợ chồng Mai bắt gặp một chiếc thuyền ñánh cá ñi lạc ra ñảo. Sau khi giúp họ sửa buồm lái ñể trở về ñất liền, Mai còn ñưa biếu một số dưa ñể họ ñưa về cho mọi người nếm thử. Mai bảo họ chở gạo ra ñổi lấy dưa. Chỉ cách mấy ngày, con thuyền thứ nhất ñã ñến cắm neo ở bến, chở ra cho hai vợ chồng
87
khá nhiều gạo. Hai bên y ước: một bên nhận lấy số gạo còn một bên xếp dưa xuống thuyền.
Từ ñó trở ñi, bữa ăn của họ ñã khác trước. Ngồi bên nồi cơm trắng hơi lên nghi ngút, vợ Mai ôm lấy con, lẩm bẩm: - "Trời nuôi sống chúng ta thực!" Cũng từ hôm ñó, vợ chồng trồng thêm nhiều dưa nữa. Kết quả là thuyền buôn có, thuyền chài có, lũ lượt ra ñỗ ở hải ñảo ñưa gạo, áo quần, gà lợn, dao búa, lại có cả các thứ hạt giống khác, ñể ñổi lấy dưa.
Những người trong thuyền nói với Mai:
- Thật quả từ xưa chưa hề có loại dưa nào quý ñến thế. Ở vùng chúng tôi ai cũng ao ước ñược nếm một miếng thứ "dưa hấu" này dù phải ñổi bao nhiêu gạo cũng không tiếc.
Ngày ấy người ta tranh nhau mua dưa lấy giống cho nên chỉ trong vài ba năm giống dưa lan tràn khắp nơi. Tên tuổi vợ chồng Mai An Tiêm ñược truyền ñi xa rộng. Dân gọi tôn là "Bố cái dưa Tây".
*
* *
Lại nói chuyện vua Hùng một hôm la rầy viên quan hầu ñã vì dốt nát ñể thợ dựng hỏng một ngôi nhà. Vua buột miệng than thở - "Phải chi có Mai An Tiêm thì ñâu ñến nỗi". Ngày hôm ñó vua nhắc mãi ñến chàng. Đã hai lần vua cho hỏi Lạc hầu xem hiện giờ Mai ñang làm gì ở ñâu. Lạc hầu ñáp liều: - "Chắc hắn không còn nữa!".
Nhưng vua không tin. Vua sai ngay một tên nô khác cấp cho lương ăn và thuyền ñể hắn vào châu Ái tìm Mai An Tiêm. Một tháng sau, hắn ta mang về cho vua một thuyền ñầy dưa Tây và nói:
- Đây là lễ vật của ông bà Mai dâng bệ hạ.
Hắn kể cho vua biết rõ những ngày tân khổ và tình trạng hiện nay của hai vợ chồng Mai. Rồi hắn tâu tiếp:
- Bây giờ ông bà Mai ñã có nhà cửa ở ngoài ấy khá ñẹp, có ñến hơn mười người hầu hạ, có bãi dưa, có ruộng lúa và rất nhiều lợn gà...
Vua Hùng càng nghe càng sửng sốt. Vua chắt lưỡi bảo mấy viên quan hầu cận ngày nọ ñã tố cáo Mai:
- Hắn bảo là vật tiền thân của hắn, thật ñúng chứ không sai!
Vua bèn sai một ñoàn lính hầu ñi ñón hai vợ chồng về, cho Mai trở lại chức cũ. Vua lại ban cho hai người con gái hầu ñể an ủi chàng.
88
Bây giờ chỗ hải ñảo, người ta còn gọi là bãi An Tiêm. Những người kế tiếp công việc của hai vợ chồng Mai trên ñảo vẫn còn dòng dõi ñông ñúc. Họ lập thành làng gọi là làng Mai-an. ở ngôi nhà cũ của Mai thì họ lập ñền thờ hai vợ chồng chàng. Nhân dân gọi là "ông bà tổ dưa Tây (hay dưa hấu)"1.
1 Theo Lĩnh-nam chích quái và Đại-nam nhất thống chí, "Tỉnh Thanh- hóa".
89
2. SỰ TÍCH TRẦU, CAU VÀ VÔI
Ngày xưa một nhà nọ có Tân và Lang là hai anh em ruột, ñặc biệt dáng người và mặt mày giống nhau như ñúc, ñến nỗi chính người nhà cũng nhiều phen nhầm lẫn. Cha họ là một người cao to nhất trong vùng ñã từng ñược vua Hùng triệu về Phong-châu ban thưởng và ñặt tên là Cao. Từ ñó gia ñình lấy tiếng "Cao" làm tên họ.
Hai anh em lớn lên thì cha mẹ nối nhau qua ñời. Cả anh lẫn em quyến luyến nhau không chịu rời nửa bước. Người cha trước khi mất có gửi gắm Tân cho một ñạo sĩ họ Lưu. Nhưng khi Tân ñến theo học thì Lang không chịu ở nhà một mình, chàng cũng cố xin cùng ñược học với anh một thể. Nhà họ Lưu có một cô con gái cũng cùng lứa tuổi với họ.
Để tìm hiểu người nào là anh người nào là em, một hôm cô gái họ Lưu bày ra một mẹo nhỏ. Giữa lúc họ ñang ñói, nàng chỉ dọn cho họ một bát cháo với một ñôi ñũa. Đứng sau khe vách, nàng thấy người này nhường cháo cho người kia ăn.
Nàng lẩm bẩm: - ''À, ra anh chàng vui tính kia là anh!".
Từ ñó giữa Tân và cô gái có nhiều cuộc gặp gỡ. Tình yêu giữa hai người mỗi ngày một khăng khít. Thấy thế, ñạo sĩ họ Lưu vui lòng gả con cho Tân. Sau khi cưới, hai vợ chồng ñến ở một ngôi nhà mới, có Lang ở chung.
Từ ngày lấy vợ, Tân tuy vẫn chiều chuộng em nhưng không âu yếm em như trước nữa. Trước kia Lang thường ñược anh chăm sóc nhưng bây giờ thì chàng có nhiều ngày cô ñơn. Lang nhận thấy nhiều khi Tân muốn lánh mình. - ''Phải rồi, anh ấy mê vợ quên ta". Trong lòng Lang ñầy chán nản buồn bực.
Một hôm Lang và Tân cùng lên nương ñến tối mịt mới về. Lang về trước. Chàng vừa bỏ chân lên ngưỡng cửa thì vợ Tân từ trong buồng chạy ra ôm chầm lấy mình. Lang kêu lên. Cái nhầm của chị dâu làm cho cả hai người cùng ngượng nghịu xấu hổ. Giữa lúc ñó thì Tân bước vào nhà.
Từ ñây Lang lại biết thêm một tính tình mới của anh. Tân ghen em. Cái ghen làm tăng thêm sự hững hờ của Tân ñối với chàng1. Lang vừa giận vừa thẹn. Chàng muốn bỏ nhà ra ñi cho bõ ghét. Một hôm trời mới mờ sáng, Lang quyết ñịnh khởi hành. Chàng cứ theo con ñường mòn ñi mãi, trong lòng ñầy bực bội oán trách. Đi luôn mấy ngày ñường, Lang tới bờ một con sông lớn. Thấy nước chảy xiết, chàng lấy làm ngại ngùng. Xung quanh không nghe qua một tiếng gà gáy chó sủa. Nhưng Lang quyết không chịu trở lại. Lang ngồi cúi gục trên bờ,
1 Theo Trúc Khê. Tình sử Việt-nam.
90
ôm mặt khóc. Chàng khóc mãi, khóc mãi, ñến nỗi những con chim ñi kiếm ăn khuya vẫn còn nghe tiếng nức nở. Sáng hôm sau, Lang chỉ còn là một cái xác không hồn. Chàng ñã hóa ñá.
Tân thấy mất hút em thoạt ñầu không ñể ý. Mãi sau vẫn không thấy em về, Tân bổ ñi tìm các nhà quen nhưng cũng không thấy tăm dạng. Biết là em bỏ ñi vì giận mình, chàng lấy làm hối hận. Hôm sau nữa, cũng không thấy về, Tân hoảng hốt ñể vợ lại nhà, cất bước ñi tìm. Sau mấy ngày, chàng ñã ñến bờ một con sông rộng. Không có cách gì qua ñược Tân ñi men dọc sông, cuối cùng thấy em ñã hóa thành ñá. Tân ñứng bên cạnh hòn ñá khóc mãi cho ñến lúc chỉ còn có tiếng nước cuồn cuộn chảy dưới bờ mà thôi. Tân chết và hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời, bên cạnh hòn ñá.
Vợ Tân chờ mãi không thấy chồng về, cũng bỏ nhà ñi tìm. Nhưng cuối cùng con sông nọ cũng ngăn cản bước chân của nàng. Người ñàn bà ấy ngồi lại bên cạnh cây, khóc cạn cả nước mắt. Và sau ñó nàng chết hóa thành một cây dây quấn quanh lấy cây kia.
Đợi mãi không thấy ba người về, vợ chồng ñạo sĩ nhờ mọi người chia nhau tìm kiếm. Trước hòn ñá và hai cây lạ, họ chỉ còn biết dựng miếu thờ cả ba người trẻ tuổi ở ven sông. Nhân dân quanh vùng gọi là miếu "anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa"1.
Về sau, một năm nọ trời làm hạn hán rất dữ. Mọi cây cỏ ñều khô héo cả. Duy hai cây mọc bên cạnh hòn ñá trước miếu là vẫn xanh mượt. Mọi người cho là linh dị. Vua Hùng một hôm ngự giá qua xứ ñó. Khi ñi qua trước miếu, vua hơi ngạc nhiên vì cảnh lạ cây lạ: - "Miếu này thờ vị thần nào? Mấy loại cây này ta chưa từng thấy bao giờ?". Để trả lời câu hỏi của vua, Lạc tướng cho gọi mấy cụ già ở quanh vùng ñến hỏi.
Hùng Vương càng nghe, không ngăn ñược sự cảm ñộng. Vua vạch lá trèo lên nhìn khắp mọi chỗ. Đoạn, vua sai một người trèo cây hái quả xuống nếm thử. Vị chát không có gì lạ. Nhưng khi nhai với lá cây dây thì một vị là lạ ñến ở ñầu lưỡi: nó vừa ngon ngọt, vừa thơm cay.
Tự nhiên có một viên quan hầu kêu lên: - "Trời ơi! Máu!" Mọi người giãn ra kinh ngạc. Thì ra những bãi nhai quả và lá của hai thứ cây ñó một khi nhổ xuống ñá bỗng ñỏ ối ra như máu. Vua sai lấy cả ba thứ nhai lẫn với nhau thì bỗng người thấy nóng bừng như có hơi men, môi ñỏ tươi sắc mặt hồng hào tươi ñẹp. Vua bảo:
- Thật là linh dị! Đúng là họ rồi! Tình yêu thương của họ thật là nồng nàn thắm ñỏ.
1 Theo Sử Nam chí dị.
91
Từ ñó vua Hùng ra lệnh cho mọi nơi phải gây giống cho nhiều hai loại cây ấy. Điều ñáng chú ý là luật của nhà vua bắt buộc trai gái khi kết hôn thế nào cũng phải tìm cho ñược ba món: trầu, cau và vôi cho mọi người nhai nhai nhổ nhổ một tý ñể ghi nhớ tình yêu không bao giờ phai lạt. Vì thế từ ñó dân Việt mới có tục ăn trầu1.
KHẢO DỊ
1. Trong Lĩnh-nam chích quái cũng như trong một số sách chép truyện cổ khác không thấy nói ñến kết quả của tình tiết "hai anh em giống nhau như ñúc". Chúng tôi thấy ñó có lẽ là một thiếu sót của người chép truyện, nên ở ñây dựa vào quyển Tình sử Việt-nam. Cái ghen của Tân là nguyên nhân của việc Lang bỏ
nhà ra ñi và cũng là hậu quả của việc hai anh em giống nhau ñến nỗi làm cho nhiều người nhầm lẫn.
2. Cũng theo Lĩnh-nam chích quái thì Lang chết hóa làm cây cau, Tân hóa làm hòn ñá còn vợ Tân hóa làm cây trầu. Ở ñây chúng tôi theo sách Sử Nam chí dị chép Lang hóa làm hòn ñá. Tân hóa làm cây cau là những hình tượng có mối quan hệ hợp lý hơn (về ñiểm này chúng tôi ñồng ý với ý kiến Trần Thanh Mại trong Tìm hiểu và phân tích truyện cổ tích Việt-nam).
Riêng sách Mỹ Ấm tùy bút tuy cũng kể như Sử Nam chí dị, nhưng lại cho rằng phải ñợi sau khi chôn cả ba rồi mới ñược trời cho hóa. Cũng sách này có kể một số tình tiết hơi khác, nhất là ở ñoạn kết:
Hai anh em Tân và Lang giống nhau như tạc, càng lớn càng giống và yêu mến nhau, ñi ñâu không rời nửa bước; việc ñó làm cho người vợ của Tân - Lưu thị - mấy lần nhầm lẫn, rất xấu hổ. Lang sợ có ñiều không hay bèn xin anh ra ở riêng, nhưng anh không cho. Một hôm Lang bỏ nhà ra ñi lên vùng núi, ñịnh sống lẩn lút ở ñây, nhưng dầm phải sương gió nên chết ở cạnh rừng, ñược dân ñịa phương chôn cất thành mộ. Không thấy em về, Tân bỏ nhà ñi tìm. Khi Tân ñến ñây, dân làng ban ñầu sợ hãi tưởng người chết hiện ra, vì thấy giống người chết như tạc. Khi nghe nói người em ñã chết Tân ngất ñi và chết theo. Dân ñịa phương bèn chôn bên cạnh mộ người em. Lưu thị cũng bỏ nhà ñi tìm, ñến ñây nghe nói chồng và em chồng ñều chết, liền ôm lấy mồ khóc mãi, rồi cũng chết và cũng ñược chôn bên cạnh.
Hành ñộng của họ cảm ñộng ñến Trời. Trời cho em hóa ñá (biểu thị sự trong trắng), anh hóa thành cây cau (ngay thẳng ñộc lập, mở dạ cho ai nấy thấy), Lưu
1 Theo Lĩnh-nam chích quái.
92
thị hóa thành cây trầu (tiết hạnh thơm cay). Đoạn sau nói về vua Hùng cũng như trên ñã kể1.
3. Cũng theo Trúc Khê, sách ñã dẫn, thì ngôi ñền thờ ba người hiện nay là ñền Tam-khương ở làng Nam-hoa, huyện Nam-ñàn (Nghệ-an) mà các triều ñại phong kiến vẫn có sắc phong tặng.
Đồng bào thiều số ở Nghệ-an cũng có Sự tích trầu, cau và vôi nội dung khác với các truyện trên:
Một người có chín con gái cùng ñi cuốc cỏ dâu. Trưa lại mệt, chị em nói ñùa với nhau: "Giá có ai cuốc hộ thì sẽ lấy làm chồng". Nghe thấy vậy một con quỷ hiện ra nói: - "Phải thế thì hãy nhắm mắt lại, tôi cuốc cho". Quả nhiên khi mở mắt, mấy chị em ñều thấy nương dâu ñã cuốc sạch làu. Quỷ ñưa chín cô về lần lượt ăn thịt ñến cô thứ tám. Cô út là nàng Khăm Xuân sợ quá, bỏ trốn. Một ñàn gà rừng bảo: - "Muốn sống thì chui xuống lỗ khoai mài". Cô xuống, gà bẻ lá phủ cho nên quỷ không tìm ra. Khi quỷ ñi khỏi, gà bảo nàng trèo lên tiếp tục ñi nữa, hễ gặp người nào thì hỏi ñường, người ta sẽ chỉ cho.
Một bà tiên hiện ra bảo cô cứ ñi theo sợi dây song cho ñến ngọn. Đến nơi, hóa ra ñó là cõi âm; ở ñây cũng có nhà của ruộng vườn. Một người ñàn ông là Chàng Ngược lấy cô làm vợ. Hắn chuyên làm mưa ở trần gian, nhưng vì có vợ hắn quên cả chức trách, ba tháng không ra khỏi nhà, nên trần gian ruộng nương khô cạn, người kêu van khắp nơi. Sau ñó, hắn phải từ biệt vợ ra ñi làm mưa, dặn vợ cứ luôn luôn ở nhà, ai rủ ñi ñâu cũng ñừng nghe.
Ở nhà, hai người vợ cũ của Chàng Ngược ñến rủ: - "Có muốn coi voi ñánh nhau không?" - "Không" - "Có muốn coi gương lược ñánh nhau không?" - "Không" - "Có muốn coi ông bà gia không?" - "Kể từ khi về nhà chồng ñến nay tôi chưa biết mặt mũi ông bà gia, cho ñi với". Đến nơi, Khăm Xuân chỉ thấy hai con rồng to lớn, sợ quá, chạy về, mắt luôn luôn nhắm lại. Khi chồng về biết chuyện, ñành phải trả Khăm Xuân lên trần. Lên ñến nơi vẫn thấy vợ nhắm hai mắt, chồng bảo: - "Thôi ñến nơi rồi. Chúng ta chia tay ở ñây. Lúc nào gặp hoạn nạn gọi tôi, tôi sẽ ñến". Khăm Xuân ñang ñi dọc bờ sông thì gặp chàng Nước. Chàng Nước lại dỗ dành lấy nàng làm vợ. Cuộc tình duyên êm ñẹp, chỉ có ñiều bố chồng không ưa nàng dâu. Một hôm bố chồng bảo con dâu ñi bắt cá sông. Khăm Xuân không bắt ñược. Nàng ñến bờ sông gọi tên chồng cũ. Chàng Ngược lên bảo: - "Muốn bắt cá sông thì sáng dậy ra mà bắt, nhưng phải dặn mọi người rằng nếu ai có thấy cây gỗ lạ thì cũng ñừng ñụng ñến". Sáng ra, thấy có một cây gỗ lớn nằm ngang sông mà vực sông ở chỗ ñó cạn, cá rất nhiều, Khăm Xuân và mọi người ñua nhau ñi bắt. Người bố chồng thấy sự lạ cũng ra xem, thấy cây gỗ lạ bèn lấy gậy sắt ñâm vào. Không ngờ ñó là Chàng Ngược. Bị thương, Chàng
1 Trong Nông công thương (1939).
93
Ngược, tức cây gỗ, nổi lên, nước chảy ào ào vào vực, phần lớn người ñi bắt cá ñều bị chết ñuối. Bố chồng ñổ tội cho nàng dâu giết dân, Khăm Xuân ra bến ngồi khóc rồi lấy lửa ñốt cây gỗ ñể sưởi. Đốt một lúc bỗng thấy trong ñống lửa không phải gỗ mà là Chàng Ngược ñã chết cháy. Khăm Xuân thương quá, nhảy vào lửa cháy luôn. Chàng Nước về thấy thế cũng nhảy vào lửa cháy nốt (tình tiết này giống với kết thúc truyện Sự tích ông Đầu rau. số 21). Bố chồng chôn cất mỗi người một mộ. Về sau cây gỗ hóa thành cây cau. Khăm Xuân hóa thành cây trầu leo lên cây cau.
Chàng Nước hóa thành ñá vôi. Bố chồng lấy cau ăn với trầu, nhổ nước vào ñá thấy nước ñỏ dẹp, bèn hái về ăn ñể giải phiền. Từ ñấy có tục ăn trầu1.
4. Đồng bào Ca-tu (ở phía Tây tỉnh Quảng-nam và Thừa-thiên) có một truyện nói về sự tích trầu, cau và vôi tuy khác truyện của ta nhưng hình ảnh ñoạn kết lại có phần tương tự:
Một bà già gả một trong mười cô con gái cho chàng Rắn ñể trả ơn. Ở với Rắn, cô gái ñẻ ñược một ñứa con. Một hôm vì các chị xúi bẩy, cô bị răng rắn cắm vào người, chết ngay. Áo quan trôi theo dòng nước, lọt vào cái dó của ông Na, ñược ông này cứu cho sống lại. Ông Na lấy cô làm vợ, ñẻ ñược một con nhưng vẫn chưa làm lễ cưới. Ngày cưới, chàng Rắn ñến dự. Một cuộc chiến tranh dữ dội diễn ra giữa Rắn và ông Na. Cô gái lấy gói thuốc trong rừng gói thành từng gói chuẩn bị ném cho cả hai bên ñể bôi cho lành vết thương. Ném cho Rắn, không ngờ Rắn hóa thành cây cau. Ném trúng ông Na, ông Na hóa thành hòn ñá. Cô thương quá ñứng trên hòn ñá ôm lấy cây cau, thì lại hóa thành cây trầu, gốc mọc ở ñá, ngọn leo lên cây cau. Truyện còn kể thêm hai ñứa con của Rắn và ông Na ñến nhặt gói thuốc thứ ba thì hóa thành cối chày giã trầu. Dân làng chạy ñến xem cũng hóa thành những cây chay.
Có một mụ cơ-rúa (ñàn bà ngồi lê) ñi xúc tép qua ñó, thấy cây hay hay, bèn hái lá trầu ăn với quả cau rồi nhổ nước vào ñá, ñá ñang trắng hóa ñỏ. Mụ lấy trầu cau, vôi và chay ăn chung với nhau, tự nhiên thấy môi ñỏ, người hóa ñẹp ra. Nhà vua nghe tin, ñòi mụ về triều, thấy mụ ñẹp bèn phong làm hoàng hậu. Nghe lời mụ, vua sai lính ñến ñào các cây cau trầu ñem về, nhưng ñào ñi bao nhiêu cau trầu vẫn mọc nhiều thêm, không bao giờ hết giống2.
Người Thái cũng có truyện Tình nhân biến thành trầu cau nói ñến ba người bạn học, trong ñó có một cô gái giả trai cuối cùng hóa ra trầu cau và vôi. Truyện này có mô-típ hoàn toàn khác các truyện trên.
1 Theo Bản khai của tổng Thanh- xuyên.
2 Theo Truyện cổ Ca-tu.
94
3. SỰ TÍCH TRÁI SẦU RIÊNG
Ngày ấy, vào thời Tây Sơn, có một chàng trẻ tuổi người vùng Đồng-nai. Chàng là người tài kiêm văn võ, ñã từng vung gươm hưởng ứng cái bất bình của mọi người. Chàng từng cầm quân mấy lần làm cho tớ thầy chúa Nguyễn chạy dài.
Nhà Tây Sơn mất, chàng lui về quê nhà mượn nghề dạy trẻ ñể náu hình ẩn tích. Đột nhiên có tin dữ truyền ñến làm cho mọi người xao xuyến. Gia Long vừa thắng thế trên ñất nước Việt thì cũng bắt ñầu giết hại những người ñã từng làm quan cho nhà Tây Sơn. Nhà vua cứ dựa vào chức tước lớn hay nhỏ của họ
mà gia hình: tư mã, quận công thì lăng trì, tùng xẻo; vệ úy, phân suất thì ñánh gậy, phạt roi, v.v...
Dân trong xóm sẵn lòng quý mến, khuyên chàng trốn ñi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong ñó có cả một chiếc thuyền nhỏ mui lồng ñể tiện ñi lại.
Vì không muốn ñể rơi vào tay quân ñịch, chàng ra ñi. Ngược dòng sông Cửu long, chàng tiến sâu vào nước Chân-lạp.
Một hôm chàng cắm sào lên bộ mua thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên ñường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con ñi dâng hương trên núi, về ñến ñây thì con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng hết sức chạy chữa, cuối cùng cũng giúp cô gái lấy lại sức khỏe. Và sẵn có thuyền riêng, chàng chở họ về tận nhà.
Nàng là con gái chưa chồng, ñã ñến tuổi quay xa ñạp cửi. Nàng có vẻ ñẹp thùy mị. Tự nhiên có anh chàng trai người Việt ở ñâu tận xa xôi ñến trú ngụ tại nhà làm cho nàng quyến luyến.
Sau một tuần chay tạ ơn Trời Phật, mẹ nàng cho biết là Phật ñã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui vẻ nhận lấy cuộc sống mới cho qua ngày. Từ ñây chàng có chỗ ở nhất ñịnh. Nhà nàng là nhà làm ruộng nuôi tằm. Những việc ñó chàng ñều làm ñược cả.
*
* *
Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt với nhau như ñôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây "tu rên" mà ở xứ sở chồng không có. Lần ấy gặp kỳ quả chín ñầu mùa, vợ trèo lên cây trẩy xuống một quả, xẻ ñưa cho chồng ăn. Quả "tu rên" vốn có một mùi hôi ñặc biệt. Thấy chồng nhăn mặt vợ bảo:
95
- Anh cứ ăn sẽ biết nó ñậm ñà như lòng em ñây.
Không ngờ một năm kia, vợ ñi dâng hương về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách ñột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng ñau khổ của người chồng. Nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn ñời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng.
Nghe tin Gia Long ñã thôi truy nã những người thù cũ, bà con chàng ở quê hương nhắn tin lên bảo về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng nên ñi ñâu cho khuây khỏa. Chàng ñành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên ñường, vợ báo mộng cho chồng biết là mình sẽ theo chàng cho ñến sơn cùng thủy tận. Năm ấy cây "tu rên" tự nhiên chỉ hiện ra có mỗi một quả. Và quả "tu rên" ñó tự nhiên rơi vào vạt áo giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ quyết ñưa nó cùng mình về xứ sở.
Chàng lại trở về nghề cũ. Nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng ñã ương hạt "tu rên" thành cây ñem trồng trong vườn ngoài ngõ. Từ ñây, ngoài công việc dạy học còn có công việc chăm nom cây quý.
Những cây "tu rên" của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc ñã ñốm bạc. Nhưng ông già ấy lòng bỗng trẻ lại khi thấy những hàng cây mà mình bấy lâu chăm chút nay ñã bắt ñầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hàng làng xóm tới dự ñám giỗ của vợ và nhân thể thưởng thức một thứ quả lạ ñầu tiên có ở trong vùng.
Khi những quả "tu rên" bưng ra ñặt lên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Nhưng chủ nhân biết ý ñã nói ñón: - "... Nó xấu xí nó hôi, nhưng múi của nó ở trong lại ñẹp ñẽ thơm tho như mối tình ñậm ñà của ñôi vợ chồng son trẻ...". Ông vừa nói vừa xẻ những quả "tu rên" chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Múi "tu rên" nuốt vào ñến cổ quả có một vị ngon ngọt lạ thường. Đoạn, ông kể hết ñoạn tình duyên xưa mà từ lúc về ñến nay ông ñã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Và khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy long lanh hai giọt lệ nhỏ ñúng vào múi "tu rên" ñang cầm ở tay. Tự nhiên hai giọt nước mắt ấy sôi lên sùng sục trên múi "tu rên" như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch.
Sau ñám giỗ ba ngày, người ñàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ ñấy dân làng mỗi lần ăn thứ quả ñó ñều nhớ ñến người gây giống, nhớ ñến chuyện người ñàn ông chung tình. Họ gọi "tu rên" bằng hai tiếng "sầu riêng" ñể nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc
96
dòng dõi loại hạt có hai giọt nước mắt của anh chàng nhỏ vào thì mới là giống sầu riêng ngon1.
1 Theo Phạm Tường Hạnh trong Xuân 1957. Một truyện khác cũng do một vài người Nam-bộ kể, bảo quả sầu riêng có từ ñời Cao Biền. Nội dung của truyện ñại khái ñề cao Cao Biền mà hạ thấp giá trị của người Việt, nên ở ñây chúng tôi không thuật.
97
4. SỰ TÍCH CÂY HUYẾT DỤ
Ngày xưa có một bác ñồ tể chuyên mua lợn về giết thịt ñể mang bán ở chợ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa theo lệ thường thức dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường, sư cụ thức chú tiểu dậy gõ một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác ñồ tể sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta quen lấy tiếng chuông làm chừng thức dậy làm việc hàng ngày. Cứ như thế, ngày nào cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc.
Một ñêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người ñàn bà dắt năm ñứa con nhỏ ñến trước mặt mình rồi vái lấy vái ñể, miệng nói: - "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người ñàn bà: - "A-di-ñà Phật! Cứu mạng là cứu thế nào? Bần tăng phải làm gì ñây?". Người mẹ có bộ ñiệu hãi hùng ấy trả lời: - "Ngày mai xin hòa thượng hãy ñánh chuông chậm lại. Như vậy mẹ con chúng thiếp rất ñội ơn". Nhà sư tỉnh dậy không hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm ñó, vâng theo lời báo mộng, sư cụ chỉ lâm râm ñọc kinh cầu nguyện mà không thức chú tiểu dậy thỉnh chuông.
Lại nói chuyện hôm ấy bác ñồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi ñến lúc mặt trời lên chừng một cây sào, tiếng chuông chùa mới bắt ñầu vang rền làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời ñã quá trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thì khi ñưa ra ñến chợ, chợ ñã vãn người rồi. Tức mình vì lỡ mất một buổi chợ, bác ta lật ñật sang chùa trách sư cụ. Sư cụ bèn ñem câu chuyện nằm mộng ñêm qua ñể phân trần với ông hàng xóm không phải lỗi tại mình.
Nhưng lúc bước chân về chuồng lợn của nhà thì bác ñồ tể ngạc nhiên thấy con lợn cái mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng ñó, ñã ñẻ ñược năm con lợn con. Vừa mừng vừa sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự lạ lùng: - "Đúng là linh hồn người ñàn bà ẩn trong con lợn cái ñã tìm cách cứu bầy con của mình khỏi chết".
Tự nhiên bác ñồ tể ñâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình ñã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận ñến cực ñiểm, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sang chùa bộc bạch nỗi lòng với sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật ñài từ nay xin giải nghệ.
Không rõ bác ñồ tể rồi sau ñó thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một loại cây có lá ñỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết dụ1.
1 Theo lời kể của người miền Bắc.
98
KHẢO DỊ
Truyện trên chắc chịu ảnh hưởng của phật thoại, nó ñược nhân dân lưu truyền khá rộng. Có thể so sánh với truyện Rắn báo oán (số 158, tập IV).
