🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Nền Văn Hóa Cổ Trên Lãnh Thổ Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
NHÓM TRÍ THỨC VỆT
Biên soạn CÁC BÁC V Ầ N M ^ ừopgllchsử
" VIỆTNAM ]
v â n h ọ á c ổ trên lãnh thố am
___ ViONaiii
K X ) l^quan th iệ n n h iê n V iệtN íU T ì
I
.Các
tĩỊS
DẠI CONGTHÁN TRONCil.iCllSU' VlíTNAMl
tólỊỊSI -rr NHỮNGỊIETNỰ ttonglTchsư
J " « p 1
Những bậc
Những nền văn hoấ cổ trên lãnh thổ Việt Natn
T ủ SÁCH 'VIỆT NAM - DÁT Nưức, CON NGƯỜI'
NHỮNG n Ền v ă n HOÁ cổ TRÊN LÃNH THổ VIỆT NAM
NHÓM TRÍ TRỨC VIỆT biên soạn
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG
Nhũng nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 5
Lòi nói đầu
Từ những kết quả khảo cổ học cho thấy, những người tiền sử đã xuất hiện vá cư trú trên vùng lãnh thổ Bắc và Trung Bộ. Vùng đất Bắc có nền ván hóa lâu đời, xuất hiện váo hàng sớm nhất trong lịch sử Việt Nam. Người ta đã phát hiện thấy người vượn ở hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu), và Hang Hùm (Yên Bái) niên đại 60 - 50 nghìn năm tr.CN, cổ hon các noi khác trong khu vực; nhiều công cụ thuộc thời kỳ đồ đá cũ ở hang Thẩm Hoi (Con Cuông), hang Chùa (Tân Kỳ). Cách ngày nay khoáng ba, bốn vạn năm, vào thòi kỳ bộ tộc nguyên thuỷ, cư dân bản địa đã đông đúc hon. Người ta đã phát hiện đưọc dấu tích con người cùng với nhũng hóa thạch động vật cổ ở hang Hùm (Yên Bái), Kéo Lèng (Lạng Son), hàng Thung Lân (Ninh Bình). Ttrong di tích Núi Đọ, tìm thây công cụ lao động kiểu sơ kỳ đá cũ v.v... Và những di chỉ kháo cổ học đã chúng minh những nền văn hoá sơ khai của dân tộc Việt từ thời đại đồ đá cũ liền mạch kéo dái đến thời đại kim khí. Đó là sự tiếp nối quá trình tiến hoá của loài ngưòi trên lãnh thổ Việt Nam.
Từ thuở xa lãnh thổ Bách Việt kéo dài từ sông Dương Tử (Trung Quốc) về phía Nam đến miền đất ngày nay là Hà Tĩnh, trên lãnh thổ rộng lón náy có những đồng băng phi nhiêu nên nhiều học giae xác định rằng, chính noi đây là phát nguyên của nền văn minh lúa nước. Dấu vết con người thời kỳ nguyên thủy có thể tim thấy khắp nước Việt từ vùng cực Bắc đến cực Nam. Họ dể lại những di tích hang động vá di tích ngoài trời ở miền núi, đồng bằng k ể cả ở nhũng vùng đất thấp sình lẩy Nam Bộ trước khi hình thánh nhà nước Việt Nam đâu tiên. Như vậy lá vào thời đại
6 Tủ sách 'Việt Nam - đất nước, con ngưòí'
đồ đá, trên nhiều vùng ở nước ta dã xuất hiện những nền văn hóa nguyên thủy đặc sắc, trong đó bên cạnh nền kinh tế hái lượm đã bắt đầu phát triển nền kinh tế sản xuất nông nghiệp lúa nước.
Sự tiếp biến lịch sử giúp các nền văn hoá có sự giao lưu, nhất là khi dân tộc Việt tiến dẩn về phía Nam. Trong nhiều nền văn hoá thuở sơ khai, đã phát hiện những nét tuơng đồng và dị biệt của các nền văn hoá Hoà Bình, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Bắc Sơn v.v... ở
phía Bắc, với những nền văn hoá khác như văn hoá Sa Huỳnh, văn hoá Đồng Nai, Văn hoá óc Eo ở phương Nam.
Thêm vào đó, với vị trí địa lý tiếp giáp với các nền văn hoá khác trong khu vực như Chàm, văn hoá Hán, văn hoá Ấn Độ, rồi thậm chí từ phương Tây xa xôi cũng có sự thông thương nên vân hoá Việt đã hấp thu vào mình nhiều luồng vãn hoá, tạo nên tính đặc sắc của mình.
Khảo sát các nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta càng tự hào vì tổ tiên chúng ta với lòng cần cù, dũng cảm, vói trí thông minh và tài năng khéo léo, từ thuở xa xưa đã tạo nên những nền văn hoá rực rỡ, mà minh chứng lá những trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ, những chế tác gốm sứ tinh xảo, những bộ vũ khí bằng đồng như dao găm, mũi tên đồng... hiện còn mãi với thời gian. Việt Nam thật xứng đáng lá một trong những cái nôi của loài người.
NHÓM BIÊN SOẠN
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 1
Mỏ đầu
THỜI ĐẠI ĐÁ CŨ VÀ DẤu VẾT
NGƯỜÌ VƯỢN ở VIỆT NAM
Văn hóa Việt Nam, hay nói riêng là văn hóa của dân tộc Kinh vốn có nguồn gốc tại miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc, là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất ớ trong khu vực Thái Bình Dưong. Mặc dù như vậy, nhưng qua ảnh hưởng lớn của Trung Hoa, văn hóa Việt Nam đã lập ra rất nhiều đặc điểm gần giống với những dân tộc của miền Đông Á, và khác những nước ở khu Thái Bình Dưong (như là Campuchia, Lào và Thái Lan) mà đã chịu một phần lớn ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Nhưng tuy là ảnh hưởng Trung Hoa đuục coi là ảnh hưởng lớn nhất của một nước ngoài trên nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, dân tộc Kinh đã vẫn giữ gìn được rất nhiều nét văn hóa riêng của mình, mà cho tới ngày hôm nay những phong tục riêng đó vẫn quan trọng vô cùng trong đời sống của người Việt.
Có nhiều nhà viết sử cho rằng là trước khi ảnh hưởng bởi vặn hóa Trung Hoa, Văn hóa Đông Son có gốc ở miền Bắc Việt Nam (mà cũng đã phát triển mạnh ở những nước khác ở khu Thái Bình Dưong) là phần đầu của lịch sử Việt Nam.
Có thể nói chung văn hóa của Việt Nam là một pha trộn đặc biệt giữa nhiều những văn hóa cổ xưa cùng với văn hóa bản xứ của người Việt, ngoài ảnh hưởng lớn nhất của Trung Hoa cũng có ảnh hưởng rất nhỏ hon của văn hóa Ấn Độ, Chàm, và sau này ảnh hưởng lớn của văn hóa phưong Tây (Pháp, Nga, Mỹ).
8 Tủ sách ‘Việt Nam - đất nước, con ngưòí'
I. Sơ kỳ thòi đại đá cũ
l.V iệt Nam chúng kiến quá trình tiến hóa liên tục của con người, từ Homo erectus, sang Homo sapiens, rồi Homo sapiens sapiens.
- Người khôn ngoan có 2 giai đoạn; Khôn ngoan sớm (Homo sapiens) - thoát khỏi yếu tố vượn thành người hiện đại, di cốt hóa thạch, niên đại cổ hơn 40 nghìn năm trước Công nguyên (tr.CN). Họ là chủ nhân cùa các văn hóa trung kỳ đá cũ. Giai đoạn Khôn ngoan muộn (Homo sapiens sapiens) con người tiếp tục hoàn thiện mình, một số di cốt hóa thạch, họ là chủ nhân của các nền văn hóa hậu kỳ đá cũ, cách đây chừng 30 nghìn năm.
- ở Việt Nam, người Khôn ngoan sớm phát hiện ở Thẩm Om (Nghệ An) và Hang Hùm (Yên Bái), niên đại ÓO - 50 nghìn năm tr.CN. cổ hon các noi khác trong khu vực. Riêng Thẩm ổm còn tìm thấy công cụ mảnh tước quartzite.
Nghệ An là vùng đất có nền văn hóa lâu đời, xuất hiện vào hàng sớm nhất trong lịch sử Việt Nam. Người ta đã phát hiện thấy ngưòi vượn ở hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu), nhiều công cụ thuộc thời kỳ đồ đá cũ ở hang Thẩm Hoi (Con Cuông), hang Chùa (Tân Kỳ)...
Hang Thẩm ôm nằm ở hữu ngạn suối Bản Thắm, một phụ luu của sông Hiếu. Trong lóp trầm tích màu đỏ thời Canh Tân, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 5 chiếc răng người (gồm 1 răng nanh hàm trên, 3 răng hàm trên và 1 răng sữa). Dựa vào trầm tích chứa răng người, các nhà nghiên cứu cho rằng người vượn ở Thẩm ôm đã sống cách chúng ta khoảng niên đại 60 - 50 nghìn năm tr.CN. Ngày nay, nền hang Thẩm ôm ở cao hơn mực nước suối Bản Thắm trong mùa cạn là 17m. Qua thòi gian, hang Thẩm ôm cùng với khối đá vôi đã được nâng lên
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 9
cao. Ngưcri vượn ít cư trú ở trong hang mà chủ yếu họ sống trên các thềm phù sa trong thung lũng Bản Thắm. Noi đây thoáng mát, gần nguồn nước mà không sợ bị ngập. Họ sống thành bầy người nguyên thủy, hái lượm và săn bắt với những gậy gỗ và những công cụ đá ghè đẽo thô sơ. Đó là lúc các thị tộc và bộ lạc hình thành. Đây cũng là lúc thòi đại đồ đá cũ chuyển từ giai đoạn đầu sang giai đoạn cuối.
Người Khôn ngoan muộn phát hiện ở Kéo Lèng (Lạng Sơn), Thung Lang (Ninh Bình), niên đại 30 nghìn năm tr.CN. Hai địa điểm này chưa tìm thấy công cụ, nhưng một số di chỉ có niên đại hậu kỳ đá cũ đã tìm thấy công cụ cuội ghè đẽo hoặc công cụ mảnh tước như trong Mái đá Ngườm (Thái Nguyên), Mái đá Điều (lóp dưới).
2. Các văn hóa Sơ kỳ đá cũ Việt Nam:
- Trong thành phần động vật hóa thạch Pongo - Stegodon - Ailuroponda
niên đại cuối
Trung kỳ
Pleistocene ở
Thẩm Khuyên và
Thẩm Hai có
động vật nào do
con nguừi săn
bắt được và là
kết quả hoạt Hang Thẩm Khuyên động của Người vượn, ở đây chưa thấy công cụ lao động, chưa thấy yếu tố văn hóa.
- Ngược lại, trong di tích Núi Đọ, tìm thấy công cụ lao động kiểu sơ kỳ đá cũ lại không thấy di cốt người. Hiện các
10 Tủ sách 'Việt Nam ' đất nước, con nguái'
nhà khoa học đang thảo luận niên đại sơ kỳ đá cũ Núi Đọ. Trong tình hình hiện nay, vẫn sử dụng tư liệu Núi Đọ làm đại diện cho văn hóa sơ kỳ Đá cũ.
- Sơ kỳ; Hai nhóm di tích chính ở Bắc và Nam Việt Nam Trong buổi bình minh của lịch sử, Việt Nam là một trong những quê hương của loài ngưòl Người ta đã phát hiện thấy người vưọn ở Bình-Gia (Lạng Sơn), nhiều công cụ thuộc buổi đầu thời kỳ đồ đá cũ ớ núi Đọ, núi Quan Yên (Thanh Hoá). Các dấu vết của người nguyên thuỷ - người vượn sớm nhất ở Việt Nam, lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1960 tại núi Đọ, Thanh Hoá. Do đặc trưng điển hình của hệ thống di tích này, các nhà khảo cổ học cho rằng đã tồn tại một nền văn hoá sơ kỳ thời đại đồ đá cũ: Văn hoá núi Đọ. Văn hoá núi Đọ bao gồm một hệ thống các di tích sơ kỳ thời đại đồ đá cũ được phát hiện ở Thanh Hoá: Núi Đọ, núi Nuông, Quan Yên I, núi Nổ.
Văn hoá núi Đọ
1. Di chỉ núi Đọ; Nằm trong địa phận hai xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh huyện Thiệu Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 7km về phía Bắc - Tây Bắc.
Đây là một hòn núi
cao lóOm, nằm bên
hữu ngạn sông Chu.
Nguởi vượn nguyên
thuỷ đã sinh sống ở
đây, ghè vỡ đá núi để
chế tác công cụ.
Nhũng công cụ bằng
đá mang dấu ấn chế tác bởi bàn tay của họ như mảnh tước, hạch đá, rìu tay... đã được phát hiện ở núi Đọ khá nhiều. Ngày nay,
Những nền văn haá cổ trên lãnh thố Việt Nam
người ta đã phát hiện được ờ núi Đọ hàng vạn công cụ đồ đá cũ; người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ, tạo nên nhũTig công cụ chặt, rìu tay, nạo... bỏ lại nơi chế tác nhũng mảnh đá vỡ, thuật ngữ khảo cổ gọi là mảnh tước. Với những đồ đá đó, nguửi nguyên thủy có thể chặt cây, vót gậy tre, lao gỗ, xẻ thịt, đập vỡ xương thú săn bắt được... Loại hình công cụ nghèo nàn, kỹ thuật ghè đẽo thô sơ là đặc điểm của thời kỳ đồ đá cũ. Di tích núi Đọ là bằng chúng về sự có mặt của nhũng chủ nhân sớm nhất trên lãnh thổ Việt Nam vào thời kỳ tổ chức xã hội loài người đang hình thành.
2. Núi Quan Yên: Trên núi Quan Yên, tại địa điểm Quan Yên 1 (bên sườn Đông - Đông Nam), thuộc xã Định Công, huyện Yên Định, năm 1978 các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện được những vết tích của con người sơ kỳ thời đại đồ đá cũ. So với núi Đọ, núi Nuông, mật độ và số lượng hiện vật thu được có ít hơn, nhưng kỹ thuật chế tác các loại hình công cụ ở đây cao hơn, gọi là kỹ thuật của loài vượn sơ kỳ thời đại đồ đá cũ, đồng thời đây cũng là một loại hình di chỉ - xưởng. Căn cứ vào trình độ kỹ thuật chế tác công cụ, địa hình cư trú và dựa vào những thành tụn mới nhất của các ngành khoa học, các nhà khoa học cho rằng, người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Đọ là những người vượn đứng thẳng phát triển. Họ sống thành từng bầy, có thủ lĩnh bầy, mỗi bầy bao gồm từ 5-7 gia đình, có khoảng 20 - 30 người. Họ kiếm thức ăn chủ yếu bằng phương thức săn bắn và hái lượm theo bầy đàn người vượn và phân phối sản phẩm công bằng. Đời sống tinh thần của họ đã khá phong phú: ngoài thì giờ kiếm ăn, có thể họ đã có những trò giải trí trong lúc rỗi rãi.
Nhóm di tích miền Đông Nam Bộ: Phát hiện lẻ tẻ trên bề
12 Tủ sách 'Việt Nam - đắt nưức, con người'
mặt đồi đất đỏ ở Xuân Lộc (Đổng Nai) và An Lộc (Bình Dương), công cụ đá basalt với các loại hình: Rìu tay, công cụ ghè một mặt, mũi nhọn, hòn ném (bolas)... về mặt kỹ thuật tiến bộ hơn so với Núi Đọ.
Sơ kỳ đá cũ Việt Nam có nhiều nét tương đồng với sơ kỳ đá cũ Đông Nam Á, với các di tích như Tampan (Malaysia), Pajitan (Indonexia)...
Bấy giờ, mực nước biển Đông thấp gần trăm mét so với ngày nay. Vì vậy, đất nước ta khi ấy qua bán đảo Ma-lai-xi-a còn nối liền với các đảo Gia-va, Xu-ma-tơ-ra, Ca-li-man-tan của In-đô-nê-xi-a. Các kết quả nghiên cứu địa chất và khí hậu học còn cho biết trong thời kỳ này xen kẽ những kỳ khô hạn là nhũng kỳ mưa nhiều khiến khí hậu Việt Nam ẩm và mát hơn bây giờ một chút. Trong rùng rậm, trên thảo nguyên, có nhiều đàn voi răng kiếm, gấu mèo, tê ngưu, lợn lòi, hổ, báo, hươu, nai, đười ươi, vượn, khi, cầy, chồn... sinh sống. Những bầy người nguyên thuỷ sống dựa vào hang đá, lùm cây, đi dọc bờ suối, bờ sông tìm kiếm thức ăn bằng hái lượm và săn bắt.
Cách ngày nay khoảng ba, bốn vạn năm, vào thời kỳ bộ tộc nguyên thuỷ, cư dân bản địa đã đông đúc hon. Người ta đã phát hiện được dấu tích con người cùng với nhũng hóa thạch động vật cổ ở hang Hùm (Yên Bái), hàng Thung Lân (Ninh Bình). Đó là nhũng thị tộc, bộ lạc sống trong hang động miền núi đá vôi. Tuy nhiên, cũng đã có những thị tộc, bộ lạc tiến ra sinh sống ở miền đồi trung du vốn là miền phù sa cổ của sông Hồng với rùng rậm phủ dày. Những hiện vật đá cuội ghè đẽo thô sơ thuộc cuối thời đại đồ đá cũ hoặc đầu thời đại đồ đá giũa tìm thấy ở di chỉ Sơn Vi (Phú Thọ) là những minh chứng chắc chắn cho giả thuyết này.
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thố Việt Nam 13
Văn hóa đá cuội ghè được tiếp nối với hai nền văn hóa Hòa Bình (thuộc thời đại đổ đá giữa) và văn hóa Bắc Sơn (thuộc buổi đầu thòi đại đồ đá mới) cách ngày nay khoảng một vạn năm. ở các nền văn hoá này, bên cạnh kỹ thuật chẻ đẽo, người nguyên thủy đã phát minh kỹ thuật mài, tạo nên những chiếc rìu Bắc Sơn (rìu tứ giác mài lưỡi) nổi tiếng. Văn hóa Bắc Son là một trong những di chỉ văn hóa có rìu mài sớm trên thế giới. Cũng trong thòi kỳ này người ta còn phát hiện được những đồ gốm đầu tiên được nặn bằng tay.
Việt Nam là đất nước của hàng trăm loại tre, nứa. Tre, nứa đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn hóa nguyên thủy cũng như trong đời sống người Việt Nam sau này. Chúng được dùng làm gậy, lao, cung tên, đồ đan lát, thừng bện... Do bị thòi gian huỷ hoại nên đến nay không còn chứng tích công cụ tre, nứa của người Việt cổ; tuy nhiên ta vẫn có thể tìm thấy dấu vết của tre, nứa trên các hoa văn đồ gốm sơ kỳ.
Cùng nhũng thị tộc, bộ lạc ở miền núi, trung du trên đất nước Việt Nam khi ấy, còn có nhũng tập đoàn ngưòl nguyên thủy sinh sống ở miền ven biển Đông. Họ là chủ nhân của các nền văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi). Trải qua mấy nghìn năm, đống vỏ sò điệp do họ vút ra sau những bùn ăn đã chất cao thành gò, rộng hàng trăm mét vuông. Người nguyên thủy sinh sống ở ven bờ biển còn khai thác đá gốc (thạch anh) làm công cụ. Họ chôn người chết trong những mộ huyệt tròn đào giữa đống sò điệp và chôn theo ngưòi chết một vài công cụ đá, đồ trang súc bằng vỏ ốc xuyên lỗ...
Với đồ đá, đồ tre gỗ, đồ đựng bằng đất nung, các thị tộc nguyên thủy đi săn và hái lượm có hiệu quả hơn. Ngoài việc mò cua, bắt ốc, chủ nhân các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn
14 Tú sách "Việt Nam - dấ! nuớc, con nguàỉ'
còn săn được nhiều thú như lọn rừng, hươu nai, trâu bò rừng, tê nguu, voi... Chủ nhân các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Son, Quỳnh Văn đă biết nuôi chó, trồng một số cây ăn quả, cây cỏ củ, rau đậu, dưa... Từ cuộc sống hái lượm những sản vật sẵn có của tự nhiên, người nguyên thủy Việt Nam sớm bước vào cuộc sống sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh nghề săn, nghề đánh cá phát đạt, nghề nông đã ra đời cùng với việc chăn nuôi gia súc nhất là trên các vùng châu thổ của các con sông lớn.
