🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Hợp Tác Xã Kiểu Mới Điển Hình Tiên Tiến
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG
Phó Chủ tịch Hội đồng
Q. Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
NGUYỄN ĐỨC TÀI
NGUYỄN NGUYÊN
NGUYỄN HOÀI ANH
2
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Ở nước ta, trong nhiều năm qua, kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, tại Đại hội XII, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Khuyến khích phát triển bền vững kinh tế hợp tác, nòng cốt là hợp tác xã với nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng; nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác hiệu quả”.
Từ năm 1986 đến nay, Quốc hội đã ba lần thông qua và ban hành Luật Hợp tác xã vào các năm 1996, 2003 và 2012 nhằm điều chỉnh pháp luật về hợp tác xã phù hợp với tình hình thực tế. Đặc biệt, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã thể hiện rõ hơn bản chất của hợp tác xã là được thành lập trên cơ sở tự nguyện, hợp tác, bình đẳng, đồng sở hữu, tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên hợp tác xã, nhằm mang lại lợi ích cho thành viên thông qua đáp ứng nhu cầu chung của thành viên về kinh tế, xã hội và văn hóa. Ngoài ra, Luật Hợp tác xã năm 2012 cũng làm rõ hơn về các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước. Chính vì vậy, dù chỉ mới ra đời nhưng Luật Hợp tác xã năm 2012 đã tạo động lực to lớn, thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển. Các hợp tác xã cũ thực hiện chuyển đổi, các hợp tác xã thành lập theo mô hình hợp tác xã kiểu mới đã thực sự giúp các hộ thành viên sản xuất, kinh
5
doanh hiệu quả hơn, đặc biệt là quy hoạch sản xuất theo nhu cầu thị trường và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Nhằm giới thiệu với bạn đọc trong cả nước về các mô hình hợp tác xã kiểu mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Những hợp tác xã kiểu mới điển hình tiên tiến.
Nội dung cuốn sách gồm hai phần: Phần thứ nhất bao gồm một số bài viết về vai trò, vị trí, kinh nghiệm phát triển hợp tác xã thời gian qua và xu hướng phát triển hợp tác xã trong thời gian tới. Phần thứ hai giới thiệu khái quát 19 hợp tác xã kiểu mới điển hình tiên tiến, đã được giới thiệu trong cuốn sách Những hợp tác xã kiểu mới điển hình giai đoạn 2014-2016 do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì biên soạn. 19 hợp tác xã được giới thiệu hiện đang hoạt động trong các lĩnh vực thương mại - dịch vụ, thủ công nghiệp, nông nghiệp và có tính đến tiêu chí đại diện cho các vùng, miền trong cả nước. Trong phần này, 03 hợp tác xã được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới được xếp lên đầu tiên; các hợp tác xã còn lại được sắp xếp theo thứ tự A, B, C tên tỉnh, thành phố.
Thực tiễn phát triển kinh tế hợp tác ở nước ta rất phong phú, các mô hình hợp tác xã kiểu mới có hiệu quả rất đa dạng, trong phạm vi một cuốn sách khó có thể giới thiệu được đầy đủ. Nhà xuất bản rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản tiếp theo.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 8 năm 2018
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
Phần thứ nhất
HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI - CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH VÀ XU HƯỚNG
PHÁT TRIỂN
7
PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI - KHÂU ĐỘT PHÁ ĐỂ CƠ CẤU LẠI NÔNG NGHIỆP VÀ NÂNG CAO THU NHẬP BỀN VỮNG CHO NGƯỜI NÔNG DÂN
GS.TS. Nguyễn Thiện Nhân
Hơn 20 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng như: năng suất các loại cây, con không ngừng tăng lên, trong đó có trên 10 loại cây, con có năng suất sinh học thuộc nhóm cao nhất thế giới (cá tra, điều, tiêu, cà phê, dừa, cao su, gạo...); sản lượng nhiều sản phẩm tăng nhanh, trong đó có 10 loại nông phẩm xuất khẩu đứng vào tốp 5 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới (tiêu - thứ nhất, điều - thứ hai, cà phê - thứ hai, sắn khô - thứ hai, rau quả tươi - thứ hai, dừa - thứ hai, gạo - thứ ba, thủy sản - thứ ba, cao su - thứ ba, chè - thứ ba).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng đó, có 4 bất cập vẫn tồn tại kéo dài: Một là, hiện tượng được mùa rớt giá năm nào cũng xảy ra; Hai là, thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên với hầu hết các hộ nông dân, mặc dù đã có chính sách hỗ trợ của Nhà nước; Ba là, thu nhập của nông dân thấp hơn đáng kể so với lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp chiếm khoảng 47% lao động, nhưng chỉ đóng góp 19% vào tổng sản phẩm quốc nội, tức là năng suất lao động hay thu nhập bình quân
8
của một nông dân chưa bằng 1/3 của người lao động trong công nghiệp và dịch vụ; Bốn là, xuất khẩu nông sản không ổn định về giá cả và sản lượng, bị động trong tiêu thụ. Nhằm tháo gỡ các nút thắt đối với sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp, ngày 10-6-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 899/2013/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Để đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu nông nghiệp, cần làm rõ nguyên nhân của 4 bất cập kéo dài nói trên.