Trong Bản quốc dị văn lục có kể truyện trên và cho rằng sư cụ chính là bố của Nguyễn Xí người làng Lê-xá huyện Chân-phúc (tức Nghi-lộc) Nghệ-an, tên là Trị. Cuối ñời Trần thi không ñỗ, ông bỏ ñi tu, trụ trì ở chùa làng, lấy tên là Hòa Nam thiền sư. Sau khi nghỉ ñánh chuông ñể cứu mẹ con người ñàn bà trong mộng, sư bèn bỏ tiền mua lấy ñàn lợn ấy của bác ñồ tể rồi ñem thả chúng vào rừng. Về sau, sư bị hổ giết, mối ñùn thành mộ. Nhưng con cháu của sư thì từ ñó có ñịa vị rất cao ở triều ñình nhà Lê. Người chép truyện có ý nói ñó là nhờ mẹ con con lợn báo ơn một cách huyền bí mới ñược như thế.
Một truyền thuyết về Nguyễn Nghiễm cũng có nội dung tương tự:
Nguyễn Nghiễm - cha của thi hào Nguyễn Du - một lần về chơi quê nhà, một ñêm mộng thấy một người ñàn bà ñến cầu cứu mình: - "Xin cụ làm ơn cứu mạng. Con ñang có thai, ñược mẹ tròn con vuông là nhờ ơn cụ". Tỉnh dậy, ông không hiểu thế nào cả. Nhưng sau ñó bỗng thấy có người ñến biếu một con cá chép rất to vừa ñánh lưới ñược. Trông thấy con cá có chửa, ông nhớ ñến giấc mộng hôm qua, liền sai người nhà thả xuống sông. Đêm hôm ấy, lại mộng thấy người dàn bà nọ ñến cảm ơn mình1. Từ ñấy họ Tiên-ñiền có tục kiêng ăn cá chép.
1 Theo Gia phả Trung Cẩn công ở Tiên-ñiền (Hà-tĩnh).
99
5. SỰ TÍCH CHIM HÍT CÔ
Ngày xưa, có hai cô cháu ở chung với nhau một nhà. Người cô già, chồng chết từ lâu. Đứa cháu còn bé chừng mười hai tuổi mồ côi cha mẹ. Nhà họ nghèo, chỉ có vài sào ruộng, không ñủ sống. Cho nên cô cháu ngày ngày phải ñi mò cua bắt ốc hoặc mót hái kiếm ăn. Mấy năm trời ñược mùa, hai cô cháu tuy không lấy gì làm ñầy ñủ nhưng cũng sống vui. Ngày ngày cháu theo cô xách giỏ ra ñồng, miệng hát có vẻ thích chí.
Nhưng không may vụ hạ năm ấy mất mùa. Rồi tiếp ñến vụ mùa nắng hạn nên cũng chẳng ăn thua gì. Trời không nắng lắm nhưng nhất ñịnh không mưa làm cho các ao hồ ñều khô rông rốc. Ruộng nứt nẻ hết. Hai cô cháu cũng như những người nghèo khác ñi mò cua bắt ốc ở các vùng cạn nước. Nhưng cua ốc bắt mãi cũng phải hết. Mà trong nhà thì gạo ñã kiệt từ lâu. Biết tìm cái gì mà nuôi nhau ñây. Người ta có sức khỏe lên rừng chặt củi về ñổi lấy những cái ăn ñược mà sống qua ngày. Riêng hai cô cháu sức yếu ñành chịu nằm nhà nhịn ñói. Cái chết ñang dọa nạt họ.
May sao, buổi sáng hôm ấy có người hàng xóm sang báo tin cho cô cháu biết là có mấy ñám lúa ở làng bên cạnh ñã bắt ñầu gặt. Bà cô thấy mình yếu lắm rồi, ñứng lên không vững nữa. Chỉ có cháu là hơi tỉnh. Anh chàng gắng ngồi lên. Một người láng giềng ñem cho một bát canh rau. Cháu húp vào thấy khỏe cả
người, vội ñứng lên ñi theo họ.
Họ ñến vừa kịp buổi gặt. Nhưng người gặt thì ít mà người mót thì ñông vô kể. Tất cả ñều ñói nhưng mót rất khỏe. Họ ñánh liều sấn vào bứt lúa mặc kệ chủ ruộng cầm roi ñánh không tiếc tay.
Mãi ñến chiều, người cháu mới ñem lúa về. Lèo tèo chỉ có một nắm bằng cái chổi xể. Nhưng anh chàng không ngại. Hắn ñập, sảy, rang rồi bỏ vào cối giã. Chỉ một lúc sau hắn ñã ñổ vào nồi bắc lên bếp.
Khi nồi cháo bắt ñầu sôi thì người cô bỗng trở mình và rên khừ khừ. Cháu lật ñật vào lật chiếu thăm cô. Cô rên rỉ kêu ñau bụng, bảo cháu ñi xin cho mình một tí gừng. Cháu ngần ngại không muốn ñi nhưng thấy cô có vẻ nguy kịch, vội ñánh ñường vào xóm. Sau khi cháu ñi, người cô gắng dậy ngồi vào bếp ñun lửa cho nồi cháo. Lúc cháo chín, cô bỏ muối vào nếm thử một hớp. Chất ngũ cốc vào bụng trôi ñến ñâu, thịt da như sống lại ñến ñấy. Thấy cháu vẫn chưa về, cô múc ra một bát ñể dành phần cho cháu rồi lại ngồi ăn. Loáng một cái, cô ñã ăn hết phần của mình. Cô lại chõng nằm nhưng trong bụng vẫn thấy thèm. Thấy cháu vẫn chưa về, cô nghĩ: - "Thằng bé có lẽ ñược người ta cho ăn rồi nên mới lâu thế. Nếu hắn ñói thì dù gừng ñược hay không cũng phải về sớm". Nghĩ vậy, người cô lại lồm cồm dậy ăn xén vào cháo của cháu một tý. Cô ñi ra ngoài cửa
100
nhìn. Vẫn không thấy tăm dạng của cháu. - "Chắc nó ñược ăn rồi còn ngồi lại sưởi. Ta có thể ăn nốt ñi cho nó". Nghĩ thế, cô yên tâm lại húp thêm một hớp nữa vào phần của cháu.
Cho ñến khi người cháu mang gừng về thì bát cháo chỉ còn một tý nước ở dưới ñáy. Cháu hỏi cô. Cô không trả lời. Nhưng cháu cũng ñoán ñược hết. Cháu ôm mặt khóc nức nở. Cháu giận cô, oán cô rồi rủa cô. Được một chốc, cháu bưng bát cháo lại chõng cô nằm, dí sát vào miệng và nói bằng một giọng cay chua:
- Đó còn ít nữa, hít nốt ñi! Hít ñi cô, hít cô...
Sáng hôm sau, mãi ñến trưa vẫn chưa thấy cháu dậy, cô lại gần ñưa tay sờ vào người cháu, thì ôi thôi người cháu ñã lạnh toát từ bao giờ.
Từ ñó trở ñi vào khoảng trời khuya, người ta nghe có tiếng chim kêu não nùng trong không gian: "Hít cô! Hít cô!". Tiếng chim kêu một ñiệu ñều ñều như nhắc nhở những ngày sống gian khổ của hai cô cháu1.
KHẢO DỊ
Truyện này theo người Hà-tĩnh, Quảng-bình kể cũng tương tự, nhưng có một tình tiết hơi khác:
Ngày xưa có hai cô cháu nhà nghèo, sống chung với nhau. Một năm nọ ñói kém lớn, người chết như rạ. Hai cô cháu hết gạo, sức yếu, ñành ngồi nhà ñợi chết. Giữa khi ñó người cháu bỗng trông thấy một con chuột nhắt. Hắn bảo chuột: - "Thôi từ giã chuột nhé! Chúng tao chết ñói ñây!". Chuột bảo: - "Gạo ñang còn trong bồ sao ñã chết vội thế!". Người cháu chạy vào buồng vét mãi trong bồ gạo chỉ thấy còn có mỗi một hạt cuối cùng. Thấy hắn ném xuống ñất, chuột bảo: - "Ngọc của trời ñấy. Cứ giữ lấy rồi mỗi ngày ñưa ra hít ba lần là ñủ sống rồi!".
Cháu bèn nhặt lấy, trân trọng ñưa cho cô, kể chuyện vừa rồi và nói: - "May quá chúng ta sẽ sống, o2ạ". Người cô cho là cháu mê hoảng nói càn không ñề ý ñến. Nhưng mấy ngày sau, trong khi cô cất bước không nổi thì cháu vẫn vui vẻ ca hát. Cô ngạc nhiên về sự mầu nhiệm của "hạt ngọc". Từ ñó hai cô cháu cứ ñến bữa ăn là ñem "hạt ngọc" mỗi người hít một tý, nhờ vậy họ kéo dài sự sống ñược vài mươi ngày.
Nhưng sau ñó một hôm, trong khi hít, người cô buột tay ñể cho "hạt ngọc" chui tuột vào cổ họng của mình. Cô khạc mãi nhưng "hạt ngọc" vẫn không ra.
1 Theo báo Tràng-an.
2 O: cô (tiếng Nghệ - Tĩnh).
101
Cháu giục cô ho, giục cô nôn ọe rối rít. Nhưng tuy cô ñã làm ñủ mọi cách mà "hạt ngọc" vẫn không chịu vọt ra.
Và sau ñó cháu chết hóa thành chim hít cô, luôn mồm nhắc mãi sự bất cẩn của người cô vô ý. Có người lại bảo cháu chết hóa thành chim o ho. Ngày nay con chim ñó vẫn còn kêu những tiếng "O ho! O ho!" là tiếng cháu giục cô ho khạc cho ra hạt gạo.
Người Nghệ-an cũng có một truyện kể như trên nhưng thay cho hạt gạo là hạt ñỗ. Và ở ñây ñáng lý người cô hít "hạt ngọc" tuột vào cổ họng, thì lại là cháu. Dĩ nhiên cháu sống mà cô thì chết. Sau ñó, cháu thương cô, hễ ñến mùa ñậu có quả thì van lên rằng: "Cô hỡi, cô hời, về ăn cơm với ñậu ương"1.
Có người kể: cháu sau ñó cũng chết hóa làm chim tu hú. Cho nên về sau ñến mùa ñỗ, loài chim tu hú có cái ăn thì nhớ ñến cô, kêu lên:
Cô hố cô hố.
Lúa ñã trổ,
Đỗ ñã chín,
Bay về mà ăn!2
Có lẽ ñây cũng là một dị bản, nhưng người kể ñã nhớ lẫn lộn và không ñược trọn vẹn.
Người Nùng cũng có một truyện ít nhiều giống với truyện của ta:
Có hai cô cháu ở với nhau. Cháu tên là Pít-tu. Gặp nạn ñói, trong nhà hết gạo, cô và cháu theo người ta vào rừng ñào củ mài. Mãi ñến gần trưa mới tìm ñược một dây. Cô bảo cháu ngồi chờ cho mình ñào. Cô ñào mãi vẫn chưa thấy củ mà bụng thì ñã mấy ngày chưa có miếng gì. Khi ñào gần ñến củ, cô cúi người xuống móc lên, không ngờ tuột tay ñâm ñầu xuống hố. Cháu chạy ñến kéo cô lên, nhưng vì người bé, sức yếu, lại ñói, kéo mãi không lên. Cô chết, Pít-tu sau ñó ñược tiên làm cho hóa thành chim tu hú, luôn mồm kêu "a ơ!" (a: tiếng Nùng nghĩa là cô).
Truyện còn thêm tình tiết: chim tu hú bay vào tận cung ñiện, mổ vào mắt nhà vua là kẻ ñã gây ra nạn ñói3. Có lẽ tình tiết này là do các nhà sưu tập gần ñây mới thêm vào.
1 Theo Bản khai của thôn Hướng-dương.
2 Theo Nguyễn Văn Ngọc. Truyện cổ nước Nam (B. Muông chim), quyển I. 3 Theo Truyện cổ Việt-bắc.
102
6. SỰ TÍCH CHIM TU HÚ
Ngày xưa có hai nhà sư Năng Nhẫn và Bất Nhẫn. Hai người cùng cạo ñầu xuất gia từ ngày còn trẻ và cùng tu ở một ngôi chùa hẻo lánh.
Sau một thời gian dài tu luyện thì bỗng một hôm, Năng Nhẫn ñược ñức Phật ñộ cho thành chính quả.
Bất Nhẫn thấy mình tu hành không kém gì bạn mà không ñược hưởng may mắn như bạn thì rất buồn bực. Chàng ñến trước tòa sen hết sức kêu nài với ñức Phật bày tỏ lòng chân thành tu ñạo cùng mọi sự khổ hạnh ñã trải qua của mình. Đức Phật bảo chàng: - "Nhà ngươi chuyên tâm cầu ñạo, lại là người trong sạch, thật ñáng khen ngợi. Nhưng tính tình nhà ngươi vẫn như con trâu chưa thuần, chưa thể ñắc ñạo ñược. Vậy hãy cố gắng tỏ rõ tấm lòng nhẫn nhục trong một cuộc khổ hạnh trường kỳ rồi sẽ theo bạn cũng chưa muộn".
Bất Nhẫn nghe lời bèn lên núi chọn một gốc cây bắt chước người xưa ngồi xếp bằng tu theo lối trường ñịnh. Chàng cương quyết ngồi im lặng như thế mãi trong ba năm, dù có phải thế nào cũng không chịu dậy.
Và từ hôm ñó, Bất Nhẫn như một vật vô tri vô giác. Những con sâu con kiến bò khắp mình chàng. Những con thú cà vào thân chàng. Những con chim ỉa phẹt lên ñầu chàng. Chàng ñều không hề bận tâm. Chàng chỉ một mực tâm tâm niệm niệm nghĩa lý cao thâm của ñạo Phật.
Cứ như thế, trải qua hai mùa hè và sắp sửa qua một mùa hè thứ ba là kết liễu cuộc tu luyện. Một hôm tự dưng có hai vợ chồng con chim chích ở ñâu ñến làm tổ ngay trong vành tai của Bất Nhẫn. Chàng cứ ñể yên, mặc chúng muốn làm gì thì làm. Chúng ñi về tha rác lên ñầu, lên mặt. Rồi chim mái ñẻ trứng. Rồi cả một thời kỳ hai vợ chồng thay phiên nhau ấp. Cho ñến lúc trứng nở, những con chim non kêu léo nhéo suốt ngày. Nhưng Bất Nhẫn không lấy thế làm khó chịu.
Một hôm, lúc ấy chỉ còn mười ngày nữa thì Bất Nhẫn hết hạn ngồi dưới gốc cây. Hôm ñó, ñến lượt con chim vợ ñi tìm thức ăn cho con.
Suốt một buổi chiều nó vẫn không kiếm ñược một chút gì. Mãi ñến gần tối lúc lượn qua một cái hồ, chim vợ mới thấy một con nhện ñang giăng tơ trong một ñóa hoa sen. Nhện nhác thấy chim liền ẩn mình vào giữa những cánh hoa làm cho chim mất công tìm mãi. Không ngờ hoa sen vừa tắt ánh mặt trời ñã cụp ngay cánh lại, nhốt chim vào trong. Chim cố công tìm lối chui ra nhưng những cánh hoa vây bọc dày quá ñành chịu nằm lại ñó.
Ở nhà, chim chồng hết bay ñi kiếm vợ lại trở về. Đàn con ñói mồi nháo nhác suốt ñêm. Mãi ñến sáng mai, chờ lúc hoa nở, chim vợ mới thoát ñược bay về tổ. Một cuộc cãi lộn nổ ra bên tai Bất Nhẫn. Ghen vợ, chim chồng mắng nhiếc vợ
103
hết lời. Nhưng chim vợ vẫn hết sức bày tỏ nỗi lòng trinh bạch của mình. Cuộc ñấu khẩu kéo dài suốt cả buổi sáng và có cơ chưa chấm dứt. Bất Nhẫn rất khó chịu. Thêm vào ñó, ñàn con khóc ñói chíu chít ñiếc cả tai. Nhè lúc vợ chồng chim cãi vã ñến chỗ găng nhất, Bất Nhẫn bỏ tay lên tai giật cái tổ chim vứt mạnh xuống ñất và nói: - "Đồ khốn! Chỉ có mỗi một chuyện ñó mà chúng mày làm ñiếc tai ông từ sáng ñến giờ".
Thế là công sức tu luyện của Bất Nhẫn sắp hoàn thành thốt nhiên vứt bỏ trong chốc lát.
Nhưng Bất Nhẫn vẫn không nản chí. Trước tòa sen, chàng hứa sẽ kiếm cách tỏ rõ sự hối lỗi của mình. Chàng tìm ñến một khúc sông nước chảy xiết, tình nguyện làm người chèo ñò ñưa khách bộ hành quá giang mà không lấy tiền. Chàng quyết chở cho ñến người thứ một trăm mới chịu nghỉ tay.
Lần này Bất Nhẫn tỏ ra một người rất nhẫn nại. Tuy bến sông thường vắng khách, chàng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Luôn trong hai năm chàng chở ñược chín mươi tám người mà không xảy ra việc gì.
Một hôm vào khoảng giữa thu, nước sông tự nhiên tràn về chảy xiết hơn mọi ngày. Trời bỗng ñổ một trận mưa lớn. Giữa lúc ñó có một người ñàn bà dắt một em bé ñòi qua sông. Hắn có vẻ là vợ một viên quan sở tại; chưa bước xuống thuyền ñã dọa Bất Nhẫn:
- Chú nhớ chèo cho vững nghe không. Che mui cho kín. Nếu ñể chúng ta mà ướt thì liệu chừng kẻo roi quắn ñít ñó.
Nghe nói thế Bất Nhẫn ñã hơi bực, nhưng chàng nín ñược và vẫn giữ vẻ mặt tươi cười ñáp:
- Bà và cậu ñừng sợ gì cả. Tôi xin cố sức.
Rồi chàng vận dụng hết tài nghề ñể ñưa hai mẹ con nhà nọ qua bên kia sông ñược vô sự. Lúc sắp lên bờ, người ñàn bà bỗng kêu lên:
- Ta quên khuấy ñi mất. Có một gói hành lý bỏ quên ở quán bên kia. Vậy nhà ngươi chịu khó chèo sang lấy hộ.
Bất Nhẫn nín lặng cắm cổ chèo qua sông giữa sóng gió. Mãi ñến gần tối chật vật lắm chàng mới ñưa ñược gói hành lý sang cho người ñàn bà. Nhưng khi soát lại gói, người ñàn bà nọ lại kêu lên:
- Thôi rồi! Còn một ñôi giày của thằng bé bỏ ở gậm giường. Thế nào nhà ngươi cũng phải gắng sang lấy cho ta một lần nữa.
Người ñàn bà nói chưa dứt lời thì Bất Nhẵn ñã chỉ tay vào mặt: - Cút ñi ñồ chó ghẻ! Tao có phải sinh ra ñể hầu hạ mẹ con nhà mày mãi ñâu.
104
Nhưng người ñàn bà ấy vốn là ñức Phật Quan âm hiện hình xuống thử lòng người ñệ tử khổ tu ñó; bấy giờ lại hiện nguyên hình và cất tiếng bảo chàng:
- Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm nhẫn nhục, như thế thì tu gì mà tu. Có tu hú! Bất Nhẫn thẹn quá ñành cúi ñầu nhận lỗi.
Phật bà Quan âm sau ñó bắt Bất Nhẫn hóa thành một giống chim mà người ñời sau quen gọi là chim tu hú. Họ bảo thứ chim ñó vào khoảng cuối hè sang thu hay xuất hiện, ñúng vào lúc xảy ra câu chuyện giữa Bất Nhẫn với Phật bà1.
KHẢO DỊ
Truyện này có thể bắt nguồn từ một phật thoại hay ngụ ngôn nhà chùa.
Nhưng nó ñã ñược nhân dân thêm thắt và truyền tụng khá phổ biến. Thi sĩ Trần Kế Xương ñã diễn tả ñoạn ñầu theo ñiệu lục bát thành truyện thơ nhan ñề là Năng Nhẫn Bất Năng Nhẫn hành2. Trong ca dao Việt-nam có một bài kể nỗi oan của con chim chích mái, cũng rút từ truyện cổ tích trên:
Ông Tô Tử lên chơi trên ñỉnh núi,
Thấy hai vợ chồng con chim chích,
Chín tháng mười ngày ñủ cánh mọc lông,
Vợ ñể con cho chồng, bay ñi kiếm chác;
Lạ thung thổ, mồi thời không ñược,
Bước chân ra về thấy nhện chăng tơ.
Mảng vui chơi bắt nhện nào ngờ,
Khi âm tối, hoa sen cụp lại.
Chồng thì mong, con thì bỏ ñói,
Hết dỗ ñứng dỗ ngồi, ra ngõ liền trông.
- Kìa kìa gái năm con chửa hết lòng chồng,
Còn say ñắm về bên hoa nguyệt.
- Tôi thề có trời xanh nước biếc,
Núi non thề với nước non,
1 Theo lời kể của người Hà-tĩnh và theo Pháp-Á tạp chí.
2 Xem sách Vị thành giai cú tập.
105
Nào ai phụ rẫy chồng con, ñã trời?1
Xem thêm các truyện Sự tích con nhái (số 10), Sự tích cá he (số 13) và Sự tích ông bình vôi (số 22) ñều ít nhiều có tính chất phật thoại và tương tự phần nào với truyện này về mặt chủ ñề.
1 Nguyễn Văn Ngọc. Tục ngữ phong dao, tập II.
106
7. SỰ TÍCH CHIM QUỐC
Ngày ấy có ñôi bạn chí thân là Quắc và Nhân. Họ ñều là con nhà học trò nghèo, lại ñều mồ côi cha mẹ, Quắc ñược học nhiều hơn bạn: anh chàng làm thầy ñồ dạy trẻ. Tuy bổng lộc chẳng có là bao nhưng Quắc vẫn thường giúp ñỡ Nhân. Đối lại, có lần Quắc bị ốm nặng, giá không có bạn thuốc thang ngày ñêm thì anh khó lòng sống nổi. Sau ñó cũng vì sinh kế, ñôi bạn phải chia tay mỗi người mỗi ngả.
Trong khi Quắc sống cuộc ñời dạy trẻ thì Nhân cũng ñi lang thang ñến các vùng xa lạ làm thuê làm mướn. Trải qua một thời kỳ lang bạt, cuối cùng anh chàng vào làm công cho một phú thương. Thấy chàng thật thà chăm chỉ, phú thương rất tin cậy. Chẳng bao lâu Nhân ñược phú thương gả con gái cho.
Vợ Nhân có nhiều của riêng. Vì thế Nhân nghiễm nhiên trở nên một phú ông có cơ nghiệp kha khá ở trong vùng.
Nhân giàu nhưng không quên tình bầu bạn. Nhân vẫn nhớ tới lời thề "sống chết sướng khổ có nhau" với Quắc. Nhân cất công ñi tìm và sung sướng thấy Quắc vẫn còn sống. Tuy Quắc ñang dở năm dạy, nhưng Nhân cũng thương lượng ñược với cha mẹ học trò cho con em chuyển sang một cụ ñồ khác rồi ñưa Quắc về nhà mình. Nhân dặn người nhà phải coi Quắc không khác gì mình, cơm nước hầu hạ không ñược bê trễ.
Nhưng tính vợ Nhân không ñược như chồng. Xưa nay ñối với những kẻ rách rưới, chị ta thường tỏ vẻ coi thường. Và, chị ta không cùng sống những ngày hàn vi với Nhân nên có thấy ñâu tình nghĩa giữa Nhân và Quắc như thế nào. Nhưng thấy chồng trọng ñãi khách nên lúc ñầu chị không dám nói gì. Nhân luôn luôn bảo vợ: - "Đây là người thân nhất trong ñời tôi. Nếu không có bạn thì tôi chưa chắc ñã sống ñể gặp nàng". Vợ Nhân chỉ lẩm bẩm: - "Khéo! Bạn với bè! Chỉ có ngồi ăn hại".
Dần dần vợ Nhân bực mình ra mặt. Chị ta khó chịu vì cái ông khách lạ tự dưng ở ñâu ñến chả giúp ích gì cho nhà mình, chỉ chễm chệ trên giường cao, cơm rượu mỗi ngày hai bữa. Vợ Nhân trước còn nói mát sau thì ngoa ngoắt ra mặt. Có hôm người ñàn bà ấy ñay nghiến cả chồng lẫn khách:
- Chẳng phải bố già, không phải khách nợ, ở ñâu lại rước về thờ phụng: ăn no lại nằm. Thôi liệu mà tống quái ñi!
Thấy thái ñộ vợ ngày càng quá quắt, chồng chỉ sợ mất lòng bạn. Một mặt Nhân thân hành chăm chút bạn chu ñáo hơn cả lúc trước, mặt khác Nhân tỷ tê khuyên dỗ vợ. Nhưng vợ Nhân chứng nào vẫn giữ tật ấy. Về phần Quắc thì
107
chàng hiểu tất cả. Đã hai lần Quắc cáo bạn xin về nhưng Nhân cố giữ lại. Thấy bạn chí tình, Quắc lại nấn ná ít lâu.
Nhưng hôm ñó Quắc quả quyết ra ñi vì chàng vừa nghe ñược những câu nói xúc phạm nặng nề. Quắc nghĩ, nếu mình không ñi sớm thì có ngày bị nhục với người ñàn bà này. Mà nếu ra ñi như mấy lần trước thì sẽ bị bạn chèo kéo lôi thôi.
Một hôm, trời còn mờ sương, Quắc cất bước lẻn ra khỏi nhà. Để cho bạn khỏi mất công tìm kiếm, khi ñi qua một khu rừng, chàng cởi khăn áo treo lên một cành cây bên ñường. Đoạn Quắc lần mò ñến xứ khác trở lại cuộc ñời dạy trẻ.
Thấy mất hút bạn, Nhân bổ ñi tìm. Khi nghe tin có người bắt ñược khăn áo ở mé rừng phía Nam, chàng lật ñật ñến xem. Nhận rõ ấy là khăn áo của bạn, Nhân rất thương cảm: - "Ta nuôi bạn thành ra hại bạn! Chắc bạn ra bị cướp giết chết". Nhưng sau ñó Nhân lại nghĩ khác: - "Bạn ta ra ñi trong túi không có một ñồng một chữ thì dầu có gặp cướp cũng không việc gì. Đây một là hùm beo ăn thịt, hai là bị lạc trong rừng sâu".
Nhân bắt ñầu vào rừng tìm Quắc. Không thấy có vết máu, chàng lại càng hy vọng. Băng hết chông gai, chui hết bụi rậm, Nhân luôn luôn cất tiếng gọi: "Anh Quắc ơi! Quắc! Quắc!". Nhân ñi mãi, gọi mãi, quanh quẩn trong khu rừng mênh mông. Cho ñến hơi thở cuối cùng con người chí tình ấy vẫn không quên gọi: - "Quắc!Quắc!". Rồi ñó Nhân chết hóa thành chim quốc, cũng gọi là ñỗ quên.
Vợ Nhân ñợi mãi không thấy chồng về, lấy làm hối hận. Một hôm chị ta bỏ nhà bỏ cửa ñi tìm chồng. Cuối cùng cũng ñến khu rừng phía Nam. Nghe tiếng "Quắc! Quắc!", chị ta mừng quá kêu to: - "Có phải anh ñấy không anh Nhân!". Không có tiếng trả lời ngoài những tiếng "Quắc! Quắc!". Vợ Nhân cứ thế theo tiếng gọi tiến dần vào rừng sâu. Sau cùng không tìm ñược lối ra, chết bên cạnh một gốc cây1.
KHẢO DỊ
Truyện Sự tích chim quốc của Trung-quốc khác hẳn truyện của ta. Theo sách Hoàn vũ ký thì ngày xưa có Thục vương tên là Đỗ Vũ làm vua mang hiệu là Vọng Đế. Vọng Đế lập Miết Linh làm tướng. Về sau Vọng Đế nhường ngôi cho Miết Linh rồi bỏ ñi mất, hóa làm chim tử quy, cũng gọi là chim ñỗ vũ hay ñỗ
quyên2.
1. Theo Trung Bắc chủ nhật (1943).
2. Theo Bội văn vận phủ.
108
Còn theo Cầm kinh thì Miết Linh là bề tôi ñược Đỗ Vũ (tức Vọng Đế) tin dùng cất làm tướng; về sau bị Miết Linh cướp ngôi, Đỗ Vũ tức và tiếc quá, ngày ñêm kêu "Quốc! Quốc!1" ra rả. Sau có một ông tiên hiện ra trách: - "Quá tin người ñể mất nước, kêu mà làm gì?". Đỗ Vũ thẹn quá chui lủi trong bụi cây. Sau hóa thành chim, hễ thấy người là chạy, thỉnh thoảng vẫn kêu "Quốc! Quốc!". Đồng bào Mường ở Hòa-bình cũng có truyện Sự tích chim quốc tương tự với truyện của Trung-quốc. Dòng dõi họ Bạch ở Kim-bôi thuộc châu Lương-sơn (Hòa
bình) kiêng ăn thịt chim quốc vì họ cho chim quốc là dòng dõi của Thục ñế. Mà Thục ñế ở ñây lại là Thục An Dương Vương, mất nước, chết hóa thành chim, luôn miệng kêu "Quốc! Quốc!".
Ở Nghệ-an có người kể Sự tích chim quốc như sau:
Có ñôi vợ chồng hiếm hoi, chỉ ñược một con trai, hỏi vợ cho ñám nào anh cũng chê cả. Sau anh ñi buôn nước ngoài, sang ñất Thục, các cô gái thấy anh thì phải lòng, trong ñó có một cô gái nhà quan. Cô gái về thưa với cha. Quan cho ñòi anh ta ñến gả cho làm vợ. Hai người yêu nhau rất mực.
