🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những ngày cuối cùng của Đức Phật Ebooks Nhóm Zalo Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật Nguyễn Văn Ngân dịch Cùng dịch giả Đã xuất bản: Abhidhamma Áp Dụng (2002) Giải Thoát Bằng Năm Tập Hợp (2003) Phân Tích (2005) Đạo Vô Ngại Giải (2006); tái bản (2015) © Dịch giả giữ bản quyền 2016 (ISBN) 978-604-86-8896-7 Kính gửi: Quý Tỳ Khƣu, Tỳ Khƣu Ni Quý đạo hữu Cậu Mợ Để thành kính ghi ân: Ngài Thích Minh Châu, ngƣời đầu tiên giới thiệu chúng tôi hệ thống kinh tạng Pāḷi của Pali Text Society vào đầu thập niên 70, để tôi có thể tự mình đến tận nguồn tìm hiểu những lời dạy nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất của đức Phật. PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT chú giải Kinh Mahāparinibbāna phẩm 16, Dīghanikāya do Luận Sƣ Buddhaghosa soạn Yang-Gyu An dịch từ Pāḷi sang tiếng Anh: THE BUDDHA‟S LAST DAYS Nguyễn Văn Ngân dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt 2015 NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 1 MỤC LỤC Trang Lời Nói Đầu 3 Xác Nhận Cảm Xúc Của Lòng 12 Nibbāna và Parinibbāna 25 Chương Một: Ở Magadha 1.1.Chú giải Phần Giới Thiệu 43 1.2.Chú giải về Điều Kiện để Vƣơng Quốc Cƣờng Thịnh 52 1.3.Chú giải về Điều Kiện để Các Tỳ Khƣu Cƣờng Thịnh 76 1.4.Chú giải về sự Nguy Hại của Hạnh Xấu 134 1.5.Chú giải về việc Xây Dựng Thành Phố Pāṭaliputta 142 Chương Hai: Hành Trình Đến Vesālī 2.1.Chú giải về Các Sự Thật Cao Cả 154 2.2.Chú giải về Cảnh Giới Sắp Đến Để Giác Ngộ Không Bị Gián Đoạn 155 2.3.Chú giải về Tấm Gƣơng Giáo Pháp 159 2.4.Chú giải về Đoạn Ambapālī, Cô Gái Bán Dâm 162 2.5.Chú giải về Bắt Đầu An Cƣ Mùa Mƣa ở Làng Beluva 167 Chương Ba: Từ Bỏ Quãng Đời Còn Lại 3.1.Chú giải về Gợi Ý của Thế Tôn 181 3.2.Chú giải về Lời Yêu Cầu của Māra 203 3.3.Chú giải về việc Từ Bỏ Quãng Đời Còn Lại 210 3.4.Chú giải về Trận Động Đất Lớn 216 3.5.Chú giải về Tám Đoàn Thể 223 3.6.Chú giải về Tám Lãnh Vực Cần Tinh Thông 226 3.7.Chú giải về Tám Giải Thoát 235 3.8.Chú giải về Câu Chuyện Thỉnh Cầu Của Ānanda 236 2 Mục Lục Chương Bốn: Bữa Ăn Cuối Cùng 4.1.Chú giải về Cái Ngoái Nhìn của Con Voi 239 4.2.Chú giải về Bốn Tham Chiếu Quan Trọng 241 4.3.Chú giải về Đoạn Ngƣời Thợ Cunda 252 4.4.Chú giải về Đi Tìm Nƣớc Uống Mang Về 257 4.5.Chú giải về Đoạn Malla Pukkusa 257 Chương Năm: Ở Kusinārā 5.1.Chú giải về Cây Sāla Song Thọ 271 5.2.Chú giải về Trƣởng Lão Upāvaṇa 293 5.3.Chú giải về Bốn Chỗ Động Tâm 301 5.4.Chú giải về Các Câu Hỏi Của Ānanda 307 5.5.Chú giải về Ngƣời Đáng Đƣợc Xây Tháp 313 5.6.Chú giải về Phẩm Hạnh Tuyệt Vời của Ānanda 314 5.7.Chú giải về Thuyết Giảng Kinh Mahāsudassana 325 5.8.Chú giải về Lời Chào Mừng của Ngƣời Malla 330 5.9.Chú giải về Đoạn Du Sĩ Ngoại Đạo Subhadda 331 Chương Sáu: Nhập Diệt 6.1.Chú giải về Những Lời Cuối Cùng của Nhƣ Lai 345 6.2.Chú giải về Chuyện Nhập Diệt 360 6.3.Chú giải về việc Tôn Kính Xá Lợi của Đức Phật 369 6.4.Chú giải về Trƣởng Lão Mahākassapa 374 6.5.Chú giải về sự Phân Chia Xá Lợi 398 6.6.Chú Giải về việc Đảnh Lễ Cúng Dƣờng Các Tháp Thờ Xá Lợi 410 Chữ Viết Tắt và Sách Tham Khảo 426 Biến Cố Chính Trong Lịch Sử Phật Giáo 430 Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 3 Lời Nói Đầu Khi dịch Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật, tôi đã tham khảo các cuốn sau đây để đối chiếu: ∙ Dialogues of the Buddha II của T. W. Rhys Davids, chƣơng The Book of the Great Decease, trang 71-191, PTS tái bản 2002. ∙ Last Days of the Buddha của ni cô Vajirā & Francis Story, Buddhist Publication Society (BPS) tái bản 2007. Quyển này là công trình của ba ngƣời: ni cô Vajirā ngƣời Đức dịch từ tiếng Pāḷi sang tiếng Anh rồi đƣợc Francis Story, một Phật tử rất thuần thành ngƣời Anh, pháp hiệu The Anagārika Sugatananda, duyệt lại. Tất cả các chú thích trong quyển này đƣợc đại trƣởng lão Nyāṇaponika, ngƣời Đức biên soạn từ chú giải Pāḷi. ∙ The Long Discourses of the Buddha của Maurice Walshe, chƣơng The Buddha‟s Last Days, trang 231-277, Wisdom Publications xuất bản 1995. ∙ The Life of the Buddha According to the Pali Canon của Bhikkhu Ñāṇamoli, chƣơng The Last Year, trang 286-332, BPS xuất bản 2006. 4 Lời Nói Đầu ∙ Kinh Đại Bát Niết Bàn của Hoà Thƣợng Minh Châu trong Trường Bộ Kinh 3, trang 72-168, Chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn tái bản 1987. Các chữ Việt in đậm trong quyển này là các lời kinh trong phẩm Đại Bát Niết Bàn đƣợc luận sƣ Buddhaghosa mang ra luận bàn. Các phần bàn đều đƣợc ghi rõ số chƣơng, số đoạn tƣơng ứng với số chƣơng, số đoạn trong kinh. Tôi còn ghi thêm số nhƣ sau [MC 72] nghĩa là bản của HT Minh Châu, trang 72, để độc giả tiện theo dõi. Nếu không thấy [MC số trang] ở đầu đoạn văn nào, có nghĩa là lời bàn của ngài Buddhaghosa vẫn còn nằm trong trang vừa mới đề cập trƣớc đó. Còn các con số từ [516] đến [615] là số trang của bản chú giải tiếng Pāḷi. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật tóm tắt những gì Ngài đã dạy. Giống nhƣ mặt trăng, mặt trời biểu lộ vẻ đẹp khi chiếu rọi khắp nơi, Phật Pháp cũng thế, lời dạy của Ngài chỉ đẹp khi công khai lan truyền rộng rãi đến cho mọi ngƣời, cho những ai muốn lắng nghe, muốn biết. Ngài không dấu kín điều gì, không dành riêng cái gì cho đệ tử của Ngài cả. Nhƣ vậy, không hề có mật truyền. Ngài còn đề cập đến bốn tham chiếu chính để căn cứ vào đấy chúng ta nhận ra lời nào là của Đức Phật, lời nào không phải của Đức Phật, để nhận ra đƣợc Phật Pháp giả mạo (tượng pháp, saddhamma paṭirūpaka). Phản ứng hí hởn của vị tỳ khƣu Subbhadda xuất gia vào lúc già khi nghe tin đức Phật vừa mới nhập diệt là quấy động đầu tiên khơi mào cho Phật Pháp biến thái nổi lên. Chứng kiến phản ứng hí hởn ấy, Ngài MahaKassapa (Ma Ha Ca Diếp) sau đó không lâu, đã triệu tập hội nghị kết tập kinh điển lần thứ nhất với mục Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 5 đích củng cố Phật Pháp và Giới Luật chính hiệu đƣợc tồn tại lâu dài (đọc Bhikkhu Bodhi, CDB I, tr. 806, 808). Nhƣng 100 năm sau khi đức Phật nhập diệt, nhóm tăng sĩ ngƣời Vajji nhất định sửa đổi 10 giới luật, nên tranh luận sôi nổi khởi lên, kết quả là rạn nứt trong chƣ Tăng xảy ra và chuyện phải đến đã đến: nạn chia rẽ 18 tông phái ở Ấn Độ xuất hiện. Tôi sở dĩ nói Ấn Độ vì Phật Giáo ở Tích Lan không liên quan gì đến 18 tông phái này, chả thuộc vào ‗thừa‘ nào cả. Đức Phật đến đảo Lanka giảng Giáo Pháp ba lần: (1) vào tháng thứ năm sau khi Thành Đạo, (2) năm thứ năm sau khi chứng ngộ và (3) ba năm sau đó. Khi Devānampiya-tissa con vua Muṭasiva lên ngôi, Phật Giáo trở thành quốc giáo ở Tích Lan. Hội nghị kết tập lần thứ ba xác nhận tính cách chính thống của kinh điển Pāḷi (đọc Barua, Inscriptions of Asoka, II, p.379), và xác định đạo Phật là Vibhajjavāda (xin đọc Walpola Rahula, HBC, p. 50). Mahinda, con vua Asoka, ngay sau lần kết tập này, giới thiệu Phật Pháp Pāḷi, chính thức thành lập Tăng đoàn và Giáo Hội Tích Lan (đọc E. W. Adikaram, EHBC, tr.45tt.). Phật Giáo Tích Lan là Theravāda của những tỳ khƣu trƣởng lão. Theravāda đồng nghĩa với vibhajjavāda: học thuyết phân tích, nói lên đặc tính của đức Phật (xin đọc chú thích 678 sách này). Đạo Phật chủ trƣơng phân tích (MN 99; A. X 94) để đặt nền tảng cho tuệ quán thực tánh của tất cả các hiện tƣợng. Mƣời thế kỷ sau, đạo Phật từ Tích Lan truyền sang Miến Điện thế kỷ 11, rồi từ Miến Điện truyền sang Thái Lan, Lào, Cam Bốt thế kỷ 13. Phật Giáo Theravāda còn truyền sang Nepal, Mã Lai, Singapore, Indonesia, các nƣớc Tây Âu, Bắc Mỹ, châu Úc, châu Phi... (Đọc Richard Gombrich, Theravada Buddhism, tr.3, 110-12). Phật Giáo Theravāda đƣợc 6 Lời Nói Đầu Ngài Hộ Tông mang từ Cam Bốt về Việt Nam, đánh dấu bằng việc đại đức Thiện Luật tiếp nhận ngôi chùa ở Gò Dƣa, Thủ Đức năm 1938 (xin đọc Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Thắp Lửa Tâm Linh, NXB Thời Đại [2011], tr. 169). Tựa đề sáu chƣơng trong sách này lấy từ bản của ni cô Vajirā và Francis Story, bản tiếng Anh của Yang-Gyu An (YGA) không có. Tác giả chú giải này là ngài Buddhaghosa, nhƣng chú thích ở cuối trang là của YGA, thầy và bạn của ông ta. Vì không muốn cộng nghiệp với YGA, tôi đã đọc rất kỹ tất cả các chú thích của riêng YGA, đã tham khảo các sách cần thiết đƣợc liệt kê ở trang chữ tắt để kiểm chứng sự chính xác của các chú thích này, và phân loại chúng nhƣ sau: ∙Loại 1: loại này hoàn toàn mang tính cách học thuật, so sánh đối chiếu các chữ trong các bản Pāḷi... ∙Loại 2: loại này, vì lý do nào đó, ông YGA đã cắt xén, nói có đầu nhƣng không có đuôi, trích dẫn không đầy đủ những nguồn khác, làm ngƣời đọc hiểu lầm, gây ấn tƣợng không tốt cho ngƣời đọc, nhƣ ông nêu truyện ‗trét phân bò‘ rồi bỏ lửng (xin đọc chú thích 264). Ngoại trừ ngƣời tìm hiểu Phật học thật sự, ngƣời đọc thƣờng chỉ đọc qua rồi thôi, có mấy ai có đủ tài liệu và dù có đủ tài liệu, chắc gì đã chịu khó bỏ thì giờ tìm xem lời của YGA chính xác ra sao? hay đoạn YGA trích dẫn có ý nghĩa gì? Tôi tìm đọc tất cả các nguồn đã đƣợc YGA nêu ra để đối chiếu, kiểm chứng. Chỗ nào ông ta cắt bỏ, tôi dịch nguyên văn đoạn đó để bổ sung cho đầy đủ. Không những thế, tôi còn tìm và trích dẫn thêm những nguồn khác có liên quan đến đề tài đó mà ông YGA Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 7 không đề cập tới để ngƣời đọc nhận định về những chú thích thuộc loại này. Quý vị sẽ thấy chữ Việt in nghiêng xen kẽ là của tôi thêm vào có nêu nguồn trích dẫn của nó. Ví dụ: chú thích số 724 về Ānanda nhận y, số 1004 về tuổi thọ của Phật Pháp... ∙Loại 3: Trích dẫn loại này của YGA trái ngƣợc với chính tài liệu ông ấy đƣa ra. Ví dụ: o Chú thích 122: các tỳ khƣu ngƣời Vajji chủ trƣơng có thể ngồi trên miếng vải không có viền tua (đọc BD5, tr. 407, 414, 418, 428). YGA viết là có viền tua (Nguyên văn: using mats with fringes. Đọc ct 1, tr 24). o Chú thích số 1055 về sự chứng quả Arahatta của Channa và hình phạt brahmadaṇḍa. Xin đọc trọn vẹn chú thích này, ở đây chỉ kể sơ lƣợc: Theo YGA, Channa đã chứng quả Arahatta trƣớc khi Ānanda đến tuyên bố áp dụng hình phạt brahmadaṇḍa nên YGA buông lời phê phán: ―Mỉa mai thay‖ (đọc chú thích số 3, trang 182 bản tiếng Anh). Nhƣng cũng cùng nguồn trích dẫn do YGA đƣa ra ấy, đó là (Vin II 291) tạng Luật Cullavagga XI, tr. 405 lại viết: sau khi chứng quả Arahatta, Channa đã đến gặp Ānanda để xin từ bỏ hình phạt brahmadaṇḍa. Ngài Ānanda trả lời: ―Từ lúc tôn giả Channa chứng quả vị giải thoát cuối cùng, ngay giây phút đó, hình phạt brahmadaṇḍa đã bị hủy bỏ.‖ ∙Loại 4: Ông YGA bảo ở đoạn 10 [MC 141A] đƣợc giải thích là ‗ngăn cấm‘ (?) việc tôn kính xá lợi. Lời khuyên Ānanda ở đây trở thành sự phản đối tăng sĩ tham dự vào việc kính lễ xá lợi đƣợc nói rõ ràng [(?), xin đọc chú thích 899]. Trong kinh, đức Phật khuyên 8 Lời Nói Đầu Ānanda đừng bận tâm, hãy dành thì giờ cho việc tu tập, không hề có điều luật ‗ngăn cấm‘ tỳ khƣu, tỳ khƣu ni tôn kính, lễ lạy xá lợi hay những bốn thánh tích, chỗ động tâm. Ngƣời học Phật chúng ta không lạy ai khác ngoài đức Phật (và các đệ tử đã đƣợc giải thoát của Ngài). Đức Phật không nhận mặc khải từ bất cứ ai, ―không thánh không thần, chẻ đôi lịch sử loài ngƣời, tự mình nỗ lực phá vỡ muôn triệu ngàn năm đen tối mù mịt của vô thức con ngƣời,‖ * tự Ngài thực chứng giác ngộ, dẫn đến giải thoát. Thực ra, khi đảnh lễ Ngài, chúng ta không kính lạy cá nhân ai, chúng ta chỉ kính lạy phẩm hạnh trí tuệ, giải thoát của các vị ấy để rồi khởi lên ƣớc vọng, quyết chí tu tập dũng mãnh sao cho thành tựu đƣợc trí tuệ giải thoát nhƣ của các Ngài. Lễ lạy nhƣ thế tại sao ông YGA suy diễn là bị ngăn cấm? *Đọc TT Minh Châu, Trƣớc Sự Nô Lệ Của Con Ngƣời, tr. 163. ∙Loại 5: loại này có rất ít, không mang tính cách học thuật, chỉ là cảm nghĩ, ức đoán, phê bình riêng tƣ của ông YGA. Loại này, tôi cắt bỏ. ∙Loại 6: có vài chú thích mang tính cách so sánh tôn giáo ông YGA trích dẫn từ nguồn khác. So sánh này cho ngƣời ngoài đạo Phật đọc. Mục đích của cuốn sách này là dành cho Phật Pháp, chứ không phải để tỷ giảo nên tôi cắt bỏ. Có nhiều chỗ trong bản tiếng Anh chỉ viết nhân vật đại danh từ ở ngôi thứ ba, nếu không đọc cùng với phẩm kinh, sẽ không biết đƣợc nhân vật ấy là ai, nên tôi đã đối chiếu với kinh và viết tên của nhân vật ấy ra để câu chuyện đƣợc rõ ràng, quý vị dễ theo dõi. Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 9 Riêng những chữ Việt in đậm trong các dấu ( ), ‗ ‘ , [ ] là những chữ của các ngài Minh Châu, Tịnh Sự... dùng. Có theo sau dấu hoa thị * hay không, tất cả các chữ Việt in nghiêng ở bất cứ chỗ nào trong sách này là của tôi, hoặc là để thêm chi tiết cho bản dịch đầy đủ, phong phú, hay để câu văn rõ ràng hơn và nhất là để sửa lại lời dịch của YGA cho đúng với chánh tạng. Có nhiều chỗ bản tiếng Anh của YGA viết sai (phần lớn là lỗi đánh máy), tôi đã sửa đoạn ấy cho đúng bằng chữ nghiêng và có ghi nguồn gốc trích dẫn để quý vị kiểm chứng. Còn những chữ Pāḷi in đậm không có trong sách, do tôi thêm vào sau khi đối chiếu với nguyên bản. Trong kinh này, đức Phật cho ta lời khuyên rất quan trọng sau: ―Hãy là hải đảo cho chính mình, hãy nƣơng tựa vào chính mình, không tìm kiếm nơi nƣơng tựa bên ngoài, lấy Giáo Pháp làm hải đảo, lấy Giáo Pháp làm nơi nƣơng tựa, không nƣơng tựa chỗ nào khác.