Nhiều nhà nông học khẳng định bán đảo Đông Dương là quê hưong của cây lúa. ở đây có nhiều loại lúa hoang hiện còn tồn tại ở vùng đồng bằng sông Củn Long, bà con trong vùng thường gọi là lúa ma hoặc lúa trời. Dấu vết con người thời kỳ nguyên thủy có thể tìm thấy ở mọi miền trên đất nước Việt Nam từ vùng cực Bắc đến cực Nam. Họ để lại nhũTig di tích hang động và di tích ngoài trời ở miền núi, đồng bằng kể cả ở những vùng đất thấp sình lầy Nam Bộ trước khi hình thành nhà nước Việt Nam đầu tiên. Như vậy là vào thời đại đồ đá, trên nhiều vùng ớ nước ta đã xuất hiện những nền văn hóa nguyên thủy đặc sắc, trong đó bên cạnh nền kinh tế hái lượm đã bắt đầu phát triển nén kinh tế sản xuất nông nghiệp lúa nước.
Con người đã xuất hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ở Lạng Sơn và Nghệ An. Đặc biệt là ở hậu kỳ thời đá cũ (văn hoá Son Vi cách ngày nay 10.000 - 23.000 năm), con người đã phân bố khá rộng và khá đông trên đất Việt Nam.
Theo lìl{i)://dicUon(iiy.haclìklwatonnthu.gov.vn/defaul..., htt])://dzunglam.bỉogsiì()t.com và http://thanhlioa.gov.vn
Những nền văn hoá cô trên lãnh thố Việt Nam 15
Phần I
HẬU KỲ THỜI ĐẠI Đ ồ ĐÁ c ữ
Hậu kỳ thời đại đá cũ: Tồn tại song song 2 văn hóa thuộc 2 kỹ nghệ khác nhau; văn hóa Son Vi - kỹ nghệ cuội ghè (30.000 - 11.000 năm tr. CN), văn hóa Ngưòm - kỹ nghệ mảnh tuức (40.000 - 20.000 năm tr.CN). Hai văn hóa này có khuynh hướng phát triển và tầm ảnh hường khác nhau.
VĂN HOÁ NGƯỜM
Khu di tích khảo cổ Thần Sa, Thái Nguyên
Chinh trong các hang động tại
' nền văn hoá khảo cổ học mới - “Văn
^ hoá Thần 6a”, có niên đại trên duứi 3
vạn năm, lần đầu tiên tìm được ở Đông Nam Á, thu hút sự chú ý của đông đảo các nhà khoa học trong nước và thế giới. Hàng chục ngàn hiện vật từ các hang Phiêng Tung, Mái đá Hạ Son I, Hạ Son 11, hang Thắm Choong, Nà Ngùn và Mái Đá Ranh... ở Thần Sa, với nhũng công cụ cuội được ghè đẽo như: Mảnh tước, rìu tay, công cụ chặt hình núm cuội, công cụ chặt rìa, công cụ chặt 2 lưỡi, công cụ hình sùng bò... Đặc biệt là việc tìm thấy 3 bộ xưong người cổ được mai táng ở Mái Đá Ngườm, xóm Kim Son là nhũng tư liệu quý giúp các nhà khoa
16 Tủ sách 'Việt Nam - đất nước, con ngưởí'
học tìm hiểu sâu hơn về nền văn hoá Hoà Bình nổi tiếng. Mái Đá Ngưòm, một di chỉ quan trọng bậc nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa nằm trên sườn dãy núi Ngườm thuộc bản Trung Sơn, cách Phiêng Tung chừng Ikm về phía Nam. Đây là một mái đá khổng lồ cao chừng 30m, rộng 60m. Hố khai quật di chỉ Ngườm cho thấy có 4 địa tầng văn hóa khảo cổ. Những di vật đá đặc trưng của các nền văn hóa Bắc Sơn, Hòa Bình, Sơn Vi nằm ở tầng 1, tầng 2... ớ tầng thứ 3 thuần các công cụ đặc trưng của Ngườm. Và ớ tầng văn hóa thứ 4 là hàng vạn công cụ đá kiểu Phiêng Tung và Ngườm. Những công cụ mũi nhọn, công cụ nạo và kỹ thuật gia công lần thứ 2 giống như công cụ và kỹ thuật điển hình của văn hóa Mút xchỉ-ê, nền văn hóa tiêu biểu cho thời đại trung kỳ đá cũ. Do có ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học, có một vị trí đặc biệt trong việc tìm hiểu về lịch sử tiến hóa củaron người nguyên thủy trên đất nước ta nói riêng và cả vùng Đông Nam Á nói chung, khu di tích kháo cổ học Thần Sa đã được Nhà nước xếp hạng quốc gia.
Đến với Thần Sa hôm nay, ta như đến với một phong cảnh hùng vĩ của những dãy núi đá vói nhũng cánh rùng nguyên sinh trên các tầng đá vôi cao ngút thả bóng xuống dòng sông Thần Sa xanh biếc. Ta có thể thả hồn trong tiếng gió hú trong mái đá và tiếng nước chảy để suy ngầm về cuộc sống nguời xưa, chỉ có ở noi đây ta mói có cảm giác con người quả là nhỏ bé so với cảnh núi non hùng vĩ. Đến vói Thần Sa để tận mắt ngắm những bản ngưòi Tày với những mái nhà sàn xinh xắn nằm ẩn mình dưới tán cây sát chân núi đá vôi mà không đâu có được. Thần Sa xưa và nay vẫn luôn tiềm ẩn biết bao điều.
Nguồn: Báo Thái Nguyên
Những nền văn hoá cồ trên lãnh thổ Việt Nam 17
Di chỉ Mái đá Ngườm
Di chỉ khảo cổ học đuục phát hiện năm 1980, thuộc thôn Trung Son, xã Thần Sa, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Mái đá ở độ cao 30m, của hang hướng Bắc, rộng 60m, sâu 12m. Tầng văn hóa khảo cổ học nhiều tầng lớp, tù’ mặt đến độ sâu l,35m.
Những di chỉ khảo cổ đồ đá về con người sống cách chúng ta chừng 2 - 3 vạn năm được phát hiện ở hang Phiềng Tung (hang Miệng Hổ), Ngườm thuộc vùng Thần Sa chứng minh rằng tại đây đã tồn tại một nền văn hoá cổ gọi là văn hoá Thần Sa. Đây là nền văn hoá cổ nhất được biết đến cho tới nay ở Việt Nam và cả vùng lục địa Đông Nam Á.
Hiện vật gồm nhiều đồ đá làm bằng cuội như; hòn ghè, nạo, mũi nhọn, công cụ hòn cuội, rìu ngắn hạnh nhân, hình đĩa, rìu mài lưỡi; đục và rìu bằng xưoug và nhiều mảnh gốm thô. Có di cốt người trong hai ngôi mộ và nhiều xưong răng động vật. Niên đại hậu kỳ đồ đá cũ đến đầu thời đại đồ đá mới, chừng 19.000 năm trước.
Kỹ nghệ Ngườm gồm hang
Miệng Hổ và mái đá Ngườm
(lớp dưới), cùng ở thung lũng
Thần Sa (Thái Nguyên) mà đặc
trưng nổi bật là chế tác và sử
dụng công cụ mảnh tước nhỏ
có tu chỉnh làm công cụ lao
động.
Công cụ mảnh Ngườm
Theo Lâm Thị Mỹ Dung
18 Tủ sách 'Việt Nam - đất nuớc, con nguôi'
VĂN HOÁ SƠN VI (20.000 - 12.000 TCN)
Văn hoá Sơn Vi (Phú Thọ)
Văn hoá Sơn Vi mang tên xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, do các nhà khảo cổ Việt Nam phát hiện và xác lập danh pháp vào năm 1968. Đến nay, hơn 140 địa điểm Văn hoá Sơn Vi được phát hiện. Không gian của văn hóa Sơn Vi bao trùm các vùng thuộc Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị. Nhũng người nguyên thủy chủ nhân của văn hóa Sơn Vi sống thành tùng bộ lạc. Họ chủ yếu sống ngoài trời trên các đồi gò trung du ở trung lun sông Hồng, thượng lun sông Lục Nam, thượng lun sông Hiếu. Chỉ một số ít sống trong hang động... Công cụ đều làm từ đá cuội sông suối, ghè đẽo một mặt là chính, vết ghè trên một rìa cạnh tạo ra công cụ mũi nhọn, ria lưõi dọc, rìa lưỡi ngang, phần tư viên cuội, hai hoặc ba rìa; cùng với một số công cụ mảnh tưóc kém định hình. Cư dân Văn hoá Sơn Vi chưa biết đến kỹ thuật mài công cụ đá và làm gốm, hoạt động kinh tế chủ yếu là săn bắn và hái lượm, chưa biết trồng trọt và chăn nuôi.
Văn hoá Sơn Vi có niên đại
cuối Cánh Tân (Late
Pleistocene), tồn tại trong
khoảng từ 23.000 đến
11.000 năm cách ngày nay.
Văn hoá Sơn Vi khác văn
hoá Hoà Bình, có trước văn
hoá Hoà Bình và phát triển
sang văn hoá Hoà Bình,
thuộc hậu kỳ thòi đại đá cũ. (Xem hình).
Những nền vàn hoá cồ trên lãnh thổ Việt Nam 19
Văn hoá Sơn Vi (Thanh Hoá)
Tại Thanh Hoá, các bộ lạc chủ nhân văn hoá Sơn Vi đã được tìm thấy ở các huyện cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Hà Trung, Bá Thước và nhất là cụm di tích ở xã Hạ Trung (Bá Thước).
1. Mái đá Diều-. Đây là một di tích được phát hiện năm 1984 (thuộc xã Hạ Trung, huyện Bá Thước), chỉ trong 4m^ hố thám sát đã thu được hon 300 hiện vật thuộc thời đại đá cũ. Trong các năm 1986 - 1989, do tầm quan trọng của di tích này, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã hợp tác với Bungari tiến hành khai quật 3 lần. Kết quả thu được hàng ngàn hiện vật đá gồm công cụ kiểu văn hoá Sơn Vi, bàn nghiền... và nhiều nhất là mảnh tước, với bốn công cụ bằng xương thú. Đặc biệt, tại đây đã tìm thấy 10 mộ cổ, trong đó có một mộ song táng, có hai bộ xưong chóTO hoá thạch còn tương đối nguyên vẹn mà chưa ncri nào ở Việt Nam phát hiện được di cốt nguyên vẹn như thế trong văn hoá Sơn Vi. Người vượn đã sinh sống ở mái đá Điều, các cư dân nguyên thuỷ sống trong các hang: Thung Khú (thuộc làng Man) hang Ma Xá, mái đá nước hang Anh Rồ, đã tạo thành một cụm di tích có niên đại từ hậu kỳ đá cũ đến văn hoá Hoà Bình, thuộc xã Hạ Trung huyện Bá Thước. Năm 1989, các hang Lang Chánh I, II, III (thuộc xã Lâm Sa, huyện Bá Thước), được các nhà khảo cổ học Việt Nam họp tác vói các nhà khoa học Mỹ tiến hành khai quật và nghiên cứu. Hiện vật phát hiện ở các di chỉ này chủ yếu là công cụ bằng đá gồm các loại; mảnh tước đã tu chỉnh, rìu ngắn, công cụ 1/4 viên cuội, công cụ có rìa lưỡi ngang... được xác định là cồng cụ của chủ nhân văn hoá Sơn Vi muộn, kéo dài đến văn hoá Hoà Bình.
2. Hang Con Moong. (Xem b ài: Vân hoá Hoà Binh). Theo http://thanhhoa.gov.vn
20 Tủ sách "Việt Nam - đất nước, con nguài"
VĂN HOÁ SOI NHỤ (18.000 - 7.000 TCN)
Soi Nhụ - Nền văn hóa cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long.
Văn hóa Soi Nhụ gọi theo tên địa điểm khảo cổ học Soi Nhụ thuộc vịnh Bái Tử Long, là nền văn hóa của người tiền sử được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện năm 1964 và khai quật năm 19Ó7. Khái niệm và đặc điểm của nền văn hóa này đầu tiên được TS. Hà Hữu Nga, Viện Khảo cổ học đề xuất trong Hội nghị thông báo “Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 199Ó” (Nhà XB KHXH, Hà Nội năm 1997).
Niên đại
Theo TS. Hà Hữu Nga, văn hóa Soi Nhụ có niên đại tưong đưong với các văn hóa Hòa Bình cũng như văn hóa Bắc Son của Việt Nam, và có thể có nguồn gốc từ 25.000 năm trước, ngang vói văn hóa Ngườm khu vực Võ Nhai, Thái Nguyên. Văn hóa Soi Nhụ phân bố trong khu vực các đảo đá vôi của Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, bao gồm cả Cát Bà, Hải Phòng, các huyện Vân Đồn, cẩm Phả, Hoành Bồ, khu vực Hòn Gai, Yên Hưng, Kinh Môn, Đông Triều thuộc Quảng Ninh và Hải Dưong.
Giai đoạn
Văn hóa Soi Nhụ chia 3 giai đoạn bao gồm:
Giai đoạn sớm ớ các hang Áng Mả (Cát Bà), Thiên Long, Mê Cung, Tra Giới, và Hang Trống trên Vịnh Hạ Long, có niên đại khoảng từ 25.510 đến 17.000 năm;
Giai đoạn giữa gồm các hang Soi Nhụ trên, Tiên ông, Bồ
Những nền văn hoá cố trên lãnh thổ Việt Nam 21
Quốc, v.v..., trên Vịnh Hạ Long, có niên đại từ khoảng ló.ooo đến 9.000 năm cách ngày nay;
Giai đoạn muộn gồm các hang động và mái đá Đồng Đặng, Hà Lùng, Hang Doi (huyện Hoành Bồ), Phưong Nam (Uông Bí) có niên đại từ 8000 - 6000 năm cách ngày nay.
Đặc điểm
Phản đối quan điểm của các nhà Tiền sử úc đại diện là Peter Belhvood, coi nguồn gốc các văn hóa Mã Lai-Đa Đảo và các nền văn minh lúa nước Đông Nam Á xuất phát từ các văn hóa Ngưỡng Thiều, Long Sơn, Trung Quốc, TS. Hà Hữu Nga khẳng định rằng các văn hóa Cái Bèo và văn hóa Hạ Long, hậu duệ của văn hóa Soi Nhụ, chính là tiền thân của các nhóm văn hóa ngôn ngũ' biển đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam Á, sau này được biết dưól tên gọi các nhóm văn hóa thuộc ngữ hệ Mã Lai-Đa Đảo (Malayo-Polynesian). Cách tiếp cận đó phù họp vói một thực tế là cách ngày nay 5000-6000 năm, khi mực nước biển còn thấp, một trong những cái nôi của nền văn hóa biển Đông Nam Á chính là văn hóa Cái Bèo, phân bố rộng khắp trong khu vực Vịnh Hạ Long của Việt Nam, và kết nối dễ dàng với các hệ thống đảo khác của Đông Nam Á.
Giá trị Văn hoá Lịch sử
Vịnh Hạ Long, một trong những cái nôi của người Việt cổ vói ba nền văn hoá tiền sử kế tiếp nhau, cách ngày nay từ 18.000 đến 3.500 năm, đó là; Văn hóa Soi Nhụ, văn hóa Cái Bèo và văn hóa Hạ Long.
Văn hóa Soi Nhụ (cách ngày nay 18.000 năm đến 7.000 năm); Phân bố chủ yếu trong khu vục các đảo đá vôi thuộc Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, ngoài ra còn phân bố ở các hang động
22 Tủ sách 'Việl Nam - đất nước, con ngưúi'
ven bò’. Các di chỉ tiêu biểu: Mê Cung, Thiên Long, Tiên ông... Phuưng thức
sinh sống của cư
dân văn hóa Soi
là thu lượm
hoa quả...
tụ của tầng
văn hóa gồm có
núi
(Cyclophorus) và
ốc suối (Melania)
cùng một số loài nhuyễn thể nước ngọt khác.
So với Văn hóa Hòa Bình - Bắc Son cùng thòi, người Soi Nhụ đã có một mô hình văn hóa đa dạng hon, phong phú hon, bỏ’i vi trong phưong thức kiếm sống của cư dân ở đây đã có thêm yếu tố biển.
Văn hóa Cái Bèo (cách ngày nay từ 7.000 năm đến 5.000 năm) - là gạch nối giữa văn hỏa Soi Nhụ và văn hóa Hạ Long. Các di chỉ tiêu
biểu: Cái Bèo,
Hà Giát, Giáp
Khẩu... đưọc
phán bố trên bờ
vũng vịnh kín
gió, tựa lung vào núi, mà chủ yếu là núi đá vôi.
■ ■ ■ ■ -
.V-.- cv ^ : .. Di chí khảo cổ Hang Tiên õng
Phương thức kiếm sống chủ đạo của cư dân văn hóa Cái
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thồ Việt Nam 23
Bèo là khai thác động vật thủy sinh (cua, cá, nhuyễn thể) kết họp với săn bắt các loài động vật, hái lượm hoa quả trong tự nhiên. Di chỉ Cái Bèo là một trong những bằng chứng điển hình khẳng định tổ tiên của người Việt cổ đã bắt đầu tiến ra biển khơi để chinh phục và khai thác biển cả và đã tạo nên một nền văn hoá mang sắc thái đặc biệt.
Văn hoá Hạ Long (cách ngày nay từ 4.500 - 3.500 năm) được chia làm hai giai đoạn sóm và muộn.
Giai đoạn sớm: Là kết quả trực tiếp của đọt biển tiến Holoxen trung (khoáng ó.000 - 5.000 năm trước). Đợt biển tiến này đã làm mất đi môi trường sống của cư dân văn hóa Cái Bèo, khiến cho một bộ phận cư dân phải di chuyển lên phía Dông Bắc và nhũ'ng vùng đất cao hon. Tại đây họ tạo nên giai đoạn sớm của Văn hóa Hạ Long.
Phương thức sống của cư dân văn hóa Hạ Long giai đoạn sớm bao gồm: Săn bắt, hái lượm, canh tác, trồng cây lấy sợi, rau củ quả, tăng cưòng khai thác biển, phát triển nghề thủ công làm gốm bàn xoay và chế tác công cụ đá.
Giai đoạn muộn: là kết quả của mực nước biển dâng cực đại rồi sau đó rút dần. Khi biển lùi, các cư dân văn hóa Hạ Long giai
\U 1 u i e i i l u i , c a c c u Ui
đoạn sớm có sự chuyển cư ngưọc lại. Theo nưóc thuỷ triều, họ tiến dần ra biển. Địa bàn cư trú của cư dân văn hoá Hạ Long giai đoạn muộn
^ '.5r"K
s > ■ ĩ ^ - J Ì £ Ĩ ~ V -' •
24 Tú sách "Việt Nam - đất nuác, con nguài'
tuxmg đối phong phú, bao gồm; Hang động, chân núi ven biển, doi cát, các bậc thềm và mặt đồng bằng cổ. Các di chỉ tiêu biểu: hang Bái Tử Long, hang Soi Nhụ dưới, Ngọc Vừng...
Phưong thức sinh sống của cư dân văn hóa Hạ Long giai đoạn muộn đã cơ bản gắn với môi trường biển cả với kỹ thuật chế tác công cụ đá và đồ gốm khá hoàn hảo, trở thành đặc trưng của văn hóa Hạ Long đó là: Gốm văn thùng, văn chải, văn khắc vạch, rìu và bôn có vai có nấc. Văn hóa Hạ Long giai đoạn này là một trong những tiền đề đặc biệt quan trọng góp phần để phát triển nền văn minh Việt cổ.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Các đặc trưng chính của văn hóa Soi Nhụ
1. Văn hóa Soi Nhụ chù yếu phân bố trong khu vực các đảo đá vôi thuộc Vịnh Hạ Long, bao gồm cả đảo Cát Bà, và Bái Tử Long. Ngoài ra các di chỉ của văn hóa Soi Nhụ còn phân bố tại các hang động đá vôi ven bờ các Vịnh biển ấy thuộc các huyện Cẩm Phả, thành phố Hạ Long, huyện Hoành Bồ, thị trấn Uông Bí, huyện Kinh Môn (Hải Dương); huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng).