Lấy nhau ñược một năm thì có thư nhà sang báo anh về. Về ñến nhà, anh bị bố mẹ giữ lại không cho ñi buôn xa nữa. Anh ta nhớ vợ ngày một héo mòn. Sau hóa ra chim quốc, miệng lúc nào cũng kêu: "Thục quốc! Thục quốc!"2.
Đồng bào Nam-bộ lại kể truyện này với chủ ñề tình bạn, nhưng hình tượng trong truyện khác với truyện của người Bắc-bộ ở trên:
Ngày xưa có một ông vua Chàm tên là La Hoa. La Hoa chuẩn bị ñem quân ra ñánh nước Việt. Một người tên là Quốc vừa là bạn vừa là cố vấn, hết sức can ngăn, nhưng không ñược. Tuy biết chắc thất bại nhưng Quốc cũng xin ñi theo ñể chịu chung số phận. Cuộc chiến ñấu diễn ra kịch liệt ở Đèo Ngang. La Hoa bị trúng một mũi tên chết. Quốc thúc quân báo thù, cuối cùng cũng chết.
Hồn của Quốc ñi tìm La Hoa nhưng không biết rằng xác La Hoa ñã bị kẻ ñịch ñưa ñi mất tích. Tìm không ñược, hóa làm chim, luôn mồm kêu "Quốc Quốc, La Hoa" (ý nói ñây là Quốc, La Hoa ở ñâu?)3.
Đồng bào miền Bắc còn một truyện khác nữa với chủ ñề mẹ ghẻ con chồng:
Có hai anh em: anh là con vợ cả ñã chết, em là con vợ kế. Mẹ ghẻ ghét con chồng tìm cách làm cho chết. Một hôm bảo cả hai: "Mỗi ñứa cầm một túi vừng lên Nam-sơn mà vãi, hạt của ñứa nào nẩy mầm mới ñược về ăn cơm, nếu không thì ñừng về". Dọc ñường nghỉ ở gốc cây, em thử nhấc túi vừng của anh thấy nhẹ
(kỳ thực là do mẹ ghẻ ñã ñồ chín nên mới nhẹ như thế) bèn ñề nghị ñổi. Khi vãi
1. "Quốc" là nước.
2. Bản khai những truyện dân gian: cây cỏ, chim muông, yêu ma.
3. Theo Lê Văn Phát. Cổ tích và truyền thuyết ở xứ An-nam.
109
xong thì vừng của anh mọc trước rất ñẹp. Em bảo anh về trước nhưng anh cứ ngồi chờ em. Em không thấy vừng của mình mọc cũng không chịu về. Cuối cùng cả hai ñều chết. Mẹ ghẻ lên núi thấy thế hối hận. Một hôm nghe có tiếng chim kêu: "Khổ quá! Khổ quá! Mẹ ñồ chín vừng làm hại con!". Đó là con ñẻ của mình ñã hóa làm chim ñỗ quyên1.
1. Theo Trung Bắc chủ nhật (1943).
110
8. SỰ TÍCH CHIM NĂM-TRÂU-SÁU-CỘT VÀ CHIM BẮT-CÔ-TRÓI CỘT
Ngày xưa, có một bác lực ñiền tên là Ba ở trong một xóm dưới chân núi. Bác không có ruộng phải làm rẽ năm sào của một phú ông ở làng bên cạnh. Phú ông là tay giàu có nhất tổng: ruộng ñất trâu bò ở rải rác các thôn xóm nhiều không ñếm xiết. Thấy bác là tá ñiền cũ, tính nết thật thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp thóc sòng phẳng, phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu. Từ ñấy công việc của bác Ba thêm bận rộn. Ngày ngày bác phải chăn một bầy trâu của phú ông từ ñộ ấy sinh nở tổng cộng ñã ñược năm con.
Tự nhiên một ngày nọ, phú ông lăn ra chết. Hắn chết giữa lúc tuổi còn khá trẻ. Phú ông chưa có con trai, chỉ có mỗi một cô gái nên bao nhiêu ruộng ñất trâu bò ñều về tay cô. Mà ruộng ñất trâu bò của phú ông giao cho các tá ñiền nhiều thứ linh tinh phức tạp, có thứ ñã làm giấy tờ phân minh nhưng cũng có thứ vì cái chết ñột ngột xảy ñến nên chưa có giấy tờ gì cả.
Cô con gái phú ông rất giống tính cha, lại là một người có mánh khóe vặt. Không bao giờ chịu ñể mất không cái gì cho người ngoài dù là những vật nhỏ mọn, Sau khi làm ma bố xong, cô gái mới bắt ñầu ñi kiểm soát một lượt gia sản của bố ñể lại.
Cô ñến nhà bác Ba vào một buổi chiều. Lúc ñó bác ta còn ñi chăn trâu chưa về. Nhà này có nuôi trâu, cô biết, nhưng tất cả số trâu nuôi trâu ñẻ ñược mấy con và lớn bé như thế nào thì hãy còn mập mờ. Trừ phú ông ra chả ai biết rõ. Mấy người ñầy tớ chỉ nhớ mang máng cả mẹ ñẻ con ñẻ ñâu năm sáu con.
Tục ở ñây nuôi trâu không có chuồng. Người ta ñóng ở góc sân những cái cột, tối về buộc mỗi con vào một cột. Thoạt vừa ñến cô gái ñếm ngay số cột ñược sáu cái: - "Sáu cột vị chi là sáu trâu" cô tự bảo thế. Cô không biết rằng trước ñây một hôm vì có một cột gần gãy nên bác Ba phải ñóng một cột khác, chưa kịp nhổ cái kia ñi.
Lúc bác lực ñiền ñánh trâu về, cô gái ñếm ñi ñếm lại chỉ có năm con, bèn ngẫm nghĩ: - "Quái thật! Sao chỉ có năm. Có lẽ vì không có giấy tờ, nên nghe tin cha chết lão này ñã bán trộm một con". Bèn nói to:
- Này bác Ba. Còn một con nữa ñâu?
Bác lực ñiền ngạc nhiên:
- Còn trâu nào nữa, tôi nuôi của cụ cả thảy chỉ có năm con.
Cô gái lý sự:
- Năm trâu sao lại sáu cột. Có lẽ bác ñánh lạc mất một con trong rừng chứ gì?
111
Bác Ba ñem việc cột gãy ra phân trần, nhưng cô nào ñâu có nghe: - Thôi bác chịu khó ñi tìm cho tôi ñi. Năm trâu sao lại có sáu cột? Thấy cô ta lẩm bẩm mãi mấy tiếng "năm trâu sáu cột", bác lực ñiền nổi xung: - Chỉ có bắt cô trói vào cột này thì họa chăng mới thành sáu ñược!
Cô gái phú ông không phải là tay vừa, nhảy lên xỉa xói bác Ba. Bác Ba bực mình bỏ ñi vào rừng. Cô tiếp theo chân bác. Rồi ñó hai câu "năm trâu sáu cột" và "bắt cô trói cột" trở thành lời ñối ñáp của hai bên.
Cả bác Ba và cô gái về sau ñều hóa thành chim. Hai con chim ñó xuất hiện ở vùng rừng núi Thái-nguyên, Bắc-cạn là vùng xảy ra câu chuyện. Hai con chim kiếm ăn từ nhá nhem cho ñến mờ sáng: một con ñàng này núi, một con ñàng kia núi, một con kêu: "Năm trâu sáu cột", một con ñáp: "Bắt cô trói cột"1. Người ta nhận tiếng kêu của từng con một mà ñặt tên2.
KHẢO DỊ
Về Sự tích chim năm-trâu-sáu-cột, theo lời kể của ñồng bào thiểu số ở vùng Hà-giang, Tuyên-quang thì lại có những ñiểm hơi khác. Truyện này có lẽ là nguồn gốc của truyện vừa kể trên:
Ngày xưa, ở vùng Tuyên-quang, Hà-giang có một thổ lang giàu có nhưng lại hiếm con. Hắn nuôi ñược hai người con nuôi: một trai, một gái rất xinh xắn và linh lợi. Khi thổ lang chết, người vợ sợ ñất ñai của cải của mình sẽ bị một thổ lang lân cận có thế lực chiếm ñoạt nên cố tìm cách giữ về cho mình. Mụ thấy thổ lang nọ ñang khao khát con gái nuôi của mình, mới trang ñiểm cho nàng và dỗ dành nàng làm thiếp người thổ lang kia. Mụ nghĩ bụng một khi ñã trở thành mẹ vợ thì chàng rể kia sẽ ñể cho mình và tài sản của mình yên ổn.
Không ngờ cô gái nuôi từ trước ñã chung tình với người con trai nuôi. Hai bên từng yêu thầm dấu vụng và quyết sống chết với nhau. Vì thế, tuy mẹ nuôi hết sức khuyên dỗ nhưng cô gái nhất quyết không nghe. Thổ lang kia chờ mãi không ñược, toan dùng mưu chiếm ñoạt. Người vợ góa của thổ lang nọ bèn sai người ñem trâu bò vàng bạc ñến biếu và ñoan rằng thế nào cũng tìm ra cách bắt con gái mình vâng lời.
Một hôm, mụ sai con gái nuôi chăn một ñàn trâu năm con, dặn tối về buộc mỗi con vào một cọc cho cẩn thận. Buổi chiều hôm ấy, cô gái sau khi cho trâu ăn no,
1. Có người cắt nghĩa tiếng kêu của loài chim ñó là "Bắc-quang Bắc-mục" hay "Hà-giang nước ñộc" nhưng không kể thành chuyện.
2. Theo Nguyễn Bính. Truyện cổ tích Việt-nam.
112
ñánh về, thấy chỗ "chòi trâu" ñã có sẵn sáu cọc bèn buộc mỗi con vào một cọc, còn cọc thứ sáu thì vô tình bỏ cỏ lấp lên, rồi ñi nghỉ.
Đến sáng mai người mẹ nuôi giả cách ra soát trâu. Mụ vờ hỏi con gái sao lại ñể mất một con. Cô gái ngạc nhiên, cãi lại. Nhưng mụ mồm loa mép giải bắt nàng phải ñền một con trâu mất. Mụ gọi mọi người tới, bới ñống cỏ cho họ thấy cái cọc thứ sáu rồi giả cách phân bua: - "Của tôi sáu trâu sáu cộc rành rành ra ñấy. Chiều hôm qua nó làm mất một con trâu rồi cố ý bỏ cỏ lấp cọc ñể khỏi ai thấy, gian dối ñến thế là cùng".
Vì ñã có chủ ý nên mụ cố làm to câu chuyện vu vạ. Mụ sai người hầu ñến trình với thổ lang nọ ñể bắt cô gái phải ñền trâu. Cô gái sợ hãi kêu khóc hết lời, mong mẹ nuôi thương hại. Mụ làm ra vẻ dàn xếp bảo cô gái bán mình cho thổ lang kia ñể lấy trâu ñền.
Biết là mắc phải mưu ñộc của người mẹ nuôi, cô gái bèn gọi người yêu ra gốc cây ở mé rừng than thở. Giữa khi cặp bạn tình ñang giọt ngắn giọt dài thì người mẹ nuôi sai người hầu ñánh ñuổi chàng trai và cấm cửa không cho về. Cô gái vô cùng ñau khổ, ngửa mặt kêu trời rồi ñâm ñầu xuống suối tự tử. Xác nàng trôi theo dòng nước ñến một ghềnh ñá vướng lại, và ñược mọi giống chim nhặt lá che phủ.
Từ ñó xuất hiện một giống chim ăn ñêm, ít ai ñược thấy hình dạng của chúng. Chỉ biết rằng chúng thường ñậu trên cành cây cao nhất rừng, cứ bốn tiếng một kêu dóng dả từ tối ñến sáng: "Năm trâu sáu cọc!"... "Năm trâu sáu cọc!"...
Đồng bào thiểu số ở Việt-bắc có truyện Chim khảm khắc dường như cũng là một dị bản của các truyện trên nhưng ñoạn kết thì lại có phần nào giống với Sự tích chim bóp-thì-bóp (xem Khảo dị truyện Sự tích ñá Vọng phu, số 32).
Một ông chúa có hai cô gái xinh ñẹp. Nàng Hai là người chất phác hiền lành, một hôm ñi chơi rừng bị báo vồ, nhưng nhờ có một chàng trai con nhà dân nghèo tên là Lương kịp thời xông tới cứu. Anh giết chết ác thú và ñưa nàng về nhà. Ông chúa thương hại anh áo quần tả tơi, máu me ñầm ñìa, bảo: - "Mày cứu con tao, tao sẽ nuôi mày". Nhưng Lương chỉ ñược ñãi như ñầy tớ. Mặc dầu vậy, anh và nàng Hai vẫn yêu nhau. Khi ông chúa biết chuyện, lập tức ñuổi anh ñi và dọa nếu còn tơ tưởng ñến nàng Hai thì sẽ giết chết. Mặt khác hắn cấm cung cô gái. Nhưng họ vẫn bí mật gặp nhau. Một hôm hai người rủ nhau ñi trốn, họ dựng chòi cao ở giữa rừng mà ở. Ông chúa cho quân ñến vây chòi và giao hẹn: - "Xuống ngay sẽ cho chết tử tế". Hai người không xuống. Tên bắn lên tua tủa. Lương muốn bắn trả lại nhưng bị người yêu ngăn cản. Lính trèo lên, Lương giơ nỏ nói: "Đứa nào trèo lên sẽ không ñược về với vợ con". Nàng Hai lại ngăn cản. Cuối cùng tên bắn lên rát quá, Lương chĩa nỏ và ngực bắn chết người yêu. Lương cũng bị tên bắn lên giết chết. Chúa bắt ñào hai hố cách xa nhau ñể chôn.
113
Họ hóa thành hai con chim trống mái, thường ban ngày ñi ăn, ñến chiều thì lạc nhau nên gọi nhau ra rả, khi gặp nhau thì trời vừa sáng. Người ta gọi là chim khảm khắc1.
Nguyễn Văn Ngọc có kể một truyện Sự tích chim bắt-cô-trói-cột của ñồng bào thiểu số Hà-giang như sau:
Ở vùng nọ có tục cứ ñến ngày vào ñám thì ñêm ñầu tiên là một buổi lễ tắt ñèn ñuốc. Hễ người nam bắt ñược người nữ nào thì trói vào cột. Đến lúc ñèn ñuốc bật lên thì người nam sẽ cưới người nữ ấy làm vợ. Có lần, một người nam cột ñược một người nữ, ñến khi ñèn ñuốc ñỏ lên thì hóa ra người ấy là cô ruột của mình. Chàng trai xấu hổ chết ñi, hóa làm chim, luôn mồm kêu: "Trói cô vào cột"2.
Đồng bào Ca-tu có một truyện Sự tích chim vua quan trói cột (tức là chim bắt cô trói cột ở miền Bắc) nhưng nội dung khác hẳn các truyện kể trên: có một anh dân nghèo là Ca Ngóc ñược bà thần cho một chiếc còi màu nhiệm, hễ cầm lấy thổi thành tiếng "Vua quan trói cột", và làm cho người thổi có phép tàng hình. Nhờ tiếng còi của anh, dân chúng nổi dậy ñánh giết quan và lính tới làng thu thuế. Sau ñó anh lại ñược bà thần gả con gái và cho viên ngọc "ñen như sừng trâu, nặng như hũ nước, thơm như mít chín". Anh và vợ tìm ñến cung vua làm cho vua quan và lính tráng bận tâm ñi tìm mít; trong khi ñó dân chúng xông tới cướp vũ khí, bắt vua quan trói vào cột rồi giết ñi.
Ca Ngóc sau ñó chết hóa thành giống chim, luôn mồm kêu: "Vua quan trói cột"3. Chúng tôi sợ rằng truyện này ít nhiều cũng ñã bị hiện ñại hóa.
1. Theo Thiên lôi bị ñòn (Truyện cổ tích Việt-nam).
2. Sách ñã dẫn.
3. Theo Truyện cổ Ca-tu, ñã dẫn.
114
9. SỰ TÍCH CHIM ĐA ĐA
Ngày xưa có một em bé mồ côi cha từ hồi còn nhỏ. Người mẹ sau một thời gian tang chế cũng ñi lấy chồng. Vì bà con thân thích nội ngoại không còn ai nên nó phải theo mẹ về ở với bố ghẻ. Bố ghẻ tính rất vũ phu, coi cả hai mẹ con như kẻ ăn ñứa ở. Nhất là thằng bé chưa biết làm gì cả, nên hắn lại càng ghét dữ. Nhiều lúc có việc trái ý, hắn ñánh thằng bé thâm tím cả mình mẩy.
Nhà hắn cũng không có gì. Hắn thường sinh nhai bằng cách lên rừng ñốn củi. Người ñàn bà vừa về với hắn ñược một ngày ñã phải gánh củi của chồng ñi bán ở chợ.
Không may, năm ñó trời làm mất mùa. Miếng ăn kiếm rất chật vật. Củi rẻ như bèo. Trước kia một gánh củi nuôi sống gia ñình ñược mấy ngày thì bây giờ không ñủ nuôi ñược một bữa. Thằng bé chưa làm ñược nghề ngỗng gì cả, trở nên một cái gai trước mắt bố ghẻ.
- Thằng bé này chỉ ăn hại ñái nát. Chỉ làm cho ta khó khăn thêm.
Hắn bảo vợ thế và khuyên vợ ñem con ñi bán cho kẻ khác nuôi. Nhưng người ñàn bà nhất quyết không chịu. Thà là cả hai mẹ con cùng chết chứ bà không ñời nào chịu lìa con.
Người bố ghẻ bèn có ý ñịnh muốn giết chết con riêng của vợ. Mạng người lúc này nhỏ bằng cái tơ cái tóc. Huống chi ñối với hắn, hắn chẳng coi ra gì. Nạn ñói coi chừng ñang kéo dài và ngày càng dữ dội. Một gánh củi lớn bây giờ không ñổi nổi một bát gạo.
Hôm ñó, chờ lúc vợ ñi chợ sớm, hắn ñưa thằng bé lên rừng. Hắn rủ: - Mày có muốn trèo ổi và bắt bướm không? Trên ấy thì tha hồ. Thằng bé nghe thế lấy làm thích, cố xin ñi theo cho ñược.
Cảnh rừng có nhiều cái lạ làm cho thằng bé lon ton chạy theo bố ghẻ không biết mệt. Người ñàn ông ñưa nó vào rừng sâu. Khi ñến chỗ mấy cây ổi rừng, hắn bảo thằng bé:
- Ổi ñấy. Và có bát cơm ñây. Chốc nữa tao lại tìm.
Thế rồi hắn bỏ mặc thằng bé, lẳng lặng lui ra, ñến một chỗ khác kiếm củi. Nhưng buổi chiều, khi bước chân vào nhà hắn lấy làm ngạc nhiên thấy thằng bé ñã về trước hắn rồi. Số là thằng bé trong khi ñang bơ vơ giữa rừng rậm thì may mắn gặp một bọn ñi ñào khoai mài về ngang. Thế là họ ñưa nó về. Nhờ có bát cơm, nó vẫn ñủ sức ñi ñược ñến nhà.
Nghe ñứa bé kể, hắn bực mình vô hạn. Hắn vờ mắng:
115
- Chỉ vì mày, làm tao tìm mãi không ñược!
Một lần khác hắn lại dỗ ñược ñứa bé ñi theo lên rừng. Lần này hắn cố tâm ñưa nó vào thật sâu, ñến những nơi chưa ai dám tìm vào hái củi bao giờ. Khi trốn khỏi thằng bé, hắn nghĩ bụng: - "Không chết vì thú dữ thì cũng chết vì lạc, không chết vì lạc thì cũng chết ñói mà thôi".
Mãi ñến chiều tối vẫn không thấy bố ghẻ trở lại, thằng bé khóc lóc, kêu gào nhưng chỉ có tiếng vọng của núi rừng trả lời nó thôi. Nó cuống cuồng chạy tìm khắp mọi ngả nhưng không hề thấy một bóng người. Khi ñã mệt lử và ñói bụng, nó tìm ñến chỗ bát cơm của bố ghẻ ñể lại thì không ngờ ñấy là một bát cát trên có rắc một lớp cơm với một quả cà ñể ñánh lừa. Thằng bé nhặt những hạt cơm phủi cát bỏ vào miệng. Cuối cùng ñói quá, nó cầm lấy bát chạy khắp nơi và kêu lên: - "Bố ghẻ ơi! Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!". Nhưng tiếng kêu gào của nó chỉ làm cho một vài con chim rừng giật mình mà thôi.
Rồi thằng bé chết, hóa thành chim ña ña, luôn luôn kêu những tiếng "Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!".
Đợi mãi không thấy con về, người ñàn bà khóc thương vô hạn. Đoán biết thằng chồng tàn bạo ñã ám hại con mình, bà ta ñứng lên xỉa xói vào mặt hắn. Cuối cùng bà ta bắt hắn phải ñi kiếm con mình về ngay, nếu không sẽ lên quan tố cáo. Túng thế hắn phải vào rừng. Hắn tìm mãi. Đột nhiên trong khu rừng hẻo lánh nổi lên mấy tiếng "Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!". Hắn rụng rời. Đích thị là oan hồn thằng bé ñã lên tiếng vạch tội ác của hắn. Nghe luôn mấy tiếng liên tiếp, hắn không còn hồn vía nào nữa, vội bỏ chạy. Nhưng mấy tiếng "Bát cát quả
cà" ñuổi theo hắn. Hắn chạy mãi, băng hết khu rừng nọ sang khu rừng kia. Tự nhiên hắn vấp phải ñá ngã xuống bất tỉnh nhân sự.
Mấy ngày sau, những người tiều phu thấy thi thể hắn nằm vật ở mé rừng1. KHẢO DỊ
Về truyện này có hai dị bản lưu truyền ở miền Nam:
a) Một người vào năm ñói ñi xin con rể một ít thóc về ăn. Lúc ñến nơi, chàng rể ñi vắng, chỉ có con gái của mình ở nhà. Nhưng con gái từ khi giàu có, quên mất cả bố; cho bố một bị "chẹp" (thóc lép) trên có rắc một ít thóc. Bố ra về dọc ñường gặp chàng rể. Chàng rể tốt bụng cầm bị thóc của vợ cho bố, biết rõ sự
thật, bèn dắt bố về lấy cho bố một bị thóc, và trong khi giận dữ ñánh vợ một bắp
11. Theo Jê-ni-bren (Génibrel). Truyện ñời xưa mới in ra lần ñầu hết, và dựa theo lời kể của người miền Bắc.
116
cày, không may vợ chết. Vợ hóa ra chim ña ña luôn mồm kêu câu: "Cách ca ca, bốc chép (hay giẹp) cho cha"1.
b) Có hai vợ chồng một người kiếm củi ñẻ một con trai ñặt tên là Đa Đa. Con lên 7 tuổi thì mẹ từ trần. Vợ kế của bố ñối ñãi với con chồng không tốt, luôn luôn gây chuyện mắng chửi. Một hôm, bố ñi kiếm củi về, thấy con khóc trước một bát cơm ñầy. Bố toan hỏi con thì dì ghẻ chạy ra lu loa xin chồng dạy con kẻo nó nhục mạ không thể chịu ñược. Bố giận sẵn rìu ñánh con, không ngờ chém vỡ ñầu con ở khoảng mặt, con lăn ra chết. Lúc làm lễ "mở cửa mả", tự
nhiên có con chim trong mộ bay ra kêu lên: - "Bát cơm cát trả cho cha, ñánh chác ñầu ra, bạc ác ña ña". Bố về lục tìm xem lại bát cơm dì ghẻ với cho con, mới thấy là một bát cát chỉ có một ít cơm phủ lên trên. Giận quá, bố lại choảng cho vợ một rìu chết tuốt. Người ta nói ngày nay dòng dõi chim ña ña có một vạch ñen từ mắt ñến tai ñó là dấu tích vết rìu chém phải; còn lông rằn ri trên người nó là vết tích roi ñánh lằn ngang lằn dọc của dì ghẻ2.
Cũng có người3 cho tiếng kêu của chim ña ña là "Bất thực cốc Chu gia" nghĩa là không ăn lúa nhà Chu. Họ cho giống chim này là kiếp sau của Bá Di, Thúc Tề. Đó là truyện do nhà nho kể theo ñiển tích của Trung-quốc4.
Xem thêm truyện Gốc tích tiếng kêu của Vạc, Cộc, Dù dỉ, Đa ña và Chuột (số 17).
1. Theo lời kể của người Quảng-ngãi.
2. Theo Lê Văn Phát. Sách ñã dẫn.
3. Theo lời kể của người Hà-tĩnh, Vĩnh-phú và người miền Nam.
4. Bá Di, Thúc Tề là con vua nước Cô-trúc ñời nhà Thương. Lúc cha sắp mất bảo lập em là Thúc Tề làm vua. Cha chết, Thúc Tề nhường cho Bá Di, Bá Di không chịu, bảo ñó là mệnh cha, rồi trốn ñi. Thúc Tề cũng không làm vua mà trốn nốt. Khi Chu Vũ Vương ñánh nhà Thương, Bá Di ñón ñường ñể can; can không ñược bèn nói rằng từ nay không ăn lúa nhà Chu nữa; cả hai anh em vào ẩn ở núi Thú-dương và bị chết ñói (Từ hải)
117
10. SỰ TÍCH CON NHÁI
Ngày xưa có một vị hòa thượng trẻ tuổi nổi tiếng chân tu. Mọi "thị dục" của bản thân, hòa thượng ñều kiên quyết cắt ñứt, chỉ một lòng chuyên chú vào lẽ hư vô của ñạo Thiền. Nhà vua nghe tiếng, vô cùng kính trọng, vời về cung, ban tước quốc sư và sai tu bổ một ngôi chùa ở phía Nam kinh thành ñể cho sư trụ trì. Nhưng hòa thượng từ tạ vua, chỉ xin phép ñi xem chùa chiền, cảnh ñẹp trong thiên hạ.
Một hôm, hòa thượng một mình tìm ñến một ngôi chùa xa ở vùng Bắc. Ở ñó có một vị sư bạn trụ trì mà hòa thượng lâu ngày chưa gặp.
Từ lâu Phật bà Quan âm ñã nghe tiếng ñồn về hòa thượng. Lần này nhân cuộc ñi chơi của hòa thượng, Phật bà ñịnh bụng thử xem con người ñó như thế nào. Nếu quả ñúng là chân tu thì Phật bà sẽ ñưa về Tây-trúc, ñộ cho thành Phật.
Lúc hòa thượng sắp qua một con sông rộng, Phật bà hóa thành một cô gái rất trẻ ñẹp chống ñò cập bến chở khách quá giang. Hôm ấy cũng theo phép màu nhiệm của Phật bà, khúc sông ñó trở nên vắng vẻ, người và thuyền bè qua lại rất ít. Khi hòa thượng chui vào trong khoang ñò thì cô gái nhổ sào chèo ra giữa sông. Đoạn nàng bẻ lái cho thuyền tiến ñến một bãi cát vắng ñậu lại. Hòa thượng lấy làm lạ, hỏi cô lái vì sao không ñi thẳng qua bờ bên kia. Cô lái chỉ ñợi có câu hỏi ấy là buông chèo, cười một nụ cười rất tình tứ rồi cũng chui vào khoang trả lời một cách cợt nhả là thấy sư ñẹp trai quá nên cắm sào lại ñây cầu xin ñược ân ái. Hòa thượng vốn nghe con gái ở vùng này có nhiều người ñáo ñể nên nghiêm nét mặt lại:
- A-di-ñà Phật! Mong người trần giới buông tha cho kẻ tu hành này.
Nhưng cô lái ñò ñâu có buông tha, cô cố sán lại gần gợi tình. Hòa thượng không nói gì, lẳng lặng mở gói lấy cuốn kinh Kim cương tam muội ra tụng. Tiếng ñọc của sư mỗi lúc một lớn, át cả tiếng của cô lái ñò. Nhưng cô lái ñò vẫn cười nói không thôi. Rồi cô che tay lên quyển kinh. Hòa thượng ngoái cổ nhìn ra ngoài ñò rồi nghiêm khắc cảnh cáo:
- A-di-ñà Phật! Trong người bần tăng có một tờ lệnh chỉ của hoàng ñế. Trong ñó hoàng ñế ñã ra lệnh hễ người nào phạm vào người bần tăng sẽ bị án trảm quyết. Vậy bần tăng mong người ñừng phạm vào phép của thiên tử.
Lời dọa của nhà sư không làm cho cô gái nhụt một tý nào. Cô nói:
- Em ñang muốn chết ñây! Em chỉ mong chàng ñoái thương một tý rồi chết cũng thỏa.
118
Nhưng hồi lâu, thấy lòng nhà sư không chuyển, cô lái ñò lại thi hành một mưu khác, cố quyến rũ cho bằng ñược. Cô bắt ñầu cởi áo ra. Khi chiếc yếm cổ ñuôi nhạn bỏ xuống thì hòa thượng nhắm mắt lại, Hòa thượng quay về phía cái gói lấy chiếc áo của mình khoác vào người nàng. Trong khoang ñò chật chội, tay hòa thượng vẫn lần tràng hạt, miệng vẫn lẩm nhẩm ñọc kinh, Trong khi ñó những tiếng của cô gái như mật rót vào tai:
- Chàng thương em một tý... Chàng nhìn ra ngoài mà xem, nào có một ai ñâu... Nhưng vô hiệu.
Phật bà Quan âm rất cảm ñộng. Nhưng người con Phật như thế này rất xứng ñáng chiếm một chỗ ngồi trên Nát-bàn. Nhưng ñã thử thì phải thử cho trót. Lần tấn công thứ chín, cô lái ñò vẫn bị cự tuyệt. Hơi thở của cô con gái trẻ và ñẹp phảng phất ở trên má, nhưng nét mặt của hòa thượng vẫn không ñổi.
Nhưng ñến lần thứ mười, cô gái không ngờ thành lũy tưởng là kiên cố lại bị hạ một cách quá bất ngờ. Bàn tay hòa thượng tự nhiên run rẩy bỏ lên mình nàng. Thôi thế là chỉ trong một phút, vứt hết hơn hai mươi năm tu luyện.