I. NGUYÊN NHÂN TỔNG QUÁT CỦA CÁC BẤT CẬP KÉO DÀI TRONG NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những bất cập kéo dài trong nông nghiệp Việt Nam, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất, đó là sự không tương thích giữa quan hệ sản xuất và tổ chức sản xuất của nông nghiệp với điều kiện kinh tế thị trường hiện nay và hội nhập quốc tế.
Đa số hộ nông dân ở nước ta, những đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp, rất nhỏ về tiềm lực kinh tế, sản xuất đơn lẻ và không tương thích với kinh tế thị trường và hội nhập hiện nay. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2011 nước ta có 11,9 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, trong đó 35% số hộ có diện tích canh tác dưới 0,2 ha, tương đương một mảnh đất có chiều rộng 40 m và chiều dài 50 m,
9
69% số hộ có diện tích canh tác dưới 0,5 ha và 80% số hộ nông dân có diện tích canh tác dưới 1 ha, chỉ 20% số hộ có diện tích canh tác lớn hơn 1 ha. Cả nước có 10,36 triệu hộ trồng cây hàng năm, bình quân mỗi hộ chỉ có 0,62 ha; 5,1 triệu hộ trồng cây lâu năm, bình quân mỗi hộ chỉ có 0,7 ha. Cả nước có hơn 4 triệu hộ nuôi lợn thì 77% số hộ nuôi dưới 5 con, có 7,9 triệu hộ nuôi gà thì 90% số hộ nuôi dưới 49 con.
Hiện nay, bình quân một hộ nông dân có 2 lao động và 2 người phụ thuộc. Trong tổng số 21 triệu lao động nông nghiệp thì 97,05% không được đào tạo hay có chứng chỉ về nghề nghiệp, chỉ có 1,5% được đào tạo trình độ sơ cấp, 1,23% trình độ trung cấp và 0,21% trình độ cao đẳng, đại học. Như vậy, lực lượng chủ lực của nông nghiệp nước ta là hơn 12 triệu hộ nông dân, với bình quân chỉ có 2 lao động/hộ, hầu hết chưa qua đào tạo nghề, diện tích đất canh tác thì 80% dưới 1 ha, thiếu vốn thường xuyên. Nếu canh tác độc lập, riêng lẻ thì sức mạnh kinh tế của hộ nông dân rất nhỏ bé, khả năng chịu đựng rủi ro rất thấp, tình trạng thoát nghèo rồi tái nghèo rất dễ xảy ra. Để liên kết các hộ nhỏ lẻ thành các đơn vị kinh tế lớn hơn, từ lâu chúng ta đã có chủ trương và chỉ đạo hình thành các hợp tác xã. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nên có một thời gian dài nhận thức của chúng ta về bản chất và vai trò của hợp tác xã trong nông nghiệp chưa phù hợp với quy luật phát triển hợp tác xã ở các nước khác trong hơn 150 năm qua. Vì vậy, tác dụng và hiệu quả của hợp tác xã còn hạn chế.