2. Đây là một nền văn hóa hang động, cửa sông, thềm biển, mà tầng văn hóa cấu tạo chủ yếu là vỏ ốc núi, ốc suối cùng một sô' loài ntim rn thể nước ngọt khác. Bên cạnh những thành phần này C.OII có một lượng đáng kể các di tích xương cốt động vật có vú. Tuy hiếm, nhưng đã xuất hiện các loài động vật thân mềm biển trong tích tụ văn hóa.
3. Khác với các văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, trong tích tụ tầng văn hóa Soi Nhụ rất hiếm các loại cuội nguyên liệu, công cụ đá, mảnh tước và gốm.
Những nền văn haá cố trên lãnh thổ Việt Nam 25
4. Một SỐ công cụ tìm thấy thì đều không có hình dáng ổn định. Kỹ thuật chế tác đơn giản, chủ yếu bằng thủ pháp ghè đẽo một mặt, phương pháp chặt bẻ và rất ít tu sửa một cách hệ thống, quy chỉnh. Có vẻ như nhiều công cụ chặt đập thô đều được chế tác từ đá vôi nên rất khó phân biệt với những mẩu đá vôi vỡ tự nhiên hoặc do những người đời sau làm vỡ để lại.
5. So vói các cư dân Hòa Bình, Bắc Sơn cùng thời thì cư dân Soi Nhụ có lẽ gần gũi với biển nhiều hơn, trực tiếp hon. Một số bằng chúng khai thác biển đã được phát hiện tại các hang Soi Nhụ, Tiên ông, Bồ Quốc..., nhung niên đại của chúng thì cần được nghiên cún thêm.
6. Đối vói hai nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Son cùng thời, có lẽ văn hóa Soi Nhụ có nhũng mối liên quan, ảnh hưởng qua lại vói văn hóa Bắc Son nhiều hon, thường xuyên hon và thuận lợi hon. Điều đó phần nào thể hiện qua các rìu mài lưỡi dạng Bắc Son được phát hiện tại hang Soi Nhụ và một số hang động khác ở Hoàng Bồ và trên đảo Cát Bà. Ngoài ra các công cụ mài lưỡi gợi lại hình dáng rìu Bắc Son còn thấy phổ biến tại các địa điểm ngoài trời như Hòn Ngò, Núi Hứa,...
Vị trí văn hỏa Soi Nhụ trong tiền sử Việt Nam và Khu vực
1. Văn hóa Soi Nhụ là nguồn gốc trực tiếp của con đường Cái Bèo - Hạ Long; Lâu nay trong tiền sử Việt Nam, hai nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Son được coi là hai cội nguồn trục tiếp duy nhất của các văn hóa đá mói, và cũng là cội nguồn trực tiếp của cuộc cách mạng đá mới, cuộc cách mạng nông nghiệp trên đất nước ta. Đó là con đường văn hóa Đa Bút ờ Thanh Hóa; con đuờng văn hóa Quỳnh Văn ở Nghệ Tĩnh; con đường Bàu Dũ ờ Quảng Nam - Đà Nằng; và con đưòng Cái Bèo ở Hải Phòng - Quảng Ninh (Hà Văn
26 Tủ sách "Việt Nam - đất nước, con người"
Tấn 1990, tr. 152, 153]. Ngoài ra cũng có đề xuất xếp Giáp Khẩu ở Cửa Lục, Cái Bèo ở Cát Bà và Bầu Dũ ở Quảng Nam vào một phức thể Hòa Bình - không phải một Hòa Bình hang động hay một Hòa Bình thung lũng, mà là một Hòa Bình cồn bàu ven biển? [Trần Quốc Vượng 1991, tr.51]. Việc xác lập văn hóa Soi Nhụ đổng thòi vói các văn hóa Hòa Bình và Bắc Son đã bổ sung vào bức tranh tiền sử Việt Nam một điểm nhấn, một cơ sở mới để lý giải con đuòng phát triển cùa văn hóa Cái Bèo và tiếp đó là văn hóa Hạ Long - con đường văn hóa biển cho khu vực Đông Bắc của nước ta.
2. Con đưòng Soi Nhụ - Cái Bèo - Hạ Long đã tạo dụng một phưong thức sống phức họp theo định hướng khai thác biển trong tiền sử Việt Nam: Nếu như trước đây định hướng nông nghiỘỊ) được coi là con đưòng phát triển duy nhất sau Hòa Binh - Bắc Son và mọi tiền đề cho con đường đó đã được chuẩn bị ở hai nền văn hóa này thì ngày nay, với việc xác lập văn hóa Soi Nhụ, chúng ta còn thấy một tất yếu khác. Đó là một mô hình phát triển phức họp mà ỏ'đó nông nghiệp chí là một trong các thành tố mà thôi. Ngưòi ta không thể phù nhận được vai trò của kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là nền nông nghiệp làm vưÒTi, trong các văn hỏa Cái Bèo và Hạ Long, nhung định hưóng chính của con đường Cái Bèo - Hạ Long lại Là khai thác biển, trong đó có cá đánh bắt hải sán lẫn trao đổi, thuưng mại và phát triển một số nghề thủ công làm gốm, chế tác công cụ đá, đồ trang sức và biệt là đóng thuyền, mà bằng chúTig còn lại là nhũTig chiếc búa đá to khỏe, không thấy ở đâu khác ngoài khu vục văn hóa Hạ Long. Chính môi trường biển đã tạo cho hậu duệ của văn hóa Soi Nhụ một phương thức phúc họp như vậy.
3. Vàn hóa Soi Nhụ - một cội nguồn và sự tổng hòa các yếu tố văn hóa biển khu vục; Không phải ngẫu nhiên mà sau khi phát
Nhũng nền văn hoá cổ trên lãnh thô Việt Nam 27
hiện ra một số di chỉ đầu tiên của văn hóa Soi Nhụ hay hậu duệ của nó như hang Đồng cẩu, địa điểm Giáp Khẩu mà M. Colani đã liên hệ ngay với các văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn. Sau này đối vói các nhà khảo cổ học Việt Nam, khỉ phát hiện được các hiện vật đá tại hang Eo Bùa, Soi Nhụ người ta cũng lập tức liên hệ chúng với các yếu tố Hòa Bình - Bắc .Sơn. Nhưng Soi Nhụ không chỉ có các yếu tố đó, và đó cũng chưa phải là đặc trưng của bộ công cụ văn hóa này. Tại đây, ngưòi ta còn tim thấy các công cụ bằng đá vôi, các công cụ cuội không định hình, không mang đặc trung Sumatralith. Hon nũa so vói các văn hóa Hòa Bình và Bắc Son, tại các địa điểm Soi Nhụ rất hiếm công cụ đá, trong khi tích tụ tầng văn hóa bằng vỏ nhuyễn thể lại rất dày, bao gồm cả ốc suối, ốc núi và sau này là cả nguyễn thể biển nũ’a. Vậy là khi nhìn tổng thể, không thể xếp nó vào Hòa Bình hay Bắc Son đuực, mà nó là một nền văn hóa độc lập, tồn tại trong mối liên hệ mật thiết vói các nền văn hóa khu vực để rồi tạo nên một truyền thống riêng, truyền thống văn hóa biển trong tiền sử Việt Nam. Và chính văn hóa Soi Nhụ là một trong nhũng cội nguồn sâu xa nhất góp phần tạo nên thế giới văn hóa - ngôn ngữ Austronesian Đông Nam Á và xa hon nữa.
Tài liệu tham khảo
* Andersson I.G. \ 939. Arcliaeologiail Resecirclì iiì Ihe í'ni Tsi Long Archipckigo, Stockliolm - Bulletin No.l 1, Stockholm 1939. * Bùi Vinh - Trần Trọng Hà 1999. Hòn Ngò (Quáng Ninh), trong Những phát hiện mói vé Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000. * Dỗ Văn Ninh Ì9Ổ8. Khai quật hang Soi Nhụ, Quảng Ninh, trong Nghiên cứu Lịch sủ; số 117 - 12 - 19Ó8.
* Hà HŨ'U Nga 1997. Cớ một nền văn hóa Soi Nhụ tại khu vực Vịnh Hạ Long, trong NhCmg phát hiện mới vê Khảo cổ học 1997, Hà Nội 1998.
* Ha Huu Nga 1998. Relationships hetrvecn the Soi Nhu and Ha Long
28 Tủ sách 'Việt Nam - đất nước, con ngucn'
cultures. Paper presented in the lóthCongress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Melaka, Malaysia 1 - 7th, ]uly 1998. * Hà Hữu Nga - Nguyễn Văn Háo 1998. Hạ Long thời Tiền sử, Nxb. Thế giới - Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Hà Nội.
* Hà Văn Tấn (Chủ biên) 1990. Thời Tiền sử và Sơ sứ, Lịch sử Thanh Hóa. Tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
* Hoàng Xuân Chinh 1999. Công cụ cuội ghè đẽo vùng duyên hải và hái dáo Đông Bắc, trong Những phát hiện mói về Kháo cổ học 1999, Hà Nội 2000.
* laap Vermeulen and Tony Whitten 1999. Biodiversitv and Cultural Property in the Management oJ' Limestone Resources - Lessons from EastAsia, The World Bank, VVashington D.c.
* Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dẩn,... 1985./Tặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam vá các vùng lân cẠn, trong Khảo cổ học, số 2 - 1985.
* Nguyễn Văn Hào 1984. Niên dại của nhũng di vật tìm được ở hang Soi Nhụ năm 1967, trong Nhữĩìg phát hiện mới về Khảo cổ học 1984, Hà Nội 1985.
* Nguyễn Văn Hảo và Nguyễn Khắc sử 1976. Tìm kiếm di tích khảo cổ ven biển Quảng Ninh, Thanh Hóa, Quảng Bình, trong Khảo cổ học, số 17 - 1976.
* Tony \Vhitten 1998. Limestone Karst of Ha Long Bay, Vietnam. Nottingham Trent University, UK.
* Trần Dức Thạnh 1998. Lịch sử địa chất Vịnh Hạ Long, Nxb. Thế giới - Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Hà Nội.
* Trần Quốc Vượng 1991. Vị thế lịch sử và bản sắc địa-văn hóa của Hội An, trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. * Trình Năng Chung, Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Gia Đối, Lê Minh Tâm 1999. Phát hiện mói một sô' di chỉ hang động trên đảo Cát Bà (Hải Phòng), trong Nhũng phát hiện móá về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.
Nguồn: http://vanhoanghean.vn
và /ỉttp://thanhhoa.gov.vn
Nhũng nền văn boá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 29
Phần II
THỜI ĐẠI ĐỒ ĐÁ MỚI
VĂN HOÁ HOÀ BÌNH (12.000 - 10.000 TCN)
Văn hóa Hòa Bình đuục giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30 tháng 1 năm 1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khỏi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội đưọc ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội"’ để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thòi đá mới. Qua thòi gian, tất nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang nhũng tên khác nhau và có nhũng ý nghĩa cũng khác nhau. Nhung thời gian gần đây, hoạt động của các nhà khảo cổ học trong suốt từ năm 1975 lại đây đã cho thấy một hướng mới về quan niệm khác về thời đại cũng như không gian của Văn hóa Hòa Bình.
Cơ sở tổng quát
Văn hóa Hoà Bình'^' thuộc thời Đồ đá cũ sang Đồ đá mới (cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài đến 2.000 năm tr. CN). Trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Bộ Việt Nam, và với không gian rộng lớn,
Đặc trưng chính của Văn hóa Hòa Bình khi phân biệt với các cư dân đồ đá dùng đá lừa, dễ ghè đẽo và dề chế tạo hon.
Các nhà khảo cổ học gần đây xem Văn lióa Hòa Bình như một thuật ngữ chỉ văn hóa chung có cùng nguồn gốc, nhưng không khẳng định địa điểm.
30 Tú sách 'Việt Nam - đất nuác, con nguài'
tiêu biểu cho cả vùng Đông Nam Á và Nam Trung Quốc. Dựa vào các di chỉ tìm thấy và niên đại của chúng, các nhà khảo cổ chia Văn hóa Hòa Bình thành ba thời kỳ nối tiếp nhau'^’:
Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 tr.CN), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngcầm (23.100 ± 300 tr.CN).
Hòa Binh giữa, hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 tr.CN), Làng Vành (1Ó.470 ± 80 tr.CN).
Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.3Ó5 ± 80 tr.CN, BLn - 1541/1). Hoà Bình là một trong những vùng đất mà các nhà khảo cổ học chứng minh đã có người Việt cổ sinh sống cách đây hàng vạn năm. Nơi đây còn đọng lại nhiều dấu ấn của một nền văn hóa Hòa Bình rực rỡ qua việc tìm thấy 47 chiếc trống đồng cổ trong đó có trống đồng sông Đà và Miếu Môn thuộc loại đẹp và cổ cùng một hệ thống các di tích xác định nền văn hoá Hoà binh đó là:
Hang Muối - nơi cư trú của ngưòi nguyên thuỷ trong thời gian dài. Tại đây đã xác định nhiều công cụ đá, di tích bếp, xương của người nguyên thuỷ.
Là Hang Khoài - Niên đại kỹ nghệ cuội Việt Nam. Noi cư trú của người nguyên thuỷ cách đây 17.000 đến 11.000 năm. Là Khu mộ cổ Đống Thếch: Có hàng trăm ngôi mộ xung quanh được được chôn nhiều hòn mồ, có hòn cao tới hơn 3m,
“Dông Nam Á và liổn .sử học lliế giới”, Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970.
Nhũng nền văn hoá cố trên lãnh thô Việt Nam 3 1
trên khắc chữ Hán ghi tên ngưòl đã chết. Người Mường quan niệm rằng người chết vẫn có linh hồn và linh hồn thường được trú ngụ và gửi gắm vào đá. Do đó các cột đá (hòn mồ) dựng lên không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là đánh dấu mộ. Hiện tượng này không chỉ có ỏ’ vùng Mường mà còn khá phổ biến ở một số dân tộc Đông Á.
Là Hang Chùa: Còn gọi là “Văn Quang Động”, đó là 3 chữ đại tự khắc trên vách đá, dưới có khắc nhiều bài thơ, bài văn ở thế kỷ 18 - 19...
Đặc biệt, phát hiện mới nhất về lối mòn cổ cách đây 22 nghìn năm tại hang xóm Trại xã Tân Lập (thuộc Mường Vang, Lạc Son) đã khẳng định chắc chắn về điều đó.
Hang xóm Trại là một hang tiêu biểu của văn hoá Hoà Bình trên thế giói. Nền văn hoá mà thế giới biết đến và công nhận. Theo Tiến sĩ Nguyễn Việt, Trung tâm tiền sử Đồng Nam Á: Hang xóm Trại là một điểm cư trú lâu dài của người nguyên thuỷ trong văn hoá Hoà Bình. Theo kết quả nghiên cúu mới nhất, địa điểm này có niên đại cách ngày nay từ khoảng 22 nghìn năm. Tầng văn hoá trong hang có độ dầy trung bình lên tói 5m. Lối đi cổ mới phát hiện ở ngách phía Bắc hang có niên đại vào khoảng 22 nghìn năm. Đây là lối đi đầu tiên của ngưòi nguyên thuỷ ra, vào hang. Bên cạnh nhũng phát hiện mới về lối đi cổ, về mộ táng, về niên đại, hang xóm Trại còn tiêu biểu của Văn hoá Hoà Bình không chỉ ở Việt Nam mà còn là di tích tiêu biểu trong khu vục Đông Nam Á. Đây vù'a là nơi cư trú lâu dài với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn thức ăn dồi dào, vừa là công xuởng chế tác công cụ của cư dân Văn hoá Hoà Bình.
Qua những phân tích khoa học, hang xóm Trại không chỉ khẳng định là cái nôi sinh sống của người Việt cổ mà nó còn là
32 Tú sách "Việt Nam - đất nước, can nguởí'
“bảo tàng” văn hoá của người Việt cổ. Với sự xuất hiện liên tiếp của các thời kỳ văn hoá như thời kỳ đồ đá, văn hoá Phùng Nguyên, thời kỳ nhà Trần, nhà Lê.
Cho đến thời điểm này, hang xóm Trại có khoảng trên 4 nghìn hiện vật được khai quật. Qua các so sánh thì đây là hang phát hiện được nhiều hiện vật nhất và có nhiều tầng văn hóa nhất trong khu vực Đông Nam Á. Với số lượng hiện vật được phát hiện đã khẳng định đây là hang được người nguyên thủy sử dụng sớm nhất và lâu đời nhất. Đặc biệt, ngoài việc phát hiện 2 lối đi cổ, các nhà nghiên cứu còn tìm thấy vết tích tro bếp - một hiện vật tiền sử sớm nhất ờ Việt Nam - và bộ hài cốt có độ tuổi trên 14 nghìn đến 17 nghìn năm.
Trước đó, cuộc khai quật hang xóm Trại vào những năm 80 của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu đã phát hiện những hạt thóc của người xưa roi vãi. Sau khi phân tích đã xác định các hiện vật này thuộc thời Trần. Việc khai quật di tích cũng đã phát hiện vết tích của mộ táng cuối thời Trần đầu thời Lê vẫn còn gần như nguyên vẹn. Qua đó cho thấy các tầng lớp văn hoá ở đây rất dày. Được xếp tầng tầng lóp lóp thể hiện qua các công cụ khai quật dưới các tầng sâu trong lòng hang. “Từ các cứ liệu thu được, có thể khẳng định đây là di tích Văn hoá Hoà Bình có bộ di vật phong phú nhất về công cụ đá, cũng như công cụ xưong. Đặc biệt là số lượng công cụ đá cuội mài lưỡi thu được trong các lần khai quật khá phong phú so với các di tích Văn hoá Hoà Bình đã được khai quật từ trước đến nay”, Tiến sĩ Nguyễn Việt cho biết. Công cụ đá tìm thấy ở đây đã cho thấy kỹ thuật chế tác đá khá điêu luyện của người Việt cổ.
Ngoài nhũng công cụ đá, mộ táng của người nguyên thủy như rìu đá, xưong thú, các nhà nghiên cứu còn tìm thấy vỏ
Những nền văn boá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 33
trấu, vỏ quả óc chó và rất nhiều hoá thạch của vỏ ốc. Đây được coi là thức ăn thường dùng cùa người Việt cổ. Với chiều rộng của hang trung bình 7m và chiều dài từ miệng vào đáy khoảng 22m, sâu khoảng 7-1 Om, qua hàng nghìn năm vùi lấp chủ yếu là vỏ ốc ken đặc. Tiến sĩ Nguyễn Việt nhận định: Phải qua hàng chục nghìn năm mới tích tụ được lóp vỏ thức ăn dày như vậy. Để khai quật, các nhà khảo cổ đã phải đào vét lượng ốc hóa thạch khổng lồ đổ xuống triền núi đá làm lối đi. Việc phát hiện các tầng văn hóa tại hang xóm Trại đã khẳng định đây là điển hình của nền văn hóa Hòa Bình không chỉ của các nước Đông Nam Á mà còn thuộc loại hiếm có trên thế giới.
Cách thức ăn ốc cho đến ốc mà người Việt cổ thường dùng, đã đuợc kế thừa cho đến ngày nay. Đến nay, đồng bào Mường ở Hòa Bình vẫn dùng ốc bằng cách chặt đuôi để hút thịt. Sự kế thừa của ngưòi cổ xưa vần hiển hiện trong đòi sống sinh hoạt của bà con như chúng tích cụ thể minh chứng cho lịch sử của nguôi Việt cổ có nguồn gốc trên lãnh thổ Việt Nam. Theo tính toán khoa học, bình quân 1 m^ vỏ ốc trong hang xóm Trại đếm đuục khoảng hon 40 nghìn vỏ ốc. Số lưọng này tưong đuong vói khoảng 300kg thịt ốc. Căn cứ theo các tầng ốc hóa thạch qua các thời kỳ có thể thấy phải qua hàng chục nghìn năm mói có được tầng vỏ ken đặc như vậv. Với nhũng cứ liệu đó, hang xóm Trại xúng đáng được gọi là “bảo tàng” văn hoá của người Việt cổ.
