🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Kẻ Cơ Hội Ebooks Nhóm Zalo NHỮNG KẺ CƠ HỘI Thể loại: Tiểu thuyết. Tác giả: Hàn Thế Dũng Nhà xuất bản:CA Nhân Dân Text: Waka Đóng gói: Nguyenthanh-cuibap LỜI GIỚI THIỆU B a mươi mốt năm đã trôi qua kể từ ngày đất nước ta được liền một dải, không còn cảnh cắt chia đôi bờ Nam - Bắc, nhưng đề tài về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta vẫn luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ. Cuốn tiểu thuyết Những kẻ cơ hội của tác giả Hàn Thế Dũng ra đời cũng góp một phần trong muôn vàn tác phẩm viết về đề tài kháng chiến cứu nước của dân tộc ta khiến cho kho tàng văn học ấy ngày một dày lên theo năm tháng. * Đế quốc Mỹ chủ trương dùng Đông Dương (đột phá khẩu là miền Nam Việt Nam) làm cái chốt ngăn chặn làn sóng cộng sản tràn xuống Đông Nam á; Ngô Đình Diệm muốn xây dựng chế độ Ngô gia ở miền Nam Việt Nam - hai tham vọng tạo nên một mối liên minh. Mỹ giúp đỡ Diệm lôi kéo, mua chuộc những kẻ cơ hội: Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Giác Ngộ, Trịnh Minh Thế, Nguyễn Thành Phương... tiêu diệt các thế lực đối lập: Cao Đài, Bình Xuyên, Hòa Hảo; tiếp đến hạ bệ Quốc trưởng Bảo Đại; cuối cùng chúng thiết lập chế độ Cộng hòa thứ nhất, tạo tiền đề cho Mỹ đưa quân viễn chinh vào xâm lược miền Nam và gây chiến tranh bằng không quân với miền Bắc. Năm chục vạn quân viễn chinh Mỹ, hàng triệu máy bay chiến lược B52 cùng hàng triệu lính ngụy cũng không lay chuyển nổi ý chí “chống Mỹ cứu nước” và ý chí kiên cường quyết liệt ấy của nhân dân ta đã chiến thắng với chiến dịch làm nên lịch sử: Chiến dịch Hồ Chí Minh. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã tiêu diệt tận gốc tham vọng của Mỹ - ngụy, làm thất bại hoàn toàn dã tâm xâm lược đất nước ta của bè lũ đế quốc. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Những kẻ cơ hội với độc giả. Nhà xuất bản Công an nhân dân I ĐẶT CON MÃ LÊN BÀN CỜ H ợp chủng quốc Hoa Kỳ là một quốc gia rộng lớn gồm ba phần lãnh thổ cách biệt khá xa: Ngoài bốn mươi tám bang nằm ở miền trung Bắc Mỹ, còn có bang A-lát-xca là miền đất nhô ra - nơi Thái Bình Dương gặp Đại Tây Dương (ba mươi ba kilômét eo biển Bê-rinh là vùng U-ê-lên thuộc địa phận nước Nga) và quần đảo Ha-oai chơi vơi giữa Thái Bình Dương. Quản lý một quốc gia như thế quả không đơn giản. Nhưng, chẳng lẽ vì thế mà nước Mỹ quan sát, đánh giá các nước láng giềng bằng con mắt ngờ vực? Bởi mối quan ngại viển vông “nước Mỹ bị hở sườn, nền an ninh của Thế giới tự do bị đe dọa”, Tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven chủ trương lập vành đai phòng thủ Thái Bình Dương gồm Triều Tiên, Đông Dương, Thái Lan, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a... kéo theo cả mấy nước Nam bán cầu. Tổng thống Tơ-ru-man cụ thể hóa sáng kiến của Ru-dơ-ven bằng kế hoạch phân liệt áp dụng cho từng vùng chiến lược, nghĩa là Mỹ úp mở bộc lộ tham vọng bành trướng theo đặc thù của từng quốc gia; đối với Việt Nam, Mỹ không che giấu ý đồ “xây dựng một chính phủ không cộng sản thân phương Tây”. Tổng thống Ai-xen-hao chứng tỏ đã quán triệt học thuyết “sen đầm quốc tế” của những người tiền nhiệm. Vào những năm 50, khi Pháp không còn hung hăng thao túng chiến trường Việt Nam là khi Mỹ có chính sách về Đông Dương. Mỹ muốn tổ chức một liên minh khu vực gồm các nước châu á và Mỹ, Anh, Pháp làm chỗ dựa chính trị, quân sự sau chiến tranh Pháp - Việt. Thủ tướng Vương quốc Anh Soóc-sin - một chính khách từng trải từ chối tham gia; chẳng sao, Mỹ không vì một nước Anh mà từ bỏ một chính sách có tầm quốc tế. Mỹ tiếp tục viện trợ cho Pháp với định lượng “giữ cho quân viễn chinh Pháp sống, không để cho chết quá sớm”. Mỹ thành lập phái bộ MAAG1* do Đại tướng Ô Đa-ni-en đứng đầu làm nhiệm vụ Cố vấn yểm trợ quân sự cho Pháp. Ai-xen-hao muốn tìm kiếm sự ủng hộ nên công khai bộc lộ tham vọng bằng lời cảnh tỉnh giới tư bản tài phiệt Mỹ: - Chúng ta hãy tưởng tượng rằng chúng ta mất Đông Dương... Thiếc, vôn-phram và những thứ quý giá khác sẽ không còn từ vùng này đến (Mỹ) nữa. Đồng thời, ông ta chỉ thị cho cấp dưới thúc đẩy kế hoạch thâm nhập Việt Nam. Ngay từ thời Tổng thống Tơ-ru-man, Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) tuyển chọn một nhân vật đủ vị thế đóng vai tên lính xung kích số 1 trên chính trường Việt Nam, đó là Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của nhà nước phong kiến Việt Nam đang sống la đà trong sòng bạc, tiệm nhảy ở thành phố Ri-vi-e-ơ bên bờ biển Địa Trung Hải lộng gió. Đưa Bảo Đại từ vai trò Cố vấn của Chính phủ Việt Minh ở nước Việt Nam sục sôi khí thế cách mạng “phản phong bài đế” sang nước Trung Hoa Dân Quốc rối loạn rồi bay sang nước Pháp đang phải gồng mình gánh vác chi phí chiến tranh ở Việt Nam và khôi phục nền kinh tế xộc xệch sau Đại chiến thế giới thứ hai là cả một công phu. Công đoạn thủ sẵn “con bài chủ” được thực hiện từ thời Tổng thống Tơ-ru-man. Nhưng cũng chỉ là công phu Dã Tràng xe cát biển Đông. CIA tỉnh ngộ: Thế giới ngày nay quá nhàm chán thứ triết lý cương thường2* “tôn quân ái quốc” mà hăng hái chạy theo trào lưu mới, học thuyết mới - mác “dân chủ, cộng hòa” đang được những người cấp tiến trong xã hội sính dùng. Mỹ thải ra nên các nhà chính trị bảo thủ Pháp mới có cơ hội dùng kẻ “há miệng chờ sung” làm Quốc trưởng chính phủ Bảo Hoàng vào năm 1948. Nới cũ ắt phải tìm mới. Cục tình báo trung ương Mỹ giao nhiệm vụ tìm “nhân tố mới” ở Việt Nam cho Thiếu tá Luy-xiêng Cô-nen. Luy-xiêng Cô-nen vốn là viên chức OSS3* được tướng Đô-nô-van4* thả dù xuống Việt Bắc, sát cánh cùng Việt Minh trong Mặt trận Đồng Minh chống phát xít. Thời gian Pháp quay lại xâm lược Việt Nam, Luy-xiêng Cô-nen được phái vào Bộ Tham mưu quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương với danh nghĩa giúp Pháp đánh Việt Minh, nhưng thực chất là kiến thiết tiền đề cho tình huống Mỹ triển khai lực lượng ở Việt Nam. * Nhận được chỉ thị, Luy-xiêng Cô-nen có ngay hướng giải quyết công việc. Những sĩ quan CIA khu vực bao giờ cũng am tường nhân vật, địa danh, sự kiện, tình thế... nổi trội trong địa bàn mình phụ trách; chúng không thiếu những gã tối mắt vì danh lợi mà làm gián điệp cho Mỹ - nước Mỹ tự do và giàu có nhất trần gian. Luy-xiêng Cô-nen gặp Rô-giơ Tơ-ranh-ki-ê, còn có tên gọi là Rol - sĩ quan Phòng nhì Pháp được chính Luy-xiêng Cô-nen chiêu mộ làm gián điệp cho Mỹ bàn thảo công việc: - Thỉnh thoảng tôi thấy một người thấp đậm, đáng bệ vệ đến Phòng trà Lãng Tử, ngồi tư lự một mình ở chiếc bàn kê sát góc nhà. Tôi nhận ra, ông ta đến đấy để tìm hiểu, suy ngẫm về thứ gì đó chứ không nhằm đáp ứng sở thích nhâm nhi chén trà Long Tỉnh. Một dáng vẻ hấp dẫn tuy cổ hủ một chút - Cô-nen ngừng lời, nhìn thẳng người đối thoại, ông ta muốn thẩm tra sự lịch duyệt của Rob nên cố ý hỏi: - Anh có biết người ấy không? Rob nhún vai, nở nụ cười biểu lộ “tôi biết tỏng ý của anh rồi”, tuy vậy, anh vẫn nghiêm túc trả lời: - Ngô Đình Diệm, ông ta đang chới với. Cô-nen giao nhiệm vụ ngay: - Tôi đề nghị anh tìm hiểu kỹ về Diệm. Rob sốt sắng nhận việc: - Tôi từng được lệnh theo dõi hành tung của Diệm. Cao ủy Pháp đề phòng sự gây rối của ông ta trong việc Pháp đưa Bảo Đại về Việt Nam làm Quốc trưởng. Diệm không thuộc loại an phận thủ thường nhưng biết phân biệt nóng lạnh, nên chớ. Tóm lại, Diệm không có phản ứng gì khi Pháp phục hồi ngai vàng cho Bảo Đại. Tuy vậy, tôi biết lệnh của anh có tầm quan trọng đặc biệt nên sẽ tìm hiểu thêm. Rob mở “chiến dịch” điều tra nhân thân của Ngô Đình Diệm và ảnh hưởng của ông ta trong xã hội Việt Nam. Các thông tin thu hoạch được khá phong phú. Nhiều thế hệ Ngô Đình là trọng thần của triều đình Huế. Diệm là nhân vật chính trị đang khát nước, ông ta được sự mến mộ khiêm tốn trong giới thượng lưu. Cũng là “típ” nhân vật có thể khai thác. Rob gặp Luy-xiêng Cô-nen báo cáo kết quả điều tra. - Kẻ mà anh quan tâm đúng là Ngô Đình Diệm, Diệm vốn là thượng thư trong triều đình Bảo Đại bị thất sủng nên treo ấn từ quan vào năm 1932. Bảo Đại không lưu luyến, Khâm sứ Trung Kỳ cũng không ngỏ đôi lời an ủi. Diệm giả vờ làm mình làm mẩy, không ngờ “giả hóa thật”. Ông ta buồn tủi, thất vọng... tâm trạng ấy không được điều chỉnh ổn định tất nhiên dẫn đến bất mãn. Diệm là người kín đáo, thận trọng nên không có lời nói hoặc hành vi thái quá. Điều ngạc nhiên là sự im lặng của Diệm khiến nhiều người quan tâm và được đánh giá cao, ông ta trở thành hình ảnh của một vị quan “thanh liêm và yêu nước”. Cô-nen chăm chú nghe, nhưng không nói. Một tên lính không thể lập nên một đội quân, có danh vọng chưa chắc đã có tài năng, có tài năng chưa hẳn nên ngồi cùng thuyền. Ông ta hỏi: - ở Việt Nam còn có nhân vật nào nổi trội hơn không? Rob biết Cô-nen đặt một câu hỏi chưa chặt chẽ, nhưng anh ta biết đi sâu vào nội dung bàn thảo nên đáp đúng yêu cầu: - Nước nào cũng vậy, thời nào cũng thế, người đủ tài làm nguyên thủ quốc gia có hàng trăm, nhưng ghế nguyên thủ chỉ có một. Không nên phân tán sự quan tâm. Cô-nen công nhận lời Rob nói có lý, nhưng tác phong làm việc của CIA là “không để bị bất ngờ”, ông ta ở lò luyện Lan-ghi5* mà ra nên tiêm nhiễm “phẩm chất” ấy. - Tuy vậy, vẫn phải có dự phòng. Rob cười, đếm đầu ngón tay mà kể, hệt tác phong dân á châu: - Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát... nhiều lắm, nhiều không kể xiết, đấu đong thúng đựng không hết, nhưng trước mắt Diệm là phù hợp hơn cả. Cô-nen nhận thấy các yếu tố ấy là cần song chưa đủ, ông ta lại hỏi: - Anh còn có thông tin gì xung quanh nhân vật của chúng ta không? Rob đáp theo ý nghĩa ám thị: - á châu có danh ngôn “mật chảy đến đâu ruồi bâu tới đấy”; đường đi La Mã đã mở thì lo gì vắng con chiên. Hiện tại Diệm có một số thân thích đáng kể: Ngô Đình Nhu - em trai thứ ba của Diệm là người nhiều cơ mưu, giỏi quyền biến, từng làm Giám đốc thư viện quốc gia; Ngô Đình Thục - em trai thứ hai làm Giám mục giáo phận Bình Long chăn nhiều con chiên ngoan đạo; Trần Lệ Xuân - vợ Ngô Đình Nhu là người đàn bà sành sỏi, táo tợn, có sức hấp dẫn đàn ông; Trần Văn Chương, Ngô Trọng Hiếu đều là những người tài trí, có tham vọng lớn; bản thân những nhân vật này lại kéo theo nhiều bạn hữu đáng tin cậy. Diệm còn mối quan hệ thân mật với Tổng giám mục Lê Hữu Từ - một cha cố được dân Công giáo Bắc Việt suy tôn là Hồng y giáo chủ; Diệm giao hảo với Nguyễn Ngọc Thơ - một đại điền chủ danh tiếng ở đồng bằng sông Cửu Long. Lực lượng hậu thuẫn của Diệm có thể coi là không nghèo nàn. Cô-nen vươn tay vỗ mạnh vai Rob để chứng tỏ sự tán thưởng: - Tuyệt lắm! Mỹ cần một đồng minh như thế. Chia tay với Rob, Cô-nen về nhà riêng gửi mật điện cho Giô giép Bớt-tinh-giơ - một quan chức CIA phụ trách tuyển mộ và đào tạo. * Bớt-tinh-giơ nhận được điện của điệp viên chuyên sâu Luy xiêng Cô-nen khi đang công cán tại Trường Đại học Mi-si-gân (thuộc bang Mi-si-gân, Mỹ) - Trường đào tạo quan chức hành chính, cảnh sát, kinh tế... từ cấp quận đến cấp Nhà nước, nhằm cung cấp nhân lực cho bộ máy cai trị của Mỹ và các quốc gia đồng minh phụ thuộc Mỹ. Việt Nam là “miền đất trống” đối với Mỹ. Từ khi Giám đốc CIA - A-len Oentơ Đa-lét quyết định thải Bảo Đại, Mỹ muốn tìm ở xứ sở xa xôi ấy một người đại diện cho lợi ích Mỹ hoặc là chỗ dựa cho thế lực Mỹ. Tổng thống Tơ-ru man cũng đã có chỉ thị “xây dựng một nhân tố bắc cầu...”. Tình thế Đông Dương biến chuyển, yêu cầu nhân sự trở nên cần kíp, thế mà,“muôn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm”. Bây giờ thì... Cô-nen làm việc giỏi thật! Bớt-tinh-giơ vội thu xếp ngắn gọn công việc nằm trong nội dung chuyến công cán. Tiếp đó, tranh thủ gặp Phó giáo sư khoa chính trị của Trường Đại học Mi-si-gân Oét-lây Phi-sen để phối hợp hành động. Oét-lây Phi-sen là điệp viên của CIA. Dù không phải tất cả các giáo sư Trường Đại học Mi-si-gân là điệp viên của CIA, nhưng các quan chức trường này sẵn sàng cộng tác với CIA trên mọi lĩnh vực. Trước khi chia tay, Bớt-tinh-giơ nói với Oét-lây Phi-sen: - Kiến thiết cuộc gặp gỡ ở Nhật thì ít gặp rắc rối về ngoại giao. Tôi sẽ gửi điện thông báo cụ thể sau. Khi ngồi định vị trên xe và Oét-lây Phi-sen đã quay đi mà Bớt tinh-giơ còn gọi giật lại, dặn thêm: - Hãy luôn ở tư thế sẵn sàng! * Bớt-tinh-giơ về tới trụ sở CIA vào buổi trưa thứ bảy. Trụ sở CIA nằm trong khu rừng rậm Lan-ghi quận Phéc-phắc, bang Vớc-gi-ni-a là tòa nhà khổng lồ kết cấu bê-tông cốt thép, sơn màu xám nhạt, các cửa sổ tầng gác cao đều có song sắt vững chắc, các cửa sổ tầng dưới đều căng lưới thép đan dày, trên nóc khối nhà tua tủa cột ăng-ten... Nhìn toàn cảnh nó có dáng vẻ một kiến trúc quân sự chứ không phải tòa nhà hành chính sự vụ. Điều hết sức đặc biệt là, ở đây rất yên tĩnh, yên tĩnh tuyệt đối, nếu loại trừ tiếng ríu rít của đàn chim sẻ đang sà xuống chao lên quanh các cột ăng-ten trên nóc khối nhà. Bớt-tinh-giơ đi dọc hành lang, tới đoạn có tấm bảng lớn bằng đá hoa cương khắc câu kinh thánh - có thể là lời nhật tụng của các nhân viên CIA: “Và các người sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giác ngộ các người” thì một người gác tiến ra đứng chặn trước. Cơ quan CIA thực hiện chế độ kiểm tra nghiêm ngặt, dù là quan chức CIA nhưng đi biệt phái về đều phải qua các khâu kiểm tra. Bớt-tinh-giơ đang vội, không muốn mất thì giờ vì thủ tục bảo mật, chưa biết đề xuất thế nào cho có sức thuyết phục thì chợt trông thấy A-len Oentơ Đa-lét - Giám đốc CIA đi qua, Bớt-tinh giơ hớn hở lên tiếng gọi: - Thưa ngài Giám đốc! A-len Oentơ Đa-lét ngoảnh lại, nhận ra quan chức dưới quyền, ông ta thản nhiên bảo: - Đã về rồi đấy à! Hãy thực hiện cho đúng nội quy bảo mật. Ri sớt Bít-xeo đang đợi anh về đấy! Bớt-tinh-giơ khó chịu trong bụng, nhưng chính “sếp” đã nói vậy thì đành phải theo người gác vào phòng khách, ngồi xuống chiếc ghế phía trước kê chiếc bàn bằng foóc-mi-ca, trên bàn đặt sẵn tờ phiếu in sẵn, trong đó có các mục: gặp ai, làm gì, trong người mang theo vật gì... Bớt-tinh-giơ vừa hí hoáy điền vào chỗ trống trong tờ phiếu vừa cảm thấy động tác này là cần thiết nhưng quá cứng nhắc, làm việc không linh hoạt dễ lỡ mất thời cơ. Làm xong thủ tục “nhiêu khê”, Bớt-tinh-giơ đặt bút xuống tờ phiếu với thái độ dằn hắt kín đáo. Ông ta không muốn “ông Trùm” biết phản ứng của mình. Tuy vậy khi gặp Vụ trưởng Vụ kế hoạch Ri-sớt Bít-xeo - “sếp” trực tiếp, ông ta vẫn thổ lộ tâm sự này. Ri-sớt Bít-xeo phủ nhận phản ứng của người phụ tá: - Nhanh một phút chậm cả đời! Khi biển ngủ yên hay khi nổi dông bão đều cần phải giữ vững tay lái. Bớt-tinh-giơ vẫn chưa hài lòng đối với lề lối làm việc không linh hoạt, nhưng không muốn mất thì giờ về tác phong bảo mật quá rườm rà, cứng nhắc nên chuyển sang trình bày công việc khiến ông ta phải về gấp Lan-ghi. Tai lắng nghe mà đầu óc Ri-sớt Bít-xeo vẫn tuôn chảy dòng suy nghĩ khẩn trương: Tình hình quân Pháp ở Điện Biên Phủ nguy ngập, Hội nghị Giơ-ne-vơ bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương lộ ra khả năng Việt Nam phải chia làm hai miền, Pháp cuốn cờ... Nghe chưa hết mọi suy nghĩ của cấp dưới, Ri-sớt Bít- xeo đã đứng dậy. Đưa một nhân vật trần trụi lên vũ đài chính trị nhiễu nhương đâu có thể thực hiện trong một sớm một chiều. - Đúng là không thể chần chừ! Chúng ta sang gặp Giám đốc A len Oentơ Đa-lét. * A-len Oentơ Đa-lét tiếp cấp dưới ở ngay văn phòng Giám đốc. Thái độ trọng thị, hành vi lịch sự, ngôn từ thân mật... của sếp đối với cấp dưới khiến Bớt-tinh-giơ hài lòng, ấn tượng khó chịu về sự hờ hững của “sếp” trước Phòng bảo vệ tan biến lúc nào