‖ Đọc Sister Vajirā & Francis Story, Last Days of the Buddha, tr. 29 (DN ii 102). Nhƣng nƣơng tựa vào Giáo Pháp nào? Hệ thống Tam Tạng Pāḷi là lời dạy nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất của đức Phật, có nội dung, kết cấu giống với kinh do vua Asoka khắc, tìm thấy ở hai ngôi chùa ở Bhābrū đƣợc các nhà khảo cổ xác định là khắc vào khoảng 200 năm sau khi đức Phật nhập diệt. Vì thế, tôi tin vững chắc rằng Giáo Pháp trong hệ thống Tam Tạng Pāḷi chính là lời Phật dạy duy nhất đáng tin cậy, đáng đƣợc 10 Lời Nói Đầu làm nguồn nƣơng tựa duy nhất để tự tìm hiểu, tự suy xét, tự thử nghiệm. Trong sách này có đề cập đến saṁvega, pasada, nibbāna và parinibbāna. Có thể nói đạo Phật bắt nguồn từ saṁvega và pasada của Thái tử Siddhattha khi nhìn thấy bốn hình ảnh ngoài cổng thành. Chúng ta đến với đạo Phật cũng vì saṁvega cảm nhận đƣợc trong cuộc đời này, vì pasada phát sanh từ lời dạy nguyên thủy của đức Phật, là nguồn hy vọng giải thoát cuối cùng. Vì thế, tôi thêm vào bài viết Affirming The Truths of The Heart (Xác Nhận Cảm Xúc Của Lòng) của tỳ khƣu Ṭhanissaro ngƣời Hoa Kỳ nói về saṁvega, pasada. Tôi còn trích dẫn thêm phần chú giải để chúng ta thấy sự quan trọng của saṁvega với ngƣời học Phật ra sao và hiểu tại sao phải nuôi dƣỡng saṁvega trong lòng. Vì sách này nói đến việc nhập diệt của đức Phật, nên tôi cũng kèm thêm bài viết về nibbāna và parinibbāna của Giáo Sƣ lỗi lạc Lily de Silva, Bhikkhu Bodhi... để chúng ta có khái niệm sơ lƣợc về hai chữ này. Tôi xin kính gửi sách này đến các tỳ khƣu, tỳ khƣu ni, những ngƣời học Phật, cầu mong quý vị ngày càng học hỏi Giáo Pháp Chân Chánh (pariyatti-saddhamma), thực hành Giáo Pháp Chân Chánh (paṭipatti-saddhamma) và giác ngộ Giáo Pháp Chân Chánh (adhigama saddhamma) để nhờ trí đức các Ngài, Giáo Pháp chính hiệu đƣợc tồn tại và bền vững lâu dài. Do đƣợc diễm phúc biết đến nguồn gốc lời dạy nguyên thủy hay gần với nguyên thủy của đức Phật ghi trong tạng Pāḷi để tự tìm hiểu, tôi mãi mãi nhớ ơn thầy Minh Châu. May đƣợc các bậc thông tuệ nhƣ hai tỳ khƣu Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 11 ngƣời Đức là Nyāṇatiloka và Nyāṇaponika, Bhikkhu Ñāṇamoli (ngƣời Anh), Bhikkhu Bodhi (ngƣời Hoa Kỳ gốc Do Thái)... dịch ra tiếng Anh, để tôi có cơ hội học hỏi đƣợc Giáo Pháp Chân Chánh của đức Phật nên tôi chân thành ghi ân các vị này, các Ngài đều là Thầy của tôi. Tôi chân thành cảm ơn tất cả những tác giả khác đƣợc tham khảo nơi đây. Làm sao nói hết ân tình này. Cuốn sách này ra đời là do công trình của nhiều ngƣời: Con xin chân thành cảm ơn Sƣ Cô Tâm Tâm, tuy thì giờ rất eo hẹp, đã đọc, góp ý sửa bản thảo. Cảm ơn anh Bính, cô Thanh Loan đã góp ý, lo giấy phép in; xin cảm ơn anh Trần Xuân Huy và cô Đỗ Thị Xuân Hƣơng đã dàn trang bản thảo, cô Hồng Sƣơng làm bìa. Xin cảm ơn tất cả các nhà hảo tâm đã bảo trợ việc in quyển sách này. Dù đã hết sức cố gắng, sai sót không sao tránh khỏi. Kính mong các bậc thức giả tha thứ, chỉ giáo, góp ý và biên về địa chỉ sau: [email protected] Dhammaruci Nguyễn Văn Ngân Xong ngày 6 tháng 12, 2015 Ngày giỗ Mợ. 12 Xác Nhận Cảm Xúc Của L ng Xác Nhận Cảm Xúc Của Lòng Lời Dạy Của Đạo Phật Về Saṁvega và Pasada Bhikkhu Ṭhanissaro Nguyễn Văn Ngân dịch và chú thích Một nhánh phái ―đạo Phật‖ nào đó chủ trƣơng tiếp nhận cuộc đời chỉ cho chúng ta tìm thấy hạnh phúc bằng cách mở rộng l ng ra đón nhận sự phong phú trong đời sống hàng ngày của mình. Đó là điều chúng ta muốn – hay có ngƣời cố gắng thuyết phục chúng ta tin và chấp nhận loại đạo Phật hiện đại hóa.1 Nhƣng đây có phải là thứ đạo Phật chúng ta cần? Và nó có phải là đạo Phật không? Hãy hồi tƣởng lại một chút về chuyện thái tử trẻ Siddhattha lần đầu chứng kiến cảnh già, bệnh, chết và gặp đạo sĩ ngao du trầm tƣ mặc tƣởng. Đây là một trong những đoạn đời lịch sử của Thái tử đƣợc đọc nhiều nhất trong truyền thống Phật Giáo, phần lớn vì phẩm chất thẳng thắn, thành thật với lòng trong cảm xúc của vị Thái tử này. Thái tử thấy già, bệnh, chết là những hình ảnh hoàn toàn hãi hùng, và chỉ còn biết trông cậy vào lối sống thiền định trong rừng là lối thoát duy nhất của mình. Nhà thơ Phật giáo lớn Asvaghosa 2 nói là không ít bạn bè và thân quyến của Thái tử cố gắng giải quyết những nhận định ấy của Thái tử và Asvaghosa đã khôn khéo đƣa ra lời khuyên đi vào cuộc đời nghe ra rất lôi cuốn. Nhƣng hơn bao giờ hết, Thái tử nhận ra rằng nếu nhƣợng bộ theo lời khuyên của họ, Thái tử sẽ phản bội lại lòng mình. Chỉ còn cách tiếp Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 13 tục trung thực với cảm xúc chân thật của chính mình, Thái tử mới có thể bắt đầu cất bƣớc trên đạo lộ dẫn ra khỏi cái xã hội của mình với những giá trị thƣờng tình và hƣớng về Giác Ngộ vô thƣợng vào cõi Bất tử. Đây là câu chuyện hầu nhƣ không nói gì đến việc tiếp nhận cuộc đời theo nghĩa thông thƣờng của danh từ, nhƣng câu chuyện này khẳng định một điều còn quan trọng hơn cả cuộc sống: thành thật với lòng khi nó khát khao kiếm tìm loại hạnh phúc tuyệt đối tinh khiết. Sức mạnh của lòng khao khát này dựa vào hai cảm xúc, tiếng Pāḷi gọi là saṁvega và pasada. Rất ít ngƣời trong chúng ta đƣợc nghe hai chữ này, nhƣng với đạo Phật, đây là những cảm xúc căn bản nhất. Các cảm xúc ấy không những truyền cảm hứng thôi thúc vị Thái tử trẻ trong việc tìm kiếm Giác Ngộ, nhƣng thậm chí sau khi chứng thành Phật đạo, Ngài còn khuyên nhủ đệ tử của mình hàng ngày nên trau giồi các cảm xúc này. Thật ra, cách đƣơng đầu với các cảm xúc này của Thái tử nổi bật đến nỗi nó trở thành một trong những đóng góp quan trọng mà Phật Pháp đã hiến tặng cho văn hóa Hoa Kỳ hiện nay. Saṁvega là cảm xúc Thái tử cảm nhận đƣợc khi già, bệnh, chết phơi bày trƣớc mắt mình lần đầu. Saṁvega là chữ khó dịch vì nó bao trùm một lãnh vực vô cùng phức tạp, có ít nhất là ba chùm cảm xúc cùng một lúc: 1. là cảm giác kích động, buồn bã, bực bội xuất hiện khi nhận ra sự vô dụng và vô nghĩa của kiếp đời mình đã thƣờng sống; 14 Xác Nhận Cảm Xúc Của L ng 2. là cảm giác bị trừng phạt vì sự tự mãn và ngu dại của riêng mình sao đã sống mù quáng đến nhƣ thế; 3. là cảm giác lo lắng, thôi thúc, cố tìm lối thoát ra khỏi cái chu kỳ vô nghĩa này. Trong giai đoạn trƣởng thành, không lúc này thì lúc khác, tất cả chúng ta đều đã kinh nghiệm các chùm cảm xúc này một lần trong đời, nhƣng tôi không biết có một tiếng Anh đơn độc nào có thể hội đủ cả ba nghĩa này. Có một thuật ngữ nhƣ thế có thể hữu ích, và đó cũng là lý do đủ để tiếp nhận chữ này vào ngôn ngữ của chúng ta. Ngoài việc cung cấp một thuật ngữ hữu dụng, hơn thế nữa, đạo Phật còn dâng hiến cho chúng ta một chiến lƣợc hữu hiệu để đƣơng đầu với những cảm xúc đứng sau thuật ngữ đó - những cảm xúc mà nền văn hóa của chúng ta cảm thấy bị đe dọa và đối phó với chúng thật vụng về. Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng nền văn hóa của chúng ta bị các cảm xúc của saṁvega này đe dọa thôi đâu. Trong câu chuyện của Siddhattha, trƣớc sự tỉnh mộng của con trai mình, phản ứng của ngƣời cha đại diện cho cách thức hầu hết các nền văn hóa cố gắng đối phó với những cảm xúc này: Vua cha cố gắng thuyết phục Thái tử là tiêu chuẩn hạnh phúc của ngƣời con cao đến mức không thể đƣợc, đồng thời cố gắng dùng tình duyên và đủ thứ lạc thú giác quan có thể tƣởng tƣợng ra đƣợc để làm xao lãng tâm trí Thái tử. Nói giản dị, chiến lƣợc đó là làm cho Thái tử phải hạ thấp tiêu chuẩn hạnh phúc của mình xuống và hài lòng Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 15 với hạnh phúc dƣới mức tuyệt đối và đặc biệt là hạnh phúc không thuần khiết. Nếu Thái tử trẻ ấy sống ở Châu Mỹ hôm nay, ngƣời cha sẽ có những phƣơng tiện khác để đối phó với sự bất mãn của Thái tử, nhƣng chiến lƣợc căn bản cốt yếu vẫn nhƣ nhau. Chúng ta có thể dễ dàng tƣởng tƣợng ngƣời cha sẽ đƣa Thái tử đến gặp một ngƣời cố vấn tôn giáo để dạy Thái tử nên tin rằng sự sáng tạo của thƣợng đế nói chung là tốt và đừng chú ý gì đến bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống nữa để có thể khiến Thái tử chê bai chỉ trích niềm tin đó. Hay ngƣời cha sẽ đƣa Thái tử đến gặp nhà chữa trị tâm lý, chuyên viên này sẽ chẩn đoán cảm xúc saṁvega là không có khả năng chấp nhận thực tại. Nếu trị liệu bằng lời thuyết phục để không có hiệu quả, bác sĩ chuyên khoa phân tâm học sẽ kê toa, cho thuốc thay đổi tâm thái để làm cảm xúc ấy đờ đi, đẩy nó ra khỏi thân thể của Thái tử trẻ để chàng có thể trở thành phần tử có hiệu năng, khéo thích ứng trong xã hội. Nếu ngƣời cha thực sự theo kịp khuynh hƣớng thời đại, ông ấy có thể tìm thấy một vị thầy dạy Dhamma (Pali), Dharma (Sanskrit), ngƣời có thể dạy Thái tử tìm thấy hạnh phúc trong đời ở những khoái lạc nhiệm mầu nhỏ nhặt – một tách trà, một chuyến tản bộ trong rừng, hoạt động xã hội, xoa dịu nỗi đau kẻ khác. Chàng Thái tử sẽ đƣợc khuyên là đừng bận tâm đến những hình thức hạnh phúc này, chúng cũng sẽ bị tuổi già, bệnh hoạn và cái chết cắt đứt đi. Giây phút hiện tại là tất cả những gì chúng ta có, vì vậy chúng ta nên cảm kích cơ hội thƣởng thức khoái lạc trộn lẫn với khổ đau hay hối 16 Xác Nhận Cảm Xúc Của L ng tiếc này nhƣng khi chúng qua đi, đừng ôm giữ những vui thú ngắn ngủi ấy. Chúng ta đã biết trong câu chuyện này, vị Thái tử hào hùng với trái tim của sƣ tử đƣơng nhiên là không lắng nghe lời khuyên khôn khéo đó. Thái tử sẽ thấy đó chỉ là lời tuyên truyền cho lối sống hoàn toàn vô vọng, muốn Ngài trở thành kẻ phản bội lại chính mình. Nhƣng nếu Thái tử không tìm thấy an ủi trong những nguồn này, chàng sẽ đi đâu để tìm trong xã hội này? Không giống nhƣ Ấn Độ thời ấy, chúng ta không có bất kỳ giải pháp thay thế nào bền vững, đƣợc xã hội chấp nhận ngoài việc trở thành những phần tử có hiệu năng trong xã hội. Ngay cả các nhà dòng trầm lặng của chúng ta cũng bị đánh giá theo khả năng cung cấp bánh mì, mật ong và rƣợu vang cho thị trƣờng. Nên Thái tử có thể không tìm thấy cách nào khác ngoài việc gia nhập nhóm ―ngƣời sống lãng du‖ và những đạo sĩ / ẩn sĩ, những kẻ cải cách, những ngƣời làm cách mạng, những kẻ tìm kiếm hiện hữu, đặc biệt là tìm kiếm một thực thể hiện hữu độc lập nào đó và những kẻ tự sống ngoài trời bên lề xã hội. Thái tử có thể gặp nhiều bộ óc tinh tế và tâm hồn nhạy cảm trong những nhóm này, nhƣng không có một khối lƣợng trí tuệ sâu sắc hoán thế khổng lồ nào đƣợc tích lũy, đã đƣợc kiểm chứng để tiếp cận cả. Ngƣời ta có thể tặng Thái tử cuốn sách của Thoreau3 hay Muir,4 nhƣng những tác phẩm của hai ngƣời này không đƣa ra lời phân tích thỏa đáng về già, bệnh và chết và không đƣa ra lời khuyên làm sao để có thể vƣợt qua đƣợc những thực trạng này. Và bởi vì hầu nhƣ không Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 17 có bất cứ hệ thống bảo vệ nào che chở cho những ngƣời sống bên lề xã hội, Thái tử có thể nhận ra là mình dành nhiều năng lực quá đáng vào vấn đề sống còn tối thiểu, chẳng còn lại bao nhiêu năng lực để tìm giải đáp riêng cho chính mình về vấn đề saṁvega. Cuối cùng, có lẽ Thái tử sẽ bỏ ngang hành trình tìm kiếm Giác Ngộ của mình, sẽ biến mất đâu đó trong tiểu bang Utah (Hoa Kỳ), nơi thung lũng hoang vu có vực sâu, có con sông nhỏ, có con lạch êm đềm lờ lững chảy qua, hay trong cánh rừng ở Yukon (Canada) mà không để lại dấu tích nào. Tuy nhiên, may cho chúng ta, Thái tử đƣợc sanh ra trong một xã hội cấp dƣỡng và trọng vọng những đạo sĩ / ẩn sĩ. Điều này giúp cho Thái tử cơ hội tìm ra giải đáp riêng cho chính mình về vấn đề saṁvega tƣơng xứng với sự thành thật với lòng mình. Trong câu chuyện của Thái tử Siddhartha, bƣớc đầu tiên trong gỉải đáp đƣợc biểu tƣợng hóa nhờ phản ứng của Thái tử trƣớc nhân vật thứ tƣ nhìn thấy trong chuyến đi ngoài cung điện: vị đạo sĩ ngao du trầm tƣ mặc tƣởng. Cảm xúc đƣợc Thái tử cảm nghiệm tại thời điểm này đƣợc gọi là pasada, một mớ cảm xúc phức tạp thƣờng đƣợc dịch là ―tự tin, trong suốt và tĩnh lặng.‖ Cảm xúc này ngăn không cho saṁvega biến thành tuyệt vọng. Trong trƣờng hợp của Thái tử, Thái tử đã có đƣợc nhận thức rõ ràng về vấn đề thực sự hệ trọng của mình và cách thức giải quyết dứt điểm nó, không c n dây dƣa gì nữa, đƣa đến trạng thái vƣợt qua già, bệnh và chết, cùng lúc cảm thấy tự tin là cách này sẽ giải quyết đƣợc vấn đề. 18 Xác Nhận Cảm Xúc Của L ng Nhƣ lời dạy của Phật Giáo thuở ban đầu thẳng thắn và công khai thừa nhận, vấn đề thực sự hệ trọng ấy là: chu kỳ sanh, già và chết là vô nghĩa. Những lời dạy này không cố gắng thuyết phục chúng ta phủ nhận sự kiện có thực này và cũng không đ i hỏi chúng ta không thành thật với lòng mình hay nhắm mắt làm ngơ trƣớc thực tại. Nhƣ có một vị thầy đã đặt lại vấn đề nhƣ thế này: Ngƣời học Phật thừa nhận thực tại khổ đau – nó quan trọng đến nỗi khổ đau đƣợc tôn vinh thành sự thực cao cả thứ nhất (đệ nhất thánh đế) – khổ đau chính là tặng phẩm, vì nó xác nhận kinh nghiệm nhạy cảm nhất và trực tiếp đến các hiện tƣợng, một kinh nghiệm mà nhiều tôn giáo khác cố sức phủ nhận. Từ nhận định đó, Phật Giáo thuở ban sơ dạy chúng ta cần phải nhạy cảm hơn nữa, nhạy cảm cho tới mức chúng ta nhìn ra đƣợc nguyên nhân thực sự tạo khổ đau không nằm ở ngoài kia – ở ngoài xã hội hay ở ngƣời nào khác – mà ở trong đây, ngay trong khao khát (tham ái) có trong tâm thức từng ngƣời. Rồi những lời dạy ấy xác nhận rằng có sự chấm dứt khổ đau, có sự giải thoát khỏi chu kỳ sanh tử vô nghĩa ấy. Những lời dạy ấy chỉ cho con đƣờng dẫn đến giải thoát đó, bằng cách tu tập phát triển các phẩm hạnh cao cả tiềm ẩn trong tâm thức cho tới mức các phẩm hạnh cao cả ấy sẽ vứt bỏ khao khát qua một bên và mở cánh cửa đi vào Bất tử. Nhƣ vậy, vấn đề thực sự hệ trọng kia có giải pháp thực tiễn, giải pháp ấy nằm trong quyền năng của mỗi chúng ta. Đây cũng là giải đáp mời gọi sự xem xét kỹ lƣỡng có tính cách phê bình và thử nghiệm – một dấu hiệu cho Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 19 thấy đức Phật đã tự tin nhƣ thế nào về giải pháp Ngài đã tìm ra để đối phó với vấn đề saṁvega. Đây là một trong những khía cạnh của đạo Phật đích thực, đạo Phật đích thực này thu hút nhiều nhất những ngƣời đã chán ngấy lời khuyên nên phủ nhận cái nhìn sâu sắc đã dấy lên cảm giác về saṁvega ngay lần đầu. Thực ra, đạo Phật thuở ban sơ chẳng những tự tin là có thể đƣơng đầu với cảm xúc saṁvega mà còn là một trong số rất ít tôn giáo tích cực trau dồi chúng đến mức triệt để. Giải pháp cho vấn đề cuộc sống của đạo Phật đ i hỏi ngƣời học Phật phải cống hiến nỗ lực nhiều đến nỗi chỉ có cảm xúc saṁvega mãnh liệt mới giữ cho mình không bị quay trở lại đƣờng xƣa lối cũ. Nhƣ vậy, đề nghị tất cả những ngƣời học Phật, cả nam lẫn nữ, cƣ sĩ hay xuất gia, hàng ngày nên quán tƣởng về già, bệnh và chết – để phát triển cảm xúc saṁvega – và nhờ oai lực của công phu luyện tập riêng của chúng ta, sẽ đƣa saṁvega đến bƣớc kế tiếp: pasada.5 Với ngƣời có cảm xúc mạnh đến nỗi họ muốn từ bỏ bất cứ ràng buộc xã hội nào ngăn cản họ trên bƣớc đƣờng chấm dứt khổ đau, đạo Phật cống hiến một khối lƣợng trí tuệ khổng lồ đã đƣợc ngàn đời thử nghiệm để tu học, cùng với một hệ thống bảo vệ: giáo hội Tăng Già, một định chế xã hội cho phép họ giã từ đời cƣ sĩ mà không phí thời gian bận