10
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ban Kinh tế Trung ương, hiện nay cả nước có hơn 10.000 hợp tác xã nông nghiệp, thu hút khoảng 45% lao động nông nghiệp. Đa số các hợp tác xã chỉ cung cấp một số đầu vào cho thành viên hợp tác xã như giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi, nhưng hơn 90% hợp tác xã không quan tâm đến điều thành viên hợp tác xã quan tâm nhất là tiêu thụ sản phẩm của hộ thành viên hợp tác xã. Hiện nay, các hợp tác xã hoạt động hiệu quả chỉ liên kết, hỗ trợ được khoảng 5% số hộ nông dân cả nước, còn 95% số hộ thực chất là sản xuất theo phương thức tự phát: tự quyết định trồng cây gì, nuôi con gì, bán sản phẩm không theo hợp đồng cho thương nhân, không biết trước ai sẽ mua, mua theo giá nào, mua với khối lượng bao nhiêu. Do nhận thức về hợp tác xã còn rất khác nhau ở các địa phương nên quy mô hợp tác xã và số lượng các dịch vụ hợp tác xã cung cấp cũng rất khác nhau. Ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, nhiều hợp tác xã được thành lập từ nhiều năm qua có quy mô liên thôn hoặc toàn xã, nhiều hợp tác xã có hơn 1.000 thành viên hợp tác xã. Trong khi đó, hầu hết các hợp tác xã thành lập 5 năm qua ở Hà Tĩnh chỉ có 7-20 thành viên hợp tác xã, ở An Giang, Vĩnh Long bình quân mỗi hợp tác xã có vài chục thành viên.
Trong bối cảnh 95% số hộ nông dân không được các hợp tác xã dự báo nhu cầu sản phẩm, quy hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho họ thì các đòi hỏi
11
rất hợp lý về nguyên tắc, chính sách hỗ trợ cho nông dân và các đòi hỏi của hội nhập quốc tế đối với 12 triệu hộ nông dân là khó khả thi. Hiện nay đang tồn tại sáu mâu thuẫn sau:
Một là, sản xuất trong cơ chế thị trường song lại không biết nhu cầu thị trường. Với quy mô bình quân mỗi hộ nông dân có 2 lao động, diện tích canh tác không quá 1 ha, 97% số lao động không qua đào tạo nghề nghiệp thì các hộ này không đủ khả năng nghiên cứu thị trường, không thể dự báo thị trường và lập kế hoạch sản xuất của mình theo nhu cầu thị trường. Chúng ta yêu cầu nông dân phải sản xuất theo nhu cầu thị trường, nhưng thực tế 12 triệu hộ nông dân này không thể biết nhu cầu thị trường là gì, là bao nhiêu, ở đâu. Chỉ có hợp tác xã và các doanh nghiệp có bộ phận chuyên trách được đào tạo về phân tích thị trường và sử dụng thông tin thị trường do các cơ quan nhà nước cung cấp thì mới có thể xác định được nhu cầu thị trường.
Hai là, hộ nông dân cần vay vốn nhưng không đủ điều kiện vay vốn. Một hộ nông dân với 2 lao động, đất canh tác không quá 1 ha, không có tài sản thế chấp, không có tư cách pháp nhân, không thể là đối tác thực sự tin cậy của các ngân hàng để được vay theo chính sách ưu đãi của Nhà nước. Ngân hàng không thể cho 12 triệu hộ nông dân riêng lẻ như vậy vay mà tin rằng có thể thu hồi vốn ở hầu hết các trường hợp. Chỉ khi các hộ liên kết lại thành hợp tác xã, hợp tác xã hướng dẫn cho thành viên sản xuất
12
theo kế hoạch, tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng hợp tác xã đã ký kết, giám sát, giúp nhau áp dụng giống và kỹ thuật mới, khi đó các ngân hàng mới có thể cho họ vay thông qua sự bảo đảm bằng các kế hoạch sản xuất - kinh doanh của hợp tác xã. Hiện nay, việc cho hộ ngư dân vay để đóng tàu mới đã yêu cầu hộ ngư dân phải là thành viên của hợp tác xã hoặc tổ sản xuất ngư dân trên biển.