không biết. Đúng là một nhân vật lịch lãm! A-len Oentơ Đa-lét là em trai Bộ trưởng Ngoại giao Phốt-xtơ Đa-lét, ông ta đã học ở An-bơn, Niu-oóc, Pa-ri và Prin-xtơn; dạy học ở ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản; hoạt động ngoại giao ở Viên (áo); làm luật sư suốt 15 năm ở phố U-ôn - bản doanh của các nhà tỉ phú Mỹ... Người ta cho rằng ông ta được sinh ra để và chỉ để làm nghề tình báo. Năm 1947, khi Quốc hội Mỹ quyết định giải tán CIG6*, thành lập CIA7*, người ta đã tham khảo nhân vật có năng khiếu tình báo bẩm sinh này, nhưng Giám đốc CIA hồi ấy lại là Đại tướng Oan-tơ Bi-đen Xmít, nguyên Tổng tham mưu trưởng của Ai-xen-hao thời kỳ Đại chiến thế giới lần thứ hai, A len Oentơ Đa-lét chỉ giữ chức phó. Ngày mùng 10 tháng 2 năm 1953, thời kỳ Ai-xen-hao nhậm chức Tổng thống Mỹ, A-len Oentơ Đa-lét được bổ nhiệm làm Giám đốc CIA, thay Oan-tơ Bi đen Xmít được chuyển sang làm Thứ trưởng Ngoại giao. Khi về làm chủ khối nhà màu xám đồ sộ ở Lan-ghi, A-len Oentơ Đa-lét cho treo trên tường đối diện với bàn làm việc của mình bức chân dung cố Tổng thống Ru-dơ-ven, người khởi xướng thuyết “phòng thủ Thái Bình Dương” để mỗi khi cần suy nghĩ, cân nhắc một vấn đề quốc gia hoặc quốc tế hệ trọng nào đó mà không có giải đáp ngay thì vừa tư duy vừa chiêm ngưỡng dung nhan vị Tổng thống lừng danh ấy mong tìm được sự hướng dẫn chỉ bảo. Không thận trọng sao được. ở nước Mỹ này quyền lực nằm trong tay hoặc chịu sự chi phối của các nhà tài phiệt, các tập đoàn tư bản chứ không thực sự nằm trong tay các nhà chấp chính, Nhà nước chỉ là thứ công cụ, thứ vũ khí để các nhà tài phiệt, các tập đoàn tư bản thi thố các thế võ của họ. Nhà nước và công dân ai cũng cần tiền, cần tư bản, danh vọng lẫy lừng cũng dựa vào tiền mới có. Nhà nước duy trì cuộc sống của các tập đoàn tư bản, các tập đoàn tư bản là nguồn sống của Nhà nước. Hệ thống chính trị vững chắc, lực lượng quân sự hùng hậu... là khả năng duy nhất bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân. Sự nghiệp bảo vệ chế độ hiện hành ở Mỹ thể hiện qua đường lối chính sách của Hội đồng an ninh Mỹ, tai mắt tay chân của Hội đồng an ninh Mỹ là Hội đồng tình báo Mỹ - gồm bảy cơ quan. Cục tình báo Trung ương (CIA), Cục tình báo quốc phòng (DIA)8*, Cục điều tra liên bang (FBI)9*, Cục an ninh quốc gia (NSA)10*, Sở tình báo giám sát việc đóng thuế của công dân (kể cả Tổng thống Mỹ) trực thuộc Bộ Tài chính, Sở tình báo và nghiên cứu (Bộ Ngoại giao), ủy ban năng lượng nguyên tử. Giám đốc Hội đồng tình báo Mỹ do Giám đốc CIA kiêm nhiệm. Nghĩa là A-len Oentơ Đa-lét, em trai Ngoại trưởng Phốt-xtơ Đa-lét, sủng thần của Tổng thống Ai-xen-hao nắm trong tay trọng quyền - quyền nghiêng thiên hạ. CIA gật đầu, mọi cái đều nên; CIA phẩy tay, thứ gì cũng xếp đống đã. A-len Oentơ Đa-lét xứng đáng với trọng trách ấy bằng tài trí cá nhân và bằng tài trí khổng lồ của màng lưới tình báo ngàn mắt ngàn tay vươn ra khắp trần gian. “Phòng thủ Thái Bình Dương” là một phát kiến của thời đại, “xây dựng một quốc gia không cộng sản thân phương Tây” là một đối sách sắc bén chống cộng sản bành trướng. Muốn duy trì an ninh Mỹ rất cần tới xây dựng nhân tố “phòng thủ từ xa”. Lúc này... Bớt-tinh-giơ đề cập đúng vấn đề mà nước Mỹ đang quan tâm, chính Tổng thống Ai-xen-hao đã nhắc nhở Giám đốc A-len Oentơ Đa-lét nhiều lần về sự cần thiết ấy. Bớt-tinh-giơ quan chức phụ trách tuyển mộ và đào tạo nhấn mạnh: - Diệm đáp ứng được tiêu chuẩn lựa chọn của Mỹ: Có tài năng và có xu hướng. Quan điểm rõ ràng. A-len Oentơ Đa-lét ngước nhìn chân dung Tổng thống Ru-dơ ven. Tổng thống mỉm cười, im lặng. Nhưng, hẳn ngài cũng cùng quan điểm với tôi, ủng hộ quyết định lựa chọn nhân sự của tôi. - Hãy tổ chức đón Ngô Đình Diệm sang Mỹ. Phải khẩn trương khảo sát và thẩm tra. Chúng ta đã quá chậm trễ. Bớt-tinh-giơ sang Phòng điện toán gửi điện báo cho Cô-nen biết ý đồ của Giám đốc CIA và kế hoạch đón khách. * Luy-xiêng Cô-nen đến Phòng trà Lãng Tử, ung dung ngồi xuống chiếc ghế đối diện với nhân vật đang săn tìm cơ hội. Quan sát thấy một gã mũi lõ mắt xanh ngang nhiên ngồi trước Ngô Đình Diệm, một người cao lớn đứng bên quầy hàng cầm cốc thong thả bước lại gần. Cứ như một kẻ lãng tử giang hồ chẳng chút bận tâm đến việc đời. Nhưng hãy quan sát kỹ ánh mắt long lanh vụt sáng vụt tắt như tia chớp; tuy vậy, bản lĩnh của người này không nằm trong cặp mắt sắc sảo mà tiềm tàng trong khối óc và trái tim, có thể coi đó là khối óc chai lỳ và trái tim mẫn cảm của loài chó lài - chỉ trung thành với một chủ. Hắn cầm cốc nước đứng lơ vơ giữa dãy bàn ghế có khách và không khách, giữ một khoảng cách vừa đủ để tung một cú đá song phi đủ mạnh hạ gục gã lạ mặt nếu y có ý định hại chủ hắn. Kẻ lì lợm này là Đỗ Mậu. Hắn vốn là lính khố đỏ, có công cõng Diệm chạy thoát khỏi cuộc truy đuổi của Việt Minh hồi trốn chạy trong rừng núi Thái Nguyên. Diệm coi hắn như ân nhân, hắn nhìn nhận Diệm như tớ đối với thầy. Sau này, khi Diệm làm Tổng thống Cộng hòa miền Nam, Đỗ Mậu trở thành con chó ngao bảo vệ chế độ. Không ai hiểu tính nết của chó bằng chính chủ nó. Diệm hiểu Mậu và cũng hiểu người khách lạ qua thông tin do Ngô Đình Nhu cung cấp và qua quan sát trực diện. Ông ta đưa mắt, phẩy tay ra hiệu cho gã cận vệ tự nguyện biết ý tứ “không cần bận tâm”. Hành vi của một kẻ bảo vệ vô danh tiểu tốt quan tâm tới người chủ sa cơ thất thế có sức thuyết phục đối với gã CIA lõi đời - Một phần do ấn tượng này mà Cô-nen quyết tâm ủng hộ Diệm đoạt quyền ở miền Nam và sau này hết lòng tiến cử Đỗ Mậu giữ chức Tổng giám đốc An ninh quốc gia. Luy-xiêng Cô-nen tự giới thiệu thân phận; tiếp đó, thẳng thắn bộc lộ “thiện chí” theo đúng tác phong “đốt cháy giai đoạn” kiểu Mỹ: - Ngài muốn có vận hội thì hãy đến xứ sở của Tự do. Ngô Đình Diệm nhận thấy: quả là có dấu hiệu đáng quan tâm. Ông gọi hầu bàn thay bình trà mới, pha ấm nước mới, rề rà rót ra chén, từ từ đẩy tách trà về phía khách, giọng ông nhẹ nhưng khá rõ: - Vào tuổi tôi không thích hợp với chuyện phiêu lưu mạo hiểm. Đây là lời nói thăm dò hư thực. Luy-xiêng Cô-nen kéo chén trà về phía mình, cầm chén lên toan uống lại thôi. - Ngoài chế độ phong kiến cha truyền con nối ra, nhà chính trị nào cũng phải trải qua những bước phiêu lưu mạo hiểm. Tướng bại trận Đờ Gôn nếu không dũng cảm lập chính phủ lưu vong chống Đế chế Đức thì sao có thể được hơn năm mươi triệu công dân Pháp suy tôn. Các vị như Oa-sinh-tơn, Lanh-côn nhờ có quyết định đột xuất táo bạo mà trở thành những Tổng thống lừng danh của Mỹ. Nếu nước ngài chọn ngài là cứu tinh, ngài sẽ nhận được sự ủng hộ hùng hậu, rất hiệu quả của nước Mỹ. Ngô Đình Diệm nhấp ngụm nước để khỏi phải trả lời ngay. Ông từng muốn tạo dựng cơ nghiệp và muốn trút cơn giận bị coi thường, bị bạc đãi, bị bỏ rơi. Xưa kia, ông không có chí hướng phục quốc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh...; việc Việt Nam nằm dưới ách đô hộ Pháp là vấn đề thuộc lịch sử, không ai có thể buộc tội ông về lỗi chẳng làm gì để bộc lộ tính tự cường “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”; có trách thì hãy trách kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”. Chuyện ông treo ấn từ quan tuy là miễn cưỡng nhưng “dở mà hóa hay”, hành vi ấy vô hình chung trở thành sự kiện có tiếng vang về tư tưởng và nhân cách, vì nhiều người gán cho nó là hành động xuất phát từ tư tưởng “bài phong phản đế”. Năm 1946, ông bị Việt Minh bắt giam, Quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng ra lệnh thả ông. Biết đâu nhờ “tiếng thơm” ơi hỡi kia mà ông được phóng thích. Bước chân khỏi nhà tù Việt Minh, ông lang thang nhiều nơi, ông thấy mình bơ vơ và vô dụng... Ông đến giáo hội Phát Diệm nương nhờ Giám mục Lê Hữu Từ - Vị Cố vấn Chính phủ Việt Minh này chưa vội làm mếch lòng Việt Minh khuyên ông nên chờ đợi thời. Ông trở lại Huế, nhưng sống bên mẹ và thằng em út cù lần chẳng được mấy ngày thì khói lửa chiến tranh bén tới Bình-Trị-Thiên. Ông không chịu nổi cảnh gian truân khổ cực ở vùng kháng chiến, dần dà phiêu dạt vào Sài Gòn. Ông ấp ủ mộng lớn nên nhẩn nha kết giao với những thân sĩ trí thức có danh vọng. Nhưng... ông đang ở cái thế cần câu nhỏ, dây câu ngắn không thể mơn trớn được cá lớn. Bây giờ thì... Ông hơi nhô người về phía trước, bóng gió hỏi: - Tôi đang đứng trước thánh Pi-e gác cổng Thiên Đàng chăng? Luy-xiêng Cô-nen nhún vai đáp theo ngôn từ của người đối thoại: - Tôi tin chắc Tổng thống Ai-xen-hao xứng đáng là Thánh Pi-e nhân từ sẵn lòng mở rộng cổng Thiên Đàng giúp ngài ung dung bước vào kiến diện Đức Chúa cao cả. Ngô Đình Diệm kín đáo quan sát người đối thoại rồi đưa mắt nhìn ra xa. Ông đang đứng giữa ngã ba đường, đi ngả nào? Ông không thể nuốt hận đi theo Việt Minh, họ đã cầm tù ông, họ đã sát hại thằng cháu đích tôn của chi Ngô Đình; ông càng không thể ủng hộ Pháp - kẻ đã bỏ rơi ông, coi thường ông. Vậy thì... Hẳn chúa đã an bài cho ông một con đường - dựa vào thế lực Mỹ để tạo dựng cơ đồ. * Nhờ có Đại tướng Ô Đa-ni-en - Trưởng phái đoàn MAAG ngầm bảo trợ, Ngô Đình Diệm thực hiện một chuyến du lịch sang Tô-ki-ô - thủ đô Nhật Bản một cách thuận chèo xuôi gió. Diệm ngồi ở góc Phòng trà Trà Hoa Nữ, trong một khu phố tấp nập người qua lại, chờ người đến đón. Ông ngồi uống trà nhưng không uống trà mà bâng khuâng nghĩ về thân phận và vận hội, về may rủi và cân nhắc các chiều hướng cần ứng xử. Thân Bao Tư cầu nước Tần cứu viện để khôi phục nước Sở có tâm trạng xao xuyến, hồi hộp như ông không? Người Mỹ có thực tâm vô tư giúp ông định danh phận, dựng sự nghiệp không? Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công nổi tiếng về công cuộc “cứu khốn phò nguy”, cũng có danh thơm về những cử chỉ không vụ lợi... nhưng chỉ là những vấn đề không phương hại tới nghiệp bá của họ. Còn Mỹ? Có lẽ chẳng nên vội nghĩ nhiều... Vừa lúc đó, một người cao lớn, mũi lõ tóc vàng, mặc âu phục màu mỡ gà, mắt mang cặp kính dày, tay xách cặp đen bước tới, một người á châu vừa là người nối liên lạc vừa làm phiên dịch rảo bước theo sau. Ngô Đình Diệm biết phái viên Mỹ đến đón mình, nhưng vẫn lên tiếng hỏi: - Tôi có hân hạnh được tiếp ai đây? Vị khách cao lớn tự giới thiệu (qua phiên dịch): - Tôi là Oét-lây Phi-sen, giáo sư Trường Đại học Mi-si-gân được chỉ thị tháp tùng ngài sang Mỹ. Vài ngày sau,“đoàn công cán” lên máy bay vượt Thái Bình Dương về An Hác-bơ - trụ sở Trường Đại học Mi-si-gân. Giám đốc nhà trường - Giôn Ha-na đón tiếp khách thân mật, trịnh trọng nhưng không ồn ào. Giôn Ha-na tổ chức cho Ngô Đình Diệm tiếp xúc, bàn thảo với hai mươi vị giáo sư nổi tiếng nhất của Trường Mi-si-gân. Ngô Đình Diệm giới thiệu tình hình, cung cấp tư liệu... để các giáo sư này nghiên cứu, lên kế hoạch mọi mặt cho một nhà nước tương lai: thể chế chính trị, tổ chức cảnh sát, biên chế quân đội, ngân sách... Ngô Đình Diệm hoàn tất công việc với Trường Mi-si-gân vừa dịp Hồng y giáo chủ Xpen-man tới thăm, tiện tể dắt “con chiên đầu đàn” về tu viện Ma-rích Nôn. Đại tu viện Ma-rích Nôn ở bang Niu Giơ-xi là Thánh đường của Xpen-man. Hồng y giáo chủ Xpen-man có ảnh hưởng lớn trong quan chức cao cấp Hoa Kỳ. Ngô Đình Diệm có cơ hội, cũng có thể là được giới thiệu hội kiến với Uy-li-am Đao-giớt - Chánh án Tòa án tối cao Hoa Kỳ; Thượng nghị sĩ Mai-cơ Men-xphin và các thành viên thuộc nhóm của ông ta; đặc biệt, Diệm được hội kiến với Giô-giép P.Ken-nơ-đy - cha đẻ Giôn Ken-nơ-đy - người mà sau này làm Tổng thống Hoa Kỳ (cùng thời gian với Ngô Đình Diệm làm Tổng thống nền Đệ nhất cộng hòa Sài Gòn); nhân vật thường xuyên gặp gỡ bàn thảo với Ngô Đình Diệm vẫn là Bớt tinh-giơ, quan chức CIA phụ trách tuyển mộ và đào tạo. Bớt-tinh-giơ hết sức yên tâm khi thấy Ngô Đình Diệm được lòng nhiều chính khách thần thế ở Mỹ và ông ta tỏ ra có bản lĩnh của một nhà hoạt động chính trị; năm 1953, Bớt-tinh-giơ đưa “kẻ đỡ đầu” về gặp Giám đốc CIA A-len Oentơ Đa-lét tại nhà nghỉ gần Trụ sở CIA ở vùng Lan-ghi. A-len Oentơ Đa-lét tiếp vị nguyên thủ tương lai một cách trang trọng nhưng vẫn thân mật theo kiểu “ngài với tôi, chúng ta ngồi cùng thuyền”. Ngô Đình Diệm bộc lộ: - Tôi thành thực xúc động về tính vô tư của người Mỹ. A-len Oentơ Đa-lét tỏ ý “chẳng đáng gì phải bận tâm” rồi hỏi: - Theo ý ngài, nước Việt Nam của ngài theo chính thể gì là thích hợp? Ngô Đình Diệm đã nung nấu kỹ vấn đề cốt tử ấy nên không phải đắn đo, cân nhắc nặng nhẹ mà đáp ngay: - Chủ nghĩa cộng sản xóa bỏ chế độ tư hữu cá nhân, phủ nhận tín ngưỡng tôn giáo, phá dỡ đình chùa miếu mạo... đó là việc làm mất lòng dân. Chế độ phong kiến thuộc địa không còn đất tồn tại trong thế kỷ XX, sớm muộn gì nó cũng diệt vong. Tôi nghĩ, chẳng riêng gì Việt Nam mà cả thế giới sẽ áp dụng thể chế Cộng hòa theo mô hình tổ chức xã hội Hợp chủng quốc Hoa Kỳ - Diệm nhấn mạnh - Dù tôi từng là Thượng thư tôi vẫn hâm mộ chế độ cộng hòa, một chế độ công bằng bác ái. A-len Đa-lét tán thưởng: - Chúng ta cùng một quan điểm. Tôi sẽ cùng ngài đến gặp Bộ trưởng Ngoại giao Phốt-xtơ Đa-lét, ông ta là anh tôi. Tôi sẽ đề nghị anh tôi bố trí cuộc hội kiến giữa ngài với Tổng thống Ai xen-hao. * Mỹ muốn Bửu Lộc rời khỏi ghế Thủ tướng Chính phủ Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm vào đó; Pháp đâu có hớ “rước hổ vào nhà” nên vin vào Bảo Đại mà khước từ, cho dù Pháp chưa hề tham khảo ý kiến Bảo Đại. Đáp lại, cách ứng xử “không biết điều” ấy, Tổng thống Mỹ Ai xen-hao cáu kỉnh chỉ thị cho Bộ trưởng Ngoại giao Phốt-xtơ Đa- lét: - Ngài hãy bay ngay sang Pa-ri tuyên bố cho Chính phủ Pháp biết: Thủ tướng Bửu Lộc quản lý không tốt viện trợ của Mỹ, tài sản của nhân dân Mỹ không thể vận động kém hiệu quả, thậm chí bị phung phí. Cần có sự chỉnh đốn cần thiết. Chính phủ Mỹ quyết tâm đi theo đường lối mới của mình. Nếu Pháp khăng khăng từ chối yêu cầu của Mỹ, Mỹ sẽ ngừng viện trợ, thậm chí không cho hoãn nợ. Phốt-xtơ Đa-lét rời Oa-sinh-tơn bay sang Pa-ri gặp Bi-đôn - Bộ trưởng Ngoại giao Pháp. Tại phòng Khánh tiết Bộ Ngoại giao Pháp, hai Ngoại trưởng hội đàm trong bầu không khí cởi mở, dù vấn đề họ bàn thảo là gay cấn. Phôt-xtơ mở đầu bằng cú giáng bằng búa tạ: - Tổng thống của chúng tôi bị sức ép dư luận đè nặng, không ngày nào không có ý kiến phê phán, chỉ trích tính kém hiệu quả của viện trợ; nhiều Nghị sĩ đòi thanh tra nội dung, tác dụng của viện trợ. Bi-đôn biết Phốt-xtơ Đa-lét vin cớ, nhưng quả thực, ông cũng biết đường đi lắt léo của đồng đô la viện trợ. Tiền ở trong nhà, tiền chửa; tiền ra khỏi cửa, tiền đẻ. Đó là chân lý khắc vào đá hoa cương của cánh con buôn. Tuy vậy, ông vẫn chăm chú lắng nghe nhà thuyết khách Mỹ bộc lộ chủ kiến. Thâm tâm Phốt-xtơ Đa-lét muốn nói toạc móng heo: “Những người sử dụng viện trợ là những kẻ vô trách nhiệm, quá ích kỷ khi lo toan lợi ích chung bao giờ họ cũng gắn vào đó lợi ích riêng, nhiều khi vì lợi ích riêng mà họ tạo ra những nhu cầu công ích”. Nhưng ám chỉ như thế thì khó xử cho ông bạn đồng nghiệp quá, nên rút gọn đối tượng chỉ trích, mà có thế mới hạ được mục tiêu: - Nội các Bửu Lộc quá yếu kém trong xây dựng, nhưng rất thạo tạo ra những lỗ hổng, viện trợ thất thoát tới hai phần năm! Bi-đôn và cả Thủ tướng La-ni-en biết tình trạng tham nhũng tồi tệ bên chiến trường Đông Dương - Viện trợ Mỹ là miếng đường thu hút đủ loại côn trùng hám ngọt, từ cấp tướng tá đến kẻ mạt hạng đều không bỏ qua cơ hội được nhấm nháp “của trời cho”. Tay đã nhúng chàm thì không thể nói cứng. Dù đứng trên thế yếu, Bi-đôn vẫn cố chống đỡ: - Nhờ viện trợ của Mỹ mà Pháp duy trì được nhịp độ chiến tranh ở Đông Dương. Tuy nhiên, chúng