🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Mẩu Chuyện Bảo Vệ Biên Cương Trong Lịch Sử Ebooks Nhóm Zalo NHỮNG MẨU CHUYỆN BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG TRONG LỊCH SỬ HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng PGS.TS. PHẠM VĂN LINH Phó Chủ tịch Hội đồng PHẠM CHÍ THÀNH Thành viên TRẦN QUỐC DÂN TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI TS. NGUYỄN AN TIÊM NGUYỄN VŨ THANH HẢO TS. NGUYỄN HỮU TÂM NH NG M U CHUY N B O V BIÊN C NG TRONG L CH S NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT HÀ NỘI - 2016 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức đấu tranh, được tiến hành bằng nhiều biện pháp, phong phú, linh hoạt, khéo léo, đạt hiệu quả cao nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, giữ vững nền độc lập, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải tập trung phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Như vậy, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ và trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người dân nước Việt, nhằm giữ gìn tài sản vô giá mà lớp lớp các thế hệ người Việt Nam đã đổ bao mồ hôi và xương máu để xây dựng nên. Với ý nghĩa đó, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Những mẩu chuyện bảo vệ biên cương trong lịch sử do TS. Nguyễn Hữu Tâm biên soạn. Thông qua những tư liệu được nhắc đến qua các 5 bộ sử trong và ngoài nước, nội dung cuốn sách là một số câu chuyện về việc bảo vệ biên cương, biển đảo thời kỳ phong kiến của ông cha ta, từ những vấn đề như chính sách, xây dựng lực lượng quân sự, sự đãi ngộ đối với đội ngũ quan lại trực tiếp xử lý công việc tại cửa ải đến các tấm gương trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước... Xin giới thiệu cuốn sách và mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Tháng 7 năm 2016 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6 LỜI NÓI ĐẦU Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, nhất là từ khi bước vào kỷ nguyên phong kiến độc lập, tự chủ đầu thế kỷ X, thì vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, luôn được chính quyền các triều đại quan tâm. Lê Thánh Tông - một vị quân vương hùng tài đại lược, trong thời gian cầm quyền trị nước (1460-1497) đã xây dựng Đại Việt trở thành một quốc gia phát triển thịnh trị toàn diện “phú quốc, cường binh” (nước giàu, quân mạnh), từng minh định quan điểm của mình về chủ quyền quốc gia trong lời răn dụ cho một vị đại quan trước khi đi giải quyết vấn đề biên giới: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại vứt bỏ? Phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ (Lê Lợi) làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di”. Câu nói bất hủ của Lê Thánh Tông đã trở thành Tuyên ngôn bất di bất dịch cho công cuộc bảo vệ 7 lãnh thổ quốc gia lâu dài, gian khổ, không khoan nhượng của mọi triều đại phong kiến Việt Nam. Cuốn sách Những mẩu chuyện bảo vệ biên cương trong lịch sử nhằm ôn lại truyền thống anh dũng của tổ tiên cha ông ta trong sự nghiệp gìn giữ biên cương, biển đảo của đất nước. Nội dung cuốn sách đề cập những vấn đề mang tính chất quản lý quốc gia như chính sách biên cương, biển đảo, xây dựng lực lượng quân sự Trung ương cũng như địa phương, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ quan lại, thổ tù trực tiếp xử lý công việc tại cửa ải trên bộ cũng như ngoài biển...; đồng thời, sách cũng nêu một số tấm gương tiêu biểu, tiết liệt trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh đất nước, hay những cuộc đấu trí sắc sảo của các sứ thần Đại Việt, buộc kẻ địch phải hoàn trả vùng đất đã chiếm. Từ bậc quân vương có vị thế cao nhất nước, các tướng lĩnh, trọng thần quốc gia cho đến những người dân bình thường ở biển khơi hay vùng núi cao cũng đều tích cực đem tài năng, sức lực của mình để bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc. Cuốn sách còn cung cấp cho người đọc về truyền thống quản lý biển đảo có hệ thống từ nhiều thế kỷ trước của các triều đại quân chủ Việt Nam. Việc khai thác tài nguyên biển hay chính sách quản lý biển đảo, xây dựng lực lượng thủy quân của các chúa Nguyễn, của triều Lê - Trịnh, 8 nhất là của triều Tây Sơn và sau này là của triều Nguyễn với các vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức đều chứng tỏ chủ quyền lãnh thổ vùng biển đảo, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng quá trình khai thác nguồn lợi kinh tế ở vùng Biển Đông, từ nhiều thế kỷ trước đã thuộc về Việt Nam. Hy vọng thông qua những câu chuyện từ trong lịch sử nhằm giúp người đọc hiểu sâu hơn ý thức toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên cương của Tổ tiên, từ đó nâng cao nhận thức để bảo vệ biên giới quốc gia, đồng thời mong muốn tri ân những cống hiến hết mình của các con dân Việt Nam từ xa xưa cho đến ngày nay trong công cuộc gìn giữ chủ quyền biên cương, biển đảo. Nội dung cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự phê bình, góp ý của độc giả. Hà Nội, sau ngày Hạ chí, Bính Thân (6-2016) 9 10 VUA LÊ ĐẠI HÀNH VỚI VIỆC BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC Nhắc đến vua Lê Đại Hành, mọi người luôn nhớ tới hình ảnh một vị tướng tài ba, đã được Thái hậu họ Dương cùng tập thể tướng lĩnh tiến bộ triều Đinh sáng suốt, trao cho áo bào lên ngôi báu, để lãnh đạo quân dân cả nước kháng chiến “chống thù trong, giặc ngoài”, bảo vệ Nhà nước Đại Cồ Việt non trẻ. Cũng từ những chiến công phá Tống phía Bắc, dẹp yên quân Chiêm Thành phía Nam mà Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, sau là vua Lê Đại Hành, đã được xếp vào hàng những vị vua tài giỏi trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Sử thần Lê Tung đánh giá: “Lê Đại Hành cầm quyền [tướng quân] mười đạo, giữ chức Nhiếp chính, vua bé nước nguy, nhân thời chịu mệnh, giết vua Chiêm Thành để rửa cái nhục sứ thần bị bắt, phá quân Tống làm nhụt cái mưu tất thắng của chúng... Cày ruộng tịch điền ở Long Đội, mời người xử sĩ ở Tượng Sơn, kén dùng hiền tài, 11 dựng mở trường học, có mưu lược to lớn của bậc đế vương”1. Sau những chiến công vang dội, vua Lê Đại Hành bắt tay vào công cuộc kiến thiết và xây dựng đất nước. Nhà vua nổi tiếng là người “bình dị cận dân”, “đi chân đất, câu cá”, rất chăm lo đến phát triển thủy lợi và nông nghiệp. Ông là vị vua đầu tiên trong lịch sử nước ta đã tổ chức lễ cày tịch điền, nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Hằng năm vào đầu xuân, vùng quê Long Đọi sơn (núi Đọi) của Hà Nam, Nhà nước vẫn thường xuyên tổ chức trọng thể tái hiện lễ tịch điền của vua Lê Đại Hành diễn ra cách nay hơn 10 thế kỷ. Cũng như các triều đại khác, dưới triều Tiền Lê có những vụ việc tranh chấp vùng khe động biên giới giữa cư dân hai nước Việt - Trung. Theo báo cáo của các biên thần nhà Tống vào năm 995: phía Việt Nam đã cho hơn 100 thuyền chiến sang đánh cướp trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu (Quảng Đông), rồi lại đem hơn 5.000 hương binh đánh vào Ung Châu (Quảng Tây). Chính sử của Việt Nam cũng chép: “Bấy giờ nhà Tống ngại việc chinh chiến, vua (Lê Hoàn) cậy có núi biển hiểm trở, hơi buông thả cho dân biên giới lấn cướp vào _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.I, tr.122. 12 cõi của đất Tống”1. Tống Thái Tông đang trị vì không muốn gây ra mối bất hòa với Đại Cồ Việt, nên đã lờ đi và không nhắc đến những sự kiện đó. Sau khi phát giác biên thần của mình tâu sai, Tống Thái Tông đã cho trị tội và cử Lý Nhược Chuyết cầm đầu đoàn sứ đem chiếu thư và đai ngọc tặng vua Lê Đại Hành. Khi nhà vua Lê Đại Hành ra tiếp đón sứ ở ngoài thành, đã chủ động không làm lễ lạy chiếu thư với lý do “vừa ngã ngựa, chân đau, không quỳ lạy được”. Hơn nữa, thái độ khinh mạn sứ Tống của nhà vua, được Lê Tắc chép lại trong sách An Nam chí lược viết vào đầu thế kỷ XIV: “Thoạt mới đến, Lê Hoàn ra ngoài thành đón tiếp, chào hỏi rất khinh rẻ”2 (nguyên âm Hán Việt: Thủy chí, Hoàn xuất giao nghênh, từ khí phả mạn), đồng thời, còn cảnh báo phía Tống: ''Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biển ở cõi ngoài... Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Ngung (Quảng Đông), thứ đến đánh vào Mân Việt (Phúc Kiến), há chỉ dừng ở trấn Như Hồng mà thôi”3. Lời khẳng định như trên của một vị quân vương nước Việt nói với đế chế phương Bắc, vốn vẫn được coi là “Thiên triều”, _____________ 1, 3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.228, 229. 2. Lê Tắc: An Nam chí lược, Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Ngôn ngữ văn hóa Đông Tây, Hà Nội, 2002, tr.230. 13 chứng tỏ sức mạnh quân sự tiềm tàng của triều Tiền Lê vào cuối thế kỷ X. Theo thống kê qua các thư tịch cổ, đích thân vua Lê Đại Hành đã nhiều lần cầm quân đi đánh dẹp các cuộc nổi loạn ở vùng biên trong cả nước: Năm 981, 997 đánh dẹp Chiêm Thành ở phương Nam, năm 989, 996, 997, 999, 1000, 1001 dẹp nội loạn tại vùng Hoan Ái, Triều Dương, Đỗ Động Giang, Phong Châu... Ngoài ra, ông còn thường xuyên cử các tướng lĩnh đi tuần tra, kiểm soát các vùng đất liền, cũng như ven biển để nắm vững an ninh biên giới. Sau 10 năm giao hảo dưới hình thức trao đổi sứ giả, biếu phương vật, phong tặng, năm 993, triều Tống sai Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản chính thức thừa nhận việc Lê Hoàn nắm quyền quản lý nước Đại Cồ Việt thay thế nhà Đinh, phong cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ Quận vương, năm 997 gia phong Nam Bình vương. Từ đó đến khi Lê Hoàn mất năm 1005, hầu như chỉ vài lần đoàn sứ của Tiền Lê sang Tống, chứ tuyệt nhiên không có đoàn sứ giả của Tống sang ta nữa. Đây là một thắng lợi trong đối ngoại thời xưa, quan hệ hữu hảo giữa Lê - Tống vẫn luôn được bảo đảm và duy trì, nhưng quan trọng hơn là chấm dứt hoàn toàn mọi hành động hạch sách, nhũng nhiễu của các viên sứ Tống đối với triều đình và dân chúng Đại Cồ Việt ở nơi biên giới và trong nước. 14 Thắng lợi trên mặt trận ngoại giao trong quá trình ở ngôi của Lê Hoàn, tạo một ảnh hưởng tốt ngay cả sau khi ông đã qua đời. Vào cuối năm 1005, con trai của Lê Hoàn là Lê Long Đĩnh kế tục sự nghiệp quản lý đất nước, lập tức phía Tống đã dấy lên một kế hoạch tìm hiểu và đưa ra dự định xâm lược nước ta. Sau hơn một năm dò xét nội tình triều Lê, định liệu phương lược, tháng 6 năm 1006, viên Tri châu Quảng Châu dâng tâu xâm lược nước ta: ''Nếu triều đình chuẩn y, xin lấy binh và cho thêm 5000 quân mạnh ở Kinh Hồ, thủy bộ cùng tiến có thể bình định được ngay”1. Vua Tống Chân Tông không dám quyết định, thác cớ rằng: “Họ Lê thường sai con vào chầu, góc biển yên tĩnh, không mất trung thuận, nay nghe tin mới chết (chỉ vua Lê Hoàn), chưa có lễ thăm viếng, đã vội đánh kẻ có tang, há phải là việc làm của bậc vương giả”2. Sau đó, Chân Tông còn nêu lên lý do về khí hậu, dịch bệnh, nhắc nhở các biên thần cần chú trọng việc bảo vệ biên cương: “Giao châu nhiều lam chướng dịch lệ, nếu đem quân sang đánh thì chết hại tất nhiều, nên cẩn thận giữ gìn cõi đất của tổ tông mà thôi”3. Với khả năng quân sự và ngoại giao tài giỏi của mình, vua Lê Đại Hành sinh thời đã khiến cho kẻ thù khiếp sợ mỗi khi tiếp kiến và đối đầu. _____________ 1, 2, 3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.234. 