Ba là, năng suất tăng liên tục song thu nhập tăng rất chậm. Một hộ nông dân với 2 lao động, đất canh tác không quá 1 ha, phải làm để nuôi 4 người là điều rất khó khăn. Theo kinh nghiệm quốc tế, để nông dân có thu nhập nuôi được mình và gia đình với mức sống trung bình, bình quân một hộ phải có ít nhất 2 ha đất. Trong bối cảnh không thể tăng được diện tích đất canh tác, các hộ nông dân ở nước ta chỉ còn một con đường ngắn hạn là tăng năng suất cây, con, hoặc dài hạn là phải chuyển đổi sang nuôi, trồng các cây, con có hiệu quả cao hơn. Với sự lao động cần cù, sáng tạo của nông dân cả nước, năng suất các cây, con chủ lực của nước ta không ngừng tăng lên. Ví dụ như trồng lúa, năm 1992 năng suất bình quân của châu Á là 2,95 tấn/ha, còn của nước ta là 2,5 tấn/ha. Đến năm 2012, năng suất lúa bình quân của châu Á tăng lên 4,5 tấn/ha, của Việt Nam đã tăng lên 5,63 tấn/ha. Như vậy, trong vòng 20 năm, năng suất lúa bình quân của châu Á tăng 1,55 tấn/ha, còn của Việt Nam là 3,13 tấn/ha, vì vậy từ chỗ năng suất lúa của Việt Nam thấp hơn
13
châu Á 0,45 tấn/ha, đến nay đã cao hơn 1,13 tấn/ha. Việt Nam đã nằm trong số các nước có năng suất lúa bình quân cao nhất thế giới. Cá tra của Việt Nam có năng suất bình quân 270 tấn/ha, đứng đầu thế giới, còn nước đứng thứ 2 là Indonesia có năng suất 107 tấn/ha, thứ 3 là Thái Lan với 78 tấn/ha. Năng suất của Philippines là 10 tấn/ha, còn của Mỹ là 5 tấn/ha. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là, vì sao năng suất lúa và cá tra của nước ta không ngừng tăng lên, thuộc hàng đầu thế giới, mà người trồng lúa và nuôi cá tra vẫn có thu nhập thấp, là biểu hiện cụ thể của nguy cơ “bẫy thu nhập trung bình”. Nếu năng suất tăng, song giá các nguyên vật liệu đầu vào cũng tăng, giá đầu ra không tăng, thậm chí giảm, thì thực tế thu nhập của người nông dân không tăng bao nhiêu.
Một hộ nông dân với 2 lao động, đất canh tác không quá 1 ha, không có tư cách pháp nhân, thiếu vốn, không thể có tư thế để đàm phán với người bán các yếu tố đầu vào cho sản xuất như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y. Hộ nông dân mua với số lượng ít, đến vụ phải mua, vì không mua sẽ quá thời vụ thì việc từng hộ nông dân bị ép giá mua cao là tất yếu. Từng hộ nông dân với sản lượng ít không thể ký hợp đồng cung cấp sản phẩm cho các siêu thị, trung tâm thương mại mà phải bán cho các tư thương. Các hộ nông dân riêng lẻ không thể đàm phán với tư thương giá bán đầu ra, vì họ bán rất ít sản phẩm, đến vụ phải thu hoạch cho nên họ phải bán để có tiền trả nợ vay đầu vụ sản
14
xuất, để lâu càng giảm giá, nên hộ nông dân bị ép giá bán đầu ra thấp là tất yếu.