tôi không thể phủ nhận một vài hành vi cần phải phê phán. Chính phủ Pháp đã thành lập Ban thanh tra để xử lý. Tôi tin rằng, có sự nỗ lực chung, chúng ta sẽ sớm khắc phục tình trạng tồi tệ đó. Phốt-xtơ Đa-lét nhận thấy Bi-đôn đang tìm cách lảng xa chủ đề hội đàm, liền kéo giật lại. Không thể lơi lỏng! - Thời gian không cho phép chúng ta chần chừ. Phải quyết định ngay mới tránh khỏi sự đổ bể. Chúng tôi cần có một thủ tướng Việt Nam đủ năng lực và đức độ có thể sử dụng, phân phối hợp lý, hiệu quả cao viện trợ của Mỹ. - Nhà thuyết khách chuyển giọng: - Tổng thống của chúng tôi đòi có công hàm trả lời ngay của Chính phủ Pháp khi tôi quay về Oa-sinh-tơn. Bi-đôn hiểu đó là tối hậu thư, đối phương đòi hỏi trả lời dứt khoát: “có” hoặc “không”. Ông ta không thể đưa ra đáp án một cách dễ dàng nên tìm đường trì hoãn: - Ngài sang Pháp, hẳn chưa có dịp tới thành phố Ri-vi-e-rơ nằm bên Địa Trung Hải. Tôi muốn mời ngài tới đấy thăm thú ít ngày; nhân tiện, chúng ta gặp Quốc trưởng Bảo Đại bàn rõ vấn đề nhân sự. Phốt-xtơ Đa-lét biết tỏng giải pháp né tránh của Bi-đôn, ông ta vừa phê phán “người của các ông” vừa từ chối khéo: - Có người nói cho tôi biết, Bảo Đại thường giải trí bằng cờ bạc thâu đêm, hoặc nhảy đầm cũng thâu đêm. Ai cũng có sở thích riêng. Vậy thì... chẳng nên phá ngang cuộc vui của ông ấy! Quả là lời đay nghiến, sỉ nhục mềm mỏng mà có gang có thép. Dù sao chuyện tai tiếng mà Bảo Đại gây ra cũng là sự thật. Cãi sao lại với sự thật. Nghe cách nói đủ biết Mỹ sẽ không nhân nhượng, Pháp cũng khó có thể duy trì lập trường của mình. Sự nghiệp khôi phục kinh tế Pháp và công cuộc chinh phục Đông Dương, bình định An-giê-ri chưa xong, Pháp cần đến viện trợ của Mỹ. Cần nhiều là cái chắc. - Ngài không muốn đi, tôi đành một mình thực hiện chuyến vi hành ngoại giao. Thưa ngài Bộ trưởng! Thay Thủ tướng theo tình thế là vấn đề tế nhị, Bảo Đại có cái khó của Bảo Đại. Chính phủ Mỹ giữ lập trường ấy thì Bi-đôn này lại cần phải cố gắng lần nữa. Tôi tin rằng Bảo Đại quan tâm tới khuyến nghị của Pháp. * Bộ trưởng Ngoại giao Pháp - Bi-đôn thân chinh bay đến thành phố Ri-vi-e-rơ. Dù có điện thông báo trước, Bảo Đại vẫn chẳng chịu ở nhà đón khách, ông ta đắm đuối trong sòng bạc. Đổng lý văn phòng Nguyễn Đệ tháp tùng Bộ trưởng Ngoại giao Pháp vào phòng khách - nơi bà chủ đang đợi. Nam Phương hoàng hậu phải khoản đãi Bi-đôn thay chồng. Thấy thái độ khách có vẻ không bằng lòng, Nam Phương chống chế: - Ngài hẹn sáng nay tới, ông Vĩnh Thụy bồn chồn đợi ngài tận mười ba giờ trưa, ông sốt ruột... đoán rằng ngài gặp trở ngại chi đó nên bỏ đi giải khuây. Mong ngài thứ lỗi! Bi-đôn đề nghị Hoàng hậu cử người đi mời Bảo Đại về để bàn bạc công việc cấp bách. ấy vậy mà một giờ sau chiếc xe Méc-xê đéc màu đen mới đưa vị “Quốc trưởng phong lưu” “hồi cung” cùng với Phạm Bích - thư ký đặc biệt. Hình dung phờ phạc của Bảo Đại chẳng khác một anh chàng đổ bác mạt vận, có lẽ thua bạc. Mất mười phút nữa cho công việc rửa mặt, chải chuốt, chỉnh trang y phục... Bảo Đại mới có tư thế chững chạc ra tiếp khách. Bi-đôn khá bực mình về thói lề mề kênh kiệu này. Hắn là cái thá gì kia chứ? Vì tâm trạng ấy, vị Bộ trưởng Ngoại giao Pháp vào đề khá sống sượng, khác xa tác phong điềm đạm thường ngày của ông ta: - Thưa ngài Quốc trưởng! Chính phủ Mỹ đã công khai lên tiếng chỉ trích Thủ tướng Bửu Lộc về cách điều hành nội các, nhất là sử dụng phung phí tiền viện trợ của Mỹ. Họ không muốn đô la của họ từ ngân khố đi ra rồi mất tích luôn; họ muốn Bửu Lộc phải rời khỏi ghế thủ tướng và muốn người của họ trực tiếp điều phối viện trợ. Bảo Đại ngạc nhiên, hỏi: - Thưa ngài Bộ trưởng! Mỹ muốn ai làm thủ tướng? Bi-đôn quàng tay lên thành ghế phô-tơi dửng dưng đáp: - Ngô Đình Diệm! Bảo Đại nảy người lên như đỉa phải vôi, phản ứng theo cách của dân cờ bạc: - Tui mà cùng làm việc với thằng cha nớ hả? Bi-đôn không thay đổi tư thế, thản nhiên đối lại: - Chính trường vốn có nhiều sự gán ghép gượng gạo, vì lợi ích lâu dài buộc phải chấp nhận cảnh trớ trêu. Bảo Đại vung tay hệt động tác lia con bài, gườm gườm nhìn vào điểm nào đó khi gân giọng phê phán: - Tui không thể ngồi chung chiếu với gã chạy trốn, bất trung bất nghĩa. Thái độ “cứng rắn” của Bảo Đại khiến Bi-đôn chợt tỉnh ngộ, ông đến đây gặp Bảo Đại để thuyết phục chứ không phải để ra lệnh. Dẫu sao gã á Đông này cũng là một vị quốc trưởng, mang một phẩm cách nhất định nào đó, không thể nhìn nhận ông ta như một tên lính đánh thuê. Chính ông cũng ngậm đắng nuốt cay chứ chẳng riêng gì Bảo Đại. Ông thu tay đặt lên hai đầu gối, hơi ngả về phía trước, giọng nói điềm đạm có sức hấp dẫn người nghe: - Thưa Quốc trưởng! Vì đất nước người lính dám hy sinh cả tính mạng mình. Tôi đọc sách thấy nước Trung Hoa láng giềng của ngài có giai thoại Câu Tiễn vì muốn phục quốc báo thù mà chịu đựng đủ đường tủi nhục, cay cực... từ nếm phân kẻ thù đến đêm đêm nằm ngủ trên gai nhọn. Chúng ta cùng ngồi trên con thuyền vượt thác, cần đồng tâm hiệp lực đưa con thuyền qua khúc hiểm nghèo. Chúng ta đều đoán biết dụng ý của Mỹ khi thay Bửu Lộc bằng Ngô Đình Diệm; nhưng khả năng của chúng ta không chống nổi quyết tâm của Mỹ. Giọng Bảo Đại dịu lại: - Ngài Bộ trưởng hãy nói rõ hơn! Bi-đôn buộc phải bộc lộ có nhân có quả: - Chính phủ Mỹ đã phái Bộ trưởng Ngoại giao Phốt-xtơ Giôn Đa-lét sang Pa-ri, trực tiếp thông báo với Chính phủ Pháp: Thủ tướng Bửu Lộc làm thất thoát viện trợ của Mỹ khiến Chính phủ Mỹ bị dư luận công chúng chỉ trích; nhóm nghị sĩ cánh tả phê phán hoạt động viện trợ khá gay gắt, họ đang chuẩn bị thủ tục đòi nội các Mỹ phải ra điều trần trước ủy ban Ngân sách Quốc hội. Chính phủ Mỹ đối phó bằng cách thay đổi nhân sự. Họ muốn Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng để quản lý viện trợ, dựng hàng rào che chắn dư luận. Nếu Pháp và Việt Nam khăng khăng từ chối yêu cầu của Mỹ, Mỹ sẽ ngừng ngay viện trợ, thậm chí không cho hoãn nợ. Bảo Đại âm thầm cân nhắc. Thú chơi cờ bạc giúp ông mở rộng tầm hiểu biết “nhà giàu cậy của, kẻ khó nhịn nhục van xin của bố thí”. Có lẽ đó là quy luật vận động của xã hội cạnh tranh. Nhà giàu đóng cửa, nhà khó nhờ ai? Chính phủ Pháp cũng phải vì nể Mỹ, không dám công khai chống lại chủ trương đường lối của Mỹ, cho dù chủ trương đường lối ấy gây thiệt hại cho quyền lợi của Pháp. Ta đang ở thế đường hẻm gặp oan gia, không nhường thì chỉ có chết. Ông đành phải tạm lùi một bước. - Nếu Chúa Trời định như thế, tui xin tuân theo ý Người. Đã có cơ hội, Bi-đôn thúc ép đến cùng: - Tôi đợi nhận văn thư bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng của ngài để mang về Pa-ri. Đến mức này thì Bảo Đại chỉ còn cách “tuân theo định mệnh”. Ông ta vẫy Phạm Bích lại gần, Phạm Bích là con Phạm Quỳnh, Thủ tướng thời Nhật đảo chính Pháp. Còn nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh, cha làm tay sai cho Nhật, con giúp kẻ làm tay sai cho Pháp là điều đương nhiên. Bích thạo văn chương, lễ luật nên được Bảo Đại dùng làm người chuyên thảo công văn, chỉ dụ. Sau khi trao “giấy báo tử” chế độ tầm gửi, Bảo Đại bảo Đổng lý văn phòng viết mật thư gửi Thủ hiến Bắc Kỳ - Nguyễn Hữu Trí, Thủ hiến Trung Kỳ - Phan Văn Giáo, Thủ hiến Nam Kỳ - Nguyễn Văn Tâm, chỉ thị cho họ từ chức, hội tụ tại Sài Gòn, tập họp lực lượng đối phó với Ngô Đình Diệm - kẻ ủng hộ tham vọng Mỹ. Dưới bức mật thư chỉ điểm rõ: Pháp sợ Mỹ nhưng Pháp không bỏ rơi ta. Hãy khai thác sự ủng hộ của Cao ủy Pháp và Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. * Tình hình quân viễn chinh Pháp vô cùng nguy ngập. Hội nghị Giơ-ne-vơ bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương đang đi tới giai đoạn kết, chắc chắn quân Pháp rút khỏi Đông Dương. Mỹ phải sẵn sàng! Cuộc họp bàn thảo vấn đề: Pháp yêu cầu Mỹ cho thêm máy bay B.26 và thợ máy để cứu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Mỹ chủ trương thỏa mãn yêu cầu của Pháp với điều kiện Pháp phải để cho Mỹ đặt một Nhóm liên lạc bên cạnh Bộ Tham mưu của Đại tướng Na-va, Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Cuộc họp được tiến hành trong tầng hầm tại Tòa Nhà Trắng. Thành phần gồm có: Hội đồng An ninh quốc gia, Bộ trưởng Ngoại giao, Giám đốc Cục tình báo Trung ương (CIA), Chủ tịch tham mưu trưởng Liên quân và chuyên gia lật đổ: ét uốt Lên-xđên. Ét-uốt Lên-xđên mà sau này gợi cảm hứng tạo nên cuốn sách “Người Mỹ trầm lặng”,“Người Mỹ xấu xa”... và tài liệu Lầu Năm Góc nhận định có Hành tung rất bí mật là nhân vật ra sao nhỉ. Hắn sinh ra tại Đi-tơ-roi, học trường Đại học Ca-li-pho-ni-a, là sĩ quan không quân. Những năm 40 từng làm Cố vấn cho Tổng thống Phi-lip-pin Mắc-xay-xay diệt nghĩa binh Huk. Năm 1963 về hưu với lon Trung tướng; năm 1965 trở lại Việt Nam làm trợ lý đặc biệt cho đại sứ Ca-bốt Lốt thực hiện chương trình bình định ở miền Nam. Tổng thống Ai-xen-hao khai mạc buổi họp bằng lời tuyên bố: - Trận chiến trên thung lũng Điện Biên Phủ diễn ra ác liệt, nếu Mỹ không có hành động tích cực, quân viễn chinh Pháp sẽ thất thủ. Pháp mất Điện Biên Phủ, Pháp sẽ mất cả Đông Dương; tình hình không thể đảo ngược, xu thế Hội nghị Giơ-ne-vơ và tình thế chiến trường đều dẫn đến kết thúc bi thảm đối với tham vọng Gô-loa. Đây là thời cơ của Mỹ. Các ngài phải sẵn sàng ở mọi nơi, mọi lúc. - Ông ngoảnh về phía Phốt-xtơ Giôn Đa-lét nhìn như mũi dùi xiên thẳng, hỏi: - Ngài hãy cho biết kết quả cuộc công cán? Bộ trưởng Ngoại giao Phốt-xtơ Giôn Đa-lét đáp: - Thưa Tổng thống! Chính phủ Pháp và Bảo Đại đã đồng ý đưa Thủ tướng Bửu Lộc ra khỏi nội các Bảo Đại, thay vào đó là Ngô Đình Diệm. Tổng thống Ai-xen-hao đặt hai tay lên bàn gật đầu hài lòng: - Tốt! Ngài làm việc rất tốt! - Ông ngoảnh mặt về phía A-len Oentơ Đa-lét, hỏi: - Công việc của ngài ra sao? Giám đốc CIA A-len Oentơ Đa-lét trả lời ngắn gọn: - Thưa Tổng thống! Nếu chúng ta không có sự chuẩn bị chu đáo, ông Diệm sẽ ở vào cảnh một người một ngựa giữa chiến trường, chẳng khác gì đưa chân vào miệng cọp. Ai-xen-hao cười. Vị cựu Tổng tư lệnh khối Hiệp ước Na-tô có một thói quen rất “lính”: thích gặp khó khăn để khắc phục khó khăn. Bản lĩnh chiến trận của vị đại tướng này thể hiện ở cá tính ấy. Ông hướng về phía ét-uốt Lên-xđên, hơi nghiêng người về phía trước, trịnh trọng tuyên bố: - Sự nghiệp phá bỏ một thể chế cũ để xây dựng một thể chế mới, Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã giao cho Đại tá ét uốt Lên-xđên. Này đại tá! Người mà đại tá phải giúp đỡ là Ngô Đình Diệm. Đại tá có toàn quyền hành động nhằm biến không thành có, yếu thành mạnh. Hẳn sẽ có một vài người Pháp và Việt Nam cản chân Đại tá. Nhưng, chẳng sao. Chính phủ Mỹ là hậu phương tin cậy của Đại tá, Chính phủ Pháp cũng phải ủng hộ các hành động của Đại tá. - Ông ngừng lời, nhìn lướt như điểm danh các quan chức tham dự buổi họp, nói tiếp: - Này các ngài! Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ yêu cầu tất cả các ngài, không có ngoại lệ, ủng hộ một cách có hiệu quả chủ trương mới về Đông Dương của Hoa Kỳ. Chểnh mảng phận sự sẽ bị khiển trách, chống đối chính sách mới của Chính phủ phải đến tòa án để giải thích. * Chuyên gia lật đổ ét-uốt Lên-xđên cùng hai sĩ quan giúp việc: Brát-lây và Đin Sớc-sin đã đến Sài Gòn qua sân bay Tân Sơn Nhất. Trên danh nghĩa, đại tá ét-uốt Lên-xđên là thành viên thuộc Phái bộ MAAG dưới quyền Đại tướng Ô Đa-ni-en, kỳ thực, Trưởng phái bộ Ô Đa-ni-en chỉ là người cầm cờ múa may theo hướng gió mà ét-uốt Lên-xđên muốn tạo ra. Tổng thống Ai-xen hao đã ra nghiêm lệnh: “Bằng sự nỗ lực tối đa hỗ trợ sự nghiệp của Mỹ ở Việt Nam mà Đại tá ét-uốt Lên-xđên được ủy quyền thực hiện. Bất kể ai chểnh mảng đều bị khiển trách. Tổng thống Mỹ không muốn đưa quan chức của mình ra Tòa án”. Phó trưởng đoàn Phái bộ MAAG thân chinh ra tận sân bay, tháp tùng Đặc phái viên của Tổng thống về trụ sở Phái bộ. Ngày hôm sau, Đại tướng Ô Đa-ni-en và các sĩ quan chỉ huy Ban, Ngành tề tựu ở hội trường. Đích thân Ô Đa-ni-en làm chủ tọa chứng tỏ vai trò quan trọng đặc biệt và quyền lực của vị Phái viên được Tổng thống cử sang Việt Nam thực hiện quốc sách của Mỹ. Đại tướng Trưởng đoàn Cố vấn MAAG đứng lên, hướng về phía khách nói: - Tôi giới thiệu với quý ngài đây là Đại tá ét-uốt Lên-xđên, người mà Tổng thống giao cho sứ mệnh nặng nề ở xứ sở này. Đại tá có toàn quyền độc lập hành động và toàn quyền đòi hỏi sự phục vụ hết lòng của tất cả chúng ta. Đại tướng Trưởng phái đoàn Cố vấn MAAG yêu cầu các quý ngài vì nền an ninh, vì niềm vinh quang của nước Mỹ mà tận tâm tận lực. Tổng thống có chỉ thị: Ai có công được ban thưởng, ai lơ là sẽ bị khiển trách. Sau tiếng vỗ tay như pháo ran, ét-uốt Lên-xđên đáp từ. - Tôi vô cùng xúc động và biết ơn vì sự trọng thị của Đại tướng và quý ngài. Tôi mong được cộng tác với quý vị. Tôi muốn được quý ngài cho biết tình hình các mặt, chủ yếu về các mặt chính trị, xã hội, quân sự. Đại tướng Ô Đa-ni-en đáp: - Phái bộ đã nhận được chỉ thị của Tổng thống và lời dặn dò của Bộ trưởng Ngoại giao nên có sự chuẩn bị, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của Đại tá. Trưởng đoàn giao công việc chủ trì buổi họp cho Phó trưởng đoàn, thác cớ bận công chuyện rồi rời phòng họp. Các sĩ quan chỉ huy lần lượt thông báo cho Đặc phái viên của Tổng thống biết tình hình các mặt của quân viễn chinh Pháp, chính quyền Bửu Lộc, các sắc lính bản địa... Các sĩ quan nắm khá chắc công việc của mình đảm nhiệm nên trả lời tất cả những câu hỏi của vị chuyên gia lật đổ. Hội nghị thông báo, giải đáp tình thế kéo dài suốt ba ngày mới đủ khiến vị chuyên gia lật đổ hài lòng. Cuối cùng, ét-uốt Lên-xđên đứng lên trịnh trọng nói lời cảm ơn Đại tướng và các quan chức quân sự, dân sự. Đại tướng Ô Đa-ni-en tới dự buổi kết thúc cuộc họp, ông hứa hẹn: - Tuân theo chỉ thị của Tổng thống, chúng tôi sẽ ủng hộ Đại tá hết lòng. Ô Đa-ni-en muốn bố trí cho ét-uốt Lên-xđên ở một tòa biệt thự lớn ở Đại lộ Pôn Đu-me, nhưng người Mỹ trầm lặng từ chối. * Chiều tối, Luy-xiêng Cô-nen đánh xe đến đón ét-uốt Lên-xđên đi qua mấy phố vắng vẻ, vòng ra sau Nhà thờ Đức Bà, đi lên hướng đường Duy Tân, dừng trước tòa biệt thự ngăn cách với bên ngoài bằng hàng rào sắt sơn màu xanh, trước biệt thự là mảnh vườn nhiều cây lớn, ánh đèn điện như cố len lỏi mới chiếm được khoảng trống trên mặt đất. Một người từ gian phòng bên trái biệt thự hối hả bước ra mở cổng cho xe lăn bánh vào sân. Luy-xiêng Cô-nen xuống xe, vừa lúc ét-uốt Lên-xđên cũng xuống xe. Trông thấy người mở cửa là một gã á Đông, ét-uốt Lên-xđên quan sát nhanh rồi theo hướng dẫn của Luy-xiêng Cô-nen bước lên bậc tam cấp. Luy-xiêng Cô-nen là người tinh ý, thoáng qua mà đã biết thái độ hoài nghi của “sếp” với người giúp việc. Anh giới thiệu vắn tắt: - Đại tá có thể đặt tin cậy hết lòng ở anh ta, chó cũng không trung thành, dám chết vì chủ như anh ta đâu. Đại tá có một hầu phòng, đầu bếp, liên lạc, lái xe, bảo vệ hoàn hảo nhất đất Sài Gòn nhốn nháo này đấy. Tên anh ta là Thanh Sơn, thường gọi là Tư Sơn. Ét-uốt Lên-xđên gật đầu, nói luôn: - Thiếu tá cho người đi đón Brát-lây và Đin Sớc-sin. Đại úy Brát-lây, Thiếu tá Đin Sớc-sin là thư ký, thông dịch và thầy dạy tiếng Việt của ét-uốt Lên-xđên. Họ không có vị thế cùng ngồi bên “sếp” trong cuộc họp với các vị tướng tá cao cấp Phái bộ MAAG trong mấy ngày vừa rồi nên được “sếp” cho đi ngoạn cảnh Sài Gòn, nhân tiện tìm hiểu, khảo sát các mặt trong đời sống xã hội của một thành phố nổi tiếng là Viên ngọc á Đông. * Ét-uốt Lên-xđên được Phái bộ MAAG cung cấp cho những thông tin khiến ông có thể hình dung được thực trạng chiến