tâm về việc sống c n căn bản. Với ngƣời không thể từ bỏ ràng buộc xã hội, Phật pháp cung ứng cách sống trong thế gian để không bị thế gian đánh bại, tiếp tục sống rộng lƣợng, có giới hạnh và tham thiền để gia tăng sức mạnh cho phẩm chất thánh thiện của tâm thức dẫn đến chấm dứt khổ đau. 20 Xác Nhận Cảm Xúc Của L ng Mối liên hệ cộng sinh đƣợc đề ra cho hai parisa hay hai đoàn thể Phật giáo bảo đảm mỗi bên đều có lợi ích do tiếp xúc với nhau. Sự ủng hộ của cƣ sĩ bảo đảm cho các tăng ni không cần phải quan tâm lắm về thực phẩm, y, nơi ở; lòng biết ơn không sao tránh khỏi của tăng ni về sự cúng dƣờng thoải mái rộng lƣợng của cƣ sĩ giúp các tăng ni không biến thành những ngƣời lạc lõng trong xã hội và những ngƣời có ác cảm với xã hội. Đồng thời, nhờ tiếp xúc với các tăng ni giúp cho cƣ sĩ nuôi dƣỡng nhân sinh quan thích hợp về cuộc đời, nuôi dƣỡng năng lực của saṁvega và pasada họ cần, ngăn không cho tuyên truyền hƣởng thụ vật chất của nền kinh tế tiêu thụ làm chúng cùn suy và tê dại đi. Nhƣ vậy, chấp nhận hoàn toàn chu kỳ sanh, già và chết vô nghĩa này, thái độ của ngƣời học Phật là trau dồi và phát triển saṁvega thành pasada: một đạo lộ chắn chắn dẫn đến Bất tử. Đạo lộ ấy không chỉ bao gồm hƣớng dẫn đã đƣợc chứng minh qua thời gian, mà còn có cả một định chế xã hội nuôi dƣỡng nó và giúp nó sống sót. Đây là tất cả những gì mà xã hội chúng ta khát khao cần đến. Trong nỗ lực gầy dựng đạo Phật trở thành khuynh hƣớng có ƣu thế trong xã hội hiện nay của chúng ta, thật xấu hổ khi hai khía cạnh này của Phật giáo thƣờng bị bỏ lơ. Chúng ta cứ quên rằng nguồn sức mạnh của đạo Phật là khả năng đặt một chân ngoài gi ng đời, và quên ẩn dụ lâu đời của sự hành trì là sang tới bờ bên kia. Hy vọng của tôi là chúng ta sẽ bắt đầu gợi nhớ saṁvega và pasada lại trong tâm thức và coi trọng chúng để trong nỗ lực tìm thấy một đạo Phật thu phục đƣợc l ng ngƣời, cuối Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 21 cùng chúng ta không đi đến tình trạng hạ giá mình quá thấp. Bhikkhu Ṭhanissaro Chú thích của ngƣời dịch: 1.Mainstreamlined Buddhism. Streamline đồng nghĩa với modernize, update... Mainstreamline có nghĩa là modernize, update, alter connotations... a part or its entire content in order to make it appeal to the widest audience possible: Mainstreamlined Buddhism là đạo Phật đã ‗bị‘ hiện đại hóa, ‗bị‘ cập nhật hóa, ‗bị‘ sửa đổi một phần hay toàn thể nội dung của nó để lôi cuốn số lƣợng độc giả đông đảo nhất có thể. Nhƣ vậy, nói gọn, mainstreamlined Buddhism là đạo Phật hiện đại hóa. Nói theo thầy Minh Châu: ―đây là phức cảm của ngƣời trí thức Phật Giáo muốn ‗tục hóa‘ đạo Phật, muốn ‗thích ứng‘ Phật Giáo với nhu cầu văn minh tân tiến hiện đại. Đạo Phật là đạo nhƣ thật (yathābhūtamagga). Tất cả mọi sự phải thích ứng với sự thật, chứ sự thật không phải thích ứng với cái gì cả. Tất cả nhu cầu văn minh tân tiến hiện đại phải thích ứng với đạo Phật, chứ không phải đạo Phật phải thích ứng với những thứ ấy.‖* Sự phát triển ngày càng bền vững của Phật Giáo Nguyên Thủy ở xã hội văn minh Âu Mỹ hiện đại đã chứng tỏ nhận định của HT Minh Châu là đúng. Bhikkhu Ṭhanissaro đã nhìn thấy điều này để cảnh giác ngƣời Âu Tây mới làm quen với Đạo Phật vấn đề Giáo Pháp Chân Chánh bị xâm phạm khi bị sửa 22 Xác Nhận Cảm Xúc Của L ng đổi, tính cách chân chánh, tinh tuyền không còn nữa khi đem đạo Phật ra hiện đại hóa. * Đọc ―Trƣớc Sự Nô Lệ Của Con Ngƣời‖, tr. 165-169. 2.Asvaghosa hay Aśvaghoṣa (Mã Minh, sanh năm 80?- mất năm 150?), nguyên là Bà la môn, sau khi thua cuộc tranh biện về Ấn Độ Giáo và Phật Giáo, bỏ Bà la môn, theo đạo Phật. Tác giả thi phẩm Buddhacarita (Cuộc Đời Đức Phật), cuốn Sraddhotpāda Mahāyāna ―Đại Thừa Khởi Tín Luận.‖ 3.Henry David Thoreau (1817-1862): diễn giả, thi sĩ Hoa Kỳ, nổi tiếng với tác phẩm Walden hay Life in the Woods (1854) kể lại hai năm sống một mình, tự cung tự cấp trong rừng. 4.John Muir (1838-1914): ngƣời Hoa Kỳ gốc Tô Cách Lan, nhà văn, nhà thám hiểm, tiên phong trong việc bảo vệ môi trƣờng. 5.Đức Phật nói trong Kinh Phật Tự Thuyết (Itivuttaka), phẩm Hân Hoan (Somanassasutta: It II.1.10): ―Này các tỳ khƣu, tỳ khƣu có hai điều sau: sống với tâm thoải mái dễ chịu và hân hoan khi chứng kiến những hình ảnh, cùng lúc đó, nguồn gốc cho sự hủy diệt nhiễm lậu đã bắt đầu phát sanh trong vị ấy. Hai điều ấy là gì: saṃvega xảy ra trong những trƣờng hợp* khiến nó sanh khởi; ngƣời kinh nghiệm đƣợc saṃvega ấy khởi lên nỗ lực có phƣơng pháp. 2* ―Bậc trí chỉ dao động mãnh liệt với những trƣờng hợp* gây dao động; vị tỳ khƣu nhiệt tâm, tinh cần sáng suốt nên suy xét chánh đáng điều này bằng tuệ quán. Khi sống đời an lạc, nhiệt tâm nhƣ thế, Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 23 đúng với thực tại (và) hăng hái nhiệt thành trau dồi tâm tĩnh lặng, vị tỳ khƣu ấy sẽ hủy diệt khổ đau.‖ Đọc Peter Masefield, The Iti. tr. 30. * Kinh Đại Bát Niết Bàn (D 16) và BKTC (AN 4.118) liệt kê bốn nơi động tâm, đặt chúng ta vào trƣờng hợp chủ động khởi lên thệ nguyện hay gây cảm giác ngƣỡng mộ, muốn dâng hiến đời mình cho sự nghiệp giải thoát (saṁvejanīya). Các tỳ khƣu, tỳ khƣu ni, cƣ sĩ đến đây dành hết nỗ lực vào việc tu tập để hoàn thành mục tiêu, sự nghiệp này. Visuddhimagga còn kể ra tám trƣờng hợp động tâm: sanh, già, bệnh, chết, khổ ở địa ngục hay mất mát (apāya), khổ bắt nguồn [từ luân hồi] trong quá khứ, khổ bắt nguồn [từ luân hồi] trong tƣơng lai, khổ bắt nguồn vì phải kiếm miếng ăn trong hiện tại (đọc POP, Biến Xứ Đất, Ch IV đ. 63). Chú giải Itivuttaka (It-a 143ff) Vol. I: ∙ Liệt kê 89 nguyên nhân khiến cho đức Phật động tâm, khởi lên l ng đại bi thƣơng xót chúng sanh. Đọc Peter Masefield, chú thích 5, quyển The Commentary on the Itivuttaka (Chú giải Kinh Phật Thuyết Nhƣ Vậy) Vol. I, PTS [2008] tr. 359–64. ∙ Các nguyên nhân này đƣợc liệt kê trong Paṭisambhidamagga (tr. 126ff). Đọc Peter Masefield, sđd, tr. 287ff. Đọc Nguyễn Văn Ngân, Đạo Vô Ngại Giải, đ. 597, Luận I, trang 138-142 liệt kê 89 nguyên nhân này. 2* Chú giải Atthasālinī của Dhammasangaṇī (Pháp Tụ) giải thích: Câu ‗Nỗ lực có phƣơng pháp (yoniso padhānena)3* của ngƣời bị dao động mãnh liệt‘ 24 Xác Nhận Cảm Xúc Của L ng đƣợc dùng để nói đến nỗ lực thích đáng của ngƣời ấy (đọc The Expositor I, II tr. 72). Vì bị dao động mãnh liệt, vị ấy tạo nỗ lực hợp lý, vì vậy, nỗ lực có dao động mãnh liệt (saṁvega), hay có điều kiện căn bản làm cho nỗ lực nhƣ là nguyên nhân gần. Nỗ lực chính đáng nên đƣợc coi là nguồn gốc của tất cả thành tựu. Đọc The Expositor I, II, tr. 159. 3* Với nỗ lực có phƣơng pháp (yoniso padhānena), các trạng thái bất thiện bị từ bỏ, trạng thái thiện đƣợc chu toàn, và thành tựu trạng thái tối thƣợng. Thêm vào đó, chính vì dao động ấy ngƣời ta không còn tin vào bất cứ bảo bọc nào, chỗ ẩn náu nào, chỗ nƣơng dựa nào trong cõi luân hồi..., ngƣời ta không còn ôm giữ nhận thức cũ (vinivattitavisaññito) trong tâm, không còn bám lấy lề lối suy nghĩ cũ, trái lại, ngƣời bị dao động chỉ ngả về nibbāna, hƣớng về nibbāna, có khuynh hƣớng thiên về nibbāna. Đọc Peter Masefield, sđd, tr. 288-9. *** Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 25 Nibbāna và Parinibbāna trích soạn từ: Nyanatiloka: Manual of Buddhist Terms and Doctrine Lily de Silva: Nibbāna As Living Experience Bhikkhu Bodhi: Nibbāna, The Buddha‘s Teaching As It is (MP3) Dẫn nhập Chúng ta nên có kiến thức, hiểu biết lý thuyết về nibbāna vì hiểu biết này là điều kiện cần thiết để hiểu trọn vẹn sự thực về Anattā (tính vô ngã hay không có thực thể) của mọi hình thức hiện hữu. Nếu thiếu hiểu biết này, sẽ dễ hiểu sai Nibbāna là sự hủy diệt bản ngã theo chủ trƣơng của phái diệt tận (chết là hết) hay là trạng thái hiện hữu vĩnh cửu để bản ngã đi vào theo chủ trƣơng của phái trƣờng cửu. Ngài Buddhaghosa trình bày vô ngã theo dàn khung bốn thánh đế: ―Chỉ có khổ đau hiện hữu, nhƣng không thấy ngƣời khổ đau nào Hành vi tạo nghiệp hiện hữu, nhƣng không có ngƣời tạo nghiệp Nirvāna hiện hữu, nhƣng không có ai đi vào Đạo lộ Giải Thoát hiện hữu, nhƣng không thấy ngƣời lữ hành trên đạo lộ ấy.‖ Vis. XVI, đ 90. Nibbāna có hai loại hay hai giai đoạn: 26 Nibbāna và Parinibbāna ∙ Sa-upādi-sesa-nibbāna [nibbāna với năm uẩn (tập hợp, nhóm) còn sót lại: hữu dư y niết bàn] hay kilesa-parinibbāna (nibbāna với các nhiễm lậu hoàn toàn bị tuyệt diệt). Đây là nibbāna chứng đạt đƣợc khi giác ngộ. Đọc Iti 41. ∙An-upādi-sesa-nibbāna [nibbāna không có tập hợp (uẩn) nào còn sót lại: vô dư y niết bàn] hay khandha-parinibbāna (đó là nibbāna dƣới hình thức tiến trình tạo lập tập hợp (uẩn) từ vô thỉ hoàn toàn bị tuyệt diệt, không c n cơ hội nào để tiếp tục tái diễn và tạo nên kiếp đời mới nữa). Bậc giải thoát đã hoàn toàn tịch diệt. Đọc Iti 41; A IV 118. Đôi khi, có vị chứng cả hai loại nibbāna này cùng một lúc (samasīsī): nhƣ tỳ khƣu Channa chứng quả Arahant ngay lúc tự tử. Xin nói qua một chút về tự tử. Đức Phật nói rằng tự tử đáng bị khiển trách khi ngƣời ta từ bỏ tấm thân này nhƣng lại còn muốn bám lấy tấm thân khác. Sau khi tự tử, vì tỳ khƣu Channa không còn muốn bám lấy tấm thân nào nữa, nên việc tự tử của tỳ khƣu Channa không có gì để bị khiển trách cả. Đọc Bhikkhu Bodhi, MLDB, Phẩm 144, tr. 1116; chú thích 1311-1314 tr. 1352-3. I. Nibbāna như là kinh nghiệm sống: Nibbāna là mục tiêu tối hậu của ngƣời học Phật kiếm tìm hoàn thiện và hạnh phúc. Để hiểu thuật ngữ này, ta hãy đọc câu kệ của Kisā Gotamī,1 cô gái thuộc giai cấp Khattiya ở Kapilavatthu, khi nhìn từ bao lơn thấy Thái Tử Siddhattha Gotama từ công viên trở về cung Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 27 điện lúc Thái Tử sắp sửa xuất gia, từ bỏ tất cả để tìm đƣờng giải thoát. Vui mừng khi thấy Thái Tử, Kisā Gotamī nói: Nibbutā nūna sā mātā, nibbuto nūna so pitā Nibbutā nūna sā nārī, yassāyam īdiso patī.2 ―Thật là hạnh phúc/mãn nguyện/an lạc biết bao cho ngƣời mẹ (có ngƣời con nhƣ vậy), thật là hạnh phúc/mãn nguyện/an lạc biết bao cho ngƣời cha (có ngƣời con nhƣ vậy), thật là hạnh phúc/mãn nguyện/an lạc biết bao cho ngƣời đàn bà có ngƣời chồng nhƣ vậy.‖ Nibbuta (bắt nguồn từ chữ nir + vṛ ) thƣờng đƣợc coi là quá khứ phân tự của động từ nibbāyati, và nibbāna là danh từ của động từ này. Nibbāna có nghĩa là hạnh phúc, mãn nguyện, an lạc. Nibbāyati cũng có nghĩa là dập tắt, thổi tắt nhƣ thổi tắt ngọn đèn.3 Nibbāna đƣợc gọi nhƣ thế vì nó là sự thổi tắt ngọn lửa tham, lửa sân, lửa si (rāgaggi, dosaggi, mohaggi).4 Khi những ngọn lửa này tắt, an lạc sẽ đạt đƣợc, và con ngƣời trở nên hoàn toàn mát lạnh – sītibhūta.5Chữ ―mát lạnh‖ đƣợc dùng để diễn đạt thực tại tâm lý đúng với nghĩa đen của nó.6 Sân hận làm chúng ta nóng nảy và bứt rứt không yên. Khi cảm xúc tiêu cực này bị tuyệt diệt hoàn toàn, không còn sanh khởi lại nữa, tâm tính ấy đƣợc mô tả là mát lạnh. Nibbāna là trạng thái có thể đạt đƣợc ở ngay đây, ngay bây giờ, ngay trong kiếp này7 và không là trạng thái đạt đƣợc chỉ sau khi chết. Hạnh phúc 28 Nibbāna và Parinibbāna Nibbāna đƣợc mô tả là hạnh phúc tối thƣợng, là trạng thái an lạc vô thƣợng.8 Những ai đã chứng đạt nibbāna sống trong an lạc tuyệt đối, không thù hận và không tâm bệnh giữa đám ngƣời thù hận và tâm bệnh.9Chữ sukha chỉ tâm tƣ hạnh phúc lẫn cảm giác khỏe khoắn về thể xác, ngƣời chứng nibbāna chắc chắn thể nghiệm đƣợc sự an lạc thân tâm. Ngay trƣớc khi chứng đạt Nibbāna, cảm giác khoan khoái của cơ thể không có tính cách nhục dục kinh nghiệm đƣợc trong thời gian giới hạn, có thể đạt đƣợc nhờ nhập các cõi thiền (jhāna). Kinh Sa Môn Quả mô tả cảm giác khỏe khoắn về thể xác bằng cách so sánh nhƣ sau: ∙ Cõi thiền thứ nhất: Khi nhồi bột tắm với nƣớc thành viên bột gọn gàng, khéo léo đâu và đó, nƣớc thấm viên bột nhƣng nƣớc không chảy ra. Cũng thế, thân vị tỳ khƣu trong cõi thiền thứ nhất đƣợc hỷ lạc do ly dục sanh (vivekajaṁ pītisukhaṁ) ƣớt đẫm và lan tỏa khắp thân. ∙ Cõi thiền thứ hai: một ao sâu đƣợc dòng suối ngầm đổ đầy, không có chỗ nào là không có nƣớc chạm đến cả nhƣng nƣớc không tràn. Cũng thế, hỷ lạc do định sanh (samādhijaṁ pītisukhaṁ) thấm nhuần toàn thân vị tỳ khƣu trong cõi thiền thứ hai. ∙ Cõi thiền thứ ba: Hoa sen sanh trong nƣớc, lớn lên trong nƣớc, hoàn toàn chìm dƣới nƣớc, không có chỗ nào là không có nƣớc lạnh chạm đến. Cũng vậy, hạnh phúc/sự khỏe khoắn dễ chịu lan tỏa, đẫm ƣớt và thấm nhuần toàn thể thân tỳ khƣu trong cõi thiền thứ ba. Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 29 ∙ Cõi nibbāna: nhập vào cõi này, kinh nghiệm cảm giác khoan khoái tinh tế hơn của cơ thể không có tính cách nhục dục đƣợc thiết lập thƣờng trực. Kinh Caṅki nói rằng khi vị tỳ khƣu chứng nhập sự thực tối hậu, ngài thể nghiệm kinh nghiệm đó ―bằng thân.