Thị trường đầu vào và đầu ra các sản phẩm nông nghiệp nước ta thực chất không phải là thị trường cạnh tranh mà là thị trường do người bán đầu vào, người mua đầu ra chi phối, còn hộ nông dân sản xuất riêng lẻ thì yếu thế, không bình đẳng, chịu thiệt thòi. Giá đầu vào cao, giá đầu ra thấp là hai gọng kìm kẹp chặt thu nhập của các hộ nông dân. Chính vì vậy, mặc dù năng suất cây, con có thể không ngừng tăng, song thu nhập của các hộ nông dân không tăng bao nhiêu. Chỉ có hợp tác xã với sức mua gấp hàng chục, hàng trăm lần một hộ mới có sức mạnh kinh tế để lựa chọn doanh nghiệp bán đầu vào và mua đầu ra, đàm phán về giá cả. Có thể nói, 12 triệu hộ nông dân đơn lẻ là 12 triệu hộ nông dân yếu thế trên thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Nếu bình quân cứ 100-300 hộ thành lập một hợp tác xã thì từ 12 triệu hộ nông dân sẽ hình thành 40.000-120.000 hợp tác xã là những pháp nhân kinh tế, có sức mạnh kinh tế, để thực sự tạo ra thị trường đầu vào, đầu ra có tính cạnh tranh. Chỉ khi đó, năng suất nuôi, trồng tăng mới dẫn đến tăng thu nhập thực sự cho người nông dân.
Bốn là, nông dân cần liên kết với doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, song mỗi doanh nghiệp không thể liên kết trực tiếp với hàng vạn hộ nông dân riêng lẻ. Một trong những giải pháp có thể hỗ trợ người nông dân là các
15
doanh nghiệp liên kết với hộ nông dân để sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nhưng với năng lực có hạn, một doanh nghiệp cũng khó mà cùng một lúc liên kết với 1.000 hoặc 5.000 hộ nông dân để hướng dẫn họ sản xuất cùng một loại cây, nuôi cùng một loại con và giám sát họ hàng ngày thực hiện quy trình sản xuất hiện đại, đồng bộ. Tập đoàn Lộc Trời (trước đây là Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang) là một ngoại lệ. Với tình cảm sâu sắc với nông dân, Tập đoàn đã ký hợp đồng liên kết với hơn 20.000 hộ nông dân ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long để sản xuất trên các cánh đồng lớn. Tập đoàn hỗ trợ nông dân về giống chất lượng cao, hướng dẫn quy trình sản xuất hiện đại và tiêu thụ hết lúa cho nông dân. Để làm được điều này, Tập đoàn phải phát triển một đội ngũ hướng dẫn viên ruộng đồng (kỹ thuật viên “3 cùng”) gồm hơn 1.200 người là các cán bộ tốt nghiệp trung cấp hoặc cao đẳng nông nghiệp, bình quân một hướng dẫn viên hướng dẫn 20-25 hộ nông dân. Song, đến nay Tập đoàn cũng không thể mở rộng cách làm này hơn nữa mà đã đề xuất cần thành lập các hợp tác xã kiểu mới để nông dân tự quản. Tập đoàn vẫn hỗ trợ nông dân và tiêu thụ sản phẩm cho hợp tác xã, song đối tác của Tập đoàn không phải hàng vạn hộ nông dân mà chỉ là các hợp tác xã. Hiện nay Tập đoàn Lộc Trời đang triển khai kế hoạch hỗ trợ thành lập khoảng 200 hợp tác xã nông nghiệp từ 20.000 hộ nông dân đã liên kết với Tập đoàn thời gian trước.