trường, chính trường Việt Nam, đặc biệt là tình hình các đảng phái - những con rắn độc thập thò cửa hang hoặc luồn trườn dưới vạt cỏ dại. Bọn này ít nhiều gì cũng là đồng minh của Pháp. Hòa Hảo không thúc thủ ở Châu Đốc, Cao Đài không bó mình dưới chân núi Bà Đen; ảnh hưởng tín ngưỡng của họ loang khắp đồng bằng sông Cửu Long và miền Tây Nam Bộ, đạo nào cũng có hàng vạn đệ tử, hàng nghìn tay súng; đảng Bình Xuyên càng lộng hành hơn. Các quan chức, tướng lĩnh ủng hộ Bảo Đại cũng có dấu hiệu phản ứng... Cuộc họp với Phái bộ MAAG là cần thiết nhưng không quan trọng bằng cuộc trao đổi tay đôi với Thiếu tá Luy-xiêng Cô-nen. Anh ta mới là tủ lưu trữ tư liệu, là nhà kho chứa các sự kiện, tình huống... cần khai thác. Nói chuyện với Luy-xiêng Cô-nen, ét-uốt Lên-xđên muốn khảo sát vấn đề quan tâm nhất của người điệp viên nằm vùng. - Theo Thiếu tá, trong ba phe phái có lực lượng vũ trang ở miền Nam này, phe phái nào trung thành với Pháp nhất? Luy-xiêng Cô-nen đáp: - Đảng Bình Xuyên! Ét-uốt Lên-xđên lại hỏi: - Phe phái nào là gai góc, sỏi đá nhất đối với chúng ta? Luy-xiêng Cô-nen đáp: - Đảng Bình Xuyên! Ét-uốt Lên-xđên chỉ thị: - Thiếu tá cho biết những điều quan trọng về họ! Thành phần Đảng Bình Xuyên bao gồm những gã anh chị giang hồ hoặc thất cơ lỡ vận được Bảy Viễn cưu mang, chúng rất lỳ và trung thành với Bảy Viễn. Thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Bảy Viễn chỉ huy Chi đội Bình Xuyên trong hàng ngũ Việt Minh chiến đấu chống Pháp, sau được Việt Minh đề bạt làm Khu phó khu 7. Những tên lục lâm giang hồ quen sống buông thả nên không chịu nổi khuôn phép kỷ luật của những người cách mạng, Bảy Viễn bí mật cấu kết với tình báo Pháp mưu toan đánh úp Việt Minh. Bị lộ, Bảy Viễn dẫn mấy chục tay chân thân tín chạy ra đầu hàng Pháp. Bảy Viễn lên kế hoạch chỉ điểm, dẫn đường cho quân Pháp bình định tuyến đường 15 đi Vũng Tàu, sông Long Tảo, bến cảng Sài Gòn, và tiếp đó đánh vào Chiến khu nhưng thất bại. Tuy vậy, Pháp cơ cơ hội tuyên truyền ầm ĩ: Khu trưởng khu 7 Việt Minh - Đảng trưởng Bình Xuyên về hàng. Bảy Viễn chứng tỏ lòng trung thành với Pháp bằng các hành động đánh phá cách mạng, giết hại dân lành... Pháp thăng cấp cho Bảy Viễn dần tới hàm Thiếu tướng, giao cho chỉ huy lực lượng Công an cảnh sát thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và bảo vệ những vùng do Bảy Viễn giúp Pháp bình định. Pháp muốn tạo vốn liếng chính trị cho tên tay sai đắc lực xuất thân từ tướng cướp nên giúp sức cho hắn thành lập Mặt trận Bình dân. Từ đó, thằng cướp hung bạo trở thành lãnh tụ Mặt trận Bình dân. Nhờ Pháp vận động và nhờ “danh tiếng”, Bảy Viễn lôi kéo được một số trí thức vào Mặt trận để che lấp khuôn mặt gớm ghiếc, nhơ nhuốc của một đảng phái gồm những tên thuộc thành phần bất hảo: Nhà báo Hồ Hữu Tường làm Chủ nhiệm báo Đời Mới - cơ quan ngôn luận của Mặt trận Bình dân, đồng thời giữ chức Hội trưởng Hội hồng y tiên tử; Trần Văn Ân (từng làm Bộ trưởng thời Pháp dựng chính phủ Nguyễn Văn Xuân) bỏ đảng Xã hội sang làm Chủ nhiệm báo Đời Mới; Nguyễn Hữu Thuần hai lần làm Bộ trưởng - Chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Xuân, tiếp đó là chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Hữu; Trịnh Khánh Vàng, một tên đảo ngũ... bọn “trí thức tả pí lù” này họp thành Cố vấn đoàn của Bảy Viễn. Sau khi nghe Luy-xiêng Cô-nen lược tả, ét-uốt Lên-xđên đặt vấn đề: - Bảy Viễn từng bỏ Việt Minh đầu hàng Pháp, có khả năng hắn bỏ Pháp theo Mỹ không? Luy-xiêng Cô-nen biết rõ bản chất tên hoạt đầu ngoan cố ấy, hắn thực sự không thuộc loại “sớm đánh chiều đầu” nên đáp: - Việt Minh không đem đến lợi ích thiết thực, lại phải sống theo kỷ luật khắc khổ nên Bảy Viễn rời bỏ hàng ngũ họ. Bảy Viễn gắn bó với Pháp vì Pháp cho hắn nhiều đặc quyền đặc lợi, hắn là kẻ thực tế không khi nào thả chim tìm bóng. Ét-uốt Lên-xđên thấy Luy-xiêng Cô-nen không diễn giải thêm, liền nhắc: - Hãy nói rõ hơn! Luy-xiêng diễn giải: - Bảy Viễn là trùm xã hội ăn chơi, xã hội đen - là bố già Ma phi-a... được Pháp bảo hộ ở đất Sài Gòn. Trong tay Bảy Viễn có nhiều đàn em trợ thủ, tên nào cũng quỷ quyệt, tàn bạo: Hoa kiều Lâm Đường quản lý ba sòng bạc lớn; Lý Tấn Đường độc quyền bán thuốc phiện và trông coi trên trăm tiệm hút; Tào Khế Vượng điều khiển khu giải trí Bình Khang (khu gái điếm) và ngót ngàn gái gọi; Sáu Làn là đại ca của ngót vạn phu khuân vác; khu Đại Thế Giới cũng là mỏ vàng của hắn. Hàng năm Bảy Viễn nộp cho Pháp vài trăm triệu Đông Dương, biếu Bảo Đại bốn mươi triệu. Ét-uốt Lên-xđên gặng hỏi: - Không thể lôi kéo, mua chuộc được Lê Văn Viễn? Thiếu tá tình báo nằm vùng khẳng định: - Đó là điều chắc chắn! Chuyên gia lật đổ quyết định: - Phải trừ khử Lê Văn Viễn! Thiếu tá tình báo nằm vùng bác ngay: - Việc đó rất khó! Bảy Viễn có đội cận vệ trung thành, sử dụng thành thạo nhiều loại vũ khí. Chỉ huy Đội cận vệ là Ba Búa. Ba Búa cao lớn mạnh mẽ, giỏi võ thuật, thạo bắn súng. Tổng hành dinh của Bảy Viễn rất kiên cố nằm bên con Kênh Đôi, cạnh cầu chữ Y, đột nhập không dễ. Chuyên gia lật đổ phủ nhận: - Nếu muốn, ngay đến Tổng thống cũng có thể ám sát. Thiếu tá tình báo nằm vùng vốn muốn “làm thịt” cả bày Bình Xuyên để mở rộng thị trường thuốc phiện cho Hoàng - Đại tá tình báo Đài Loan làm việc dưới quyền hắn nên vẫn không cho đó là giải pháp tháo gỡ: - Mấu chốt quan trọng của vấn đề là Bảy Viễn này chết sẽ có Bảy Viễn khác lên thay. Ét-uốt Lên-xđên chuyển hướng tấn công: - Bọn thuộc hạ của Viễn thì sao? Luy-xiêng Cô-nen tinh ý hiểu ngay ngọn ngành, hắn hưởng ứng: - Đại tá chủ trương “chia để trị” rất đúng ý tôi lại phù hợp với thực tế. Cần lợi dụng mâu thuẫn, biến mâu thuẫn nhỏ thành mâu thuẫn lớn, đẩy mâu thuẫn lớn lên thành thù địch. Ét-uốt Lên-xđên nheo nheo mắt. Ông ta mừng thầm có được một trợ thủ hiểu biết tình hình lại thông minh linh hoạt, ông ta khích lệ: - Quả không hổ mặt là người xông pha dày dạn ở Việt Nam. Thiếu tá đã suy nghĩ như thế, vậy có phương hướng gì không? Luy-xiêng: - Tôi quen biết Thái Hoàng Minh, Tham mưu phó của Bảy Viễn. Tôi sẽ khai thác nhân tố này. Nhưng muốn làm được việc đó phải cần có nhiều tiền. Ét-uốt Lên-xđên tỏ ý thoải mái: - Thiếu tá sẽ được đáp ứng! II CÓ THỰC MỚI VỰC ĐƯỢC ĐẠO - ĂN CHẶN N ước Mỹ rất giàu, nhưng nước Biển Đông cũng chỉ có hạn; tài khóa dành cho CIA rất lớn, nhưng cái “rất lớn” ấy cũng nằm trong khuôn khổ, mà CIA chi tiêu cho các hoạt động tình báo, lật đổ thì lớn vô cùng. Đối với “áp-phe” đưa Ngô Đình Diệm về Việt Nam ngồi yên ấm trên ghế Thủ tướng, ngoi dần lên ghế Tổng thống thì có thể xem như đổ tiền vào cái túi càn khôn; ngân sách của CIA không kham nổi. Khó khăn nào cũng có giải pháp. CIA đã có đối tượng và nhằm mục tiêu này từ lâu, nhưng “chưa cần và không nỡ”, vì việc làm ấy vừa bẩn thỉu vừa tàn bạo, quá xấu chơi. Bây giờ, CIA ở trong tình thế “cần hiệu quả bất chấp biện pháp”. Từ lâu CIA đã ngửi thấy “hơi đồng” ở vùng Tam Giác Vàng. Tam Giác Vàng là cái tên mang ý nghĩa biểu trưng do các lái buôn chất chết đen đặt cho vùng rừng núi nằm gối trên ba nước Miến Điện, Thái Lan và Lào, vùng đất ngon ăn bậc nhất của cây thuốc phiện. * Thuốc phiện là gì? Nhà xã hội học định nghĩa: “Thuốc phiện là chất sản sinh ra quyền, tạo ra tiền và gây nên cái chết”. Nội dung ấy chứa đựng đủ thứ hiểm họa. Đề cập tới thuốc phiện ắt phải nhắc đến Tam Giác Vàng - nơi cung cấp cho thế giới bảy mươi phần trăm chất giết người, không kể tai hại do thuốc phiện gây ra đối với những đối tượng không hề biết gì về thuốc phiện. Tội khơi dòng đầu độc dân chúng phải đổ lên đầu bọn xâm lược thực dân Pháp. Pháp đẩy mạnh, khuyến khích trồng thuốc phiện ở Lào là nhằm nuôi béo công quỹ thực dân. Trong ba nước Đông Dương bị đô hộ thì Lào là nước nghèo nhất, tay làm chẳng đủ cho hàm nhai thì sao có thể nói đến đóng góp nghĩa vụ. Toàn quyền Pôn Đu-me bù lấp lỗ hổng bằng sáng kiến “vắt cây anh túc ra vàng”. Pháp quy định trồng cây anh túc tập trung ở Xiêng Khoảng, Cánh Đồng Chum; các thị trấn lân cận là trung tâm bán thuốc phiện. Độc quyền tiêu thụ thuốc phiện được Nhà nước bảo hộ. Kết quả thực bất ngờ: Một phần tư ngân sách toàn Đông Dương do thuế “bảo hộ thuốc phiện” mà có. Lề thói cai trị của bọn thực dân xâm lược là: hại người nhưng lợi ta thì cứ làm. Nhật chiếm quyền của Pháp ở Đông Dương chiếm luôn nguồn lợi này. Mùa thu năm 1945, Lư Hán chỉ huy “Hoa quân nhập Việt”; Sư đoàn 93 làm nhiệm vụ tiếp phòng ở Bắc Việt Nam và Bắc Lào, tiếp quản luôn nguồn lợi thuốc phiện. Mồi ngon tới mức, theo hạn định tháng 6 năm 1946, toàn bộ quân Tưởng phải rút khỏi Bắc Đông Dương giao nhiệm vụ tiếp phòng cho quân Pháp, nhưng chúng lần chần mãi không chịu rút khỏi Bắc Lào, còn cố vơ vét thêm, nhiều tên lẻn ở lại bám chặt mỏ vàng. Cánh quân do tướng Tàu Tưởng - Tuan Si Wen chỉ huy đóng ở gần ngã ba biên giới nhân cơ hội hỗn loạn quân hồi vô phèng xua lính đánh lấn sang Thượng Lào, chiếm đóng và khai thác nguồn lợi thuốc phiện. Pháp quyết đòi lại nguồn lợi của mình. Bộ tư lệnh quân viễn chinh Pháp giao cho Rob Tơ-ranh-ki-ê, Trưởng phòng Hai thuộc Bộ Tham mưu lên kế hoạch hành động. Sau khi gửi bản kế hoạch lên Bộ tư lệnh duyệt, Rob sang Lào gặp Vàng Pao bàn bạc phương án phối hợp hành động. Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Pháp đồng ý triển khai kế hoạch hành quân của Rob, đặt tên là “Opération X” cử tướng Sa-lăng, Đại tá Mô-rít Ben-lơ thực hiện chiến dịch. Ngày 2 tháng 1 năm 1947, tướng An-be So-rơ chỉ huy mười hai ngàn quân, có máy bay, xe tăng yểm trợ, tràn sang Lào đánh chiếm Cánh Đồng Chum, Xiêng Khoảng, đánh đuổi bọn Tưởng cố thây dám chịu đấm để được ăn xôi - Tuan Si Wen khỏi Thượng Lào. An-be cho xây dựng nhiều căn cứ, một số sân bay ở tỉnh này; tiếp đó phối hợp với lực lượng tình báo Pháp lấn chiếm toàn bộ khu Tam Giác Vàng. Rob giúp Vàng Pao tuyển thanh niên Mèo, Dao đưa về quân trường Vũng Tàu huấn luyện, trang bị vũ khí, lập lực lượng ly khai, giao cho Vàng Pao và Ly Phung - một tên tướng Tàu chỉ huy; hình thành Khu tự trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Pháp đài thọ lương bổng, cung cấp vũ khí. Viên Chăn bị Pháp qua mặt nhưng không dám phản ứng, đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Từ đó, toàn bộ sản phẩm thuốc phiện ở Tam Giác Vàng đều tập trung bán cho Pháp. Rob dùng máy bay quân sự chở thuốc phiện về quân trường Vũng Tàu giao cho Sa-va-ni, Trưởng phòng Hai tại Sài Gòn và cho tướng Bình Xuyên - Bảy Viễn. Hai tên này tổ chức đưa thuốc phiện sang Mác-xây cho bố già San-tô Tra--can-tô để bố già ma--a phân phối sang thị trường châu Âu; một phần chuyển đến Hồng Kông, Ma Cao; một phần giao cho Linh Phương - em gái Bảy Viễn bán cho các nhà buôn thuốc phiện ở Sài Gòn. Mỗi năm Pháp thu lợi hàng trăm triệu đô la từ dịch vụ kinh doanh chất chết đen. Năm 1949, chế độ Tưởng Giới Thạch bị đánh bật khỏi lục địa Trung Hoa, tháo chạy ra đảo Đài Loan, hai vạn quân Tưởng do Ly Mi chỉ huy bị dạt tới ngã ba biên giới Trung Quốc - Mi-an-ma - Lào, chúng tràn sang đất Mi-an-ma và vùng Thượng Lào, kết hợp với dư đảng của Sư đoàn 93, biến thành thổ phỉ và chuyên canh cây anh túc, buôn bán thuốc phiện. Quân đội Mi-an-ma đánh không nổi bọn phỉ Tàu, vì phỉ Tàu được CIA viện trợ vũ khí, tiền bạc, sĩ quan Cố vấn và ở thế “lập trận quay lưng ra sông”, phải chiến đấu đến cùng hoặc chịu chết. Mỹ muốn tạo thêm mũi vu hồi sau lưng Pháp, nên bằng mọi biện pháp bảo vệ bọn phỉ Tàu biến chúng thành bóng ma ở vùng Ba biên giới. * Thứ nhất sợ kẻ anh hùng Thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân. Quả là không nên chỉ dùng vũ lực, Chính phủ Mi-an-ma vận dụng đến công lý, họ đưa vấn đề “xâm lược, can thiệp” phản đối với Bộ Ngoại giao Mỹ. Mỹ từ chối và đổ riệt cho Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan. Mi-an-ma đưa ra Liên hiệp quốc, đến lượt Tưởng Giới Thạch xua tay chối. Khi nào Mi-an-ma chịu để cho kẻ khác làm “tàng” trên đất nước. Trong khi súng vẫn nổ giữa quân đội Mi-an-ma với bọn phỉ Tưởng Giới Thạch, cuộc gặp gỡ bốn bên gồm Mỹ, Mi-an-ma, Thái Lan và Đài Loan nhóm họp, hội nghị đi đến thỏa thuận: Tướng Ly Mi dẫn quân rút ra Đài Loan qua đường Thái Lan. Thỏa thuận đã có nhưng bọn Tưởng vẫn ì ra, miếng mồi “thuốc phiện” quá béo bở nên không dễ bỏ. Mỹ muốn quét sạch lũ ăn bám, bọn nghiện ngập bệ rạc khỏi vùng cần có để ngang dọc của mình nên phái tướng Đô-nô-van - cựu Giám đốc OSS đến gặp Ly Mi. Bảy ngàn tên đồng ý rời miền đất béo bở nhưng đa số là bọn què cụt, đàn bà và trẻ con; số khỏe mạnh còn chiến đấu được thì được phép chơi trò cố thây - khăng khăng “một bước không đi một ly không rời”. Thế mới hay. Chẳng bao giờ hoặc chưa đến giai đoạn hết chuyện bi hài ở vùng Tam Giác Vàng. Trước đây, quân San - một tổ chức bao tiêu thuốc phiện được vũ trang đầy đủ như quân đội chính quy chuyển thuốc phiện sang Lào để bán cho Đại lý Pháp phải qua miền đất biên giới Thái Lan do bọn phỉ Tàu cát cứ, mỗi lần “mượn đường” là một lần nộp thuế, có khi mất tới hai phần ba lợi nhuận. Quân San không muốn mãi tình trạng “thằng còng làm cho thằng ngay ăn”, liền đi tắt sang thẳng Lào. Bọn phỉ Tàu nghe tin liền phái hẳn một ngàn quân đột nhập vào đất Lào, chặn đánh quân San ở phía bắc bản Huổi Sài. Hai bên đều hăng hái vì tiền, trận đánh kéo dài hai ngày vẫn bất phân thắng bại. Thao Ma - cựu Tư lệnh không quân Lào; Pha-xúc, Tư lệnh quân khu Nam Lào thuộc đường dây buôn thuốc phiện dưới quyền chỉ huy của đại ca - Uổn Ra-ti-con, Tổng tham mưu quân đội Hoàng gia Lào có cơ hội “tay không bắt giặc”. ấy là Thao Ma lái máy bay vào Long Chẹng nhận thuốc phiện được chân rết của đại ca máy cho biết vụ “ẩu đả tranh ăn” ở Huổi Sài, liền điện gấp về Viên Chăn cho đại ca biết. Tổng tham mưu trưởng Uổn Ra-ti-con gọi điện đến phi trường Vét Tay lệnh cho Tư lệnh không quân điều đích danh phi công Phon Tha dẫn một phi đội máy bay T.28 đi làm nhiệm vụ khẩn. Phi công Phon Tha là tay chân của đại ca nên đưa máy bay lên không còn bay lượn chờ lập đội hình đã gọi điện liên lạc với đại ca: - Phi đội đã sẵn sàng! Uổn Ra-ti-con chỉ thị tọa độ. Tiếp đó một hai dặn dò: - Trút hết bom đạn xuống đầu chúng, không chừa bọn nào. Nhưng không được làm hỏng hàng hóa. Kết quả trận oanh tạc rất ngoạn mục: Năm trăm quân San và Quốc dân Đảng tan thây tại chiến địa, lũ sống sót bỏ của, quăng vũ khí chạy tháo thân vào rừng. Đại ca thu được số thuốc phiện trị giá ngót nửa triệu đô la. * Song song với việc chấn chỉnh hàng ngũ phỉ Tàu ở Mi-an-ma, CIA xây dựng lực lượng đặc biệt Vàng Pao ở Lào. CIA muốn cướp quyền chỉ huy của Pháp đối với “đạo quân bí mật” gần năm ngàn lính người dân tộc Mông, do hai tù trưởng dân tộc Mông - Tu Bi và Tu Giơ chỉ huy, hai kẻ này nắm một đầu mối buôn thuốc phiện lớn nên đã có ý cảnh giác đối với gã trung tá tàn bạo Vàng Pao. Vì thế, Vàng Pao chưa có đất dụng võ. Khởi đầu, CIA cử Et-ga Pốp Bu-en, một điệp viên lợi hại, biết nhiều xảo thuật tinh vi tham gia IVS (Đội hòa bình quốc tế) đóng tại Xiêng Khoảng, làm một số việc cứu trợ nhân đạo, IVS rút đi, Pốp và một chiến hữu tùy tùng của Pốp ở lại, tiếp tục hoạt động mị dân. Pốp dùng xảo thuật mê hoặc dân Mông, dân Mông tin phục Pốp tới mức tiết lộ tất cả các địa điểm của các toán phỉ Mông lén lút trên các mỏm núi xung quanh Cánh Đồng Chum. Đã đến thời cơ Pốp liên hệ với Vàng Pao. * Vàng Pao là một tên tàn bạo, hám quyền và hám tiền. Hắn được sinh ra từ bản Pha Vẻn nghèo nàn, thuộc Noọng Hét, tỉnh Xiêng Khoảng, suốt đời sống bằng ngô sắn, trẻ em lên mười vẫn trần truồng. Năm 13 