HBĐT tổng h()])
Đánh giá
Các bằng chứng ngày càng nhiều về một nền văn minh Đông Nam Á đã làm lung lay nhiều thuyết tiền cổ đúng vững nhiều thập kỷ của thế kỷ 20. Người tiên phong trong việc đề xuất hưóng mới cho nguồn gốc loài người là ông Solheim II,
34 Tủ sách ‘ViệlNam - đất nước, con nguìn'
giáo sư Đại học Haxvaii. Năm 1967, Solhiem II cho công bố trên nhiều tài liệu nói về sự ra đời sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau...
Sau Solheim II, một sô' nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hồng Kông, Higham ở New Zealand, Pookajorn ớ Thái Lan đều thống nhất quan điểm, vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Duong, là cái nôi của văn minh Nam Á-Nam Đảo. Và mới đây, Oppenheimer''^' còn đi xa hon nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh phutmg Tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đã đến vùng Lưỡng Hà-Trung Đông, mang theo kinh nghiệm trồng trọt, làm đồ gồm và sự tích Đại hồng thủy'^’.
Trên đất Thanh Hoá, trung tâm dân cư lúc này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện cẩm Thuỷ, Bá Thước, Thạch Thành, Ngọc Lặc... Họ thường sống trong các hang động, các núi đá vôi rộng, thoáng đãng và gần sông, suối lớn. Các nhà khảo cổ học đã xác định họ chính là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân văn hoá SoTi Vi ở Thanh Hoá, và chính họ - cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá, đã tiếp tục phát triển, làm nên văn hoá Bắc Son sau này.
I. Những vết tích của văn hoá Hoà Bình
1. Hang Com Monng (xã Thành Yên - huyện Thạch Thành). Đây là một hang rọng, nền hang cao hon 40m so với chân núi
Oppenheimer tốt ngliiỘỊ) bác ,sĩ Dại học Oxford bên Anh năm 1971, rnột ngưòi đưa ra luận (liếm Ví*; bệnh h()c theo vùng miền, rất yêu khảo cổ học
Oi)|)enheimt!r .s, Kcim in the rnst The Drowneđ Continent of Southeast Asia, Phoenix, 1999
Những nền văn hoá cổ trên ]ănh thổ Việt Nam 35
hiện tại và rộng hơn 300m^ Người nguyên thuỷ cư trú trên khoảng diện tích 100 tại cửa hướng Tây Nam, liên tục từ thòi văn hoá Son Vi đến văn hoá Hoà Bình, Bắc Son. Các nhà khảo cổ đã thu được rất nhiều hiện vật nằm lẫn trong đống vỏ nhuyễn thể và mùn thực vật mà người nguyên thuỷ đã thải ra trong quá trình sinh hoạt, về công cụ bằng đá: cư dân văn hoá Hoà Bình ở Con Moong vẫn giũ’ truyền thống văn hoá Sơn Vi: dùng đá cuội để chế tác công cụ, nhung kỹ thuật chế tác công cụ của họ rất phát triển, kể cả loại hình lẫn phương pháp chế tác. Công cụ kiểu Xumatora (Sumatralithe) có hình bầu dục hay hình hạnh nhân, lưỡi được tạo xung quanh rìa hòn cuội bằng cả thủ pháp ghè tỉa, để có độ sắc bén hơn; có chúc năng sử dụng rất đa dạng: có thể dùng cắt, chặt, nạo... từ thịt, xương thú đến tre, nứa, gỗ. Rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn trong bộ sun tập công cụ của họ ở Thanh Hoá; ngu^òi ta thường chặt cuội hoặc chặt đôi nhũng công cụ hình bầu dục để tạo rìu ngắn; chúc năng của rìu ngắn cũng rất đa dạng. Rìu dài hình hạnh nhân hay hình bầu dục của cư dân văn hoá Hoà Bình có nhiều khả năng đuọc sử dụng như những chiếc cuốc đá. Mảnh tuúc ờ Con Moong có sô' lượng không nhiều, nhưng phần lón đã được gia công để tạo thành công cụ nạo, dao đá, với rìa đá rất sắc. Chày nghiền, bàn nghiền cũng là những công cụ được tìm thấy khá nhiều. Chủ nhân Con Moong cũng chế tác và sử dụng công cụ bằng xương thú vói kỹ thuật chọn nguyên liệu và chế tác phát triển khá cao: ngưòi ta chỉ lựa chọn xương ống của động vật có vú - loại xưong có cấu tạo sợi nhiều hơn cấu tạo xốp - để chê tác công cụ và đă mài nhằn đầu. Thức ăn rất phong phú, đa dạng: trong tầng văn hoá, các nhà khảo cổ học đã thu được 85m^ vỏ nhuyễn thể như trùng trục, trai, ốc... và các loại xưong thú rất phong phú. Chôn nguôi chết theo tư thế nằm nghiêng chân co như cư dân văn hoá Son Vi giai đoạn trước,
36 Tủ sách 'Việt Nam - đất nuức, con nguôi'
nhưng họ đã chèn đá hộc, rải đá dăm quanh mộ để bảo vệ và đểu chôn theo công cụ.
2. Di chí mái đá Điều và các di chi khác: Cũng như ở Con Moong, mái đá Điều là một di chỉ chứa đựng nhiều lóp văn hoá thuộc các thời đại đồ đá khác nhau. Niên đại lóp văn hóa Hoà Bình của Mái đá Điều là 8.200 ± 70 năm, cách ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã thu được rất nhiều công cụ bằng đá đặc trưng kiểu Hoà Bình. Đáng chú ý là rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn. Chày nghiền, bàn nghiền cũng chiếm tỉ lệ đáng kể. Riêng công cụ bằng mámh tước, ở một số địa điểm đã xuất hiện kỹ thuật mài đá. ở các di chỉ mái đá Bát Mọt, hang Mộc Trạch, hang To đã tìm được nhiều mảnh vỏ trai xà cừ lớn mà công dụng có thể được chủ nhân văn hoá Hoà Bình sử dụng như nhũng lưỡi dao, nạo để vót tre nứa và nạo thịt thú. Một đặc điểm chung nũa là tại các di chỉ văn hoá này, tầng văn hoá đều rất dày, chứng tỏ sự cư trú lâu dài của con người như Con Moong: 3,5m, mái đá Điều: gần 4m, mái đá Làng Bon: 3,7m, hang Điền Hạ III: 3,8m, mái đá chòm Dồng Đông: 3,5m; chứa đựng một khối lưọng vỏ nhuyễn thể rất lón lẫn trong lóp đất màu nâu hoặc đen chứa mùn thực vật. Cư trú trong các hang động, mái đá tưong đối cao, có noi rất cao (như Con Moong), cư dân Hoà Bình ở Thanh Iloá chcắc rằng, ngoài nhũng công cụ bằng đá, đã sử dụng một số lưọng không ít các công cụ và đồ dùng được chế tác từ các loại cây cối, nhất là tre, nứa, song, mây... Để đựng các loại nhuyễn thể lượm nhặt từ sông, suối đem về noi cư trú. Các nhà kháo học đã phát hiện được nhiều mộ táng của người Hoà Bình ờ Thanh Hoá. Đã tìm thấy ở hang Lộc Thịnh, mái đá Làng Bon, mái đá làng chòm Đồng Đông... các di cốt, xuơng, răng bị võ', mủn. Đáng chú ý nhất là các di
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 37
tích Con Moong (2 mộ), mái đá Điều (13 mộ), mái đá Mộc Long (5 mộ), hang Chùa (3 mộ). Phần lớn những mộ này còn nguyên vẹn và cho thấy tư thế chôn nằm nghiêng co bó gối, bôi thổ hoàng, kè đá giữa mộ và chôn theo hiện vật làm đồ tuỳ táng, là cách thức mai táng phổ biến trong tập tục của người Hoà Bình. Chủ nhân của văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã tiến tới tổ chức công xã thị tộc mẫu hệ. Các công xã thị tộc thường cư trú trong một vùng đất nhất định. Trong mỗi hang động là một thị tộc cư trú bao gồm nhiều gia đình nhỏ với vợ chồng, con cái. Dấu tích bếp lửa ở giai đoạn được tìm thấy có quy mô nhỏ hon giai đoạn trước và sô' lượng cũng tăng hon. Kinh tế hái lượm ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong đời sống, bởi vậy, vai trò và vị trí của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Với môi trường sinh sống gần sông, suối, khai thác thức ăn đa nguồn, định cư lâu dài, cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã chuyển từ cuộc sống hái lượm - săn bắt sang thu hoạch định kỳ theo mùa. Đó là mầm mống sơ khai của nền kinh tế sản xuất nông nghiệp: người ta bắt đầu chăm sóc và trồng trọt một số loài cây có củ, quả như rau, đậu, bầu bí... và thuần dưỡng chó. Nhũng quan niệm tôn giáo sơ khai, mầm nghệ thuật - sự tìm kiếm cái đẹp cũng nảy sính trong quá trình lao động kiếm sống và vui chơi giải trí. Đó là những thành quả sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội của cư dân văn hoá Hoà Bình xứ Thanh và với thành quả ấy, họ đã thực sự góp phần vào cách mạng đá mới. Sau hơn 70 năm phát hiện và nghiên cứu văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hoá đã cho thấy một cái nhìn tổng quan về lịch sử Thanh Hoá thời đại đồ đá mới: đó là sự phát triển liên tục, nội tại từ cư dân văn hoá núi Đọ đến Sơn Vi và văn hoá Hoà Bình.
38 Tủ sách "Việt Nam ■ đất nước, con nguàí"
Văn hoá huyện Lạc Thuỷ
Từ lâu đời, vùng đất Lạc Thuỷ đã là một trong nhũng địa điểm quần cư của con người. Đã có khá nhiều hiện vật khảo cổ học được tìm thấy ở đây như trống đồng thuộc thời đại kim khí, giai đoạn Phùng Nguyên, cách ngày nay tới 4.000 năm, được tìm thấy ở gò Gốc Xanh, Chợ sẻ.
Các nhà khảo cổ học còn phát hiện ra các công cụ bằng đá, hình khắc trên vách đá, các lớp trầm tích trong các hang động ở các thung lũng hoặc ven sông Bôi, như hang Đồng Nội, hang Thẻ Bạc... Chúng là những dấu tích của nền văn hoá Hoà Bình kế thìra văn hoá Son Vi. ở các hang này, cư dân của thời kỳ văn hoá Hoà Bình đã bắt ốc suối hay ốc núi về ăn rồi vút vỏ tạo thành lóp dày trong hang cư trú. Trong lớp vỏ ốc lẫn đất ở hang Đào, hang Ốc (xã Đồng Bầu, xã Lạc Long); hang Chim, hang Đồng Nội (xã Đồng Tâm) còn có lẫn xưong các loại thú rùng và những đám than tro... Ngoài ra, nguừi ta còn thấy một chày nghiền, một số mảnh tưóc mai rùa và một số công cụ kiểu Son Vi. Tất cả các công cụ đó đã chúng tỏ nền văn hoá Hoà Bình ờ Lạc Thuỷ đã kế thùa di sản của văn hoá Son Vi. Các nhà khoa học còn tìm thấy dấu tích ban đầu của nền nông nghiệp sơ kỳ của con nguời nguyên thuỷ sinh sống ở Lạc Thuỷ như ở hang Mái Đá (xã Phú Lão), hang Thẻ Bạc (xã Khoan Dụ).
Theo http://thanhhoa.gov.vn/
và vi.wikipedia.org/wiki/
Nhũng nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 39
VĂN HOÁ BẮC SƠN
Văn hóa Bắc Sơn (Lạng Sơn)
Văn hóa Bắc Sơn là tên gọi một nền văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đại đồ đá mới có niên đại sau nền văn hóa Hòa Bình, cách ngày nay từ một vạn đến tám ngàn năm. Bắc Sơn là đặt theo tên huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, noi phát hiện đầu tiên nhũng di vật của nền văn hóa này trong các núi đá vôi. Các bộ lạc chủ nhân của văn hóa Hòa Bình đã tạo ra nền văn hóa Đông Son. Các di tích thuộc văn hóa Bắc Son còn đưực phát hiện ở tỉnh Bắc Cạn. Các di tích này cũng tìm thấy trong vùng phân bố của văn hóa Hòa Bình như Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình...
Tính đến năm 1997, đã có 51 điểm văn hóa Bắc Son được tìm thấy và khai quật. Trong sô' đó, có 8 địa điểm tìm thấy di cốt người.
Người nguyên thủy trong nền văn hóa Bắc Sơn trú trong hang động, mái đá gần sông, suối. Môi trường của văn hoá Bắc Son là môi trường thung lũng, hang động, địa hình phức tạp với quần động vật và hệ thực vật đa dạng tương đối thuận lợi cho sinh hoạt của người nguyên thuỷ, tầng văn hoá Bắc Son được cấu tạo bởi đất sét đá vôi, lẫn nhiều vỏ nhuyễn các loại mãnh tước da, tàn tích thực vật.
Đặc trung của thời kỳ này là con người đã nắm vũng kỹ thuật trồng cấy và chăn nuôi thú vật, biết chế tạo đồ gốm tinh xảo và sản xuất nhũng dụng cụ khá tiến bộ cho đời sống thường ngày. Noi đây các nhà khảo cô’ đã tìm thấy nhũng chiếc rìu tứ giác mài lưỡi sớm nhất thế giới, tiêu biểu bằng chiếc rìu có cán.
40 Tú sách 'Việt Nam - đất nuớc, can nguôi'
Nếu rìu có cán găm đứng (hâche à gouge) thì đó là sản phẩm của dân Việt cổ (hay Indonesian, hay Mã Lai cổ). Nếu cán nằm ngang (hâche à tenon) là sản phẩm của giống nguửi thuộc ngành Mông Cổ. Người ta còn tìm thấy ở vùng này nhiều đồ gốm nặn bằng tay rất khéo léo.
Các loại công cụ trong sản xuất nông nghiệp
Di vật của văn hoá Bắc Son gồm các loại đá, đồ gốm, đồ xưong
- Đồ đá gồm
các loại: Rìu mài
lưỡi, công cụ ghè
đẽo, công cụ
cuội, bàn mài...
- Các loại rìu
này phần lớn vẫn
còn nguyên vết
ghè, đẽo nhưng
phần lưỡi đã được mài nhẵn, nhọn và sắc.
Rìu đá Bắc Sơn
- Sự phổ biến của rìu mài lưỡi đánh dấu bước phát triển quan trong về kỹ thuật của chủ nhân văn hoá Bắc Son * Đặc biệt, người nguyên thủy thời văn hóa Bắc Son đã biết làm đồ gốm. Họ thích trang sức hon so với người thời văn hóa Hòa Bình và có noi cư trú tưong đối ổn định hon. Chủ nhân văn hoá Bắc Son chưa có kinh nghiệm trong việc chế tạo đồ gốm thường pha bã thực vật độ nung thấp,hoa vàn trang trí đon giản.
Đổ gốm văn hoá Bắc Son
- Sự có mặt của đồ gốm trong văn hoá Bắc Son đánh dấu
Nhũng nền văn hoá cố trên lãnh thổ Việt Nam 4 1
Sự phát triển của đ ồ gốm sau giai đoạn khởi đầu của văn hoá Hoà Binh. Họ thích trang sức hoTi so với người thời văn hóa Hòa Bình và có nơi cư trú tương đối ổn định hơn
- Dấu ấn của nghệ thuật đã được phát hiện trong văn hoá Bắc Sơn. Đó là nhũ’ng đường khắc vạch theo nhóm trên đất sét ở ngang Hình Tắc và các phiên đá có phác thảo mặt người ớ địa điểm Nà Ca.
Giá trị
nghệ thuật
không nhiều
nhung đó là
những tín hiệu
cho thấy những
biểu hiện nghệ
thuật ở Bắc Son.
Các cổ vật bằng đá thuộc văn hoá Bác Sơn
Văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá
Tại Thanh Hoá, dấu vết văn hoá Bắc Son đã được phát hiện trong các lớp văn hoá muộn của các di chỉ mái đá Thạch Son, mái đá chòm Đồng Đông, hang Lộc Thịnh, mái đá Điều, hang Mỹ Tế, mái đá làng Bon, làng Điền Hạ III... và đặc biệt rõ ở hang Con Moong - thuộc lóp trên cùng, có niên đại khoảng 7.000 năm cách ngày nay. Chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá cũng như ờ nơi khác, đã đua kỹ thuật chế tác công cụ bằng đá đến trình độ cao: họ đã biết và phổ biến kỹ thuật mài đá. Đã tìm thấy trong các di chỉ Bắc Sơn ở Thanh Hoá những bàn mài bằng sa thạch bên cạnh rất nhiều chày nghiền, bàn nghiền. Những chiếc rìu mài lưõi Bắc Sơn ra đời đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghề nông đã thai nghén từ văn hoá Hoà Bình. Nhưng thành tưụ kỹ
42 Tủ sách ‘Việt Nam - đất nước, can người'
thuật lớn nhất của cư dân văn hoá Bắc Son là phát minh ra đồ gốm. Mặc dù còn rất thô sơ về chất liệu, hình dáng, hoa văn, độ nung còn thấp, nhung cũng đã tạo cho nền kinh tế sản xuất sơ khai của chủ nhân văn hoá Bắc Son ờ Thanh Hoá phát triển hon hẳn nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của văn hoá Hoà Bình. Tuy nhiên kinh tế sản xuất chun thể chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống của người Bắc Son. Hái lượm và săn bắt vẫn đóng vai trò chính trong đời sống của họ; trong các hang động nơi họ cư trú, tầng văn hoá vẫn chất đầy vỏ nhuyễn thể và xương cốt động vật (lớp văn hoá Bắc Son ở Con Moong - lớp trên cùng - có độ dày từ mặt đất từ 0,2m - l,2m, đã thu đuợc tới óOm^ vỏ nhuyễn thể). Xã hội người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Son ở Thanh Hoá đã phát triển chế độ thị tộc mẫu hệ. Cùng vói sự phát triển của nển kinh tế sản xuất, người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Son ngày càng lệ thuộc vào thành quả của hoạt động hái lượm và chăm sóc cây trồng. Đó là những công việc chủ yếu do phụ nữ đảm nhận, và ngày càng nắm vị trí chủ đạo trong kinh tế; vai trò người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao.
Theo lethuyhuongst®gmuil.com, http://thanhhoa.gov.vn/ và vi.wikipedia.org/wiki/
Những nền văn hoá cố trên lãnh thố Việt Nam 43
VĂN HOÁ QUỲNH VĂN (8.000 - 6.000 TCN)
Văn hoá khảo cổ mang tên địa điểm Quỳnh Văn ở huyện Quỳnh Lun (Nghệ An), do nhà khảo cổ người Pháp Côlani (M. Colani) khai quật lần đầu tiên vào năm 1930 và các nhà khảo cổ Việt Nam xác lập danh pháp, cồn vỏ Điệp ở xã Quỳnh Văn có tên là cồn Thống Lĩnh, nằm cạnh đường Quốc lộ 1, cách Thành phố Vinh 57 km. Theo lịch sử ghi chép thì di chỉ chia làm 3 khu: Thông Linh ổ.300m^ Tha Ma Bắc 3.400m^ và Tha Ma Đông 1.500m^. Tầng văn hoá dày đến 5,óm.
Trong đợt khai quật 19Ó3 - 1964 có 197 hiện vật đồ đá (nạo thô, nạo nhỏ, hòn
ghè, hòn kê, chày đá,
bàn nghiền, hạch đá,
mảnh tước, rìu mài
lưỡi...) và 173 mẫu
gốm thô không có hoa
văn. Một ngôi mộ sâu
0,9m có nhiều đồ quý
táng.