16
Năm là, thị trường đòi hỏi sản phẩm nông nghiệp phải có chứng nhận chất lượng sản phẩm và xuất xứ hàng hóa, song các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm không thể giám sát trực tiếp hàng triệu hộ nông dân riêng lẻ với diện tích đất canh tác bình quân không quá 1 ha mỗi hộ. Sản phẩm của nông dân muốn tiêu thụ với quy mô lớn và xuất khẩu phải có chứng nhận chất lượng sản phẩm và xuất xứ hàng hóa, đây là đòi hỏi hợp lý. Song, không một tổ chức kiểm tra và chứng nhận chất lượng sản phẩm nào có thể kiểm tra, cấp chứng nhận và tái kiểm tra chất lượng cho 12 triệu hộ nông dân với quy mô canh tác không quá 1 ha, chỉ có 2 lao động, trồng nhiều loại cây, nuôi nhiều loại con khác nhau. Bản thân chi phí để đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, kiểm định và chứng nhận chất lượng sản phẩm sẽ là quá cao đối với từng hộ nông dân. Chỉ có hợp tác xã với quan hệ chặt chẽ với thành viên hợp tác xã, hướng dẫn và giám sát lẫn nhau, với quy hoạch sản xuất có tính ổn định, với lực lượng chuyên trách về khoa học, công nghệ, có tư cách pháp nhân mới là đối tác của các tổ chức kiểm tra và chứng nhận về chất lượng sản phẩm, chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Sáu là, nông dân cần ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, song các tổ chức nghiên cứu, dịch vụ khoa học - công nghệ không thể hướng dẫn trực tiếp cho hàng triệu hộ riêng lẻ với diện tích đất canh tác bình quân không quá 1 ha
17
và nuôi trồng những loại cây, con khác nhau. Thực tế đặt ra đòi hỏi người nông dân phải liên kết với các nhà khoa học. Các cơ quan nghiên cứu khoa học, lực lượng khuyến nông của Nhà nước không nhiều, kinh phí hạn chế, các nhà khoa học, cán bộ khuyến nông không thể đi hướng dẫn, chuyển giao công nghệ cho 12 triệu hộ nông dân với diện tích canh tác bình quân không quá 1 ha, lại có thể trồng các loại cây, nuôi các loại con khác nhau. Chỉ khi có hợp tác xã với các hộ cùng trồng một loại cây, nuôi một loại con, với một số cán bộ kỹ thuật của chính mình, mới là các đối tác của các nhà khoa học và cán bộ khuyến nông để có thể chuyển giao giống mới và tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới có hiệu quả.
Tóm lại, chừng nào mà nền sản xuất nông nghiệp nước ta còn chủ yếu vẫn là các hộ riêng lẻ, không liên kết với nhau, thì 12 triệu hộ nông dân vẫn mãi là 12 triệu hộ yếu thế và các yêu cầu rất hợp lý về hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp, các chính sách về tín dụng, đào tạo, liên kết với các nhà khoa học sẽ rất khó thực thi, 6 mâu thuẫn nói trên đã tồn tại hàng chục năm sẽ tiếp tục tồn tại. Các hộ nông dân với diện tích đất canh tác bình quân không quá 1 ha, chỉ có 2 lao động, 97% chưa được đào tạo nghề, thiếu vốn, không thể thực hiện đồng thời 3 chức năng của đơn vị kinh tế trong cơ chế thị trường: nghiên cứu thị trường, quy hoạch sản xuất theo nhu cầu thị trường và lợi thế của mình, tổ chức sản xuất hiệu quả cao và tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Thực tế, các hộ nông
18
dân Việt Nam chỉ có thể làm được chức năng là tổ chức sản xuất hiệu quả cao, song không thể làm được 2 chức năng: nghiên cứu thị trường, quy hoạch sản xuất theo nhu cầu thị trường và tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Giải pháp cơ bản cho các mâu thuẫn này chính là thành lập các hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012 và các hợp tác xã kiểu mới do nông dân sáng tạo đã ra đời trước năm 2012.
II. ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA hợp tác xã - XÂY DỰNG CÁC hợp tác xã KIỂU MỚI LÀ KHÂU ĐỘT PHÁ
Với Luật Hợp tác xã năm 2012 và các hợp tác xã kiểu mới - kết quả sáng tạo của một bộ phận nông dân, chúng ta đang có cơ hội chuyển giai đoạn phát triển của nông nghiệp nước nhà ngay khi bước vào hình thành Cộng đồng ASEAN và hội nhập quốc tế về kinh tế với quy mô chưa từng có khi tham gia các Hiệp định thương mại tự do với các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với Cộng đồng châu Âu, Liên minh Á - Âu và với các nước khác.
Với Luật Hợp tác xã năm 2012, nhận thức của chúng ta về hợp tác xã nói chung và hợp tác xã nông nghiệp nói riêng đã thay đổi căn bản, không còn trái mà đã phù hợp với quy luật phát triển hợp tác xã của thế giới 150 năm qua.