tuổi, khoảng năm 1945, Vàng Pao đi theo lính Pháp nhảy dù xuống Cánh Đồng Chum. Cuộc đời lính tráng của Vàng Pao bắt đầu từ đó. Hắn leo dần lên cấp trung tá, chỉ huy Tiểu đoàn 10 đóng giữ vùng núi phía đông Cánh Đồng Chum. Tiếp đó, Pháp dựng cho Vàng Pao một vùng tự trị nho nhỏ, chủ yếu là vấn đề hậu cần thì do Pháp đài thọ hết. Đó là cái thế đẩy chú bé miền núi ngỗ ngược thuở nào lên như diều. Hắn ao ước người Pháp “phong” cho hắn làm vua Mông. Đặc vụ Pốp gặp Vàng Pao, đánh thẳng vào tâm lý gã hám danh hám lợi: - Làm trung tá sao bằng làm vua Mông! Vàng Pao trừng mắt hỏi: - Mày là ai? Pốp thản nhiên trước cách trợn trừng tráo trưng của kẻ từng làm nhiều người rợn tóc gáy: - Tao là phái viên của nước Mỹ. Vàng Pao bặm môi, nhìn xéo phía trước, chẳng khác cảnh đường hẹp gặp oan gia, hắn gằn giọng: - Chớ quên tao là sĩ quan Pháp! Pốp cười, phẩy tay hệt tác phong anh chị ngoại hạng: - Sóng lớn ngồi thuyền mục sao có thể yên tâm. Chính Pháp còn phải trông nhờ Mỹ viện trợ mới trụ vững được ở chiến trường Đông Dương đến bây giờ. Đấy, viện trợ Mỹ mới chững lại chút ít mà quân Pháp ở Điện Biên Phủ đã lao đao - Pốp ngừng giây lát quan sát đối tượng, nhận thấy thái độ đối tượng đã dịu, bớt hằn học, hắn mạnh dạn nói tiếp: - Người tài giỏi là người thức thời, nhanh hay chậm có quan hệ tới sự còn mất, thời cơ không bao giờ lặp lại lần thứ hai. Mắt Vàng Pao như bốc lửa: - Tao nghe đây! Đặc vụ Pốp kích thích ý tưởng anh hùng mạo hiểm: - Muốn bắt cọp phải vào hang cọp! Muốn bay cao phải có lông cánh khỏe. Vàng Pao phẩy tay với vẻ “không đáng đếm xỉa”: - Tao làm được! Pốp móc túi lấy tấm bản đồ trải ra trước mặt Vàng Pao giải thích: - Vàng Pao muốn làm vua không những cần có quân mà phải có dân. Mày hãy lôi kéo các tù trưởng về với mày. Tù trưởng theo thì quân theo, dân theo. Vàng Pao lắc đầu, tỏ ý oại ra: - Dân Mông trung thành lại kín tiếng. Tao phái người đi nhiều lần mà không tìm được nơi tù trưởng Mông ẩn náu. Pốp gõ gõ ngón tay vào từng điểm có đánh dấu đỏ trên bản đồ (bản đồ này Pốp tự vẽ theo lời kể của người Mông), nói: - Sào huyệt của các toán thuộc “đạo quân bí mật” là nơi đánh dấu đỏ - Hắn chỉ vết đỏ thẫm nhất, nói tiếp: - Đây là nơi ở của Tu Bi - thủ lĩnh đạo quân bí mật. Mày có thể đến đó bằng đường bộ, muốn đỡ vất vả thì tao gọi máy bay lên thẳng tới chở mày đi. Vàng Pao không cần suy nghĩ mà đáp ngay: - Đi bộ thôi! Tao không muốn ồn ào. Chuyến du thuyết đột phá của Vàng Pao có kết quả. Tu Bi đồng ý giao quân quyền cho chàng tuổi trẻ tài cao. Vàng Pao chuyển đại bản doanh đến Pa-đông. Pốp trở thành Cố vấn của Tộc trưởng Vàng Pao, nhiều chuyên gia quân sự, chính trị Mỹ đến làm Cố vấn cho Vàng Pao. Người Mông, người Dao là dân tộc có tổ chức xã hội theo chế độ bộ lạc, tù trưởng theo Vàng Pao thì thanh niên trai tráng, dân bản cũng đi theo, họ rất trung thành. Vàng Pao dùng máy bay lên thẳng hoặc máy bay có cánh do CIA cung cấp làm phương tiện liên lạc với các bản, các đồn binh trên các mỏm núi xung quanh Cánh Đồng Chum. Và, các rẻo đường mòn bên sườn núi, các bản chơ vơ trên đỉnh núi thường thấy những gã CIA cao lớn lộc ngộc, đi chân đất, cổ đeo vòng, để tóc xõa... chúng thực hiện “ba cùng” với dân bản, chúng nói tiếng địa phương rất thạo. Những hình ảnh đó khiến các dân tộc Mông, Dao càng tin phục vua Mông Vàng Pao, tạo nên địa bàn vững vàng cho “lực lượng đặc biệt”. Đại bản doanh của “lực lượng đặc biệt” - thành phần gồm các đơn vị người thiểu số Lào, Thái Lan, Tàu Tưởng, Phi-lip-pin... đặt trên đất Thái Lan, tại thành phố U-đon, bên bờ sông Mê kông, bí danh của Bộ chỉ huy này là HQ-333. Vàng Pao có trong tay hơn một vạn quân. Pốp gợi ý nên chuyển bản doanh ra vùng Xảm Thông - Long Chung, phía tây - nam Xiêng Khoảng, cách Cánh Đồng Chum năm mươi ki-lô mét, ở đó mới có thể triển khai lực lượng nhanh. Vàng Pao chưa đồng ý, vì thâm tâm gã không nỡ vỗ mặt Bob - một sĩ quan Pháp phụ trách thuốc phiện ở Tam Giác Vàng. Ngoài việc sử dụng lực lượng đặc biệt Vàng Pao làm cánh quân án ngữ vùng chiến lược Xiêng Khoảng - Cánh Đồng Chum, CIA còn một mục tiêu quan trọng nữa là thao túng nguồn thuốc phiện khổng lồ Tam Giác Vàng. * Giám đốc Cục tình báo Trung ương Mỹ A-len Đa-lét phái Thiếu tá Hây-nơ Spen-mia sang Lào, phối hợp với Vàng Pao để thực hiện công việc “chỉ cần hiệu quả, bất chấp biện pháp”, có hai trung úy Sa-vê và Lô-thơ đi theo giúp sức. Nhờ sự bảo trợ của U-ba The-in - viên tướng Thái Lan, các phái viên của CIA đột nhập Tam Giác Vàng không gặp trở ngại. Muốn cậy thế nào thì cậy, Tam Giác Vàng vẫn thuộc vùng quản lý của quân đội Pháp. * Rob bước từng bước dài trên con đường mòn vòng quanh sườn đồi. Anh đến chào từ biệt vua Mông Vàng Pao để về Việt Nam ít ngày. Rob là sĩ quan chuyên trách về thuốc phiện nên thường xuyên sang Xảm Thông - Long Chẹng. Xa Sài Gòn, Rob nhớ Loan Phương da diết. Nụ cười, khóe mắt, bước đi... của Loan Phương không mấy khi rời khỏi viên sĩ quan đa tình và khôn như cáo này. Loan Phương là cô gái không đẹp nhưng có sức hấp dẫn ma mị với đàn ông. Nụ cười mỉm như từ chối như thỉnh mời, khóe mắt long lanh những tia sáng hấp dẫn như cuốn hút như đòi hỏi, bước đi làm tăng thêm vẻ đẹp thân hình của cô luôn có sức hút với đàn ông. Tới gần khu vực bản doanh của vua Mông, Rob chợt thấy một người thanh niên ngồi bệt trên phiến đá lát làm bậc lên tòa nhà, ôm mặt khóc nức lên từng hồi. Đường đường một đấng mày râu mà khóc như trẻ con thì hèn quá. Rob bước lại gần. Người thanh niên buông tay, ngẩng mặt lên nhìn. Rob ngạc nhiên khi nhận ra anh thanh niên là Thao Tham - sĩ quan cận vệ lì lợm nhất của Vua Mông Vàng Pao. Rob hỏi bằng giọng không bằng lòng - người lớn làm trò trẻ con: - Tại sao mày phải khóc? Thao Tham rút khăn chùi mắt, cố nén xúc động khi trả lời ông quan năm Pháp: - Mẹ tao ốm. Lá rừng không chữa được, thầy mo ăn tốn nhiều tiền, nhiều gà, nhiều gạo nếp cũng không chữa nổi. Tao thương mẹ tao quá mà chẳng biết làm gì? Rob là sĩ quan tình báo thường hoạt động ở các vùng núi rừng nên được huấn luyện một số kiến thức về bệnh lý và dược lý hay gặp ở miền nhiệt đới, nên khá tự tin khi muốn vơ việc vào mình: - Mẹ mày bệnh như thế nào? Thao Tham rầu rĩ đáp: - Khi nóng, nóng quá; khi lạnh, lạnh quá! Cứ như ma làm, li bì cả ngày. Rob đoán là mẹ Thao Tham mắc bệnh sốt rét ác tính, bệnh ấy không thể chữa bằng lá cây thông thường, chậm trễ tất dẫn đến tử vong. Rob có thể xem như một người có bản tính thiện, anh ta tàn bạo với kẻ độc ác, nhưng rất ưu ái với những người hiền lành, yếu đuối; trong cuộc đời, anh ta chưa từng bỏ qua những cảnh phách lối ngang đường. Tất nhiên, gặp trường hợp này anh ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ. - Mẹ mày ở đâu? Thao Tham chỉ hẻm núi trước mặt, đáp: - Sau vạt cây rậm ấy là nhà tao! Rob cầm tay Thao Tham kéo đứng lên, giục: - Đến nhà mày! Thao Tham chẳng biết Rob đòi đến nhà mình làm gì, trong lúc thần trí bối rối, anh hối hả bước theo ông Tây cẳng dài. Nhà Thao Tham đông người, kể cả người nhà và người đến thăm có tới chục người, không có tiếng cười, chỉ có tiếng thì thào và tiếng khóc sụt sùi. Rob giơ cao tay thay tiếng chào, anh ta bước đến bên người bệnh, móc đèn pin soi mắt, soi lưỡi, tiếp đó cầm tay xem mạch... Sau công đoạn chẩn bệnh, Rob nhìn Thao Tham nói: - Mẹ mày bị sốt rét ác tính. Nguy lắm, nhưng không sao, vì tao có thứ thuốc đặc biệt tốt. Rob móc túi lấy ra vỉ thuốc. Đó là thứ thuốc trị sốt rét rừng rất công hiệu, mới phát cho sĩ quan Pháp, người bản xứ thì chỉ quan chức cao cấp mới được cung cấp. Anh đưa vỉ thuốc cho Thao Tham bảo: - Hôm nay cho mẹ mày uống ba viên, ngày mai uống ba viên, ngày thứ ba uống nốt ba viên. Cầu chúa ban phước cho mẹ mày chóng khỏi. Rob giơ cao tay xua xua ra ý chào mọi người rồi bước ra khỏi nhà. Thao Tham muốn đi theo. Rob đẩy lại bảo: - Cứ ở nhà cho mẹ mày uống thuốc! Tao xin phép Vua Mông thay mày. Ba hôm sau, Thao Tham tìm gặp Rob vái lia lịa. Rob giữ tay Thao Tham hỏi: - Lại có chuyện gì đấy? Thao Tham bộc lộ tình cảm tri ân chân thành: - Mẹ tao không nóng, không lạnh nữa rồi, cái bệnh đi thẳng rồi. Mẹ tao đội ơn mày, tao mang ơn mày suốt đời. Rob cười, xua tay bảo: - Không nên bận tâm về việc đó. Cố chăm sóc cho mẹ mày chóng phục hồi sức khỏe. Tao về Việt Nam ít ngày lại sang Lào. * Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao hết sức quan tâm tới chiến trường Lào, ý tưởng ấy xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn. Ai-xen-hao khởi đầu sự nghiệp chính trị bằng con đường binh nghiệp rạng rỡ chiến công. Cuối Đại chiến thế giới lần thứ hai, Nguyên soái Đức (phát xít) - éc-uyn Rôn-men dàn năm chục vạn quân trên tuyến bờ biển nước Pháp dài hơn một ngàn ki-lô-mét, mệnh danh là “Bức tường thép Đại Tây Dương” nhằm ngăn chặn quân Đồng Minh vượt qua eo biển Anh đổ bộ vào nước Pháp, mở đường tiến vào Béc-linh - Thủ đô của Đức quốc xã, theo hướng Tây. Tháng 6 năm 1944, quân Đồng Minh mở mặt trận thứ hai, triển khai kế hoạch Ô-véc-loóc, tổng tấn công hệ thống phòng thủ “Bức tường thép Đại Tây Dương”. Tổng tư lệnh quân Đồng Minh - Đại tướng Ai-xen-hao chỉ huy chiến dịch - quy mô lớn chưa từng xảy ra trong lịch sử chiến tranh trên trái đất, có một trăm bốn nhăm vạn quân Đồng Minh tham chiến và bao gồm hết thảy quân binh chủng kỹ thuật tối tân nhất mà ngành công nghiệp quân sự thời đó sáng chế ra. Sau hơn một tháng đọ sức, toàn bộ đạo quân khổng lồ của Ec-uyn Rôm-men bị tiêu diệt. Quân Đồng Minh đại thắng không chỉ do có ưu thế áp đảo về nhân vật lực mà còn do tài thao lược của vị Tổng tư lệnh và Bộ Tham mưu của ông. Ai-xen-hao là vị tướng cẩn trọng, ông ta không đánh giá thấp đối phương, lường ra những diễn biến bất thường, áp dụng mọi giải pháp, nhất là không xem nhẹ các mưu kế quân sự... Có thể nói, Ai-xen-hao chỉ huy một chiến dịch trên không gian hàng ngàn ki-lô-mét vuông, có tới hai trăm vạn tay súng và hàng chục vạn binh khí kỹ thuật tiên tiến tham chiến, trước muôn vàn khó khăn về thời tiết, địa hình - nhất là sự chống trả quyết liệt - một mất một còn của con thú đường cùng mà vẫn giành được thắng lợi hoàn toàn là do ông thông thạo các giải pháp quản lý tình hình, quản lý trận đánh. Ông ta là danh nhân chiến trận, biết nhìn xa thấy rộng, biết đề phòng mọi tình huống bất thường. Khi trở thành Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Ai-xen hao đã tích lũy được cả kho kinh nghiệm về tài thao lược của nhà quân sự biết chiến thắng và tài phán đoán xu thế phát triển của nhà chính trị tinh tường để cai trị đất nước và điều hành mối bang giao quốc tế. Bắt nguồn từ sự am hiểu, lịch duyệt các quy luật vận động... Ai-xen-hao nhìn nhận, đánh giá tình hình chiến trường Đông Dương, kể cả nền an ninh chính trị ở Đông Nam á phụ thuộc hai địa bàn cơ bản - đó là Việt Nam và Lào; muốn chiến thắng ở Việt Nam, phải nắm chặt Lào; muốn khống chế toàn bộ khu vực Đông Nam á phải nắm chặt Việt Nam và Lào, đối với Cam-pu chia có thể duy trì chế độ trung lập thân phương Tây. Mục tiêu của Ai-xen-hao là Việt Nam, nhưng mối quan tâm tha thiết của ông lại là Lào. Chính ông bộc lộ với các Cố vấn thân cận nhất của ông: Khi cần phải “có hành động đơn phương ở Lào, nếu đó là giải pháp thay thế duy nhất cho việc mất Lào vào tay chủ nghĩa cộng sản”. Khi triển khai chủ trương đưa Ngô Đình Diệm về nắm quyền ở Sài Gòn, Ai-xen-hao đã chỉ thị cho CIA gấp rút xây dựng lực lượng thân Mỹ ở Lào, nếu coi Việt Nam là đạo trung quân thì Lào phải là cánh quân tả dực. Tóm lại, Giám đốc CIA A-len Đa-lét đã có mệnh lệnh hành động đối với Lào. A-len Đa-lét không coi trọng giá trị khai thác từ chính quyền Viên Chăn bằng tận dụng ưu thế của các thế lực cát cứ; ông ta coi Viên Chăn như chiếc ô che nắng ngăn mưa, cần thì dùng không cần thì quẳng vào xó, nhưng xây dựng được một lực lượng đặc biệt vững mạnh cắm chốt ở địa bàn chiến lược thì lợi hại chẳng khác lưỡi dao treo trên đầu đối phương. Ngay từ năm 1949, khi Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, bè lũ tay sai của Mỹ - Tưởng Giới Thạch bỏ đại lục tháo chạy ra Đài Loan, tướng Đô-nô-van - Giám đốc cơ quan công tác chiến lược (OSS - tiền thân của CIA) đã phái Tổ công tác (CIA) thâm nhập Lào do Trung tá Tôm-xơn chỉ huy, nhằm quản lý địa thế sườn của Việt Nam và Trung Quốc. Đối tượng mà Tôm-xơn quan tâm là các quan chức Viên Chăn, mà các quan chức Viên Chăn quá nặng nề trì trệ về ban bệ nghi lễ, người có tài thì không có cơ hội nắm quyền, kẻ bất tài thì khư khư bám quyền như đười ươi giữ ống. Rúc cục, trải mấy năm trời qua, Tôm-xơn vẫn không xây dựng được nhân mối có giá trị sử dụng lâu dài, mà chỉ thực hiện được mấy vụ ám sát, vài vụ khiêu khích như gãi da voi. A-len Đa-lét quyết định không đi con đường mòn vô ích ấy. Ông ta chủ trương bồi dưỡng Vàng Pao - một gã hãnh tiến ma mãnh thành kẻ “yêng hùng nhất khoảnh”. A-len Đa-lét muốn duy trì lực lượng đặc biệt Vàng Pao làm nhiệm vụ cắm chốt, ứng cứu... vừa có tính chất quân đội nhà nghề vừa mang dáng dấp lực lượng chính trị bám rễ trong các vùng dân tộc ít người trên các rẻo núi cao, nhưng muốn thực hiện được điều đó phải cung cấp tiền lương, vũ khí cho nó; ngoài ra, phải có thuốc phiện để thỏa mãn các tộc trưởng lòng tham không đáy và lũ đầu trâu mặt ngựa chỉ hành động khi có lợi. Vấn đề cung đốn tài chính cho các thế lực bản địa ở Việt Nam, Lào... trở thành gánh nặng đối với CIA, ngân sách của CIA không đủ chi cho các khoản phát sinh ngoài dự toán. Đoạt nguồn lợi từ thuốc phiện ở Tam Giác Vàng là một giải pháp. Sức hấp dẫn từ thuốc phiện quá lớn khiến nhiều thế lực xúm xít bên quanh như đàn nhặng trước miếng đường. Nhà nước và tư nhân cùng đấu tranh quyết liệt để độc chiếm hoặc chấm mút nguồn lợi thuốc phiện. Tư nhân ấy là ai? Là những kẻ to đầu có quyền có thế: Tướng Tàu Tưởng - Ly Mi; Tổng tham mưu trưởng quân đội phái hữu Viên Chăn - Uổn Ra-ti-con; Đại sứ Vương quốc Lào tại Cộng hòa Pháp - Xốp-xai-xa-na...; càng về sau càng có nhiều nhân vật “danh tiếng” tham gia “phi vụ thuốc phiện”: Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân; Trung tướng tư lệnh Biệt khu Sài Gòn Lê Nguyên Khang - Tuyết Mai (vợ Nguyễn Cao Kỳ); Trung tướng Cố vấn an ninh Đặng Văn Quang - tay hòm chìa khóa của Nguyễn Văn Thiệu; Thủ tướng chính quyền Sài Gòn Trần Thiện Khiêm; Đại sứ Mỹ Bân-cơ và Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam có “chấm phõ” chút nào chưa rõ, có điều, gã phi công riêng của họ bị lôi ra Tòa về tội vận chuyển thuốc phiện... nhiều vô kể, đến đong thúng đựng lũ bất lương ấy cũng không thể xuể. Thời Pháp thuộc hưng thịnh, Toàn quyền Pháp Pôn Đu-me đặt thuốc phiện vào danh mục độc quyền nhà nước, quản lý gay gắt hơn cả độc quyền vàng đen và nhựa cao su... - nguồn lợi chủ yếu của chế độ thực dân. Nhật cướp quyền Pháp ở Đông Dương nẫng luôn nguồn lợi thuốc phiện ở Tam Giác Vàng; Sư đoàn 93 (quân Tưởng Giới Thạch) vào Bắc Đông Dương để tước khí giới Nhật tước luôn nguồn lợi thuốc phiện ở Tam Giác Vàng; Tưởng bị đuổi ra Đài Loan, bọn tàn quân cố sống cố chết bám trụ ở vùng Ba Biên giới, cùng quân San (Mi-an-ma) chia nhau nguồn lợi thuốc phiện ở Tam Giác Vàng. Các thủ lĩnh, tộc trưởng bộ tộc thiểu số trên các rẻo núi cao biên giới Lào, Mi-an-ma, Trung Quốc, Thái Lan... có hẳn đội quân bản bộ để bảo vệ, chiếm đoạt nguồn lợi thuốc phiện; họ gằm ghè, nã đạn túi bụi vào nhau vì tranh giành thuốc phiện, thậm chí dám đương đầu quyết liệt với quân đội Pháp cũng chỉ vì thuốc phiện. Từ sau chiến dịch “Opération X” tai tiếng om sòm, Rob kết hợp với tướng phỉ Vàng Pao tận mua thuốc phiện ở Tam Giác Vàng và độc quyền phân phối “chất chết đen” sang thị trường châu Âu và châu á qua đường hàng không do Hãng hàng không Pháp (Air France) đảm nhiệm. Giám đốc Trung ương tình báo Mỹ (đương nhiên là Tổng Giám đốc bảy cơ quan tình báo thuộc hệ thống tình báo quốc gia Mỹ) - A-len Đa-lét được Tổng thống Ai-xen-hao hết mực tin dùng và được anh trai - Bộ trưởng Ngoại giao Phốt-xtơ Đa-lét, một sủng thần của Tổng thống ủng hộ hết lòng, thỏa sức thao túng tình hình; ông ta muốn “phỗng” tay trên của Pháp nguồn lợi thuốc phiện ở Tam Giác Vàng để bổ sung tài chính cho ngân sách của CIA, nên phái sát thủ Hen Sít-peo-mia và hai tên trợ thủ hung bạo sang Pa-đông phối hợp với Pốp - gã CIA nằm vùng đang là Cố vấn thân cận của Vàng Pao thực hiện kế hoạch giết người cướp của tước đoạt khá trắng trợn. Pốp không những làm Cố vấn mà còn là ân nhân của Vàng Pao nên việc gã đao búa của CIA tiếp cận “ông vua con vùng Tam Giác Vàng” được sắp xếp nhanh chóng. * Vàng Pao tiếp đặc phái viên Mỹ - Hen Sít-peo-mia tại Tổng hành dinh Pa-đông, Cố vấn Pốp làm phiên dịch, Thao Tham - sĩ quan cận vệ của Vàng Pao chuyên trách bảo vệ và phục vụ. Tổng hành dinh Pa-đông nghe thì oai, thực tế chỉ là tòa nhà xây bằng đá, mái lợp tôn - thứ tôn Mỹ viện trợ cho Pháp để dựng các doạnh trại dã chiến; nội thất trang trí rối rắm bằng các con thú nhồi bông, đầu hươu, ngà voi...; bộ bàn đèn thuốc phiện đặt ở giữa chiếc sập gụ kê ở góc nhà, chỉ riêng bộ phô-tơi bọc da khá sang nhưng lạc lõng với toàn cảnh, nó được Pốp mua từ Viên Chăn, chở bằng trực thăng đến Pa-đông tặng Vàng Pao. Vàng Pao thích thứ tiện nghi êm ái này lắm, gã thường dùng để tiếp khách quý. Tên khiêu khích Hen Sít-peo-mia gợi tính tò mò ở tên tướng phỉ tham lam tàn bạo: - Thiếu tướng đã biết gì về chính sách mới của Mỹ đối với Đông Dương? Vàng Pao không phải hạng ếch ngồi đáy giếng không biết trời cao đất rộng thế nào, mà là một gã ma lanh từng trải, hắn khích lại: - Dãy Pu Pam chưa đủ lớn, ngọn Phu Miêng chưa đủ cao nên chưa dạy cho tao tài dự đoán. Hen Sít-peo-mia đi thẳng vào nội dung thảo luận: - Hội nghị Giơ-ne-vơ bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương đã tới hồi kết. Người Pháp buộc phải rút khỏi Đông Dương, chấm dứt vĩnh viễn chế độ thực dân xâm lược. Người Mỹ hào hiệp sẵn sàng giúp nhân dân ba nước Đông Dương xây dựng lại đất nước, chống cộng sản. Vàng Pao bác lại bằng lời khẳng định: - Nước Pháp rất mạnh. Tàu bay, xe tăng nhiều như lá rừng... Hen Sít-peo-mia nhếch mép cười, kiểu cười thể hiện “Pháp là cái thá gì”. - Thiếu tướng có biết tàu bay, xe tăng, đại bác, kể cả súng bộ binh mà quân đội Pháp và các nước liên kết đang dùng là của nước nào không? Đều là hàng viện trợ của Mỹ cả. Mỹ viện trợ cho Pháp rất nhiều, có thể nói chi phí chiến tranh ở Đông Dương đều do Mỹ đài thọ cho Pháp. Nhưng đế quốc Pháp đã bước sang giai đoạn tàn lụi, tướng kém quân hèn không thể chống lại cộng sản nên nước Mỹ không vung phí đô la cho bọn đười ươi giữ ống ấy nữa. Mỹ cắt viện trợ ngày nào, Pháp chết ngày ấy; tình hình ảm đạm ở chiến trường Điện Biên Phủ là bằng chứng. Vàng Pao chỉ tay về phía bộ bàn đèn thuốc phiện, mắt sáng lóng lánh khi hỏi: - Ngài có thích dùng thứ ấy không? Hen Sít-peo-mia xua tay: - Tôi muốn cùng Thiếu tướng bàn cho xong công việc! Vàng Pao đưa mắt hỏi ý Pốp. Pốp đáp: - Không nên để việc hôm nay đến ngày mai mới làm. Vàng Pao nhìn về hướng Hen Sít-peo-mia lên tiếng giục: - Thủ lĩnh Mông đã sẵn sàng nghe đặc phái viên Mỹ nói rồi đây! Hen Sít-peo-mia hù dọa: - Quân đội của Thiếu tướng đứng vững được ở vùng đất màu mỡ cám dỗ nhiều tham vọng này là do có sự ủng hộ của Pháp. Pháp rời Đông Dương, Thiếu tướng mất chỗ dựa nền tảng, nguy cơ bị cô lập, bị xâu xé đến trong một sớm một chiều. Viên Chăn không khi nào bỏ qua cơ hội loại bỏ tình trạng cát cứ; các thế lực khác cũng khó bỏ lỡ dịp thuận tay dắt hươu. Nếu Thiếu tướng không sớm có chủ trương ứng phó thích hợp, kịp thời thì viễn cảnh u ám có thể đoán ra được. Vàng Pao cảm thấy đứng trên mỏm đá chênh vênh, hắn sốt sắng: - Vàng Pao muốn nghe ngài vạch cho một kế vẹn toàn đây! - Thấy Hen Sít-peo-mia cười bằng mắt, tên tướng phỉ nôn nóng nói luôn: - Hẳn ngài khuyên tôi nên ủng hộ chính sách của Mỹ đối với vấn đề Đông Dương? Gã khủng bố có đà chất đá lên lưng con vật già: - Không thể ngồi thuyền nát vượt sóng to, đó là điều không những cần thiết mà còn phải làm ngay, thể hiện rõ ràng. Vàng Pao liếc nhìn bộ bàn đèn. Hắn đang cao hứng, nhưng không tiện sa đà với nàng tiên nâu. Vẫn bằng thứ giọng sốt sắng, hắn giục: - Vậy nên như thế nào? Xin được chỉ bảo rõ hơn! Hen Sít-peo-mia rút ván khỏi thuyền: - Thiếu tướng nên tỏ rõ lập trường cho Tổng thống Mỹ thấy Thiếu tướng yêu cầu có sự ủng hộ của Mỹ. Muốn thế, Thiếu tướng phải loại bỏ mọi mối quan hệ với Pháp, nhìn nhận Mỹ là đồng minh đáng tin cậy của mình. Vàng Pao vớ được phao thoát hiểm, hắn hớn hở bộc lộ: - Vàng Pao nghe ngài, làm theo sự chỉ bảo của ngài. Hen Sít-peo-mia thít chặt yêu cầu: - Thiếu tướng ra lệnh trục xuất hết sĩ quan Pháp và những người ủng hộ Pháp; trừ bỏ bất cứ kẻ nào chống lại mệnh lệnh của ngài. - Hen Sít-peo-mia ngừng lời quan sát thái độ đối tượng, thấy nên có đòn cân não nên nói tiếp: - Rob Tơ-ranh-ki-ê là sĩ quan chỉ huy, là kẻ vạch ra kế hoạch “Opération X” tàn bạo giết nhiều người vô tội, gây lòng thù hận đối với nhiều phe phái và dân chúng địa phương nên phải bắt hắn đền tội để giải tỏa tâm trạng phẫn nộ của công luận. Vàng Pao là kẻ tàn bạo nhưng không phải hạng táng tận lương tâm, hắn mang bản chất của người Lào “chịu ơn ai trả hết đời không hết nợ”, hắn cố bảo vệ đồng minh đã hết thời: - Rob tốt với chúng tao, tử tế với người Lào... Hen Sít-peo-mia muốn có một đòn quyết liệt, muốn rút cầu không cho kẻ đã xuống thuyền có cơ hội bước lên bờ: - Thiếu tướng có biết cái lý của con hổ ở chốn rừng xanh chứ? Nó mạnh và quyết đoán nên trở thành chúa tể sơn lâm. Nước Mỹ nhìn hành động của Thiếu tướng mà tin, mọi người thấy sự thể hiện dứt khoát đối với quá khứ của Thiếu tướng mà theo. Vàng Pao chợt nhớ lời viên tướng Tàu Ly Mi nói với gã “không tàn nhẫn không thể trở thành đại trượng phu”. Anh chàng mắt mèo, mũi vẹt, tóc râu ngô này giảng giải rất có lý. Lý đúng mà vẫn không theo thì nguy cơ thất bại lẻn đến sau lưng ngay: - Vàng Pao ta nghe theo sự sắp xếp của ngài! - Hắn ngập ngừng giây lát, nói tiếp: - Ta ủng hộ mọi hành động của người Mỹ, nhưng... ngài hiểu cho, người Mông ta không ai dám làm hại ân nhân của mình. Giết người có ân nghĩa Trời Phật báo ứng ngay. Ngài hãy giúp Vàng Pao ta bằng cách tự làm việc đó. Quả là đứng trước kẻ thù hung hãn không đáng sợ có một thằng bạn bất lương. Gã sát thủ tin có hai tên trợ thủ đắc lực đủ sức làm những việc lớn hơn nên đồng ý với đề nghị của gã ném đá giấu tay: - Đồng ý! Tôi cần Thiếu tướng cho biết một vài thông tin về thói quen của Rob là có thể thu xếp êm thấm mọi việc. * Thiếu tá tình báo Luy-xiêng Cô-nen nửa nằm nửa ngồi trên ghế phô-tơi, cố thư giãn nhưng tâm trạng vẫn ngổn ngang. Bao ngày tất bật đi ngang về dọc mà công việc vẫn bề bộn. Chuyện hòa giải, dẹp yên các phe phái chống đối chưa đâu vào đâu đã vấp phải vụ tranh ăn quyết liệt bên Tam Giác Vàng. Điều khó xử là chính Giám đốc CIA A-len Oentơ Đa-lét phái thiếu tá Hen Sít pen-mia và hai Đại úy CIA đột nhập Tam Giác Vàng, qua đường Thái Lan, thực hiện “công vụ” đoạt nguồn buôn thuốc phiện của Pháp; trong khi đó, Rob Tơ-ranh-ki-ê vừa là bạn vừa là nhân viên CIA dưới quyền anh ta là người được Phòng Nhì Pháp giao làm nhiệm vụ quản lý nguồn thuốc phiện ở vùng đó. Đây là chuyện anh em choảng nhau vỡ đầu vì đồng tiền. Chưa biết nên ngả về ai. Bỗng tiếng chuông điện thoại đổ liên hồi. Luy-xiêng Cô-nen uể oải giơ tay xem đồng hồ. Đã 6 giờ chiều! Ai quấy mình vào giờ nghỉ quý hóa này nhỉ? Ngoài “sếp” ét-uốt Lên-xđên hẳn chẳng ai dám đường đột thế. Anh nhấc ống nghe áp bên tai. Giọng lảnh lót hớn hở vang trong máy: - Cưng hả? Cưng phải hoôn? Luy-xiêng Cô-nen áp sát ống nghe vào tai. - Linh Phương đấy à? Có chuyện gì mà gọi điện thoại vào giờ “gà lên chuồng” thế này? Nghe giọng nói bên kia đầu dây đúng là người tình Linh Phương không giải thích mà nói như ra lệnh, lại như nài nỉ: - Bảy giờ tối nay em đợi anh ở quán Nhất Dạ Đế Vương, phòng số 7. Luy-xiêng Cô-nen thừa biết đó là quán hẹn hò của các đôi tình ngãi tình nhân, có cặp đàng hoàng cũng có cặp vụng trộm. Anh ta đang muốn qua sông hiểm lại gặp luôn thuyền tốt, chẳng khác gì buồn ngủ gặp nệm êm; tuy vậy, đối với “cô em” đỏng đảnh và kiêu kỳ này mà vồ vập ngay là thất sách, chưa chừng xôi hỏng bỏng không. Lòng bồn chồn mà miệng ra vẻ thờ ơ, anh ta giả đò hỏi: - Có chuyện gì mà gấp vậy, cô nàng yêu kiều? Linh Phương không giải thích mà đay lại: - Răng? Khó khăn à? Ngán gặp rồi hỉ? Luy-xiêng Cô-nen đứng phắt dậy. Em sốt sắng lắm! để em yêu giận dỗi thì nguy to, anh ta đáp vội, đúng kiểu nịnh đầm của mấy đấng mày râu phương Tây: - Nghe tiếng “ới” của người đẹp thì trời sập cũng lên đường ngay. Luy-xiêng Cô-nen xuống ga ra, ngồi lên chiếc Phan-công lái đi luôn... Linh Phương là vợ Tư Hiếu - Tham mưu trưởng Bình Xuyên, xộc xệch như đũa cả ghép với đũa con. Tướng Bảy Viễn muốn nắm chặt Tư Hiếu - Tham mưu trưởng Bình Xuyên nên ép em phải lấy hắn - một “lão” hơn cô mấy chục tuổi. Linh Phương thích đàn ông cao to, mạnh mẽ mà vớ phải một gã khẳng khiu, thực đau lòng. Cô bắt nhân tình với Luy-xiêng Cô-nen sau cuộc gặp gỡ lần thứ ba ở quán Pa-ra-đi11*. Tư Hiếu láng máng biết, nhưng lờ đi, hắn không dám đối mặt với Cô-nen, kẻ mà người dám chơi hết mình như Bảy Viễn cũng phải kiềng. Vả chăng, Linh Phương ngoại tình nhưng là người vợ biết săn sóc chồng. Đến quán Nhất Dạ Đế Vương, Luy-xiêng Cô-nen xuống xe, sải bước vào tiệm, tới thẳng phòng số 7, anh ta vừa gõ một tiếng cửa đã bật mở. Linh Phương chờ sẵn bên cửa. Luy-xiêng Cô-nen chưa kịp lên tiếng, cô gái đa tình đã mở rộng hai tay, nhún chân nhảy lên ôm lấy cổ người tình, reo to như bắt được vàng: - Cưng, cưng, cưng lắm nghe! Luy-xiêng Cô-nen gỡ tay Linh Phương, dìu cô vào ghế vừa thể hiện tình cảm âu yếm vừa thổ lộ mà cũng là nịnh: - Anh nhớ em quá chừng! Linh Phương nghiêng mình cộc đầu vào đầu người tình, nói liên tiếp: - Suốt đêm nay chúng ta ở bên nhau! Tâm trạng Luy-xiêng Cô-nen xốn xang, muốn ôm nghiến ngấu người đẹp, nhưng tính cảnh giác của một điệp viên đã thành thói quen nhắc nhở anh ta. Chớ xem thường Tư Hiếu. Tính ghen ở ông chồng già có cô vợ trẻ và xinh đẹp như Linh Phương thì rất khó lường hậu quả. Luy-xiêng Cô-nen hỏi nhưng vẫn phấp phỏng nghi ngại lời nói vừa rồi của người đẹp chỉ là đùa vui quấy quá: - Linh Phương ở đây thì để Tư Hiếu ở đâu? Cô gái lại cụng đầu vào đầu người yêu, giọng tỉnh bơ: - Mược! ảnh ưa đến xóm Bình Khang. ở đó, anh Bảy mới mua về mấy ả mắt xanh mỏ đỏ, áo thun váy mi-ni... Gái Đài Loan sang nhập cuộc. Luy-xiêng Cô-nen bế thốc Linh Phương, nhảy cỡn lên mà reo: - Vậy thì tối nay đúng là Nhất Dạ Đế Vương! Luy-xiêng Cô-nen là gã đa tình, nhưng là gã đa tình làm tình báo; trong cuộc truy hoan, anh ta không quên bổn phận; nhiều phen, anh ta tạo ra cuộc truy hoan để thực hiện nhiệm vụ. Anh ta đang muốn tìm hiểu vài vấn đề về nội bộ Bình Xuyên thì vớ được cơ hội này, đúng là dịp may Chúa ban. Linh Phương là cô gái thông minh, sắc sảo, xông xáo... em gái Đảng trưởng Bảy Viễn, lại là vợ Tham mưu trưởng Bình Xuyên nên khắp lượt “đại ca, tiểu đệ” Bình Xuyên vì nể, cô có thể đột ngột “ùa vào” bất cứ đồn bốt, trụ sở Bình Xuyên nào, những trường hợp “vô kỷ luật” như thế không những không bị “chỉnh đốn” mà còn được các “đại ca, tiểu đệ” hồ hởi đón tiếp như đón Thiên sứ mang đến niềm vui. Chính do cách sống cởi mở rất hồn nhiên ấy mà Linh Phương biết rất nhiều chuyện “âm ỉ” trong nội bộ Bình Xuyên và ngoài xã hội, kể cả xã hội đao búa. Linh Phương là chủ một chi nhánh phân phối thuốc phiện ở Sài Gòn. Bảy Viễn có nguồn thu nhập quá “xôm” ở Khu Đại Thế Giới, các xóm Bình Khang, tiệm hút thuốc phiện, các loại sòng bạc... nên “cho thẳng” em gái một nguồn thu lợi mà nhiều “chú chiệc” có máu mặt ở bang Hoa Kiều ngóng trớn con mắt cũng không kiếm được cơ hội tiếp cận. Khi cuộc vui cá nhân đã tàn, Luy-xiêng Cô-nen gợi chuyện: - Em kinh doanh thạo không kém các ông chủ người ý, không kẻ gian tham nào dám tơ tưởng tới sự chia chác; Thiếu tướng Viễn làm chủ Sài Gòn, thế đứng vững vàng, lại có người gần gũi... Linh Phương có anh và các tiểu đệ trung thành làm chỗ dựa nên không đến nỗi phải lăn xả tàn sát nhau ở chốn thương trường, nhưng cô vẫn canh cánh lo ngại loại “thợ đào mỏ có bàn tay búp măng”, khi nghe người tình nói thế, cô nghĩ ngay đến ả ma quái nào vờn quanh bòn rút anh trai liền ngắt lời: - Ai? Ai hỉ? Gần gũi chi hỉ? Luy-xiêng Cô-nen giả đò ngạc nhiên, anh quàng tay ghì sát người yêu: - Có chuyện gì mà em sững người như bị quỷ sứ hớp hồn vậy! Chẳng lẽ Tư Hiếu hay Thái Hoàng Minh đã làm phật ý Thiếu tướng? Linh Phương thở phào, thụi vào ngực Luy-xiêng Cô-nen mấy cái liền, lại véo một cái rất đau khiến người tình kêu oai oái. Linh Phương là cô gái xử sự rất lạ: cô có thể rút ra bạc trăm không chút đắn đo để thực hiện một hành vi từ thiện, nhưng kẻ nào dám chờn vờn một đồng của “cô Tư Bình Xuyên” thì hãy coi chừng, nặng nhẹ gì cũng phải chịu hình phạt của em út cô Tư. Bọn em út cô Tư dù không được sai đi “dạy bảo” vẫn cứ hành động như một thông lệ. “Mi mà dám láo với cô Tư”, sau lời dằn mặt ấy có thể là quả đấm thậm chí một phát súng. Cô Tư Bình Xuyên không ưa kẻ gian giảo, càng không chấp nhận lối xử sự “dĩ hòa vi quý”,“một sự nhịn chín sự lành”. Đâu đó có kẻ bàn luận sự im lặng hoặc trong lời nói ngọt ngào của người đẹp chứa chút ít nọc rắn, có thể đúng. Kẻ mỏng môi nào đó nói tới tai cô Tư nhận xét ấy. Cô Tư Bình Xuyên cười đáp: “Nọc rắn có thể làm thuốc trị bệnh cứu người”. Tóm lại, cô Tư Bình Xuyên ghét sự không sòng phẳng, càng ghét lũ mối mọt hôi hám, cô hể hả trả lời người tình đang khai thác tin: - Làm gì có chuyện nớ! Tư Hiếu là người một nhà, chẳng lẽ em rể dám xược với anh vợ. Còn Thái Hoàng Minh thì... Linh Phương kể vài nét về cuộc đời chìm nổi của viên Tham mưu phó Thái Hoàng Minh. Thuở hàn vi, Minh làm công cho thương gia Hoa kiều - Triệu Vĩnh Kỳ. Minh thật thà, chịu khó và khá thông minh sắc sảo trong các tình huống rắc rối, gỡ cho ông chủ nhiều mối lo. Vĩnh Kỳ tin yêu Minh nên gả cháu gái cho Minh - một cô chủ đài các lấy một gã giúp việc. Từ địa vị “người ở” trở thành “thiếu chủ” mà Minh chẳng lấy thế làm cao, hắn vẫn cần cù chịu khó. Bảy Viễn dẫn một nhóm thân tín bỏ chiến khu Việt Minh ra hàng Pháp, được Pháp đặc dụng. Bọn anh chị Bình Xuyên bấy lâu nay thất tán dần kéo đến quần tụ bên anh cả Bảy Viễn. Bảy Viễn mọc thêm vây cánh, thế lên như diều, Pháp phong hắn hàm đại tá rồi Thiếu tướng. Các áp phe ma muội cờ bạc, thuốc phiện, gái điếm có cơ hội phát triển dưới sự điều hành của Bảy Viễn được sự bảo trợ của Pháp. Tất nhiên,“mật chảy tới đâu ruồi bâu tới đấy”, Triệu Vĩnh Kỳ không thể đứng ngoài sức hút của đồng tiền. Vĩnh Kỳ là thương gia lọc lõi, am hiểu trận địa thương trường đầm đìa mồ hôi và máu, nhưng bản chất thâm căn cố đế ở hắn là tính tham, tham như chó - loại chó tinh khôn vừa toan ngoạm cả miếng mồi vừa đảo mắt dè chừng xung quanh. Buổi đầu hợp tác làm ăn bao giờ hắn cũng hành xử theo tác phong thương gia lọc lõi: “miếng ngon chớ vội ăn cả, tốt nhất là ăn ít hơn”. Bảy Viễn chuộng tính cách “biết chơi đúng