Thế là chuyến ñó Phật bà Quan âm không ñược hài lòng. Giận vì hòa thượng ñã thiếu kiên trì trước sức cám dỗ của "thị dục", mà ñã thế thì thanh danh cũ ñâu còn ñáng ñếm xỉa nữa, nên Phật bà ñã nắm lấy cổ hòa thượng vứt ngay xuống sông như người ta vứt một cái rác. Thế mà Phật bà vẫn chưa cho là ñáng tội, nên còn bắt hóa làm loài nhái là một loài ñộng vật hạ ñẳng. Cũng vì thế mà người ta nói rằng ngày nay dòng dõi của loài nhái vẫn còn giữ cái thói quen của tổ tiên, ví dụ khi chúng bị chặt ñầu, chúng vẫn chắp hai chân trước lại với nhau như người ñang vái1.
KHẢO DỊ
Người miền Bắc có truyện Sự tích con ếch có tính chất tiếu lâm:
Xưa có một nhà sư xuất gia từ ngày còn tấm bé. Sư nổi tiếng chân tu lại học rộng, mọi phép sát quỷ trừ tà ñều thông thạo. Một hôm Phật báo mộng cho sư biết rằng sư sẽ ñắc ñạo sau khi dự một cuộc thi ở Thiên ñình.
Tỉnh dậy sư rất mừng, từ ñó ngày ñêm quyết ôn luyện kinh kệ và ấn quyết cho ñược tinh thục. Một hôm, sư chợt nghĩ: - "Mình lục trí thần thông ñều ñủ cả, duy chỉ có một việc chưa từng biết là cơ thể ñàn bà. Nếu lúc lên trên kia, người ta hỏi ñến thì không biết ñường nào mà trả lời".
1. Theo Lang-ñờ (Landes). Cổ tích và truyền thuyết An-nam.
119
Nhưng muốn biết việc ñó không phải dễ. Sau cùng sư liều nhờ thủ tự bí mật giúp cho. Thủ tự ñi tìm từ ñầu làng ñến cuối chợ chả ñược ai cả, ñành về dỗ vợ, ngọt nhạt mãi vợ mới thuận ñi.
Tìm hiểu ñược cơ thể ñàn bà rồi, nhà sư rất thỏa mãn.
Nhưng từ ñó sư ñâm ra ngơ ngẩn, kinh kệ và cúng dàng chả thiết gì nữa. Việc phù phép cũng mất linh nghiệm. Phật biết chuyện ñó, nổi giận bèn cho sét ñánh chết. Như thế mà Phật vẫn chưa hết giận, còn bắt sư hóa làm ếch. Khi thủ tự mở áo quan ñể nhặt hài cốt thì chỉ thấy có một con ếch nhảy ra. Vì thế mà có câu tục ngữ:
Đi tu mà chẳng trót ñời,
Sinh ra con ếch cho người lột da1.
1. Theo Tạp chí chúng tôi (1910).
120
11. SỰ TÍCH CON MUỖI
Có hai vợ chồng nhà nọ yêu nhau rất mực. Ngày mới lấy nhau, họ ñã từng ăn thề hẹn không bỏ nhau. Nếu không may một trong hai người chết ñi thì người kia sẽ chết theo ñể xuống âm ty cho có bạn.
Sau ñó không bao lâu, người vợ trẻ tự nhiên bị thần chết mang ñi một cách ñột ngột. Không ai có thể tả ñược hết tình cảnh ñau thương của người chồng. Anh chàng ñã mấy lần toan tự tử, nhưng bị người nhà ngăn trở và canh phòng ráo riết. Hôm sắp sửa cất ñám bỗng có một ñạo sĩ ñến bày cho chàng phép cải tử
hoàn sinh mà theo lời ông ta, ñã từng có nhiều người dùng rất ứng nghiệm. Phép của ông ta chẳng có gì khó, chỉ cần người sống gan dạ và kiên trì một chút là ñược. Nghĩa là người sống mỗi ngày ba lần ôm ấp và truyền hơi ấm của mình vào cho tử thi. Làm luôn như thế không nghỉ ngày nào thì chỉ trong khoảng ba tháng mười ngày là người chết sẽ sống lại.
Người chồng cảm ơn ñạo sĩ và làm ñúng như lời dặn, hi vọng ñưa người yêu trở lại cõi thế. Ngày ngày chàng ôm ấp vợ, truyền sức nóng, hơi thở của mình vào cái xác ñã lạnh toát.
Nhưng sau ñó ba ngày, mùi thối của tử thi bay ra khắp xóm làm cho mọi người không chịu ñược. Họ kéo nhau ñến nhà bắt chàng phải chôn lập tức.
Bất ñắc dĩ, người chồng nhờ xóm giềng chặt nứa làm giúp một cái bè ñể mình ñưa xác vợ ñi một nơi khác. Nhiều người vui lòng giúp anh chàng trong việc này. Chỉ trong nửa ngày, hắn ñã chở xác người yêu ñi biệt.
Chiếc bè theo dòng nước trôi mãi. Người chồng vẫn ngày ngày ấp ủ vợ không thôi. Cái tử thi ñó trông vẫn như người nằm ngủ. Lòng anh chàng tràn trề hi vọng. Đến một nơi kia, hắn cắm bè lại kề một bãi cỏ rộng, lên bộ nấu ăn.
Tình cờ trong khi ñi nhặt củi chàng ta gặp một cụ già. Nhìn thấy ông cụ chống gậy ñi một mình giữa cảnh trời nước hoang vu, lại râu tóc trắng xóa, hình dung không có gì là lam lũ, chàng trẻ tuổi lấy làm ngạc nhiên. Hắn ñang suy nghĩ thì thoáng cái ông cụ ñã ñứng trước mặt. Hiểu ngay ñó là bậc Tiên Phật, hắn vội phục xuống chân cụ già rồi kể lể sự tình, cuối cùng không quên cầu khẩn ông cụ sinh phúc giúp cho vợ mình sống lại. Cụ già ñó chính là ñức Phật, thấy anh chàng nài nỉ hết sức, bèn thương tình, ñi theo xuống bè, bảo hắn chích máu ngón tay nhỏ ba giọt vào miệng vợ. Tự nhiên người ñàn bà mấp máy môi rồi từ từ
ngồi dậy như vừa tỉnh một giấc mơ. Trước khi ra về ñức Phật có hỏi người vợ:
- Anh chàng này cho vay ba giọt máu ñể ngươi ñược hồi sinh. Vậy nhà người có yêu anh ta chăng?
Trước câu thề thốt chắc nịch của người ñàn bà, ñức Phật bảo:
121
- Không can gì. Nếu không yêu nữa thì chỉ việc trả lại ba giọt máu cho anh ta là ñủ!
*
* *
Thấy bọn họ nóng lòng muốn trở về quê hương, ñức Phật gọi một con cá sấu khổng lồ từ vực sâu lên bảo chở họ ñi.
Cá sấu vượt sông ñược nửa ngày ñường thì bụng ñã ñói. Nó bảo hai vợ chồng lên bộ nghỉ ngơi ñể cho nó ñi tìm cái ăn. Hai vợ chồng dắt nhau vào quán cơm. Trong quán hôm ñó có một người khách thương sang trọng. Hắn ta thấy nhan sắc người vợ diễm lệ ít ai sánh kịp thì bỗng nảy tà dâm, mưu toan chiếm ñoạt. Hắn lân la lại gần, ñưa các mẫu hàng tơ lụa và ñồ trang sức ra vờ chào khách, kỳ thực là ñể tán tỉnh người ñàn bà ñẹp. Hắn nói trong thuyền hắn ñậu ở gần ñấy còn có nhiều món hàng nữa rất quý và rẻ, muốn mời họ xuống xem.
Nhưng người chồng thì chẳng thiết một tý nào. Cơm nước xong, bỏ mặc người khách thương, dắt vợ ra bến vắng, ở chỗ hẹn với cá sấu, ngồi ñợi. Họ ngồi dưới bóng cây trò chuyện một chốc rồi vì mệt quá, ngủ quên lúc nào không biết. Họ cũng chẳng ngờ sau lưng họ, người khách thương kia vẫn theo hút không rời. Khi thấy hai người nằm ngủ, hắn ñi nhẹ ñến thức riêng người vợ dậy, mời nàng xuống thuyền ñậu kề ñó ñể hắn biếu một món trang sức; - "Thuyền của tôi chỉ
cách ñây mươi bước. Bà không phải ñợi lâu ñâu!". Nghe nói thế, lòng người ñàn bà bỗng thấy lay chuyển. Nàng ñứng lên, ñi theo người khách thương xuống thuyền. Chỉ trong nháy mắt, theo ám hiệu của chủ, bọn thủy thủ chiếc thuyền buôn nhổ neo và giong buồm cho thuyền chạy mất.
Lại nói chuyện cá sấu lúc ngoi lên chỗ hẹn thì thấy chỉ có một mình người chồng, bấy giờ vẫn ñang ngủ say. Cá sấu thức chàng dậy hỏi chuyện. Anh ta ngơ ngác không hiểu thế nào. Một mất mười ngờ, hắn ñổ tội cho cá sấu ñã ăn thịt mất vợ. Để giải mối ngờ, cá sấu mới bảo hắn kiếm cây luồn qua miệng mình, khua trong dạ dày xem thử cho biết. Anh chàng làm theo, chỉ thấy trong bụng cá sấu toàn là xương cá và ñá cuội, mới biết mình ngờ sai. Tìm khắp mọi nơi chẳng thấy vợ, hắn trở về bến, ôm ñầu kêu khóc rất thảm thiết. Cá sấu thương tình bèn bảo hắn cưỡi lên lưng rồi phóng ñi, ñuổi theo những chiếc thuyền vừa qua lại ñể
dò tìm tung tích. Sau mấy lần dò hỏi, người ta cho biết một chiếc thuyền buôn vừa ñi qua, trong ñó có một người ñàn bà trẻ và ñẹp. Họ tả nét mặt và hình dạng thì ñúng là vợ chàng. Cá sấu bèn cố công ñuổi riết.
Khi nhìn thấy vợ ngồi trong thuyền khách thương, người chồng nói với vào:
- Nàng cứ nhảy ra ñây... Tôi không thể sống xa nàng ñược... Tôi sẽ làm cho nàng sung sướng...
122
Nhưng người vợ trả lời chồng:
- Chàng về ñi! Em ñành phụ chàng. Chàng tha thứ cho em vậy. Rồi ñưa cho chồng một gói vàng:
- Chàng hãy nhận lấy vật này và coi như em ñã chết từ hôm nào rồi.
Vừa bực tức vừa thất vọng, chồng ném gói vàng xuống nước rồi nhờ cá sấu ñưa mình trở lại tìm ñức Phật. Khi ñức Phật gặp bọn họ, liền giục cá sấu hối hả rượt theo chiếc thuyền khách thương ñể cho anh chàng thất tình ñòi lại ba giọt máu của mình.
Lại nói chuyện người ñàn bà sau khi chích máu ở tay ñể lấy ra ba giọt trả nợ cho chồng thì ngã vật xuống chết ngay. Người khách thương hết sức chữa chạy nhưng vô hiệu. Rồi sau ñó hắn ném xác nàng xuống biển. Nhưng do phép màu của ñức Phật, người ñàn bà ấy hóa thành con muỗi. Vì thiếu máu, nên lúc nào muỗi cũng lén lút ñi chích trộm của mỗi người một tý ñể sống1.
KHẢO DỊ
Việt-nam còn có truyện Lương Nhân có lẽ cũng từ truyện Sự tích con muỗi phát triển ra.
Lương Nhân quê ở Vĩnh-yên, lấy vợ là Thị Xuân. Vợ chết, Lương Nhân quá thương cõng xác vợ theo mình không rời. Phật thương tình hiện lên phun ba ngụm nước cho Thị Xuân sống lại. Một hôm vợ chồng có việc ñi xa, ngủ nhờ ở thuyền. Trong lúc Lương Nhân ngủ say thì vợ bỏ chồng theo ông chủ thuyền. Lương Nhân gặp lại ñức Phật. Phật bảo ñến ñòi ba ngụm nước. Thị Xuân phun xong lăn ra chết.
Sau ñó Lương Nhân gặp Hán Chân. Hai người lấy nhau, kiếm ăn rất chật vật. Một hôm Lương Nhân ñi vắng, một người khách lạ thấy Hán Chân có sắc ñẹp liền ve vãn nhưng bị nàng cự tuyệt. Để mua chuộc, người khách xin hai miếng trầu và ñưa cho nàng hai trăm lạng bạc. Hán Chân nhận và khi chồng về kể lại sự thật. Lương Nhân ngờ vợ và ñịnh giết vợ. Vợ trốn ñi, cải trang làm con trai vào học ở một ngôi chùa tại Sơn-tây. Đã ñẹp lại học giỏi nên sư nữ Thị Vân ñâm mê Hán Chân, hẹn hò làm vợ chồng.
Được mấy năm Hán Chân ñội tên Lương Chân ñi thi ñỗ trạng, ñược vua gả công chúa. Hán Chân xin phép về quê mở hội làm chay. Lương Nhân bấy giờ làm nghề nông, nghe có hội, ñem rau ñến bán. Vợ chồng gặp nhau. Phật hóa
1. Theo Lăng-ñờ (Landes). Sách ñã dẫn.
123
phép cho Lương Nhân thành một chàng trai ñẹp ñẽ thông thái. Hán Chân ñưa chồng về triều tâu rõ sự thật. Vua gả công chúa cho Lương Nhân làm vợ hai. Thị Vân cũng ñược ñón về làm vợ ba1.
Truyện Sự tích con muỗi tương tự với một số truyện cổ tích phương Tây. Trước hết là cổ tích Đức do Grim (Grimm) sưu tập:
Xưa có một người lính can ñảm lấy vợ là một nàng công chúa. Ngày mới lấy nhau, hai bên cùng hẹn sống chết có nhau. Nếu vợ chết trước chồng thì chồng sẽ tự chôn sống với người yêu. Ngược lại, nếu chồng chết trước vợ thì vợ cũng sẽ làm như vậy.
Ít lâu sau người vợ mang bệnh qua ñời. Người chồng quyết chết theo vợ, chàng tự chui vào huyệt nằm bên cạnh cái xác. Trong lúc ñợi chết, chàng bỗng thấy một con rắn bò ñến gần vợ, bèn ngồi dậy giết chết con vật. Sau ñó, một con rắn khác ñến tìm, thấy ñồng ñội ñã chết, liền trở về mang ba cái lá cây ñến làm cho sống lại. Người ñàn ông bèn nhặt lấy ba lá và bắt chước phương pháp cứu chữa của con rắn làm cho vợ mình cũng sống. Đoạn, chàng ñưa vợ về nhà, giao ba cái lá cây quý báu kia cho một người ñầy tớ tin cậy giữ.
Từ khi sống lại, người vợ trẻ tự nhiên thay ñổi tình cảm ñối với chồng. Nàng không yêu chồng nữa. Một lần vợ chồng ñi tàu trên biển, người vợ phải lòng viên cai tàu. Giữa lúc chồng ñang ngủ say, nàng cùng viên cai tàu nâng bổng người chồng vứt xuống biển. Nhờ ñược người ñầy tớ trung thành vớt lên và dùng ba lá cây cứu sống lại, người ñàn ông mới thấy lòng dạ bạc bẽo và gian ác của vợ. Cuối cùng hắn ñã trị tội vợ ñến chết.
Trong kho cổ tích của người Ý (Italia) cũng có hai truyện nói ñến việc người chồng làm cho cô vợ trẻ của mình sống lại, Ở truyện thứ nhất, người chồng ban ñêm ngồi gác tại một ngôi ñền, trong ñó có quan tài của vợ. Bỗng dưng thấy một con rắn bò ñến cạnh quan tài, bèn giết ñi. Nhưng con rắn lại sống lại, nhờ có một con rắn khác ñưa ñến một thứ cỏ "cải tử hoàn sinh". Anh ta bèn dùng cỏ ấy cứu sống vợ. Ở truyện thứ hai, người chồng giết chết một con thằn lằn ñến gần quan tài của vợ nhưng con vật ñã ñược mẹ nó cứu sống nhờ có một thứ hoa hồng. Anh bèn cứu vợ bằng hoa hồng ấy.
Một truyện cổ tích Pháp cũng có nội dung gần giống những truyện ñã kể:
Một chàng trai trẻ tuổi tên là Hoa Hồng lấy vợ nhưng không may hai tháng sau khi cưới, vợ chàng bị bạo bệnh rồi qua ñời. Thương nhớ vợ hết sức, anh chàng cứ chiều chiều ñến khóc ở mộ vợ. Một hôm, theo lệ thường anh bước vào nghĩa ñịa, bỗng có con ma hiện ra trao cho một cái hộp bằng bạc trong có một ñóa hoa
1. Theo lời kể của ñồng bào Bắc-bộ.
124
hồng. Ma bảo anh muốn cho vợ sống lại thì cứ nạy quan tài ra rồi ghé ñóa hoa vào mũi vợ ba lần. Anh làm theo lời, vợ bèn sống lại.
Ít lâu sau, người chồng có việc phải ñi Pa-ri gặp người em ruột. Lúc ñến nơi thấy em ñau nặng, anh bận chữa chạy cho em, quên cả việc viết thư cho vợ như ñã hứa. Vợ lấy làm lạ, chắc chồng ñã chết. Cũng lúc ñó, có một viên quan ba ở ñội quân "ñầu rồng" làm một bức thư giả báo tin là người chồng ñã chết. Rồi hắn âm mưu lấy ñược người ñàn bà kia làm vợ.
Qua một thời gian, bệnh tình của em có phần ñỡ. Hoa Hồng bèn trở về thì vợ ñã bỏ nhà ñi lấy chồng. Anh rất buồn, bỏ ra tỉnh ñầu quân. Anh không ngờ mình trở thành một người lính ñầu rồng và càng không ngờ trở thành thư ký riêng cho viên quan ñã ñoạt vợ mình. Khi gặp mặt vợ cũ, anh biết vợ không yêu mình nữa.
Một hôm Hoa Hồng ñược viên quan mời ăn tiệc và trong lúc ăn người ta lén bỏ và túi anh một bộ thìa nĩa bằng bạc. Tiếp ñấy, anh bị người ta lục soát và kết án xử tử vì tội ăn trộm. Trong ngục, anh chàng ñút lót tiền cho một người lính già, ñưa cho hắn cái hộp bạc của con ma ngày trước, dặn hắn phương pháp làm cho mình ñược sống lại sau khi bị bắn. Sau khi anh chết, người lính già tiêu hết tiền rồi mới nghĩ ñến việc cứu anh, nhưng anh vẫn sống lại khi ñóa hoa ñặt vào mũi.
Bấy giờ ở một tòa lâu ñài gần bên có một nàng công chúa ñêm ñêm biến thành quái vật giết chết những người lính gác. Hoa Hồng ñến cứu nàng thoát khỏi phép ñộc của mụ phù thủy. Anh lấy nàng làm vợ và sau ñó ñược thừa kế ngai vàng.
Ông vua mới ñi khắp nước ñể duyệt ñội ngũ. Duyệt ñến ñội lính "ñầu rồng" cũ, vua bảo họ còn thiếu một người. Khi người ta dẫn người lính già, ân nhân của mình ñến, vua tháo lon của viên quan ba, người ñã ñoạt vợ mình ngày trước, gắn cho người lính già. Đoạn vua bắt viên quan ba cùng với vợ hắn lên giàn hỏa1.
Người Ả-rập (Arabes) có truyện Sự gian dối của ñàn bà:
Một người Ít-xra-en (Israël) có người vợ ñẹp, hắn yêu hết sức. Bỗng nhiên vợ chết, hắn ñến ở bên mộ không rời. Chúa Jê-su thấy hắn khóc lóc luôn cạnh bèn hỏi chuyện. Khi nghe hắn kể nỗi lòng, Chúa bảo: "Có muốn làm cho nàng sống lại không?". Thấy hắn nói không muốn gì hơn thế, Chúa bèn làm cho một người da ñen sống lại. Hắn vội nói: - "Ô không phải, vợ tôi ở mộ kia". Chúa lại làm cho người da ñen chết mà hà hơi cho vợ hắn sống lại. Hắn mừng quá, sau ñó bảo vợ: - "Tôi canh mộ mình bấy lâu quên ăn quên ngủ, bây giờ mệt quá cho nghỉ
một tý". Rồi hắn gối ñầu lên chân vợ chuyện trò, dần dần ngủ quên. Trong khi
1. Theo Cô-xcanh (Cosquin). Truyện cổ tích dân gian miền Lo-ren, tập I.
125
ñó, một hoàng tử xinh trai cưỡi ngựa ñi qua, người ñàn bà ñặt ñầu chồng xuống ñất, ñi theo. Hoàng tử cho ngồi sau lưng.
Chồng tỉnh dậy không thấy vợ bèn theo dấu, ñuổi kịp gót ngựa. "Đây là vợ tôi, hắn nói, xin ngài làm ơn bỏ lại cho!". Vợ hắn nói: - "Tôi thuộc về nhà vua rồi". Hoàng tử dừng ngựa, nói: "Anh ghen với vợ ta ư?" - "Không. Đây là vợ tôi. Chúa vừa mới giúp tôi làm cho nàng sống lại". Bỗng Chúa Jê-su hiện ra, hắn reo lên: - "Có phải Chúa vừa làm sống lại người này cho tôi không?". Vợ hắn lấp liếm: - "Láo, ta là vợ hoàng tử". Chúa hỏi: - "Có phải ngươi là kẻ do ý Chúa mới ñược sống lại không?" - "Vâng, nhờ hơi thở của Chúa" - "Vậy thì trả lại cho ta cái mà ta cho". Người ñàn bà thở ra và chết ngay. Chúa phán: - "Nếu ai muốn thấy một người lần trước chết bất nghĩa, ñược cứu sống và lần sau chết có nghĩa thì nhìn người da ñen kia; còn muốn thấy người lần trước chết có nghĩa, ñược cứu sống và lần này chết bất nghĩa thì nhìn người ñàn bà này". Người chồng thề sẽ không lấy vợ nữa, sau ñó ở lại sa mạc tu hành cho ñến chết1.
Trong Liêu trai chí dị có truyện Ông hiếu liêm họ Vũ phần nào giống với Sự tích con muỗi. Ở ñây kẻ bạc tình lại là người ñàn ông. Hắn ñi kinh ñô tìm công danh, bị bệnh thổ huyết, lại bị ñầy tớ lừa ñảo, sắp chết dọc ñường. Nhờ có một người ñàn bà - vốn là một hồ ly chung tình - cho một viên thuốc thần khỏi bệnh và từ ñó trở nên giàu có, danh giá. Hai người thành vợ chồng. Nhưng sau hắn chê vợ già, ñi lấy một người ñàn bà họ Vương làm thiếp. Lâu rồi vợ cũng biết tin, bèn tìm ñến, kết chị em thân mật với họ Vương. Thấy chồng bạc bẽo lại mưu toan giết mình, vợ ñòi lại chồng viên thuốc. Hắn nôn ra xong, thì bệnh cũ dần tái phát rồi chết.
Người Khơ-me (Khmer) cũng có truyện Sự tích con muỗi nhưng nội dung khác hẳn:
Ngày xưa loài muỗi ñược thần Xi-va sáng tạo, mình như mình chim, mõm như mõm chó. Chúng bay hàng ñàn, chuyên ăn thịt người làm cho người chết mòn chết mỏi. Một hôm có nàng tiên mách cho loài người ñốt lửa xung quanh chỗ ở ñể ngăn không cho muỗi ñến. Không làm gì ñược người, muỗi bèn nhờ thần Xi va làm cho mình trở nên thật bé ñể tiện lén lút ăn thịt. Nhưng cũng không làm gì ñược người vì hễ thấy ở ñâu bị cắn ñau là người ñánh ngay vào ñấy. Muỗi lại ñi kêu nài thần Xi-va lần nữa. Thần cho mỗi con một cái vòi thay cho mõm ñể hút máu vừa lanh lẹ vừa không ai biết. Từ ñó mà có giống muỗi ngày nay2.
1. Theo Bát-xê (Basset). Ngàn lẻ một cổ tích, truyện kể và truyền thuyết Ả-rập, quyển II. 2 Theo Truyện dân gian Căm-pu-chia.
126
12. SỰ TÍCH CON KHỈ
Ngày xưa có một người con gái ñi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần quật suốt ngày, lại bị chủ ñối ñãi rất tệ. Cái ăn cái mặc ñã chả có gì mà thỉnh thoảng còn bị ñánh ñập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới ñôi mươi mà người cứ quắt lại, trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói.
Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ bàn bày linh ñình, họ hàng ñến ăn uống ñông ñúc. Trong khi ñó thì cô gái phải ñi gánh nước luôn vai không nghỉ.
Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc ñó ñức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già. Ông cụ có vẻ ñâu từ xa lại, dáng ñiệu mệt nhọc ñến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng vục nước lên cho ông già giải khát. Ông cụ uống xong lại ñòi ăn. Cô gái nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về.
Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong thùng ñưa cho ông già và nói: - Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ ăn một bát này cho ñỡ ñói. Ăn xong, ông cụ bảo nàng:
- Hồi nãy làm sao con khóc?
Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời.
- Ta là ñức Phật, ông cụ nói tiếp, ta thấy con có lòng tốt. Nếu con muốn gì, ta sẽ làm cho con vui lòng.
Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể nỗi lòng với ñức Phật. Thấy ñiều ước muốn của người con gái chỉ là làm sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông hoa nào ñẹp mút lấy thì sẽ ñược như nguyện. Khi xuống nước, cô gái chỉ mút mấy bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻo xinh xắn, ñồng thời quần áo cũng biến thành những thứ tốt ñẹp.
Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh ñẹp ñến nỗi họ không thể nào nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu may một tý. Họ lập tức ñổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại ñức Phật ñể ñược trẻ lại và ñẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người ñược của. Họ ñưa xôi thịt ra mời tới tấp:
- Này cụ xơi ñi! Cụ xơi ñi! Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với! Đức Phật cũng bảo họ lội xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước.
Dưới giếng lúc ñó ñầy hoa ñỏ và hoa trắng. Ai nấy ñều cho màu ñỏ là ñẹp nên khi lội xuống giếng ñều tìm hoa ñỏ mút lấy mút ñể. Nhưng không ngờ lúc lên
127
bờ, họ không phải trẻ lại mà già thêm ra: mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc ñầy người, ñằng sau lưng là cả một cái ñuôi. Những người ñi gánh nước thấy vậy hoảng hồn: - "Kìa trông con quỷ, nó cắn bà con ôi!". Nhưng lại có những tiếng khác: - "Đánh cho chết chúng nó ñi! Sợ gì!". Lập tức mọi người cầm ñòn gánh xông lại. Cả họ nhà trưởng giả kinh hoàng bỏ chạy một mạch lên rừng. Từ ñó, cô gái cùng với số người nghèo hầu hạ trưởng giả ñược hưởng những của cải do chúng ñể lại.
Lại nói chuyện trưởng giả và họ hàng ñành phải nấp náu trong rừng sâu, ngày ngày kiếm quả cây nuôi thân. Chúng ñi lom khom, áo quần rách nát trông rất thiểu não. Nhưng chúng vẫn tiếc của. Cho nên thỉnh thoảng ban ñêm chúng lại mò về, hoặc gõ cửa, hoặc ngồi trước nhà kêu léo nhéo suốt ñêm, gần sáng mới trở về rừng.
Thấy vậy cô gái và mọi người sợ quá, ñêm ñêm ñóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm cách ñuổi chúng. Họ bôi mắm tôm vào các cánh cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi cày ñặt rải rác ở cổng các nhà.
Quả nhiên, một ñêm nọ chúng lại mò về. Theo lệ thường, chúng ñánh ñu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa mó ñến ñã bị mắm tôm vấy ñầy tay rồi từ tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa ñặt ñít xuống các lưỡi cày thì chúng ñã kêu oai oái, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ ñó chúng kệch không dám về nữa.
Trong những khi lên rừng hái củi, người ta thỉnh thoảng vẫn gặp chúng. Thấy bóng người từ ñáng xa, chúng liền chuyền theo nhánh cây, lủi nhanh thoăn thoát. Người ta gọi chúng là những con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ là thuộc nòi trưởng giả. Còn những con khỉ sở dĩ ñỏ ñít là vì chúng chịu di truyền dấu vết bỏng ñít của tổ tiên1.
KHẢO DỊ
Truyện này ñược nhiều sách chép như Truyện ñời xưa... của Jê-ni-bren (Génibrel), Mỹ Ấm tùy bút của Trương Vĩnh Tống và Loại cổ tích hay2, mỗi sách chép có khác biệt về tình tiết. Theo quyển thứ nhất thì ñể làm cho cô gái trở nên xinh ñẹp, ông Tiên không bảo nàng lội xuống giếng mà bảo ñem một cái bánh và một cây nhang cho ông làm phép. Theo quyển thứ hai, ông Tiên làm phép ấn quyết vào thùng nước rồi bảo cô gái tắm. Đối với vợ chồng phú trưởng giả, ông
1. Theo lời kể của người vùng Sơn-tây, Vĩnh-yên.
2. Do Nhà xuất bản Cây thông xuất bản.
128
cũng không bảo họ lội xuống giếng mà bảo họ kiếm bốn viên gạch lớn ñốt ñỏ lên ñặt ở mỗi góc nhà một viên rồi hai vợ chồng phải nhảy nhót mãi, ñoạn ngồi lên gạch. Cả ba quyển ñều không nói ñến họ hàng trưởng giả cũng tham dự vào việc này.