15 Tống Nhân Tông là vua đã bị quân đội Tiền Lê đánh bại ý đồ thôn tính Đại Cồ Việt vào cuối thế kỷ X, sau đó cũng từng phải công nhận Lê Hoàn là người “Nghĩa dũng gồm đủ, trung hậu quả cảm, được lòng mọi người trong nước”. Uy tín và ảnh hưởng của nhà vua cùng với nỗ lực xây dựng quốc gia vững mạnh ở cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI, khiến cho triều đình Tiền Lê kéo dài trong gần 30 năm (980-1009), tạo được nền tảng vững chắc cho chính sách bảo vệ hiệu quả biên cương của quốc gia Đại Cồ Việt. Trong đó, an ninh biên giới phía Bắc được giữ vững không thể tách rời công lao to lớn trong xây dựng và củng cố nền quốc phòng, ngoại giao Nhà nước Đại Cồ Việt của vua Lê Đại Hành. 16 CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ AN NINH BIÊN GIỚI TRIỀU LÝ Sau khi đã định kinh đô mới tại Thăng Long năm 1010, Lý Công Uẩn và các ông vua Lý kế ngôi nhanh chóng xây dựng Thăng Long trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Triều Lý đã chú ý phát triển toàn diện các mặt để củng cố và giữ vững vương triều của mình. Đặc biệt, triều Lý quan tâm đến việc củng cố quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Triều Lý đã thực thi nhiều biện pháp để gìn giữ biên cương, mà trong đó đáng kể nhất là việc đưa các hoàng tử đi trấn trị tại các địa phương xa xôi. Bộ máy hành chính tại các vùng này vẫn do đội ngũ thống trị người địa phương gồm các tù trưởng, châu mục được lựa chọn theo phương thức cha truyền con nối nắm giữ. Các vua Lý đã thực thi chính sách “ki mi” (ràng buộc lỏng lẻo) và đôi khi cũng phải sử dụng lực lượng quân sự để trấn áp nhằm bảo vệ sự toàn vẹn đất nước. Triều Lý thường áp dụng chính sách hôn nhân để lôi kéo và ràng buộc các 17 châu mục, tù trưởng có thế lực tại các vùng biên cương phía Bắc. Từ vua Lý Thái Tổ, qua vua Lý Thái Tông, đến vua Lý Thánh Tông và sau này là vua Lý Nhân Tông đều đem con gái hoặc con gái nuôi gả cho các châu mục Lạng Châu, Hưng Hóa, Châu Phong, Thượng Oai... Thậm chí có ông vua như Lý Thái Tông còn lấy con gái của Đào Đại Di ở châu Chân Đăng làm phi. Chính nhờ chính sách mềm dẻo, khéo léo của các vua triều Lý mà các thủ lĩnh miền núi đã thần phục và đóng góp công lao đáng kể vào công cuộc giữ gìn biên cương của triều Lý. Triều Lý chú trọng kết hợp ngoại giao với quản lý biên giới. Sau khi chiến thắng quân Tống xâm lược Đại Việt những năm 1075 - 1077, triều Lý càng đẩy mạnh hơn việc bang giao với Tống. Chỉ trong vòng 53 năm (1073-1126) của đời vua Lý Nhân Tông trị vì, triều Lý đã cử tới 18 đoàn sứ thần tới triều Tống, có sứ đoàn năm 1081 số lượng lên tới 156 người. Theo dõi nội dung của 18 lần đi sứ này, nhận thấy triều Lý tăng cường hơn việc giành giật vùng đất biên cương thông qua các đoàn sứ thần. Vào các năm 1078, 1081, triều Lý đặt vấn đề xin lại các vùng đất như Quảng Nguyên, Vật Ác, Vật Dương...; vào những năm 1083, 1084 đề nghị phân chia địa giới. Đồng thời, triều Lý còn thường xuyên tiến hành việc tiễu trừ nạn xâm lấn đất đai vùng biên vào các năm 1014, 1022, 1028, 18 1036, 1055, 1059, 1060, 1072... Chính do thái độ kiên quyết trong việc giải quyết đất biên cương mà lãnh thổ Đại Việt triều Lý được tương đối toàn vẹn, an ninh biên giới được duy trì, ổn định. Triều Tống nhiều lần phải nhường đất cho triều Lý, đã được sử sách của hai nước ghi lại khá đầy đủ. Năm 1084, vua Tống Nhân Tông phải lệnh cho triều thần trao trả vùng đất Quảng Nguyên, được người thời đó chế nhạo bằng câu thơ: Nhân tham Giao Chỉ tượng, Khước thất Quảng Nguyên kim1. Nghĩa là: Vì tham voi của Giao Chỉ, nên đã mất đi vàng ở Quảng Nguyên (chỉ việc triều Tống trả lại vùng Quảng Nguyên, Cao Bằng, nơi có mỏ vàng của Việt Nam - NHT). Song song với việc triều cống, đấu tranh giành đất, vương triều Lý còn đẩy mạnh việc trao đổi buôn bán, đáng chú ý là quan hệ thông thương biên giới giữa triều Lý và triều Tống cũng được tăng cường và phát triển. Các vua triều Lý đã quy định một số địa điểm giao lưu nhất định, có sự khống chế của nhà nước nhằm hạn chế thương nhân nước ngoài vào sâu nội địa để buôn bán, lại kiêm cả việc do thám tình hình chính trị. Cảng Vân Đồn, vùng quần đảo phía đông bắc nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi cho tàu thuyền qua _____________ 1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.281. 19 lại và neo trú, lại nằm trên tuyến hàng hải từ Trung Quốc thông xuống các nước vùng Đông Nam Á được triều Lý chọn làm nơi tập trung thông thương với nước ngoài. Ngoài các nước vùng Đông Nam Á như Xiêm La (Thái Lan), Trảo Oa (Gia Va)... còn có nhiều nước khác xa xôi hơn tới Vân Đồn trao đổi hàng hóa. Không những chỉ triều Lý sợ sự xâm nhập quá sâu nội địa, dò la tình hình của các thương nhân, mà cả triều Tống cũng có tâm trạng như vậy. Vua Lý Thái Tổ khi mới lên ngôi được 2 năm, vào tháng 6-1012 cũng đã từng yêu cầu triều Tống cho mở thị trường buôn bán tại Ung Châu (Nam Ninh ngày nay). Nhưng phía triều Tống cho rằng triều Lý thường hay xâm lấn biên cương phía Nam của Tống, nên không đồng ý. Chính sách của vương triều Tống vào thế kỷ XI-XIII cũng chỉ cho phép thương nhân nước ngoài, đặc biệt là thương nhân Đại Việt được trao đổi hàng hóa tại những địa điểm do triều đình Tống chỉ định và chịu sự kiểm soát của các cấp chính quyền địa phương. Theo các thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc ghi chép: Đương thời (thế kỷ XI đến thế kỷ XIII), đã xuất hiện những trung tâm buôn bán lớn với tên gọi là “bác dịch trường”1 dọc biên _____________ 1. Nơi trao đổi hàng hóa, trên bộ hoặc trên biển. Cũng có sách viết là bạc dịch trường. 20 giới Lý - Tống. Có tới 4 “bác dịch trường” được lập ra tại trại Vĩnh Bình, châu Tô Mậu, trại Hoành Sơn, trại Như Hồng ở Khâm Châu. Cho tới những năm cuối thuộc niên hiệu Chính Hoà (1111-1117) của Tống Huy Tông, triều Tống lại mở thêm một thị trường buôn bán tại Ung Châu. Khi đó chính quyền triều Tống cho rằng: Giao Chỉ (triều Lý) từ niên hiệu Hi Ninh Tống Thần Tông (1068-1077) không có sinh sự, tha bỏ lệnh cấm buôn bán. Như vậy vào đầu thế kỷ XII, vùng biên giới Việt - Trung đương thời từ ven biển đến đất liền có tới 5 trung tâm trao đổi buôn bán giữa hai nước. Khi đó trại Vĩnh Bình là một “bác dịch trường” quan trọng nhất của cả hai nước. Sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi đời Tống chép như sau: Trại Vĩnh Bình ở sông Tả Giang thuộc Ung Châu tiếp giáp với biên giới Giao Chỉ, chỉ cách một con suối mà thôi. Phía Bắc có trạm Giao Chỉ, phía Nam có đình Tuyên Hòa làm “bác dịch trường”... Sách Lĩnh ngoại đại đáp còn chép: dân biên giới Giao Chỉ đem cá, trai hến đổi lấy gạo, vải tấm. Thương lái của nước đó (chỉ Đại Việt) đến bác dịch trường, nhất thiết phải từ châu Vĩnh An (Yên) nơi biên giới đưa giấy (xin phép) tới Khâm Châu, gọi là thương nhân buôn nhỏ. Nếu những người do nhà nước sai sứ đến Khâm Châu thì gọi là thương lái lớn. Bên phía Tống, những nhà buôn lớn thường từ vùng Tứ Xuyên buôn gấm 21 đến bán tại Khâm Châu và buôn hương từ Khâm Châu tới Tứ Xuyên, mỗi năm đi về một lần, lượng hàng hóa lên tới vài nghìn mân tiền1. Có thể nói ngoài những thành công trong việc gìn giữ biên cương, dẹp yên nội loạn và ngoại xâm thì chủ trương cùng biện pháp cụ thể được các vua triều Lý thực thi nhằm ổn định an ninh và phát triển kinh tế thông thương vùng biên giới (biên mậu) phía Bắc, là một bài học lịch sử đáng để các triều đại sau và cả trong công cuộc đổi mới hiện nay của chúng ta rút kinh nghiệm và học tập. _____________ 1. Xem Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp, quyển 5: Khâm Châu bác dịch trường (chữ Hán). 22 CHỦ TRƯƠNG “TIÊN PHÁT CHẾ NHÂN” CỦA LÝ THƯỜNG KIỆT VỚI CHÍNH SÁCH BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG TRIỀU LÝ Vào thế kỷ XI, triều Tống là một đế chế lớn mạnh ở phương Đông, nhưng đang bị đe dọa bởi sự bành trướng của hai nước Liêu và Hạ ở phía Bắc Trung Quốc. Cho nên trong thời kỳ đầu, vua quan triều Tống phải tập trung lực lượng lo đối phó với nguy cơ bị xâm lấn từ phía Bắc. Tuy rất muốn triển khai việc mở mang lãnh thổ xuống phía Nam, nhưng khi đó “lực bất tòng tâm”, hơn nữa thất bại ê chề của cuộc xâm lược năm 981 trước quân dân triều Tiền Lê khiến cho triều Tống và biên thần e dè, đành phải áp dụng chính sách hòa hoãn với Đại Việt. Nhưng từ năm 1068, Vương An Thạch lên nắm giữ chức Tể tướng, liền thực hiện một số cải cách về chính trị, kinh tế, quốc phòng, tăng cường sức mạnh toàn diện của triều Tống. Mặt khác, chính sách đối ngoại của vương triều này cũng 23 được điều chỉnh theo hướng “Tiên Nam, hậu Bắc” tức là chủ động tạm thời hòa hiếu với hai nước Liêu, Hạ ở phía Bắc, dồn sức để tấn công xuống Đại Việt ở phía Nam. Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất, Lý Nhân Tông lên ngôi lúc mới có 7 tuổi, nội bộ triều Lý xuất hiện nhiều mối bất hòa. Các triều thần cùng vua Tống lợi dụng thời cơ này liền phát động một cuộc chiến tranh, nhằm thực hiện việc khoa trương thanh thế quân sự, đồng thời chinh phạt triều Lý ở phía Nam. Để chuẩn bị lực lượng và địa bàn cho lần tấn công này, triều Tống đã tiến hành xây dựng hệ thống căn cứ quân sự và dự trữ hậu cần tại thành Ung Châu (Nam Ninh hiện nay) cùng các cảng tại Khâm Châu (Quảng Tây), Liêm Châu (Quảng Tây), chú trọng tới các trại vùng giáp biên hai nước Đại Việt và Tống. Đặc biệt, triều Tống thực hiện một thủ đoạn nguy hiểm là lôi kéo vua Champa nhằm tạo thành một gọng kìm phía Nam đánh vào Đại Việt, mặt khác lại tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc các tù trưởng thiểu số vùng biên cương phía Bắc. Triều Lý với các vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và chủ tướng quân sự Thái úy Lý Thường Kiệt đã chủ động đối phó và thực thi những kế sách nhằm ngăn chặn trước để làm thất bại ý đồ của kẻ địch. Chủ trương “Tiên phát 24 chế nhân” (hành động trước, để khắc chế đối phương) hay như cách nói của Lý Thường Kiệt: Ngồi đợi giặc không bằng đem quân ra trước để bẻ gãy mũi nhọn của giặc đã được triều đình và quân dân Đại Việt thống nhất hành động. Ngay từ năm 1069, đích thân vua Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt chỉ huy quân đánh thắng xâm lược Champa, ngăn ngừa được hiểm họa rình rập ở phía Nam. Đồng thời, triều Lý thực thi chủ trương tranh thủ các tù trưởng thiểu số và chính sách biên cương tích cực đã tăng cường sức mạnh cho khối đoàn kết dân tộc. Cuối năm 1075, sau thời gian chuẩn bị lực lượng cùng hậu cần đầy đủ, triều Lý bất ngờ tấn công vào hệ thống căn cứ quân sự dọc biên giới với mục tiêu chính là thành Ung Châu. Chỉ huy cuộc chiến là Thái úy Lý Thường Kiệt với đội quân chủ lực là thủy quân, kết hợp với đội quân bộ do Tông Đản dẫn đầu. Toàn bộ số quân tham chiến khoảng 10 vạn người, quân thủy vượt biển đánh chiếm châu Khâm, châu Liêm và bao vây thành Ung Châu. Sau 42 ngày vây hãm và công phá, ngày 1-3-1076 quân triều Lý chiếm được thành Ung Châu, tiến hành phá hủy thành lũy cùng toàn bộ hệ thống căn cứ chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Sau đó, Lý Thường Kiệt nhanh chóng dẫn 25 quân về nước, gấp rút lo ứng phó với cuộc xâm lược của triều Tống. Như vậy, quân Tống đã bị đẩy vào tình thế thất trận ngay khi chuẩn bị tấn công xâm lược Đại Việt. Chủ trương “Tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt không chỉ mang dấu ấn của chiến công vang dội trong trang sử hào hùng của dân tộc mà còn trở thành nét nghệ thuật độc đáo trong chiến tranh giữ nước của dân tộc ta. 26 CÁC PHÒ MÃ HỌ THÂN TRONG THẮNG LỢI CHỐNG TỐNG (1075-1077) Vùng đất phía Bắc Đại Việt từ trước thế kỷ XI, luôn là nơi mà các triều đại phong kiến phương Bắc cùng các biên thần của họ thường xuyên tìm mọi cách quấy nhiễu và xâm chiếm. Trong thời kỳ triều Tiền Lê (980-1009), vùng biên cương nơi đây có lúc đã tạm lắng những cuộc tranh chấp đất đai, song nguy cơ nổ ra lấn chiếm vẫn thường trực. Trước nhu cầu xây dựng và củng cố chính quyền cả ở trung ương lẫn các địa phương, triều Lý đã tập trung chú ý tới việc phòng thủ và bảo vệ biên giới, mà vùng rừng núi phía Bắc, nơi có nhiều dân tộc sinh sống với chiều dài đường biên, địa hình khá phức tạp, hiểm trở, tiếp giáp triều Tống, được đặt thành trọng điểm. Chính sách chung về phương diện cơ cấu chính quyền của nhà Lý đối với vùng biên phía Bắc là xây dựng một hệ thống các đơn vị hành chính lộ, phủ, châu, nhưng giao cho các tù trưởng 27 cai quản, thường được gọi là Châu mục. Các tù trưởng châu mục đều được phong chức tước và một số tù trưởng có thế lực trên những địa bàn trọng yếu còn được nhà vua gả công chúa, trở thành Phò mã. Trong thời kỳ triều Lý (1009- 1225), đã có 12 trường hợp các công chúa được gả cho các tù trưởng địa phương, đặc biệt tất cả đều ở khu vực biên giới phía Bắc. Có một đặc điểm nổi bật ở đây là có nhiều tù trưởng đời đời thế tập, nhiều họ có thế lực lớn trong vùng như họ Nùng ở Quảng Nguyên (Cao Bằng), họ Vi ở Tô Mậu (đông Bắc Giang, tây Quảng Ninh), họ Hoàng ở Vĩnh An (đông bắc Quảng Ninh)..., họ Giáp/Thân ở Lạng Châu (Bắc Giang, nam Lạng Sơn). Vùng đất trung tâm của họ Giáp/Thân gọi là động Giáp thuộc Lạng Châu. Theo học giả Hoàng Xuân Hãn thì động Giáp ở khoảng Bắc Giang và nam Lạng Sơn ngày nay, trên lưu vực Nam Bình tức sông Thương. Đây là vùng đất giữ vị trí then chốt, nằm trên trục đường bộ chủ yếu từ Quảng Tây của triều Tống sang Đại Việt, tiến về Thăng Long. Trên con đường này, phải vượt qua vùng rừng núi với những cửa ải hiểm yếu như ải Quyết Lý (huyện Chi Lăng) và ải Giáp Khẩu (ải Chi Lăng) đều thuộc Lạng Sơn ngày nay. Đứng đầu động Giáp là một tù trưởng họ Giáp, sau khi Giáp Thừa Quý được vua Lý Thái Tổ 28 gả con gái thì đã đổi ra họ Thân (chữ Giáp, kéo dài nét sổ lên phía trên thành chữ Thân). Đến năm 1029, vua Lý Thái Tông lại gả công chúa Bình Dương cho con trai của Thừa Quý là Thân Thiệu Thái. Năm 1066, Thân Cảnh Phúc (hoặc Thân Cảnh Nguyên, Thân Cảnh Long) là con trai Thân Thiệu Thái, lại lấy công chúa Thiên Thành con gái của Lý Thánh Tông. Như vậy, chỉ trong khoảng hơn nửa thế kỷ, đã có ba người họ Giáp/Thân trở thành Phò mã của vương triều Lý. Cả ba phò mã đều giữ chức Châu mục Lạng Châu, có trọng trách xử lý mọi việc trong một khu vực hành chính vùng núi phía Bắc. Tuy là Châu mục, quan chức của triều đình, nhưng lại là Phò mã, nên các tù trưởng họ Thân kiêm nhiệm cả hai chức trách: con rể và mệnh quan. Có nghĩa là ngoài trách nhiệm phải tích cực, tận tâm phụng sự triều đình, lại phải làm tròn nghĩa vụ của người con rể, chăm lo sự phát triển của dòng họ nhà vợ. Các phò mã họ Thân đều rất trung thành với triều Lý và lập công lớn trong công cuộc bảo vệ vùng biên, chống lại mối đe dọa và xâm lăng của triều Tống. Thư tịch cổ đều không chép về sự nghiệp cùng công tích của Giáp Thừa Quý. Theo giới nghiên cứu, chắc chắn Giáp Thừa Quý giữ một cương vị vô cùng quan trọng ở biên cương phía Bắc, vì thế vua Lý Thái Tổ mới gả con gái cho ông, 29 nhằm mục đích cai quản và giữ an ninh vùng địa đầu đất nước. Sử sách Việt Nam và Trung Quốc đều chép về vị Phò mã thứ hai là Thân Thiệu Thái. Sách An Nam chí lược của Lê Tắc cho biết: Tháng 5 năm 1028, Lý Công Uẩn tự tiện khiến con em và rể là Thân Thừa Quý đem quân vào đất Tống, để bắt một số kẻ gây rối vùng biên, biên thần Quảng Tây phải tìm cách giảng hòa. Năm 1059, lại xảy ra cuộc xung đột biên giới giữa Lạng Châu giáp châu Tây Bình thuộc Ung Châu, triều Tống. Châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đem quân từ động Giáp sang, đòi lại số dân trốn sang mà biên thần Tống giấu đi. Viên Đô giám Tuần kiểm Ung Châu là Tống Sĩ Nghiêm đưa một lực lượng quân đội lớn chống lại, khiến quân ta rút lui, rồi nhân đà vượt biên giới, xâm phạm động Giáp. Thân Thiệu Thái đánh tan quân Tống và năm sau (1060) đánh sang châu Tây Bình, giết chết Tống Sĩ Nghiêm, tiến công trại Vĩnh Bình, gây chấn động cả vùng Ung Châu. Trong đợt phản công này, quân dân ta bắt sống Chỉ huy sứ Dương Lữ Tài (Dương Bảo Tài) của Tống, thu nhiều người và trâu ngựa. Tiêu Chú và Tiêu Cố là quan trấn thủ Ung Châu, Quế Châu đều bị cách chức và triều Tống cử Lại bộ Thị lang Dư Tĩnh làm An phủ sứ trực tiếp dàn xếp cuộc 30 xung đột. Kết quả hai bên bàn hòa, Thân Thiệu Thái rút quân về nước. Cuối năm 1075, triều Lý bất ngờ tấn công vào hệ thống căn cứ quân sự dọc biên giới với mục tiêu chính là thành Ung Châu (Nam Ninh). Sau 42 ngày vây hãm và công phá, ngày 1-3-1076 quân triều Lý chiếm được thành Ung Châu, tiến hành phá hủy thành lũy cùng toàn bộ hệ thống căn cứ chuẩn bị xâm lược Đại Việt của Tống. Trong thắng lợi của cuộc tập kích này, các dân tộc thiểu số vùng biên phía Bắc cùng các tù trưởng của họ có nhiều cống hiến to lớn, nhất là Phò mã Thân Cảnh Phúc. Đạo quân do ông chỉ huy cũng bất ngờ tập kích vào trại Vĩnh Bình, rồi tiến qua châu Tư Minh và phối hợp cùng các đội “thổ binh” khác, vây hãm thành Ung Châu. Cuối năm 1076, cuộc xâm lược của quân Tống bắt đầu. Cánh quân của Phò mã Thân Cảnh Phúc ở Lạng Châu chiến đấu rất dũng cảm với đạo quân chủ lực của Quách Quỳ. Quân Tống tiến vào châu Quang Lang (Lạng Sơn), bị chặn đánh quyết liệt bởi cánh tiền quân của Thân Cảnh Phúc ở ải Quyết Lý (Nhân Lý, Chi Lăng, Lạng Sơn). Sau khi vượt qua ải Quyết Lý, quân Tống chiếm được trị sở châu Quang Lang (gần Đồng Mỏ, huyện Chi Lăng hiện nay). Quân triều đình cùng đội quân của Phò mã Thân Cảnh Phúc mai phục tại ải Giáp Khẩu (ải 31 Chi Lăng). Quân Tống dò biết, nên dùng kỵ binh theo đường tắt vòng về phía tây, qua Vạn Linh (huyện Chi Lăng giáp huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn) tiến xuống bắc thượng lưu sông Cầu (Thái Nguyên). Một bộ phận của quân Tống tiến sang phía tây uy hiếp mặt nam ải Giáp Khẩu. Quân triều Lý phải rút lui về phía đông nam để hợp lực bảo vệ phòng tuyến Như Nguyệt. Riêng đội quân của Phò mã Thân Cảnh Phúc vẫn ở lại tiếp tục cuộc chiến đấu, tiêu hao sinh lực địch. Theo thư tịch Trung Quốc, sau khi quân Tống chiếm được Quang Lang, Tri châu Quang Lang, con rể vua, chắc chắn là Phò mã Thân Cảnh Phúc, đã rút về quê hương, lợi dụng rừng núi hiểm trở, tiến hành đánh du kích rất hiệu quả. Sách Quế hải ngu hành chí của Phạm Thành Đại (đời Tống) chép: “Quân Tống thừa thắng chiếm châu Quang Lang, viên Tri châu là con rể nhà vua, bèn trốn vào trong đám cỏ, thấy quân Tống thì ra giết chết hoặc bắt về... Người ta cho là vị Thiên thần”. Hoạt động của Thân Cảnh Phúc gây cho đối phương nhiều khó khăn và góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Thân Cảnh Phúc đã hy sinh trong chiến đấu và được nhân dân tôn vinh là Thiên thần, kẻ thù khiếp sợ mệnh danh ông là “Thiên thần Động Giáp”. 32 Lịch sử cần ghi nhận công lao và cống hiến to lớn trong thắng lợi vang dội của kháng chiến chống Tống năm 1075 - 1077 của các tù trưởng cùng với các dân tộc thiểu số vùng biên cương phía Bắc, trong đó nổi bật lên vai trò của các dân tộc vùng động Giáp với ba đời Phò mã Châu mục Lạng Châu là Thân Thừa Quý, Thân Thiệu Thái và tiêu biểu là Thân Cảnh Phúc. 33 ĐẠI KHOA LÊ VĂN THỊNH VỚI CUỘC ĐẤU TRANH ĐÒI ĐẤT NĂM 1084 Trong hoàn cảnh đất nước đã được độc lập tự chủ, xây dựng và củng cố nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vào đầu thế kỷ XI đối với triều Lý là vô cùng trọng đại. Vì vậy, đào tạo đội ngũ quan lại để cung cấp cho bộ máy chính quyền của nhà nước quân chủ là một công việc trước tiên của vương triều. Khoa cử chính là con đường nâng cao tri thức và tuyển lựa được người tài bổ sung cho chính quyền. Tầm quan trọng của khoa cử được nhà bác học Phan Huy Chú chỉ rõ: “Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục. Phàm muốn thu hút người tài năng, tuấn kiệt vào trong phạm vi của mình, thì người làm vua một nước không thể nào không có khoa cử”1. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của khoa cử đối với việc xây dựng vương triều, nên _____________ 1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008, t.II, tr.5. 34 nhà Lý đã rất quan tâm đến việc tổ chức giáo dục khoa cử. Trong gần 9 thế kỷ hình thành và phát triển của lịch sử khoa cử Việt Nam (1075-1918), triều Lý là triều đại đầu tiên thực hiện chọn hiền tài bằng khoa cử. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông bắt đầu cho tuyển Minh kinh bác học (tức là những người học rộng, thông hiểu kinh thuật) và khoa thi Nho học tam trường, khai mở cho lịch sử khoa cử Việt Nam. Theo ghi chép của thư tịch cổ, Lê Văn Thịnh người làng Đông Cứu, huyện Gia Định (nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh), tính ham học. Bấy giờ (đầu triều Lý) chưa có khoa cử, dầu ai thông minh, lanh sáng đến đâu cũng phải do đường Phật giáo mà được lựa chọn đề bạt; riêng có Lê Văn Thịnh chăm đọc sách. Khoa thi năm 1075, lấy đỗ hơn 10 người, Văn Thịnh là người đỗ đầu. Ông là người khai khoa cho nền giáo dục khoa cử Nho học Việt Nam và cũng là mở đầu chính thức cho việc lựa chọn người đỗ Đại khoa vào tham gia chính quyền phong kiến. Sau khi đỗ đại khoa, Lê Văn Thịnh được lựa vào hầu vua học tập. Đây là một trọng trách và cũng là một đặc ân mà vương triều Lý dành cho một trí thức Nho học vừa trúng tuyển, đồng thời, cũng là trường hợp hiếm thấy trong lịch sử trung đại Việt Nam. Công việc truyền đạt kiến 35 thức cho đương kim hoàng đế, thường thuộc về chức trách của các vị đại thần nguyên lão, có kiến thức quảng bác, đạo cao đức trọng, được sự tín nhiệm cao của triều thần và có kinh nghiệm sâu sắc trên chính trường. Lựa chọn Lê Văn Thịnh là một người giỏi cả Phật giáo lẫn Nho giáo, nhưng còn trẻ tuổi vào đảm đương “hầu vua học” là một đột phá trong chính sách trọng dụng người tài của vương triều Lý. Đồng thời, điều này cũng phản ánh một sự thực lịch sử: Nhu cầu quản lý đất nước bằng đội ngũ trí thức am hiểu Nho học đầu thế kỷ XI là rất cần kíp. Như vậy, triều đình nhà Lý cho tổ chức khoa thi đầu tiên không chỉ để chọn lấy những người tài có kiến thức, nhằm bổ sung, tăng cường cho đội ngũ quan chức của triều đình, mà còn cần tuyển lấy cả những người có trình độ học vấn cao về Nho học, để giúp vua nâng cao học vấn trong việc “trị quốc, bình thiên hạ”. Thông qua việc mở khoa thi Nho học, triều Lý hy vọng đạt được mục đích “nhất tiễn song điêu” (một phát tên bắn được hai con chim). Có thể khẳng định, trong thời gian thường xuyên được hầu cận nhà vua học tập, đại khoa Lê Văn Thịnh đã góp phần rất quan trọng vào việc truyền bá tư tưởng Nho giáo tới tầng lớp quý tộc nhà Lý - những người đứng đầu quốc gia Đại Việt ở thế kỷ XI - XIII, vốn rất sùng mộ Phật giáo. 36 Ngoài việc giảng giải kiến thức Nho học cho nhà vua, Lê Văn Thịnh còn đảm nhiệm nhiều chức vụ trọng yếu khác trên lĩnh vực quân sự, ngoại giao của triều Lý. Ngay sau kỳ thi năm 1075, ông được triều đình nhà Lý trao cho giữ chức Nội cấp sự và một năm sau (1076) được thăng chức Binh bộ Thị lang. Những năm 70 của thế kỷ XI là thời kỳ căng thẳng, đụng độ quyết liệt giữa triều Lý và triều Tống. Nhằm mở rộng phía nam, triều Tống đã thực hiện các cuộc tấn công với lực lượng quân sự đông đảo vào Đại Việt. Sau thất bại nặng nề trước những đòn giáng trả mạnh mẽ của quân đội triều Lý do Lý Thường Kiệt chỉ huy, triều Tống cùng các biên thần tìm mọi cách xâm chiếm nhiều vùng đất biên cương phía bắc Đại Việt. Sử sách ghi lại như sau: “Trước đây, bọn Quách Quỳ sang xâm lấn, các châu Quảng Nguyên đều mất về tay nhà Tống, Tống đổi Quảng Nguyên làm Thuận Châu sai quan sang cai trị”1. Sau đó, do sự đấu tranh mạnh mẽ trên mặt trận ngoại giao và hơn nữa gặp phải sự phản kháng dữ dội của các đồng bào dân tộc, khiến cho số quân Tống tạm đóng tại các vùng biên cương phía Bắc “ăn không ngon, ngủ không yên”, triều đình Tống cho rút quân và trả _____________ 1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.I, tr.357. 37 lại cho triều Lý. Quốc sử nước ta chép: “... Hằng năm, trong số ba nghìn lính thú (phía Tống), chết đến năm, sáu phần mười. Kịp khi ta trả tù binh ba châu cho Tống, thì vua Tống nói: “Thuận Châu (tức Quảng Nguyên, Cao Bằng), là nơi lam chướng, dẫu được cũng không lợi gì, há lại nên dồn quân lính vào chỗ chết ư? ”, bèn trả lại cho ta”1. Tuy vậy, cuộc đấu tranh giữa triều đình nhà Lý với nhà Tống đòi trả lại những vùng đất còn bị xâm chiếm vẫn tiếp tục diễn ra vô cùng khó khăn, phức tạp. Vào năm Giáp Tý (1084), triều đình nhà Lý đã cử Lê Văn Thịnh với cương vị là Binh bộ Thị lang sang nước Tống, để hội bàn việc tranh chấp đất đai vùng biên. Sách Danh tiết lục của Trần Ký Đằng cho biết, Lê Văn Thịnh năm đó đã sang Quảng Tây, họp bàn với Tuần kiểm ti nhà Tống là Thành Trác. Nhằm mục đích quan trọng là giành lại lãnh thổ đã bị xâm chiếm cho đất nước, cho nên Lê Văn Thịnh thực hiện phương châm ngoại giao hết sức mềm dẻo, từ tốn theo cách “chỉ lấy lý lẽ mà giải thích”. Thái độ khiêm nhường cùng ngôn từ “kẻ bồi thần này không dám tranh giành” của Chánh sứ Lê Văn Thịnh khiến vua Tống phải nể phục và khen ông là người “biết cung kính, biết lẽ phải”. Nhưng trên thực tế, vị _____________ 1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.357. 38 Chánh sứ của Đại Việt cũng rất kiên quyết và dứt khoát trong khi tranh luận đòi đất, chính thư tịch triều Tống đã chép câu trả lời thể hiện quan điểm cứng rắn của ông: “Đất thì có chủ, các viên coi giữ mang nộp, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũng không cho phép. Huống chi nay, chúng lại mang đất trộm dâng, để làm nhơ bẩn sổ sách của nhà vua (triều Tống)”1. Cho nên, Tống Thần Tông đành phải “bèn hạ chiếu trả lại cho ta 6 huyện Bảo Lạc và 6 động Túc Tang”2. Trong chuyến ngoại giao năm 1084, không chỉ hoàn thành xuất sắc trọng trách của triều đình giao phó: giành lại nhiều vùng đất biên cương phía Bắc, mà bản thân Lê Văn Thịnh còn được vua Tống ban phong chức Long đồ các Đãi chế. Việc phong chức cho một vị Chánh sứ xuất thân từ khoa bảng như Lê Văn Thịnh, càng chứng tỏ rõ sự công nhận và nể phục của triều đình phong kiến Trung Hoa đối với trí thức Nho học Việt Nam thời Lý, mà người đại diện tiêu biểu đại khoa Lê Văn Thịnh. Sau thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao năm 1084, ngay năm sau 1085, triều Lý quyết _____________ 1, 2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.358. 39 định gia phong Lê Văn Thịnh chức Thái sư, là một trọng chức đứng đầu của văn võ đại thần triều Lý, với phẩm hàm cao nhất là Chánh nhất phẩm. Trong công cuộc giữ vững chủ quyền lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia trên vùng biên cương phía Bắc của triều Lý ở các thế kỷ XI - XIII, chúng ta không thể không nhắc đến những cống hiến xuất sắc của Binh bộ Thị lang Lê Văn Thịnh - vị đại khoa đầu tiên của Việt Nam. 40 TẤM BIA CỔ CHÉP VIỆC HỌ HÀ TRẤN GIỮ VÙNG BIÊN PHÍA BẮC Trong chính sách quản lý biên cương, triều Lý đã thực thi rất triệt để, khai thác tối đa chính sách “nhu viễn” (mềm mỏng nơi phương xa), hoặc còn gọi là chính sách “ki mi” (tức là ràng buộc lỏng lẻo) đối với các dân tộc thiểu số vùng biên. Thực chất với biện pháp gả con gái, em gái cho các tù trưởng có thế lực ở các vùng trọng điểm, hiểm yếu, các vua triều Lý đã phát huy hiệu quả tích cực trong việc quản lý vùng giáp ranh biên giới, nơi mà triều đình không thể trực tiếp cai trị được. Tấm bia cổ được phát hiện trong ngôi chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, càng minh chứng sâu đậm hơn hiệu quả chính sách quản lý biên cương của triều Lý cách nay hơn 10 thế kỷ, tiêu biểu là những đóng góp tích cực của họ Hà trên vùng đất Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Tại ngôi chùa mang tên “Bảo Ninh Sùng Phúc” thuộc Làng Tạc, thôn Vĩnh Khoái, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, 41 hiện còn lưu giữ một tấm bia cổ đời Lý. Đây vốn là tên một ngôi chùa cổ được dựng trên đồi Khuân Khoai (Pù Khuân Khoai, còn có tên là Pù Chùa, tiếng Tày có nghĩa là đồi Khoai sọ), vì thế dân chúng địa phương thường gọi với tên dân tộc, nôm na, dễ hiểu là chùa Khuân Khoai (chùa Khoai sọ). Tấm bia được dựng trong chùa có tiêu đề là Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi có nghĩa là Bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc. Căn cứ theo nội dung: ngôi chùa được bắt đầu xây dựng vào cuối mùa xuân năm Đinh Hợi (1107) đời vua Lý Nhân Tông. Như vậy, cho đến nay chùa Bảo Ninh Sùng Phúc là ngôi chùa cổ nhất, có lịch sử tồn tại hơn 9 thế kỷ của vùng đất Tuyên Quang được phát hiện. Tuy không rõ năm lập bia, nhưng văn bia có chép tên người soạn văn bia là Lý Thừa Ân, sống vào cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XII, làm quan đến chức Triều liệt Đại phu, Thượng thư Viên ngoại lang, từng được cử đi sứ Tống năm 1132. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu thông qua những hoa văn và mô típ trang trí như rồng bờm, hoa cúc, hoa mai, sóng nước... cùng những tư liệu khảo cổ học, nhất là những đồ dùng sinh hoạt được tìm thấy tại chùa trong những đợt khai quật gần đây, càng khẳng định chắc chắn niên đại của tấm bia cổ thuộc giai đoạn mạt kỳ triều Lý. Đặc biệt, nội dung văn bia cũng cung cấp thêm nhiều tư liệu về dòng họ Hà tại nơi đây, bắt 42 đầu từ Cụ tổ là Hà Đắc Trọng, trải 15 đời đến Hà Hưng Tông. Cụ Hà Đắc Trọng là viễn tổ của họ Hà di cư từ phương Bắc sang, sinh sống và tham gia quan trường tại châu Vị Long (nay là huyện Chiêm Hóa); trải qua năm tháng đã dần được thăng chức (Thái) thú châu Vị Long. Từ đó, họ Hà càng có điều kiện phát triển và mở rộng thế lực. Đồng thời, dân chúng trong vùng cũng được hưởng ân đức “dân được ấm no” và “người đời tôn Cụ (Hà Đắc Trọng) là bậc trưởng thượng”. Đến đời thứ 8, họ Hà châu Vị Long trở thành một dòng họ lớn có vị trí quan trọng, đã có hai đời giữ chức Thái bảo và Thái phó của triều đình tham gia cai quản 49 động, 15 huyện các địa phương trong vùng; đời thứ 13, tức là đời ông nội của Hà Hưng Tông, được trao cho chức Thái bảo, lấy công chúa thứ ba con của vua Lý Thái Tổ và được triều đình phong Hữu đại liêu ban. Cho đến đời thứ 14, người cha của Hà Hưng Tông (văn bia không chép rõ tên) vẫn tiếp tục truyền thống của dòng tộc, cai quản vùng đất châu Vị Long. Ông thi hành chính sách nhân nghĩa, khiến cho “làng xóm yên vui”. Đặc biệt, vào cuối năm 1075, Lý Thường Kiệt đem quân đánh vào đất Tống, cùng với nhiều dòng họ khác ở biên giới phía Bắc như họ Giáp/Thân ở Lạng Châu (Bắc Giang, nam Lạng Sơn), họ Nùng ở Quảng Nguyên 43 (Cao Bằng), họ Vi ở Tô Mậu (đông Bắc Giang, tây Quảng Ninh), họ Hoàng ở Vĩnh An (đông bắc Quảng Ninh)..., họ Hà ở Vị Long cũng tích cực tham gia cuộc tấn công này. Thân phụ của Hà Hưng Tông đưa một đạo quân “Thổ binh” theo quân chủ lực triều Lý đánh vào hệ thống căn cứ quân sự của quân Tống dọc biên giới và bao vây thành Ung Châu (Nam Ninh). Ông chỉ huy đạo quân xông pha nơi trận tiền, lập được chiến công, “bắt tướng giặc, dâng tù binh”. Sau thắng lợi, vua Lý Nhân Tông (1072-1128) ban thưởng, thăng chức cho ông là Hữu đại liêu ban Đoàn luyện sứ. Ông tiếp tục thực thi một chính sách khoan dung, giảm nhẹ phú thuế, khiến cho đời sống dân chúng trong vùng được no đủ. Trị sở và nơi ở của quan Hữu đại liêu ban trở thành địa điểm tụ hội thường xuyên của nhiều quan khách và thường dân. Văn bia chép: “Thuế thu chín phần lấy một, thóc lúa đầy kho, khách khứa ba ngàn, cửa nhà (đông vui) như chợ”. Tấm bia tập trung viết về Hà Hưng Tông, ngay dòng mở đầu đã chép: “Quan coi châu Vị Long, tước Phò kỳ lang (tức là Phò mã, con rể nhà vua), Đô tri tả vũ vệ Đại tướng quân, Kim tử quang lộc Đại phu, Kiểm hiệu Thái phó; Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự, kiêm Quản nội khuyến nông sự, Thượng trụ quốc, ăn lộc phong ấp ba nghìn chín trăm hộ, ăn lộc thực phong chín trăm hộ”. 