Nhờ các cuộc khai
quật khảo cổ, chúng ta Mảnh đồ gốm đáy nhọn biết rằng cồn vỏ Điệp (Quỳnh Văn) là noi cư trú của người nguyên thủy. Trong các cồn Điệp ở Quỳnh Lưu, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều công cụ bằng đá của người nguyên thủy. Các bộ lạc Quỳnh Văn chưa biết mài đồ đá nhung đã biết mài đồ xưong và phát triển kỹ thuật làm đồ gốm.
Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy bếp của họ, đó
44 Tủ sách ‘Việt Nam - đất nước, con nguài'
là nhũTig đám tro than, ở giữa có những hòn đá ám khói. Một sô' hòn đá nứt nẻ do bị lửa nung. Trong tro than thường lẫn xưong thú, xưong cá và càng cua. Qua những dấu vết đó, chúng ta có thể biết được phần nào hoạt động kinh tế của các bộ lạc Quỳnh Văn. Cư dân trong các bộ lạc văn hóa Quỳnh Văn sống chủ yếu dựa vào việc bắt sò điệp ở bờ biển và vùng nước lợ. Trong các cồn điệp còn tìm thấy đốt xưong sống và vây của những loài cá biển khá lớn. Muốn đánh được những loại cá như vậy, người nguyên thủy phải có thuyền ra biển.
Cho đến nay đã có hon 70 năm nghiên cứu với 21 di tích, phân bố ở ven biển Nghệ An và Hà 'Tĩnh, chủ yếu tập trung xung quanh vịnh biển cổ Quỳnh Luư. Đây là các di tích “đống rác bếp” (Kpkkenmodding), thành phần chủ yếu là các loại điệp. Trong các lớp điệp còn có xuững cốt động vật, di vật đá, gốm và bếp lửa. Công cụ làm từ đá trầm tích, ghè đẽo mang dáng vẻ thô sơ, kém định hình. Loại hình thuờng thấy là các công cụ không xác định, công cụ hình đĩa, công cụ hình múi buửi, công cụ hình rìu dài và công cụ hình rìu ngắn. Đồ gốm thô, hầu hết là đồ đun nấu với kích thước lớn, được tạo hình bằng tay kết họp với bàn đập hòn kê. Đồ gốm có 4 loại chủ yếu: gốm đáy tròn văn in đập, gốm đáy tròn văn thừng, gốm đáy tròn văn thừng ở mặt ngoài và văn chải ở mặt trong, gốm đáy nhọn văn chải 2 mặt. Gốm đáy nhọn, văn chải 2 mặt là đặc trung tiêu biểu nhất của văn hoá Quỳnh Văn. Các loại hình hiện vật khác như xương, đồ trang sức có số lượng ít. Cư dân văn hoá Quỳnh Văn chôn nguừi trong huyệt gần tròn tại noi cư trú theo tư thế ngồi bó gối hay nằm co; hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác nhuyễn thể nước mặn, cùng với đánh cá, săn bắt và hái lượm, chưa thấy dấu hiệu trực tiếp của trồng trọt và chăn nuôi.
Những nền văn hoá cố trên lãnh thố Việt Nam 45
Văn hoá Quỳnh Văn thuộc thòi đại đá mới, niên đại cách đây khoảng 6.000 năm, có nguồn gốc từ văn hoá Hoà Bình và phát triển lên văn hoá Bàu Tró ở loại hình văn hoá Thạch Lạc.
Di chỉ Quỳnh Văn là di chỉ cư trú, là mộ táng, theo .sơ kỳ thòi đại đồ đá mói. Các nhà khảo cổ học xếp di chỉ Quỳnh Văn là loại tiêu biểu nhất của văn hoá đá mới có gốm ở ven biển Nghệ TTnh.___________________________________________
Cồn Sò Điệp (Quỳnh Văn, Quỳnh Lưu) từng là noi cư trú của ngưòi nguyên thủy. Năm 1974, chợ Vân - một khu chợ quê của nhân dân xã Quỳnh Văn đã được di dõi đến họp trên nền di chí khảo cổ học. Ngày 9/10/200Ó Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh đã gửi Công văn số 165/CV - NV và ngày 1/2/2007 gửi Công văn số 19/CV - NV về viộc báo cáo kết quả khảo sát Icập hồ sơ di chỉ khảo cổ học và giá! phóng mặt bằng khu vực chợ Vân, Quỳnh Văn để giành vị trí Lập hồ sơ xếp hạng di chỉ khảo cổ học vùng Cồn Điệp Quỳnh Văn.
Ngày 20/10/2009, UBND xã Quỳnh Văn đã có tờ trình số 152/ TTr - UBND gủi UBND tỉnh, các sở ban, ngành liên quan về việc xin chủ trưong và nguồn vốn đầu tư di dời chọ' Vân sang vị trí mói, trả lại nguyên hiện trạng cho di chí khảo cổ học Cồn Diệp, dồng thòi đồ nghị các cấp có thẩm quyền lập kế hoạch xây dụng bảo vệ khu di chỉ khảo cổ Cồn Điệp đúng vói ý nghĩa, tầm quan trọng._____
Theo Khảo cổ học
46 Tủ sách "Việt Nam - đất nước, con ngưùí'
VĂN HOÁ CÁI BÈO (7.000 - 5.000 TCN)
Di chi Cái Bèo ờ đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng nằm trên vị trí cao 4m so với mặt nước biển. Di chỉ do M. Colani phát hiện năm 1938 và đặt tên là di chỉ Vịnh làng Chài - Baie des Pêcheurs. Di chỉ rộng IS.OOOm^ được các nhà khảo cổ học Việt Nam khai quật 4 lẩn vào các năm 1973, 1981, 198Ó và 200Ó. Đây là một trong sô' các di chỉ khảo cô’ Tiền sử nổi tiếng ở vùng duyên hải Đông Bắc của Tổ quốc, có giá trị quan trọng trong nghiên cứu lịch sử - văn hoá dân tộc. Do tính chất đặc biệt của di chỉ, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã .xếp hạng Di tích cấp Quốc gia cho di chỉ Cái Bèo tại Quyết định số 31Ó/QĐ-BVHTTDL, ngày 22 tháng 1 năm 2009.
Có một số bài viết về văn hoá Hạ Long và Tiền Hạ Long, về di chí Cái Bèo hay về văn hoá biển Tiền sử Việt Nam đã từng đăng trên Tạp chí Khảo cổ học, Thông báo khoa học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam từ năm 1973 đến nay hoặc mới đây nhất là trong cuốn sách về khảo cổ học vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam xuất bản năm 2005.
Trên cơ sở nhũng tư liệu khảo cổ khai quật được công trình đã xác định nhũng đặc trung di tích và di vật, niên đại, các giai đoạn phát triển và phác thảo bức tranh kinh tế - văn hoá xã hội của cư dân tiền sử Cái Bèo. Một số vấn đé về phân kỳ khảo cổ, văn hoá Hạ Long và vị trí của nền văn hoá này trong bình tuyến Đá mói cũng như truyền thống văn hoá biển Tiền sử Việt Nam... cho thấy rằng Cái Bèo là di tích khảo cổ thềm biển có quy mô lớn, địa tầng dày, có tổ họp di tích và di vật phong phú. Những vết tích văn hoá ở đây đã phán ánh sự phát triển kế tiếp từ Trung kỳ
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thố Việt Nam 47
Đá mới (đặc trưng cho nền văn hoá Cái Bèo) sang Hậu kỳ Đá mới (đặc trưng cho văn hoá Hạ Long). Đây là những tư liệu quan trọng cho việc xác định các giai đoạn phát triển văn hoá tiền sử đảo Cát Bà và vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam... Hiện nay di chỉ Cái Bèo đang bị xâm hại nghiêm trọng. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, các nhà khảo cổ và những người quản lý văn hoá cũng cần phải bảo vệ di chỉ Cái Bèo vì đây không chỉ là di sản văn hoá biển tiêu biểu, đặc sắc của Việt Nam mà còn là bảo tàng địa chất tuyệt vói vể sự dao động mực nước biển đại dưong. Sự tiếp nhận và thích ứng của con người truức hiện tượng biển tiến, biển thoái, là một bài học cho chúng ta hôm nay trước nguy cơ nước biển đại dương đang dâng cao từ nguyên nhân biến đổi khí hậu toàn cầu.
Di chỉ khảo cổ học được phát hiện và khai quật trên đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Di chỉ rộng 800m^, tầng văn hoá có 3 lớp, từ độ sâu 0,2m - 3,2. Hiện vật có 484 đồ đá, như: công cụ ghè đẽo, công cụ mài toàn thân và mài tùng phần gồm: rìu, nạo, bàn mài, bàn kê, rìu có vai, rìu tứ diện, rìu có vai có nấc, mũi nhọn. Đồ gốm có gần 15 ngàn mảnh, gốm thô, nặn bằng tay và bàn xoay. Nhiều xương răng động vật. Cái Bèo là một di chỉ cư trú với các thời kỳ khác nhau, có niên đại kéo dài 7000 đến 4000 năm trước.
Từ tháng 12/2006-1/2007, các nhà khảo cổ lại tiến hành khai quật thêm một lần nữa. Kết quả là đã thu được 137 hiện vật bằng đá, 1.424 mảnh gốm thời tiền sử và 568 tiêu bản di cốt động vật, vỏ nhuyễn thể biển cùng nhiều tài liệu về địa tầng, di tích lịch sử khác.
Qua đó, có thể khắng định Cái Bèo là nơi cư trú của quần thể ngư dân tại một làng chài biển cổ có quy mô lớn nhất nước ta cách đây hàng nghìn năm. Tại đây, cư dân tiền sử đã sinh
48 Tù sách 'Việt Ngm - dắt nước, con người'
Sống lâ u dài và phát triển trài qua nhiều thời đại, từ Trung kỳ đá, Hậu kỳ đá đến Son kỳ đồng thau; phản ánh quá trình phát triển của ngưòi Việt tại khu vực từ văn hoá Cái Bèo sang văn hoá Hạ Long.
Một số lượng lớn các di vật thuộc thời kỳ đá mới như đồ đá, đồ gốm và xưong răng động vật đã được tim thấy ờ Cái Bèo. Dồ đá có các loại hình như rìu, đục, công cụ mũi nhọn, bàn mài và các lOcỊi kê, chì lưới, chày nghiền thuộc nhóm công cụ sán xuất. Đồ gốm được trang bị nhiều hoa văn khác nhau như văn đan, khắc vạch, trô’ lỗ và văn thừng. Chạc gỗ là loại hình di vật dộc đáo cũng được phát hiện tại đây. Chinh việc tìm thấy dụng cụ trên ở di chỉ này giúp du khách hình dung những cư dân ỏ' đây đã biết làm sợi lưới vó, dây câu để đánh bắt hải sản. Các hoa văn trên đồ gốm kiểu văn đan lóng mốt, lóng hai hoặc lóng thúng là nhũng dấu tích cùa nghề đan tre ở nưóc ta có niên đại cách ngày nay trên 5000 năm. Nhũng cư dân đầu tiên ớ Cái Bèo là con cháu trực tiếp của nhũng người Việt cổ truức kia dã từng sống trong các hang động ờ Áng Giũa, Eo Bùa, Hang Đục thuộc đảo Cát Bà. Họ đã ròi bỏ hang động đến quần tụ lâu dài ỏ' đây và tạo nên một di chỉ cư trú ven biển độc đáo.
Theo http://www.vietgle.vn
Cái Bèo - làng chài lóii nhất cả num: th(Vi tiền sử
Kết thúc đ ọ t khai quật, kháo CÚXI di chỉ Cái Bèo trên đảo Cát Bà huyện Cát Hái, Hải Phòng từ 12/2006 đến 1/2007, các nhà kháo cổ học nhận định: Di chỉ Ccái Bèo hội tụ đủ điều kiện là một di sán văn hoá biển tiền sử Việt Nam, xứng đáng được xếp hạng cấp quốc gia.
Đọt khai quật do Sở Văn hoá - Thông tin thành phố Hải
Những nền văn haá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 49
Phòng phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam thực hiện. Các nhà khảo cổ học đã thu được 137 hiện vật bằng đá, 1.424 mảnh gốm thời tiền sử và 568 tiêu bản di cốt động vật, vỏ nhuyễn thể biển cùng nhiều tài liệu về địa tầng, di tích lịch sử khác. Họ khẳng định: Cái Bèo (Cát Bà) là noi cư trú của quần thể ngư dân tại một làng chài biển cổ có quy mô lớn nhất nước ta cách đây hàng nghìn năm. Tại đây, cư dân tiền sử đã sinh sống lâu dài và phát triển trải qua nhiều thời đại, từ Trung kỳ đá, Hậu kỳ đá đến Son kỳ đồng thau; phản ánh quá trình phát triển của người Việt tại khu vực từ văn hoá Cái Bèo sang văn hoá Hạ Long.
Những người trực tiếp khảo cứu đã khuyến nghị: Trước mắt, di chỉ Cái Bèo cần được giữ gìn, bảo vệ chu đáo; từng bước đầu tư xây dựng bảo tàng tại chỗ phục vụ việc nghiên cứu lâu dài tiến tới xây dựng bảo tàng di tích ngoài trời. Phạm vi diện tích quy hoạch đuực xác định rộng 8.500 m2 (từ dưới chân núi phía Bắc của đảo đến quá hàng rào cách ngăn giữa trại tôm giống Cát Bà với khu đất của Công ty dịch vụ nuôi trồng thuỷ sản Trung ưong).
H.N - Theo TTXVN
50 Tủ sách 'Việt Nam - đất nước, con nguàí'
VĂN HOÁ ĐA BÚT (6.000 - 5.000 TCN)
Cư dân văn hoá Đa Bút chiếm lĩnh đồng bằng và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước. Vào hậu kỳ thời đại đồ đá mói, cách ngày nay khoảng ó.ooo - 7.000 năm, sau nhiều đợt biển tiến, biển lùi, sang thế Hôlôxen, đồng bằng sông Mã đã hình thành tưong đối ổn định vói tài nguyên phong phú, đầy hấp dẫn, đã lôi cuốn chủ nhân văn hoá Hoà Bình - Bắc Son ở vùng núi rời khỏi các hang động - noi cư trú hàng ngàn năm, tiến xuống khai phá miền đồng bằng trước chân núi. Nền nông nghiệp trồng lúa nước ra đời. Cùng với dân cư văn hoá Hạ Long ở phía Bắc, văn hoá Quỳnh Văn ở phía Nam, người nguyên thuỷ ở Thanh Hoá làm nên một nền văn hoá Đa Bút độc đáo, làm phong phú thêm diện mạo văn hoá của các bộ lạc nguyên thuỷ sinh sống trên toàn cõi Bắc Việt Nam.
Văn hoá Đa Bút
Theo hiểu biết hiện nay, văn hoá Đa Bút gồm hệ thống các di chỉ Đa Bút (xã Vĩnh Tân), Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh), làng Còng (xã Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc, Cồn cổ Ngựa (xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung) và gò Trũng (xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc). Khai quật và nghiên cúu hệ thống di chi này, các nhà kháo cổ học đã chứng minh rằng chủ nhân của văn hoá Đa Bút theo quá trình lùi dần của biển, ngày càng chiếm lĩnh vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá. Kết quả khai quật và nghiên cúti các di chỉ văn hoá Đa Bút cho thấy cư dân nguyên thuỷ giai đoạn này đã bước vào thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ phát triển. Nhờ nông nghiệp lúa nước được đẩy mạnh, đời sống đã ổn định, dân số tăng nhanh, đồng thời các nghề thủ
Những nền văn hoá cổ trên ỉánh thố Việt Nam 51
công phục vụ sản xuất nông nghiệp và đánh cá được mở rộng. Tại đồi vỏ hến Đa Bút
(Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) đã
tìm được nhiều chiếc rìu
làm bằng đá cuội, chỉ mài ở
lưỡi và khá nhiều mảnh gốm
còn thô vụng, độ nung thấp.
Đồ gốm ở đây đã phát triển
hon đồ gốm trong văn hóa
Bắc Son. Chủ nhân di chỉ Đa
Bút là những người săn bắt,
đánh cá và cũng đã biết đến
thuần dưỡng súc vật như bò,
chó... Khảo cổ học xếp di chỉ
này vào giai đoạn “đá mới
cuối Bắc Son”.
Tại đồi vỏ liến Đa Bút (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) đã tỉm được nhiều chiếc rìu làm bằng đá cuội, chỉ mài ở lưỡi
và khá nhiều mảnh gốm còn thồ vụng, độ nung thấp
Tám mưoi năm phát hiện và nghiên cứu Văn hoá Đa Bút
Khu vực sông Mã là quê hưong của nhiều nền văn hóa cổ, có vị thế quan trọng trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Trong số nhũng văn hóa khảo cổ hình thành, phát triển và tỏa sáng trên đôi bờ sông Mã, Văn hóa Đa Bút là một trong những văn hóa khảo cổ có vị thế quan trọng trong thời đại đá mới ở Việt Nam và khu vực.
Tính từ khi nhũng di vật thuộc Văn hóa Đa Bút được phát
52 Tii sách 'Việt Nam - dắt nước, con nợưài'
hiện (năm 1926) đến nay đã 80 năm. Di tích Đa Bút được học giả phương Tây phát hiện và khai quật đầu tiên nhưng việc điều tra, nghiên cứu, phân lập thành một Văn hóa riêng - Văn hóa Đa Bút, công lao thuộc về các nhà khảo cổ Việt Nam.
Văn hóa Đa Bút mang tên di tích khảo cổ học Đa Bút thuộc thôn Đa Bút, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tinh Thanh Hóa. E.Patte là người đầu tiên đã phát hiện và khai quật di tích này vào năm 1926. Kết quả khai quật đầu tiên cho biết đây là dạng di tích Cồn vỏ nhuyễn thể - Cồn Hến (KỊoken-modding)
như kiểu “đống rác bếp”. Những di vật phát hiện đầu tiên như rìu đá, cuốc đá, bàn nghiền, chày nghiến, đồ gốm đã cho biết di tích này có niên đại đá mới.
Hơn nửa thế kỷ, không có phát hiện thêm những di tích cùng loại và những hiểu biết mới về di tích này nên di tích khảo cổ học Đa Bút chi được xem là cái gạch nối giữa sơ kỳ và hậu kỳ thời đại đá mới ờ Việt Nam. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, với một loạt các di tích kiểu Đa Bút được phát hiện, nghiên cứu, thuật ngữ Văn hóa Đa Bút mới được xác lập.
Sau 80 năm nghiên cứu, các nhà khảo cổ đã xác định được nội dung, đặc trưng văn hóa và vị thế của Văn hóa Đa Bút trong hệ thống văn hóa đá mới ớ Việt Nam. Khi phát hiện ra Văn hóa Đa Bút, các học giả phương Tây cho rằng, đây là di tích ngoài trời thuộc Văn hóa Bắc Sơn, sau đó với những phát hiện mới về hậu kỳ đá mới ở Việt Nam, di tích này được xem như là giai đoạn nối giữa sơ kỳ và hậu kỳ mới. Sau những phát hiện và khai quật Cồn Cổ Ngựa, Cò Trũng, Bản Thủy làng Còng (Thanh Hóa) và các phát hiện ở Hang Sáo, Đồng Vươn (Ninh Bình) nhận thức về địa bàn phân bố và môi truờng của Văn hóa Đa Bút được nhận thức lại. Đến nay có thể khẳng định được địa bàn hoạt động của chủ nhân
Những nển văn hoá cổ trên lãnh thồ Việt Nam 5 3
Văn hóa Đa Bút không chỉ giới hạn ở châu thổ sông Mã thuộc tính Thanh Hóa mà còn mở rộng đến phía nam sông Đáy thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình và tiến ra biển. Sự phân bổ trên mặt không gian rộng từ vùng núi đến vùng đồng bằng, ven biển với nhiều loại hình di tích khác nhau đã cho thấy môi trường văn hóa đa dạng của Văn hóa Đa Bút.
Thành tựu quan trọng của 80 năm phát hiện và nghiên CÚXI Văn hóa Đa Bút không chi là phát hiện thêm các di tích, xác định được nội dung bước phát triển của văn hóa này mà quan trọng là ở chỗ đã nhận ra những đặc trưng cơ bản của Văn hóa Đa Bút.