Đồng bào Thổ có truyện Cô gái mồ côi thương người gần giống với truyện của ta, nhưng kết cục lại không có việc hóa thành khỉ:
Ngày xưa, người nhà trời có thói quen xuống trần ñể thử con người. Hồi ấy có một cô gái mồ côi ñi ở cho người. Vì chủ bạc ñãi nên cô gầy gò xấu xí, không ai chơi với. Một hôm có sứ giả nhà trời hóa làm một ông lão ghẻ lở ñến chỗ bọn con gái, bảo chúng cõng hộ qua khe. Chúng nó lấy làm kinh tởm, nhổ nước bọt chửi rủa ông, chỉ có cô gái mồ cô vui lòng cõng ông sang. Sau khi qua khe, ông lão trao cho cô gái hai cái vảy ghẻ bảo hàng ngày hít sẽ có ñiều hay. Cô gái làm theo và trở nên béo tốt tươi ñẹp. Khi bọn con gái biết ñược sự tình bèn cố chực ñón ông lão. Gặp ông, bọn chúng xúm nhau làm kiệu ñưa qua khe. Nhưng khi hít những vảy ghẻ của ông lão cho, chúng trở nên xấu xí hết sức, ñến nỗi không ñược ai lấy làm vợ, trong khi ñó cô gái mồ côi nhờ ñẹp nên lấy ñược chồng quan1.
Đồng bào Thổ ở Thái-nguyên có truyện Côi, cô gái mồ côi, lại có chủ ñề mẹ ghẻ con chồng khác với các truyện trên:
Côi, vì mẹ chết sớm nên chỉ ñược ăn mặc rách rưới, ñi chăn vịt, trong khi ñứa con riêng của dì ghẻ thì ăn mặc tốt ñẹp chỉ ở nhà giữ gà. Một hôm chăn vịt ở bờ suối, Côi nhổ tóc bạc cho một bà già - sau ñó mới biết ñó là hiện thân của mẹ mình - bà già cho Côi áo quần ñẹp, vòng xuyến, v.v... Dì ghẻ thấy sự lạ, hỏi Côi lấy ở ñâu ra, Côi ñáp như lời mẹ mớm: - "Vịt lội, thì lội theo, vịt lặn, lặn theo, vịt ỉa thì ăn lấy, vịt ñái uống lấy, nên như thế". Dì ghẻ cho Côi ở nhà giữ gà, ñể vịt cho con ñẻ mình chăn; nhưng càng làm theo lời Côi thì con lại càng ốm o xấu xí.
Kết thúc câu chuyện chủ yếu là nhằm chĩa vào mụ dì ghẻ:
Một hôm, hai chị em giã gạo, chày của Côi vang lên "phịch côông rôông phịch"... (ý nói sau lấy chồng ñẹp sung sướng). Còn chày của con dì lại kêu: "phịch cùng phịch rất" (ý nói sau này khổ). Nghe thế, dì ghẻ nổi giận, buộc cha Côi bỏ Côi vào rừng sâu. Nhờ chim muông và thú rừng nuôi nấng, Côi vẫn sống.
Sau ñó, Côi gặp một người thợ săn, hai người lấy nhau trở nên sung sướng. Từ khi giàu có và lập làng xóm ñông ñúc, Côi nhớ ñến cha, bèn trồng một gốc bí, bảo bí bò về nhà. Bí bò mãi về ñến nhà bị dì ghẻ chặt ñứt, lại mọc ngọn khác bò vào. Mấy lần như vậy. Tức mình, dì ghẻ bảo chồng tìm gốc mà chặt, nhờ ñó ông
1. Trong Tạp chí Đông-dương, tập III (1905),
129
gặp lại ñược Côi. Khi bố trở về, Côi gửi phần thịt biếu cha, lại gửi phần thịt biếu dì. Được gói thịt, mụ dì chui vào bịch ngồi ăn, nhưng giở ra toàn là rắn rết và ong, chúng cắn cho mụ thất ñiên bát ñảo. - "Cứu tôi với!" mụ hét. Chồng ñáp: - "Còn ăn miếng gan". - "Cứu tôi với!". - "Còn ăn miếng dồi". - "Cứu tôi với!". - "Còn ăn miếng xôi". Đến lúc phá bịch ra thì vợ ñã chết giấc.
Từ ñó dì ghẻ hối lỗi, ñến thăm vợ chồng Côi, ñược Côi ñối ñãi tử tế1.
Đồng bào Ba-na (Bahnar) có truyện Đam Bơ có lẽ cũng là một dị bản xa gần của truyện Sự tích con khỉ:
Đam Bơ ở với mẹ, nhà rất nghèo, phải ñi chăn trâu cho tù trưởng. Bầy trâu không chịu ăn, ñói meo, anh sắp bị tù trưởng hành hạ. Nhờ tiếng chiêng của anh ngân vang ñến cõi tiên, các cô tiên bèn xuống trần chơi với anh, cho anh một cái lá phép. Anh thổi lên, trâu ñang gầy hóa béo. Về nhà thổi lên: mẹ ñang già hóa trẻ và ñẹp. Thấy vậy, tù trưởng bắt anh thổi ñể mình và vợ con ñược trẻ và ñẹp, nhưng Đam Bơ thổi cho cả nhà thành khỉ. Một con quỷ nhờ anh thổi cho thành người, nhưng anh thổi cho thành ñầu người mình gà, v.v... ñều chạy vào rừng ở2.
Truyện Sự tích con khỉ của chúng ta tương tự ít hoặc nhiều với một số cổ tích nước ngoài. Truyện của người Băng-la-dex (Bangladesh):
Một người có hai vợ: một trẻ, một già. Hắn rất yêu quý người vợ trẻ. Vì thế, người vợ già bị người vợ trẻ ñối ñãi như nô lệ. Một hôm ñang cơn giận dữ, người vợ trẻ giật ñứt luôn nắm tóc còn sót lại trên ñầu người vợ già rồi ñuổi ra khỏi cửa. Người vợ già bỏ ñi vào rừng. Trong khi ñi ñường, gặp một cây bông, bà ta còn quét xung quanh gốc cây rất sạch khiến cây tỏ lời cảm ơn. Bà ta còn quét xung quanh một gốc chuối, một cây tu-la-xi và còn quét dọn chỗ ở của một con bò rừng. Tất cả ñều cảm ơn bà. Sau ñó, gặp một ông thầy tu, bà ta kể nông nỗi ñau khổ của mình. Thầy tu bảo bà lội xuống chỉ một lần thôi, dưới cái ao nọ. Khi lên khỏi ao, bà thấy mình có mớ tóc rất ñẹp và trẻ lại. Thầy tu lại cho bà một giỏ quả cây, bảo bà vào nhà mình muốn lấy giỏ nào thì lấy. Nhưng bà không lấy những giỏ to, ñẹp, mà chỉ lấy một giỏ tầm thường. Không ngờ về sau, bao nhiêu quả cây trong giỏ ñều hóa ra vàng và ngọc quý và dùng không bao giờ hết.
Khi bà về nhà, qua cây tu-la-xi, cây chúc cho bà về ñược bình an và ñược chồng yêu thương ñến ñiên cuồng. Con bò rừng cho bà hai cái vỏ ốc ở sừng, dặn bà ñeo vào cổ tay, chỉ cần lắc vài cái là có ñủ ñồ trang sức như ý muốn. Cây chuối cho bà một tàu lá rộng nhất, dặn rằng hễ khi nào ñói cứ trải lá ra là có ñủ
thức ăn ngon. Sau cùng, cây bông cho bà một cành của mình với phép màu nhiệm là chỉ lắc vài cái sẽ có quần áo ñẹp.
1. Truyện Tua Gia, Tua Nhi mở ñầu giống với phần ñầu truyện này nhưng phần sau thì phát triển giống với truyện Tấm Cám của ta (xem trang 231).
2. Theo Truyện cổ Ba-na, tập I.
130
Bà bước vào nhà, người vợ trẻ ngạc nhiên vô cùng. Khi nghe kể chuyện, chị ta cũng bỏ vào rừng với ao ước ñược giàu có và ñẹp ñẽ. Nhưng ñiều không may là chị ta lại quên dừng lại ở chỗ ba gốc cây và con bò rừng. Hơn nữa, ñáng lý chỉ lội xuống ao một lần thì chị ta lại lội ñến hai lần ñể mong ñược thật ñẹp. Vì thế khi ra khỏi ao, chị ta vẫn không có gì khác trước. Ông thầy tu chả cho cái gì cả. Từ ñấy chị ta bị chồng chán ghét, và dần dần trở thành nô lệ cho người vợ kia1.
Một truyện khác của người Ấn-ñộ (Pendjab):
Có hai chị em tính tình khác nhau. Chị là Mô-tho, hay gây gổ khó tính; em là Mun-gô, hiền lành dễ bảo. Một hôm em rủ chị ñi thăm bố già ở nhà anh. Chị không ñi, em ñi một mình. Dọc ñường qua cây táo, cây bảo bẻ bớt gai cho nó. Cô dừng lại giúp. Sau ñó, qua một bếp lửa, bếp bảo cời bớt tro vì làm cho nó ho, cô cũng làm hộ. Lại ñến một cây pi-pan, cô buộc hộ cho nó cái cành gãy dở. Đến một suối nước, suối nhờ chùi hộ ở nguồn, vét bùn và nhặt lá rụng. Khi gặp bố, cô nâng ñỡ, hầu hạ bố trong lúc người anh ñi gặt vắng. Bố cô ưng ý cho một con trâu và nhiều ñồ ñẹp mang về. Khi qua các vật ñã gặp lúc ñi, mỗi vật ñều cảm ơn và ñều biếu cô: dòng suối làm nổi lên mặt nước một tấm vải ñẹp; cây pi-pan cho một vòng ngọc treo sẵn ở cành; bếp lửa cho bánh ngon; cây táo thì cho quả chín ngọt.
Cô chị thấy cô em về với quà tặng nhiều liền nổi ghen, cũng ñi thăm bố già. Qua các vật trên, các vật cầu xin giúp ñỡ, cô không giúp còn trả lời thô lỗ. Đến nhà bố già, ông anh vì không muốn bố tái diễn việc lấy của cho con gái nên phang gậy vào cô, ñuổi ra khỏi cửa. Khi qua các vật trên, các vật cũng cho quà nhưng mỗi lần cô ñụng tay ñến thì chả ñược gì cả. Cứ thế, vừa ñói vừa bị ñau cho ñến tận nhà.
Truyện của người Na-uy (Norvège) cũng tương tự truyện vừa kể:
1. Theo Cô-xcanh (Cosquin), sách ñã dẫn, tập II. Truyện này theo sách Dưới những cây xoài (truyện cổ tích Băng-la-dex (Bangladesh) của Sát-téc-gi (Chatterji)) kể có khác ít nhiều. Cũng trong sách này còn có truyện Hai chị em Vui và Buồn cũng là một dị bản của truyện trên. Vui là con vợ cả, Buồn là con vợ lẽ... Một hôm Buồn ñuổi theo một gói bông của mẹ cô phơi, bị một trận gió cuốn ñi. Dọc ñường gặp một con bò cái, rồi một cây chuối, rồi một cây bông, rồi một con ngựa cái, mỗi vật ñều yêu cầu cô giúp cho một việc. Buồn sẵn lòng làm giúp. Đuổi ñến lầu bà mẹ Trăng, thì thấy gói bông, cô nói khéo ñể xin lại. Mẹ Trăng thấy cô lễ phép dễ yêu, bảo cô hụp xuống sông, khi lên hóa ñẹp; bảo cô chọn quần áo sang trọng ñẹp ñẽ, cô chỉ lấy một cái chăn (sa-ri) bông; mời cô ăn, lại bảo cô chọn một trong số những cái giỏ, cô chỉ lấy cái giỏ bé, không ngờ về sau tiền vàng không ngớt tuôn ra. Lúc về dọc ñường con ngựa cái cho một con ngựa con, con bò cái cho một con bê, cây chuối cho một nải ngon, còn cây bông thì cho một ôm bông. Còn cô Vui tính cáu kỉnh, ích kỷ, chẳng giúp gì cho bò, ngựa, chuối, bông khi chúng yêu cầu; lại thiếu lễ phép và tham lam nên chẳng ñược gì cả, không những thế, vì lội xuống sông hai ba lần nên hóa già khọm.
131
Một cô gái kéo sợi ñánh rơi mũi quay xuống giếng vị bà dì ghẻ buộc phải trèo xuống lấy lên. Cũng như truyện trên, cô ñi dọc ñường gặp rất nhiều vật, mỗi vật nhờ giúp một việc. Cô khéo léo khi vượt qua hàng rào cũ kỹ, không làm nó ñổ; cô vắt sữa cho con bò khi vú nó ñang căng; cô cắt lông cho một con cừu lông dài quét ñất; cô ñập cho rụng quả một cây táo nhánh nặng trĩu sắp gãy, v.v... Khi trèo xuống ñáy giếng, cô không ngờ rơi vào tay một bà chằng (tơ-rôn). Bà chằng bắt cô làm ñầy tớ cho mình, bảo làm nhiều việc khó khăn nhưng cô ñều làm tròn, nhờ chịu khó và tốt bụng với những con chim (quẳng những mẩu bánh cho chúng ăn). Bà chằng tức mình vì việc gì cô cũng làm xong, ñành phải trả công: cho cô ñược chọn một trong ba cái hộp. Một con chim giúp cô tránh hộp cóc nhái mà chọn hộp có của quý. Cô ra về. Bà chằng không ngờ cô chọn mất hộp quý, vội ñuổi theo toan lấy lại và ñịnh "xé cô làm nghìn mảnh". Nhưng cây táo bảo cô nấp dưới nhánh của nó làm cho bà chằng tìm không ra. Sau ñó con cừu bảo cô nấp dưới lông, con bò bảo nấp dưới vú, tiếp ñến hàng rào cũng bảo cô nấp sau rào, nên cô gái về nhà vô sự.
Con gái bà dì do kiêu ngạo không chịu giúp ai cả nên kết quả bị bà chằng giết chết.
Truyện Bà Hôn (Frau Holl) do Grim (Grimm) sưu tập cũng cùng dạng với truyện trên. Ở ñây cô gái qua một lò bánh. Những cái bánh ngọt gọi cô: - "Đưa tôi ra với kẻo tôi cháy ñấy!". Cô lần lượt ñưa chúng ra. Đến một cây táo ñầy quả, cây táo cầu khẩn: - "Rung cho quả của tôi rụng mấy". Cô gái làm theo...1.
Một truyện của người Ca-ri-en (Cariels) Miến-ñiện (Myanmar):
Một cô bé ra sông múc nước tuột tay ñánh rơi chiếc thùng xuống dòng nước chảy. Cô không biết lội ñành chạy men bờ, ñuổi theo chiếc thùng trôi. Chạy mãi, ñến một ñập nước của người khổng lồ, cô bị hắn bắt. Sắp bị ăn thịt, cô kể chuyện của mình cho người khổng lồ nghe. Hắn bèn tha cho cô bé rồi ñưa về nhà. Vợ
người khổng lồ thấy cô cũng thèm ăn lắm, nhưng cô ñược khổng lồ chồng bảo vệ và sau thành con nuôi của hắn.
Một hôm, hai vợ chồng khổng lồ ñi vắng ñể con gái ở lại và dặn ñừng nhìn vào hai cái sọt ñể ở góc buồng. Nhưng cô gái không ngăn ñược tính tò mò: cô thấy một sọt ñầy vàng bạc còn một sọt ñầy sọ người. Sau ñó, cô gái xin phép họ trở về quê hương. Khổng lồ chồng cho phép, nhưng khổng lồ vợ còn bắt cô phải
1. Ở một truyện của Phần-lan (Finlande) cũng có việc gặp một lò bánh, một con bò cái cần vắt sữa, một con cừu ñòi cắt lông, v.v... Nhưng ñây không phải là hai chị em cùng cha khác mẹ với bà dì ñộc ác mà là ba cô gái ñược vua vời ñến làm nữ tỳ. Hai cô ñầu không chịu làm giúp vì sợ bẩn tay (ñã rửa tay 3 năm với sữa ñể xứng ñáng hầu hạ vua). Chỉ có cô thứ ba không nề hà, giúp ñỡ cho mọi vật mà cô gặp. Sau cùng, cô khéo léo giúp một ông già bị ngã xuống hố. Cụ già cho cô gái một cái gậy, gậy ấy ñánh vào ñá thì nó cho xe ngựa áo giày ñẹp ñể ñi dự lễ nhà thờ, v.v...
132
bắt chấy cho mình trước khi lên ñường. Cô gái thấy trên ñầu mụ là cỏ một ổ rắn rết rất ghê tởm. Cô ñi kiếm một cái búa chém vào lũ rắn rết ñồng thời cũng làm cho mụ ta choáng váng. Thế rồi cô ñược về. Trước khi ñi, khổng lồ chồng bảo cô vào buồng, cho chọn lấy một cái gì tùy thích. Cô gái vốn ñã biết cái giỏ cũ có thể làm ñầy vàng bạc, nên nói: - "Hai ông bà ñã già không ñan ñược giỏ, con xin lấy cái giỏ cũ". Khổng lồ vợ cũng dặn: - "Nếu mày muốn ñẹp thì khi ñến sông nước ñen hãy chải tóc và ñánh răng, ñến sông nước ñỏ hãy chùi môi và sau cùng ñến sông nước trắng hãy xuống tắm!". Cô gái nghe lời, khi về ñến nhà trở nên giàu có và ñẹp ñẽ.
Bà con nghe tin cô giàu kéo nhau ñến thăm. Cô ñong cho mỗi người một chén ñầy vàng bạc. Nghe cô kể chuyện, một chàng trai trẻ tuổi quyết ñịnh ñi thử một phen ñể cũng ñược giàu và ñẹp như cô. Hắn ñến nhà khổng lồ và cũng ñược nhận làm con nuôi. Cuối cùng hắn cũng ñược họ cho về quê với một chiếc giỏ. Vì chưa từng nhìn vào bao giờ nên hắn bắt chước cô gái là chọn một chiếc giỏ cũ. Hắn lại không chú ý ñến lời dặn của khổng lồ vợ về những việc phải làm ở
mỗi khúc sông mà hắn sẽ lội qua. Hắn trèo lên xe ñể về cho ñược mau. Nhưng khi về ñến nhà, mở giỏ ra thì thấy ñầy những sọ người. Đang kinh ngạc thì người khổng lồ ñã ñột ngột xông tới bắt hắn ăn thịt1.
Ở truyện của người Hung-ga-ri (Hongrie) thì cô gái gặp một con chó nhờ lấy hộ mẩu xương mắc trong cổ. Khi gỡ ñược, nó biếu cô mẩu xương, dặn lúc nào bối rối ñặt xương lên miệng nó sẽ bảo phải làm gì. Gặp một cái lò, lò nhờ cô quét hộ tro, quét xong, lò cho cô một cái còi, dặn khi nào cần chỉ thổi một tiếng là có thể tàng hình. Gặp một con kiến, kiến nhờ ñưa lên khỏi hố sâu, và tạ ơn
1. Theo Cô-xcanh (Cosquin), sách ñã dẫn. Về truyện cổ tích này trong Miến-ñiện dân giân cố sự lại kể như sau: Nàng Nhái tý hon, siêng, ñảm và khôn ngoan. Một hôm mẹ bảo ñi múc nước. Dòng nước cuốn trôi mất ống, cô nhảy xuống vớt, bị trôi, may ôm lấy ống nên khỏi chết. Một mụ yêu ăn thịt người bơi ra bắt về - "Con này bé quá chả bõ ăn, thôi ñể lại sai vặt". Một hôm mụ bảo cô bắt chấy. Đầu mụ bẩn kinh tởm nhưng nàng nói rất khéo: - Bà cho phép và bếp rửa tay sạch sẽ ñể sờ vào ñầu tóc ñẹp của bà". Nàng bèn hái quả sinh lấy hạt ñưa về vờ
vạch tóc bắt chấy: - "Thưa bà, ñầu bà có nhiều trứng chấy". Mụ thấy hạt sung tưởng trứng chấy, khen giỏi. Một hôm mụ có việc ñi xa, dặn cô không ñược nhìn trộm vào buồng ngủ. Đợi mụ ñi rồi, nàng mở cửa nhìn, thấy ñầu lâu, thịt người ngổn ngang, bèn ñóng chặt cửa buồng. Mụ về thấy không gì khác, hỏi: - "Có muốn ở vài tháng nữa không?" - "Thưa bà con thật không muốn xa nơi này, nhưng mẹ già chỉ có một mình con, không có ai chăm sóc" - "Có sợ ta không?"... - "Con kính mến bà nhưng không sợ bà". Mụ hài lòng, cho bảy thoi vàng và cho về. Về nhà cô ñược nàng Nhái khác khen ngợi. Láng giềng có nàng Nhái lớn lúc nghe nói cũng bắt chước xách ống ra sông, cưỡi lên ống cho trôi. Mụ yêu ra vớt về - "Con bé này chưa ăn ñược, dùng ñể sai vặt". Khi mụ yêu bảo bắt chấy, hắn nói: - "Tóc bà chẳng có chấy" - "Đồ
ranh con lười biếng". Mụ ñi xa dặn ñừng nhìn trộm vào buồng. Hắn mở trộm xem thấy xương thịt thì kêu la hoảng hốt. Nghe tiếng kêu, mụ trở lại thấy cửa buồng mở toang, biết là trái lệnh, bèn bắt ăn thịt.
133
bằng cách dặn cô, hễ nghe tiếng xào xạc như tiếng gió thì coi chừng có kẻ ñuổi theo.
Đến ngôi nhà vàng của mụ phù thủy, cô nói năng rất lễ ñộ, xin một việc làm. Mụ thuê cô quét dọn mười hai gian buồng, nhưng dặn chớ vào buồng thứ mười ba. Nhờ có mẩu xương con chó tặng, cô thắng ñược tính tò mò. Sau khi làm việc cho mụ một năm (kỳ thực chỉ có ba ngày), mụ lấy ra ba cái hòm bảo chọn một, cô chỉ chọn hòm gỗ thường. Lúc về dọc ñường nghe tiếng xào xạc sau lưng, biết có nguy biến, cô lấy còi ra thổi, lập tức biến hình làm cho mụ phù thủy tìm không ra. Lúc về, giở hòm ra thì là một hòm vàng và áo quần bằng gấm vóc.
Còn cô gái con mụ dì ghẻ ñộc ác cũng ra ñi, nhưng vì chả giúp ích gì cho những kẻ ñang yêu cầu cô giúp ñỡ nên cuối cùng tuy không bị mụ phù thủy giết chết nhưng cô cũng phải chạy bán sống bán chết, mình ñầy máu me; về chưa ñến nhà ñã mở hộp vàng (do cô chọn) ra xem, thì một con rắn trườn ra cắn ñuổi làm cô chêt giấc1.
Một truyện cảu Pháp do Pe-rôn (Perrault) kể:
Một người ñàn bà góa sinh ñược hai cô gái. Cô lớn giống mẹ, hợm hĩnh không ai chịu ñược. Còn cô bé hiền lành xinh ñẹp bị mẹ ghẻ bỏ, cho ăn với ñầy tớ và bắt làm ốm xác cả ngày.
Một ngày cô bé phải hai buổi ñi gánh nước, xa chừng nửa dặm. Một hôm ñến suối, nàng thấy một bà rách rưới ñến xin ngụm nước. Nàng rửa sạch gầu, ra tận chỗ xa múc nước trong rồi hai tay nâng gầu cho bà ta uống. Bà già nguyên là nàng tiên giả dạng, uống xong bảo nàng: "Con ñẹp mà tử tế, ta ban lộc cho con từ rày hễ mở miệng nói thì ra hoa, ra ngọc".
Khi cô bé trở về bị mẹ mắng, vội chắp tay xin: "Con lạy mẹ, mẹ tha cho con!". Vừa nói bấy nhiêu tiếng thì có hai cành hoa và hai viên ngọc sáng ngời từ miệng văng ra. Bà mẹ ngạc nhiên hỏi chuyện; nàng kể hết sự thật. Bà vội giục cô gái lớn là Phăng-xông ra suối. Cô mang bình bạc ñi múc nước. Khi ñến nơi, bỗng có một bà sang trọng xin giải khát. Chính là nàng tiên vừa rồi hóa thành người khác ñể thử cô. Cô nói: - "Khéo cái bà này, dễ tôi ñến ñây ñể múc nước cho bà uống ñó sao. Mà bà có uống thì ghé xuống ñây mà uống". Nàng tiên ñáp: - "Con không ngoan một tý nào. Vậy thì ta ban cho là hễ mở miệng ra nói sẽ nhả ra rắn và cóc".
Thấy con gái lớn về, bà mẹ ñon ñả: - "Thế nào con?". Cô vừa ñáp: - "Mẹ ạ!" thì ñã có hai con rắn và hai con cóc từ trong mồm văng ra. Bà mẹ hốt hoảng: - "Trời ơi! Cái gì thế này. Chắc là con ranh con phản chị ñây!".
1. Theo Truyện dân gian Hung-ga-ri (bản dịch của Nguyễn Hải Sa).
134
Bà mẹ tìm con gái bé ñể ñánh. Nàng chạy trốn vào rừng. Giữa lúc ñó thì hoàng tử ñi săn về qua ñấy. Hoàng tử thấy cô gái ñẹp, dừng ngựa lại bởi vì sao mà khóc. Nàng ñáp: - "Mẹ tôi ñánh ñuổi tôi". Hoàng tử thấy ở miệng rơi xuống năm hạt trân châu, rất lấy làm lạ. Khi nghe rõ câu chuyện, hoàng tử ñưa nàng về
cung, tâu trình vua cha xin lấy làm vợ.
Còn cô chị ngày một bẳn tính làm cho mẹ cũng sinh ghét, ñuổi ñi. Hắn long ñong ñây ñó không ai muốn chứa, sau vào xó rừng mà chết1.
Một loạt truyện khác có nội dung gần gũi với loạt truyện kể trên, ở chỗ nhân vật ñều là một cặp chị em tốt và xấu và mỗi người chịu kết quả báo ứng tương xứng với tính nết của họ.
Truyện của ta: Hai chị em:
Có hai chị em, chị giàu bỏ mặc em nghèo không giúp ñỡ. Em ñi xin không ai cho cả. Đi mót khoai thì có một con rắn chui vào rổ. Em bảo rắn: - "Rắn ơi! Ta và con ta ñói lắm, nếu mày cho ta làm thức ăn thì cứ nằm yên ñể ta ñưa về nấu". Nấu xong thì rắn ñã hóa thành thỏi vàng. Từ khi giàu, em mời chị tới chơi nhà. Khi biết ñược nguồn gốc giàu có của em, chị cũng bắt chước cầm rổ ñi mót khoai. Cuối cùng cũng có một con rắn chui vào rổ, và chị cũng nói với rắn như trên, rồi ñưa về nhà bỏ vào nồi nấu lên. Không ngờ lúc này rắn lại hóa làm nhiều con khác, bò ra ñầy một nhà cắn chết chị2.
Truyện của người Tia-rôn (Tirols):
Một cô gái ñi hái quả rừng với người anh. Cô trả lời dịu dàng lễ phép về những câu hỏi của bà thánh Đồng trinh, trái lại, người anh trả lời vô lễ. Bà thánh cho cô em một hộp sách màu vàng, người anh một hộp ñen. Anh mở hộp ra thì thấy có hai con rắn bò ra cắn chết, còn em mở hộp ra thì có hai nàng tiên ñưa em lên trời.
Truyện của người Ê-cốt-xơ (Écosse):
Một nàng công chúa bỏ nhà ra ñi vì bị dì ghẻ xấu bụng, ghen tị bạc ñãi. Dọc ñường gặp một ông già, nàng vui lòng chia thức ăn của mình cho ông. Ăn xong, ông rủ công chúa ngồi trên bờ một cái giếng, bỗng chỗ dưới mặt nước trồi lên một cái ñầu nhờ công chúa gội và chải tóc hộ. Công chúa sẵn lòng làm việc ñó. Khi ñã tươm tất, cái ñầu khen nàng, hứa cho nàng mỗi lần mở miệng nói rơi ra một viên kim cương. Lần thứ hai một ñầu khác cũng nhờ gội và chải hộ rồi trả ơn mỗi lần nói một viên minh châu. Lần thứ ba lại một ñầu khác, tặng mỗi lần nói một viên ngọc.
1. Theo Chuyện trẻ con của Sác-lơ Pe-rôn (Charles Perrault), bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh.
2. Theo Lăng-ñờ (Landes). Sách ñã dẫn.
135
Con gái bà dì ghẻ thấy thế cũng xin ñi thử. Nhưng cô ñối ñãi với ông già không ñược tốt, chải tóc cho ba cái ñầu cũng làm nguệch ngoạc, nên kết quả mỗi lần nói thì văng ra một con cóc một con nhái, v.v...
Truyện của người Xéc-bơ (Serbes):
Một cô gái ñối ñãi tốt với một con rồng, giúp việc cho nó trong nhiều ngày, ñược nó thưởng cho một cái hộp do cô tự chọn lấy trong những cái hộp. Cô gái chọn lấy một hộp nhẹ nhưng lúc về mở ra thấy ñầy một hộp tiền vàng. Cô gái con bà dì ghẻ cũng ñi giúp việc cho rồng nhưng làm những ñiều không tốt. Lúc về cũng ñược rồng cho một trong những cái hộp. Cô chọn hộp nặng nhất, về mở
ra thì có hai con rắn chui ra, mổ vào mắt cô và mắt bà mẹ.
Truyện của người Iếc-lăng (Irlande):
Một cô gái bị dì ghẻ quẳng xuống giếng. Tỉnh lại, cô thấy mình ngồi trong một cái trại rất ñẹp. Cô tỏ ra thương người và dễ bảo ñối với những người và vật mình gặp ở dưới ñó. Cuối cùng, ñến một chỗ có một mụ phù thủy, cô giúp việc cho mụ, ñược mụ trả công, cho chọn một trong ba cái hộp. Nhờ có người bảo trước, cô chọn ñúng hộp cuối cùng, là hộp có vàng. Cũng nhờ có người bảo trước, cô tránh khỏi bị mụ phù thủy ñuổi theo bắt lại. Người con gái bà gì ghẻ thấy thế, cũng bảo mẹ quăng mình xuống giếng, nhưng vì tính kiêu kỳ khó chịu với mọi người, nên cô chỉ gặp toàn những cái không may. Về nhà, cô suýt chết vì cái hộp vàng mà cô chọn, vì mở ra toàn cóc rắn bò ra ñầy nhà.