44 Khi Hà Hưng Tông mới có 9 tuổi, vua Lý Nhân Tông đã cho triệu về kinh gả em gái là công chúa Khâm Thánh cho: “Năm Đinh Tỵ, niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng, bấy giờ Thái phó (Hà Hưng Tông) mới lên chín tuổi, chiếu đóng ấn son, vời về sân đỏ, sổ tiên lựa chọn, kết bạn em vua”, nhưng vì “Thái phó còn nhỏ, nên xin được về nấp bóng cha mẹ”. Đến năm sau (1078), “Thái phó lên mười tuổi, nhà vua lại sai quan Nội phụ văn tư Lang trung là Kiểu Nghĩa, mật mang Thánh chỉ, thẳng tới ấp phong, đón trẻ thơ nơi hoang vắng, cho gang tấc gần gũi mặt rồng, kết duyên cùng công chúa Khâm Thánh và phong chức Tả đại liêu ban”. Bốn năm sau, vào mùa đông năm Nhâm Tuất (1082), nhà vua mở tiệc lớn tiễn công chúa về nhà chồng. Thái phó Hà Hưng Tông sắm sửa linh đình lễ vật đón dâu, nhà cửa trang hoàng lộng lẫy, dân chúng quanh vùng “xem đông như đi hội”. Năm 1085, cha mẹ của Hà Hưng Tông đều lần lượt qua đời, công chúa cùng chồng chịu tang. Năm Bính Dần (1086), vua Lý Nhân Tông xuống chiếu, ban cho Thái phó được tiếp tục kế tiếp chức vụ của cha, vẫn giữ tước cũ là Tả đại liêu ban, kiêm thêm chức Tri châu Vị Long thú Tiết độ sứ, Kim tử quang lộc Đại phu, Kiểm hiệu Thái phó. Đối chiếu với thư tịch cổ Việt Nam, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Nhâm Tuất, [Anh Vũ 45 Chiêu Thắng] năm thứ 7 [1082], (Tống Nguyên Phong năm thứ 5). Mùa xuân, gả công chúa Khâm Thánh cho Châu mục châu Vị Long là Hà Di Khánh”1. Như vậy, có nhiều chi tiết xuất nhập giữa văn bia và chính sử: về thời gian phong chức, năm gả công chúa..., nhưng có một sự kiện thực sự đã diễn ra là vị Châu mục châu Vị Long họ Hà được nhà vua gả công chúa. Gần đây, trong một cuộc hội thảo về các danh nhân họ Hà châu Vị Long - Tuyên Quang và giá trị tấm bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, các nhà khoa học đã đưa ra nhận định nhân vật lịch sử Hà Hưng Tông được ghi trên tấm bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc và Hà Di Khánh chép trong thư tịch cổ là một người. Vào năm 39 tuổi (năm 1107), Hà Hưng Tông đã tự xuất tiền của, tập trung hương lão, chọn đất, tìm gỗ, kén thợ giỏi, hưng công kiến thiết ngôi chùa Bảo Ninh Sùng Phúc. Quang cảnh xây dựng rầm rộ được văn bia miêu tả: “Đẽo gỗ rừng chan chát, chuyển quang sọt rộn ràng”. Ngôi chùa được dựng trên một kiến trúc quy mô bề thế và trữ tình: “Xà uốn cong cong, ngỡ cầu vồng bắc nhịp; mái hiên xòe cánh, như chim chóc tung bay”. _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.281. 46 Tấm bia cổ được khắc dựng sau khi hoàn thành ngôi chùa, đã khẳng định công lao giữ vững an ninh và xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa trong gần 200 năm dưới triều Lý của 15 đời họ Hà trên vùng đất cổ Chiêm Hóa, Tuyên Quang; đồng thời, cũng bổ sung thêm tư liệu ghi nhận hiệu quả chính sách đoàn kết dân tộc của vương triều Lý trong việc quản lý biên cương trên vùng đất phía Bắc nước ta. 47 DƯƠNG TỰ MINH HAI LẦN ĐƯỢC LÀM PHÒ MÃ TRIỀU LÝ Nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc và bảo vệ quốc gia thống nhất, vương triều Lý đã thi hành nhiều chính sách tích cực đối với các dân tộc thiểu số và thu được hiệu quả đáng kể. Cụm từ “nhu viễn” (tức là mềm mỏng đối với phương xa) được xuất hiện dưới triều Lý và sau này dần trở thành định chế của các triều đại kế tiếp trong chính sách quan trọng đối với các dân tộc thiểu số (nhất là tại các vùng biên cương xa xôi). Đặc biệt, vào thế kỷ XI vùng biên cương phía Bắc, là nơi thường xuyên xảy ra những vụ tranh chấp quyết liệt, căng thẳng, giằng co giữa triều Lý và triều Tống. Vì vậy, các vua triều Lý nhằm thu phục các dân tộc thiểu số để tăng cường, bổ sung cho lực lượng bảo vệ vùng đất nóng bỏng, đã thực hiện khá nhiều cuộc hôn nhân của các công chúa với các thủ lĩnh, tù trưởng dân tộc phía Bắc. Theo thư tịch cổ, từ năm 1029 triều vua Lý Thái Tông đến năm 1167 triều vua Lý Anh Tông có 9 công 48 chúa đã được gả cho tù trưởng các châu thuộc vùng trung du, thượng du Bắc Bộ. Trong đó, Dương Tự Minh, Thủ lĩnh phủ Phú Lương là một trường hợp đặc biệt không riêng của triều Lý, mà cả trong toàn bộ lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam. Chỉ trong vòng 17 năm, Dương Tự Minh đã được hai vua Nhân Tông và Anh Tông, cho phép cưới hai công chúa ở hai thời điểm khác nhau. Sử sách chép: “Tháng 12 năm 1127, [vua Lý Nhân Tông], đem công chúa Diên Bình gả cho Thủ lĩnh phủ Phú Lương là Dương Tự Minh”1 và “đến tháng 2-1144 [vua Lý Anh Tông] đem công chúa Thiều Dung gả cho Dương Tự Minh, phong Tự Minh làm Phò mã lang]”2. Vì sao Dương Tự Minh, một thủ lĩnh dân tộc lại được các vua triều Lý ưu đãi trọng hậu đến vậy? Dương Tự Minh dân tộc Tày, vốn là người xã Quan Triều, huyện Phú Lương, phủ Phú Bình (nay là phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên). Sau khi trở thành con rể (Phò mã), vào năm 1142 Dương Tự Minh được vua Lý Anh Tông quyết định cử đi Quảng Nguyên thực hiện chức trách chiêu tập người trong châu trước kia bị xiêu giạt, trốn tránh. Đây là lần đầu tiên và cũng là duy nhất triều Lý tiến hành đưa quan chức đi tập _____________ 1, 2. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.295, 315. 49 hợp, chiêu tập dân chúng lưu tán trên vùng núi phía Bắc. Nguyên nhân là do vùng đất này bị quân Tống xâm chiếm một thời gian, triều Lý cùng các biên thần đã đấu tranh không khoan nhượng, buộc phía Tống phải hoàn trả. Nhưng trong thời kỳ bị ngoại bang xâm lược, dân chúng đã bỏ đi nơi khác trốn tránh, mưu sinh, khiến cho nhà cửa, đồng ruộng hoang tàn. Vì vậy, Phò mã Dương Tự Minh mang sứ mệnh của triều đình kêu gọi, hô hào nhân dân trở lại quê hương ổn định cuộc sống và sản xuất, nhằm mục đích sâu xa là tạo một hậu thuẫn vững chắc cho việc bảo vệ biên cương phía Bắc. Thư tịch không cho biết kết quả cụ thể tại vùng đất Quảng Uyên của Dương Tự Minh, nhưng có thể khẳng định ông đã hoàn thành xuất sắc lệnh chỉ của triều Lý. Vì chỉ không đầy một năm sau, tháng 8 năm 1143, vua Lý Anh Tông lại ban chiếu cho Dương Tự Minh được “cai quản việc công các khe động dọc theo biên giới về đường bộ”. Tiếp theo, cũng chỉ 6 tháng sau ông lại được gả công chúa Thiều Dung và được ban chức Phò mã lang. Đây là những minh chứng rõ ràng về sự tín nhiệm cao của nhà vua cùng triều thần đối với tài năng và đức độ của vị Phò mã Tù trưởng phủ Phú Lương. Được giao quản lý biên giới, nơi các dân tộc thiểu số sinh sống dọc theo đường bộ phía Bắc là một trọng trách vô cùng khó khăn và vất vả, 50 nhưng Dương Tự Minh đã chứng tỏ là một viên quan trấn thủ xuất sắc và có tài. Ông đã chỉ huy quân dân vùng biên đánh bại đám giặc Đàm Hữu Lượng cầm đầu từ nước Tống sang cướp bóc, chiếm giữ động Cát Khê của châu Quảng Nguyên vào tháng 8 năm 1145. Tính từ khi sử sách ghi chép lần đầu vào năm 1127 cho đến năm 1150, lúc phải chịu oan uổng, bị lưu đày đến vùng Điểm Sơn xa xôi và mất ở đó, Dương Tự Minh đã có hơn 20 năm làm quan dưới ba triều vua Lý Nhân Tông (1072-1128), Lý Thần Tông (1128-1138) và Lý Anh Tông (1138-1175). Ông nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, thương dân, mẫn cán, tài giỏi. Trong thời gian giữ chức vụ trấn thủ vùng biên cương suốt dọc từ Phú Lương, Thái Nguyên đến Quảng Nguyên, Cao Bằng, ông đã để lại nhiều chiến công cùng những đóng góp xuất sắc cho việc bảo vệ vùng biên giới phía Bắc. Những vùng đất mà Dương Tự Minh đến trấn trị, từ rừng núi xa xôi như Cao Bằng, Bắc Kạn đến Bắc Giang, Bắc Ninh đều có các di tích ghi nhớ công tích của ông. Thái Nguyên, nơi sinh ra và là nơi chứng kiến những ngày cuối đời của ông, có rất nhiều địa phương kính cẩn đưa Dương Tự Minh làm Thành hoàng làng, quanh năm hương khói, để tưởng nhớ đến người con yêu quý của quê hương đã cống hiến trọn đời cho công cuộc bảo vệ biên cương Tổ quốc. 51 Theo thống kê của Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên, có gần 100 di tích thờ Dương Tự Minh, trong đó 72/112 đình (chiếm 64% tổng số đình trong tỉnh) và 22/49 đền (chiếm 44,9% tổng số đền). Đền Đuổm (Điểm Sơn) thuộc xã Động Đạt, huyện Phú Lương, Thái Nguyên là nơi thờ chính Dương Tự Minh. Đền Đuổm hiện còn lưu giữ được nhiều sắc phong, câu đối, hoành phi, các tư liệu dân gian liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Dương Tự Minh. Đặc biệt có 11 đạo sắc của các triều vua từ đời Lê đến đời Nguyễn ban phong, để ca ngợi công đức của Dương Tự Minh, cho phép dân làng các nơi được phụng thờ ông. Vương triều Lý trên cơ sở giải quyết ổn thỏa vấn đề dân tộc bằng chính sách vừa ôn hòa, mềm dẻo, vừa dứt khoát, kiên quyết đã tạo nên một hiệu ứng tích cực đối với cộng đồng các dân tộc thiểu số. Song song với việc tập trung xây dựng củng cố chính quyền trung ương, triều Lý còn chú trọng thiết lập mối quan hệ bền chặt, hữu cơ giữa quyền lực của Nhà nước và quyền lực của các thế lực thổ tù, tù trưởng tại các địa phương. Đây là một bài học kinh nghiệm để quản lý quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống được bền chặt, duy trì ổn định và an ninh biên giới trong hơn 200 năm tồn tại của triều Lý. 52 THÁI SƯ TRẦN NHẬT DUẬT QUẢN LÝ BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC Trần Nhật Duật là con trai thứ sáu của vua Trần Thái Tông, là em vua Trần Thánh Tông. Ông sinh năm Ất Mão, niên hiệu Nguyên Phong thứ 5 (1255) đời vua Trần Thái Tông tại kinh thành Thăng Long. Khi Trần Nhật Duật mới 3 tuổi, quốc gia Đại Việt đã phải trải qua cuộc kháng chiến ác liệt và anh dũng chống lại