luật giang hồ” của Vĩnh Kỳ nên vận động cho Vĩnh Kỳ làm Bang trưởng Triều Châu ở Chợ Lớn. Từ các phi vụ làm ăn thuận buồm xuôi gió với Triệu Vĩnh Kỳ và Thái Hoàng Minh, Bảy Viễn chiêu mộ Hoàng Minh làm cận vệ. Thái Hoàng Minh có cơ hội chứng tỏ bản lĩnh, được Bảy Viễn tin mến nâng đỡ nhiều, thăng chức lên dần cho tới cấp Trung tá tham mưu phó Bình Xuyên. Linh Phương kết thúc câu chuyện lê thê bằng kết luận: - Kể ra, tính cách của hai ngài tham mưu cũng có đôi điểm khác nhau. Quả nhiên là được người cầm vàng thả vào túi, viên tình báo gợi chuyện: - Người đẹp của tôi mà cũng quan tâm tới chuyện lính tráng đao búa à? Linh Phương: - Làm chi đến nỗi thế! Trưởng và Phó va chạm hàng ngày là chuyện bình thường. Luy-xiêng Cô-nen choàng tay ôm ghì người đàn bà báu ngọc. Tin tức chỉ có thế, nhưng đủ để khai thác, khoét sâu... biến mâu thuẫn nhỏ thành mâu thuẫn lớn, đẩy mâu thuẫn lớn sang lĩnh vực thù địch. Hắn muốn khai thác vài chi tiết cụ thể, đốt cháy giai đoạn cho đỡ mất thời gian, nên khơi mào: - Cái sẩy nẩy cái ung, làm việc cùng nhau mà không nhân nhượng, không thể tất cá tính của nhau thì không có sự gắn bó chặt chẽ. Linh Phương: - Rất có thể! Luy-xiêng Cô-nen gặng: - Có thể thế nào? Linh Phương vận dụng luôn lời nói của Cô-nen để đánh giá: - Cái sẩy nẩy cái ung! Luy-xiêng Cô-nen giả vờ ngạc nhiên: - Thiếu tướng Bảy Viễn mặc cho tình hình nội bộ rạn nứt, không đứng ra dàn xếp hai gã à? Linh Phương đáp tửng tưng: - ảnh không biết! Luy-xiêng Cô-nen tỏ ý bán tin bán nghi: - Thiếu tướng là người thông minh, tinh đời mà còn không biết... Linh Phương nguýt một cái, cong cớn nói: - Thế đấy! Anh không biết thế mà em biết. Nhiều chuyện đàn ông các anh tìm hiểu cả năm không rõ, bọn đàn bà chỉ liếc một cái là biết ngay. * Đang đêm, Thao Tham - Đội trưởng cảnh vệ của Vàng Pao lẻn đến Văn phòng đại diện Pháp tại Pa-đông yêu cầu gặp gấp Rob - Trưởng đại diện. Anh nhớ ơn Rob cứu sống mẹ mình và đối xử ân nghĩa với anh em trong Đội cảnh vệ, nay có dịp đền đáp là không thể bỏ qua. Rob là sĩ quan tình báo từng trải nên biết Thao Tham đến tìm gặp mình lúc khuya khoắt là có chuyện tối quan trọng nên mắt nhắm mắt mở ra tiếp Thao Tham ngay. Đội trưởng cảnh vệ của viên tướng phỉ tàn bạo nên không thể là kẻ chưa thò chân xuống nước đã chết run chết dế, hắn bình tĩnh thuật lại những điều mắt thấy tai nghe về buổi nói chuyện của “Vua Mông” với tên Mỹ sát nhân. Cuối cùng anh bộc lộ: - Thao Tham lo cho Rob lắm. Thằng Mỹ chỉ muốn giết Rob, nó muốn chặt đầu rắn. Rob siết chặt tay Thao Tham, dùng lời trấn tĩnh anh thanh niên Mông biết cân nhắc nặng nhẹ, phải trái: - Nguy cơ dù ghê gớm nhưng đã biết thì không đáng sợ nữa. Thao Tham vẫn chưa an tâm về tính mạng treo sợi tóc của ân nhân: - Rob không được coi thường thằng Mỹ lang sói! Sĩ quan tình báo Rob luôn luôn thực hiện phương châm hành động “càng biết nhiều càng tốt”, hắn vấn kế người thanh niên Mông có tình nghĩa: - Thao Tham khuyên Rob nên đối phó thế nào? Thao Tham được hỏi, hớn hở đáp: - Thiếu tướng không muốn bọn Mỹ hành động ồn ào, lộ liễu. Theo Thao Tham phỏng đoán thì bọn sát thủ ấy không tổ chức đón lõng, phục kích mà lặng lẽ đột nhập. Thiếu tướng muốn chuyện xảy ra êm thấm là sợ làm mếch lòng người Mông chịu ơn nặng của Rob... Rob ngắt lời: - Thiếu tướng không muốn sao không từ chối cộng tác? Thao Tham tỏ thái độ không vui, nét mặt thiểu não của anh chứng tỏ điều đó: - Rob đừng trách Thiếu tướng. Thiếu tướng cố bảo vệ ân nhân của người Mông, nhưng bị thằng Mỹ ép... - Thao Tham ngập ngừng giây lát rồi bộc lộ: - Hội nghị Pa-ri sắp kết thúc rồi, người Pháp rút về nước, người Mỹ đến... Thiếu tướng bị bó chân bó tay... Làm khác là tự bước chân vào đường chết. Rob biết hết các tình huống hiểm nghèo. Mỹ hất cẳng Pháp; tất nhiên, những người Pháp, thân Pháp sẽ bị loại bỏ. Nhưng, Rob nghĩ tới Luy-xiêng Cô-nen... Hắn từng làm việc cho Cô-nen, không lẽ Cô-nen không tìm cách bảo vệ nhân viên của mình. Có lẽ, A-len Đa-lét quyết giết Trưởng đại diện Pháp bên cạnh Vàng Pao là thực hiện nước cờ thí xe. Phải hành động thế nào để khỏi di lụy về sau? Trốn chạy là thất sách mà có thể cũng không kịp, bọn sát thủ CIA làm ăn có kế hoạch kín kẽ; Pốp có nhiều tai mắt thân tín, được nhiều người Mông tin theo, Ban đại diện Pháp có động tĩnh khác thường là Pốp biết ngay. Rob quyết định phương pháp hành động hợp lý nên yên tâm dặn dò: - Thao Tham giúp Rob, Rob biết ơn. Thao Tham không nên tỏ ra biết chuyện Mỹ mưu sát Rob. Nếu bọn Mỹ có ý đồ bất thường khác với điều Thao Tham đã nói thì mật báo cho Rob biết ngay. Thao Tham nhận lời ra về. Ngay đêm, Rob triệu tập tất cả các nhân viên Ban đại diện đến văn phòng Trưởng ban, thông báo tình hình rồi nói: - Thời hưng thịnh của Cộng hòa Pháp ở Đông Dương đã qua, nay mai quân viễn chinh Pháp rút hết về nước. Mỹ đang chuẩn bị các điều kiện để thế chân Pháp. Bọn CIA muốn triệt hạ những người Pháp ở Tam Giác Vàng không phải chúng ta là tảng đá cản chân Mỹ, mà vì chúng muốn nhanh chân chiếm nguồn lợi thuốc phiện ở vùng này, không cho các thế lực khác kịp phản ứng hoặc len chân xí phần. Quân viễn chinh Pháp đã rút thì hiển nhiên không thể bê Tam Giác Vàng đi theo, nhưng Mỹ vẫn thực hiện giải pháp tàn bạo là muốn tạo nên cú sốc đột biến, một đòn cảnh cáo dữ dằn đối với các thế lực khác đang thèm muốn Tam Giác Vàng. Chúng ta là công dân nước Cộng hòa Pháp, là sĩ quan quân đội Pháp cần có hành động đáp trả để bảo vệ danh dự. Tất cả những người dự cuộc họp bất thường vào buổi đêm khuya đều tỏ bất bình về cách ứng phó tình huống phi lý và hết sức ích kỷ hại nhân của Mỹ, họ biểu đồng tình: - Chúng tôi phục tùng sự sắp xếp của chỉ huy! Rob nhắc nhở mọi người về phương châm hành động: - Mọi việc giữ nhịp độ bình thường! Bọn Mỹ muốn khử chúng ta êm thấm, chúng ta cũng chuẩn bị đón bọn sát thủ ấy một cách êm thấm. * Hen Sít-peo-mia và hai tên sát thủ đang đêm đột nhập vào phòng riêng của Trưởng ban Đại diện Pháp, chưa kịp hành động đã bị nhiều mũi phi lao giết chết, xác bị quẳng vào rừng. Pốp nhận được tin có xác chết người phương Tây ở trong rừng liền nhờ Thao Tham dẫn đến hiện trường để khám nghiệm xem người chết là Pháp hay Mỹ. Khi nhận ra cả ba xác chết đều là nhóm sát thủ Hen Sít-peo-mia, Pốp cáo cấp về Cục tình báo Trung ương. A-len Đa-lét cảm thấy niềm tự hào của CIA bị xúc phạm nặng nề, ông ta gửi điện sang Sài Gòn, lệnh cho ét-uốt Lên-xđên phái người sang Pa-đông tiếp tục xử lý công vụ và nhấn mạnh phải trừng trị ngay lập tức những tên Pháp phạm tội giết hại nhân viên CIA. Ét-uốt Lên-xđên gọi Luy-xiêng Cô-nen đến gặp phổ biến ý định của A-len Đa-lét: - Giám đốc giao cho chúng ta phải trừ khử kẻ đã ám hại tốp Hen Sít-peo-mia! Sĩ quan CIA không thể bị chết oan uổng. Cô-nen đoán ra thủ phạm vụ án xảy ra ở Pa-đông, muốn cứu bạn anh phải lập kế hoãn binh: - Tôi phải sang tận nơi tìm chứng cứ mới có thể dò tìm tung tích thủ phạm. Ét-uốt Lên-xđên xua tay tỏ ý đã biết rõ mọi chuyện xảy ra: - Theo Pốp nhận định thì người giết bọn Hen Sít-peo-mia là Rob Tơ-ranh-ki-ê. Tôi cũng có nhận định ấy. Người Pháp mất ăn, người Pháp phản ứng. Cầm đầu Phái bộ đại diện Pháp bên Vàng Pao là Rob Tơ-ranh-ki-ê. Cô-nen biết không thể đánh trống lảng, đành đi đường thẳng: - Nếu đúng là Rob gây ra vụ Pa-đông thì rất đáng tiếc. Rob là điệp viên của tôi. Anh ta đã cung cấp nhiều tin tức quan trọng, giúp tôi giải quyết ổn thỏa nhiều việc nan giải, nhất là anh ta bảo vệ tôi trước sự soi mói của bọn Phòng Hai quân đội Pháp. Anh ta trung thành. Vụ án xảy ra ở Pa-đông có thể do hoàn cảnh bức bách nào đó. Ét-uốt Lên-xđên đứng dậy, đi lại mấy vòng, dừng bên cạnh ghế Cô-nen ngồi, tỏ ý băn khoăn chưa quyết: - Rob là bạn anh lại là người do anh tổ chức nên nếu xử quá thì không thích hợp, đấy là hành động đóng cửa không tiếp nhận người vào nhà. Nhưng, anh biết đấy, A-len Đa-lét là A-len Đa-lét. Rất khó cứu Rob. Cô-nen đề nghị: - Tôi sang Pa-đông xóa dấu vết, thiết kế bằng chứng giả... Ét-uốt Lên-xđên ngắt lời: - Anh không che được mắt gã phù thủy Pôp đâu, đừng dại dột làm cái việc lạy ông tôi ở bụi này. Cô-nen khăng khăng: - Tôi muốn cứu Rob; người chết thì đã chết rồi, không nên để lương tâm cắn rứt vì người không nhất thiết chết phải chết. Đại tá hãy giúp tôi! Ét-uốt Lên-xđên tỏ vẻ băn khoăn: - Anh em nhà Đa-lét đều là những nhân vật quyết đoán tàn bạo, đặc tính ấy ở A-len còn mạnh hơn ở Phốt-xtơ. A-len Đa-lét quyết trả thù ai, người đó phải chết; cho dù là nguyên thủ quốc gia có quân đội, hiến pháp bảo vệ cũng khó thoát... Cô-nen vẫn giữ thái độ không chịu hợp tác: - Đại tá đừng đốt lửa trong lòng tôi nữa! Tôi muốn cứu Rob và quyết tâm cứu Rob. Ét-uốt Lên-xđên tán thưởng: - Một tình bạn đáng nên trân trọng! Thiếu tá đã quyết tâm cứu bạn, tôi mách kế này. Rob ở Đông Dương hay về Pháp cũng khó thoát khỏi tay bọn sát thủ của A-len Đa-lét, chỉ có một ứng giải: Sắp tới tướng Sa-lăng sẽ dẫn một sư đoàn sang tiếp viện cho quân Pháp đang sa lầy trên chiến trường An-giê-ri... Rob chỉ có một con đường sống là ẩn thân trong đạo quân viễn chinh châu Phi. Mọi bức xúc sẽ êm dịu theo thời gian. Cô-nen hớn hở đón nhận thiện chí của vị chuyên gia lật đổ: - Cảm ơn Đại tá! Tôi sẽ thu xếp việc đó! Ét-uốt Lên-xđên chuyển nội dung, đề cập nhiệm vụ chính trong chuyến Tây du của Cô-nen: - Cái chết của nhóm Hen Sít-peo-mia tạo cho ta một cơ hội vàng. Thiếu tá cần phối hợp chặt chẽ với Pốp gây sức ép với Vàng Pao để dàn xếp công vụ thuốc phiện. Nên khuyến khích Vàng Pao chuyển bản doanh về Long Chụng, tiến hành xây dựng sân bay dã chiến ở Xảm Thông, Long Chụng và các mỏm núi cao có tác dụng quân sự, lại thuận tiện vận chuyển thuốc phiện bằng đường không. Có thể Hãng hàng không Mỹ (Air America) sẽ được CIA thuê bao thầu vận chuyển thuốc phiện đi và chuyển vũ khí, vật liệu xây dựng tới cung cấp cho Vàng Pao. Tiếp đó, nếu có thể thì thực hiện đồng thời, các anh phải giúp Vàng Pao tuyển chọn thanh niên khỏe mạnh, bất kể là người Mông, người Ka-ren, Môn, Mi-an-ma, người Dao - Trung Quốc... đều có thể thu dụng, chúng ta phải xây dựng cho Vàng Pao một đạo quân bản bộ chừng một sư đoàn. Số binh sĩ do Pháp đào tạo, người nào dùng được thì tiếp tục dùng, đừng nuôi ong tay áo! Những điều ét-uốt Lên-xđên nói, những việc ét-uốt Lên-xđên làm khiến Cô-nen - một sĩ quan tình báo thông minh, nhạy bén... từng trải qua đấu trường thực tiễn gian nan thầm kính phục trong lòng. Tổng thống Ai-xen-hao quả là sáng suốt khi giao phó cho ông ta sứ mệnh “phá bỏ một chế độ, xây dựng một chế độ mới”. Cô-nen muốn lấy lòng “sếp”, cũng có thể trách nhiệm nghề nghiệp khiến anh ta bộc lộ: - Đại tá nên quan tâm tới việc Thủ hiến Bắc Kỳ vào Sài Gòn liên kết với bọn Nguyễn Văn Hinh, Bảy Viễn và các nhân sĩ khác. Họ được Bộ Tham mưu của tướng Ê-ly ngầm ủng hộ. Nguy cơ không nhỏ, vì Hinh cậy nắm quyền chỉ huy quân đội Bảo Hoàng, chúng dám hành động theo cách “sự việc đã rồi”. Ngô Đình Diệm, nhất là đại tá cần đề phòng bất trắc. Việc mưu sát có thể xảy ra. Ét-uốt Lên-xđên tiếp nhận ý kiến cảnh báo: - Rất tốt! Thiếu tá đề cập đúng vấn đề tôi băn khoăn. Tôi sẽ có giải pháp khắc phục. Cô-nen tiếp tục bộc lộ sự lo toan có tinh thần trách nhiệm cao: - Ngô Đình Diệm về Sài Gòn chẳng khác gì một người dấn bước vào khu rừng thẳm đầy rẫy lang sói. Đại tá cũng đang ở thế ấy, dù chính phủ Mỹ không để ngài đơn độc, nhưng nước xa không chữa nổi lửa gần. Cần có một lực lượng quân sự làm hậu thuẫn. Tướng Cao Đài, Trịnh Minh Thế mâu thuẫn sâu sắc với tướng Cao Đài khác là Nguyễn Văn Thành, mưu sát Thành không thành nên đã tuyên bố ly khai Cao Đài dẫn ba ngàn quân bản bộ vào rừng lập căn cứ riêng, tuyên bố chống Pháp, không hòa hợp với Việt Minh và tổ chức thành lập “Mặt trận Quốc gia liên minh”. Chó gầy hổ mặt người nuôi, Phạm Công Tắc nhiều lần phái quân đi diệt Thế nhưng chẳng làm gì nổi đành chỉ kết án suông. Thế đang ở thế: Pháp không tha, Việt Minh chẳng dung, Phạm Công Tắc hạ lệnh diệt tên phản đồ, Bảo Đại đặt Thế ra ngoài vòng pháp luật. Đại tá nên gấp rút thu nạp kẻ bơ vơ này. Ét-uốt Lên-xđên nhìn Cô-nen bằng ánh mắt mến phục không giấu giếm. Ông ta biết mình có viên ngọc ước trong tay: - Tốt! Rất tốt! Thiếu tá quả là cây đèn thần của tôi. Tôi muốn Thiếu tá luôn luôn bên cạnh mình. Tiếc rằng, không ai có thể thay Thiếu tá sang Pa-đông dàn xếp các rắc rối. Tôi mong Thiếu tá hoàn thành tốt sứ mệnh, sớm về Sài Gòn đỡ gánh nặng giúp tôi. * Đọc xong bức điện mật của Quốc trưởng Bảo Đại, Thủ hiến Bắc Kỳ Nguyễn Hữu Trí ngồi chết lặng. Na-va đúng là gã tài hèn ôm tham vọng lớn, ý tưởng chiến thắng hão huyền của ông ta đã đẩy liên quân Pháp - Việt đến bên bờ vực. Chiến trường Điện Biên Phủ là hồi chuông báo án, Hội nghị Giơ-ne-vơ là tiếng cồng trảm quyết. Tình thế có thể còn rối ren bi đát hơn nhiều. Chiều hướng một ngày một rõ ràng: Việt Nam chia làm hai miền, quân Pháp rút đi, các tham vọng hung tợn có cơ hội bành trướng. Lại cảnh máu chảy xương phơi, lại cảnh chim vỡ tổ bay tán loạn, kẻ mất mạng sống kẻ trắng tay danh lợi... Điều đó thật hiển nhiên. Ngô Đình Diệm là người thân Mỹ được đưa về Sài Gòn làm Thủ tướng thay Hoàng thân Bửu Lộc, ông ta sẽ thay đổi chấn chỉnh nội các của mình theo hướng thân Mỹ. Những người cúc cung tận tụy vì nhà nước Pháp - Việt đề huề sẽ bị loại, thậm chí bị xử trí. Nhưng, Quốc trưởng nhắc nhở: Nước Pháp chia thành hai phe: Phe chịu nhún vì sức ép của Mỹ; phe kiên quyết chống lại ý đồ “cậy mạnh lấn yếu” của chú Sam; các tướng lĩnh, các nhà tư bản ở Đông Dương chắc chắn chống lại chủ trương “nhường đường” của Nội các Măng-đét Phrăng-xơ. Quốc trưởng muốn các quan Thủ hiến Bắc Kỳ, các tướng lĩnh quân đội Bảo Hoàng phải tổ chức lực lượng, phối hợp với phái cứng rắn trong quân đội viễn chinh Pháp loại trừ khả năng “Người của Mỹ” nắm quyền Sài Gòn. Nghĩa là cơ hội tự bảo vệ vẫn còn. Nguyễn Hữu Trí viết đơn từ chức Thủ hiến Bắc Kỳ, căn dặn vợ con chuẩn bị hành trang rời chỗ ở, giao phó công việc chính quyền cho quan chức vẫn tại vị... rồi thực hiện chuyến vi hành “Nam du cứu quốc” trên chiếc xe Pơ-giô màu trắng sang trọng. Tới Huế, Nguyễn Hữu Trí tạt vào Dinh Thủ hiến Trung Kỳ Phan Văn Giáo. Trí mở đầu bằng câu nói xã giao, nâng giá trị người đối thoại: - Quốc trưởng căn dặn tôi: Vì quốc sự nguy nan, quốc kế quan trọng, rất cần sự phụng sự Tổ quốc của ngài. Có ngài hợp tác thì công cuộc bài Diệm chống Mỹ mới thành công. Sau đó Trí thông báo tình hình quân sự, chính trị... và chủ trương “phản công” của Quốc trưởng Bảo Đại. Từ lâu, Phan Văn Giáo đã nắm biết thời tiết thay đổi, nhưng thay đổi ở mức độ nào vẫn chưa lường ra. Bây giờ thì... Trời không u ám mà sao nặng chình chịch. Văn Giáo cảm thấy chân ghế đang ngồi chông chênh thế nào đó. Ông ta buông giọng cảm thán: - Tình thế xoay chuyển nhanh rứa hè? Nguyễn Hữu Trí lo Giáo thối chí, vội khích lệ: - Tình thế có xấu đi thật, nhưng không vô vọng. Chúng ta có cơ hội, có khả năng, nếu biết nắm bắt cơ hội, tập hợp khả năng thì quyền chủ động lại nằm trong tay chúng ta. Phan Văn Giáo nhìn người “nhận mệnh vua” mà như hỏi. Nguyễn Hữu Trí trình bày tình hình theo kiểu liệt kê: - Tổng tham mưu trưởng quân đội Bảo Hoàng có trong tay năm mươi ngàn lính; Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ đang có một sư đoàn bản bộ; lực lượng vũ trang của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo vẫn trung thành với ý tưởng bảo hoàng; Thiếu tướng Bảy Viễn, Tư lệnh quân Bình Xuyên đang kiểm soát Sài Gòn - Gia Định, là cận thần của Quốc trưởng, các nhân