Truyện của người vùng núi Cô-ca-dơ (Caucase):
Có hai cô gái, một siêng một lười. Cô siêng kéo nước ở giếng không may dây ñứt, thùng trôi. Sợ bị mắng, cô nhảy xuống giếng mò cái thùng. Không ngờ ở dưới giếng có một tòa nhà, người chủ tòa nhà nhờ cô giúp việc và cô ñược trả công một chiếc nhẫn quý, lại ñược ông cho ñầy cô-pếch vào thùng. Cô lười cũng làm theo như lời cô siêng kể lại nhưng chỉ mang về một thùng nước ñá.
Truyện của Thổ-nhĩ-kỳ (Turquie):
Do dì ghẻ xúi giục, một cô gái bị bố bỏ vào rừng sâu. Cô ñi lạc vào một cái hang của bà chằng. Cô chào bà chằng bằng "mẹ". Bà chằng thấy cô ngoan ngoãn dễ tính, bèn nuôi cô như con. Trong hang có những con rắn, nhưng do tốt bụng nên chúng không làm hại. Bà chằng rất bằng lòng. Một hôm hỏi cô muốn gì. Cô ñáp: - "Muốn về với bố". Bà chằng bèn cho cô về với một cái hộp. Lúc về, không ngờ mở ra ñược một hộp vàng và ñá quý.
Con gái bà dì ghẻ thấy thế cũng muốn ñược may, nhưng tính khí cô bị mọi người ghét. Lúc về bà chằng cũng cho một hộp, nhưng ñến nhà mở ra thì có những con rắn bò ra cắn chết cả hai mẹ con1.
1. Đều theo Cô-xcanh (Consquin). Sách ñã dẫn.
136
Truyện của người Nhật-bản Con chim sẻ bị cắt lưỡi:
Một ông già không con, nuôi một con chim sẻ làm con mà ông rất yêu. Một hôm, vợ ông ñi giặt về thấy mất một món ăn. Hỏi thì chim nói thật là mình ñã ăn vì món ăn ñựng vào bát của nó. Bà già bèn cắt lưỡi chim và ñuổi ñi. Ông già ñi vắng về thấy mất chim, cất công ñi tìm. Tìm ñược chim, chim ñưa ông về nhà mình. Cả nhà chim tiếp ñãi rất hậu, cho ông ăn ngon, uống rượu (xa-kê), lại tổ
chức nhảy múa ñiệu chim sẻ cho vui. Lúc ông về, chim ñưa ra hai cái sọt kín, ñể ông chọn lấy một. Ông già nghĩ mình già yếu chọn cái sọt nhẹ. Khi về hóa ra ñầy một sọt vàng bạc và vật quý. Nhưng vợ trách chồng sao không lấy cái sọt nặng; sau ñó, bà già cũng cất công ñi tìm chim sẻ, cầu xin chim cho mình một cái sọt như chồng. Chim cũng ñưa ra hai cái sọt cho chọn một. Bà già chọn cái sọt nặng. Khi về, mở ra thì một lũ rắn rết và quỷ từ trong sọt nhảy ra làm cho bà chết giấc1.
Một loại truyện nữa giống với Sự tích con khỉ nhưng thường kết hợp với một số mô-típ của truyện Tấm Cám, cũng phổ biến ở nhiều dân tộc. Sau ñây là một ít ví dụ:
Truyện của ñồng bào Thái: Nàng Khao, nàng Đăm, các truyện Ý Ưởi, Ý Noọng, Ý Đớn, Ý Đăm (Thái), Tua Gia, Tua Nhi (Tày), Gầu Nà, Gầu Rềnh (Mèo), Ò Pèn, Ò Kín (Nùng) (xem Khảo dị truyện số 154, tập IV) ñều có những hình tượng giống, chỉ khác ñôi chút về cách kể:
Có hai chị em: chị là Đăm, con riêng dì ghẻ, thì lười, xấu tính, em là Khao, con vợ cả, thì chăm chỉ hiền lành. Vì việc bắt ếch, Đăm ñã làm cho bố hiểu lầm, giết vợ cả. Mồ côi mẹ, Khao bị dì ñối xử rất tệ. Cùng nhau ñi bắt cá, Đăm không bắt ñược gì, nhưng lừa Khao bảo Khao xuống tắm cho sạch bùn, rồi ñánh tráo giỏ cá. Lần thứ hai bố ñi buôn vắng, Khao khóc nước mắt ñầy niêu ñầy chậu. Còn Đăm không khóc nhưng lại mấy muối hòa ñầy chum ñầy vại, nói dối với bố ñó là nước mắt của mình. Bố nếm thấy mặn khen Đăm có hiếu. Nghe lời xúc xiểm của vợ, bố bỏ Khao vào rừng sâu. Ở ñây Khao gặp mẹ bấy giờ ñã hóa hổ. Hổ giúp Khao lấy chồng là "tạo" Khun Chương, lập thành bản mường ñông ñúc giàu có. Đến ñây câu chuyện cũng có chi tiết trồng cây bầu, bầu bò về nhà bố. Bố lúc này ñói rách, lần theo dây bầu tìm ñến nhà Khao, ñược Khao tiếp ñãi rất hậu: lên nhà bằng thang vàng thang bạc, ngồi trên ghế mây ghế song, gắp bằng ñũa ngà ñũa ngọc, và khi về, cưỡi ngựa bằng yên vàng yên bạc với nhiều tặng vật quý (không có chuyện tặng dì ghẻ thức ăn hóa rắn như truyện Côi, cô gái mồ côi nói trên).
Đăm thấy Khao giàu có cũng tìm ñến nhà, tuy không bị Khao ñuổi, nhưng không ñược ñối ñãi tốt: lên nhà bằng thang lau thang sậy, giữa chừng thang gãy,
1. Theo Phu-cu-ji-rô Oa-cát-su-ki (Fukujiro Wakatsuki). Truyền thuyết Nhật-bản.
137
bị bọ chó ñốt; ngồi ghế gãy, ngã, bị chó, mèo cắn; ăn cơm bằng ñũa nứa ñũa tre, nứa cứa ñứt mồm; khi về ñược Khao cho cưỡi dê, dê ñâm vào bụi này vũng kia rất cực khổ1.
Về nhà, Đăm xui bố mời Khao về thăm. Đăm bảo Khao trèo cây bồ quân hái quả cho bố rồi chặt gốc. Khao chết, theo phong tục, Đăm thành vợ tạo Khun Chương. Khao hóa thành chim cu quanh quẩn theo chồng. Bị Đăm giết, chim hóa cây tre ngà cho tạo mắc võng nằm. Đăm ñốt cây tre. Bà cụ láng giềng ñi xin lửa cầm thanh tre về, than rơi vào chậu nước hóa thành cô gái ñẹp. Cô gái xin bà cụ giấu kín cho. Nhưng một hôm cô gái dệt vải ñánh rơi thoi xuống dưới sàn nhà. Vừa lúc con của tạo (do Khao ñẻ ra) chơi gần ñấy, nhặt hộ. Con của tạo thấy có bàn tay thò xuống sàn giống tay mẹ nó, liền ñi mách bố. Kết quả hai vợ chồng lại gặp nhau.
Lúc này Đăm tuy ở với chồng nhưng không ñược chiều chuộng nữa. Một hôm hỏi Khao tại sao môi ñỏ? Đáp: Vì lúc trước ñi chăn vịt ăn phải cứt vịt. Đăm nghe lời, cố nuốt cứt vịt, môi càng thâm sì. Lại hỏi sao có áo ñẹp? Đáp: Vì ñể trâu ăn mất áo nên trời cho áo ñẹp. Đăm làm theo, không thấy Trời cho áo. Đăm thò tay và ñít trâu ñể lấy áo bị trâu lôi ñi khắp nơi, cuối cùng không ñược gì, trần truồng chạy về. Hôm khác lại hỏi: Sao lại trắng trẻo ñẹp ñẽ? Đáp: Vì tắm nước sôi. Đăm làm theo, bị bỏng chết. Khao làm mắm ñem về biếu dì, dì ăn khen ngon. Khi mắm gần hết thấy ñầu lâu con, lăn ra chết2.
Người Miến-ñiện (Myanmar) còn có một truyện Quạ vàng có cả những tình tiết của truyện Nàng Khao nàng Đăm trên lẫn những tình tiết của truyện Cây khế (xem Khảo dị, truyện số 59, tập II).
Một bà góa có cô con gái xinh xắn tính ñiềm ñạm, một hôm mẹ bảo con ở nhà trông sàng phơi lúa ở sân, ñừng ñể chim ăn mất. Bỗng có một con quạ vàng ñến ăn, ñuổi mấy cũng không ñi, chỉ một chốc là hết sạch. Cô òa khóc: - "Mẹ tôi nghèo lắm chỉ trông nhờ vào chỗ thóc này". "Ta sẽ ñền cho. Mặt trời lặn hãy ñến gốc me ngoài làng, ta sẽ ñưa ñi". Đúng hẹn, cô gái ñến gốc me thấy có một ngôi nhà vàng nhỏ trên cây me. Quạ thò cổ ra mời lên và hỏi: - "Muốn dùng thang vàng, thang bạc hay thang ñồng?" - "Tôi nghèo khổ có thang ñồng ñã quý". Quạ bắc thang vàng, cô trèo lên. Quạ mời ăn cơm, hỏi: - "Muốn dùng mâm vàng, mâm bạc hay mâm ñồng?" - "Tôi nghèo khổ có mâm ñồng ñã quý". Quạ dọn ăn bằng mâm vàng. Ăn xong, quạ lấy ra ba cái hộp: lớn, vừa và bé cho chọn một ñưa về biếu mẹ cô. Cô chọn cái bé nhất, rồi ra về không quên tỏ lời cảm ơn quạ.
1. Đoạn này có người kể: cho một con dê ghẻ cưỡi về nhưng lại giao cho một gói ớt bột dặn lúc về thỉnh thoảng xoa vào chỗ có ghẻ. Dê bị ớt xót quá chạy tuông khắp nơi, làm cho người cưỡi hết sức vất vả. (Truyện Y Ười Y Ót, xem Đơ-jor-jơ (Degeorge), Truyền thuyết của người Tày ở An-nam trong tạp chí Nhân loại (Anthrropos), XVI - XXII (1921 - 22).
2. Theo Truyện cổ dân gian của các dân tộc Việt-nam, tập IV.
138
Đến nhà, cô ñưa hộp cho mẹ, mẹ mở ra ñược 100 hạt ngọc ñỏ rất quý. Từ ñấy họ trở nên giàu có.
Trong làng có một bà góa khác giàu có, có cô con gái tham lam, nóng nảy. Nghe kể chuyện, cô cũng ñem sang thóc ra phơi. Vì lười nên cô ñể cho chim chóc ăn mất, khi quạ ñến chỉ còn một nhúm. Tuy vậy quạ cũng ăn. Cô bảo: - "Ăn hết thóc nhà tôi phải ñem giàu có ñến cho nhà tôi". Cũng như trên, quạ cũng dặn cô vào lúc mặt trời lặn ñến cây me ngoài làng mà nhận quà. Cô ñến, quạ cũng mời lên mà hỏi: - "Thang vàng, thang bạc hay thang ñồng?" Cô nói: - "Thang vàng". Quạ chỉ buông thang ñồng. Quạ mời ăn, cũng hỏi: - "Mâm vàng, mâm bạc hay mâm ñồng?" - "Mâm vàng". Chỉ ñược mâm ñồng. Thức ăn ngon nhưng ít, cô không thỏa mãn. Sau ñó quạ cũng ñưa ra ba cái hộp. Cô vồ lấy cái hộp lớn nhất rồi hối hả xuống thang trở về không có một lời cảm ơn. Nhưng về nhà, mẹ con mở hộp ra thì một con rắn chui ra phun phì phì1.
Một truyện khác sưu tầm ở vùng Cô-ca-dơ (Caucase):
Một dì ghẻ ñối xử tệ với con gái chồng, cô phải ăn ñói mặc rách. Một hôm con bò cô chăn thấy cô khóc, hỏi lý do. Cô kể cảnh khổ của mình. Bò bảo: "Trong một cái sừng của ta có mật ong, bên kia có bơ, cứ lấy mặc sức". Dì ghẻ thấy cô ngày một khỏe, lại bắt phải kéo mỗi ngày một thúng len. Một hôm bò chạy lên nóc một nhà kia (nhà nông dân Cô-ca-dơ thường làm dưới ñất) cô gái ñuổi theo, ñánh rơi con quay xuống nhà, cô cúi nhìn xuống thấy một bà già. Cô chào hỏi rất lễ phép, bà già là một mụ phù thủy (ñê-vi) bảo cô xuống mà nhặt. Vì cô dễ yêu nên bà già rất mến, bảo cô nhúng ñầu rửa tay trong một cái giếng, không ngờ tóc và tay ñều trở nên vàng.
Bà dì sai con gái riêng ñi chăn bò, và cũng tìm ñến nhà bà già. Vì cô vô lễ lại xấu tính nên ñược rửa vào một thứ nước hóa ra ñen như hắc nô và mọc sừng trên ñầu. Lúc về dì giận, giết chết con bò. Trước khi chết, bò dặn cô gái tóc vàng chôn xương của mình. Một hôm có ñám hội, cô gái ñào lên ñược quần áo và giày ñẹp, mặc ñi dự hội2. Và sau ñó cũng xảy ra chuyện mất giày, cuối cùng ñược lấy hoàng tử như truyện Tấm Cám (xem truyện số 154, tập IV).
1. Theo Miến-ñiện dân gian cổ sự.
2. Người Ả-rập (Arabes) (Thượng Ai-cập) có một truyện tương tự với truyện trên: Có hai anh em bị dì ghẻ bắt hàng ngày phải ăn cơm của chó, trong khi con dì thì ñược ăn uống ngon lành. Đi chăn bò, hai anh em ñem cơm ấy cho bò ăn. Đối lại, bò cho chúng nó bánh sữa nên dần dần chúng trở nên béo tốt, còn con của dì thì gầy gò xấu xí. Dì ghẻ lấy làm lạ, bèn sai con trai ñi dò, nhưng nó ñược ăn bánh, về giấu không nói. Mụ lại sai con gái ñi dò, cô này khi ăn ñánh rơi vào áo, về mẹ hỏi, cô nói: "Hỏi cái áo thì biết bánh con bò cho như thế nào". Dì ghẻ vờ ốm, bảo nhân tình giả làm thầy thuốc ñến nói với con chồng chỉ có ăn bánh gan bò ñen mới lành. Vì thế con bò bị giết. Hai ñứa bé lại thu thập xương bò ñem thiêu hóa. Xương bò hóa thành cây lô hội, cây lại cho hai ñứa bé ăn uống những thức ngon như trước (không có việc ñược áo quần và giày như truyện trên). Theo Báo châu Á (1885).
139
Truyện của người Ác-mê-ni (Arménie):
Một ñứa trẻ và chị nó bị bố bỏ vào rừng sâu do bà dì ghẻ xúc xiểm. Thằng bé vì uống nước trong dấu chân chiên nên hóa thành con chiên con. Cô gái hàng ngày phải chăn chiên. Một hôm mũi quay cuốn sợi của cô lăn vào một cái hang. Cô chui vào tìm. Ở ñây có một bà già quỷ. Do tính nết ñáng mến của cô nên bà già làm cho cô có bộ tóc ñẹp, áo giày bằng vàng lại làm cho con chiên trở lại thành người, rồi chỉ ñường cho về nhà.
Con gái riêng của bà dì thấy vậy cũng tìm ñến hang, nhưng vì tính khí cục cằn nên bị bà già ghét, làm cho xấu xí.
Sau ñó là ngày hội ở cung, vua cho phép mọi cô gái tới dự. Cô gái mang áo vàng giày vàng ñi dự, một chiếc giày bị rơi xuống giếng, Vua nhặt ñược và tổ chức một cuộc thử giày, cuối cùng, cô gái lấy vua, cũng giống như truyện Tấm Cám1.
Một số truyện dưới ñây, tuy hình tượng và nhân vật không giống với các truyện trên nhưng vẫn cùng một chủ ñề.
Truyện của người Ma-rốc (Maroc):
Một người có hai vợ, mỗi vợ ñẻ bảy con gái. Vợ cả muốn giết lũ con vợ lẽ bèn ñặt ñiều nói với chồng ñó là ñiều xấu, không trừ bỏ sẽ lại hại. Ở thành phố ấy có một ngôi nhà có ma (Jơ-nun), ai vào nghỉ ñêm là chết. Mụ bèn xui chồng thuê nhà ñó cho bảy cô gái con vợ lẽ ñến ngủ. Bảy cô này tốt bụng, can ñảm và khôn ngoan, vâng lời bố ñi ngay, chỉ xin cho chổi, cá, sữa và chất thơm. Tới nơi, các cô quét dọn hài cốt rác rưởi, rồi rắc sữa và ñốt chất thơm làm cho ngôi nhà trở nên sạch sẽ, thơm tho. Buổi chiều, một cô ñang nướng cá thì một bàn tay không có người ngửa ra xin ăn. Cô sẵn lòng cho, sau khi ñể cho cá nguội. Rồi bảy bàn tay khác cũng lần lượt giơ ra xin cá nướng và ñều ñược thỏa mãn. Tối lại, các cô thắp ñèn dọn ăn. Một con ma hai mũi hiện ra, các cô mời nhập tiệc: "Các cô có muốn một người ba mũi, tới dự không?" - "Sẵn lòng". Thế rồi ba mũi, bốn, năm, sáu, bảy mũi lần lượt xuất hiện và ñều ñược tiếp ñãi tử tế. Đang ăn bỗng phía ngoài có tiếng: - "Ôi, các chị giúp em xuống với!". Một cô bước ra lấy vạt áo dỡ một cục thịt nằm trên thang xuống ñất.
Sáng dậy, bố ñến với mười bốn ñô tùy và bảy áo quan, nhưng không ngờ các con gái ñều khỏe mạnh, lại ñeo những trang sức ñắt tiền do ma tặng. Vợ cả muốn bảy con gái của mình cũng ñược như vậy. Nhưng các cô này bẩn và lười. Không nghĩ gì ñến chổi, sữa và chất thơm ñể quét dọn. Khi thấy một bàn tay giơ ra, cô ñang nấu ăn kêu ầm lên: "Kinh tởm", rồi gọi các chị xin một cái búa. Bàn tay biến mất. Đang ăn, các ma hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy mũi lần lượt xin ăn
1.Đều theo Cô-xcanh (Coisquin). Những truyện cổ tích Ấn-ñộ và phương Tây.
140
nhưng họ chỉ ñược nghe tiếng chửi và chế nhạo. Các cô cũng làm ngơ với tiếng kêu phía ngoài nhờ ñỡ xuống cầu thang.
Sáng dậy người bố ñến thì bảy cô ñã chết cả1.
Người Man-gát-sơ (Malgaches) có truyện Người em út có kết cục là năm người anh xấu không phải hóa khỉ mà hóa thành những con vật chuyên ăn ñêm bị mọi người ghét:
Có hai vợ chồng sinh ñược 6 trai. Năm người cao lớn ñẹp ñẽ, còn ñứa út tên là Pha-ra thì gầy yếu và xấu xí. Năm người anh ghét bỏ em, ñánh ñập luôn. Khi bố mẹ chết, chúng nó bắt em làm như nô lệ. Em tức giận bỏ ñi. Dọc ñường thấy vườn mía vắng chủ: - "Chà mía tốt quá!". Nhưng anh chỉ khen thế mà không dám bẻ. Lại ñi nữa thấy một ñàn cừu, tiếp ñến một vườn cam, một vườn dưa rồi một vườn chuối ñều không thấy có ai trông nom. Tuy khát và ñói, Pha-ra cũng không dám màng. Anh mệt, ngồi lại ñó rồi ngủ quên. Bỗng có một ông già áo ñỏ
thức dậy hỏi: "Sao lại ngủ ở ñây?" - "Tôi mệt quá xin ngủ nhờ". Ông già dắt ñến một ngôi nhà xinh xắn, trong nhà ñầy hoa quả. Bà chủ bưng sữa ra, anh vẫn không dám ñụng ñến, chỉ hỏi: - "Xin phép nghỉ lại ñây" - "Anh hỏi ông chủ ấy". Ông chủ mời anh uống sữa rồi hỏi: - "Có phải anh vừa ñi qua các vườn mía, ñàn cừu, vườn cam, v.v... không?" - "Vâng" - "Anh là người thật thà ñáng khen, vậy anh có nguyện vọng gì ta sẽ giúp?" - "Chỉ xin ñược khỏe mạnh" - "Được". Sáng dậy anh thấy mình ngủ ở gốc chuối, bên cạnh có một bọc toàn vàng, còn thân hình thì trở nên to lớn khỏe mạnh.
Năm người anh nghe kể cũng ra ñi. Qua vườn mía khát quá, họ bẻ trộm ăn. Khi gặp ñàn cừu, nhân ñói, họ vật một con làm thịt. Đến các vườn cam, vườn dưa, vườn chuối cũng trộm ăn như vậy, có người ra ngăn, họ còn dọa ñánh. Sau mệt quá, họ quay ra ngủ. Ở ñây cũng có ông chủ ñến thức dậy mời họ vào nhà. Vừa thấy sữa bưng ra, họ vồ lấy uống ngay. Ông chủ hỏi: - "Các anh ñi ñâu?" - "Đi tìm thần Hạnh phúc" - "Các anh là lũ phá vườn mía, ăn trộm cừu, v.v.. ñã phá hoại của người lại còn ñe ñánh chủ". Nói xong, một ánh chớp nổi lên, năm gã biến mất, hóa thành năm con vật: cú, chim lợn, vọ, vạc, dơi. Chúng xấu hổ, chỉ dám ñi ăn ñêm2.
Về tình tiết lội xuống giếng trở nên xinh tốt, người Khơ-me (Khmer) có truyện Bốn chàng hói:
Có bốn chàng ñầu hói thường bị bọn trẻ giễu cợt, bèn không quản ñường sá xa xôi tìm ñến một vị hòa thượng trên núi Hi-ma-van ñể nhờ cứu chữa. Vị hòa
1. Theo Mô-ha-mét En Pha-si (Mohamed El Fasi) và Đéc-men-ghem (Dermenghem). Truyện cổ tích Phe-dơ.
2. Theo Đinh Tú. Cô gái ñẹp lấy chồng rắn.
141
thượng chỉ cho họ một cái hồ ở sau núi, bảo hụp xuống thì tóc sẽ mọc, và dặn chỉ ñược hụp một lần thôi.
Bốn chàng hụp xuống hồ, quả nhiên tóc mọc ñen nhánh. Nhưng họ còn muốn cho tóc mọc nhiều hơn ñể cho thông minh hơn nữa, bèn rủ nhau hụp xuống lần nữa. Nhưng khi lên thì mớ tóc vừa mới xuất hiện ñã biến mất. Lại rủ nhau hụp nữa thì những sợi còn lại cũng mất nốt.
Trở lại chỗ vị hòa thượng, họ xin giúp ñỡ lần chót, nhưng hòa thượng lắc ñầu, nói: - "Không thể chữa ñược nữa. Đó là hình phạt ñối với những kẻ tham lam không chán"1.
Có nhiều truyện của nhiều dân tộc nói về sự tích con khỉ nhưng không cùng loại với mô-típ của các truyện trên kia:
Ví dụ một dân tộc ở châu Phi kể rằng: một tù trưởng thấy những người của bộ lạc mình lười biếng không thích làm ruộng, chỉ quen nhờ vả người khác bèn ñuổi cả vào rừng giao cho mỗi người một cái cuốc, buộc họ không ñược ñánh mất. Thế nhưng bọn người này không thích làm ruộng, chỉ hái quả mà sống. Sợ mất cuốc, họ buộc chặt cuốc vào sau lưng, về sau cán dính vào người thành cái ñuôi, ñồng thời lông lá mọc ñầy mình, trán nhăn nhó vì mệt mỏi, mà thành khỉ2.
Người thiểu số ở Nghệ-an có truyện Sự tích con khỉ khác truyện của ta:
Có một "ông mo" sinh ñược nhiều con cháu. Gặp nạn ñói, ông xuôi chợ kiếm cái ăn. Ở nhà vợ không chờ ñược, bèn lấy lúa giống làm gạo nấu cháo cho con cháu ăn. Đói quá, chúng nó tranh nhau bốc ăn khi cháo chưa kịp chín. Người ñàn bà lấy ñũa bếp gõ mỗi ñứa một cái vào ñầu. Chúng chạy vào khe núi hóa thành khỉ, lông lá mọc ñầy người. Bà ta bèn ñi gọi con và cháu về, nhưng ñi ñến ñâu, chúng chạy tán loạn ñến ñấy. Ông mo về, vợ kể lại và nói: - "Không biết có phải chúng nó giận tôi ñánh hay trời làm ra thế". Ông mo vào rừng gọi con cháu, nhưng chúng ñáp: - "Bây giờ trời ñã bắt hóa khỉ rồi, xin ñừng gọi nữa"3.
Đồng bào Cham-pa có truyện kể về sự tích con khỉ nhưng lại giống truyện Tam và Tứ (xem truyện số 150, tập IV):
Có hai anh em Run và Rai, bố mẹ chết, Run chiếm ñoạt cả gia tài. Sau ñó Run ñưa Rai lên rừng ñốn gỗ. Vì ñói quá nên Rai hỏi vay Run bát gạo - "Mỗi bát gạo phải ñổi một con mắt!". Thằng anh ñộc ác nói thế. Rai vay một bát bị Run móc một mắt. Nhưng ngày hôm sau lại ñói, Rai ñành ñổi con mắt kia lấy bát gạo thứ
hai. Run bỏ em về nhà. Rai lạc trong rừng sâu. Bỗng nghe ñôi chim cu xanh nói
1. Theo Truyện dân gian Căm-pu-chia.
2. Thấy dẫn trong A. Van Ghen-nép (Van Gennep): Tôn giáo, phong tục và truyền thuyết, tập II.
3. Theo Bản khai tổng Quỳ-dương và Bản khai tổng Thanh-xuyên (chữ nôm, tài liệu chép tay lưu ở Thư viện Khoa học xã hội).
142
với nhau thương hại cho anh chàng mù. Một con bảo Rai: - "Hãy ngửa mặt lên ta cho mắt". Rai ngửa mặt và chim thả xuống hai hòn ngọc ñúng và hai hố mắt, mắt lại sáng như xưa. Rai xuống nước bắt ñược con cá thần. Cá bảo ñưa mình về nuôi. Sáng dậy, Rai thấy chỗ hồ cá ñầy vàng ngọc. Giàu có, Rai mời Run ñến ăn giỗ. Biết vì sao mà em giàu, Run mượn con cá thần về nuôi, nhưng cá chỉ cho giẻ rách và phân. Run giận, bắt cá ăn thịt. Rai ñem chôn xương cá ở một mảnh ñất do một con gà chỉ cho, tự nhiên mọc lên hai cây tre ñầy lụa là gấm vóc vàng bạc. Run lại ñến mượn cây tre về trồng, tre chỉ cho giẻ rách nên Run chặt ñem ñun bếp. Rai ñi tìm tre và mang tro về hòa nước tắm: cả hai vợ chồng trở nên ñẹp ñẽ, Run cũng lấy tro về tắm, nhưng giội xong thì trở nên ngứa ngáy, lông lá mọc ñầy người. Rai ñược thần bảo nung gạch ñỏ bỏ gần chỗ Run tắm. Vợ chồng Run ngồi lên bị bỏng ñít chạy lên rừng thành khỉ.
Người Khơ-me (Khmer) cũng có một truyện nói vì sao con khỉ ñỏ ñít:
Thỏ là chúa rừng, một hôm thuê thợ rèn tới rèn ñuôi rồi phân phát cho các loài vật. Những con vật ñến sớm như công, trĩ, v.v... ñều chọn ñược ñuôi dài và ñẹp. Những con ñến muộn như chó, v.v... vớ phải ñuôi xấu. Voi và cun cút ñến muộn hơn thì ñuôi ñã hết cả, nhờ thợ rèn lấy cứt sắt rèn hộ nên cũng ñược ñuôi nhưng ñuôi không xứng với người. Khỉ ñến sớm nhưng mải cười chê người khác, quên mất mình chưa có ñuôi, mới nhờ thợ rèn vét số cứt sắt còn lại rèn cho mình. Nhưng vì vội vã, ñuôi còn nóng ñã lắp vào nên ñít bị bỏng, ñành chạy vào rừng sống qua ngày1.
1. Đều theo Truyện cổ dân gian của các dân tộc Việt-nam, tập III
143
13. SỰ TÍCH CÁ HE1
Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan ñạo. Sau hơn ba mươi năm khổ công tu luyện, sư thuộc lòng tất cả các kinh kệ nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy mà lâu rồi vẫn chưa ñược thành chính quả. Sư, bụng bảo dạ: - "Phải ñến ñất Phật một phen mới có hy vọng thành Phật". Nghĩ vậy, sư ta quyết chí tìm ñường sang Tây-trúc.
Đường ñi từ nước nhà sang Tây-trúc thuở ñó thật muôn phần vất vả. Việc giao thông hầu hết là ñường bộ, mà ñi bộ trên con ñường mịt mùng thăm thẳm thì mỗi bước là một hiểm nguy. Nhưng nhà sư trẻ tuổi vẫn quả quyết nhắm hướng Tây khởi hành.
Cuộc hành trình ñã ñược năm mươi ngày. Nhà sư ñã nhiều lần lạc ñường và mấy lần mê man vì sốt, nhưng nhờ ñược giúp ñỡ nên ñều qua khỏi. Hễ dứt bệnh là chàng lại tiếp tục cuộc hành trình.
Một hôm, ñến một khu rừng thì trời ñã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi nghỉ vì trong người ñã thấy ớn rét. May sao giữa rừng sâu, sư bỗng gặp một ngôi nhà. Nghe tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sàn. Sư tỏ ngay ý ñịnh của mình là xin ngủ nhờ một ñêm. Nhưng bà cụ vừa thấy khách ñã xua tay rối rít:
- Đi mau lên! Mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng ñâu. Sư ñáp:
- Tôi bây giờ thật là kiệt sức, không thể nào bước ñược nữa. Nếu không cho nghỉ thì cũng ñành nằm liều trước cửa ñây thôi.