quân xâm lược Mông Cổ năm 1258. Sau chiến thắng vang dội đó, quân Mông - Nguyên chưa từ bỏ mộng bành trướng xuống phía Nam và Đại Việt vẫn là mục tiêu cần phải xâm lược của chúng. Trong 27 năm tiếp theo (1258-1285), triều Trần tranh thủ thời gian đất nước thanh bình, nhanh chóng thúc đẩy sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, sản xuất nông nghiệp và đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Năm 13 tuổi (1267), vua anh Trần Thánh Tông phong cho Nhật Duật làm Chiêu Văn vương, đồng thời theo quy định chung của vương triều 53 Trần, ông được thụ hưởng một trang ấp rộng lớn để sản xuất kinh tế và được thành lập một đội quân bản bộ của riêng mình. Lúc đất nước hòa bình, các vương hầu đều chỉ huy điều hành sản xuất nông nghiệp “tự cấp tự túc”, rèn tập quân sĩ tại phủ đệ, thái ấp được chia, hằng tháng theo quy định đều có về kinh thành Thăng Long chầu vua. Một khi có chiến tranh hoặc việc nguy cấp, các vương hầu quý tộc Trần lại đem quân đội riêng ra hỗ trợ, giúp rập hoàng triều đánh giặc, giải quyết mọi vướng mắc cho triều đình. Sử gia Ngô Sĩ Liên đã ca ngợi chế độ phân phong lập ấp này của triều Trần như sau: “Theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ nơi hương ấp của mình, khi chầu hầu thì đến Kinh đô, xong việc lại về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả... Vả lại, như năm Đinh Tỵ đời Nguyên Phong (tức đầu năm 1258), giặc Nguyên sang cướp, các vương hầu cũng đem gia đồng và hương binh, thổ hào làm quân Cần vương. Trong sự biến đời Đại Định lại đem người thôn trang sắm sửa nghi trượng đi đón vua, đó cũng làm vững thế “duy thành” vậy”1. _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.II, tr.32. 54 Năm 1330, Trần Nhật Duật mất khi ông đang giữ chức Thái sư, hưởng thọ 76 tuổi. Các sử thần đánh giá ông là một người thông minh, có kiến thức sâu rộng nhiều lĩnh vực, nhất là ngoại ngữ: Nhật Duật thích giao du với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà Già (nơi triều Lý đưa tù binh Chiêm Thành đến ở, nay thôn Phú Gia, phường Phú Thượng, Tây Hồ, Hà Nội vẫn còn ngôi chùa Bà Già), có khi ba, bốn ngày mới về. Lại hay đến chơi thôn Tường Phù, nói chuyện với nhà sư người Tống, ở lại cả đêm trao đổi về đạo Nho, sáng hôm sau mới về. Người nước ngoài khi đến kinh đô, nghe tiếng thường đến chơi nhà ông. Nếu là khách Tống thì ông kéo ghé ngồi gần, chuyện trò suốt buổi. Nếu là người Chiêm hay người các Man khác, thì đều theo phong tục nước họ mà tiếp đãi. Vua Nhân Tông thường nói: Chú Chiêu Văn có lẽ là kiếp sau của bộ lạc Phiên (chỉ các dân tộc thiểu số). Mỗi khi giao thiệp với sứ thần nhà Nguyên, không cần dùng người thông ngôn, thường cầm tay, uống rượu với nhau, vui vẻ như bạn quen biết. Có lần sứ thần triều Nguyên đã ngờ ông là người phương Bắc, hỏi rằng: “Ông hẳn là người ở Chân Định sang làm quan bên này”. Nhật Duật đã cố gắng giải thích, nói mình là người gốc ở Đại Việt, nhưng họ vẫn không tin. Nguyên nhân là do hình dáng và tiếng nói của 55 Nhật Duật giống như người xuất thân từ Chân Định ở phương Bắc. Vào đời vua Nhân Tông, có sứ thần nước Sách Mã Tích (tên gọi Xingapo thời cổ) sang cống, triều đình không tìm được người phiên dịch, chỉ có Nhật Duật dịch được. Sau khi sứ thần về, các bạn đồng liêu hỏi sao lại biết được tiếng nước ấy, ông nói đời Thái Tông khi có đoàn sứ nước ấy sang, tôi có giao du mạn đàm, nên hơi hiểu được ngôn ngữ của họ. Sử còn chép thêm, Nhật Duật là “người có độ lượng, hòa nhã, dù mừng hay giận không bao giờ lộ ra nét mặt... lúc gặp việc thù tùy cơ ứng biến, rất mạnh dạn về việc đánh giặc”1. Vào niên hiệu Thiệu Bảo thứ 2 (1280) của đời vua Trần Nhân Tông (1279-1293), xảy ra sự kiện: một tù trưởng ở Đà Giang (nay thuộc các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Sơn La) là Trịnh Giác Mật tập hợp dân chúng trong vùng, nổi lên làm loạn. Thời gian này, Trần Nhật Duật đang được triều đình giao cho trấn giữ đạo Đà Giang, nhà vua liền sai ông đi phủ dụ Giác Mật. Trước hết, Nhật Duật cho quân thuộc hạ đi do thám tình hình thực lực của Giác Mật, biết tin tù trưởng họ Trịnh phái người đến quân doanh của ông và bày tỏ lòng _____________ 1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.605. 56 thành: “Mật tôi không dám trái mệnh. Nếu ân chúa (chỉ Trần Nhật Duật) một mình một ngựa đến trại tôi, thì Mật xin hàng”1. Nhật Duật liền nhận lời, ước hẹn ngày giờ đến. Tướng lĩnh và quân sĩ lo ngại nguy hiểm, đều ngăn ông không nên đi. Nhưng Nhật Duật vẫn quyết tâm thực hiện lời hứa, chỉ đem theo vài tiểu đồng. Ông an ủi các tướng sĩ: “Nếu chẳng may nó giáo giở với ta thì triều đình còn có vương khác đến”2. Khi ông cùng các gia nhân đến trại, quân lính của Giác Mật dàn vây thành nhiều lớp và đều cầm giáo thương chĩa vào bên trong trại với bộ mặt đằng đằng sát khí, nhằm uy hiếp tinh thần. Nhật Duật bình tĩnh, tự tin, để mọi người ở bên dưới, chỉ một mình tay không trèo lên trại. Trịnh Giác Mật chạy ra mời ông cùng ngồi đàm đạo. Nhật Duật vốn nổi tiếng là người thông thạo ngôn ngữ và phong tục của nhiều dân tộc thiểu số, nên ông nhanh chóng thu phục được Giác Mật và đồng đảng. Trong bữa tiệc chiêu đãi thịnh soạn của Trại chủ Giác Mật, ông dùng tay ăn bốc và uống rượu bằng mũi theo đúng tập quán của dân chúng địa phương, khiến cho “người Man thích lắm”. Chỉ vài ngày sau khi ông đến doanh trại, Giác Mật đem toàn bộ gia thuộc và quân lính đến đầu hàng. Triều thần và tướng sĩ rất vui mừng và kính _____________ 1, 2. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.46. 57 phục, vì chỉ bằng lời nói chân tình và lòng quả cảm của Nhật Duật, không cần tốn một mũi tên mà toàn bộ vùng Đà Giang đã thuộc về triều Trần. Nhật Duật đã đưa cả gia đình vợ con của Giác Mật về Kinh đô Thăng Long vào chầu vua, Nhân Tông đặc biệt khen ngợi biệt tài dụ hàng của ông. Nhà vua cho Giác Mật trở lại Đà Giang, lưu giữ con trai của Giác Mật ở Thăng Long giao cho Nhật Duật chăm sóc, nuôi dưỡng. Sử chép: “Ông mến nuôi hết lòng, xin triều đình ban tước Thượng phẩm và cho vào trông ao cá, sau trưởng thành lại cho về với gia đình”1. Với sự hiểu biết thấu đáo về ngôn ngữ, tập tục và văn hóa bản địa của các dân tộc thiểu số nơi mình trấn trị, Thái sư Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã có những điều kiện cơ bản và lợi thế để hoàn thành trọng trách của một biên thần triều Trần, giúp ông có thể thu phục lòng tin của dân chúng trong vùng, củng cố và giữ vững biên cương phía Bắc Đại Việt trong các thế kỷ XIII - XIV. _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.46. 58 TRẦN KHÁNH DƯ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÔNG - NGUYÊN Nhắc đến Trần Khánh Dư, mọi người đều luôn nhớ tới một vị tướng thủy quân tài giỏi đã tham gia cả ba cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên cùng những giai thoại (ca ngợi và chê trách) về ông. Vào năm 1258, ông là một trong những vị tướng trẻ dũng cảm, thường lựa lúc quân địch sơ hở bất ngờ tiến đánh, lập được nhiều chiến công lớn, được phong Phiêu kỵ Đại tướng quân. Vua Trần Thánh Tông yêu mến, khen là người có trí lược, coi như con nuôi gọi là “Thiên tử nghĩa nam”. Sau đó, Trần Khánh Dư bị khép tội dám yêu và quan hệ tình cảm sâu đậm với công chúa Thiên Thụy (đã được hứa gả cho Trần Quốc Nghiễn, con trai trưởng của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn). Khánh Dư bị cách mọi chức tước, tịch thu gia sản, phải trở về buôn bán than tại vùng quê hương ở Chí Linh, Hải Dương. Năm 1282, khi Đại hội vương hầu quý tộc diễn ra tại Bình Than bàn kế chống giặc Mông - 59 Nguyên, vua Trần Nhân Tông gặp và tha tội, cho Khánh Dư tham gia dự bàn. Ông đã góp nhiều ý kiến quý báu trong việc phòng thủ và tiến đánh, triều Trần lại trao cho Khánh Dư chức Phó Đô tướng quân đóng quân ở vùng Vân Đồn, bảo vệ vùng biển đông bắc Đại Việt. Khi là tướng chỉ huy quân thủy tại Vân Đồn, Trần Khánh Dư đã thực hiện một cách triệt để sử dụng hàng nội hóa. Cảng biển Vân Đồn là nơi qua lại, buôn bán của nhiều thương khách ngoại quốc, trong số đó lái buôn phương Bắc chiếm đa phần. Vì vậy, quần áo, đồ dùng của phương Bắc chiếm tỷ lệ rất lớn. Trần Khánh Dư đã ra lệnh quân tại trấn Vân Đồn không được đội nón của phương Bắc, sợ rằng khi chiến sự nổ ra, rất khó phân biệt được quân ta và kẻ địch. Ông đưa ra một quy định tất cả quân lính trấn giữ Vân Đồn đều phải đội nón Ma Lôi (một làng nổi tiếng ở vùng Hồng Lộ (Hải Dương) về sản phẩm đan nón bằng cật tre), ai trái quân lệnh sẽ bị trị tội nặng. Quân Nguyên tiến hành cuộc xâm lược lần thứ ba vào Đại Việt bắt đầu từ tháng 12-1287. Chúng chia làm ba đường tiến công, trong đó có hai cánh quân bộ từ phía bắc Đại Việt (từ Vân Nam và từ Quảng Tây) và một cánh quân thủy theo đường biển đông bắc đánh vào. Thống lĩnh đội quân thủy gồm 1 vạn 8 nghìn người là hai 60 viên Tham tri chính sự là Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp. Đoàn chiến thuyền của quân Nguyên vào giữa tháng 12-1287, xuất phát từ vùng cửa biển Khâm Châu (Quảng Đông) vào vùng đông bắc Đại Việt. Sau mấy ngày, đoàn chiến thuyền đi qua cửa biển Vạn Ninh (Móng Cái), tướng Nhan đức hầu là Trần Da phục quân trên núi Ngọc Sơn chặn đánh, quân Nguyên bao vây núi đánh lại được. Sau đó, chiến thuyền của hai viên tướng giặc tiến thẳng đến cửa biển An Bang (Quảng Yên), tại đây đội thủy quân của Trần Khánh Dư giao chiến nhưng bất lợi, đành phải rút lui. Thượng hoàng Trần Thánh Tông biết tin, sai Trung sứ triệu Khánh Dư về triều luận tội. Khánh Dư điềm tĩnh nói với Trung sứ: “Theo quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày, để mưu lập công, rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn”1. May mắn thay, Trung sứ nghe lời giãi bày chân thực của Trần Khánh Dư cũng đồng ý thuận theo. Bản thân Trần Khánh Dư là một viên tướng lão luyện, am hiểu binh thư, thông hiểu chiến lược, chiến thuật quân sự. Ông đã viết lời tựa cho tập Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Quốc Tuấn với một tri thức lý luận uyên bác và thực tế từng trải nơi trận mạc. Vì vậy, ông dự đoán chính _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.60. 