“Sự nảy sinh của đồ gốm đồng thời với sự hoàn thiện kỹ thuật mài là hai nét đặc trưng quan trọng nhất tạo nên bộ mặt của Văn hóa Đa Bút” (Trần Quốc Vượng).
Đồ gốm Đa Bút đến giai đoạn cuối có sự phát triển về loại hình kỹ thuật, hoa văn. Độ nung gốm cao hơn, các loại hoa văn và kiểu dáng phong phú hơn. Sự có mặt các loại đồ gốm mỏng, hoa văn đa dạng, sưong gốm mịn hơn được xem là sự phát triển của kỹ thuật chế tạo đồ gốm.
Tuy địa bàn phân bố của Văn hóa Đa Bút rộng nhưng đồ gốm Đa Bút có sự thống nhất cao và thể luận được phát triển về mặt kỹ thuật. Đồ gốm Đa Bút được xem là yếu tố văn hóa nổi trội mang tinh riêng biệt của chủ nhân Vãn hóa Đa Bút. Đặt đồ gốm Đa Bút trong nền cảnh thời đại mới ở Việt Nam có thể xem gốm Đa Bút là tập họp sớm nhất. Địa bàn phân bố của Văn hóa Đa Bút được xem là trung tâm sán xuất đồ gốm sóm ở Việt Nam.
Giai đoạn đầu, tứ các hang động thung lũng tiến ra chiếm lĩnh vùng đồng bằng truớc núi săn bắt và hái lượm còn chiếm vai trò chủ đạo nhung đến giai đoạn cuối vói việc chiếm lĩnh vùng
54 Tú sách ‘Việt Nam - đất nưác, can người"
ven biển, người Đa Bút đã có sự chuyển biến lớn trong đời sống. Kỉnh tế sản xuất nông nghiệp thuần dưỡng động vật và khai thác biển khoi đã tạo nên buức chuyển, một quá trình đổi mới trên chặng đường phát triển của Văn hóa Đa Bút. Đó là một quá trình tiến tới xác lập một nền kinh tế khác hẳn thời kỳ Văn hóa Hòa Bình. Đa Bút là một văn hóa đá mới châu thổ trồng lúa nước mang sắc thái văn hóa biển. Qua nghiên cúu, đến nay đã nhận ra một trục chính theo hướng Tây - Đông, phản ánh một quá trình mở rộng địa bàn cư trú vùng đồng bằng truúc núi phía Tây đến tận sát bờ biển phía Đông - theo dòng chảy của sông Mã. Từ một di tích khảo cổ học Đa Bút, đến nay Văn hóa Đa Bút đã được phân thành các giai đoạn phát triển khác nhau.
Văn hóa Đa Bút có thể gọi là một phút: hệ phát triển văn hóa lâu đài từ sau Văn hóa Hòa Bình đến cuối đá mới - mà thục chất là một quá trình “đá mói hóa" đuục thực hiện trong sự chuyển đổi môi truừng từ các thung lũng đá vôi Hòa Bình và đã tạo nên một buóc ngoặt lớn trong quá trình phát triển của tiền sử Việt Nam.
Những bằng chúTig khảo cô’ tìm được đã cho thấy, nghề dệt vải có từ thời đại đá mới, cách ngày nay khoảng 6.000 năm. Nghề dệt vải nguyên thủy thực chất là sự phát triển của các kỹ năng đan lát bằng mây tre được thay thế bởi nhũTig sợi vỏ cây nhỏ mảnh hon. Và như vậy quá trình phát sinh kỹ năng dệt vái gắn liền với sự ra đời và phát triển của hai yếu tố kỹ thuật: tạo sợi vỏ cây và tạo ra nhũng dụng cụ “đan lát” cho loại hình sợi nhỏ mảnh này - que dẫn, bàn dệt và máy dệt. Qua nhũng bằng chúng trong khảo cổ học và phát hiện nhũng bằng chúng sớm nhất của việc xe xoắn sợi vỏ cây ở Việt Nam xuất hiện vào khoảng thiên niên kỷ thứ 4 tr.CN. Dấu vết của những sợi làm từ vỏ cây được xe xoắn đầu
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thố Việt Nam 5 5
tiên đã phát hiện trên bề mặt một số mảnh gốm cổ thuộc giai đoạn muộn của văn hóa Đa Bút - một nền văn hóa khảo cổ học thời đại đồ đá mói phân bố chủ yếu ở các thung lũng và đồng bằng hai bên sườn dãy Tam Điệp, nay thuộc địa phận Ninh Bình và Thanh Hóa, khi mà mực nước biển đang dâng cao tới mức 4 - óm so với hiện nay.
Trước đó, các sợi buộc quanh những bàn đập gỗ dùng trong quá trình tạo
dáng đồ gốm là những
sợi vỏ cây không được
xe xoắn. Việc sử dụng
sợi xe xoắn vói nhũng
dụng cụ chuyên biệt
là một bưóc tiến quan
trọng trong lịch sử kỹ
thuật loài người.
Bời vì, xét trên phưong diện tiến trình kỹ thuật học, thì kỹ
Nhũng vệt in sợi vỏ cây được xe xoắn trên đồ gốm Đa Bút cách ngày nay
5 - 6 ngàn năm
năng xe xoắn sợi không chí đon thuần có ý nghĩa trong việc tạo ra nhũng dây buộc, đan bền chắc hon mà còn mở đường cho hàng loạt kỹ thuật nguyên thủy khác có sử dụng lực xoắn, lực đàn hồi, quy luật xoay tròn trên một điểm (ví dụ bàn xoay trong nghề gốm, tiện gỗ, đá...).
Kỹ nàng xe xoắn sợi vỏ cây thời văn hóa Đa Bút gắn liền vói một dụng cụ thường đưọc gọi là dọi xe chỉ. Tại địa điểm Gò Trũng (huyện Hậu Lộc, tinh Thanh Hóa) thuộc nền văn hóa này các nhà khảo cổ đã phát hiện một hiện vật đá mỏng dẹt được mài tròn, đường kính gần lOcm, ở giữa có khoan lỗ có
56 Tú sách 'Việt Nam - đất nước, can ngưíắ'
chức năng tương tự như quả dọi xe chỉ bằng đất nung sau này. Tác động lực một chiều của con người vào rìa cạnh phiến đá tròn sẽ khiến nó quay tít quanh trục que cắm và nhờ thế làm sợi dây tuức từ vỏ cây xoắn dần lại, trờ nên săn chắc, đanh gọn hon. Đây chính là tiền để kỹ thuật cho phép phát triển kỹ thuật đan lát tre nứa truúc đây thành việc dệt ra các tấm lưới, tấm vải với sự thay thế các nan tre mây bằng các sợi vỏ cây được xe xoắn đó. Hàng trăm quả “chì lưới" bằng đá cũng đã được phát hiện ở địa điểm Gò Trũng nói trên. Phát hiện này giúp khẳng định sự tồn tại của lưới đánh cá ớ Việt Nam ít nhất cũng từ ó.000 năm trước. Như vậy, sự xuất hiện của kỹ thuật xe xoắn sợi vỏ cây và bằng chúng gián tiếp của lưới đánh cá là tiền đẻ kỹ thuật cho sự ra đời của nghề dệt vải thời đại đá mới Việt Nam cách ngày nay 6.000 năm.
Vấn đề nhân chủng - chủ nhân của Văn hóa Đa Bút đến nay đã có thêm những cứ luận khoa học mới. Sau những phát hiện di cốt người ở các di tích thuộc Văn hóa Đa Bút, nhất là sau khi phát hiện một loại di cốt người ở di tích Cồn cổ Ngựa, vấn đề nhân chủng cùa văn hóa này có thêm những tư liệu khoa học, tài liệu mói đã cho biết: Chù nhân Văn hóa Đa Bút xưa rất gần với chủ nhân Văn hóa Đông Sơn.
Nghiên cmi MU,I irinh chiếm lĩnh châu thổ sông Mã của cư dân Đa Bút tronu II1'I| liên hệ giữa con người và môi trường, có thể nhận ra môi licn hệ giữa Văn hóa Đa Bút với quá trình kiến tạo châu thổ sông Mã và sự dao động cùa mực nước biển. Tài liệu địa chất và tài liệu khảo cổ học đã cho thấy sự biến đổi của môi trưÒTig trước biển tiến Holoceme trung và sự trờ lại của cư dân Đa Bút khi biển lùi.
Theo 77/0 Vrt Nguyễn Việt
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thồ Việt Nam 57
VĂN HOÁ BÀU TRÓ
Hồ Bàu Tró - Vùng di tích v(Vi những di chi khảo cổ học của người Việt
Đứng trên đồi cát thuộc phường Hải Thành nhìn xuống, thấy biển và hồ chỉ cách nhau vài gang tay. Những ngày biển nổi sóng lớn cứ tưởng như biển sẽ hòa nhập vào với hồ. Lạ thay, dù chỉ cách nhau gần như vậy nhưng nước hồ lại ngọt như là nước suối trên rừng. Người dân thành phố Đồng Hới trước đây thường ra hồ lấy nước về giặt quần áo cho trắng. Nước hồ chủ yếu rịn ra từ cát nên rất trong mát và sắc, có thể tẩy được áo quần.
Đây là một thắng cánh, vùa là một vùng di tích với nhŨTig di chỉ khảo cổ học của nguôi Việt cổ để lại. Noi đây các nhà khoa học đã tìm ra dấu tích của nguừi nguyên thủy tại Quảng Bình.
Hồ này nổi tiếng về khảo cổ học khi các nhà khảo cổ Pháp và Việt Nam đã khai quật các hiện vật có niên đại 5000 năm tại hồ này. Các hiện vật Bàu Tró là nhũTig di vật quan trọng cho việc nghiên cứu dấu tích cùa người Việt tại khu vực Trung Bộ.
Vào mùa hè năm 1923, có hai thông tin viên người Pháp của trường Viễn Đông Bác cổ là Max và Depiruy đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ học tại Bàu Tró. Cuối mùa hè năm đó, nhà địa chất kiêm khảo cổ học Etinen Patte đã tổ chức khai quật và công bố nhũug hiện vật của thời tiền sử đồ đá mới. NhũTig hiện vật này gồm nhiều rìu đá, mánh tước, hai hòn ghè bằng thạch anh, bàn nghiền hạt mảnh gốm vỡ...
Nhĩmg năm tiếp theo, trên địa bàn các tỉnh Hà Tĩnh đến thừa thiên-Huế, các nhà khảo cổ tiếp tục phát hiện nhiều di
58 Tú sách 'Việt Nam ■ đất nuức, con người'
chí tưong tự như: Thạch Lâm, Cồn Lôi Một,...
Sau năm 1975, tiếp tục khảo sát di chỉ Báu Tró, Ba Đồn I, Ba Đồn II, cồn Nền.
Hiện vật thu được gồm 31 rìu, bôn đá, 47 bàn mài, 7 chày, 1 vòng say, nghiền, 3 mũi nhọn, 2 phiến tước,...
Mùa xuân năm 1980, Trường Đại học Tổng họp Huế tổ chức khai quật lại di chỉ Bàu Tró ỏ' khoảng cách cách mép nước hồ lúc đó 40m, cao hon mặt nước 2,3m, cách hố khai quật cùa Patte hon lOOm về phía Tây. Hiện vật thu được gồm có nhiều rìu, bôn đá, bàn mài, chày nghiền, mũi nhọn và vô số các mảnh gốm vỡ của các loại nồi, niêu, bình, vò...
Và từ đó các nhà khảo cổ học đã lấy tên của di chỉ này để đặt cho nền văn hoá hậu kỳ đá mói phân bố ở vùng ven biển Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là văn hóaBàuTró.
Hon 20 di tích thuộc văn hoá Bàu Tró đã được phát hiện và nghiên cún, chúng là những di tích cồn sò, cồn cát, cồn đất, phân bố dọc ven biển các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Hiện vật đá bao gồm rìu, bôn, cuốc, dao, dao cưa, mũi khoan, chày, bàn nghiền, hòn ghè, bàn mài, giáo, đồ trang sức, phác vật và mảnh tước. Đặc biệt riu, bôn, cuốc là nhũng công cụ sản xuất quan trọng nhất đều được mài toàn thân và rìu bôn có vai là công cụ đá tiêu biểu nhất của văn hoá Bàu Tró. Đây là đặc trưng quan trọng phân biệt giữa văn hoá Bàu Tró với các văn hoá đá mới khác.
Ngoài hiện vật đá, đồ gốm khá phong phú và đa dạng, ổn định về chất liệu, loại hình và hoa văn trang trí, trong đó đặc trung nhất là loại gốm gắn tai, trang trí văn in mai rùa, văn khắc vạch hình khuông nhạc trên nền văn thừng, kết họp vói tô màu
Nhùng nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 59
đỏ hoặc đen ánh chì. Nhìn chung, văn hoá Bàu Tró đã đạt đến trình độ chế tác đá cao và làm gốm bằng bàn xoay, kiếm sống bằng thu lượm, săn bắt, đánh cá, làm nông nghiệp và chăn nuôi.
Cư dân trồng lúa cuối thời đại đồ đá mới ở vùng đồng bằng và ven biển không phải ai xa lạ mà chính là con cháu của các bộ lạc - chù nhân của văn hóa Quỳnh Văn trước đó. Nền văn hóa mà họ tạo ra được các nhà khảo cổ học gọi là văn hóa Bàu Tró.
Môi trưòng sinh thái: là môi trường đồng bằng ven biển, thích họp cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp và đánh cá. ở thời kỳ này, công cụ
phổ biến nhất là rìu đá. Có
thể chia lưỡi rìu đá thời
này ra làm hai loại: một
loại hình chữ nhật hay
hình thang và một loại có
cái chuôi nhỏ đê’ lắp cán
vào. Loại riu có chuôi tra
cán được gọi là rìu có vai.
Rìu đá ở Nghệ An có mặt
cắt ngang hình bầu dục
hay hình thấu kính. Họ đã
k tjjJ Ĩ iiím L i
biết chọn các loại đá thích họp để làm đá mài giống
như ngày nay. Có loại đá mài là đá cát (sa thạch), có hạt cứng, dùng để màl phá lúc đầu. Có loại bằng đá phiến, mịn, dùng để mài trau, làm sắc lưỡi khi chiếc rìu đã thành hình. Có một số lưỡi rìu đá nhỏ, được mài nhẵn bóng, vuông vắn, xinh xắn, chứng tỏ kỹ thuật mài đá đã đạt trình độ cao. Những bộ lạc ở khu vực có đá để có thể làm rìu thường dụng lên những xưởng
60 Tủ sách 'Việ/ Nam ■ dểt nước, con nợưử '
chế tạo rìu đá để trao đổi với các vùng khác
Ngoài làm rìu, nghề làm đồ gốm cũng ngày càng phát triển. Cư dân văn hóa Bàu Tró đã dần dần từ bỏ loại đồ gốm có đáy nhọn và kỹ thuật nặn đồ gốm bằng tay, tiến tới dùng loại đồ gốm có đáy tròn làm bằng bàn xoay. Càng về sau, đồ gốm càng tốt và đẹp. Trong các Di chỉ ớ Cồn Điệp Trại Múng (Quỳnh Sơn, Quỳnh Lun) tìm được đồ gốm cạn lòng, có chân đế tròn nhưng miệng lại là hình bốn cạnh. Trong Cồn Điệp ở Quỳnh Lưu lại tìm thấy đồ gốm đặc biệt, giống như một cái cốc đặt trong một cái đĩa có thành cao, nhung cốc và đĩa lại dính liền nhau, ở giai đoạn này, nguời nguyên thủy còn dùng đá son mài ra rồi bôi lên đồ gốm. Các nhà khảo cô’ học đã tìm được loại đồ gốm tô son (hay gốm tô thổ hoàng) ở Rú Ta (Diễn Châu), Trại ối (Quỳnh Lưu)...
Các bộ lạc cuối thời đại đá mới ở Nghệ An, chủ nhân của Văn hóa Bàu Tró còn là nhũng người trồng lúa. Nhờ sự phát triển của nông nghiệp trồng lúa, các bộ lạc văn hóa Bàu Tró đã có thể sống trên nhiều địa hình khác nhau. Đời sống vật chất và tinh thần cũng đã phong phú hon về nhiều mặt. Bấy giờ họ đã biết dệt vải. Chứng cứ của nghề dệt là nhũng bánh xe quay sợi nhỏ (còn gọi là dọi xe chỉ) bằng đất nung tìm được trong nhiều di chi. Con người thời này cũng đã có nhiều đồ trang sức hon, không phái chỉ đeo những vỏ sò, vỏ ốc như trước. Và đây cũng là giai đoạn công xã thị tộc mẫu hệ.
Có nguồn gốc từ văn hóa Quỳnh Văn và có quan hệ giao lưu với cư dân văn hóa Hoa Lộc, Hạ Long ở phía Bắc, với cư dân Tây Nghệ An và Quáng Bình, với cư dân văn hóa Xóm Cồn ở phía Nam và với các bộ lạc miền núi Trung Bộ Tây Nguyên. Văn hóa Bàu Tró là một thành tố đóng góp vào sự ra dời của văn hóa Sa Huỳnh.
Theo NTO.vn tổng họỊ)
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 61
VĂN HOÁ BIỂN H ồ
Biển Hồ là tên của người Kinh đặt, còn tên thật của nó là Tơ Nuêng do Laíont phát hiện năm 1953.
VỊ trí: nằm ở phía Bắc Gia Lai, cách trung tâm thành phố Pleiku khoảng 7km, thuộc xã Biển Hồ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Biển hồ Tơ Nưng nguyên là một miệng núi lửa ngùng hoạt động đã hàng trăm triệu năm. Hồ có hình bầu dục, diện tích 230ha, xung quanh hổ là núi bao bọc và rừng thông xanh ngút ngàn, tỏa mát quanh năm.
Các nhà khảo cổ học tìm thấy nơi đây hàng trăm di vật văn hóa cổ của nền văn hóa Biển Hồ thòi hậu kỳ đá mới như rìu đá, mộ chum... là minh chứng cho nền văn hóa thời tiền sử tại vùng đất Tây Nguyên.
Các di tích nằm trên đất của ó huyện, thị: Chu Pah, Đức Cơ, Chư Prông, Mang Yang, Chư Sê, thị xã Pleiku. Phân bố trên sường Đông và Bắc của cao nguyên ở độ cao 700 - 800m.
Môi trường: là môi trường cao nguyên đất đỏ, đất đai màu mỡ, thảm thực vật đa dạng, có nguồn đá lửa thuận lợi cho việc chế tác công cụ,...
Tầng văn hóa có sự thống nhất: Cấu tạo từ đất badan, có lẫn tro, than, mảnh gốm, đá. Các di tích vừa là nơi cư trú vừa là khu mộ táng.
Đồ đá: chủ yếu được chế tác từ loại đá lửa và loại đá Phranite có sẵn ở cao nguyên, có uu điểm cứng nhưng dẻo, có độ bóng cao.
- Đá lửa được chế tác thành rìu tứ giác; đá Phranite chế
62 Tú sách 'Việt Nam - đất nước, con người'
tác thanh rìu kiểu “răng trâu”; đá badan chế tác thành đồ trang sức, các loại đá ráp,...
- Đồ đá gồm các loại: Rìu, bôn, mảnh tước,...kỹ thuật mài, cưa, khoan, đánh bóng phát triển mạnh.
- Rìu, bôn có nhiều loại, trong đó có rìu, bôn có vai và rìu, bôn kiểu “răng trâu” chiếm ưu thế. Rìu hình “răng trâu” kích thước lớn, mài toàn thân, hẹp và dài, một mặt lưỡi lõm, mặt kia hoi lồi.
- Đồ trang sức gồm các loại vòng đá mặt cắt hình chữ T, mài bóng và đặc biệt là loại khuyên tai hai đầu thú. Đồ gốm: là loại gốm thô, chế tạo bằng đất sét pha, bằng phưong pháp bàn xoay, độ nung tưong đối cao. Loại gốm có xưong và mặt ngoài đỏ chiếm UTI thế.ị
- Loại hình đồ gốm phong phú, phổ biến là loại nồi miệng loe cong, bụng phình, thân nở, đáy tròn,...