‖ 11 Nói về thể nghiệm của bậc Arahant, Suttanipāta (Kinh Tập) nói là nhờ hủy diệt tất cả cảm thọ/cảm giác, tỳ khƣu sống không còn ham muốn và tự tại.12 Có lần ngài Sāriputta đƣợc hỏi là có hạnh phúc nào khi không có cảm thọ/cảm giác.13 Ngài giải thích là chính sự vắng mặt của cảm thọ/cảm giác tự nó đã là hạnh phúc.14 Hoàn thiện giới hạnh Nibbāna là trạng thái giới hạnh hoàn thiện. Ngƣời đã chứng Nibbāna, tất cả gốc rễ thúc đẩy bất thiện nhƣ tham sân si đã bị hủy diệt hoàn toàn (kilesa parinibbāna), không c n cơ hội nào sanh khởi nữa. Vì thế Nibbāna đƣợc gọi là sự hủy diệt tham, hủy diệt sân, hủy diệt si (rāgakkhaya, dosakkhaya, mohakkhaya). Đặc tính của Nibbāna là āsavakkhaya (hủy diệt nhiễm lậu). Khao khát (tham ái) đời đời bị nhổ tận gốc, vì thế taṇhakkhaya đồng nghĩa với Nibbāna. Tất cả các loại ngã mạn tự tôn, tự ti hay ngang bằng (seyyamāna, hīnamāna và sadisamāna) đều bị loại bỏ. Cũng cần phải nói là bậc Arahant không còn ảo tƣởng về ngã mạn nhƣ Tôi, của tôi. Vƣợt qua ngã, Arahant còn vƣợt luôn qua cả giới tính. Somā, vị tỳ khƣu ni chứng quả Arahant trả lời với Māra là ‗nữ 30 Nibbāna và Parinibbāna tính‘ không phải là trở ngại cho việc chứng nhập chân lý.15 Thực Chứng Tạng Pāḷi đề cập đến khía cạnh nhận thức của thực chứng nibbāna: ―Màn đêm (vô minh) khổng lồ đã bị xé tan‖ (tamokkhandhaṁ padālitaṁ).16 Trong bài giảng đầu tiên, đức Phật diễn tả sự chứng ngộ Bốn Sự Thực nhƣ là sự sanh khởi của mắt, của trí tuệ, của cái nhìn chiếu diệu, của trí, và của ánh sáng.17 Một lối nói khác là: chứng ba trí (ba minh) (tisso vijjā anuppattā): nhớ kiếp quá khứ (pubbenivāsānussati-ñāṇa), thiên nhãn (dibbacakkhu), trí biết nhiễm lậu đã bị hủy diệt (āsavakkhayañāṇa lậu tận minh).18 Trí đầu tiên kiểm chứng thuyết tái sanh, trí thứ hai kiểm chứng thuyết nghiệp quả, trí thứ ba nhận ra nguồn gốc sanh khởi có điều kiện của tất cả các hiện tƣợng và tính vô ngã.19 Đôi khi thần thông (abhiññā) cũng đƣợc đề cập đến khi nói đến khả năng của vị Arahant: năng lực siêu nhiên (iddhividhañāṇa), thiên nhĩ thông (dibbasotañāṇa) và trí biết đƣợc tâm ý ngƣời khác (cetopariyañāṇa tha tâm thông).20 Với sự chứng nhập nibbāna, bậc đã đƣợc giải thoát biết rằng sanh đã bị phá hủy, đời sống phạm hạnh đã sống trọn, việc cần làm đã làm, không còn trở lại hiện hữu ở cõi đời (trần tục) này nữa.21 Kinh Uddesavibhaṅga giải thích bản chất của thức và cách suy nghĩ chung về nhận thức của vị Arahant:22 ∙ Thức của vị Arahant không phân tán rải rác và tỏa ra khắp nơi trong thế giới bên ngoài (bahiddhā Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 31 viññāṇaṁ avikkhittaṁ avisataṁ) vì Ngài không đắm chìm trong việc hƣởng thụ các đối tƣợng giác quan (mắt: thích nhìn cái đẹp; mũi: thích ngửi mùi thơm, lƣỡi: thích ăn ngon...). ∙ Thức của ngài không an trú ở trong (ajjhattaṁ asaṇṭhitaṁ) vì Ngài không bám lấy việc hƣởng thụ các cõi thiền. ∙ Ngài không dao động, không bám níu (anupādāya na paritassati): Ngài không đồng hóa mình với bất kỳ tập hợp (uẩn) nào. Kinh Mahāsāḷāyatanika23 giải thích đầy đủ hơn về kinh nghiệm nhận thức của vị Arahant: Ngài hiểu thực chất của các giác quan, các đối tƣợng của chúng, các thức biết của các giác quan, sự gặp gỡ của cả ba và cảm giác (sung sƣớng, đau đớn, trung tính) khởi lên sau đó những Ngài không bám vào bất cứ yếu tố nào cả. Bậc có cái nhìn sâu sắc vào sự vận hành bên trong của cơ thể mình, thấy sự sanh lên và diệt đi của các tế bào (sắc), các cảm giác (thọ), nhận thức (tưởng), hành vi tạo nghiệp (hành) và thức. Hoan hỉ lớn lao khởi lên, vui thích thực chứng này và đây là sự thực chứng của bất tử.24 Đây đƣợc gọi là ―hạnh phúc giác ngộ‖ (sambodhisukha). Giải Thoát Tất cả các trói buộc (kiết sử) cột chúng ta vào đau khổ bị cắt đứt, nhƣ vậy Nibbāna đƣợc gọi là saṁyojankkhaya.25 Vì Arahant hoàn toàn làm chủ ý nghĩ của mình (cetovasippatta), không có ý tƣởng bệnh 32 Nibbāna và Parinibbāna hoạn tái diễn nào ám ảnh Ngài. Nếu có hai con trâu đen, trâu trắng bị buộc vào với nhau, đấy là vì có sợi dây ràng buộc, chứ không phải con này là ràng buộc của con kia.26 Cũng thế cái ràng buộc con ngƣời là ham muốn đối tƣợng giác quan, nó là sợi dây cột trói chúng ta. Bậc Arahant đã cắt đứt sợi dây ràng buộc này và đƣợc giải thoát. Các cảm xúc tiêu cực, không lành mạnh luôn qui hƣớng về ngã và coi mình là trung tâm của vũ trụ. ―Nó chửi tôi, nó đánh tôi, nó thắng tôi, nó cƣớp đoạt tôi ‖ và khởi lên sân hận.27 Vì kẻ ngu hoàn toàn bị trói chặt vào ý niệm bản ngã hay tự ngã, nên không thể tự dứt bỏ đƣợc những kinh nghiệm làm bản ngã của hắn bị đau thƣơng, hắn nhƣ con chó bị buộc vào cái cột. Tình trạng này hoàn toàn trái với kinh nghiệm của đức Phật. Có lần, một bà la môn đến và dùng lời lẽ thô bạo phỉ báng đức Phật. Đức Phật giữ yên lặng. Khi ngƣời bà la môn mắng nhiếc xong, đức Phật hỏi: ―Nếu ông đi thăm bạn và đem theo quà tặng bạn, nhƣng ngƣời bạn đó từ chối không nhận quà ấy, ông sẽ làm gì?‖ Ngƣời bà la môn ấy trả lời là hắn sẽ mang quà về. Đức Phật nói: ―Ông đã mang món quà phỉ báng đến cho tôi, tôi không nhận; ông có thể mang nó về.‖ 28 Giải thoát của bậc Arahant đƣợc gọi là cetovimutti và paññāvimutti (giải thoát của tâm và giải thoát nhờ tuệ). Trí khởi lên cho hành giả biết rằng mình đã đạt đƣợc giải thoát (vimuttasmiṁ vimuttam iti ñāṇaṁ hoti). Đây đƣợc gọi là hạnh phúc giải thoát (vimuttisukha). Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 33 Ngoài ra, khi chứng nibbāna, các vị Arahant thần sắc rực rỡ, sắc mặt an nhiên, có vị thành tựu bốn vô ngại giải (paṭisambhidhā-ñāṇa)... Nibbāna đƣợc ví nhƣ nơi trú ẩn, hang mát lạnh, hải đảo giữa cơn lụt, nơi an lạc, giải thoát, tự do, an ổn, tối thƣợng, siêu việt, không đƣợc tạo thành, an tịnh, thuốc trị mọi xấu xa, bất động, nƣớc cam lồ, bờ bên kia... Ai nhập nibbāna ngay trong cõi đời này? Tôn giả Ānanda hỏi ngài Sāriputta: ―Này hiền hữu Sāriputta, tại sao có ngƣời không chứng nibbāna ngay trong cõi đời này?‖ Này Ānanda, ở đây, ngƣời không hiểu đúng nhƣ thật: ‗Đây là những nhận thức đƣa đến suy giảm; đây là những nhận thức đƣa đến ổn định; đây là những nhận thức đƣa đến ƣu việt; đây là những nhận thức đƣa đến thể nhập.‘ Đó là lý do tại sao ở đây có ngƣời không chứng nibbāna ngay trong cõi đời này. Tôn giả Ānanda hỏi ngài Sāriputta: ―Này hiền hữu Sāriputta, tại sao có ngƣời chứng nibbāna ngay trong cõi đời này?‖ Này Ānanda, ở đây, ngƣời hiểu đúng nhƣ thật: ‗Đây là những nhận thức đƣa đến suy giảm; đây là những nhận thức đƣa đến ổn định; đây là những nhận thức đƣa đến ƣu việt; đây là những nhận thức đƣa đến thể nhập.‘ Đó là lý do tại sao ở đây có ngƣời chứng nibbāna ngay trong cõi đời này. Đọc BKTC, Kinh 179, A. ii. 167; Đọc Bhikkhu Bodhi, NDB, p. 544. Đọc Nguyễn Văn Ngân, ĐVNG, Luận I, đđ. 217-8, tr. 43-4. 34 Nibbāna và Parinibbāna Chú thích (tiếng Việt in nghiêng của ngƣời dịch): 1. Là cô em họ, con ông chú của Thái tử Siddhattha. Đây là lúc Thái tử trở về dinh điện bằng xe ngựa khi nghe tin sanh Rāhulā. Đọc DPPN I tr. 610. 2. J I 60 (không truy cứu tên truyện). 3. Nibbanatī dhīrā yathāyaṁ padīpo: Sn 235. 4. S IV 19. BKTƢ IV, Phẩm Tất Cả, Bị Bốc Cháy tr. 38. 5. Sn 542, 642. Kinh Tập kệ 542, 642. 6. A I 138 (Hatthaka ở Āḷavī, kinh 35, BKTC 1, tr. 247), (A III 435: Phẩm Mát Lạnh, TT Minh Châu gọi trạng thái tâm lý mát lạnh không gì sánh bằng này là vô thượng thanh lương, đọc BKTC 3, tr. 249-250). 7. D I 156 Phẩm Mahāli, số 6, tr. 156; Phẩm Mahāsīhanāda số 8, tr. 167. 8. Nibbānaṁ paramaṁ sukhaṁ Dh 203. 9. Susukhaṁ vata jīvāma verinesu averino/āturesu anāturā: Dh 197-99. 10. D I 74. Kinh Sa Môn Quả, số 2, tr. 73-74. 11.Kāyena c‘eva paramasaccaṁ sacchikaroti: M II 173. BKTrung, Phẩm Cankī, đ. 20. 12.Vedānaṁ khaya bhikkhu nicchāto parinibutto: Sn 739. Kinh Tập kệ 739. 13.Kim pan‘ettha n‘atthi vedayitan ti: A IV 415 BKTC 4, tr. 162. 14.Etad eva khv‘ettha sukhaṁ yad ettha n‘atthi vedayitaṁ. Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 35 15.S I 129. BKTƢ I, Tƣơng Ƣng Tỳ Khƣu Ni, tr. 285. 16.Thag 128. Trƣởng Lão Tăng Kệ, câu kệ 128 của trƣởng lão Gangātiriya khi đắc quả Arahant. Tiểu Bộ Kinh II, tr. 82. 17.Cakkhuṁ udapādi ñāṇaṁ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi: S V 424. BKTƢ 5, Phẩm Chuyển Pháp Luân, Nhƣ Lai Thuyết (2) tr. 617. 18.M II 105, BKTrung, Phẩm 86, Angulimāla, đ. 18. 19.M I 55. BKTrung, Phẩm 9, Sammādiṭtṭhi, đ.70. 20.M II 18-22. BKTrung, Phẩm 77, Đại Kinh Sakuludāyin đ. 31-33. 21.Nāparaṁ itthattāyā ti pajānāti: M I 67. BKTrung, Phẩm 11, Cūḷasīhanāda Sutta, đ. 68. 22.M III 223. BK Trung, Phẩm 138, Tổng Thuyết và Biệt Thuyết, tr. 514. 23.M III 287. BK Trung, Phẩm 149, Đại Kinh Sáu Xứ, tr. 644. 24.Dh 374. Pháp Cú, kệ 374. 25.S II 186. BKTƢ II, Phẩm Ngƣời, tr. 322. 26.S IV 162. BKTƢ IV, Phẩm Kotthika, tr. 270ff. 27.Dh 4. Pháp Cú, kệ 4. 28.S I 162. BKTƢ I, Tƣơng Ƣng A la hán, tr.352ff. II. Parinibbāna (pari: lần cuối cùng, trọn vẹn + nibbāna). Parinibbāna ở đây là nhập diệt trọn vẹn lần cuối cùng. Mục đích của đời sống phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn là gì? Là sự nhập diệt lần cuối cùng không còn bám víu. Ngài Sāriputta hỏi tôn giả Puṇṇa Mantātutta: 36 Nibbāna và Parinibbāna ∙ Này bạn hữu, có phải nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn? ∙ Phải, bạn hữu. ∙ Nhƣng bạn, có phải vì thanh lọc giới (giới thanh tịnh) nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn? ∙ Không, bạn à. ∙ Nhƣ vậy, có phải vì thanh lọc tâm (tâm thanh tịnh) nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn? ∙ Không, bạn à. ∙ Nhƣ vậy, có phải vì thanh lọc quan điểm (kiến thanh tịnh) nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn? ∙ Không, bạn à. ∙ Nhƣ vậy, có phải vì thanh lọc bằng cách chấm dứt nghi hoặc (đoạn nghi thanh tịnh) nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn? ∙ Không, bạn à. ∙ Nhƣ vậy, có phải vì thanh lọc bằng cách biết và thấy cái gì là đạo và cái gì không phải là đạo (đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh) nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn? ∙ Không, bạn à. ∙ Nhƣ vậy, có phải vì thanh lọc bằng cách biết và thấy về con đƣờng (đạo tri kiến thanh tịnh) nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn? ∙ Không, bạn à. ∙ Nhƣ vậy, có phải vì thanh lọc bằng cách biết và thấy (tri kiến thanh tịnh) nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn? Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 37 ∙ Không, bạn à. ∙ Bạn à, khi đƣợc hỏi có phải vì thanh lọc giới nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn, bạn trả lời không. Khi đƣợc hỏi có phải vì thanh lọc tâm... thanh lọc quan điểm... thanh lọc bằng cách chấm dứt nghi hoặc... thanh lọc nhờ biết và thấy cái gì là đạo và cái gì không phải là đạo... thanh lọc bằng cách biết và thấy về con đƣờng... thanh lọc bằng cách biết và thấy... bạn đều trả lời không. Vậy thì, vì cái gì nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn? ∙ Vì anupādānaparinibbāna* (là nibbāna lần cuối cùng không có bám víu nào còn sót lại) nên sống đời phạm hạnh dƣới sự lãnh đạo của Thế Tôn. Đọc MLDB, (M i.148 p. 242). * Chú giải bộ kinh Trung giải thích anupādānaparinibbāna là appaccayaparinibbāna: ―nibbāna lần cuối cùng không chịu điều kiện.‖ Upādāna có hai nghĩa: nắm giữ (gahaṇa), nhƣ khi nói về bốn loại bám víu và điều kiện (paccaya). Các luận sƣ giải thích ―nibbāna lần cuối cùng không có bám víu nào còn sót lại‖ là quả vị arahant vì nó không bị bất cứ một trong bốn loại bám víu nắm giữ, hay nó không sanh khởi lên vì bất cứ điều kiện nào. Đọc chú thích 289, MDLB, tr. 1214. Vì còn chịu lệ thuộc ít nhiều vào tri thức, cho rằng Nhƣ Lai hay bậc đã đƣợc giải thoát vẫn còn có một bản ngã, nên mới có câu hỏi về bậc Arahant, Nhƣ Lai đi về đâu sau khi nhập diệt. Trong bộ kinh Trung, phẩm 72, ngoại đạo Vaccha hỏi đức Phật Gotama: 38 Nibbāna và Parinibbāna ∙ Với tỳ khƣu tâm đã đƣợc giải thoát, sau khi viên tịch, vị ấy tái xuất hiện ở đâu, thƣa Ngài Gotama? ∙ Câu ‗tái xuất hiện‘ không thích hợp. ∙ Vậy vị ấy không tái xuất hiện? ∙ Câu ‗không tái xuất hiện‘ không thích hợp.* ∙ Vậy vị ấy vừa tái xuất hiện vừa không tái xuất hiện? ∙ Câu ‗vừa tái xuất hiện vừa không tái xuất hiện‘ không thích hợp. ∙ Vậy vị ấy vừa không tái xuất hiện cũng không phải không tái xuất hiện? ∙ Câu ‗vị ấy vừa không tái xuất hiện cũng không phải không tái xuất hiện‘ không thích hợp. ... Thấy Vaccha ngơ ngác, đức Phật giải thích: ∙ Giả sử có ngọn lửa cháy trƣớc mặt ông, ông có biết ngọn lửa này đang cháy trƣớc mặt ông? ∙ Dạ, có biết, thƣa Ngài Gotama. ∙ Nhờ đâu ngọn lửa này cháy? ∙ Ngọn lửa này cháy nhờ cỏ và que củi. ∙ Nếu ngọn lửa bị dập tắt, ông có biết ngọn lửa này trƣớc mặt ông bị dập tắt? ∙ Dạ, có biết, thƣa Ngài Gotama. ∙ Nếu có ai hỏi ông ‗Sau khi ngọn lửa đó bị dập tắt, ngọn lửa ấy đi về hƣớng đông, tây, bắc, nam – ông trả lời ra sao? ∙ Câu hỏi này không thích hợp. ∙ Cũng thế Vaccha. Bậc đã đƣợc giải thoát đã từ bỏ sắc thân (sắc), cảm nghiệm (thọ), nhận thức (tưởng), tạo lập tâm trạng (hành), thức qua đó ngƣời ta dùng nó để diễn tả bậc đã đƣợc giải thoát,** chúng đã bị cắt đứt tận gốc, nhƣ gốc cây Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 39 dừa xiêm, đã bị đoạn diệt không để cho sanh khởi trong tƣơng lai nữa. Đã đƣợc giải thoát khỏi sắc thân, cảm nghiệm, nhận thức, tạo lập tâm trạng, thức, bậc đã đƣợc giải thoát là bậc thâm sâu, không đo lƣờng đƣợc, khó thăm d nhƣ đại dƣơng. Vì thế, câu ‗tái xuất hiện‘ không thích hợp, câu ‗không tái xuất hiện‘ không thích hợp, câu ‗vừa tái xuất hiện vừa không tái xuất hiện‘ không thích hợp, câu ‗vị ấy vừa không tái xuất hiện cũng không phải không tái xuất hiện‘ không thích hợp. Đọc Bhikkhu Bodhi, MLDB, MN 72 tr. 594 (M i. 489). * Chú giải BKTrung nói: đúng ra, chữ ‗không tái xuất hiện‘ thực sự thích hợp theo nghĩa bậc Arahant không còn phải trải qua một kiếp đời hiện hữu mới nào nữa. Nhƣng nếu Vaccha nghe câu này, ông ta sẽ hiểu sai nó nhƣ là chủ nghĩa tuyệt diệt, nên đức Phật phủ nhận là nó thích hợp theo nghĩa quan điểm của chủ trƣơng tuyệt diệt không thể đứng vững đƣợc. Đọc Bhikkhu Bodhi, MLDB, chú thích 721, tr. 1274. **bằng cách từ bỏ tất cả trói buộc liên kết đến sắc thân ấy để nó không thể sanh khởi trong tƣơng lai nữa (phụ chú giải Mṭ). Đọc Bhikkhu Bodhi, MLDB, chú thích 722, tr. 1275. Đến đây, ta hãy nói đến giây phút cuối cùng của bậc đã đƣợc hoàn toàn giải thoát (Arahant, đức Phật): Vì các bậc đã đƣợc hoàn toàn giải thoát không có bất cứ sợ hãi nào bắt nguồn từ bất cứ nguồn nào (akutobhaya), các ngài không bị rúng động (na paritassati) vì các ngài không còn khao khát gì cho cuộc đời mới nào cả.* Sợ hãi chỉ bắt nguồn từ ngã, khi 40 Nibbāna và Parinibbāna có ngã. Các bậc đã đƣợc hoàn toàn giải thoát nhìn thấy rõ năm tập hợp (uẩn) không phải của các ngài, không phải là các ngài, không phải là bản ngã của các ngài nên không có cái gì để chết cả. Các Ngài nhìn tiến trình nhập diệt với quán niệm hoàn toàn rõ ràng trong suốt, với tâm thái hoàn toàn bình thản, không còn bám níu và không bị rúng động 2* * Na kiñci loke upādiyati, anupādiyaṁ na paritassati, aparitassaṁ paccattaṁ yeva parinibbāyati: D II 68 (Trƣờng BK3, Phẩm 15 Đại Duyên, tr. 68; LoDB, p. 227); M III 223 (BK Trung 3, Phẩm 138, tr. 514; MLDB p. 1074). 2 * Upekhavā anupādāya ca na paritassati: M III 228 (BK Trung 3, Phẩm 138, tr. 524; MLDB, p. 1078). Cố gắng giải thích về cái gì diễn ra đằng sau trạng thái nhập diệt của bậc đã đƣợc hoàn toàn giải thoát là việc làm hoàn toàn vô ích, là mạo hiểm bên ngoài biên giới của ngôn ngữ, bên ngoài lãnh vực của khái niệm. Đức Phật giảng cho Ānanda về trạng thái của bậc đã hoàn toàn nhập diệt nhƣ sau: ―Chỉ trong phạm vi này, nếu có bất cứ phƣơng cách nào để lời nói diễn đạt, nếu có bất cứ phƣơng cách nào để ngôn ngữ diễn đạt, nếu có bất cứ phƣơng cách nào để ý niệm diễn đạt, nếu có bất cứ lãnh vực nào để trí, đó là, khi có thức cùng với tiến trình tâm và thân (nāma, rūpa và viññāṇa), nhƣng khi không có thức và tiến trình tâm và thân còn sót lại thì sẽ không có phƣơng cách nào để lời nói, không có phƣơng cách nào để ngôn ngữ, không có phƣơng cách nào để ý niệm diễn đạt cả. Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 41 Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng, khi năm tập hợp (uẩn), hay khi các tiến trình tâm và thân này ngƣng lại thì không có cơ hội nào cho ngôn ngữ, không có cơ hội nào cho ý niệm, không có cơ hội nào cho tri thức, sẽ không có gì để chỉ đích danh, để nhận diện đặt tên, ở đây, ngôn ngữ trở nên hoàn toàn không thích hợp và không thỏa đáng, ý niệm không thể nào thâm nhập vào điều không thể nhận biết đƣợc, và tâm trí không thể nào đo lƣờng cái không thể đo lƣờng đƣợc‖ (Đọc D ii. 64; Trƣờng BK3, Phẩm 15, Đại Duyên, đ. 22; tr. 64-64A). Khi đƣợc tôn giả Upasīva* hỏi về trạng thái của bậc đã đƣợc hoàn toàn giải thoát, đức Phật trả lời bằng câu kệ: ―Nhƣ ngọn lửa bị gió thổi Bay đến chỗ tận cùng Không còn gì nữa để đi vào phạm vi diễn đạt bằng lời, Cũng vậy, khi bậc Trí đƣợc giải thoát khỏi tâm thân Từ tâm thân, đã đạt đến đích tận cùng Không còn gì nữa để đi vào phạm vi diễn đạt bằng lời.‖ Tôn giả Upasīva hỏi tiếp: ―Có phải bậc đã đạt mục đích trở nên không còn hiện hữu hay vị ấy đời đời hiện hữu trong trạng thái an lạc vĩnh cửu? Xin Bậc Trí hãy trả lời, vì Ngài là bậc đã hiểu rõ Sự Thực. Đức Phật trả lời: 42 Nibbāna và Parinibbāna ―Không có cách nào để đo lƣờng bậc đã đạt mục đích, Không có phƣơng cách diễn đạt nào còn tồn tại, Để nhờ đó chúng ta có thể nói về vị ấy, Khi tất cả các trạng thái tâm thân hay năm tập hợp (uẩn)** đã đƣợc tháo bỏ, Thì tất cả phƣơng cách diễn đạt cũng đƣợc tháo bỏ theo.‖ * Là đệ tử của bà la môn Bāvarī, Upasīva trở thành tỳ khƣu và chứng quả Arahant (đọc DPPN I, tr. 403). Bāvarī phái 16 đệ tử của mình đến để xác minh tình trạng giác ngộ của đức Phật có chính đáng không. Kết quả là tất cả 16 đệ tử của Bāvarī đều trở thành đệ tử của đức Phật và chứng quả Arahant. Về sau, đƣợc đức Phật thuyết, Bāvarī chứng quả Anāgāmī (đọc DPPN II, tr. 280). ** dhammā: các trạng thái tâm thân hay năm tập hợp (uẩn). Đọc Sutta Nipāta, Chƣơng Qua Đến Bờ Bên Kia, câu kệ 1074-1076 (The Group of Discourses II, tr. 136-7). Dịch theo Bhikkhu Bodhi qua bài giảng MP3 ―The Buddha‘s Teaching As It Is‖, chƣơng Nibbāna. Vì tất cả phƣơng cách diễn đạt đã bị tháo bỏ, nên bài viết về Nibbāna và Parinibbāna này cũng chấm dứt ở đây. Nguyễn Văn Ngân dịch và chú thích *** Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 43 [516] CHÚ GIẢI KINH MAHĀPARINIBBĀNA CHƢƠNG I: Ở Magadha 1.1 Chú Giải Phần Giới Thiệu [MC 72] Như vầy tôi nghe đề cập tới kinh Mahāparinibbāna.1 Về kinh đó, đây là phần chú giải các 1 Sớ giải cắt nghīa Mahāparinibbāna bằng cách giải thích chữ mahā theo chín lối sau: (1-2) Nó to lớn vĩ đại vì nó xứng đáng đƣợc tôn kính và vì nó xảy ra vào lúc từ bỏ trạng thái huy hoàng rực rỡ [hiện đang là] một vị Phật; và nó là parinibbāna;* nên nó là mahāparinibbāna. * Parinibbāna: hoàn toàn nhập diệt. Đọc PTC III, tr. 179. (3) Việc parinibbāna ấy xảy ra dựa trên sự tận diệt hết sức lớn lao nhiễm lậu của Ngài bằng cách từ bỏ hoàng cung. (4-5) Việc parinibbāna ấy đƣợc hoàn thành hoặc là phải mất một thời gian rất lâu hay là nhờ sự tích lũy lớn lao giới đức. (6) Việc parinibbāna ấy là để trở nên nhiều, vì số lƣợng xá lợi gia tăng gấp bội. (7) Việc parinibbāna ấy là sự thoát khỏi thế giới rộng lớn này. (8) Việc parinibbāna ấy là của đức Phật Thế Tôn, vốn là bậc vī đại trong những giới hạnh nhƣ giới đức biểu thị đặc tính của các vị Phật đƣợc chia xẻ [do chia xẻ công đức] với toàn thể thế giới này. (9) Việc parinibbāna ấy đƣợc gọi là mahāparinibbāna vì giáo pháp cao cả đã đƣợc thiết lập lâu bền. Nó đƣợc gọi là parinibbāna của đức Phật, đức Thế Tôn, và bài kinh liên quan đến việc này là kinh Mahāparinibbāna (Sv-pṭ II 158). 44 Ở Magadha chữ sau đây theo thứ tự trong kinh văn. Trên đỉnh núi Kên Kên (Linh Thứu): đƣợc gọi nhƣ thế hoặc là vì trƣớc đây các con kên kên đã từng lƣu lại nơi đỉnh núi,2 hay vì đỉnh của nó [có hình dáng] trông giống nhƣ đầu con kên kên3 trên đó.4 Muốn tấn công5có nghĩa là muốn toan tính tấn công chỉ với mục đích chinh phục. Những người Vajji6có nghĩa là các vị vua 2 Bản B, C viết là kūṭesu * (m., n., loc. pl. trên đỉnh) thay vì chữ kūṭe* [(m. acc.; pl.) của kūṭa có nghĩa là chóp, đỉnh) ]. Cùng lời giải thích này đƣợc tìm thấy ở Pj II 413,18-29. 3 Hình nhƣ lời miêu tả của Hsüan Tsang (Huyền Trang) tán thành lý do thứ nhất: ―Các con kên kên đang làm tổ và sống ở đó‖ (TD, Vol. 51, p. 921). 4 Hay nói cách khác: Gijjhakūṭe là danh từ chỉ nơi chốn: gijjha* nghĩa là con kên kên; kūṭe*: (m., n. sing.) nghĩa là trên đỉnh núi. Theo Maurice Walshe, Gijjhakūṭa là một vùng đất cao thoải mái dễ chịu nằm hẳn lên trên cái nóng đến ngộp thở của Rajāgaha (Vương Xá). Cái tên Rajāgaha này đƣợc các tác giả Bắc tông (Mahāyāna) chấp nhận, những ngƣời thƣờng xác định nơi đức Phật thuyết pháp. Đọc Maurice Walshe, LoDB, ct 361, tr. 566). 5 Ngoại trừ một số khác biệt về thứ tự các đoạn văn, từ chỗ này trở đi trong cùng quyển chú giải này, đã đƣợc tìm thấy ở Mp IV 14ff. Xem Phụ Lục. 6 Vào thời đức Phật, Vajji là một trong mƣời sáu nƣớc lớn (mahājanapada). Ngƣời Vajji đã tổ chức thành liên bang với tám bộ tộc, trong số này, các bộ tộc trọng yếu là bộ tộc Licchavis và Videhas. Vesāli là thủ đô (DPPN III trang 779 ). Ngƣời ta nói thể chế dân chủ của ngƣời Vajji có 7,707 vị vua (rājas) là ban lập pháp đại diện trong hội đồng liên bang (Ja I 504, Ja III 1). Căn cứ theo quyển Mvu I, 271, đã có 168,000* vua (Mhv là Mahavastu, sách của phái Xuất Thế (Lokottaravadin) thuộc Đại Chúng Bộ (Mahasanghika). Quyền hạn và chức vụ của các vua nƣớc Vajji phải khác với quyền hạn và chức vụ của một quốc vƣơng nhƣ vua Ajātasattu (A xà thế) Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 45 Vajji. Với uy quyền như vậy (evaṃ-mahiddhike) có nghĩa là những ngƣời có uy quyền rất lớn của hoàng gia. Khi dùng chữ này, vua Ajātasattu đã nói rằng những ngƣời Vajji sống trong tình đoàn kết. Với sự hùng mạnh như vậy (evaṃ-mahānubhāve) có nghĩa là những ngƣời có [quân lực]7 hùng mạnh nhƣ vậy. Với lời lẽ này, vua Ajātasattu nói rằng ngƣời Vajji đã đƣợc huấn luyện về những vấn đề nhƣ sử dụng voi. Về việc này, ngƣời ta nói rằng, ―Quả nhiên là những trai trẻ Licchavi8đã đƣợc huấn luyện, quả nhiên là những trai trẻ Licchavi tinh nhuệ về chuyện bắn tên, của nƣớc Magadha (Ma kiệt đà). ―Hồi đấy, tƣớc hiệu ‗vua‘ (rāja) đƣợc dùng cho công dân theo thể chế cộng h a‖ (Mishra 1985, p. 10). ―Mỗi công dân** có quyền tự xƣng là Rāja, nghĩa là ngƣời có phẩm vị này không phải tuân lệnh hay đóng thuế cho bất cứ ai khác, tuy vậy, mỗi ngƣời nhƣ họ đã hãnh diện ngẩng cao đầu lên và coi Rāja là tƣớc hiệu bình thƣờng của riêng mình. Tƣớc hiệu ‗rāja‘ đồng nghĩa với kṣatriya (sát đế lỵ)‖ (Law 1985, p. 175). Thậm chí ngày nay ở Ấn Độ còn tự xƣng là kṣatriyas, đó là giai cấp có ƣu thế chính trị trong một khu vực, thƣờng tự xƣng tƣớc hiệu Rāja (RFG). Để thêm chi tiết, hãy đọc Bongard-Levin, Chƣơng IV: Mishra 1962, pp. 144- 148. * Quyển DPPN III trang 781, viết: 68.000 vua. ** Tất cả những ngƣời lãnh đạo trong chính phủ cộng hòa (gaṇa, saṅgha) Licchavi đều đƣợc gọi là rāja (DPPN III tr. 781). 7 Mp IV 14,29 viết là rājānubhāvena (―quyền lực hoàng gia‖) thay cho chữ ānubhāvena* (quyền lực). 8 Dần theo thời gian, bộ tộc Licchavi trở nên có thế lực nhất trong liên bang Vajji (Ps I 394). Vì thế, hai tên Licchavi và tên Vajji đôi khi đƣợc dùng đồng nghĩa (DPPN III trang 779). 46 Ở Magadha bắn hết mũi này sang mũi khác, xuyên qua một lỗ rất nhỏ không hề sai trật.‖ 9 [MC 73] Ta sắp phá hủy (làm cỏ)10 có nghĩa là Ta sẽ phá hủy [đây là một thì tƣơng lai]. Ta sẽ tiêu diệt có nghĩa là ta sẽ làm cho diệt vong. Ta sẽ khiến cho11 không ai còn trông thấy chúng nữa. Suy đồi và đổ nát (anayavyasana, hoại vong): Là suy đồi (anayo) bởi vì trong đó sẽ không có tăng trƣởng (ayo). Đây là tên gọi cho sự không tăng trƣởng (avaḍḍhi). Đổ nát (vyasana) đƣợc gọi nhƣ thế vì nó quăng đi (viyassati), ném đi sự thịnh vƣợng và hạnh phúc. Đây là chữ dùng vào việc mất mát thân quyến và vân vân. Ta sẽ làm cho có nghĩa là Ta sẽ đem lại. 9 Những trai trẻ Licchavi năng động, nhiệt tình và hăng say trong việc tập luyện quân sự (SN ii 267-68, v 453). Họ rất thích huấn luyện voi và săn bắn (PEB p. 106). 10 AN iv 17,17 viết là ucchejjissāmi thay vì chữ ucchejjāmi; Mp IV 15.7 đọc là ucchindissāmi. Với SS, sớ giải viết là ucchindissāmi thay vì chữ upachindissāmi (Sv-pṭ II 159.11). Trong kinh văn, hình thức của chữ ucchejjāmi biến cách bất quy tắc. Chữ mūla viết cho đúng phải là ucchecchāmi (thông thƣờng bắt nguồn từ chữ Sanskit là ucchetsyāmi), chữ này đƣợc viết trong Ne II 215,12. Bản chú giải lƣu ý rằng nghĩa của nó là tƣơng lai. 11 Ne II 215,13 viết là pāpessāmi* thay vì chữ nayissāmi.* ∙ pāpessāmi: pāpeti từ chữ pāpuṇāti: sẽ đem lại, khiến cho đạt đƣợc. Đọc PED trang 453. ∙ nayissāmi: từ chữ nayati hay neti: dẫn đến, hƣớng dẫn; sẽ lấy đi, sẽ mang đi. Đọc PED trang 377. Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 47 Nhƣ vậy, họ nói, vua này chỉ nói về chiến tranh ở những nơi dân chúng sinh hoạt:12 ―Hãy sẵn sàng tấn công.‖ Nhà vua đã ra lệnh cho quân đội theo cách này. Tại sao? Họ nói trên sông Gaṅgā (sông Hằng) có một thị trấn cảng13 rộng hơn một yojana (1 yojana = 7 dặm = 11.26 cây số), một nửa cảng nằm dƣới sự kiểm soát14 của Ajātasattu,15 còn nửa kia nằm trong tay của 12 Sinh hoạt: dịch sát là đứng và ngồi và vân vân. Thành ngữ này hình nhƣ có nghĩa là ―bất cứ nơi nào ngƣời ta tụ tập.‖ 13 Tuy không chắc lắm, Malalasekera (DPPN II 781), dựa theo Ud-a 408, đề nghị đây là cảng Pāṭaligāma* (cảng Pāṭali, hay cảng Thủy Tiên, đọc chú thích 257). Kosambi viết về vị trí của cảng này và nguyên nhân chiến tranh giữa Licchavi và Magadha nhƣ sau (trang 129-30): ―Vào thời điểm này, bộ tộc Licchavi đã nới rộng vùng kiểm soát từ phía bắc đến sông Ganges và đã thu thuế giao thông vào tất cả ngành nghề trên con sông lớn này. Các thƣơng gia cay đắng kêu than vì phải đóng hai thuế cho bộ tộc này và cho vua Magadha, ngƣời cũng đã tuyên bố kiểm soát trọn vẹn con sông này. Vì thế một hàng rào cọc vững chắc đƣợc dựng lên trên sông Ganges ở Pāṭaliputra (Patna) chỗ ngã ba sông Gandak và sông Son (chảy vào sông Ganges tại thời kỳ này cho đến thế kỷ thứ 15 A. D.).‖ Tuy vậy, Kosambi không đƣa ra nguồn tham khảo nào, nên chúng ta tự hỏi phải chăng đoạn này là nguồn tin của ông ta. Nhƣng nhiều học giả đồng ý về nguyên nhân cuộc chiến tranh: ‗Mục đích của Ajātasattu, cũng là mục đích của vua cha Bimbisāra (Tần Bà Ta La, Bình Sa Vương) là chiếm quyền kiểm soát hệ thống sông Ganges đƣợc càng nhiều càng tốt.‖ (Mirsha, 1962, trang 256). ―Cũng có thể để theo đuổi cùng mục đích sau này, lấy cớ cho Samudra Gupta, Śaśāṅka mở chiến dịch quân sự, và Dharmapāla – nhà vua làm chủ vùng hạ lƣu nhắm mục đích kiểm soát toàn thể hệ thống sông ng i‖ (Basham, trang 40). 14 Mp IV 15,14 và Sv-pṭ viết là vijitaṃ* thay vì chữ āṇā.* SS thêm câu: ―Hắn biết thế.‖ 48 Ở Magadha ∙vijitaṃ: nt. rút từ chữ vejeti và vijinati; vùng đất chinh phục đƣợc, kiểm soát đƣợc. Đọc Childers, DPL, trang 571. ∙āṇā: f. vùng kiểm soát. Đọc Childers, DPL, trang 30. 15 Ajātasattu là con trai của Bimbisāra, vua nƣớc Magadha. Hắn giam cha của mình và cuối cùng đã để Bimbisāra già nua và hiền đức chết vì đói. Có hai lời giải thích về hình dung từ Ajātasattu đã đƣợc đƣa ra. Hắn đƣợc gọi nhƣ thế hoặc là vì thầy bói tiên đoán hắn đã có ác cảm với cha mình ngay trƣớc khi đƣợc sinh ra, hay vì hắn đã là ―ngƣời chống lại kẻ không tạo ra kẻ thù.‖ Vì nghe lời thầy bói nên mẹ của Ajātasattu cố gắng làm nhiều cách để sẩy thai, có lần ở công viên Maddakucci nhƣng bị nhà vua biết đƣợc và ngăn chặn. Sau này, cả phụ vƣơng và mẫu hậu đều rất thƣơng con (DPPN I trang 34). Tuy nhiên, chữ Ajātasattu không phải là tên thật mà là một biệt danh chính thức (Dial. II 78, n. 1). Ngoài một số chuyển dịch tên này sang tiếng Hoa (Mu 382b29), tên này dịch sang tiếng Hoa là ―ngƣời chƣa có một kẻ thù.‖ ∙ Ajātasattu Vedehiputta: Putta có nghĩa là con trai. Có nhiều giải thích khác nhau về nghĩa của chữ vedehi trong vedehiputta: oH. T. Minh Châu dịch vedehiputta là ―con bà Vi đề hi.‖ Đọc BKD 3, tr. 72. oMalalasekera: Mẹ của Ajātasattu là công chúa con vua Kosala chứ không phải là con gái của vua Vedehi hay con của hoàng hậu Vedehi. Vedehi có lẽ là họ, tên một giòng tộc, bộ tộc chứ không phải tên riêng của bà. Ví dụ: Ở J.iii.121; iv.342; bà đƣợc gọi là Kosaladevī* (thiên nữ Kosala). Đọc G. P. Malalasekera, DPPN I tr. 34. Đọc Sister Vajira and Francis Story, LaDB, chú thích số 2, tr. 93. oBuddhaghosa: Ở DA. i. 139, Ngài cắt nghĩa vedehiputta là ―con của một ngƣời mẹ thông minh vì vedehi có nghĩa là paṇḍita, thông tuệ.