61 xác, sau khi đoàn thuyền chiến đã khá thuận lợi vào được vùng biển đông bắc, đoàn thuyền vận lương sẽ kế tiếp đi sau. Chính lúc này kẻ địch sơ hở, nghĩ rằng thủy quân ta thua trận, không còn sức chiến đấu, đang còn phải ẩn nấp, chấn chỉnh quân ngũ. Cho nên, Khánh Dư thu thập quân lính còn lại, phục kích chờ đoàn thuyền lương đến. Quả nhiên, chỉ một vài ngày sau, đoàn thuyền vận lương nặng nề do Giao Chỉ hải thuyền vạn hộ Trương Văn Hổ chỉ huy đi vào vùng biển Quảng Ninh. Trần Khánh Dư bất ngờ cho quân tập kích tại Vân Đồn. Quan quân Trương Văn Hổ cố gắng thu tàn lực chạy về phía vùng biển Lục thủy (Cửa Lục, Hòn Gai), nhưng tại đây quân ta đổ ra đánh càng đông hơn. Tướng Trương Văn Hổ thua chạy, vội vàng đổ cả lương thực xuống biển, để thuyền nhẹ tẩu thoát về Hải Nam. Các thuyền vận lương của các viên tướng khác như Phí Củng Thìn, Từ Khánh gặp gió bão đều phải trôi dạt về tập trung ở đảo Quỳnh Châu (Hải Nam). Quân dân triều Trần thu được thắng lợi to lớn “bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất nhiều”1. Bộ chính sử của triều Nguyên là Nguyên sử cũng phải chép về thất bại năm 1288 của Trương Văn Hổ (tuy rằng còn xa với con số thiệt hại thực tế): “Quân ta (chỉ quân Nguyên) _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.60. 62 bị chết 220 người, chìm mất 11 chiếc chiến thuyền, mất hơn 14.300 thạch lương”1. Chiến thắng Vân Đồn đầu năm 1288 mang một ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ thắng lợi cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân Nguyên của quân dân triều Trần. Từ đây trở đi, quân Nguyên thường xuyên lâm vào cảnh thiếu thốn lương thực, thực phẩm, chúng vừa phải chống đỡ với những trận phản kích của triều Trần, lại vừa phải tìm cách cướp bóc để đáp ứng nhu cầu thiết yếu hằng ngày của hàng chục nghìn quân đội. Vì vậy, chiến thắng đoàn thuyền vận lương Trương Văn Hổ của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư được triều Trần đánh giá rất cao. Sử gia Ngô Thì Sĩ đã đưa ra nhận định xác đáng về kết quả trận chiến này: “... Trận thắng ở Vân Đồn của Khánh Dư rất kỳ diệu và là căn bản cho trận thắng sau đấy... Trận đón đánh ở Vân Đồn là chẹt con hổ giấy mà cướp lấy mồi, lòng tham lam hau háu mà không được thỏa vốn đã bị bẻ răng móng và dập gẫy răng rồi. Mưu tính liệu và công thắng địch của Khánh Dư cũng vĩ đại thay”2. Sử chép năm 1339, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư chết, theo đoán định của các nhà _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.60. 2. Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr.374-375. 63 nghiên cứu, khi đó ông cũng đã bước qua tuổi 100. Vào những thập niên đầu của thế kỷ XIV, Trần Khánh Dư đang ở độ tuổi “xưa nay hiếm” cũng vẫn tích cực tham gia dẹp loạn cho triều Trần. Năm Hưng Long thứ 20 (1312) đời vua Trần Anh Tông, ông vẫn còn chỉ huy một đội thuyền chiến theo đường biển đến thu phục Chiêm Thành. Năm Đại Khánh thứ 3 (1316) đời vua Trần Minh Tông, triều đình lại cử ông đi xét duyệt sổ lính, sổ dân ở Nghệ An. Cả cuộc đời của Trần Khánh Dư đã ra Bắc vào Nam, nổi danh là một lão tướng thủy quân dạn dày chinh chiến, sống trải qua 4 đời vua, lập được nhiều chiến công hiển hách. Trần Khánh Dư trấn giữ vùng đông bắc Đại Việt, khiến cho vùng biển nơi đây thanh bình trong hơn nửa thế kỷ. Dân chúng đã lập đền thờ Trần Khánh Dư ở Vân Đồn, thường xuyên chiêm bái hương đăng, để tưởng nhớ đến những đóng góp hiệu quả của ông đối với kháng chiến chống Mông - Nguyên và vùng biển đông bắc triều Trần. Ngô Thì Sĩ tổng kết cuộc đời binh nghiệp của ông như sau : “Khánh Dư làm tướng, có công đánh giặc Nguyên, trải thờ bốn triều vua, là bề tôi thất của một đời. Ngoài Hưng Đạo vương [Trần Quốc Tuấn] ra có thể so sánh với Chiêu Văn vương [Trần Nhật Duật]’’1. _____________ 1. Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr.437-438. 64 PHỤ ĐẠO HÀ ĐẶC, HÀ CHƯƠNG ĐÁNH GIẶC MÔNG - NGUYÊN Thắng lợi to lớn của cuộc phản kích chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai năm 1285 do vương triều Trần lãnh đạo, có sự đóng góp tích cực, hiệu quả của nhân dân các dân tộc từ miền Trung đến biên giới phía Bắc. Vào những tháng đầu mùa hè năm 1285, cánh quân của Toa Đô từ Nghệ An tiến ra Thanh Hóa đã bị Đại toát Đại liêu (đứng đầu một đại xã) Lê Mạnh, người ở hương Yên Duyên (nay thuộc huyện Quảng Xương, Thanh Hóa) chỉ huy dân địa phương đánh chặn dọc ven biển. Tấm bia đá hiện vẫn được lưu giữ tại chùa Hưng Phúc (thường được gọi là chùa Kênh), soạn vào năm Khai Thái nguyên niên (1324) cung cấp nhiều tư liệu lịch sử về cuộc chiến đấu này. Chùa Hưng Phúc trước kia thuộc địa phận hương Yên Duyên, phủ Thanh Hóa (nay thuộc xã Quảng Hùng, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa). Nội dung của bài ký và lời tựa khắc trên bia chùa Hưng Phúc (Hưng Phúc tự bi minh 65 tịnh tự), cho biết: “Hữu tướng giặc là Toa Đô, dẫn quân theo đường biển. Quân giặc đi tắt theo đường Cổ Khê, dẫn vào trong hương. Ông Lê Công (tức Lê Mạnh) đốc suất mọi người ra phòng ngự ở bến Cổ Bút (nay thuộc thôn Yên Nam, xã Quảng Hải, huyện Quảng Xương), đánh nhau với quân giặc. Quân giặc [bị đánh] hầu như không có đường lui chạy...”. Người soạn văn bia ca ngợi hành động quả cảm của Lê Mạnh: “Về việc [đánh giặc] thực nhờ công của ông vậy”. Nếu như ở miền Trung, cánh quân của Toa Đô đang lao đao chống đỡ với các cuộc phản kích của đội quân chính quy do những viên tướng tài giỏi triều Trần như Trần Quang Khải, Trần Đạo Tái, Trần Đức Việp chỉ huy... và những cuộc tập kích của dân quân vùng ven biển, thì ở phía Bắc, các viên tướng Thoát Hoan, Aríc Kharya cùng đồng đảng cũng đang phải liều chết để nhanh chóng về nước theo hướng đông bắc biên giới Đại Việt - Mông Nguyên. Vùng núi Lạng Sơn, với sự hoạt động tích cực của các đội dân binh người Tày, do Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh đứng đầu đã khiến cho toán quân Mông - Nguyên hộ tống và bọn hàng thần Trần Kiện phải bỏ xác tại trại Ma Lục, Chi Lăng, Lạng Sơn. Một cánh quân Mông - Nguyên khác tranh thủ thời cơ định tẩu thoát theo con đường biên phía Bắc về Vân Nam. Theo kiến giải của giới nghiên cứu: đây chính là đội 66 quân của viên tướng Naxirútđin (Nạp Tốc Lạt Đinh) khi tiến vào Đại Việt từng giáp chiến với quân Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật tại trại Thu Vật (thuộc huyện Yên Bình, Yên Bái) vùng thượng lưu sông Lô. Chủ tướng của đạo quân Mông - Nguyên suy nghĩ: quân chủ lực của triều đình Trần đang tập trung toàn bộ binh lực để truy kích đại quân của viên tướng Thoát Hoan và chuẩn bị lực lượng đón đánh cánh quân Toa Đô từ miền Trung chạy ra, nên khả năng việc phòng giữ vùng biên phía Bắc sẽ lơi lỏng. Vì vậy, nhằm tránh được sự truy kích của quân dân triều Trần, Naxirútđin quyết định lại tháo chạy theo con đường lúc đầu vào Đại Việt. Nhưng lúc này, hệ thống phòng bị biên cương phía Bắc Đại Việt đã được triều Trần và dân binh các dân tộc giăng mắc chặt chẽ khắp nơi, sẵn sàng phản công tiêu diệt quân xâm lược. Khi cánh quân của Naxirútđin chạy trốn qua huyện Phù Ninh (nay thuộc huyện Phong Châu, Phú Thọ) nhằm hướng về Vân Nam, đã bị dân binh địa phương do anh em Phụ đạo họ Hà chỉ huy tập kích, khiến cho đám tàn quân phải “thất điên bát đảo”. Họ Hà vốn thuộc người dân tộc Tày Khao, là một thế lực lớn nhiều đời được thế tập chức châu mục, tù trưởng ở vùng Quy Hóa. Vào những năm 80 của thế kỷ XIII, Hà Đặc đang là Phụ đạo huyện Phù Ninh, theo lời kêu gọi “cử 67 quốc nghênh địch” (cả nước đánh giặc) của vương triều Trần, đã cùng với các dân tộc địa phương chuẩn bị lực lượng, vũ khí đón đánh giặc Mông - Nguyên. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép đầy đủ về trận phản kích ngoan cường và rất mưu trí của dân binh các dân tộc thiểu số do Phụ đạo Hà Đặc, Hà Chương chỉ huy tại vùng núi nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Theo sử sách: Khi quân Mông - Nguyên đến vùng Phù Ninh, chúng đã cho quân lính đóng ở động Cự Đà (thuộc xã Tử Đà, huyện Phong Châu). Hai anh em Hà Đặc, Hà Chương phán đoán trước được hướng rút chạy của giặc, đưa dân binh lên lập căn cứ tại núi Trĩ Sơn. Các thủ lĩnh chờ đêm tối, dẫn dân binh từ trên núi, tập kích vào doanh trại chính của giặc. Có những đêm các đội dân binh khua chiêng, trống ầm ĩ, hò reo vang trời, khiến cho quân Mông - Nguyên “ăn không ngon, ngủ không yên”, tinh thần chiến đấu sa sút. Nhằm tăng thêm sĩ khí cho quân lính, Hà Đặc sai người dùng tre đan thành hình nhân to lớn, cho mặc quần áo như người thật, đợi khi trời tối, cứ dẫn ra dẫn vào. Trên các cây cổ thụ, các viên chỉ huy cho dùi thủng những lỗ to, rồi cắm vào đấy những mũi tên cực lớn xuyên qua. Quân giặc vốn đã hoảng loạn bởi cách đánh du kích, “xuất quỷ nhập thần” của dân binh, trông thấy những người khổng lồ, chúng lại càng sợ hãi, nghĩ rằng đang phải đối đầu với một đạo quân có sức 68 khỏe như thần, bắn được những mũi tên xuyên cây, cho nên càng không có lòng dạ nào chiến đấu nữa. Nhân cơ hội, Phụ đạo Hà Đặc dẫn dân binh, đánh thẳng vào trại chính, quân Mông - Nguyên đại bại, vứt bỏ binh khí, lương thực trốn chạy. Đội quân của Hà Đặc, Hà Chương truy kích đến vùng Quảng Nạp (A Nạp), đang bắc cầu qua sông, bất ngờ bị toán quân đi sau của giặc chặn đánh. Phụ đạo Hà Đặc đã anh dũng hy sinh trong chiến trận, Hà Chương bị giặc bắt. Nhân đêm tối, lừa khi chúng mất cảnh giác, Hà Chương đã trốn thoát và lấy được cờ xí cùng quần áo của giặc, đem dâng lên triều đình. Hà Chương xin vua Trần cho phép dùng những binh dụng thu được, cải trang thành quân Mông - Nguyên, tiến vào doanh trại của chúng. Bọn giặc không phát hiện ra, Hà Chương lệnh cho quân lính nhanh chóng phản kích. Giặc trở tay không kịp, thua chạy tan tác, vội vã rút tàn binh về Vân Nam. Cho đến nay, trải qua hơn 700 năm, nhân dân các dân tộc miền núi phía Bắc vẫn luôn tưởng nhớ đến những thủ lĩnh tài ba, lỗi lạc họ Hà của mình. Nhiều địa phương đã lập đền thờ hương khói quanh năm như miếu thờ Hà Lang ở xã Hiền Đa, Cẩm Khê, Phú Thọ, đền Nhược Sơn ở xã Châu Quế Hạ, huyện Văn Yên, Yên Bái, thờ Hà Chương... Xã Tân Long, huyện Lập Thạch, Phú Thọ vẫn còn lưu truyền những giai thoại về thân 69 thế và sự nghiệp chống quân Mông - Nguyên của Phụ đạo Hà Đặc... Chiến thắng lẫy lừng chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai năm 1285 đã đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi này đã ghi nhận những cống hiến tích cực của các dân tộc từ miền Trung lên miền Bắc. Trong đó, anh em Phụ đạo Hà Đặc, Hà Chương chỉ huy đội dân binh đã đóng góp một phần không nhỏ vào chiến công đánh đuổi ngoại xâm và sự nghiệp trấn giữ biên cương phía Bắc của vương triều Trần. 70 NHÂN DÂN MIỀN NÚI LẠNG SƠN VỚI CHIẾN THẮNG CHỐNG MÔNG - NGUYÊN NĂM 1285 Sau thắng lợi phản kích chống quân