- Hoa văn trang trí; văn thừng chải mịn, khắc vạch, in chấm, trổ lỗ. Thủ pháp khắc vạch tạo nên nhiều mô típ: Đoạn thẳng song song, đoạn thẳng gắp khúc, các đường cong liên hoàn,...
- Chủ nhân văn hóa Biển Hồ cư trú trên vùng đất đỏ cao nguyên, lấy săn bắt, hái lượm và có hoạt động kinh tế nuơng rẫy. Đồ gốm có trình độ phát triển cao.
- Dấu ấn văn hóa Biển Hồ có quan hệ với nhiều vùng trong khu vực từ vùng biển miền Trung cho đến tận Luông Pha Băng (Lào), Sam Rông Sen (Campuchia).
Niên đại: thuộc Hậu kỳ thời đại đá mới, tồn tại trong khoảng từ 4500 - 3600 năm.
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 63
TỪ LUNG LENG ĐÊN BIỂN H ồ
Bằng nguồn dữ liệu từ các cuộc khai quật, các nhà khảo cổ học đã phác dựng bức tranh văn hóa bản địa Tây Nguyên - một diện mạo huyền bí đang được hàng triệu du khách trong và ngoài nước tìm đến. PV Dalat Info đã tìm về di chỉ khảo cổ học Lung Leng và ....
Bằng nguồn dữ liệu từ các cuộc khai quật, các nhà khảo cổ học đã phác dựng bức tranh văn hóa bản địa Tây Nguyên - một diện mạo huyền bí đang được hàng triệu du khách trong và ngoài nước tìm đến. PV Dalat Info đã tìm về di chi khảo cổ học Lung Leng và Biển Hồ như tìm về với cội nguồn của tổ xưa, noi màu xanh ngắt của rừng già chảy tràn trên nhũng đinh núi mờsưong...
Huyền thoại Lung Leng
Dòng suối Lung Leng nằm ờ bờ Bắc sông Sê San cách thị xã Kon Tum 15km về phía Tây, thuộc xã Sa Bình - huyện Sa Thầy - đã trở thành một huyền thoại sống động khi phát hiện một di chỉ khảo cổ học đặc biệt quan trọng, có quy mô khai quật lớn nhất
Việt Nam và
khu vực vào thời
điểm 2001. Từ
đó đến nay,
nhiều cuộc khai
quật ờ đây đã
làm thay đổi
cách nhìn nhận Khái quát khu di chí Lung Leng
64 Tủ sách ’Việl Nam ■ dắt nước, con người"
vể Kon Tum, về Tây Nguyên - nơi từ hơn 60 ngàn năm trước, tổ tiên chúng ta đã khai phá, sáng tạo một cơ tầng văn hóa đặc sắc, biến nơi cư trú của mình thành một vùng đất đầy năng động, có mối giao lưu rộng mờ với các nhóm cư dân ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Từ vùng bán ngập nước của lòng hồ thủy điện laly, chúng tôi tìm về cội nguồn dòng sông mẹ của Lung Leng, là sông Đăk Bla và sông Krông Pôkô, ở đâu cũng lưu giữ dấu vết khai phá đồi rừng trên vùng địa hình kiểu núi khối tảng trên nền nguyên sinh, một bình nguyên có những dải đồi lượn sóng xen kẽ núi và thung lũng. 100 hố khai quật ở sông Lung Leng đã mờ ra nhiều tầng văn hóa chứa vết tích cư tích cư trú, vết tích bếp, lò nung, 120 mộ táng và 20 lò luyện kim loại của cư dân cổ. Đặc trưng cho giai đoạn hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí. Với nhiều công cụ cuội, ghè đẽo chứa dấu ấn văn hóa thời đại đá cũ. Lung Leng được gọi là dl chỉ khảo cổ học đặc biệt quan trọng bởi phát hiện 22.000 tiêu bản đồ đá. Trong đó có công cụ ghè đẽo, công cụ mài lưỡi, công cụ mài toàn thân (cuốc, bôn hình răng trâu, rìu đá, dao đá...) công cụ để chế tác đá như bàn mài, hòn ghè...
PGS.TS Nguyễn Khắc Sử khẳng định: “Lung Leng không chỉ là nơi cư trú, nơi chế tác gia công đá, chế tạo đồ gốm, nơi luyện kim mà còn là một khu mộ táng lớn, có tầng văn hóa dày, có số lượng di vật phong phú, phản ánh các giai đoạn phát triển cơ bản của lịch sử: Từ thời đại đá cũ đến thời đại đá mới, qua thời đại kim khí, thậm chí cả vết tích khảo cổ học thời kỳ quân chủ”...
Nếu di chỉ khảo cổ học Lung Leng là tiêu biểu cho hệ thống văn hóa tiền sử lun vực sông Pô Kô, thì các di chi tương
Những nền văn haá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 65
đồng như thôn Năm, Sa Nhơn... lại còn có mối liên hệ văn hóa rộng hơn với các di tích Sa Huỳnh ven biển miền Trung. Di chi thôn Năm nằm ở tả ngạn sông Krông Pôkô, thuộc xã Kroong, thị xã Kon Tum. Ncri đây các nhà khảo cổ phát hiện 220 hố đất màu đen, được cho là các hố cột nhà, là những dấu tích cho phép hình dung các buôn làng cổ; nơi liên quan đến kiến trúc lều trại cỡ nhỏ giai đoạn tiền sử; cỡ vừa hình tròn hoặc gần tròn của giai đoạn sơ sử và kiến trúc nhà hình chữ nhật giai đoạn cận đại.
Khác với ở Lung Leng - nơi phát hiện nhiều loại hình mộ chum, mộ kè gốm, mộ đất - ở thôn Năm, các nhà khảo cổ chỉ tìm thấy loại hình mộ vò, chủ yếu là vò nhỏ, những mộ này được chôn không sâu, đồ tùy táng không nhiều, chủ yếu là nồi vò nhỏ, có mộ chôn theo
rìu, bôn đá, rọi xe
sợi, đá có lỗ, bàn
đập, vòng đá, hạt
chuỗi, rìu đồng...
Chúng tỏ chủ
nhân nhũng ngôi
mộ này đều là cư
dân nông nghiệp
thuộc giai đoạn tiền sử. Hiện vật bảng đá phát hiện tại Lung Leng PGS.TS Nguyễn Khắc Sử cho rằng, cho đến nay, tại Kon Tum đã phát hiện 58 địa điểm khảo cổ học thời tiền sử, nơi lưu giữ vết tích hoạt động của con người thời nguyên thủy. Dưới góc độ lịch sử văn hóa, mỗi di tích là một ngôi làng cổ, mỗi cụm di tích là một thứ liên làng: Liên làng thứ nhất tập trung ờ ngã ba sông Krông Pôkô và sông Đăk Bla với 14 làng cổ. Liên
66 Tú sách 'Việt Nam - đất nuác, can nguài'
làng thứ 2 tập trung quanh thị xã Kon Tum vói 11 làng cổ. Liên làng thứ 3 nằm dọc hai bên bờ dòng sông Krông Pôkô với 14 ngôi làng cổ. Đây là vùng đồi cao, thung lũng hẹp, sông suối uốn khúc quanh co, với các bãi bồi nhỏ chạy dài ven sông, noi tổ tiên xưa đã dụng nên huyền thoại Lung Leng...
Lung linh Biển Hồ
Biển Hồ là di chỉ khảo cổ học đầu tiên ở Tây Nguyên được khai quật, có hiện vật phong phú, là đại diện cho nhóm di chi ử khu vực cao nguyên Pleiku được các nhà khảo cổ minh định là; Văn hóa Biển Hồ.
Biển Hồ vốn là miệng một núi lửa đã ngừng hoạt động từ lâu, nay thuộc xã Biển Hồ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Theo các nhà khảo cô’ học, trong số 3Ó địa điểm khảo cổ học tiền sử ở Gia Lai, trong đó có 31 địa điểm cư trú - mộ táng, 5 địa điểm di chi cư trú - công xưởng chế tác rìu từ đá Opal... Các địa điểm này bước đầu được xác nhận thuộc văn hóa Biển Hồ. Di chỉ khảo cổ học Biển Hồ lần đầu tiên được biết đến bởi công bố của P.B. Laíont (195Ó). Đến năm 1993, Viện Khảo cổ học Việt Nam tổ chúc khai quật 50m^ cách trung tâm Tp. Pleiku 6km theo đường chim bay, cách QL 14 khoảng 3km về phía Đông, cách di chỉ Trà Dôm 15km về phía Tây Bắc. Hiện nay, Biển Hồ đang trở thành một địa điểm du licli tim hiểu văn hóa rất hấp dẫn. Di chỉ Biển Hồ có một t<ầng '.'àn lioa l.('jp nicặt, tầng văn hóa và sinh thổ đều là đất basalte, song dụ lân chắc và màu sắc các lóp là khác nhau. Tầng văn hóa đất sẫm hon, toi hon và mật độ tập trung vết tích hoạt động của con ngưòi cao hon. Trong hố khai quật 50m^ thu được 187 hiện v<ật đá, 1.650 mảnh tưóc, 17 hiện vật bằng đất nung và 32.289 mảnh gốm.
Đồ gốm ở di chỉ Biển Hồ có mật độ 650 mảnh/lm^ Gốm
Nhúng nền văn hoá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 67
Biển Hồ có ba loại chất liệu: Gốm đỏ, gốm xám, gốm đen. Gồm các loại gốm miệng loe cong, loe gãy, miệng thẳng, cụp kiểu cóng cá vàng, miệng có cổ... Đế gốm có loại thẳng, xiên ngắn chân cao bát bồng, đế hình trụ chân xòe... Hoa văn của bát, bình, vò, nồi có văn thừng, văn khắc vạch các đường thẳng song song, trong đó có các vạch ngắn hình dạng hình học, chấm dải, đắp chỉ nổi, ấn lỗ hình vuông hoặc hình thoi; trổ ống da hình tròn
hoặc bán nguyệt; ^ 4^
miết láng trên
gốm thô đỏ; tô —— — ■*
ánh chì trên gốm
thô đen... Gốm
Biển Hồ đa số ị,
dưọc nặn bằng
tay, một số ít
bằng bàn xoay, Hiện vật đá của di chi Biển Hồ độ nung khá cao, chín đều, xưong cứng, hạt mịn. Một số được tô thổ hoàng hoặc ánh chì. ở đây vắng kỷ thuật dái cuội và để khuôn... Qua đó cho thấy:
Biển Hồ là di tích cư trú - xưởng - mộ táng, trong đó vết tích cư trú là đậm đặc nhất; niên đại hậu kỳ đá mới và sơ kỳ đồng thau, khoảng 3500 năm cách ngày nay. Cư dân cổ ờ Biển Hồ là nhũTig nguủi định cư làm nông nghiệp, có kỹ thuật chế tác đồ đá, đồ gốm tương đối cao, có thể đã được chuyên môn hóa nhất định. Họ có quan hệ chặt chẽ vối các cư dân trên cao nguyên Pleiku như Trà Dôm, Bàu Cạn, Thôn Bảy; với cư dân văn hóa Lung Leng (Kon Tum), văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình) và cư dân khác ờ ven biển Bắc Bộ Việt Nam và các cư dân tiền sử Lào, Campuchia.
68 Tủ sách 'Việt Nam - đắt nước, con ngưiú'
Đặc trưng cơ bản của vàn hóa Biển Hồ là việc sử dụng phổ biến bôn hình răng trâu làm từ Phtanite, rìu bôn có vai ghè lại lưỡi là từ đá silex, đá opal, những viền đá ghè tròn có lỗ thủng giữa, cùng với đồ gồm đất sét pha cát, chế tạo nặn tay kết hợp với bàn xoay, độ nung tương đối cao tạo ra nồi, bát bồng, vò, âu, ấm có vòi trang trí hoa văn khắc vạch... Mang dấu ấn đặc trưng của văn hóa Biển Hồ có di chỉ Trà Dôm, ở thôn An Mỹ, xã An Phú, TP. Pleiku. Nơi đây các nhà khảo cổ học đã thu được 241 công cụ lao động, trên 32.000 mảnh gốm các loại. Thể hiện Trà Dôm là nơi cư trú, nơi để mộ táng và gia công lại công cụ đá của người tiền sử, thuộc hậu kỳ đá mới, sơ kỳ thời đại đồng thau, cách ngày nay khoảng 3500 năm. Tương đồng với văn hóa Biển Hồ có di chỉ thôn Bảy, huyện Chư Prông nằm cách TP. Pleiku 30km về phía Đông Bắc theo đường chim bay. Di chỉ thôn Bảy rộng khoảng 10 ngàn m^. ở đây phát hiện tới 2134 đồ đá, gồm công cụ rìu tứ giác, rìu vai xuôi, rìu vai vuông, đốc rìu, bôn có vai, cuốc, đục, cưa, bàn mài, hòn ghè, hòn kê... và hàng chục ngàn mảnh gjốm được làm bằng bàn xoay, thể hiện ở các tiêu chí tròn đều, mỏng đều không thấy dấu kê dập.
Nguồn: http://w w w .dalathotel.vn
Những nền văn haá cổ trên lãnh thổ Việt Nam 69
VĂN HOÁ HẠ LONG (3.000 - 1.500 TCN)
Văn hóa Hạ Long
Văn hóa Hạ Long là nền văn hóa hậu kỳ đá mới (cách ngày nay khoảng 4000 - 5000 năm), phát triển qua hai giai đoạn sớm và muộn. Giai đoạn sớm được đặc trưng bởi sự tồn tại của bộ công cụ ghè đẽo là những hòn cuội không qua khâu chế tác và công cụ mài chưa hết dấu ghè đẽo. Đến giai đoạn muộn, kỹ nghệ chế tác đá đã phát triển tới đỉnh cao bằng những kỹ thuật mới như mài, cưa, khoan, đánh bóng, giũa đá để tạo vai, tạo nấc công cụ.
Đặc trưng
nổi bật nhất, làm
thành dấu ấn của
văn hóa Hạ Long,
chính là kỹ thuật
chế tác những
chiếc rìu và bôn
có vai, có nấc và
công cụ lưỡi xòe.
Những bước tiến
mạnh mẽ về kỹ thuật chế tác đá có thể là do cả sự tích lũy kinh nghiệm và do sự giao lưu, trao đổi học hỏi từ các nền văn hóa khác. Tính chất biển của văn hóa Hạ Long thể hiện ở việc pha trộn vỏ nhuyễn thể biển để chế tạo đồ gốm. Đồ gốm Hạ Long còn thô, bở và dễ vỡ. Các hoa văn thừng trên đồ gốm chứng tỏ người Hạ Long tiền sử đã biết trồng cây lấy sợi, se sợi để đan lưới hoặc làm dây câu đánh bắt cá. Chủ nhân văn hoá Hạ Long còn chế tác
70 Tú sách 'Việt Nam - dắt nước, can ngưòí'
nhiều đồ trang súx: bằng đá, xương sống cá hoặc vỏ nhuyễn thể biển. Những đồ đá và đồ trang sức đó là những sản phẩm có giá trị của cư dân Hạ Long đem giao luxi và trao đổi với cư dân khác ngoài văn hóa Hạ Long.
Năm 1938, nhà khảo cổ học nguừi Thuỵ Điển là J.An-đéc-sơn phát hiện lần đầu tiên di chi văn hoá Hạ Long ở đảo Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn và từ đó tới nay có 37 di chỉ đồng loại đã được phát hiện trên các đảo và ven bờ Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Tại các di chỉ hang Bái Tử Long và hang Đông Trong, ngoài các di vật bằng đá, gốm, các nhà khảo cổ học còn phát hiện được di cốt của người cô’ - chủ nhân của nền văn hóa Hạ Long.
Nhà khảo cổ học Nguyễn Văn Hảo cho rằng văn hóa Hạ Long được hình thành và phát triển từ văn hóa Soi Nhụ, đến văn hóa Cái Bèo - hay văn hóa Tiền Hạ Long. Ngay tại các di chỉ Cái Bèo và hang Soi Nhụ cũng có mặt cả lớp văn hóa Hạ Long. Các di vật được phát hiện trong các di chi khảo cổ ở Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long cho thấy văn hóa Hạ Long có nguồn gốc bản địa, do nhiều yếu tố cấu thành và là kết quả của sự giao lưu, trao đổi với các nền văn hóa khác, đặc biệt ở giai đoạn muộn của nó.
Kết quả khai quật ở hai hang Đông Trong (cách cảng Cái Rồng khoảng lOOm) do TS. Trình Năng Chung chủ trì tháng 12 năm 2007 đã phát hiện được nhiều thông tin giá trị, làm sáng tỏ hon về nền văn hoá Hạ Long. Tại hang Đông Trong I, các nhà khảo cổ đã phát hiện khá nhiều mảnh nổi, vò bằng gốm được bao phủ, gắn kết trong lớp trầm tích thạch nhũ. Chúng là những hiện vật điển hình của Văn hoá Hạ Long, cách ngày nay khoảng 4.000 năm. Ngoài những mảnh nồi, vò gốm còn có cả những đốt sống, xương suửn của người và xương
Những nền văn hoá cồ trên lãnh thồ Việt Nam 1 1
thú. Đây là đấu tích của khu mộ táng cổ Hạ Long. Tại hang Đông Trong II, diện tích tuy nhỏ hom nhumg các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện được khối lượng phong phú di vật đồ đá và đồ gốm. Trong số những công cụ đá, đáng chú ý là những chiếc rìu được làm bằng đá ngọc Nephrite, toàn thân mài nhẵn, trên lưỡi còn luTi lại một số vết vỡ. Đồ gốm ở di chỉ này cũng rất phong phú về loại hình và hoa văn trang trí. Ngoài hoa văn thừng chiếm vai trò chủ đạo, còn có hoa văn khắc hình sóng nước, hoa văn đắp nổi hình sin, hoa văn trổ lỗ v.v... Đặc biệt là, ở hang này, di tích mộ táng cổ chứa nhiều mảnh xương sọ, xương hàm, xương chi v.v... cũng được phát hiện. Điều lý thú là, bên cạnh các di cốt của người cổ, lần đầu tiên tại hang này các nhà khảo cổ đã phát hiện tới hơn 200 hạt chuỗi làm từ vỏ ốc, màu trắng, được mài tròn giống như chiếc cúc áo, đường kính từ 5-15 mm, ở giữa có khoan lỗ để xỏ dây. Như vậy khi đến với Hạ Long và Bái Tử Long, chúng ta không những được chiêm ngưỡng nhũmg cảnh đẹp kỳ diệu của thiên nhiên mà còn được khám phá nhiều điều bí ẩn của nền văn hóa đặc sắc mang đậm dấu ấn của những cư dân vùng biển thời tiền sử.
Nguồn: http://dulichvanhai.vn
Những di chỉ thuộc nền văn hoá Hạ Long
ở Giáp Khẩu (nay thuộc phường Hà Khánh) đã phát hiện một số di chỉ lớn thòi trung kỳ Đồ đá mới.
ở Đồng Mang (nay thuộc phường Giếng Đáy) đảo Tuần Châu, Cái Lân (nay thuộc phường Bãi Cháy) Cọc Tám (nay thuộc phường Hồng Gai) và trong nhiều hang động, nhiều mái đá trên vịnh Hạ Long, đã phát hiện những di chỉ thời đại Đồ đá mới đuợc các nhà khảo cổ học định danh là nền Văn hoá Hạ
72 Tủ sách 'Việt Nam ■ dất nước, can nguă'
Long cách đây từ 5 đến 7 ngàn năm.