Bà cụ bảo:
- Chao ôi! Con ta vốn là Ác Lai hay ăn thịt người. Cố ñi nhanh lên, bây giờ nó sắp về rồi ñó.
Nhưng sư ñã vứt tay nải, nằm vật xuống ñất. Hai ñầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ không biết nói thế nào nữa, ñành nắm tay y lôi ñến một cái hầm ñá lớn. Sau khi ñẩy vào, bà cụ bảo y phải giữ cho thật im lặng ñể tránh một cái chết thê thảm. Đoạn, bà cụ chất củi phủ lá rất kín ñáo.
Trời tối hắn thì Ác Lai về ñến nhà, tay xách một con mang. Hắn dừng lại ở chân thang và khịt mũi mãi. Hắn nói:
- Có mùi thịt mẹ ạ!
1. Tức là cá lợn, cá heo hay hải trư (marsoruin). Ở Nam-bộ còn gọi là cá nược.
144
Mẹ hắn ñáp:
- Thì chả thịt mày mang về ñấy là gì?
- Không phải. Thịt người. Con biết lắm. Có thịt người.
Bà cụ chưa kịp can thì hắn ñã quẳng con mang lên sàn rồi chạy ñi tìm. Chả mấy chốc, hắn ñã lôi ñược nhà sư bất tỉnh nhân sự từ dưới hầm về phòng mình.
Khi sư tỉnh dậy thì ñã thấy Ác lai ñang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát:
- Mày ñi ñâu?
Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì người thường bèn tỉnh táo ñáp: - Tôi ñi tìm Phật.
- Tìm ñể làm gì?
Sư bấy giờ mới nói rõ mục ñích của mình. Rồi luôn miệng, sư giảng giải ñạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể lại bao nhiêu nỗi gian truân dọc ñường, và niềm mong muốn cuối cùng là làm sao ñược nhìn mặt ñức Phật ñể Phật ñộ cho thành chính quả. Sư nói khéo quá, ñến nỗi mẹ con Ác Lai ñều cảm ñộng ñến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho họ biết là họ cũng sẽ trở nên "vô sinh vô diệt", sẽ sống một ñời sống bội phần sung sướng trên Nát-bàn, nếu họ nhất quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ác Lai rơi xuống sàn. Những ñường nhăn hung ác mới ñó giờ ñã dịu lại.
Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên ñường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho chàng. Họ lại tiễn ñưa sư sang tận bên kia một ngọn núi ñá. Khi sắp từ biệt, Ác Lai hỏi:
- Tôi biết lấy gì mà dâng Phật ñây?
Sư ñáp:
- "Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm". Chỉ dâng tấm lòng mình là ñủ.
Sư không ngờ Ác Lai ñã rút mũi mác, nhanh như cắt tự rạch bụng mình lôi ra cả một mớ ruột gan ñưa cho sư và nói:
- Nhờ hòa thượng ñưa hộ dâng lên ñức Phật.
Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ vì Ác Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ còn biết làm thế nào ñây. Cuối cùng sư ta ñành nhìn vào cặp mắt của Ác Lai, gật ñầu nhận lời rồi gói bộ lòng của con người ñáng thương ñó lại và quảy lên vai, cất bước ra ñi.
Sư vừa ñi ñược mấy ngày thì khu rừng rậm chấm dứt, biển lộ ra trước mặt mênh mông bát ngát. Nước trời một vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư
145
lại chẳng vui một tí nào. Món lễ vật của ñức Phật ñè nặng trên vai. Nếu chỉ có thế thì không có gì ñáng ngại cho lắm. Khổ một nỗi là mùi thối từ bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư lẩm bẩm: - "Như thế này thì các nhà quán dọc ñường còn ai dám chứa mình". Qua ngày hôm sau, không thể chịu nổi nữa, sư bèn vứt bộ lòng Ác Lai xuống biển.
Nhà sư ñi mãi rồi cũng ñến Tây-trúc. Nhưng khi phủ phục trước Phật ñài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa ñược ñắc ñạo thì bỗng nhiên trên ñiện cao có tiếng vọng xuống bảo chàng: - "Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả". Sư rất ñỗi kinh ngạc, cố ngước mắt nhìn lên một tí. Trên cao vời vợi, sư thấy hai người tựa hồ như hai mẹ con Ác Lai. Sư bỗng hiểu hết: Đức Phật ñã rõ sự thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình rồi; còn mẹ con Ác Lai nay ñã thành chính quả chỉ là nhờ trong một lúc, ngộ ñạo mau lẹ và chân thành. Sư nằm phục vị hồi lâu, lòng thẹn thò vô kể.
Nhà sư ta sau ñó lại trở về chốn cũ ñể tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông sâu thẳm, nhưng sư cũng cố lặn hụp ñể mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai gửi cho mình. Sư nghĩ chỉ có làm thế mới dám nhìn lại mẹ con Ác Lai và hy vọng tới gần tòa sen ñức Phật. Sư bơi lên lặn xuống mãi. Sau ñó sư hóa làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he1, cũng gọi là cá nược hay có nơi gọi là cá ông sư. Vì cho ñến ngày nay dòng dõi loài cá ñó con nào con ấy có cái ñầu trọc như ñầu ông sư và vẫn làm cái việc của nhà sư, nghĩa là chúng ñi hàng ñàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn không chịu nghỉ.
Những người ñánh cá còn nói loài cá he rất ghét những ai trêu chọc mình. Ai trêu chọc nghĩa là gợi lại chuyện cũ của tổ tiên chúng nó, chúng nó sẽ làm cho ñắm thuyền rách lưới. Trái lại, ai khen ngợi reo hò thì chúng nó sẽ lặn xuống nổi lên nhiều lần cho mà xem2.
KHẢO DỊ
Truyện kể trên lưu hành ở miền Nam. Nhân dân miền Bắc kể chuyện này cũng một nội dung nhưng khác tên gọi. Đó là Sự tích chim bìm bịp:
Một sư nữ chân tu, ăn chay niệm Phật bao nhiêu năm ròng mà chưa ñắc ñạo. Một hôm, sư quyết ñịnh sang Tây-trúc ñể hỏi Phật duyên cớ vì sao.
Sau mấy tháng trời ngày ñi ñêm nghỉ, một ngày kia sư ñến một khu rừng thẳm. Trời ñã xế chiều, sức ñã kiệt thì may sao, sư trông thấy một cái nhà bên ñường. Nghe tiếng gõ cửa, một người ñàn bà bước ra vội vã xua tay, bảo khách ñi nhanh
1. Theo Jê-ni-bren (Génibrel) và Lăng-ñờ (Landes). Sách ñã dẫn.
2. Theo Thực nghiệp dân báo.
146
lên kẻo con mình là yêu, hễ bắt ñược người là ăn thịt. Nhưng thấy sư nữ năn nỉ quá, chủ nhân lấy cơm cho ăn rồi bảo chui vào trong một cái vại ñậy lại cẩn thận.
Yêu con về ñánh hơi thấy mùi thịt người, cố tìm cho kỳ ñược. Yêu mẹ thấy con sắp ăn thịt sư nữ thì hết lời khuyên can: - "Đó là một nhà tu hành. Nếu con ăn thịt người ấy Phật sẽ không dung thứ". Nghe nói, yêu con dần dần tỉnh ngộ, bày tỏ sự hối hận của mình cho sư biết. Hắn ñã ăn thịt mất rất nhiều người và bây giờ hắn muốn chuộc tội. Cuối cùng, yêu con hỏi sư nữ: - "Tôi muốn sửa lỗi ñể theo Phật. Chẳng hay dùng cái gì làm lễ ra mắt?" Đáp: - "Phật chỉ cần tấm lòng mà thôi!".
Thế là yêu con rút dao rạch bụng lôi cả gan ruột gan ra và nói: - "Nhờ chuyển giúp cho tôi vật này làm lễ dâng Phật". Sư nữ không ngờ hắn lại hiểu nhầm như vậy, ñành nhận lời, quảy bộ lòng lên ñường. Nhưng ñược mấy ngày bộ ruột nặng mùi quá không sao chịu ñược, sư nữ quên cả lời hứa, quăng vào bụi rậm và tiếp tục ñi nữa.
Đến Tây-trúc, khi nhà sư vào làm lễ thì ñức Phật ở trên tòa sen bảo: - "Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả". Sư nữ hiểu ra, òa khóc, nói mình ñã kiệt sức, không biết làm thế nào mà tìm ñược. Phật cho nàng hai chiếc cánh ñể ñi cho chóng và bắt tìm cho ra.
Nhưng còn biết ñâu mà tìm. Sư nữ khóc liên miên, ngày ñêm chui rúc hết bụi này ñến bụi khác, thỉnh thoảng lại lên tiếng than thở, phảng phất như tiếng "bìm bịp". Tìm không ñược, nhưng sư cứ phải tìm mãi. Rồi sau ñó sư hóa thành một loại chim ñầu ñen, mình nâu, mắt ñỏ như máu, người ta gọi là chim bìm bịp. Đó là hình dạng của sư nữ ñầu chít khăn ñen, mình mặc áo vải nâu già. Còn mắt ñỏ
là vì khóc nhiều mà sinh ra thế1 (Xem thêm một truyện khác về bìm bịp ở mục Khảo dị, truyện số 16).
Truyện Sự tích cây phướn nhà chùa cũng có nội dung giống hai truyện trên:
Xưa có một người chuyên môn ăn thịt người. Hắn ñã từng bắt giết không biết bao nhiêu nhân mạng. Tuy hung ác vô ñạo, nhưng hắn lại thờ mẹ rất có hiếu. Một hôm, có một nhà sư ñi quyên giáo qua ñó bị hắn bắt. Khi hắn sắp giết thịt thì mẹ hắn ra xin hộ cho nhà sư. Thấy mẹ năn nỉ quá, hắn ñành buông ñao rồi hỏi sư làm gì và ñi ñâu. Nghe nhà sư kể chuyện, cả hai mẹ con rất hối hận về những tội ác từ trước ñến nay. Hai mẹ con cũng muốn kiếm một vật cúng cho nhà chùa nhưng ngặt vì trong nhà chả có gì ñáng giá cả. Nhưng người con ñã tình nguyện nộp bộ lòng của mình ñưa về cúng Phật. Vừa nói hắn vừa rạch bụng moi ruột ñưa ra. Nhà sư cũng nhận lấy nhưng ñến bờ suối thì quẳng luôn xuống nước. Có con quạ thấy vậy, tha bộ ruột ấy bay ñến chùa, ñậu trên ngọn cây kêu
1. Theo Trung Bắc chủ nhật (1943).
147
lên om sòm. Đức Phật rõ chuyện, khen thưởng con quạ mà phạt tội nhà sư. Đồng thời ñưa hai mẹ con nhà kia lên trời thành Phật. Từ ñó nhà chùa làm cây phướn ñể ghi nhớ việc ấy. Trên cây phướn bao giờ cũng tạc hình con quạ ngậm một tấm lụa dài ñộ hai ba mươi thước. Tấm lụa tượng trưng cho bộ ruột của người ñã rạch bụng cúng Phật1.
Tóm lại, ba cốt truyện trên có lẽ xuất phát từ một phật thoại và ñã ñược sửa chữa tô ñiểm thành truyện cổ tích dân gian.
Theo Mỹ Ấm tùy bút thì mẹ Ác Lai ñược Phật ñộ cho làm Mụ Thiện. Ác Lai trở thành hai vị Hộ pháp ñược Phật cho giữ chùa mà ta thường gọi là ông Thiện ông Ác. Tại sao một người lại hóa thành hai? Đó là vì tuy là một nhân vật nhưng kể từ khi rạch bụng cúng Phật ñã tách thành hai con người khác hẳn. Ông Thiện là hiện thân của quãng ñời sau của Ác Lai (thời kỳ ngộ ñạo). Ông Ác là hiện thân của quãng ñời trước (chưa ngộ ñạo).
Nhưng về sự tích cá he, không phải chỉ có mỗi truyện trên kia. Lăng-ñờ (Landes) trong sách ñã dẫn, có sưu tập ñược hai truyện nữa, có những mô-típ khác hẳn với mấy truyện vừa kể.
Truyện thứ nhất tức là truyện Con mụ lường (xem truyện số 84, tập II). Truyện thứ hai:
Xưa có một cô gái con một phú ông. Trong làng có một chàng học trò nghèo thỉnh thoảng ñến nhà cô xin ăn. Dần dần cô gái phải lòng anh ta và ước hẹn có ngày nên vợ nên chồng. Nàng lấy trộm của cha mẹ một nén vàng ñưa cho, bảo cố học thi ñỗ, hứa sẽ chờ ñợi. Người học trò cảm ơn và thề bồi với cô gái.
Không ngờ khoa thi năm ấy người học trò bị hỏng. Vừa buồn vừa thẹn, chàng bỏ ñi xứ khác, quyết thi ñậu mới trở về. Về phần cô gái nghe tin người yêu thi hỏng, lại ñi biệt tích nên cũng rất chán nản. Sau cùng không thể chờ mãi ñược, cô phải kết hôn với một người giàu sang trong vùng.
Mãi ñến bảy năm sau, người học trò mới thi ñậu và ñược bổ làm quan. Tin rằng người yêu vẫn còn chờ mình, anh chàng vui vẻ tìm về quê hương. Khi biết nàng ñã có chồng, chàng mới quyết ñịnh không gặp nữa.
1. Theo Phan Kế Bỉnh. Việt-nam phong tục. Về Sự tích cây phướn nhà chùa, ở Nghệ-an có người kể khác với truyện trên:
Xưa, ñức Phật sai một người ñi sang một nước khác ñể lấy kinh về cho mình. Người ấy ñưa về ñến nửa ñường thì bị một con hổ ăn thịt (về tình tiết này, một người khác ở Cát-ngạn (Thanh-chương) kể rằng người ấy bị một con rùa lớn làm chìm mất thuyền kinh). Thấy kinh Phật tan tác giữa ñường,, một con quạ bèn tha về cho ñức Phật. Để trả ơn quạ, ñức Phật sai làm một cây nêu rất cao cho quạ ñỗ trên ñó. Về sau, nhà chùa thường trồng cây phướn, trên có quạ ngậm giải dài là vì thế (Bản khai của xã Đức-mỹ). Xem thêm Khảo dị, truyện 136, tập III).
148
Về phía người ñàn bà nọ, nghe tin người yêu cũ ñã ñỗ ñạt làm nên, lại có ý ñi tìm mình, chắc là vẫn trung thành với lời thề xưa nên bỏ chồng tìm ñến nhà người cũ. Anh chàng ñón tiếp rất tử tế nhưng khi nghe nhắc lại lời ước cũ thì ñáp: - "Nàng ñến thăm tôi chơi thì ñược nhưng ñến ñể lấy tôi thì không ñược. Hãy trở về với chống cũ ñi! Một người ñàn bà không thể có hai chồng!". Không ngờ câu trả lời lại như vậy, người ñàn bà thẹn quá ñáp: - "Tôi tưởng anh còn nhớ lời ước cũ nên ñã bỏ chồng ñến gặp anh. Bây giờ không còn mặt mũi nào trở về
nữa". Nói ñoạn nhảy xuống sông tự tử và hóa thành cá he. Người ta bảo khi cá nổi trên mặt nước thấy trời thì thẹn với trời phải lặn xuống ñể giấu ñi, nhưng khi xuống nước thấy ñất thì thẹn với ñất phải nổi lên. Vì thế cá thành thói quen lặn xuống nổi lên không nghỉ.
Truyện thứ ba1:
Một ông hoàng có hai cô gái. Cô bé tên là Thị Quy, nhan sắc tuyệt trần. Có nhiều hoàng tử lân bang ñến dạm hỏi nhưng ñều bị từ chối. Nàng chỉ yêu có mỗi một chàng trai nhà nghèo bấy giờ lưu học ở kinh ñô tên là Anh Linh. Hai người chỉ non thề biển hứa lấy nhau sau khi Anh Linh ñã ñỗ ñạt.
Thấy Thị Quy từ chối, bọn hoàng tử lân bang tức giận, cùng cử binh ñến ñánh báo thù. Nhà vua sai ông hoàng, cha Thị Quy ñi ñánh và cuối cùng ông ta dẹp ñược.
Anh Linh thi ñậu cao, ñược vua khen ngợi, ban cho một cái nhẫn quý, trên có khắc một câu ñố. Vua bảo nếu giảng ñược sẽ gả công chúa và cho làm quan to. Thấy nét chữ ngoằn ngoèo, Anh Linh không hiểu gì cả, sau gặp ñược một người ăn mày, chàng cho ông lão nhiều tiền và nhờ ñó ñược ông lão giảng hộ cho.
Vua y ước, cho làm quan ñầu triều và gả công chúa cho chàng. Vì vua không có con trai nên ai lấy công chúa thì sẽ ñược nối ngôi. Biết ñược ñiều ñó, Anh Linh vội nuốt lời hứa cũ với Thi Quy và nhận lời vua.
Thị Quy thất vọng nhảy xuống sông tự tử. Long vương thương nàng cho hóa thành cá he. Ngày nay cá còn giữ hình thù của cô gái bị phụ tình ở chỗ có cặp vú như vú con gái và có tiếng kêu lao xao như tiếng rên rỉ của người phụ nữ khóc than cho thân phận.
Đáng ñể ý tình tiết: nhà sư gặp yêu tinh ăn thịt người, nhưng lại nhờ có bà mẹ của yêu tinh cứu cho khỏi chết, v.v... Tình tiết này khá phổ biến ở một số truyện cổ tích phương Tây mặc dầu mỗi nơi lồng vào một cốt truyện khác nhau. Truyện Ba sợi tóc vàng của chúa quỷ của Pháp, Bỉ, Đức, Ý, v.v... là một trong những truyện ñó (xem Khảo dị, số 136, tập III, truyện Người dân nghèo và Ngọc Hoàng). Người Nga có truyện Hoàng tử em rể chó sói cũng có loạt tình tiết này:
1. Jam-mơ (Jammes). Hồi ức về nước An-nam.
149
Một hoàng tử có người anh rất sợ vợ và thường bị vợ hành hạ. Mỗi lần thấy chị dâu bắt anh mình làm việc gì khó thì hoàng tử thường về nhờ vợ - em gái Sói thần hóa thành người - giúp ñỡ. Lần thứ ba, chị dâu bắt người anh phải ñi tìm thanh gươm của Sói thần. Hoàng tử tìm ñến nhà Sói thần. Bà mẹ Sói thần giúp hoàng tử nấp vào một chỗ kín ñể khi Sói thần về khỏi bị ăn thịt. Sói thần về ñánh hơi thấy hơi người, hỏi mẹ: - "Đã lâu không ñược ăn thịt người, nào ñưa thịt cho con ăn ñi". Người mẹ nói: - "Làm gì có người, con bay khắp nơi nên có hơi người ñấy". Sói thần tìm tòi một lúc không ñược bèn nằm nghỉ. Khi thấy con ñã dìu dịu, mẹ mới ñưa hoàng tử ra. Nhưng Sói thần vẫn ñòi ăn thịt. Hai bên ñánh bài, hoàng tử thua, sắp bị ăn thịt nhưng nhờ chiếc khăn của vợ nên Sói thần nhận ra là chồng của em gái. Cuối cùng hoàng tử ñem ñược gươm của Sói thần về và chữa cho người chị dâu trở nên hiền lành1.
1. Theo Truyện dân gian Nga (bản dịch của Nguyễn Hải Sa).
150
14. SỰ TÍCH CON SAM
Ngày xưa có hai vợ chồng một người ñánh cá nghèo. Một hôm người chồng ra khơi với bạn nghề. Không may có một trận bão rất lớn nổi lên giữa lúc họ ñang thả lưới. Không một người nào thoát khỏi tai nạn.
Tin dữ về ñến làng, tất cả mọi gia ñình ñánh cá ñều ñau khổ. Tiếng khóc lan ñi các nhà. Riêng người ñàn bà lòng ñau như cắt. Như ñiên như cuồng, bà bỏ nhà ra ñi, hy vọng tìm thấy chồng. Bà cứ theo bờ biển ñi, ñi mãi. Trải qua hai ngày ñến một hòn núi lớn. Bà trèo lên rồi vì mệt quá ngủ thiếp dưới một gốc cây.
Đang ngủ bỗng có một tiếng nổ dữ dội. Bà choàng dậy thấy một ông lão ñầu tóc bạc phơ ñứng trước mặt mình, hỏi:
- Người là ai mà dám ñến nằm trước nhà ta?
Người dàn bà mếu máo ñáp:
- Tôi ñi tìm chồng. Cụ làm ơn chỉ giúp kẻo tôi nóng lòng nóng ruột quá! Cụ già nói:
- Ta là thần Cây. Thấy nhà người chung tình ta rất thương. Vậy ta báo cho biết là chồng người còn sống, hiện ở ngoài hải ñảo.
Nói rồi, ông cụ trao cho người dàn bà một viên ngọc và bảo:
- Ngươi hãy ngậm viên ngọc này vào miệng thì sẽ bay qua ñược biển ñế gặp chồng. Nhưng phải nhớ là nhắm mắt ngậm miệng kẻo rơi ngọc mà nguy ñó.
Ông cụ nói xong biến mất. Bà ta lấy ngọc ngậm vào miệng và nhắm mắt lại. Thốt nhiên trời bỗng nổi gió ù ù. Bà thấy người như nhẹ bỗng, hai bên tai nghe tiếng vo ve. Được một lúc sau thấy chân chấm ñất, bà mở mắt ra thì thấy mình ñang ñứng trên một bãi cát lạ mà gió bấy giờ ñã lặng. Trông thấy chồng ngồi co ro trên bãi, bà mừng quá. Hai vợ chồng hàn huyên một hồi lâu rồi mới tính chuyện trở về làng cũ.
Người chồng ôm ngang lưng vợ ñể vợ ñưa qua biển cả. Lòng người vợ sung sướng không thể nói hết. Vì thế, bà ta ñã quên mất lời của thần Cây dặn. Miệng mắc ngậm ngọc nhưng bà vẫn cố hỏi chuyện chồng. Đột nhiên viên ngọc văng ra giữa không trung. Bà chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi cả hai vợ chồng ñều sa xuống biển. Rồi ñó họ hóa thành những con sam.
Ngày nay, những con sam thường ñi cặp ñôi ở dưới nước, lúc nào con sam ñực cũng ôm lấy con sam cái như khi chồng ôm vợ ñể bay qua biển1.
1 Theo Nguyễn Duy. Truyện cổ Việt-nam.
151
Có câu tục ngữ ''Thương như sam'', là do truyện này mà ra.
152
15. SỰ TÍCH CON DÃ TRÀNG
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần ñấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang.
Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột nên mình mẩy nó yếu ớt không cựa quậy ñược. Một lúc lâu, rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái ñút cho vợ ăn.
Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng ñến kỳ lột nằm im thim thíp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau có một con rắn ñực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò ñến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn ñực một mình bò vào hang.
Dã Tràng biết con rắn ñực này toan làm gì rồi. Ông cảm thấy ngứa mắt, muốn trừ bò con rắn ñó ñi ñể cứu con rắn chồng ñang lúc suy nhược. Lúc ñó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn mới, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào ñầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng trong thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ ñi về nhà. Từ ñó, ông không thèm ñể ý ñến hang rắn nữa.
Chừng dăm ngày sau, một hôm, Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ mình ñã thấy và ñã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, ñuôi quấn lấy xà nhà, ñầu vươn tới gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe ñược tiếng rắn nói:
- Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi ñợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết ñể báo thù cho vợ tôi. Nhưng vừa rồi nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe này. Đeo nó vào mình thì có thể nghe hiểu ñược mọi tiếng muông chim ở thế gian.
Từ kinh ngạc ñến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ ñó không bao giờ rời.
*
* *
153
Một hôm, Dã Tràng ñang hái rau, bỗng có một bầy quạ ñến ñậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này: - "Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên ñó lấy về mà ăn nhưng nhớ ñể lòng lại cho chúng tôi với". Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà ñi lấy, không quên dặn họ ñể bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy ñua nhau ñi ñông quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng chừa một tý gì.
Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng ñánh lừa, bèn ñổ xô ñến vườn ông réo lên om sòm. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm ñã làm hại mình không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ ñứng ñó chửi mãi.
Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là ñể ñuổi chúng ñi chứ không ñịnh giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân liền cắp lấy mũi tên có ñề tên Dã Tràng ở ñuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông thấy một cái xác chết trôi, ñàn quạ bèn ñem mũi tên cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại ñến làm biên bản, thấy mũi tên, liền ñoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông hạ ngục.
Dã Tràng bị bắt bất ngờ hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cứ sờ sờ làm cho ông ñuối lý, ñành chịu chui ñầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét nỗi oan uổng. Thấy vậy, quan sai lính giải ông về kinh ñể vua phân xử.
Từ ñề lao tỉnh, ông lại bị ñiệu ñi. Dọc ñường trời tối bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên ñống rơm buồn rầu không ngủ ñược. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một ñàn chim sẻ bay ngang ñầu nói chuyện về nhau: - "Nhanh lên! Chuyến này sẽ không lo ñói nữa mà cũng chả sợ ai ñánh ñuổi cả". Một con khác hỏi: - "Của ai mang ñến bỏ vương vãi thế nhỉ?". Con nọ trả lời: - ''Của vua nước bên kia. Họ toan kéo sang ñánh úp nước bên này. Ngày hôm qua quân ñội giáo mác kéo ñi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp ñến biên cương thì bị sụp hầm ñổ hết. Họ ñang trở về lấy thứ
khác, cho nên chúng mình tha hồ chén".
Nghe ñoạn, chờ lúc bọn lính ñến dẫn ông lên ñường, Dã Tràng bảo họ:
- Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn không nên bận tâm, mà giờ ñây có một việc quốc gia trọng ñại và cấp bách nữa, cần tính liệu gấp.
Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan mình mới tỏ bày rõ ràng.
154
Khi gặp mấy vị quan ñầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng vua Hiến Đế ở phương Bắc ñã sai tướng cầm quân sang ñánh úp nước mình. Hiện họ ñang ñóng quân ñầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương ñổ hết, chưa tấn công ñược. Bây giờ họ ñang vận thêm lương, chờ ñầy ñủ sẽ vượt cửa ải sang Nam.
Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng gạn hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào ñầu mình ñoan rằng nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông ñúng thì xin bề trên phóng thích cho ông. Ngay lúc ñó, những tên quân do thám ñược tung ñi tới tấp mọi ngả ñể lấy tin. Chỉ nội ngày hôm sau, Dã Tràng ñã ñược thả vì lời mách của ông quả ñúng và vừa vặn ñể chuẩn bị ñối phó với ñịch.
Được tha, Dã Tràng ñi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới ñến vùng Hồng-hoa. Ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân.
Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất ñầu, hai vợ chồng rất thương cảm.
Thấy bữa ăn tối thiết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ:
- Bạn ta ñến lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó ñã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai ñãi bạn lên ñường.
Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay.
Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe ñược câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái: - "Mình ôi! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ ñứng sẵn cho chủ nó bắt". Ngỗng mái không nghe, xin chết thay chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân từ giã ñàn con: - ''Con ơi! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữa". Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo, ñòi chết thay chồng cho bằng ñược.
Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván ñặt kề cửa sổ nên nghe ñược tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà phải lìa ñàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông ñành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại.
Suốt ñêm hôm ñó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên, vào khoảng canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ ñể cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng ñã lật ñật chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói:
- Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của ñôi ta lọ phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức ñi khỏi chỗ này.
Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh ñành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy ñi mua tép về ñãi bạn.
155
Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên ñường về nhà. Đến ao, ông ñã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con ñứng chực ở ñấy. Ngỗng ñực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói:
- Đa tạ ân nhân cứu mạng. Không biết lấy gì báo ñền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể ñi ñược dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu ñem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung ñộng ñến tận ñáy biển.
Ngỗng lại nói tiếp:
- Còn như con tép là vật ñã thế mạng chúng tôi thì từ nay, dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, ñể tỏ lòng nhớ ơn!
Dã Tràng không ngờ có sự báo ñáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về.
Khi ñến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ ñể nguyên áo quần xuống nước. Thì lạ thay nước rẽ ra thành một lối cho ông ñi thẳng xuống ñáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần thử xem thế nào.
Hôm ñó, Long vương và các triều thần ñang hội họp ở thủy phủ bỗng thấy nhà cửa lâu ñài và mọi kiến trúc khác bỗng nhiên rung ñộng cơ hồ muốn ñổ. Ai nấy ñều nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho bộ hạ ñi dò la sự tình.
Bộ hạ Long vương ñi theo con ñường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng ñang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi một lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu người nhức óc. Tuy biết ñích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến ñến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thủy phủ.
Gặp Long vương, Dã Tràng cho biết ñó là mình chỉ mới làm thử ñể xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long vương và triều thần nghe nói, ai nấy ñều xanh mắt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa! Vì thế, Long vương ñãi Dã Tràng rất hậu. Ông muốn gì có nấy. Cho ñến lúc ông ra về, Long vương còn ñem vàng bạc tống tiễn rất nhiều ñể mong ông nể mặt.
Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông ñã không việc gì mà lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ ñó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi ñựng chúng và luôn luôn ñeo ở cổ.
Một hôm Dã Tràng ñi bộ nửa ngày ñường ñến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc ñến nơi, Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vì vội quá nên ông ñã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông không thể nào còn an tâm ngồi ăn ñược. Mọi
156
người ñều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo ñến nơi ñã vội cáo từ về ngay.
Nhưng khi về ñến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc ñâu cả, ông rụng rời cả người. Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt ñược một mảnh giấy do vợ viết ñể lại gài ở chỗ treo án. Trong ñó, vợ ông nói rằng có người của Long vương lên bảo cho biết hễ ai bắt ñược túi ngọc ñưa xuống dâng Long vương thì sẽ ñược phong làm hoàng hậu. Bởi vậy bà ta ñã trộm phép ông ñưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt.
Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất ñi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế ñược. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long vương thâm ñộc ñến nước ấy. Nghĩ ñến hai thứ bảo vật, ông tức ñiên ruột. Sau cùng, ông dự tính cho cát lấp biển thành một con ñường ñi xuống thủy phủ ñể lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ rõ ñường lối ñến cung ñiện của Long vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn nhà ra bờ biển ñể làm công việc ñó. Ngày ngày ông xe cát chở ñến bờ quyết lấp cho bằng ñược.
Cho tận ñến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi là con dã tràng, ngày ngày xe cát ñể lấp biển1.
Tục ngữ có câu:
Dã tràng xe cát biển Đông,
Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.
hay là:
Công dã tràng hàng ngày xe cát,
Sóng biểu dồn tan tác còn chi2.
hay là:
Con còng còng dại lắm không khôn,
Luống công xe cát sóng dồn lại tan.
Người ta nói ngày nay loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó nhớ ơn loài tép ñã thế mạng cho tổ tiên mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên ñầu là dấu hiệu ñể tang cho Dã Tràng ñể nhớ ơn cứu mạng3.
1 Theo báo Tân văn (1935).
2 Câu này ở Nam-bộ có người ñọc: Sóng ba ñào ai xét công cho.
3 Đoạn này theo Lăng-ñờ (Landes). Sách ñã dẫn.
157
KHẢO DỊ
Đoạn ñầu truyện này tương tự với truyện ngụ ngôn Con cua mà một tác giả vô danh ñã ñặt thành vè gọi là vè Con cua hay Triều ñương cố sự phú.
Ông Trương Thủ Chí ñi câu dọc ghềnh thường thấy hai con cua nọ ñi ăn với nhau. Một hôm cua vợ ñến kỳ lột, non da non thịt, yếu ñuối không ñi ñược. Lúc ñó chỉ một mình cua chồng tha mồi về cho vợ rồi lại nằm ngoài cửa hang canh gác kẻo sợ những con cua khác ñến ăn thịt.
Đến khi cua chồng lột nằm một chỗ, cua vợ ñã không chăm sóc lại còn rủ chúng bạn tới ăn thịt chồng1.
... Cua ñực lại tứ chi chuyển lột,
Tay chân yếu mười phần còn một,
Xương thịt mòn muôn ngạch ñều không,
Lòng những tin có vợ nuôi chồng,
Hay ñâu nỗi say trai ñắm gái.
Nhớ thù quên ngãi,
Nhớ oán quên ân,
Vào trong hang cắt thịt xé thân,
Ra ngoài cửa ăn tươi nuốt sống...2.
Ông bèn ñem ñiều thấy ñược tâu lên vua. Vua có ý ñịnh thử xem giữa người với cua có giống nhau chăng, mới cho rao khắp thiên hạ: hễ người nào có gan giết ñược vợ thì sẽ: "Ngôi nhất phẩm quyền phong nhất thế: chức tam công lộc hưởng thiên niên". Có một anh lực sĩ hám chức cao quyền trọng, liền ñến lĩnh bảo kiếm nhà vua về ñịnh giết vợ, nhưng khi nhìn vào khe cửa thấy vợ nựng con: thương cha con hiện ñang ở chốn sa trường sương gió. v.v... thì, không nỡ hạ thủ, bèn trở về cung tự trói mình chịu tội.
Vua lại cho rao khắp thiên hạ: ai giết ñược chồng chém ñầu ñem nạp bệ rồng thì sẽ "phong chức hướng tôn quận chúa". Có một nàng Nữ tố nghe vậy bèn giết chồng, ñưa thủ cấp ñến nạp mong lĩnh thưởng. Nhưng vua ra lệnh phân thây Nữ tố và tha bổng lực sĩ.
1 Theo Trương Vĩnh Ký. Chuyện ñời xưa, truyện Nhơn vật ñạo ñồng.
2 Vè Con cua
158
Đoạn giữa truyện Sự tích con dã tràng chịu ảnh hưởng của tích Công Dã Tràng trong Luận ngữ của Khổng Tử. Thiên V sách ñó chép: "[Khổng] Tử bảo Công Dã Tràng là người có thể gả con gái ñược. [Tràng] tuy bị mắc trong vòng dây trói nhưng không phải tội do mình làm. Bèn ñem con gái gả cho [Tràng]".
Người ta giải thích rằng: Công Dã Tràng là người nước Lỗ, học trò Khổng Tử, hiểu biết tiếng chim. Nhà ông nghèo không ñủ ăn. Một hôm có con chim bay tới nhà kêu rằng: - "Công Dã Tràng! Công Dã Tràng. Cọp bắt dê ở núi Nam, người ăn thịt, ta ăn gan. Phiên phiến lên, chớ dùng dằng!". Công Dã Tràng lên núi bắt ñược dê ñưa về làm thịt ăn. Không ngờ người chủ mất dê từng làm dấu riêng ở sừng. Khi nhận ñược sừng dê ở nhà Công Dã Tràng, hắn cho là ông ñã ăn trộm dê của mình bèn ñi cáo với Lỗ Công.
Công Dã Tràng kể rõ sự tình cho Lỗ Công biết, Lỗ Công không tin là thực, bắt ông bỏ vào nhà giam. Khổng Tử biết Công Dã Tràng là người ngay thật, ñi minh oan cho ông, nhưng Lỗ Công cũng không tha. Khổng Tử than rằng: - "Ở chốn cùm trói, lẽ ñâu không có người ngay mắc nạn".
Không bao lâu con chim ấy lại bay tới nhà ngục kêu rằng: - "Công Dã Tràng! Công Dã Tràng! Người nước Tề ñem binh sang! Sông Nghi-thủy ở ñầu ñàng, kíp ngăn ngừa chớ nguy nan!". Công Dã Tràng bèn nói lại với người cai ngục phi báo cho Lỗ Công biết. Lỗ Công sai quân ñi do thám quả có quân Tề sắp sang ñánh. Lỗ Công mới biết Dã Tràng bị tội oan, bèn thả cho ông, cấp cho nhiều tiền bạc. Lại phong cho ông làm ñại phu, nhưng Công Dã Tràng cho là nhờ chim mới ñược làm quan nên không chịu nhận1.
Hoàng Khản giải rằng: Công Dã Tràng là người biết ñược tiếng chim. Một hôm từ nước Vệ trở về Lỗ thấy một bà già ñứng bên ñường khóc, ông hỏi vì sao mà khóc thì bà ta nói: - "Tôi ñợi con tôi mãi mà không thấy nó về". Công Dã Tràng mách: - "Tôi mới nghe một bầy chim gọi nhau sang làng kia ăn thịt người, vậy có lẽ là con bà ñó chăng?".
Người ñàn bà liền sang làng ấy tìm con thì quả nhiên có thật. Bà ta kiện quan, cáo Công Dã Tràng vào tội giết người. Dã Tràng kêu oan, quan không nghe, tống giam và hẹn rằng: - "Nếu cho quan trên thấy chứng cớ, ñúng sẽ tha".
Công Dã Tràng ở trong ngục ñược 60 ngày. Một hôm ông nghe trên mái nhà có bầy hoàng tước nói với nhau chíu chít. Ông cười ầm lên. Chủ ngục hỏi vì sao mà cười. Dã Tràng ñáp: - "Tôi nghe chúng nói: Bên bến Bạch-lưu, có xe chở lúa, trâu nọ gẫy sừng, lúa ñổ tóe loe. Họ hốt còn dư, ta ñi ăn chừ". Chủ ngục tới nói thấy quả như thế bèn báo với quan. Quan tha bổng cho Dã Tràng.
1 Theo Paulus Của. Chuyện giải buồn.
159
Về Sự tích con dã tràng, người Nghệ-an cũng kể như trên kia, trừ một vài chi tiết hơi khác, ví dụ lúc ông bị giam, không phải nghe chim sẻ nói chuyện mà nghe một bầy kiến nói với nhau về cái tin kho lúa ñổ.
Về chỗ quạ báo tin cho Dã Tràng có thịt dê có một ñoạn văn vần: Ông Dã Tràng, ông Dã Tràng,
Có dê chết bên sông nằm dọc ñàng.
Ông ra ñem về ông ăn lấy thịt, cho tôi cái nội tràng.
Cho vội vàng! Cho vội vàng! 1.
Theo sưu tầm của Lăng-ñờ (Landes), thì nội dung truyện Người hiểu tiếng loài vật chỉ là phần ñầu của truyện Sự tích con dã tràng nói trên, nhưng có thêm một ñoạn như sau:
Sau khi làm chủ viên ngọc do rắn chồng tặng, anh chàng (ở ñây không nói tên Dã Tràng) bỗng hiểu ñược tiếng loài vật, như chim, kiến và các thú vật khác... Anh không dám nói sự thật với vợ vì nếu nói thì viên ngọc sẽ biến mất. Một hôm, người vợ ñang ngồi ở góc nhà, anh nghe những con kiến nói với nhau: - "Sắp có trận lụt, phải lên cao mà ở mới ñược". Thấy chồng cười một mình, vợ gặng hỏi lý do. Chồng nhất ñịnh không nói. Vợ giận quá mà chết. Chồng buồn vì cái chết của vợ mới ñến nhà bạn chơi cho khuây khỏa2.
Nguyễn Văn Tố3 và Bô-trô Rút-xen (Botreau Roussel)4ñã kể ra một số dị bản của truyện trên như sau:
Truyện của người Lào: Ông vua hiểu tiếng loài vật: Vua Kê-cay-a một hôm ñi qua bờ ao thấy con gái của vua Thủy tề (Na-ga-ray-a) tằng tịu với một con rắn nước. Tức mình vua giết chết con rắn và quật cho cô gái mấy gậy vào lưng. Cô gái về khóc lóc với cha. Vua Thủy tề nổi giận, chạy ñến ñịnh tìm giết kẻ thù, nhưng khi ñang rình ở cung vua Kê-cay-a thì bỗng nghe vua kể lại cho hoàng hậu chuyện ông ta gặp con gái mình tình tự với rắn, chuyện nhà vua tự tay giết rắn và ñánh công chúa như thế nào. Vua Thủy tề bèn quay về hỏi lại con gái. Cô này thú thật. Thế là ñổi giận thành mừng, vua Thủy tề liền tìm ñến cung vua Kê cay-a lần nữa dưới dạng một người bà-la-môn, hỏi vua mong ước gì thì giúp.
1Bản khai của thôn Hướng-dương.
2 Lăng-ñờ (Landes), sách ñã dẫn. Theo sưu tầm của Nguyễn Văn Tố thì truyện còn có thêm một ñoạn nữa là khi ñến nhà bạn, bạn ñịnh làm thịt ngỗng ñãi anh, nhưng vì nghe tiếng vợ chồng ngỗg than thở nên anh cố chối từ, vì thế ngỗng không bị ñưa làm thịt. Cho nên khi anh chết lũ ngỗng ñể trở có cái mào trắng trên ñầu (Một truyện kể của cổ tích Người hiểu tiếng loài vật trong tập san của Hội Đông-dương nghiên cứu về con người (IIEH) tập VI, 1943).
3 Một truyện kể của cổ tích Người hiểu tiếng loài vật, ñã dẫn.
4 Người hiểu tiếng loài vật (cổ tích Lào và cổ tích Goa-ñơ-lúp (Goadeloupe) xuất phát từ Năm sách dạy trẻ (Panchatantra) Ấn-dộ) trong IIEH, ñã dẫn.
160
Vua Kê-cay-a chỉ muốn biết tiếng loài vật. Vua Thủy tề sẵn lòng truyền cho phép lạ nhưng dặn chớ hở cho ai biết, nếu không thì chết tức khắc.
Một hôm vua Kê-cay-a sai ñặt ngai vàng trên một cái nền nện chặt trát kín, bỗng nghe một lũ kiến trong nền nói vọng ra: - "Hãy hợp sức nhau lật ñổ cái ngai của tên vua này!". Vua cười một mình. Hoàng hậu hỏi vì sao có cái cười bất thường. Vua không nói. Hoàng hậu vật nài mãi. Vua bảo nếu nói ra thì chết mất. Hoàng hậu bảo nếu không chịu nói thì mình cũng chết. Vua ñành hứa sẽ nói trong một dịp tới.
Một hôm khác vua ñang ñi chơi gặp hai vợ chồng con dê. Dê vợ bảo dê chồng lội ra giữa ao lấy cho mình một ít cỏ non, nếu không thì chết. Dê chồng mắng ngay: - "Tao chả dại chết ñuối trong ao sâu. Mụ cứ chết ñi có hơn không. Tao có ngu ngốc như lão vua kia ñâu mà cứ chiều vợ ñến hy sinh tính mạng vô lý như
thế".
Nghe nói vậy, vua Kê-cay-a trở về ñuổi vợ vào rừng1.
Trong Kinh tam tạng có truyện tương tự:
Ngày xưa con gái Long vương ñi chơi trên trần bị một người chăn bò trói ñánh. Vua nước ấy bắt gặp, sai cởi trói thả về. Về nhà, Long vương hỏi con gái tại sao lại khóc. Cô gái vu cho vua trên trần ñánh. Long vương bèn hóa thành rắn tìm lên trần, nấp dưới giường vua, bỗng nghe vua nói với vợ: - "Hôm nay ta ñi chơi gặp một cô gái bị ñứa chăn bò ñánh, ñược ta giải thoát cho".
Ngày hôm sau, dưới lốt người, Long vương ñến gặp vua trần nói: - Ông ñã làm một việc tốt là cứu con gái tôi. Nay ông muốn gì tôi sẽ cho nấy". Vua nói: - "Vật quý tôi ñã có nhiều. Tôi chỉ muốn hiểu tiếng loài vật" - "Ông cứ trai giới trong 7 ngày sẽ ñược như ý. Nhưng phải giữ kín ñừng cho ai biết". Từ ñấy, vua trần quả nghe hiểu ñược tiếng muôn loài.
Một hôm ñang ăn với hoàng hậu, vua trông thấy bướm cái bảo bướm ñực kiếm cho nó thức ăn. Bướm ñực trả lời ai kiếm nấy ăn. Buớm cái nói: bụng nó không muốn thế. Vua cười một mình. Hoàng hậu hỏi, vua nín lặng. Một lần khác, vua ngồi với hoàng hậu thấy hai con bướm gặp nhau, cãi nhau và cả hai ñánh nhau rơi xuống ñất. Vua lại cười. Hoàng hậu hỏi ñến ba lần, vua ñều không nói. Nhưng khi hoàng hậu dọa sẽ tự vẫn, thì vua ñành bảo chờ mình ñi dạo một lát rồi sẽ cho biết vì sao mà cười.
Để cảnh tỉnh vua trần, Long vương hóa thành một bầy dê lội sông. Một con dê cái gọi chồng trở lại ñưa mình ñi. Dê chồng nói không thể ñưa ñược. Dê vợ cũng ñòi tự tử và nói: - "Anh không biết có ông vua nước kia sắp chết vì vợ mình ñó ư?". Dê chồng ñáp: - "Ông vua ấy chết cho vợ là vì hắn ngốc. Mày cứ chết ñi, ta
1 Truyện này từ sách Năm sách dạy trẻ (Panchatantra) của Ấn-ñộ truyền vào Lào.
161
không thiếu gì dê cái". Vua trần nghe nói thế, tự nghĩ mình thua sự sáng suốt của con dê ñực. Lúc trở về hoàng hậu lại vật vã ñòi tự tử. Vua ñáp: - "Cứ chết ñi, trong cung ta thiếu gì cung phi, cần gì một thứ mày"1.
Truyện của Pháp: Con gà trống dũng cảm:
Một anh chàng nghèo khổ nhưng hay giúp người. Nhà anh chỉ có hai con cừu anh thường chăn trên ñồi. Một hôm, anh ñuổi theo ñánh chết một con chó sói giành lại con cừu cho một cô gái chăn cừu. Cô gái cảm ơn và tặng anh một con chó. Hôm khác, nhờ có anh báo tin bão kịp thời cho bố cô gái chăn cừu nên ông cất ñặt ñược gọn rơm rạ ñang phơi. Ông ta khen anh và tặng một con gà trống. Hôm khác nữa, anh lại cứu một con rắn ra khỏi ñống lửa. Rắn bảo anh ñưa nó về nhà và dặn khi mẹ nó ñền ơn thì cứ ñòi biết tiếng loài vật. Mẹ rắn cho anh phép lạ ấy bằng cách thổi vào miệng và dặn anh chớ có tiết lộ bí mật mà chết.
Sáng hôm sau, anh nghe hai con vật nói nhau: - "Nếu anh chăn cừu kia biết có gì dưới chân mình thì anh ta sẽ ñào ngay". Anh mượn cuốc ñào thử thì ñược một thùng vàng. Từ ñấy, anh trở nên giàu có, mua ruộng ñất, làm nhà cửa, v.v... Lại mua trăm con cừu cho chó ñi chăn, và một trăm gà mái cho gà trống cai quản. Anh lại hỏi cô gái chăn cừu nói trên làm vợ, và anh yêu vợ rất mực.
Một buổi chiều, anh cùng vợ ñi xa về, con ngựa cái do vợ anh cưỡi ñi chậm lại sau. Ngựa ñực nói: - "Sao không ñi nhanh, tao mà là bà chủ thì tao thúc mày" - "Tôi chở bà chủ mà tôi lại có ñứa con trong bụng, ñi nhanh sao ñược". Anh cười. Vợ hỏi: - "Sao lại cười". - "Đang nghĩ ñến một chuyện" - "Chuyện gì?" - "Không thể nói ñược!". Vợ làm nũng. Anh lại nghe ngựa cái nói với ngựa ñực: - "Mày chưa biết con ta ñã lớn tướng rồi ư?! Nếu nó mà chạy ñược thì nó vượt xa mẹ nó". Anh cười to hơn trước. Vợ anh nổi cáu ñòi bỏ chồng nếu chồng không chịu nói thật với mình. Chồng ñáp: - "Điều này là ñiều cấm ñối với tôi!" - "Anh hãy nói cho tôi biết ñi!" - "Nếu nói thì tôi chết ngay" - "Hoặc anh nói cho tôi biết, hoặc tôi trả nhẫn cưới cho anh". Cuối cùng anh hứa sẽ nói cho vợ biết chuyện bí mật của mình khi về nhà.
Về ñến nhà, anh bảo người nhà mang ra một cái hòm thửa sẵn như một cái áo quan. Anh nằm vào hòm rồi nói: - "Mình hãy nghĩ lại, tôi nói ra thì chết, vậy có ñòi nói nữa không?" Vợ ñáp: - "Không nói gì thì tôi sẽ ñi". Theo phong tục, khi chủ sắp chết, người quản gia ñặt vào tay chủ một cái bánh và một ñồng xu. Mọi người hầu hạ trong nhà vây quanh lấy anh khóc ầm ỹ. Chó và gà cũng ở trong số ñó. Nhưng gà ñáng lý khóc thì lại gáy to. Chó nói: - "Sao chủ ta ñã như thế mà mày còn rống ầm lên ñược?". Đáp: - "Vì chủ ta dốt nát nên tao muốn nói cho ông ta tỉnh ngộ" - "Mày ñịnh nói gì với ông ấy?" Gà nhảy tới mổ miếng bánh
1 Sa-van (Chavanes). Năm trăm truyện cổ và ngụ ngôn trích từ Kinh Đại tạng Trung-quốc.
162
trên tay chủ, rồi nói: - "Tao có một trăm con gà mái ở quanh tao, ấy thế mà không một con nào dám ăn một hạt nếu tao không cho phép".
Nghe ñến ñây, anh lập tức ngồi nhổm dậy bước ra khỏi thùng, tháo cán chổi cho vợ một trận nên thân. - "Anh làm gì thế?" vợ nói - "Này, muốn biết ta cười gì này!"
Từ ñó vợ anh không tò mò nữa, và làm việc lại hăng hơn trước1. Người Pháp ở Lo-ren (Lorraine) kể truyện trên, dưới ñầu ñề Tiếng nói loài vật:
Một người chăn cừu một hôm nằm dưới gốc cây thấy một con rắn nhờ mang mình lên rừng cho vua thú vật rồi muốn gì có nấy. Hắn giúp xong, chỉ xin biết tiếng loài vật. Hắn quả ñược như ý, và lại dặn: - "Tuyệt ñối chớ lộ bí mật, nếu lộ là chết". Đêm lại, ñang ngủ, bỗng nghe phía ngoài có con chó sói ñang dỗ hai con chó nhà, hứa sẽ chia phần nếu ñể cho mình vào chuồng cừu. Một con bằng lòng, một con không. Hắn dậy giết chết con chó phản chủ. Hôm khác, hắn thấy một con diều mách cho một con quạ chỗ chôn một thùng vàng. Hắn quả ñào ñược vàng, bèn về trả cừu cho chủ không chăn nữa, tiếp ñó hỏi con gái của chủ
làm vợ.
Một hôm, hai vợ chồng cưỡi ngựa ñi thăm người cô ở làng bên cạnh. Hắn nghe hai con vật nói với nhau, một con nói: - "Mày hẳn là nặng nề vì mụ cưỡi mày có mang". Hắn phì cười. Thấy thế vợ hắn gặng hỏi, hỏi không ñược thì kêu gào khóc lóc. Cuối cùng hắn nói: - "Nếu nói thì tôi chết mất. Thôi hãy ñợi ba ngày nữa ñể tôi ñi từ giã bà con ñã rồi sẽ nói cho biết". Ba ngày qua, trong khi hắn uống chén rượu cuối cùng với một người bạn thì một ñàn gà trống bay ñến cửa sồ gáy lên: - "Nếu chủ nghe ta thì không chết". Kết cục, hắn nghe lời của ñàn gà không cần giữ lời hứa trước, và vợ hắn cũng không dám gặng hỏi nữa2.
Truyện Người hiểu tiếng loài vật của người da ñen ở Goa-ñờ-lúp (Goadeloupe):
Có một người nghèo nhưng sống hiền lành. Một hôm anh cứu sống một con rắn ngắc ngoải về nạn cháy rừng. Được sống lại, rắn cảm ơn anh và bảo: - "Anh hãy liếm lưỡi tôi thì sẽ ñược truyền một phép mầu là hiểu tiếng loài vật. Nhưng nếu anh nói với người khác thì sẽ chết ngay". Anh làm theo.
Sau ñó anh lấy vợ. Một hôm, cùng vợ ngồi trên một hòn ñá ở bờ sông, nghe hai con chuột nói với nhau: - "Hai người này không biết rằng họ ñang ngồi trên một kho vàng mà một nhà nào ñông con cũng không thể ăn hết ñược".
Anh cười một mình, vợ hỏi không ñược, giận bỏ ñi tắm sông. Trong khi ñó có hai con dơi nói với nhau: - "Nếu hai người này biết rằng có một luồng nước sắp
1 Theo Pua-ra (Pourra). Kho tàng truyện cổ tích, quyển III.
2 Theo Đơ-la-ruy (Delarue) và Tơ-ne-dơ (Tenèze). Truyện cổ dân gian Pháp, quyển II.
163
ñổ tới thì họ sẽ không tắm". Chồng vội bảo vợ lên ngay. Vợ vừa lên thì nước sông dâng cao làm trôi hòn ñá ngồi lúc nãy. Tuy vậy, vợ cũng không nguôi giận. Dọc ñường vợ bảo: - "Nếu anh không nói, tôi bỏ về cho mà xem". Chồng không ñáp. Trong khi ñó nghe hai con ngựa nói chuyện với nhau, chồng lại cười làm cho vợ càng thêm giận dỗi. Đến nhà, vợ khóc lăn giữa ñất và gào lên: - "Mày muốn tao chết, tao ñi dây!". Chồng dỗ dành: - "Nếu tôi nói thì tôi sẽ chết mất". Vợ vẫn không nguôi giận, chồng ñịnh nói sự thật, mới ñi tìm một cái áo quan. Nhưng ñúng vào lúc anh sắp nằm vào áo quan, bỗng nghe con chó nói: - "Chủ ta sắp chết vì con mụ ấy". Gà trống ñáp: - "Kệ lão ấy. Nếu tôi mà là lão ấy thì tôi sẽ tống tiễn vợ bằng một trận mưa gậy vào lưng, rồi tôi lấy vợ khác".
Nghe thế, anh chàng hiểu tiếng loài vật liền ngồi dậy cầm gậy phang cho vợ một trận ñòn dữ dội rồi tống ra khỏi cửa. Anh ñi kiếm kho vàng dưới hòn ñá chỗ hai con chuột nói lúc nãy, và từ ñấy anh giàu có ñến nỗi có nhiều người ñàn bà chạy theo mình1.
Có khá nhiều truyện khác tương tự các truyện trên, nổi bật là tình tiết người chồng biết tiếng thú vật nhưng nếu nói ra thì chết và người vợ không nén ñược tò mò như: truyện Ha-ri-vam-xa của ñạo Bà-la-môn (vua Bra-ma-ñát-ta hiểu tiếng loài vật không nói cho hoàng hậu biết); truyện mở ñầu bộ Nghìn lẻ một ñêm (con lừa, con bò và người cày ruộng), truyện Bác-lam và Jô-da-phát; truyện Nang Tang-trai của Thái-lan; hay truyện của người Lô-bi (Lobis) châu Phi (ở ñây, người chồng biết tiếng loài vật vì thỏa mãn tính tò mò của vợ, nên bị chết2).
Còn có một loạt truyện khác cũng có nhân vật biết tiếng loài vật do ngẫu nhiên ăn ñược một món ăn thiêng. Ví dụ truyện của các dân tộc ở Xcăng-ñi-na-vơ (Scandinave) trong Et-ñát (Eddas) có nói ñến một nhân vật anh hùng là Xi-gua giết một con rồng nấu tim ăn và uống máu của nó, liền ñó hiểu ñược những lời trò chuyện giữa hai con quạ. Hoặc biết tiếng loài vật bằng con ñường tiếp thu môn học về tiếng loài vật ở nhà trường. Sau ñây là một truyện của người Ma-rốc (Maroc) Tiếng loài chim:
Một người lái buôn giàu có ở Phe-dơ (Phez) không con, nhờ một pháp sư cho ăn một thứ quả loài cây lạ, người vợ liền có mang ñẻ ñược một con trai.
Ông ta cho con ñi học. Con lên mười ông mang ñến ñất Thánh, nhưng ñi qua một thành phố Ai-cập, thấy có một trường học dạy tiếng chim, ông bèn ñể con lại học với một số vàng, ñịnh lúc trở về sẽ lại ñón con về. Nhưng khi người bố trở về thì lạc ñường, không ñón ñược. Mấy năm sau, ông mới lại ñi tìm thì con mình ñã tinh thông tiếng chim, và ñang thay thầy giáo dạy tiếng chim ở trường. Bố ñưa con ñi tàu về quê. Giữa ñường, thấy có ba con chim trò truyện với nhau,
1 Bô-trô Rút- xen (Botreau - Roussel). Bài ñã dẫn.
2 Xem thêm các dị bản truyện Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán số 48, tập II.
164
người bố hỏi con xem chúng nói gì. Con không trả lời. Mọi người chế nhạo. Mãi sau nài mãi, con mới cho biết: - "Nó bảo con ngày sau sẽ làm vua còn bố thì làm phu khuân vác". Bố giận ñể bụng, một ñêm nọ nhân lúc con ngủ say bèn bỏ hòm ñem thả xuống biển, nhưng khi bố về ñến nhà thì nhà cháy, hai vợ chồng tay trắng phải ñi làm thuê kiếm ăn rất vất vả. Trong khi ñó, anh chàng biết tiếng chim ñược một người ñánh cá nước nọ vớt lên nuôi làm con nuôi. Anh ñánh bạn với con một viên quan án nước ấy. Vua nước ấy lúc ñó bị ba con chim ñến kêu quang quác suốt ngày, ñuổi mấy cũng không ñi. Vua sai các quan ñại thần giải thích lý do, hứa ai trả lời ñược thì chia cho nửa nước, không thì chặt ñầu. Đến lượt quan án phải giải thích. Cả nhà buồn rầu khóc lóc vì biết sẽ bị vua xử tử. Thấy bạn buồn và khi biết lý do, anh chàng xin phép vào giảng giải thay quan án. Anh nói với vua: - "Trong ba con chim này, có một con trống ở xứ Đông, một con trống ở xứ Tây. Con mái vốn là vợ con xứ Tây nhưng vừa qua vì chồng ñi vắng lâu ngày, nó ñã theo con xứ Đông. Bây giờ con xứ Tây mới trở về, nên cả ba ñến xin vua phân xử". Vua chưa biết nên phân xử thế nào, bèn nhờ chàng biết tiếng chim xử hộ. Anh bảo hai con trống bay về hai phía, rồi bảo con mái hãy ñi theo con nào mình thích. Con mái lại theo con trống xứ Tây.
Thấy phải mất một nửa nước vì một việc quá ñơn giản như vậy, vua có ý lật lọng. Anh chàng bèn ra giữa sân gọi mấy tiếng, chim bay tới hằng hà sa số kêu ầm ỹ ở sân rồng. Vua hoảng sợ, ñành làm theo lời hứa. Sau khi vua chết, anh lên nối ngôi. Khi ông vua trẻ bắt phu chở củi ñến cung ñiện ñể ñốt sưởi mùa ñông thì người bố cũng ở trong số những phu vác củi. Con nhận ra cha, bèn bảo cha ñưa mẹ - bấy giờ làm thợ giặt - ñến hoàng cung cùng hưởng phú quý với bố mẹ nuôi1.
Tóm lại, truyện Sự tích con dã tràng của ta có thể bắt nguồn từ loạt truyện
Người hiểu tiếng loài vật kết hợp với truyện Công Dã Tràng gốc từ Trung quốc ñể chuyển thành một truyện mới khá lý thú.
1 Theo Mô-ha-mét En Pha-si (Mohamed El Fasi), và Đéc-men-ghem (Dermenghem). Sách ñã dẫn.
165