Mông Cổ lần thứ nhất năm 1258, trong thời gian gần 28 năm tiếp theo (1258-1285), vua quan triều Trần thực hiện một chính sách ngoại giao khéo léo, mềm mỏng nhưng cũng vô cùng kiên quyết trước mọi thủ đoạn xảo trá, gian ngoan của đế quốc Mông - Nguyên. Tuy đã bị thất bại nặng nề, nhưng phía Mông - Nguyên vẫn muốn tỏ ra là một đế chế hùng mạnh đương thời, đưa ra những yêu cầu nham hiểm, như đòi cho mượn đường để đánh Chiêm Thành, cung cấp lương thực và ngựa chiến cho vùng tây nam Trung Quốc, nhất là việc lặp đi lặp lại yêu cầu các vua Trần phải vào chầu,... Mục đích của những đòi hỏi vô lý, có tính toán này là nhằm tạo ra cớ để có thể thực hiện việc tái xâm lược Đại Việt. Triều Trần với những vị vua và Thái thượng hoàng tài giỏi, sắc sảo trong thời kỳ này như 71 Trần Thái Tông (1225-1258), Trần Thánh Tông (1258-1278), Trần Nhân Tông (1278-1293) đã từng bước hóa giải thành công những vướng mắc trong ngoại giao với Mông - Nguyên. Triều Trần tìm mọi cách cố gắng trì hoãn, kéo dài thêm thời gian để đẩy nhanh quá trình kiến thiết đất nước, tạo ra một cơ sở vững vàng phục hồi kinh tế, tăng cường chuẩn bị và củng cố sức mạnh quân sự. Ngay từ cuối năm 1282 đầu năm 1283, khi nghe tin quân Mông - Nguyên đòi mượn đường đánh Chiêm Thành, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức một cuộc Đại hội các vương hầu bách quan họp tại bến Bình Than (vùng Lục Đầu giang, nơi tiếp giáp huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh với huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) bàn kế đánh phòng và chặn giữ những nơi hiểm yếu. Đây là lần đầu tiên các sử gia phong kiến ghi chép vào quốc sử một cuộc hội họp lớn các vương hầu, quý tộc. Vào nửa cuối năm 1284 và đặc biệt đầu năm 1285, đứng trước nguy cơ chiến tranh không thể tránh được do đế quốc Mông - Nguyên cố tình đem quân thực hiện xâm chiếm lãnh thổ Đại Việt, quân dân nhà Trần đã sẵn sàng nghênh chiến. Thượng hoàng Thái Tông và vua Nhân Tông triệu tập phụ lão trong nước về kinh đô Thăng Long, đặt tiệc tại thềm điện Diên Hồng, hỏi kế đánh giặc. Sử chép: Các phụ lão đều nói 72 “đánh”, muôn người cùng hô một tiếng như bật ra từ một cửa miệng1. Tiếp theo, triều Trần phong cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn giữ chức Quốc công Tiết chế thống lĩnh tất cả các quân trong nước. Mùa thu năm 1284, vua Trần lệnh cho Trần Quốc Tuấn mở một cuộc tổng duyệt binh tại vùng Đông Bộ Đầu, rồi sau đó chia quân ra đóng giữ vùng Bình Than và đóng giữ các vùng xung yếu. Bản thân Hưng Đạo vương đem phần lớn đội quân thủy, bộ chủ lực lên trấn giữ vùng Lạng Sơn. Tham gia hỗ trợ đội quân triều đình có Quản quân Nguyễn [Đình] Lộc đưa dân binh các dân tộc trong vùng đồn trú tại châu Thất Nguyên (nay thuộc huyện Tràng Định, Lạng Sơn). Đầu năm 1285, quân Mông - Nguyên chia làm hai cánh quân đánh vào Đại Việt: một đạo quân theo con đường từ Vân Nam tiến xuống, một đạo quân do Thoát Hoan tiến vào theo đường Lạng Sơn. Quân dân Trần đã phản kích dữ dội quân giặc khi xâm lấn vào biên cương Đại Việt. Nhưng để tránh tổn thất lực lượng khi đối đầu với đội quân đang hùng mạnh, triều Trần đã tạm rút về các tỉnh đồng bằng, tạo thành một vành đai bảo vệ kinh thành Thăng Long. Các đội dân binh địa phương, trong đó nổi bật nhất là đội quân do Quản quân Nguyễn [Đình] _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.50. 73 Lộc tiếp tục tản ra hoạt động tại vùng trại Vĩnh Bình (nay là vùng biên giới ở các huyện Văn Lãng, Cao Lộc, Lạng Sơn). Chính sự hoạt động du kích, “xuất thần” với tinh thần “liều chết chống giặc” của các đội dân binh đã phần nào làm chậm quá trình tiến sâu vào lãnh thổ nước ta của quân Mông - Nguyên. Dưới sự chỉ huy tài tình của Quản quân Nguyễn [Đình] Lộc, đội dân binh mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp vùng Lạng Sơn, góp phần làm tiêu hao sức mạnh của quân giặc. Có một chiến công vang dội của đội dân binh Lạng Sơn đã được thư tịch cổ ghi chép lại khá đầy đủ và chi tiết. Đó là trận chiến diễn ra vào tháng 5- 1285, nhân dân miền núi Lạng Sơn kết hợp với bộ phận quân đội triều Trần đóng tại địa phương đã đánh tan đoàn hộ tống bọn Việt gian sang kinh đô Nguyên. Một viên tướng Mông - Nguyên dẫn theo một đoàn quân đưa Chương hiến hầu Trần Kiện, Văn nghĩa hầu Trần Tú Hoãn, Nghĩa quốc hầu là con trai của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc... cùng gia quyến của chúng trốn sang Trung Quốc. Đây hầu hết là những quý tộc, tôn thất nhà Trần vì hèn nhát, sợ chết, không dám chiến đấu, đã đầu hàng kẻ thù. Khi đoàn quân này đi qua Lạng Sơn, đội dân binh địa phương (người Tày) do Nguyễn [Đình] Lộc và Nguyễn Lĩnh chỉ huy, phối hợp với cánh quân triều đình tập kích bọn giặc tại trại Ma Lục, thuộc vùng Chi Lăng. Đám quân 74 Mông - Nguyên và bè lũ Việt gian đều là người nơi khác đến, cho nên không thông thuộc địa hình rừng núi trùng điệp của Lạng Sơn. Bọn chúng bị vây đánh liên tục trong mấy ngày đêm liền, thoát được trận phục kích này, tiếp theo lại lọt vào trận phục kích khác của quân ta. Khi đó, một gia nhân của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn tên là Nguyễn Địa Lô đã dùng nỏ bắn mũi tên độc làm Trần Kiện chết ngay trên mình ngựa. Thuộc hạ của Kiện là Lê Trắc liều mạng vác xác hắn trên ngựa chạy suốt mấy mươi dặm, đến vùng Khâu Ôn, Lạng Sơn mới có thể chôn được. Trần Tú Hoãn may mắn, thoát thân sang biên giới. Nghĩa quốc hầu chạy trốn trở lại vào doanh trại của quân Nguyên. Bọn chúng đều phải bỏ lại toàn bộ lương thực cùng đồ dùng tư trang hành lý để “chạy lấy người”. Có tới gần một nửa số bọn Việt gian và tùy tòng đi theo phải bỏ mạng nơi rừng núi Lạng Sơn. Cuộc chiến đấu anh dũng và quyết liệt của các đội dân binh hoạt động trên nhiều địa phương phía Bắc, nhất là chiến công trên trại Ma Lục của Lạng Sơn đã tạo điều kiện thuận lợi để mở đầu cho giai đoạn bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai. Đó chính là giai đoạn phản kích chiến lược của quân dân nhà Trần trên khắp các chiến trường phía nam sông Đáy và phía bắc sông Hồng. Qua hai tháng phản 75 công mãnh liệt, với những chiến công liên tiếp: Thăng Long, Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương... vào tháng 7 năm 1285, quân dân Đại Việt đã quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi. Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải đã viết nên những câu thơ đầy tự hào của người chiến thắng khi phò giá vua Trần trở lại kinh đô: “Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan, Thái bình tu trí lực, Vạn cổ thử giang san”1. (Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù, Thái bình nên gắng sức, Non nước cũ muôn thu). Trong thắng lợi to lớn phản kích quân Mông - Nguyên năm 1285 của quân dân triều Trần, không thể không nhắc đến công lao đóng góp tích cực của các dân tộc miền núi Lạng Sơn. _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.57. 76 AN PHỦ SỨ PHÍ MẠNH VỚI TRỌNG TRẤN DIỄN CHÂU ĐỜI TRẦN Họ Phí đã có nhiều đóng góp trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Có thể nói lịch sử hình thành và phát triển của họ Phí gắn liền với tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, đặc biệt từ sau khi nước ta giành được độc lập tự chủ vào thế kỷ X. Các bộ chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt sử ký tiền biên, Đại Nam liệt truyện... cùng các bộ địa chí quốc gia cũng như các bộ phương chí tại các địa phương trên nhiều vùng của cả nước đã dành nhiều dòng ghi chép quý báu về những sự kiện quan trọng liên quan tới cống hiến to lớn của các danh nhân họ Phí. Những bước thăng trầm của họ Phí Việt Nam thể hiện một phần qua các cuộc chuyển đổi từ họ Phí sang họ khác như: họ Lý ở thế kỷ XII (triều Lý), họ Bùi thế kỷ XIV (triều Trần), họ Lê (quốc tính) thế kỷ XV (triều Lê), họ Nguyễn thế kỷ XVII (thời Lê Trung hưng), họ Nhâm thế kỷ XVII, họ Hà thế kỷ XIX (triều Nguyễn). 77 Phí Mạnh là người đầu tiên của họ Phí được nhắc đến trong thư tịch viết về triều Trần: “Nhâm Thìn, Trùng Hưng năm thứ 8 (1292), Mùa xuân, tháng giêng,... Lấy Phí Mạnh làm An phủ Diễn Châu, giữ chức chưa bao lâu, có tiếng đồn là tham ô, vua triệu về, đánh trượng, lại sai đi trấn trị. Sau được tiếng là công bằng thanh liêm”1. Khi xem đoạn văn này, người đọc nhận được thông tin nhiều chiều, thậm chí trái ngược nhau về ông quan An phủ sứ Diễn Châu. Vùng đất Diễn Châu là một trọng trấn của nhiều triều đại trước và sau đời Trần. Tên gọi Diễn Châu ra đời năm 627 và gần 8 thế kỷ rưỡi tiếp theo, Diễn Châu luôn luôn là một đơn vị hành chính địa phương độc lập cấp cao nhất. Ngay khi mới xuất hiện năm 627, Diễn Châu đã được xếp hạng của một đơn vị hành chính cấp châu, ngang với vai trò của châu Hoan, châu Ái. Trải qua rất nhiều triều đại kế tiếp trong lịch sử Việt Nam, từ thời thuộc Đường (thế kỷ VII) đến các triều đại đầu thời tự chủ như Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê (thế kỷ X-XI), Diễn Châu luôn là một châu riêng biệt. Diễn Châu trong giai đoạn đầu triều Lý vẫn được triều đình công nhận là một trong những trọng trấn của quốc gia. _____________ 1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.68. 78 Sau này đến triều Trần, nhất là triều Hồ, Diễn Châu có lúc đã trở thành một chỗ dựa chủ yếu của triều đình trung ương. Tháng 4 năm 1397, Hồ Quý Ly tiến hành thay đổi hệ thống chính quyền toàn quốc, Diễn Châu được đổi là trấn Vọng Giang. Năm 1403, Hồ Hán Thương lại đổi Diễn Châu làm phủ Linh Nguyên cùng với ba phủ Thiên Xương, Cửu Chân, Ái Châu tạo thành “Tứ phụ”, có trách nhiệm phải giúp đỡ Kinh kỳ Tây Đô (Thanh Hóa) của triều Hồ trên các phương diện quân sự, kinh tế... Triều Hồ đã mặc nhiên công nhận Diễn Châu là địa phương quan trọng nhất trong cả nước lúc đó. Năm 1469, vua Lê Thánh Tông sắp xếp lại bản đồ hành chính toàn quốc, chia thành 12 thừa tuyên, thì Diễn Châu mới trở thành một phủ của Thừa tuyên Nghệ An. Không chỉ có tầm quan trọng về địa - chính trị, địa - quân sự, mà Diễn Châu còn là một trung tâm giao lưu kinh tế của quốc gia Đại Việt với nước ngoài giai đoạn Lý - Trần (thế kỷ XI-XIV). Giai đoạn này, rất nhiều tàu ngoại quốc đã cập các cửa biển Tha (Thơi), cửa Viên (Quèn) nằm trên địa phận Diễn Châu. Các quan thuộc dòng họ tôn thất của triều Trần từng đảm nhiệm việc trấn trị tại Diễn Châu. Năm 1269, triều Trần cử Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang, là anh họ của vua Thánh Tông làm Phiêu kỵ tướng quân cai trị Diễn Châu. Vùng đất 79