Văn hóa Hạ Long và quá trình hình thành nhà nưóc Việt cổ‘‘
Văn hóa Hạ Long tồn tại trong khoảng thời gian từ 4500 - 3000 năm cách ngày nay. Đây là giai đoạn tưong ứng với thời đại hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí theo cách phân kỳ lịch sử trong khảo cổ học. Văn hóa Hạ Long phân bố trên một không gian rộng lớn thuộc ven biển và các hệ thống đảo thuộc hai tỉnh Hải Phòng và Quảng Ninh ngày nay. Văn hóa Hạ Long có những đặc trưng nổi bật sau:
1. Đây là một nền văn hóa biển. Điều này có thể khẳng định mà không sợ nhầm lẫn, bởi vì không chỉ người Hạ Long sống với biển mà tiền nhân của họ là người Soi Nhụ (thuộc văn hóa Soi Nhụ) có niên đại sơ kỳ Đá mới, tương đương Hòa Bình, Bắc Sơn cũng đã tiếp xúc, thậm chí đã sống với biển trên chính không gian phân bố của văn hóa Hạ Long sau này. Tiếp theo sau Soi Nhụ, tương đương với giai đoạn Trung kỳ đá mới cũng tại vùng đất thuộc văn hóa Hạ Long đã xuất hiện văn hóa biển Cái Bèo từ khoảng 6000 - 4500 năm cách ngày nay. Đối với văn hóa Hạ Long, yếu tố biển lại càng rõ ràng: họ cư trú trên các đảo, trên các đượng cát cạnh các vũng vịnh ven biển; họ khai thác biển bằng phương thức bắt nhuyễn thể, đánh cá bằng chài lưới, đăng đó, rào chắn, bằng lao...; họ là những con người đầu tiên trên thế giới biết chế tác thuyền đi biển: bằng chứng còn lại là một loạt rìu búa lón bằng đá cứng, bán quý không hề phát hiện được ở nơi nào khác trên đất nước ta,
Bài viết cho Bảo tàng Quảng Ninh - Đề tài khoa học "Nghiên cứu vàn hoá Hạ Long, đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy”, Tp. Hạ Long, Quảng Ninh 2004.
Những nền văn haá cổ trên lãnh thồ Việt Nam 73
ngoài phạm vi phân bố của văn hóa Hạ Long.
2. Phưorng thức sống của người Hạ Long là tiến hành các hoạt động trao đổi rộng rãi với các cư dân ven biển và với cư dân sống trong đất liền. Rìu bôn có vai có nấc, dấu Hạ Long và gốm xốp đặc trưng Hạ Long được phát hiện rộng khắp tại các văn hóa cùng thời tại đồng bằng, trung du và vùng núi thuộc Bắc Việt Nam và các văn hóa đá mới ven biển Nam Trung Quốc. Ngoài ra gần đây khảo cổ học Trung Quốc đã phát hiện đưực mỏ đá bán quý có nguồn gốc núi lửa thuộc thời đại đá mới tại khu vực Quảng Đông. Đây chính là loại nguyên liệu làm ra những chiếc rìu bôn để chế tác thuyền của người Hạ Long. Bằng ngoại suy thông thường, chúng ta cũng thấy rằng người Hạ Long còn trao đổi các sản phẩm khai thác biển để lấy lưong thực, thực phẩm của các cư dân làm nông trong đất liền. Loại Ốc tiền phổ biến ở biển Hạ Long còn đưực phát hiện trong các địa điểm thuộc văn hóa Bắc Son, Mai Pha và nhiều nơi khác, kể cả vùng Tây Bắc xa xôi.
3. Người Hạ Long có thể là các cư dân nói tiếng Malayo Polynesian [Hà Hữu Nga 1999]. Cho đến nay đã có bằng chứng chắc chắn rằng một trong những quê hương đầu tiên của người nói tiếng Nam Đảo là khu vực ven biển Nam Trung Quốc - Bắc Việt Nam. Đặc trung nổi bật của người nói tiếng Nam Đảo là các cư dân biết làm thuyền bè và di cư bằng thuyền bè sớm nhất, trên một phạm vi rộng nhất thế giới từ khắp vùng Đông Á, Đông Nam Á, châu Đại Dương, Ấn Độ Dương (Madagasca) đến tận các đảo cực Nam châu Mỹ. Ngày nay tại Việt Nam còn có một số nhóm nói ngôn ngữ Nam Đảo, đó là người Chăm, người Raglei, người Ê Đê, người Ja Rai và người Chu Ru. Sau đọt biển tiến cực đại cách ngày nay 3000 năm, một phần lớn nơi cư trú ven biển
74 Tủ sách 'Việt Nam dất nước, con người'
và các đảo bị ngập, có thể tổ tiên của các cư dân này đã dí cư dọc ven biển từ khu vực văn hóa Hạ Long vào tới khu vực Trung Bộ và Tây Nguyên. Trên đường di cư, họ có thể du nhập văn hóa hoặc hòa huyết với một số nhóm cư dân ven biển như người Mán Bạc, nguừi Hoa Lộc, nguừl Bàu Tró v.v... để hình thành nền văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng vào thời đại đồ sắt. Và chính người Sa Huỳnh đã trở thành tô’ tiên trục tiếp của các nhóm cư dân trên.
4. Nguừi Hạ Long là các cư dân sản xuất biểu tuựng: Đối với chúng tôi, một trong những biểu tượng lớn của cư dân Hạ Long chính là sức mạnh của sóng nuức. Họ đã biểu tượng hóa sức mạnh này bằng loại hoa văn đặc trung của văn hóa Hạ Long, đó là loại hoa văn chắp thêm hình sóng nước. Loại hoa văn - biểu tuụng này đã có một lịch sử phát triển rực rỡ. Không phải ngẫu nhiên mà M. Colani đã gọi nó là hoa văn hình rắn. Nhung trước khi phát triển thành biểu tượng rắn lớn - rồng, hình tu'ọng này còn đuọc biểu hiện bằng hoa văn hình chữ s, văn mép miệng vỏ sò, hồi văn. Đỉnh cao cùa biểu tượng văn sóng nước, sức mạnh ghê gớm nhất của biển cả, chính là tục xăm mình của các cư dân biển Nam Trung Quốc, Bắc Việt Nam và hầu hết các cư dân Malayo-Polynesian. Bằng tục xăm mình, họ đồng nhất hóa bản thân với sóng nuúc, với hình tượng rắn lớn - rồng sau này.
5. Rồng - Tiên như một biểu tưọng quốc gia Việt cổ: không thể phủ nhận được rằng hình tượng giao long - rắn lớn - rồng (sau này) là linh hồn vùng văn hóa cư dân Hạ Long trước khi trờ thành linh hồn văn hóa Việt cổ ở tầm quốc gia. Rồng - Tiên là cặp biểu tượng lưỡng hợp biển - núi đưọrc thể hiện bằng sự kết hợp rắn - chim [Trần Quốc Vượng 1974, 1993, 1996, 2000] chính là biểu tượng thống nhất đầu tiên trong lịch sử khu vực văn hóa Bắc Việt Nam, hay còn gọi là nền văn minh sông
Nhũng nền văn hoá cổ trên lãnh thồ Việt Nam 1 5
Hồng [Hà Văn Tấn, 1970, 1974a, 1974b, 1982]. Có thể nói sự đóng góp của các yếu tố văn hóa Hạ Long vào nền văn minh sông Hồng bằng 1/2 tổng số yếu tố văn hóa cơ bản của toàn bộ nền văn minh này. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi văn hóa Việt là nền văn minh sông nước. Một nền văn minh sông nước không chi đơn giản là con người ta sinh ra từ nước, sống với nước, mà điều chủ yếu là hệ giá trị biểu tượng nước trong toàn bộ hệ giá trị biểu tượng của quốc gia. Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà người Việt gọi tô’ quốc là Đất Nước.
Đối với văn hóa Hạ Long, mô hình thủ lĩnh địa là không hữu dụng. Giống như đặc trung của các thủ lĩnh địa, cấu trúc xã hội của văn hóa Hạ Long bao gồm các nhóm giới tính và lớp tuổi có phân cấp về phương diện xã hội, trong đó các vị thế xã hội khác nhau không phải là đã được quyết định ngay từ khi mới sinh ra. Các nhóm thân thích, chẳng hạn như họ hàng không có dấu hiệu được phân cấp, và cũng không có dấu hiệu nào cho thấy vị thế xã hội cao nhất tập trung vào địa vị thừa kế duy nhất là thủ lĩnh. Xã hội Hạ Long có lẽ là một xã hội “dân chủ” với một tập thê’ những người đúTig đầu các thị tộc, không có một nguời ở cấp bậc cao nhất trong dòng họ có vị trí cao nhất. Cũng không có chức vụ và vị thế của thủ lĩnh mang tính quyết định đối với sự thống nhất của toàn bộ xã hội. Vì vậy không có vị thủ lĩnh khai triển quyền uy của mình trước hết bằng quyền lực kinh tế, bằng cách đóng vai trò là một trọng tài duy nhất trong việc phân phối sản phẩm thặng dư; không có một quyền uy thực sự được cùng cố bằng các sức mạnh tôn giáo, cũng như bằng ân uy được khoác cho cương vị của một thủ lĩnh duy nhất như các xã hội người Indỉans châu Mỹ.
Trong xã hội Hạ Long đã có thể có các lãnh địa được đặc
76 Tủ sách ‘Việt Nam - đất nước, con người ‘
trưng bởi sự tồn tại của hệ thống trợ giúp cho một tập thể những người đứng đầu dòng tộc, tuy nhiên chưa tói mức phân chia thành các lĩnh vực chính trị và kinh kế; không có các hệ thống thể chế xã hội chặt chẽ, tuy đã hình thành hệ thống thị trường và mạng lưới buôn bán đường dài. Các “lãnh địa” của người Hạ Long có thể được phân chia không mấy rõ ràng bởi một số ranh giới tự nhiên của các vũng vịnh và đảo đá vôi thành các khu vực. Quy mô dân số của một khu vực có thể từ 500 đến trên dưới 700 người. Các khu vực này có cơ sở là các hệ thống khai thác biển, chế tác đá, làm gốm và buôn bán, trao đổi với các cư dân sản xuất lương thực trên bờ, đã có một sự phân cấp xã hội rõ ràng, chuyên môn hóa sản xuất v.v... NhuTig điều quan trọng nhất đối với người Hạ Long vẫn là việc sản xuất ra các tri thức biểu tượng về nền văn minh sông nước, về vai trò và biểu tượng của con thuyền, của những cư dân xăm mình để đóng góp vào nền văn minh sông Hồng và văn minh Đông Sơn giai đoạn tiếp theo.
Như vậy, những yếu tố nền tảng cho một nhà nước sơ khai mà cư dân Hạ Long đóng góp chính là tất cả những tri thức về biển, các thành tố Malayo-Polynesian về văn hóa và đặc biệt là về ngôn ngữ trong nền văn minh Việt. Hình tuựng con thuyền, hình tượng rồng (giao long) không chỉ đơn giản là những thành tố tạo huyền thoại trong văn minh Việt. Đằng sau nhũng huyền thoại đó là một quá trình đóng góp lâu dài và quyết định cho việc hình thành sự thống nhất quốc gia về phương diện văn hóa, và ý thức mà nếu không có nó thì sẽ không bao giờ có một hệ giá trị Việt là chiếc trống đồng, kết tinh trên chiếc trống đồng, về phương diện này, có thể coi trống đồng là một bản tuyên ngôn lập quốc của nền văn minh Việt cổ với sự nhất thống chủ đạo của hai yếu tố
Những nền văn hoá cổ trên lãnh thồ Việt Nam 11
luửng họp núi - biển, trong đó mọi thành tố biển - nước - thuyền - rồng - nguời trên thuyền - vạn chài chính là cái nửa Hạ Long của nền văn minh đó.
Tài liệu tham khảo
* Chomsky, N. \959. Review of Skinner's Verbal behavior. Language, 35, 26-58.
* Plannery K. V., and Marcus ].1996. Contemporaiy Archaeology in Theory edited hy Robert Preucel and lan Hodder Blackvựell Publishers 1996
* Gardner, H. 1985. The mind’s ne\v Science. New York; Basic Books. * Hà Hũu Nga 1999. Văn hóa Sol Nhụ - Một cội nguồn của ngữ hệ Malayo-Polvnesian. Bài viết cho Đề tài Xáy dựng Bảo tàng Sinh thái Vịnh Hạ Long - Ban Quản lý Vịnh Hạ Long năm 1999. Tp Hạ Long, Quảng Ninh.
* Hà Hũu Nga 2004. Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam lừ những hệ thống sinh thái nhân văn tái (XÍC cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 2004. Trang 117-139.
* Hà Văn Tấn 1970. Nghiên cứu thòi đại các vua Hùng, hiện trạng và triển vọng. Trong Ouàn lý Vởn vật, sô' 19, Hà Nội, tr.64. * Hà Văn Tấn 1974a. Từ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 13, Hà Nội.
* Hà Văn Tấn \974h. Đóng góp vào lịch sử một kiểu khuyên tai.
Trong Kháo cổ học, số 15, Hà Nội.
* Hà Văn Tấn 1982. Trống dồng cổ í,oa, di chi Đinh Tràng và Văn minh sông Hổng. Trong Phát hiện cổ Loa, Sờ Văn hóa Thông tin Hà Nội, Hà Nội.
* Hodder, lan. 1991. Reading the Past: Current approaches to Interpretation in Archaeology. Se.cond Pdition. Cambridge University Press.
* lohnson, A. w ., T. Earle. 1987. The ỉlvolution of Human Socieíies: Prom Poraging Group to Agrarian State. Staníord: Staníord University Press.
78 Tú sách 'Việt Nam - đất nuúc, con người'
McCulloch, w. s. & Pitts, w. H. {Ì9Ổ5).A logical calculus of the idea immane.nl in nervous aclivity. ỉn Lmbodimenls of mind (pp. 19- 39). Cambridge, MA: MIT Press. (Original work published 1943).
* Popper, K. 1957. The poverty of l/istoricism. London, Routledge, and Boston, Beacon Press.
* Robert J. Sharer and \Vendy Ashmore, 1993. Archaeology Discovering Our Pasl. Mayíield Publishing Company. Mountain Vievv, Caliíornia - London - Toronto.
* Service E. R. 19Ó2.1’rimitive Social ()rganization: An Tvolutionary Perspe.clive. New York: Random House.
* Service E. R. 1975. Orígins of the State and Civilization: the Process of Cultural Pvolulion. New York: Norton.
* Trần Quốc Vưọng 1974. lYi/ suv nghĩ tản mạn về trống dồng. T rong Khản cổ học, sô' 14, Hà Nội, tr. 71 -81.
* Trần Quốc Vượng 1993. yi/ôý nét khái quát lịch sử cổ .xua về cái nhìn về. biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.
* Trần Quốc Vượng 1996. Mấy ý kiến vé trống đổng vá Tám thức Việt cổ. Trong Theo dòng lịch sử - Những vùng đâì, thần vù túm thức ngtayi Việt. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 39-65.
* Trần Quốc Vưọng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, sô' 3(71), 2000.
* Turing, .A. 1950. Comimting machinerv and inteUigence. Mind, 59, 434-460.
Theo Hà Hữu Nga
Nguồn: http://vanhoanghean.vn
Nhũng nền văn hoá cổ ừên lãnh thổ Việt Nam 79
Phần III
THỜI ĐẠI ĐỒ ĐỒNG ĐÁ
S ơ KỲ THỜI ĐẠI Đ ồ ĐồNG
Con người đã biết đúc các công cụ, vũ khí và đồ trang sức bằng đồng thau. Họ đã biết trồng lúa và chăn nuôi một số gia súc như trâu, bò, lợn, gà. Có ba nhóm văn hoá phân bố ở ba khu vực. Nhóm thứ nhất (văn hoá Tiền Đỗng Son) phân bố trong các lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Nhóm thứ hai (văn hoá Tiền Sa Huỳnh) phân bố ở vùng Nam Trung Bộ. V^à nhóm thứ ba, phân bố trong lưu vực sông Đồng Nai ở miền Đông Nam Bộ.
ở miền Bắc Việt Nam, các văn hoá Tiền Đông Son tưong ứng với giai đoạn đầu của thời kỳ Hùng Vưong.
Các nhóm văn hoá Tiền Đông Son ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã hội tụ lại thành một văn hoá thống nhất, đó là văn hoá Đông Son, thuộc thời đại sắt sớm vì một số công cụ bằng sắt đã xuất hiện. Nhưng các chế phẩm bằng đồng thau tinh mĩ là đặc trưng của văn hoá này. Hiện vật tiêu biểu là những chiếc trống đồng lón có hoa văn trang tri đẹp.
Có thể sơ lược thòi kỳ này như sau;
1. Khu vực (lồng bầng và trung du Bắc Bộ:
Nhũng di tích được phát hiện vào khoảng cuối thiên niên kỷ thứ III đến cuối thiên niên kỷ thứ II tr.CN. Phân thành 3 giai đocỊii chính: Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun.
80 Tú sách 'Việt Nam - đất nước, con nguôi'
a. Giai đoạn Phùng Nguyên:
Được đặt theo tên di chỉ Phùng Nguyên (Vĩnh Phú) có quy mô lóĩi, phát hiện năm 1959 với tổng diện tích là 39ó0m^ Có 52 địa điểm thuộc giai đoạn Phùng Nguyên phân bô' ờ vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, nhiều nhất vùng họp lưu sông Hồng, sông Đà, sông Lô...
Chủ yếu là di tích cồn đất ngoài trời, doi đất cao, dưới chân đồi núi. Đây là những di tích của làng mạc định cư đông đúc. Giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên thuộc buổi đầu thời đại đồ đồng thau.
b. Giai đoạn Đồng
Đậu:■ ị ế Đồng Đậu là tên ' ■ ' - . . ;■ 1 một di tích ở xã Minh í. Ề '': Tân (Vĩnh Phú) phát
hiện năm 19Ó1 khai
quật 3 lần với tổng diện
tích là 550ml ■ - . Ĩ - 1 Di tích này có
tầng văn hoá dày gồm
3 giai đoạn phát trển của thời đại đồng thau ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Đã
HÉN VÂT DI Crt’ £«>*:• £'ÂU • ÀnPi 1,3 Khưòn A x bẲng da - k r t > 2. dúc mOi tén bằTig đá - Ánh 4 Mím lao bing .Hrơrìg . Ảrtì 5 bò bẰrig dát (XjfK:i
phát hiện 15 di chi thuộc giai đoạn Đồng Đậu.
Giai đoạn Đồng Đậu là một bước phát triển tất yếu, có quy luật trên cơ sở biến chuyển đã hình thành từ giai đoạn Phùng Nguyên. Có sự chuyển biến từ thấp đến cao, từ giai đoạn Phùng
Nhũng nền vãn baá cổ trên lãnh thồ Việt Nam 81
Nguyên sang giai đoạn Đồng Đậu đến Gò Mun, đó là sự phát triển liên tục, nối tiếp nhau. Giai đoạn Đồng Đậu thuộc trung kỳ thòi đại đồng thau, tồn tại vào khoảng thiên niên ký thứ II tr.CN. c. Giai đoạn Gò Mun:
Được gọi theo tên một địa điểm thuộc xă Tứ Xã (Vĩnh Phú) phát hiện năm 1961 khai quật 4 lần với tổng diện tích hon lOOOml
Đà phát hiện 25 di tích, phạm vi phân bố cũng giống như phạm vi phân bố của các di tích thuộc hai giai đoạn văn hoá trước nhưng mở rộng hon ở các vùng gò thấp ở ven sông Hồng, sông Cầu, sông Đáy...
Giai đoạn văn hóa Gò Mun đã phát triển trên cơ sờ kế thừa những thành tụn của giai đoạn Đồng Đậu có tính chất chuẩn bị cho sự ra đời của giai đoạn văn hóa Đông Son.
Giai đoạn Gò Mun thuộc thời kỳ thời đại đồ đồng thau tồn tại vào khoảng cuối thiên niên kỷ II đến đầu thiên niên kỷ I tr.CN. Sự phát triển của các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun không chỉ có mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng với nhau mà còn có sự kế tục về truyền thống và có thể tìm nguồn gốc của chúng trong các nền văn hóa thuộc thời đại đồ đá trước đó trên đất nước ta.
2. Khu vực Bắc Trung Bộ (lưu vực sông Mã, sông cả):
Trong thời đại đồ đồng cư dân vùng sông Mã, sông Cả, sông Chu và cả khu vực Bắc Trung Bộ phát triển liên tục từ thấp lên cao. Thời đại đồ đồng ở khu vực này chia thành ba giai đoạn phát triển, đó là;
- Giai đoạn Đông Khối-Hoa Lộc: tương đưctng với giai đoạn Phùng Nguyên, gồm hai nhóm di tích có phong cách