‖ Hình nhƣ Ngài bác bỏ lời giải thích cho rằng Ajātasattu là con của hoàng hậu Videha. Đọc G. P. Malalasekera, DPPN I tr. 34. oBhikkhu Bodhi không nghĩ vedehiputta là ―con của một ngƣời mẹ thông minh‖, cho là tổ tiên của Ajātasattu xuất Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 49 thân từ nƣớc Videha, miền bắc Ấn Độ nên mới mang tên này. Vì mẹ của Ajātasattu từ Kosala, Geiger phỏng đoán là bà ngoại của Ajātasattu ngƣời nƣớc Videha (GermTr, p. 131, n. 3). Đọc Bhikkhu Bodhi, CD I, n. 233, p. 406. ∙ Theo Theravāda, không ai biết đến tên thật của Ajātasattu (Sanskrit: Ajātaśatru). Ngƣời theo đạo Jain gọi Ajātasattu là Kūṇika hay Koṇika, có lẽ cũng là một biệt danh (Dial II 79, n.1). Đọc H. G. A. VAN ZEYST, EB Vol. 1, trang 315-321. ∙ Dù biết lời tiên tri về Ajātasattu nhƣ vậy, Bimbisāra vẫn rất mực thƣơng con, một lần thấy con mình rất đau đớn vì ngón tay sƣng có mủ, ngƣời cha ngậm ngón tay con trong miệng cho dịu cơn đau, vết thƣơng bị vỡ, mủ chảy ra, vì không thể bỏ dở buổi họp để nhổ mủ ra, nên nuốt luôn. Sau này, nghe Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) xúi dục, Ajātasattu dấu dao găm muốn giết cha, bị quan bắt và khai là do Devadatta xúi bảo. Bimbisāra nghe nhƣ thế, nhƣờng ngôi vua lại cho Ajātasattu (Vin VII 189ff). Ngày Ajātasattu sanh con trai đặt tên là Udāyabhadda (DPPN viết là Udāyibhadda, Udāyibhaddaka), Ajātasattu rất vui mừng, mẹ của Ajātasattu nhân cơ hội này kể lại cho con chuyện nuốt mủ ấy, nghe xong, Ajātasattu rất hối hận, ra lệnh thả cha ra ngay, nhƣng khi quan quân đến ngục thất, cha đã chết. Đọc H. G. A. VAN ZEYST, sđd, tr. 315-316. Sau này, quả báo nhãn tiền, Udāyabhadda lại giết cha là Ajātasattu. Udāyabhadda làm vua đƣợc 16 năm rồi bị con mình là Anuruddhaka giết chết. Đọc S iv. 121-4. Đọc DPPN I tr. 374-5. ∙ Nhƣng kinh Nirayāvali của đạo Jain lại kể khác đi: vì hiểu lầm nên Koṇika ra lệnh bỏ tù cha, khi hiểu ra, đứa con trai ngoan vội đích thân đến nhà giam với cái rìu trong tay để chặt xích thả cha ra, Bimbisāra thấy con tay cầm rìu tƣởng muốn giết mình, nhƣng vì không biết con mình đã hối cải nên ông đã tự tử để tránh cho con mang tội giết cha. Đọc H. G. A. VAN ZEYST, sđd, tr. 317. 50 Ở Magadha Licchavi, điều này có nghĩa là nơi thuộc quyền kiểm soát của hoàng gia.16 Và ở nơi đó, hàng hóa, dầu thơm đắt tiền từ chân núi trôi lềnh bềnh trên sông. Sau khi biết đƣợc điều này, Ajātasattu nghĩ rằng, ―Ta sẽ đi ngày hôm nay hay ngày mai‖, nhƣng đang lúc sắp xếp ngày giờ, thì bộ tộc Licchavi sống đoàn kết hòa hợp, đã đến đó trƣớc và lấy đi tất cả. Ajātasattu đến sau, biết [517] việc gì đã xảy ra, tức tối bỏ đi. Nhƣng năm sau, bộ tộc Licchavi cũng lại làm giống nhƣ vậy. Ajātasattu nổi cơn thịnh nộ đập phá lung tung, điệu bộ hầm hầm tức tối. Nhƣng ông ta nghĩ: ―Gây chiến với một bộ tộc17 (gaṇa) là việc nghiêm trọng; đánh ngƣời dù chỉ đánh một cái thôi không thể không chịu hậu quả. Nhƣng nếu hành động sau khi đã tham khảo ý kiến với một bậc trí duy nhất trên đời, thì chả có lỗi gì.18 Không ai có trí bằng bậc Đạo Sƣ (Satthā). Vị Đạo Sƣ này hiện đang lƣu lại gần đây trong tịnh xá đầu tiên ngƣời ta tới viếng. Bây giờ Ta hãy gửi một sứ giả 16 Mp IV 15,14 và SS bỏ câu ―điều này có nghĩa là nơi đây thuộc quyền kiểm soát của hoàng gia.‖ 17 Vào thời đức Phật, có hai loại chính thể đối đầu nhau ở miền bắc Ấn Độ: cộng hòa và quân chủ. Nhìn chung, kết quả của các cuộc đụng độ là khuynh hƣớng gia tăng số lƣợng và quyền lực của chính thể quân chủ nhắm mục đích gây thiệt hại cho chính thể cộng hòa (Ling 1973, tr. 50). Giống nhƣ saṇgha*(cộng đồng, đoàn thể quần chúng, giáo đoàn), gaṇa* (bộ tộc) là chính phủ cộng hòa trái với thể chế quân chủ. Những gaṇa lớn mạnh nhất và phát triển cao độ nhất ở phía Bắc Ấn Độ là những bộ tộc Licchavi, Sakya, Malla, Mālava và Ksudraka (Bongard-Levin, tr. 69). 18 B, C viết là nippavādo (―không tranh luận‖) thay vì chữ niraparādho* (không phạm lỗi). Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 51 đến tham vấn Ngài. Nhờ đi nhƣ thế, nếu có lợi ích gì cho Ta, bậc Đạo Sƣ sẽ im lặng, nhƣng nếu có bất lợi gì, Ngài sẽ nói, ―Nhà Vua đi đến đó thì có ích gì?‖ Nhà vua cử bà la môn Vassakāra đi.19 Bà la môn ấy đến thông báo với Thế Tôn về việc này. Nên kinh nói, ―Rồi 19 Vassakāra là bà la môn, tể tƣớng* của Ajātasattu. Ông ta chỉ đƣợc nhắc đến bằng biệt danh Vassakāra, ‗kẻ chinh phục‘, cái tên rút ra từ cái mƣu kế ngoạn mục này. Quả nhiên, hắn ta là một trong những tổ sƣ ngoại giao vĩ đại mà quan điểm và chính sách của ông này phải đƣợc nhắc đến trong Arthaśāstra** dƣới tên tuổi chính thức không ai biết tới (Kosambi, tr. 130-31). Hình nhƣ Kosambi lầm lẫn vasakāra với vassakāra (ngƣời làm mƣa). Có hai lối dịch chữ vassakāra ra tiếng Trung Hoa. Một là Yu-she, có nghĩa là ―ngƣời làm (kāra) mƣa (vassa).‖ Lối kia cũng là Yu-she, vốn có thể do chép lại chữ trƣớc sai; cách phiên âm của cả hai chữ này giống nhau, nhƣng khác nhau ở những nét viết của phụ âm đầu. Có thể chữ vassāgāra trong tiếng Magadha đã thay đổi thành varṣāgāra trong kinh văn Ấn từ đó bộ Āgama (A Hàm) của Trung Hoa đã đƣợc dịch ra. She (―nhà‖, cửa hàng, kho trong chữ Yu-she xuất phát từ āgāra trong varṣāgāra (Mitsuyoshi, tr. 179-80). * HT Minh Châu dịch chức vụ của Vassakāra (Vũ Xá) là quan đại thần, sđd, trang 72. Tôi dịch chief minister = highest official là tể tƣớng vì trong triều có nhiều quan đại thần, nhƣng tể tƣớng là quan đại thần cao nhất chỉ dƣới Vua. Quyển Dial II trang 78 của PTS dùng chữ prime minister. Chúng ta còn gặp vị này ở Phẩm 108, Gopaka Moggallāna, Bộ Kinh Trung (M iii, 8). ** Quyển Arthaśāstra đƣợc R. P. Kangle dịch lấy tựa là Science of Politics (Khoa Chính Trị Học); Roger Boescher dịch là Science of Political Economy (Khoa Kinh Tế Chính Trị Học). Quyển này phân tích tại sao thủ đoạn chính trị lại thành công; nó tƣơng đƣơng với quyển The Prince của Machiavelli (1469- 1527), một chính khách và triết gia chính trị ngƣời Ý. 52 Ở Magadha nhà vua... và vân vân... Ta sẽ làm cho dân Vajji diệt vong.‖ 1.2. Chú giải về Điều Kiện để Vƣơng Quốc Cƣờng Thịnh 4. [MC 74] Quạt cho Thế Tôn: Tôn giả Ānanda20 đứng, quạt cho Thế Tôn là nhiệm vụ của mình.21 Nhƣng Thế Tôn cảm thấy không lạnh cũng không nóng.22 Sau khi nghe xong lời của vị Bà la môn này, Thế Tôn đã không bàn luận việc này với vị khách nhƣng lại muốn thảo luận với Ānanda23 về chuyện này 20 Ānanda là thị giả tận tụy nhất của đức Phật và là anh em họ của Ngài. Ānanda gia nhập Tăng Già của Tăng Đoàn đức Phật vào năm thứ hai. Suốt hai mƣơi lăm năm, Ānanda đã phục vụ đức Phật, theo đức Phật nhƣ bóng với hình cho đến khi đức Phật nhập diệt. Trong bốn bộ kinh Nikāya đầu tiên, mỗi phẩm kinh bắt đầu bằng hàng chữ ―Nhƣ vầy tôi nghe,‖ chữ ―Tôi‖ ở đây muốn nói tới Ānanda (DPPN I 262). 21 Nhiều ví dụ đã đƣợc đƣa ra trong MPS về sự săn sóc Đức Phật của Ānanda: đi lấy nƣớc cho Ngài, tắm cho Ngài, sửa soạn chỗ ngủ cho Ngài, và tiếp nhận chỉ thị cuối cùng của Ngài về những vấn đề quan trọng. 22 Còn sớ giải lại đƣa ra một câu khác của Buddhaghosa: ―Lúc ấy, nhờ ân đức của chƣ Phật, mùa màng luôn có nóng lạnh cân bằng; đây là điều Buddhaghosa muốn nói tới.‖ (Sv-pṭ II 159,22). 23 Trái lại, theo bản tiếng Hán (Po 160b28), Đức Phật đã trực tiếp trả lời vị Bà la môn bằng cách nói rằng: ―Ông không thể thắng.‖ Và rồi Đức Phật hỏi Ānanda về bộ tộc Vajji vẫn còn đều đặn thực hiện các điều kiện để xã hội hạnh phúc hay không, cốt để vị Bà la môn này nghe đƣợc. HT Minh Châu gọi ‗điều kiện để xã hội hạnh phúc‘ là „pháp bất thối.‟ Đọc HT Minh Châu, BKD 3, tr. 75B. Bảy điều kiện này đƣợc đức Phật Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 53 và bắt đầu bằng cách nói rằng: ―Ānanda, ông đã nghe về chuyện này chứ ?‖ Họ thường tụ tập (abhiṇhaṃ-sannipātā):24 Họ tụ tập ba lần một ngày, và cũng tụ tập vào khoảng giữa ba lần ấy. Nên kinh nói ―họ thƣờng tụ tập.‖ Họ tụ tập liên miên (sannipāta-bahulā): 25 Họ đƣợc gọi nhƣ thế là vì họ không ngừng tụ tập qua câu: ―Chúng ta đã tụ tập cả ngày hôm qua và ngày trƣớc đó, tại sao chúng ta lại tụ tập lần nữa vào hôm nay?‖ Một khi có nghĩa là hễ cứ khi nào, miễn là. [MC 75] Ānanda, chỉ có sự cường thịnh, chứ không phải suy vong, là chuyện đương nhiên sẽ xảy đến cho người Vajji: Nếu họ không thƣờng xuyên hội họp, họ sẽ không nghe tin tức từ mọi hƣớng; nên họ sẽ không biết rằng làng này hay thị trấn26 nọ đang trong tình trạng hỗn loạn, rằng nơi này nơi kia bọn cƣớp đã khởi lên. Khi chúng biết rằng các vua lơ giảng ở [AN iv, trang 19] HT Minh Châu, BKTC 3, Phẩm Vajjī, tr. 296-305. 24 Từ đoạn này ở Mp IV 9,12ff. ghi lại lời chú giải nhƣ nhau. Đọc Phụ Lục. 25 Một lời giải thích khác cũng có thể là: Họ tụ tập đông ngƣời. Chữ bahula có thể muốn đề cập tới số ngƣời tham dự hơn là số lần tụ tập (bahulā c n có nghĩa ‗đầy đủ, nhiều‘ nên HT Minh Châu dịch là: tụ tập đông đảo, BKD 3, tr. 74). 26 Chữ nigama (thị trấn) dùng để chỉ một thị trấn thƣơng mại, hoạt động kinh tế chính là trao đổi hàng hóa, trong khi chữ gāma (làng) đƣợc tính từ một căn nhà của một gia đình có nhiều thế hệ sống chung nhau cho đến nhiều trăm căn nhà do nhiều gia đình sinh sống, ngành nghề chính của các dân cƣ là nghề nông, mỹ thuật và chế tạo bằng tay các dụng cụ sản xuất (Gokhale, tr. 51f.) 54 Ở Magadha là, bọn cƣớp phá hoại cả vùng, đánh phá các làng xã và thị trấn. Theo cách này, nhà Vua chịu cảnh suy tàn. Nhƣng nếu họ thƣờng xuyên hội họp, nghe nhiều chuyện khác nhau. Rồi họ sẽ phái quân đi tiêu diệt kẻ thù. Bọn cƣớp, nhận ra rằng chúng không thể theo băng đảng đi loanh quanh nên phải rã đám và chạy đi. Qua đó, các vua kinh nghiệm sự cƣờng thịnh. Nên kinh nói: ―Ānanda, chỉ có sự cường thịnh, chứ không phải suy vong, là chuyện đương nhiên* sẽ xảy đến cho người Vajji.‖ * Là chuyện đƣơng nhiên (pāṭikaṅkhā): là một danh động từ (gerundive) của chữ pāṭikaṅkhati, nó có nghĩa là to be expected = to be completely normal (đọc PED tr. 450): là chuyện đƣơng nhiên, tất nhiên, hoàn toàn bình thƣờng. HT Minh Châu đã dịch chữ pāṭikaṅkhā này ở: ∙Bộ Kinh Trung: o Kinh Không Uế Nhiễm: ―có thể chờ đợi‖ BK Trung 1, tr. 62 (M i. 25). o Kinh Thân Hành Niệm: ―có thể đƣợc mong đợi‖ BK Trung 3, tr. 280 (M iii. 97). ∙Bộ Tƣơng Ƣng: o Phẩm Không Phóng Dật 2: ―sẽ hy vọng rằng‖ BKTƢ 1, tr. 197 (S i. 88). o Phẩm Có Nhân: ―sẽ phải...‖ TƢBK 2, tr. 265 (S ii.152). ∙Bộ Kinh Tăng Chi: Phẩm Bệnh, Niệm Xứ: ―đƣợc chờ đợi‖ BKTC 2, tr. 540 (A iii. 143 = Sn p.140). ∙Kinh Phật Tự Thuyết: Phẩm Meghiya: ―đƣợc chờ đợi‖ BKT 1, tr. 181 (Ud 36). Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 55 Từ trang 73 đến 81 của kinh Đại Bát Niết Bàn tiếng Pāḷi, chữ pāṭikaṅkhā đƣợc lập lại 37 lần, nhƣng không thấy HT Minh Châu dịch chữ này. Theo kinh văn, là chuyện đương nhiên có nghĩa là sẽ đƣợc ƣớc nguyện. Nghĩa là: ―điều ấy sẽ không tránh đƣợc‖, ―chắc chắn xảy ra‖, ―điều ấy tất nhiên là thế.‖ 27 Đoàn kết, và vân vân: Khi tiếng trống hội họp trổi lên khắp nơi, nếu họ nói, ―Hôm nay tôi có việc phải làm rồi‖ hay ―Hôm nay tôi có ngày nghỉ lễ‖, [518] và đã hoãn tụ tập lại,28 đấy không phải là ―tụ tập trong đoàn kết.‖ Nhƣng nếu nghe tiếng trống, ngay đang lúc ăn hay lúc đang trang điểm hay lúc đang mặc đầy đủ trang phục, bèn ngƣng ăn hay29 ngƣng trang điểm, hay ngay trong khi đang mặc, và rồi tụ tập nhau lại, đấy đƣợc gọi là ―Họ tụ tập trong đoàn kết.‖ Nhƣng nếu sau khi tụ tập, suy nghĩ, bàn luận và làm việc phải làm, họ không ngƣng tất cả cùng một lúc, đây đƣợc gọi là ―Họ không ngƣng trong đoàn kết.‖ Vì nếu họ ngƣng nhƣ thế [không ngƣng tất cả đồng thời], những ai ra về trƣớc nghĩ rằng: ―Điều chúng ta đã nghe là chuyện bên lề [đó là không thích đáng]: sự bàn 27 Hay câu này có thể đƣợc dịch là: ―điều ấy tất nhiên không thể tránh đƣợc.‖ Mp IV 10,4 bỏ chữ này. 28 Quyển Mp IV 10,6 và Ne II 217,12: viết là vikkhepaṃ * (vi + kkhepa = quấy rầy, rối loạn PED tr. 614) thay vì chữ nikkhepaṃ* (đặt xuống, bỏ, PED 353). 29 Quyển NeII 217,14: đọc vā * (hay là, hoặc là) thay cho chữ ca * (cũng nhƣ; và... PED 258). Và đoạn sau đó cũng viết nhƣ vậy. 56 Ở Magadha luận có tính quyết định bây giờ sẽ xảy ra.‖30 Nhƣng nếu tất cả họ đều ngƣng cùng một lúc, đây đƣợc gọi là ―đứng lên trong đoàn kết.‖ Hơn nữa, khi nghe rằng làng này, thị trấn kia ở vùng nào đó mất an ninh trật tự, hay bọn cƣớp nổi lên, nếu khi đƣợc hỏi, ―Ai sẽ đi tiêu diệt kẻ thù?‖, họ đều bƣớc ra, nói rằng: ―Tôi trƣớc, tôi trƣớc,‖ một lần nữa điều đó đƣợc nói rằng ―Họ đứng lên trong đoàn kết.‖ Nếu công việc của ai đó thất bại, các vua31 còn lại phái anh em và con trai của họ đến giúp đỡ ngƣời ấy; và nếu khi vua nào đấy [nhƣ là khách] đến thăm, họ không chỉ vua ấy đến nhà này nhà kia, nhƣng tất cả các vua cùng nhau tiếp đãi; và nếu có ai có dịp ăn mừng, hay lúc bịnh hoạn, hay vào dịp vui buồn khác xảy ra, họ đều cùng nhau chia xẻ, nên đƣợc gọi là ―Người Vajji làm việc với nhau trong đoàn kết.‖ Luật lệ nào chưa được ban hành (appaññattaṃ) và vân vân: nếu họ đặt ra một thứ thuế cầu đƣờng32 hay một sắc thuế33 hay một khoản tiền phạt chƣa đƣợc đƣa ra trƣớc đó, đây đƣợc gọi là ―Họ ban hành điều luật chưa được ban hành.‖ Nhƣng nếu họ thu thuế đã đƣợc ban hành theo truyền thống từ xƣa, điều này 30 B, C thêm na trƣớc chữ sutā nên có thể dịch khác là: ―Chúng ta đã nghe chuyện không thích đáng từ bên ngoài: bây giờ sự bàn luận có tính quyết định sẽ không xảy ra.‖ 31 Mp IV 10 và SS bỏ chữ ―các vua.‖ 32 Thuế cầu đƣờng (suṅka) có nghĩa là phần thuế thu bằng hàng hóa do các khách thƣơng phải nộp cho quan địa phƣơng ở chỗ đồi núi, ven sông hay cổng làng (Sv-pṭ II 160,6). 33 Thuế (bali) ngụ ý chia nộp một phần (sáu, một phần bảy) sản lƣợng vụ mùa nhƣ bắp ngô (Sv-pṭ II 160,8). Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 57 đƣợc gọi là ―Họ không hủy bỏ điều luật đã được ban hành.‖34 Khi bắt một ngƣời coi là kẻ trộm và đƣa ngƣời ấy [ra tòa], nếu họ ra lệnh tra tấn hay phân thây35 không cần hỏi cung, điều đó đƣợc gọi là: ―Họ không hành xử đúng với luật lệ cổ truyền của ngƣời Vajji‖. Khi họ ban hành điều luật chƣa đƣợc ban hành, dân chúng khó chịu vì những áp đặt nhƣ các tiền thuế mới nói là: ―Chúng ta bị áp bức quá nhiều. Ai thèm ở lại vƣơng quốc này?‖; họ sẽ đi đến vùng biên giới, trở thành thảo khấu hay làm bạn với thảo khấu, và mở ra những cuộc tấn công trên đất nƣớc.36 Khi họ hủy bỏ điều luật đã đƣợc ban hành, nếu họ không thu37 các khoản thuế có từ xƣa, ngân khố sẽ giảm xuống. Rồi voi ngựa và lực lƣợng quân binh và các bà thê thiếp không đƣợc tiền cấp dƣỡng định kỳ và nhƣ vậy giảm đi sức mạnh và hăng hái. Rồi họ trở nên 34 B, C viết là: ―Nhƣng nếu họ không thu thuế đã có từ xƣa, điều này đƣợc gọi là ‗Họ hủy bỏ điều luật đã đƣợc ban hành (thiết lập)‘.‖ 35 Mp IV 11,2 viết là bhejjabhejjaṃ* (bhejja: bị chia cắt, tách rời PED p. 508) thay vì chữ chejja*-bhejjaṃ* (chejja: đáng bị trừng phạt bằng cách tra tấn và chặt tứ chi, thƣờng đi với bhejja. Đọc PED p. 276). 36 Tổ chức theo lãnh thổ của quốc gia thƣờng đƣợc miêu tả là gồm có làng (gāma), thị trấn thƣơng mại (nigama), miền quê (janapada), thành phố (nagara) và biên giới (paccanta). Sự an ninh vùng biên giới luôn là vấn đề quan tâm vì thƣờng loạn lạc (Gokhale, tr. 125). 