sĩ trí thức ba miền vẫn hướng về Quốc trưởng theo truyền thống tôn quân trọng đạo. Vậy là rõ, có bột hẳn gột nên hồ. Chưa rút kiếm đã vội buông tay thì đâu phải nam nhi đại trượng phu. Phan Văn Giáo hứa hẹn: - Trung Kỳ tuân theo chỉ dụ của Quốc trưởng và sự sắp xếp của ngài Thủ hiến! Nguyễn Hữu Trí tỏ thái độ khiêm tốn để gắn kết Phan Văn Giáo với chủ trương bài Mỹ - Diệm của phe bảo hoàng: - Chúng ta cùng bàn những việc nên làm. Theo tôi, quân ta phải chiếm các địa bàn chiến lược có khả năng công thủ và tự cung tự cấp. ở Trung Kỳ, khi Việt Minh rút đi, ngài nên tạo điều kiện cho quân đội của Đảng Đại Việt chiếm giữ chiến khu Ba Lòng Đà Lạt, Tây Nguyên, hải cảng Đà Nẵng là những địa bàn cần quan tâm. * Chia tay với Phan Văn Giáo, Nguyễn Hữu Trí tiếp tục con đường thiên lý gian nan, vào Sài Gòn hội kiến với Thủ hiến Nam Kỳ Nguyễn Văn Tâm; sau đó cùng Tâm đến Tổng hành dinh quân đội viễn chinh Pháp chào xã giao Đại tướng Pôn Ê-ly - Tư lệnh quân viễn chinh Pháp. Đại tướng Ê-ly dùng nghi lễ thượng khách tiếp kiến hai trong “tam trụ triều đình”. Biết chủ trương của Bảo Đại và sứ mệnh của ba viên trọng thần, Đại tướng Pôn Ê-ly khích lệ: - Chúng tôi đứng bên các ngài! Luôn luôn đứng bên các ngài! Nguyễn Hữu Trí mong muốn nhiều hơn: - Chúng tôi chờ mong sự giúp đỡ của Đại tướng! Sự liên kết Pháp - Việt là sức mạnh giúp chúng tôi tăng sức chiến đấu. Chúng tôi cần thực lực và cần cả sự hư trương. Ê-ly hiểu nội dung đề nghị ấy, ông vẫy gọi một sĩ quan cấp tá đứng lẫn trong đám tướng tá đứng theo nghi lễ vành bán nguyệt quanh Phòng khánh tiết - đó là Sa-va-ni - Trưởng phòng Hai quân đội viễn chinh Pháp. Ông ta nhìn hai vị sứ giả, nói từng lời chắc như đinh đóng cột: - Tôi và Bộ Tham mưu của tôi sẽ ủng hộ các bạn Việt Nam hết lòng hết sức. Hai ngài hãy vững tin điều đó. Chỉ cần lưu ý: Mối bang giao quốc tế phức tạp, vấn đề nọ níu kéo vấn đề kia, ý đồ này chèn lấn ý đồ nọ... chúng tôi không thể ra mặt, càng không thể công khai tuyên bố lập trường của mình. Tuy vậy, ba mươi vạn chiến binh Pháp đang ở Việt Nam luôn luôn đứng sau các ngài. - Không đợi hai vị sứ giả bày tỏ hết lời cảm ơn, Ê-ly nhìn Sa-va-ni như diều hâu nhìn gà con, nói tiếp: - Đại tướng tư lệnh quân viễn chinh Pháp giao cho ông nhiệm vụ bảo vệ an toàn, an toàn tối đa ngài Thủ hiến thượng khách của Sài Gòn. Ông hãy bàn công việc bảo vệ với Thiếu tướng tư lệnh Bình Xuyên và Giám đốc Công an Sài Gòn - Gia Định. Trước khi chia tay với hai vị thuyết khách, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương nhắc nhở: - Ngoài số quân của tướng Hinh, tướng Vỹ, hai ngài nên huy động lực lượng võ trang giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo ủng hộ chủ trương bài Diệm - Mỹ; họ là lực lượng võ trang đồng thời lại là lực lượng chính trị ở Tây Ninh và đồng bằng Cửu Long. III KẾ HOẠCH “TỈA DẦN” N guyễn Hữu Trí, Nguyễn Văn Tâm phối hợp tổ chức Hội nghị hiệp thương, thành phần gồm các tướng lĩnh, các quan chức cao cấp, các nhân sĩ trí thức, đại diện Tòa thánh Cao Đài và Hòa Hảo... Bộ Tham mưu Pháp cử Thiếu tướng Tham mưu trưởng Găm-bi-ê mặc thường phục đến dự. Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí mở đầu buổi họp bằng lời tâng bốc quân chiếm đóng: - Phái tả trong nội các Pháp phản bội chúng ta, bán rẻ chúng ta cho tham vọng Mỹ. Nhưng, Đại tướng Ê-ly và Bộ Tham mưu của ông ủng hộ chúng ta hết lòng - Trí ngừng lời, quan sát những người dự họp, thấy cần giải thích rõ nên nói tiếp: - Vì sự nhu nhược, tính toán so đo mà phái tả trong nội các Pháp - điển hình là Thủ tướng Măng-det Phờ-răng-xơ nhẫn nhịn Mỹ hết điều khoản này đến điều kiện khác khiến Quốc trưởng Bảo Đại buộc lòng chấp nhận Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng. Để vua uất ức ấy là lỗi của quần thần lo toan chưa hết việc. Hôm nay, chúng ta gặp mặt nhau tại Hội nghị này là nhằm uốn nắn, chấn chỉnh những sai lầm của chúng ta trong quá khứ. Trí này tin chắc, với sự ủng hộ của Đại tướng Ê-ly và Bộ Tham mưu của ông, nhất là sự nỗ lực của từng người chúng ta, ý tưởng “Bài Diệm - Mỹ”, phục hồi diện mạo Việt - Pháp đề huề ắt thành công. Tiếng hưởng ứng vang lên: - Nhất định thành công! Găm-bi-ê - đại diện quân viễn chinh Pháp cho thêm củi vào lò: - Các bạn lúc nào cũng chớ quên điều này: Ba mươi vạn chiến binh Pháp đứng bên các bạn. Do hạn chế về ngoại giao, Bộ Tham mưu Pháp không thể điều động quân đội rầm rộ, nhưng sẽ làm hết sức mình vì các bạn. Khi có nhu cầu chi viện, các bạn cứ đề đạt thẳng thắn như trước đây chúng ta từng đứng chung trong một chiến hào. Tiếng hưởng ứng lại vang lên: - Vi-ve12* Pháp Việt đề huề! Đề huề cái nỗi gì? Ngọc tốt không bán dạo, điều ấy người nào chẳng hiểu. Vậy mà, chiến tranh đã kết thúc, tướng và quân hoan hỉ chờ ngày lên tàu trở về với vợ con, lại có kẻ sốt sắng ủng hộ bọn ăn theo gây cuộc chiến mới, hẳn phải có mưu đồ. Cái thứ con rối múa may mà cứ làm như mình có giá. * Sau hội nghị khoáng đại, Nguyễn Hữu Trí tổ chức cuộc họp kín bàn luận các kế hoạch hành động. Người dự gồm các nhân vật chủ chốt có lực lượng quân sự trong tay hoặc có uy tín về chính trị như: Thủ hiến Nguyễn Văn Tâm, Tổng tham mưu trưởng quân đội Bảo Hoàng Nguyễn Văn Hinh, Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ, Thiếu tướng Đảng trưởng Bình Xuyên Lê Văn Viễn (Bảy Viễn), Giám đốc Công an Sài Gòn - Gia Định Lại Văn Sang, Giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc, Trung tướng Tổng chỉ huy quân Hòa Hào - Trần Văn Soái (Năm lửa) và Thiếu tướng Găm-bi-ê, đại diện Bộ Tham mưu Pháp tại Đông Dương. Các tướng lĩnh đều đã được Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí gợi ý trước về lập kế hoạch hành động riêng của mình. Đảng trưởng Bình Xuyên - Bảy Viễn thiết kế thứ kế hoạch “đánh trống la làng” theo cách hành động của bọn ma cô lưu manh trên đường phố: - Hôm Ngô Đình Diệm về, chúng ta huy động quần chúng thật đông, tổ chức linh đình chào đón Diệm. Công an Bình Xuyên làm nhiệm vụ tháp tùng Diệm về dinh Nô-rô-đôm. Nhân lúc om sòm, lộn xộn chúng tôi đưa Diệm đi luôn. Có thể biệt giam, có thể khử ngầm. Chuyện vỡ lở thì cũng đã rồi. Tổng tham mưu trưởng quân đội Bảo Hoàng Nguyễn Văn Hinh trình bày kế hoạch của quân đội: - Nếu kế hoạch của ông Bảy không thành công, quân đội sẽ thực hiện cuộc đảo chính. Nước xa không cứu được lửa gần, Mỹ muốn phản ứng cũng không kịp. Thiếu tướng Găm-bi-ê, đại diện Bộ Tham mưu quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương không tán thành thứ kế hoạch “lạy ông tôi ở bụi này”: - Kế hoạch của Thiếu tướng Bảy và Trung tướng Hinh hay nhưng sẽ gây khó cho Đại tướng Ê-ly. Chính phủ Pháp đã có nghiêm lệnh giao cho Đại tướng Ê-ly phải bảo đảm an toàn cho Diệm. Hôm Diệm về, Đại tướng của chúng tôi buộc phải ra tận sân bay nghênh đón Diệm và tháp tùng ông ta tới dinh Nô-rô đôm. Tôi đề nghị không nên thực hiện kế hoạch bắt cướp dọc đường. Kế hoạch của Trung tướng Hinh có tính khả thi nhưng phải thận trọng, kín kẽ để tránh tai tiếng tới Đại tướng Ê-ly và Bộ Tham mưu chúng tôi. Một giọng oang oang cất lên, có lẽ tiếng nói của Lại Văn Sang, Giám đốc Công an Sài Gòn - Gia Định: - Làm việc lớn há sợ tai tiếng! Thiếu tướng Găm-bi-ê - đại diện Bộ Tham mưu quân viễn chinh Pháp cảnh cáo: - Nếu các vị làm bừa các vị sẽ mất hết sự ủng hộ. Mỹ sẽ không tha các vị mà Pháp cũng đành trơ mắt đứng nhìn. Lại Văn Sang hùng hổ phản ứng theo thói anh chị: - Các ông sợ Mỹ, chúng tôi không sợ! Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí đỡ lời: - Bản chức hoan nghênh tinh thần xả thân vì đại nghĩa của ngài Giám đốc. Nhưng việc quốc gia đại sự không thể khinh suất. Giả sử kế hoạch của hai quý hữu thành công nhưng có thể duy trì thắng lợi được bao lâu? Chúng ta mất sự ủng hộ của quân đội viễn chinh Pháp, không được quần chúng đồng tình và nhất là không thể đánh vỗ mặt Mỹ. Bị cô lập chúng ta sẽ chết. Bản chức muốn có kế hoạch hoàn hảo hơn, được lòng bạn bè lại được lòng dân. Quý vị chớ quên tâm trạng của dân chúng thích cái mới, thích sự đổi mới. Hãy nên lập một kế hoạch vừa mang tính quân sự vừa mang ý nghĩa chính trị. Giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc sửa lại bộ phẩm phục. Có lẽ chiếc áo thụng màu vàng, xẻ giữa với hàng khuy lớn từ cổ xuống quá gối bị sợi dây màu đỏ buộc quá chặt nên ông ta khó vận động, hoặc cố tình khụng khiệng cho có tư thế Minh Vương. Ông ta có dáng dấp của viên tướng tuồng, chỉ duy tư tưởng là khá sắc bén: - Tui đã lãnh hội cao kiến của ngài Thủ hiến. Muốn hành động hãy lập thế. Các quý phái hãy liên minh thành một khối chính trị, theo bổn tọa chúng ta nên đồng tâm hiệp lực thành lập một tổ chức chính trị, có thể mang tên “Mặt trận thống nhất các lực lượng quốc gia”. Đây là đảng phái đối lập với chính quyền mới, cơ cấu tổ chức này vừa là có đặc tính quân sự, vừa mang ý nghĩa quần chúng. Chúng ta dựa vào tổ chức chính trị này để hành động. Năm Lửa đứng phắt dậy, chứng tỏ sự hứng thú cao độ: - Cao kiến! Tui ủng hộ sáng kiến của Đức ngài Giáo chủ. Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí tán thưởng: - Hoan nghênh cao kiến của ngài Giáo chủ. Không thể có sáng kiến nào sáng suốt, kịp thời thế hơn. Mạnh dùng sức, yếu dùng mưu, chúng ta đã có đò vượt sông. Bản chức tán thành dùng cụm từ “Mặt trận thống nhất lực lượng quốc gia” làm danh hiệu phát động phong trào đồng tâm vì đại nghĩa. Cơ cấu chính trị này sẽ mở rộng đường cho chúng ta hành động. - Hữu Trí đưa mắt quan sát tất cả các thành viên hội nghị, lên giọng hỏi: - Các quý hữu có suy nghĩ gì khác không? Tất cả đồng thanh: - Không! Chúng tôi ủng hộ cao kiến của Đức ngài Giáo chủ. Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí hướng ánh mắt về phía Găm-bi-ê, đại diện Bộ Tham mưu quân viễn chinh Pháp hỏi: - Tôi muốn biết ý kiến của tướng quân? Đại diện Pháp Găm-bi-ê đáp: - Các vị đã có ý tưởng rất tuyệt. Thủ hiến Bắc Kỳ Nguyễn Hữu Trí đứng dậy, bằng giọng trịnh trọng, ông ta nói: - Được sự ủy quyền của Quốc trưởng Bảo Đại, nhân danh vì quyền lợi đất nước, bản chức đề cử ngài Giáo chủ Phạm Công Tắc làm Trưởng ban trù bị thành lập Mặt trận thống nhất các lực lượng quốc gia, các ủy viên gồm có đại diện các đảng phái: Tướng quân Trần Văn Soái, tướng quân Lê Văn Viễn (Bảy Viễn). Quý vị nên mời các nhân sĩ, thủ lĩnh đảng phái khác tham gia như Vũ Hồng Khanh (Quốc dân Đảng), Nghiêm Xuân Thiêm (Đại Việt) - họ đại diện cho Bắc Hà; các vị Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân đại diện Nam Hà. Năm Lửa bộp chộp tiếp lời: - Quan Thủ hiến đề cử đúng lắm! Thằng Hồ Hữu Tường, thằng Trần Văn Ân là nhà báo. Mồm mép bọn nhà báo thì thánh lắm, chúng sẽ bôi bác đủ mánh để cổ vũ cho Mặt trận của chúng ta. * Ban trù bị lên phương án thành lập “Mặt trận thống nhất các lực lượng quốc gia”. Nhân sự được sắp xếp gồm nhiều giai tầng xã hội: Chủ tịch: Hộ pháp Phạm Công Tắc - Giáo chủ Cao Đài. Phó Chủ tịch: Trung tướng Trần Văn Soái - Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang Hòa Hảo. ủy viên quân sự: Thiếu tướng Bảy Viễn - Đảng trưởng Bình Xuyên kiêm Chủ tịch Mặt trận Bình dân. Tham mưu trưởng liên quân: Trung tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt) - lãnh tụ Dân Xã Đảng. ủy viên đặc nhiệm: Hồ Hữu Tường. Trần Văn Ân - đại diện Đảng Xã hội. Đại tá Lơ-roi (gã Tây lai Tàu) - lãnh tụ lực lượng thanh niên bảo vệ Thiên chúa giáo ở Bến Tre. Trương Tử Anh - chỉ huy lực lượng vũ trang Đại Việt miền Trung. Ngoài ra đủ mặt các nhân vật do Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí giới thiệu. Ban bệ này sẽ ra mắt nay mai. * Ét-uốt Lên-xđên có một tai mắt lợi hại ngày đêm bám sát Đại tướng Pôn Ê-ly. Đó là Mác-tanh, anh ta được Luy-xiêng Cô-nen chiêu mộ từ năm 1948, khi cùng làm việc tại Bộ Tham mưu Pháp ở Đông Dương. Pôn Ê-ly nhận chức Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương liền dùng Mác-tanh làm sĩ quan trợ lý. Như vậy, mọi biến động trong Bộ Tham mưu Pháp không thoát khỏi tầm kiểm soát của chuyên gia lật đổ. Nhận được mật thư của Mác-tanh báo tin phe thân Pháp chuẩn bị thành lập tổ chức chính trị “Mặt trận thống nhất các lực lượng quốc gia”, ét-uốt Lên-xđên triệu tập cuộc họp khẩn cấp bàn kế đối phó. Những người được mời gồm có: Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Thục, Lê Khắc Duyệt, Nguyễn Ngọc Thơ, Ngô Trọng Hiếu, Đỗ Mậu, Trần Kim Tuyến...; đặc biệt, một người đàn bà sành sỏi (sau đó thao túng chính trường Sài Gòn) cũng được mời tới dự cuộc họp kín hết sức quan trọng, đó là Trần Lệ Xuân - vợ Ngô Đình Nhu. Ét-uốt Lên-xđên mở đầu buổi họp bằng lời cảm ơn theo thông lệ rồi vào đề ngay: - Sắp tới ngày Thủ tướng Ngô Đình Diệm về nước nhận chức, phe bảo thủ thân Pháp sẽ nhân cơ hội chúng ta chưa tổ chức được lực lượng bảo vệ mà hành động. Bọn bảo hoàng thân Pháp chia kế hoạch hành động ra ba giai đoạn: Gây lộn xộn trong buổi đón tiếp tân Thủ tướng, nhân cơ hội bắt cóc Thủ tướng; kế hoạch này thất bại, chúng sẽ tiến hành đảo chính quân sự; kế hoạch cuối cùng là tập hợp các phe phái bảo hoàng thân Pháp thành lập “Mặt trận thống nhất lực lượng quốc gia” kết hợp đấu tranh quân sự với chính trị... - ét-uốt Lên-xđên ngừng lời giây lát để chuyển mạch bằng một dự đoán khá thông minh: - Các ngài và người Mỹ chúng tôi sẽ vất vả nhiều về thứ tạp nham, hung hãn và bảo thủ này. Tuy vậy, có cả nước Mỹ đứng phía sau, chúng ta dám xông pha, dám chấp nhận tất cả, vì chúng ta sẽ thắng. Chưa ai kịp phản ứng, kể cả Ngô Đình Nhu là kẻ chứa trong bụng hàng ngàn mưu thâm mẹo hiểm, thì Trần Lệ Xuân đã hăng hái lên tiếng: - Cần khẩn trương xây dựng lực lượng, huy động lực lượng chống lại, diệt hết. Chúng ta có quyết tâm lại được nước Mỹ ủng hộ, chúng ta dám chơi xả láng. Ét-uốt Lên-xđên hoan hỉ hưởng ứng: - Bà đã mở cho chúng tôi một giải pháp, một con đường nên đi, cần đi! - Ông ta hơi vươn người lên để lấy tư thế đàng hoàng, nhìn mọi người nói tiếp: - Tôi muốn các vị thông báo tình hình thực hiện kế hoạch khởi đầu của từng miền, từng ngành. - Ông ta nhìn về hướng Ngô Đình Nhu nhấn mạnh: - Trước hết, chúng ta đề cập vấn đề tổ chức nhân sự. Ngô Đình Nhu với dáng vẻ thư sinh hơn là tên đao phủ khét tiếng của chính quyền Ngô Đình Diệm sau này, lên tiếng: - Nhờ kinh phí của chính phủ Mỹ viện trợ, tui đã hoàn thành công việc trù bị thành lập Đảng Cần Lao Nhân vị ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. Số người tình nguyện đăng ký nhập Đảng, đã qua thẩm tra xét duyệt của Ban trù bị địa phương ở Trung Kỳ là ngót ba ngàn đảng viên, ở Sài Gòn là chín trăm đảng viên; ở giáo khu Bình Long là hai ngàn đảng viên. Theo Ban trù bị địa phương cho biết thì số đảng viên sẽ tăng gấp đôi trong vài tháng, khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức nhậm chức thì có khả năng tăng gấp nhiều lần. Chẳng hiểu Trần Lệ Xuân đánh giá thực trạng hay muốn tăng gia vị cho món ăn lạ miệng: - Không thiếu kẻ lựa gió bẻ buồm. Bọn đợi nhà đám soạn cỗ xong mới thủng thỉnh mò đến là bọn cơ hội! Điền chủ Nguyễn Ngọc Thơ - Phó tổng thống trong tương lai đỡ lời: - Cũng không thể trách cứ họ. Chúng ta theo đuổi mục tiêu chính trị này là lý tưởng của chúng ta. Còn họ? Họ cần có chỗ dựa vững chắc để đặt niềm tin. Ét-uốt Lên-xđên nhìn Nhu, hỏi: - ở Sài Gòn và vùng phụ cận, ông có bao nhiêu đảng viên có thể tin cậy? Ngô Đình Nhu đáp: - Bốn trăm năm mươi người! Ét-uốt Lên-xđên hướng ánh mắt về phía Lê Khắc Duyệt - tên ác ôn sẽ làm Giám đốc Công an Trung Kỳ thời Cộng hòa đệ nhất, đã làm nhiều việc phục vụ những ngày đầu chuẩn bị đón Ngô