37 Sửa agaṇhataṃ thành agaṇhantānaṃ* theo quyển NeII 218,11. * từ chữ agaṇhanta: không nắm lấy. Đọc PTC I, tr. 16. 58 Ở Magadha không thể chiến đấu và phục vụ đồng loại. Nếu họ không cƣ xử đúng với luật cổ truyền của ngƣời Vajji, ngƣời trong vƣơng quốc sẽ nói, ―Cho dù con trai hay cha hay anh em trai ta không phải là thảo khấu, nhƣng họ gọi ngƣời ấy [519] là thảo khấu và họ cắt da xẻo thịt và phân thây ngƣời ấy.‖ Trong cơn giận, họ di dân đến vùng biên giới, trở thành thảo khấu hay làm bạn với thảo khấu, và mở ra những cuộc tấn công trên đất nƣớc. Theo cách này, các vua phải chịu tổn thất. Nhƣng khi họ không ban hành những gì chƣa đƣợc thiết lập, họ nghĩ rằng: ―Các vua của chúng ta chỉ thi hành những truyền thống‖, ngƣời dân, vui mừng và thỏa mãn, làm những việc nhƣ nghề nông hay buôn bán. Vì họ không hủy bỏ điều luật đã đƣợc ban hành, thu các khoản thuế có từ xƣa... nên ngân khố gia tăng. Rồi voi ngựa và lực lƣợng binh đội và các bà thê thiếp đƣợc tiền cấp dƣỡng định kỳ và nhƣ vậy họ hoàn toàn khỏe mạnh và hăng say, và có thể chiến đấu và săn sóc chồng con mình. Truyền thống lâu đời của người Vajji (porāṇaṃ Vajji-dhammam): 38 Ngƣời ta nói, khi ngƣời bị nghi là ăn trộm đƣợc đƣa ra trƣớc các vua tiền nhiệm của Vajji, họ thƣờng giao cho phán quan (vinicchaya mahāmattā) nhƣng không nói là ―Giải kẻ trộm đi.‖ Sau 38 ―Thật khó mà phán xét nhận định của chú giải về hệ thống tố tụng trong thực tế của tòa án trong cộng hòa Licchavi chính xác ra sao, nhƣng hình ảnh về tinh thần dân chủ không thể chối cãi đƣợc do ngài Buddhaghosa tạo nên phù hợp trọn vẹn với cơ cấu tổ chức chính trị của những đơn vị này‖ (Bongard Levin, tr. 93). Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 59 khi điều tra hắn xong, nếu ngƣời ấy không phải là tên trộm, họ thả hắn ra. Nhƣng nếu hắn bị xét là ăn trộm, họ sẽ giải giao hắn cho chuyên viên hình luật (vohārikā), tự họ không nói 39 lời gì cả. Và cũng những ngƣời đó, khi đã điều tra hắn, nếu ngƣời ấy không phải là tên trộm, họ thả hắn ra. Nhƣng nếu hắn bị xét là ăn trộm, họ sẽ giải giao hắn cho những chuyên viên rành rẽ về truyền thống (suttadharā).40 Lại nữa, sau khi điều tra hắn xong, nếu thấy ngƣời ấy không phải là tên trộm, họ sẽ thả hắn ra. Nhƣng nếu hắn bị xét là ăn trộm, họ sẽ giải giao hắn cho [ủy ban tƣ pháp gồm] tám bộ tộc danh giá liêm chính (aṭṭha kulikā).41 Và rồi họ sẽ điều tra hắn và sẽ giải giao hắn 39 SS viết là akatvā (―không làm gì bị can cả‖) thay vì chữ avatvā* (không nói gì cả). 40 B viết là antokārokā thay vì chữ suttadharā, ngƣời duy trì sūtra* hay là ngƣời giữ sợi dây giềng mối luật pháp hay tập tục hiện có từ ngàn xƣa (Law 1922, tr. 121). Suttadharā là ngƣời thành thạo về những nguyên tắc chung trong việc ra quyết định (Sv-pṭ II 160,21). Chúng ta không biết chính xác antokārokā** là gì, nhƣng YGA đoán nó có nghĩa là một cơ quan nhƣ Bộ Nội Vụ hay Ủy Ban Nội Vụ. * Nói về kinh điển, suttadharo là ngƣời tinh thông kinh điển. Ngoài nghĩa sợi dây và kinh điển ra, sutta c n có nghĩa luật lệ nhƣ Law đã nói trên. Đọc Robert Caesar Childers, DPL, tr. 491. ** anto: nội bộ, kārokā: vụ việc; antokārokā = nội vụ. 41 Cái tên aṭṭhakulikā đã đƣợc giải thích là đƣa ra tổng số tám bộ tộc lập thành thể chế liên bang và ngƣời ta nói rằng trên nền tảng đó, thể chế liên bang ấy gồm có tám bộ tộc hợp lại (Rhys Davids, 1903, tr. 25). Theo Sv-pṭ II 161, đây là tám nhân vật quan trọng xuất thân từ tám gia đình theo tập quán cổ truyền và tự kềm chế không áp dụng những phƣơng thức 60 Ở Magadha cho một ông tƣớng (senāpati), rồi ông tƣớng giao hắn cho phó vƣơng (uparāja), rồi phó vƣơng giao cho vua (rāja).42 Khi vua này điều tra xong, nếu thấy hắn không phải là tên trộm, vua sẽ thả hắn ra. Nhƣng nếu hắn bị xét là ăn trộm, vua ấy đọc Quyển Án Lệ (paveṇi potthaka).43 Trong quyển đó, câu ―hình phạt nhƣ vậy nhƣ vậy dành cho ngƣời đã phạm tội nhƣ vậy nhƣ vậy‖ đã đƣợc viết ra. Nhà vua ấy44 đối chiếu việc làm sai phạm của hắn với việc làm ghi trong sách mà ấn định45 hình phạt46 thích hợp. xử án sai. Nhƣng Mishra (1962, tr. 103f. ) lại có ý kiến khác: ―Vì địa vị ƣu thế của những ngƣời Licchavi trong thể chế dân chủ, họ có thể có nhiều đại diện hơn trong t a án đã nói đến ấy, nếu có việc bổ nhiệm đƣợc thực hiện trên nền tảng bộ tộc, ta không tìm thấy chứng cứ nào cả.‖ Oskar von Hinüber (1995, tr. 33) hiểu aṭṭhakulika diễn tả giống nhƣ kula* (dòng giống) hay pañcakula* (năm gia đình có danh thơm, tiếng tốt) trong Dharmaśāstras, và phần đầu của danh từ tổng hợp này là aṭṭa (―vụ án‖) hơn là aṭṭha (―tám‖). Tuy nhiên, ông ta nói rằng nghĩa của aṭṭakulika lờ mờ khó hiểu. 42 Hiển nhiên vị vua ở đây là ngƣời có thẩm quyền cao nhất trong bộ tƣ pháp hình sự, khác với các vua bình thƣờng dựng nên hội đồng nhân dân (Law 1922, tr. 326). 43 ―Việc Buddhaghosa kể lại Quyển Án Lệ này hẳn là để chỉ cho thấy rõ thời ấy hệ thống khởi tố ở tòa án và guồng máy nói chung đã phát triển đến cao độ‖ (Bongard-Levin, tr. 94). Quyển Án Lệ của vua Udaya I (812-28) đƣợc nói tới ở Mhv XLIX, 20. 44 Thay vì là rājā (sg. số ít), Mp IV 11.23 viết là rājāno (pl. số nhiều), hình nhƣ đúng vì ngƣời Vajji không phải là quân chủ. 45 Mp IV 12,1 viết là pavattayanti * (từ chữ pavattati: mang lại, tồn tại) thay vì chữ karoti. 46 Nhà vua cũng có thể sửa lại các phán quyết sai lầm (Thūp 236, 10ff ). Mp IV 11f đƣa ra một thủ tục tố tụng khác: ―Bản Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 61 Thực ra theo cách này, dân chúng không bực bội vì những ngƣời thi hành đúng theo tập quán cổ truyền của ngƣời Vajji, và các vua làm nhiệm vụ47 của họ đúng theo tập quán cổ truyền. Vì họ tin rằng đây không phải là lỗi của [ngƣời cai trị] họ, mà là lỗi của riêng mình, nên họ cần cù làm việc của mình. Nhƣ vậy các vua hƣởng sự thịnh vƣợng. Nên kinh nói: ―Ānanda, chỉ có sự cường thịnh, chứ không phải suy vong, là chuyện đương nhiên sẽ xảy đến cho người Vajji.‖ Họ thực sự tôn kính (sakkaronti): Bày tỏ bất cứ tôn kính nào với ai, họ làm một cách long trọng. Họ coi ai là quan trọng (garukaronti): Họ coi ai là quan trọng và cƣ xử đúng nhƣ vậy. Họ sùng kính (mānenti, thân các vua đã phán xử theo tập truyền, đã đích thân điều tra (parikkhitvā), chung quanh có các aṭṭhakulika, có tƣớng, có phó vƣơng, đã chiếu theo Quyển Án Lệ và đã trừng phạt thích đáng.‖ Oskar von Hinüber (1995, tr. 34) giả định là thủ tục này ―gần gũi hơn với bằng chứng trong Dharmaśāstras và có lẽ cũng gần hơn trong thực tế. Chú giải quyển Dīgha nikāya có thể có ý định chứng minh là luật lệ trong thời kỳ trƣớc đã đƣợc thi hành cẩn thận hơn rất nhiều và, dĩ nhiên, tốt đẹp hơn sự thi hành luật lệ trong thời Luận sƣ nhƣ thế nào‖. C n chuyện mô tả về việc nghe xử án có hơi khác một chút, xin đọc Ps II 252. 47 SS bỏ chỗ này; B viết là kammaṃ thay vì dhammaṃ. Trong mạch văn này dhammaṃ muốn nói tới truyền thống bà la môn gọi là sva-dharma, nhiệm vụ của một vai trò hay của địa vị của ai. 62 Ở Magadha đảnh lễ): Họ đề cao giá trị trong tâm ý (mana) họ. Họ đảnh lễ (pūjenti): Họ bày tỏ thái độ khiêm nhƣờng.48 Họ cho rằng họ nên lắng nghe (sotabbaṃ maññanti): Hai hay ba lần một ngày, họ đến thăm các vị vua lớn tuổi nhất và cho rằng lời nói của các vị này đáng đƣợc lắng nghe và đáng đƣợc tin cậy. Những ai không kính trọng nhƣ vậy và lắng nghe các vị vua lớn tuổi nhất và không đến viếng họ để lấy lời khuyên nhủ, sẽ bị [các vị lớn tuổi này] bỏ rơi và không đƣợc ban cho lời khuyên;49 mải vui, họ đánh mất vƣơng quyền. Nhƣng với những ai kính trọng, viếng thăm, lắng nghe nhƣ vậy các vị vua lớn tuổi nhất giải thích truyền thống lâu đời về điều nên làm và [520] không nên làm; họ c n đến tận nơi trận mạc, chỉ bày chiến thuật khi đụng độ: ―Đây là cách tiến vào nhƣ thế nào, đây là cách rút lui ra sao.‖ Nhờ nghe theo và làm theo lời khuyên, kết quả là họ mở rộng dòng dõi dòng tộc hoàng gia. Nên nói: ―Ānanda, chỉ có sự cường thịnh, chứ không phải suy vong, là chuyện đương nhiên sẽ xảy đến cho người Vajji.‖ Các người vợ thuộc gia đình danh giá (kul‘itthiyo) có nghĩa là các bà nội trợ thuộc gia đình danh giá. Các cô gái thuộc gia đình danh giá (kula-kumāriyo) có nghĩa là các cô chƣa lập50 [gia đình], các cô con gái của họ. Sau khi đã lôi kéo (okkassa), sau khi đã 48 Mp IV 12,9 đƣa ra một định nghĩa khác: ―Họ sẽ đảnh lễ với vật dụng.‖ 49 Mp IV 12,15 thêm chữ atthe (―về điều lợi lạc‖). 50 B, C viết là anividdhā (―không bị đập phá‖, ―không bị thƣơng‖) thay vì chữ anivitthā. Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 63 dùng sức (pasayha): trong kinh văn chữ ―sau khi đã lôi kéo‖ hay ―sau khi đã dùng sức‖ là tên cho việc dùng bạo lực. Họ cũng viết51 ukkassa 52 thay vì chữ okkassa. Trong kinh văn chữ sau khi đã lôi kéo (okkassa, bắt cóc) có nghĩa ―sau khi đã lôi đi‖53 hay ―sau khi đã kéo lê‖. Chữ sau khi đã dùng sức (pasayha, cưỡng ép) có nghĩa là ―sau khi đã chinh phục‖ hay ―sau khi đã áp đảo.‖ Vì nếu họ làm chuyện này, ngƣời dân trong vƣơng quốc nổi giận với họ và nghĩ rằng: ―Các ông vua này dùng vũ lực dẫn đi và bắt mẹ của con cái chúng ta54 và các cô con gái đã nuôi dƣỡng sống chung trong nhà của họ, từng lau chùi nƣớc dãi và nƣớc mũi trên mặt chúng nó.‖ 55 Trong tức giận, họ đi đến vùng biên giới, trở thành thảo khấu hay làm bạn với thảo khấu, và mở ra những cuộc tấn công trên đất nƣớc. Nhƣng nếu các ông vua không làm thế, dân chúng trong vƣơng quốc, 51 SS viết là payanti thay vì chữ paṭhanti * (từ chữ paṭhati: viết, kể. Đọc Childers, DPL tr. 357). 52 Mp IV 12,26 và SS viết là okāsā thay vì chữ ukkassa. Theo chữ okāsā câu này có nghĩa là ―Họ rút đi‖ dịch sát: ―họ cũng từ nơi ấy đi ra‖. 53 B viết là avakassetvā thay vì chữ avakasitvā (sau khi đã kéo đi). 54 Mp IV 13,3-4 viết là putta-bhātaro* thay vì chữ putta mātaro*: ∙ putta-bhātaro (pl.): rút từ chữ bhātā (m.) anh em trai, anh em cả trai lẫn gái. Đọc Childers, DPL tr. 84. ∙ putta-mātaro (f.): từ chữ mātā, mātu: mẹ, bà ngoại. Đọc Childers, DPL tr. 242; 245. 55 Đây là lời ngƣời mẹ thƣờng diễn tả về sự chăm sóc cho con của mình (RFG). 64 Ở Magadha sống thoải mái dễ chịu và làm việc của mình, làm cho ngân khố hoàng gia tăng lên. Sự cƣờng thịnh và suy vong nên đƣợc hiểu theo cách này. [MC 75A] Các tự miếu Vajji của người Vajji (Vajjīnaṃ Vajji-cetiyāni): nơi các vong linh (yakkha) của các vua Vajji trong vƣơng quốc ngƣời Vajji đƣợc gọi là cetiya (tự miếu)56 theo nghĩa ―đƣợc tạo nên từ sự tôn kính (citti).‖ Những cái ở trong (abbhantarāni) có nghĩa là những cái nằm trong tỉnh thành. Những cái ở ngoài (bāhirāni) có nghĩa là những cái nằm ngoài tỉnh thành.57 Cái gì đã cúng dường trước đây (dinna pubbaṃ; YGA viết là dinna-pubban, trang 12) có nghĩa là cái gì đã đƣợc cúng dƣờng trƣớc đây.58 Cái gì đã 56 Đây là đền đài có trƣớc khi Phật giáo xuất hiện. Rhys Davids giả thiết là thoạt tiên các cetiya là từ những cây và mồ mả. Nhƣng vì chƣa có khai quật ở Vesāli nên ý kiến này không chắc chắn lắm. Ngƣời Anglo-Indian (ngƣời Anh sống ở Ấn) dùng chữ Chetiya tƣơng đƣơng với chùa (temple) là hoàn toàn sai (Dial II 110, n.2). Tôi dịch nguyên vẹn chú thích này. 57 Vài tự miếu đƣợc đề cập trong DN iii 9, DN ii 102, SN v 260, AN iv 309: Cāpāla gần Vesāli, Udena (về hƣớng đông của Vesāli), Sattamba (về hƣớng tây thành phố), Gotamaka (về hƣớng nam thành phố), Bahuputta (về hƣớng bắc thành phố). 58 Đây là sự phân tích về chữ kép, đó là một karmadhāraya,* bởi vì vị trí bất thƣờng của chữ pubba. * Karmadhāraya, là chữ kép, chữ trƣớc mô tả, xác định hay bổ túc nghĩa của chữ thứ hai. Đọc Steven Collins, PGS, Silkworm Books, Chiang Mai, 2006, tr. 132. Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 65 làm trước đây (kata-pubbaṃ; YGA viết là kata pubban trang 12) có nghĩa là điều đã làm trƣớc đây.59 Họ sẽ không bỏ phế: Không bỏ phế nó, họ sẽ làm nó đúng nhƣ nó đã từng xảy ra. Vì nếu họ bỏ phế các buổi cúng lễ, các chƣ thiên (devatā)60 không thể thu xếp việc che chở cho phù hợp đƣợc. Cho dù họ không thể61 tạo ra khổ sở62 chƣa đến, họ có thể làm nặng thêm những gì đã xảy ra nhƣ ho, nhức đầu. Khi trận chiến bùng nổ, họ sẽ không giúp đỡ. Nhƣng nếu họ không bỏ phế nó, các chƣ thiên có thể thu xếp việc che chở cho 59 Đây là sự phân tích khác về chữ kép, đó là một karmadhāraya. Mp IV 13,14 cùng lúc coi ―cái gì đã cúng dường trước đây, điều đã làm trước đây có nghĩa là cái gì không những đã cúng dƣờng mà c n làm trƣớc đây.‖ 60 Devatā (chƣ thiên) có nghĩa là bất cứ sanh linh nào đƣợc thờ cúng hay ai đƣợc vật cúng dƣờng hay một vật phẩm đƣợc dâng tặng. Theo Cullaniddesa, số 308 (Nidd II trang 173f.), nó gồm có 5 nhóm, mỗi nhóm có 5 loại, nghĩa là: (1) đạo sĩ, (2) gia súc (voi, ngựa, bò, gà trống, quạ) (3) các năng lực vật chất và các nguyên tố (nhƣ lửa, đá, vân vân) (4) chƣ thiên bậc thấp (bhumma devā), đó là: nāgā, supaṇṇā (chim thần), yakkhā (quỷ), asurā (a tu la), gandhabbā* (càn thát bà hay nhạc sĩ ở cung trời Cātummahārājika, đọc Childers, DPL trang 141). (5) chƣ thiên bậc cao [sanh linh ở cõi gọi là devaloka (phạm thiên) hay nói cách khác: Mahārājā, Canda, Surija, Inda, Brahmā ] (PED, trang 330). 61 Mp IV 13,18 viết là asakkontiyo thay vì chữ asakkontā.* (không thể). Và đoạn sau cũng viết nhƣ vậy. 62 Mp IV 13,17 viết là sukhaṃ thay vì chữ dukkhaṃ. SS bỏ chữ dukkhaṃ, chữ này liệt kê ở đây chứng bệnh và tất cả tình trạng đau đớn của cơ thể. 66 Ở Magadha phù hợp đƣợc. Cho dù họ không thể tạo nên niềm vui chƣa đến, họ có thể lấy đi 63 những gì đã xảy ra nhƣ ho, nhức đầu. Họ giúp đỡ ở tiền tuyến. Sự cƣờng thịnh và suy vong ở đây nên đƣợc hiểu theo cách này. Bảo vệ, trông chừng và canh phòng đúng cách (dhammikaṃ rakkhāvaraṇa-guttiṃ):64 Ở đây, bảo vệ (rakkhā) là trông chừng điều không muốn xảy đến đƣợc gọi là trông chừng (āvaraṇa) và canh phòng điều ƣớc nguyện tránh khỏi sự hủy hoại đƣợc gọi là canh phòng (gutti). Trong mạch văn ấy, trông chừng các vị từ bỏ đời sống thế tục bằng cách ở quanh họ bằng một đoàn ngƣời đƣợc65 gọi là ―[521] Bảo vệ, ngăn ngừa và canh phòng đúng cách.‖ Cũng những chữ ấy dùng cho việc bảo đảm chắc chắn là ngƣời ta không chặt cây trong khuôn viên chùa, hay không rẽ nƣớc từ bể chứa,66 hay không bắt cá trong các hồ sen. 63 B viết là hananti (―phá hủy‖, ―đánh‖) thay cho chữ haranti. 64 Trong MPS tập ngữ này chỉ xuất hiện ở chủ cách, nhƣng ở đây nó ở đối cách. Khi đƣợc giải nghĩa theo thể chủ cách, ta nên sửa tựa đề này thành dhammikā... guttī nhƣ đã dùng ở Ne II 220,21. 65 Mp IV 13,28 và B, C thêm chữ phủ định na. Câu văn có nghe hay hơn vì đọc theo thể xác định hay phủ định còn tùy vào nhóm ngƣời ở quanh các vị từ bỏ đời sống thế tục với ngụ ý gì. 66 Sớ giải (Sv-pṭ 161,20) định nghĩa vājika là thợ săn mang chó, v. v. theo để giết nai, heo, v. v., phỏng đoán là chữ vājika rút ra từ vāja (―sức,‖ ―lông chim ở mũi tên‖). Thay vì chữ vajjaṃ B đọc là vajjhaṃ (―bị giết‖, ―đối tƣợng bị hành hình‖). (Theo trò truyện riêng với) K. R. Norman thích dịch là: ―xạ thủ không làm chuyện sát sanh.‖ Tuy nhiên, B, G đọc là vāpikā (―hồ ao‖) đúng nghĩa hơn. Nên chúng ta đọc là vāpikāvajjaṃ Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 67 Để cho những người chưa đến (kin ti67 anāgatā ca): Theo cách này, Thế Tôn hỏi về tâm trạng của họ: ―Có phải lộ trình tâm hiện tại của họ là nhƣ vậy?‖68 Về việc này, ai không ƣớc mong các vị Arahant nào chƣa đến sẽ đến họ là kẻ không có niềm tin, không tin cậy. Khi ngƣời không màng tới thế tục đến, họ không đứng dậy chào đón các vị này, họ không đi gặp các vị này, họ không tiếp đãi nồng nhiệt các vị này; họ không hỏi các vị này; họ không lắng nghe các vị này giảng; họ không cúng dƣờng các vị này bất cứ cái gì; họ không lắng nghe các vị này chúc lành; và họ không thu xếp chỗ ở69 cho các vị này. Kết quả là, các vua mang tiếng xấu:70 ―Ông vua nào đó không có niềm tin, không tin cậy. Khi ngƣời xuất gia đến, họ không chào đón ... [nhƣ trên] ... họ không thu xếp chỗ ở.‖ Sau khi nghe nhƣ vậy, các vị xuất gia không đến cổng thành, hay nếu có đến, họ không đi thay cho chữ vāpikā vajjaṃ. S đọc vājaṃ. Mp IV 13,29 đọc là vāpikā vāpaṃ. NeII, 221 đƣa ra cách viết khác: ―họ không bắt nai bằng lƣới‖ (vāgurāhi migaṃ na gaṇhanti). 67 Mp IV 14,3 định nghĩa nó là ―vì lý do gì‖ (kena nu kho kāraṇena). 68 Mp IV 14,3 bỏ câu này. 69 SS viết là vāsanaṭṭhānaṃ thay vì chữ nivāsanaṭṭhānaṃ. 70 Thay vì viết abbhuggacchati,* Mp IV 14,9 viết là uggacchati* và SS viết là upagacchati *. Dịch nghĩa đen là: ―Tiếng xấu về họ lan ra.‖ ∙ abbhuggacchati: xuất ra, truyền ra ngoài, khởi lên biến thành... (đọc PED p. 60). ∙ uggacchati: (mặt trời) mọc, dậy và ra khỏi (đọc PED p. 126). ∙ upagacchati: đến đƣợc, đắc đƣợc, đạt đƣợc (đọc PED p. 148). 68 Ở Magadha vào trong.71 Nên vị Arahant chƣa đến sẽ không đến nữa.72 Nhƣng nếu không có chỗ ở thoải mái cho ngƣời mới đến, những ngƣời vì không biết đã đến rồi, nghĩ rằng sẽ ở lại, nhƣng về sau nhận ra rằng: ―Cho dù mình đã tới đây, nhƣng ai sẽ ở lại khi các vị vua này [cƣ xử] nhƣ vậy?‖ nên các vị này bỏ đi. Vì vậy, khi những ngƣời chƣa đến không đến, hay những ngƣời đã đến sống không thoải mái, vùng đó73 trở thành nơi các đạo sĩ không ở. Rồi chƣ thiên không hộ trì vùng này, ma quỷ... (amanussā) có cơ hội lộng hành. Chúng nhanh chóng sinh sôi nẩy nở và làm phát sanh những chứng bệnh mới. Vậy thì chả có công đức gì thu nhận đƣợc từ những việc nhƣ thăm viếng, hỏi các vị đạo hạnh này những câu hỏi. Nhƣng mặt khác, nếu chúng ta đảo ngƣợc các lời trên, thì bề mặt sáng sủa74 của vấn đề, cái mặt ngƣợc với mặt tối của vấn đề nêu trên, thực sự xảy ra. Sự cƣờng thịnh và suy vong nên đƣợc hiểu ở đây theo cách này. 5. [MC 75B] Một lần ở đây Ta (ekaṃ idāhaṃ*): Thế Tôn nói câu này để giải thích là trƣớc đây Ngài đã 71 Mp IV 14,12-13 viết là: ―Sau khi nghe nhƣ vậy, các vị đạo sĩ không đến cổng thành, hay nếu có đến, họ không đi vào trong thành.‖ 72 Mp IV 14,14 viết anāgamanam thay vì chữ anāgatam. 73 Mp IV 14,17 viết doso thay vì chữ deso. 74 Thay vì chữ sukkha, viết là sukha-, vốn phản nghĩa với kaṇha (Mp IV 14,22-23). Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 69 dạy ngƣời Vajji 75 [lời khuyên] này có liên quan đến họ. Trong kinh, tại tự miếu Sārandada (Sārandadacetiye)76 nghĩa là tại nơi có mang tên đó. Họ nói trƣớc khi đức Phật đản sanh, thƣờng có một tự miếu nơi Yakkha Sārandada trú ngụ. Rồi họ xây ở đó một tịnh xá cho Thế Tôn. Vì tịnh xá ấy đƣợc xây tại tự miếu Sārandada, nên nó đƣợc biết đến là tự miếu77 của Sārandada.‖ 78 * YGA viết là idāhan, trang 15. Họ sẽ không bị bại (akaraṇīya)79 có nghĩa là ―họ sẽ không bị chinh phục‖ (akattabba) hay ―họ sẽ không bị bắt.‖ [522] Đó là (yadidaṃ) chỉ là một chữ bất biến chả có nghĩa gì quan trọng cả. Ở chiến trận (yuddhassa): Đây là danh từ thuộc sở hữu cách nhƣng mang ý nghĩa của phƣơng tiện cách. Nghĩa là họ không thể bị bắt vì tấn công ngoài mặt trận.80 75 Lời dạy đề cập ở đây đƣợc trình bầy đầy đủ ở AN iv 16f. 76 B viết là Sārantare cetiye thay vì chữ Sārandada-cetiye. 77 Cùng lời chú giải đƣợc đƣa ra ở Mp IV 9,6-10. Cf. Ud-a 323. 78 B viết là Sārantara thay vì chữ Sārandada. 79 Karaṇīya (―cần phải vƣợt qua‖) nghĩa đen là ―cần phải làm‖, nhƣng chữ này hiển nhiên có ý nghĩa tƣơng tự với ―đã làm xong‖ thỉnh thoảng gặp trong tiếng Anh nói chuyện hàng ngày (Dial II 81, n. 1). 80 Trái lại, kinh điển của đạo Jain mô tả một cuộc chiến lâu dài và gian khổ. Nhiều anh em của Ajātasattu bị giết chết trong buổi đầu giao tranh với dân Vajji. Trong hai trận đánh lớn, Ajātasattu dùng hai loại vũ khí rất hiệu nghiệm là máy bắn đá lớn và thớt gỗ chặn xe ngựa gây nhiều chết chóc. Liên bang của các bộ lạc tan rã và Vaiśālī sụp đổ. Xem chi tiết trong Mishra 1962, trang 261-62. 70 Ở Magadha Trừ phi dùng ngoại giao (aññatra upalāpanāya)81 nghĩa là ngoại trừ phƣơng cách ngoại giao. Cái đƣợc gọi là ngoại giao nghĩa là: chẳng hạn, ―Chúng ta hãy ngƣng công kích, hãy đạt thỏa thuận‖, họ hòa giải với nhau bằng cách cho voi, ngựa, cỗ xe ngựa, vàng và v. v. để rồi sau khi hòa giải, chỉ dùng lòng tin cậy không thôi, họ có thể đánh bại chúng. Trừ phi phá hủy tình đoàn kết của họ (aññatra mithu 82-bhedāya) nghĩa là 81 Thuật ngữ chính trị upalāpana liên quan đến việc dùng tiền để thuyết phục các thành viên trong liên bang của phe đối lập bằng cách hối lộ (Johnston 1931, trang 572-74; Dial II 81, n. 1). Rhys Davids cho rằng gốc của chữ này là lī (―bám níu‖) (Dial II 81, n. 1). Nhƣng theo PED (trang 146), gốc của nó là lap (―nói chuyện‖). Johnston (1931, trang 574f ) cho rằng ―thuật ngữ ấy bắt nguồn từ lī có nghĩa là khiến cho quay trở lại nghĩ về mình và vì vậy, có nghĩa là dụ dỗ. Maurice Walshe dịch là tuyên truyền (sđd tr. 232) vā nói rằng theo Rhys Davids, chữ upalāpana phải có nghĩa là thủ đoạn lừa bịp, dụ dỗ, ngoại giao (sđd trang 568). Theo Margaret Cone, chữ này rút từ chữ upalāpeti có nghĩa là thuyết phục, mua chuộc [upalāpanāya, D ii 76,4], đọc DP I trang 470. 82 Mith theo tiếng Sanskrit của Veda có nghĩa là ―đối lập với nhau‖, trong khi theo Veda, ý nghĩa thông dụng của mithuna là ―một đôi‖. Theo PED, mithu có nghĩa là ―đối lập‖, nhƣng TS Margaret Cone nói rằng nó chỉ có nghĩa là ―hỗ tƣơng‖. Bheda là thuật ngữ chính trị Sanskrit nổi tiếng, có nghĩa là gây bất hòa giữa đám kẻ thù, đặc biệt là khi kẻ thù ấy gồm có các nhóm liên minh với nhau hay một vị vua và các chƣ hầu của vua ấy...‖; chữ mithu: ∙ không nên đƣợc giải thích bằng tiếng mithu* của Veda: có nghĩa là có thể lựa chọn, một cách lệch lạc, giả dối, sai lầm. Đọc Monier-Williams Sanskrit-English Dictionary. ∙ nhƣng bằng mithaḥ* tiếng Sanskrit: mithah = mithas = một cách hỗ tƣơng, qua lại, có thể hoán thế, đến hay từ hay lẫn nhau (Johnston 1931, trang 573). Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 71 ngoại trừ việc phá hủy tình đoàn kết. Qua lời này, vị Bà la môn chỉ cho thấy rằng họ cũng có thể bị đánh bại bằng cách gây chia rẽ nội bộ. Sau khi suy luận lời của Thế Tôn, vị tể tƣớng Bà la môn này đã nói thế. Nhƣng Thế Tôn có biết vị Bà la môn này sẽ suy luận lời nói của mình không? Phải, Ngài biết.83 Nếu biết, tại sao Ngài nói ra? Vì lòng từ bi.84 Ngài phỏng đoán nhƣ vầy: ―Nếu Ta không nói, chỉ trong vài ngày, nhà vua sẽ ra 83 Hầu hết các ấn bản Trung Hoa (Po 160c, Un 167b, Mu 383a, Yo 11b) bỏ việc có thật là đức Phật cho phép vị bà la môn rút ra suy luận này, cho dù Ngài không hề có ý định giúp đỡ tham vọng của Ajātasattu. Các ấn bản Trung Hoa khiến ngƣời đọc tin là đức Phật ngăn chận chiến tranh: Ngài không chịu trách nhiệm về cuộc chiến này nhƣng Ngài đã chỉ cho thấy sự khéo léo của mình. YGA cho rằng chuyện kể theo hai lối khác nhau vì lý do nhƣ sau: (1) Các dịch giả Trung Hoa cố tình loại bỏ đoạn này vì lý do đã nói trên hay họ không biết cuộc chiến giữa hai bên đã thực sự xảy ra sau khi vị bà la môn thăm viếng Đức Phật; (2) vì biết sự thực lịch sử này, học phái Pāḷi buộc phải nhắc đến. 84 Thắc mắc không mới mẻ gì của YGA là tại sao Đức Phật không báo cho Vajji họ biết trƣớc những nguy cơ đe dọa đến từ kẻ thù của họ? Nếu báo cho họ biết, ngƣời Vajji lúc ấy đang hùng mạnh, họ có thể ra tay trƣớc, ―họ có thể nổi lên đánh cƣớp xứ Magadha và nhƣ vậy đức Phật gián tiếp chịu trách nhiệm về sự mất nƣớc của xứ Magadha‖ (Minh Châu, trang II Đại Ý Kinh Đại Bát Niết Bàn). Theo giải thích của Buddhaghosa, Đức Phật chỉ muốn đình hoãn cuộc chiến trong ba năm để ngƣời Vajji tự tạo công đức tránh chiến tranh, tự cứu mình. Hình nhƣ lời chú giải của Buddhaghosa dựa trên quả hơn là dựa trên hoàn cảnh của Đức Phật. Cách giữ im lặng của Đức Phật trong trƣờng hợp này khác với vai trò tích cực của Ngài trong vụ xung đột giữa hai bộ tộc Sakya và Koliya (Ja V 412ff., Sv II 672ff., Dhp-a III 254ff. ). 72 Ở Magadha quân và bắt hết ngƣời Vajji. Nhƣng nếu Ta nói, nhà vua phải mất ba năm mới phá vỡ đƣợc sự đoàn kết và mới đánh bại đƣợc họ. Dù quãng thời gian này ngắn ngủi nhƣ vậy nhƣng vẫn quan trọng; vì trong thời gian này mỗi ngƣời Vajji sẽ tích đức làm nền tảng để tự85 cứu mình.‖ Sau khi hoan hỉ (abhinanditvā) có nghĩa là sau khi hoan hỉ trong tâm. Sau khi thấm thía (anumoditvā, tán thán) có nghĩa là sau khi thấm thía ý nghĩa hàm xúc lời của Thế Tôn bằng cách nói rằng: ―Điều này Tôn giả Gotama đã khéo nói thay.‖ Ông ta từ biệt có nghĩa là ông ta đi gặp nhà vua. Abhinanditvā anumoditvā đƣợc dịch là having: ∙ delighted and pleased with: thích thú và hài lòng Dial II p. 81 ∙ approving and delighted by: chấp nhận và thích thú Sister Vajirā & Francis Story p.6 ∙ rejoicing and delighted: vui vẻ và thích thú Maurice Walshe, sđd p. 232 ∙ delighted and rejoiced at: thích thú và vui vẻ. Đọc Bhikkhu Bodhi, NDB (AN iv. 21), p. 1013. Đoạn này giống đoạn DN 16.1.1-5, tr 72-76. Rồi nhà vua hỏi ông ta:86 ―Này quân sƣ, Thế Tôn đã nói gì?‖ Ông ta trả lời: ―Thƣa Hoàng Thƣợng, theo lời đạo sĩ Gotama, không ai có thể đánh bại ngƣời Vajji; nhƣng ngƣời ta có thể làm đƣợc thế nhờ ngoại giao 85 Mp IV 16,29 bỏ chữ này. 86 Mp IV 17,4-5, không đề cập đến chuyện kể sau đó, chỉ nói vắn tắt là nhà vua phá tan bộ lạc này bằng cách phái vị bà la môn này phá vỡ tình đoàn kết của họ. Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật 73 hoặc chia rẽ họ.‖ Rồi nhà vua nói với vị bà la môn: ―nếu chúng ta dùng phƣơng sách ngoại giao, chúng ta sẽ mất voi, ngựa... nên chúng ta sẽ đánh bại chúng bằng cách duy nhất là phá vỡ sự đoàn kết của họ. Chúng ta sẽ làm gì đây? ―Thƣa đại vƣơng, hãy khởi xƣớng việc đàm luận về ngƣời Vajji 87 trong triều. Rồi thần sẽ bỏ về, nói rằng: ―Chuyện của họ đâu có ăn nhằm gì đến Ngài, thƣa đại vƣơng? Hãy để họ sống nhờ nghề nông, buôn bán..., làm ăn bằng sản nghiệp của riêng họ. Những ngƣời này đều là vua cả.88 Rồi nhà vua nên nói: ―Tại sao gã brahmin này 89 ngăn cản việc thảo luận về ngƣời Vajji ?‖ và trong ngày tôi sẽ gửi một lá thƣ cho họ. Ngài sẽ tịch thu lá thƣ ấy và buộc tội tôi. Ngài không cần phải bỏ tù hay dùng hèo trƣợng đánh tôi, chỉ cần cạo đầu tôi rồi trục xuất tôi ra khỏi thành. Rồi tôi sẽ nói rằng, ‗Tôi đã làm bờ thành và hào lũy cho thành trì của vua. Tôi đã biết chỗ mạnh chỗ yếu, chỗ cạn chỗ sâu. Bây giờ, tôi sẽ sớm90 cho ông91 biết tay.‘ Sau khi nghe nhƣ thế xong, ông nên nói ‗Thả hắn ta đi‘.‖ 87 NeII 222,24 viết là vajjiṁ thay cho chữ vajjī. Và đoạn sau đó cũng viết nhƣ vậy. 88 Vấn đề của lời bình phẩm này hình nhƣ là những ngƣời Vajji nào có thể tự xƣng phẩm vị kṣatriya, và nhƣ vậy, ngƣời ấy có cùng phẩm vị với Ajātasattu, nên vua này không có quyền hạn gì để can thiệp vào chuyện riêng của họ đƣợc. 89 NeII 223,1 thêm chữ bho* (này anh kia), đây là lời xƣng hô thiếu kính trọng. 90 B, C viết là ―cuối cùng, sau cùng, chung cuộc‖ (cirassaṃ) thay cho chữ ‗sớm‘ (na cirass‘ eva). 74 Ở Magadha Nhà vua đã làm tất cả theo mƣu kế đó. Bộ tộc Licchavi nghe tin hắn bị trục xuất, nói: '‗Gã brahmin này gian trá quỷ quyệt.92 Không cho hắn ta vƣợt qua sông Gaṅgā!‖ Rồi,93 khi có một số ngƣời nào đó nói, ―Nghe nói, đấy là vì chuyện nghị bàn về chúng ta, nên vua ấy mới đối xử với hắn ta nhƣ thế‖,94 họ nói, ―Đƣợc rồi, nếu vậy, cho hắn đến.‖ Hắn đến gặp ngƣời Licchavi, và khi đƣợc hỏi tại sao đến, hắn kể lại chuyện đã xảy ra. Ngƣời Licchavi nói: ―Đƣa ra hình phạt nặng nhƣ thế vì chuyện nhỏ mọn nhƣ vầy thật không thích hợp,‖ ―Chức vụ95 của ngƣơi ở đó là gì?‖ ―Tôi là nghị viên điều tra‖. Họ nói ―Cho hắn làm cùng một chức đó‖. Hắn đã điều tra giỏi.96 Các con của các vua Licchavi [đó là những ngƣời Licchavi trẻ] đã học hỏi đƣợc kỹ năng của vị bà la môn này. Sau khi tạo đƣợc giá trị vững chắc cho mình rồi, một hôm hắn gọi một ngƣời Licchavi sang một bên và hỏi: ―Họ có cầy thửa ruộng nƣớc này không?‖ 97 ―Phải, họ có.‖ ―Buộc xong hai con bò với nhau chƣa?‖ ―Dạ, 91 B, C bỏ chữ này. Hẳn nhiên ‗cho biết tay‘ là thành ngữ giống nhƣ tiếng Anh ―trừng trị nó‖ (RFG). 92 Kinh văn viết là ―đến‖ (āgato) và B viết là ―bị tống khứ‖ (saṭṭho). C và NeII 223,8 viết là saṭho. 93 NeII 223,9 viết tatra thay vì chữ tato. 94 Ne II 223,10 viết là kato thay vì chữ karoti. Theo chữ kato, hắn bị buộc phải rời khỏi nƣớc. 95 Ṭhān‘ antara. Ṭhāna đƣợc dùng ở đây theo nghĩa ‗địa vị‘ hay ‗chức vụ‘. Nói theo nghĩa đen, ngƣời Licchavi nói: ―Ông có giữ chức vụ nào khác ở nƣớc ông không?‖ 96 Ne II 223,15 viết là suṭṭhutaraṃ (―rất giỏi‖) thay vì chữ suṭṭhu. 97 Ne II 223,18 viết là dārakā thay vì chữ kedāraṃ; ―Có phải các thanh niên trẻ cầy không?‖