Theo Luật Hợp tác xã năm 2003, thực chất hợp tác xã được hiểu như một doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, mà xã viên là công dân
19
Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, hoặc cán bộ, công chức nhà nước, hay hộ gia đình và các pháp nhân tán thành Điều lệ hợp tác xã, góp vốn, góp sức, tự nguyện gia nhập hợp tác xã. Xã viên có nghĩa vụ góp vốn theo quy định của Điều lệ hợp tác xã, song cũng có quyền chuyển nhượng vốn góp và quyền lợi, nghĩa vụ của mình cho người khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã. Xã viên có 11 quyền, trong đó quyền đầu tiên là “Được ưu tiên làm việc cho hợp tác xã và được trả công lao động theo quy định của Điều lệ hợp tác xã”, quyền thứ hai là “Hưởng lãi chia theo vốn góp, công sức đóng góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã”. Như vậy, xã viên thực chất là người làm công cho hợp tác xã, được trả công và chia lãi theo vốn góp. Hợp tác xã điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đây là điều trái với quy luật ra đời và phát triển hợp tác xã sản xuất của thế giới.
Năm 1844 (cách đây hơn 170 năm), hợp tác xã đầu tiên trên thế giới ra đời tại Anh do 28 người thợ dệt thành lập. Năm 1849, Hội nguyên liệu - thực chất là hợp tác xã đầu tiên được thành lập tại Đức để cung cấp các yếu tố đầu vào cho các thợ giày và thợ mộc đang có nguy cơ phá sản vì không cạnh tranh được với các công ty đồ gỗ và công ty giày do chi phí nguyên liệu sản xuất cao. Khi các thợ dệt, thợ giày và thợ mộc thành lập hợp tác xã, họ vẫn tiếp tục là các hộ sản xuất cá thể, song thông qua hợp tác xã để cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất của mình (thậm chí cả thức ăn cho người lao động) với giá thấp hơn,
20
chất lượng tốt hơn là từng người họ có thể tự tìm mua được. Riêng các hợp tác xã nông nghiệp, thông qua việc mua các yếu tố đầu vào với số lượng lớn, khả năng đàm phán cao hơn các hộ cá thể, có thể cung cấp giống, phân bón, hóa chất, thức ăn chăn nuôi, xăng dầu, máy móc rẻ hơn cho các hộ thành viên hợp tác xã. Hợp tác xã cũng có thể hình thành bộ phận sửa chữa máy móc nông nghiệp, xây dựng nhà kho, bảo quản nông sản đáp ứng nhu cầu của các hộ thành viên hợp tác xã.
Nguyên tắc chung là: cái gì hợp tác xã làm có lợi hơn là thành viên hợp tác xã tự làm, hoặc cái gì thành viên hợp tác xã không thể làm được thì hợp tác xã làm, qua đó làm cho sản xuất của các hộ thành viên hợp tác xã hiệu quả cao hơn (mua vật tư trên thị trường; dịch vụ làm đất, thủy lợi; vay vốn cho sản xuất; tổ chức dạy nghề cho người dân; nghiên cứu nhu cầu thị trường và quy hoạch trồng cây, nuôi con phù hợp với nhu cầu thị trường; tiêu thụ sản phẩm cho hộ thành viên; xây dựng nhà kho, chế biến sản phẩm; xây dựng các quỹ dự phòng rủi ro). Bản thân các hộ thành viên hợp tác xã vẫn là người sản xuất trực tiếp, sản phẩm cây, con mà họ làm ra thuộc sở hữu của họ, không phải của hợp tác xã. Hợp tác xã không phủ định, thay thế kinh tế hộ, mà làm cho kinh tế hộ hiệu quả hơn, có sức cạnh tranh cao hơn, thu nhập của hộ thành viên hợp tác xã cao hơn.
Từ thực tiễn hơn 150 năm tồn tại của các hợp tác xã sản xuất ở Đức, có thể thấy họ có 4 đặc điểm rất
21
khác các hợp tác xã của Việt Nam theo Luật Hợp tác xã năm 1996, năm 2003 và giai đoạn trước năm 2012. Thứ nhất là sở hữu kép. Các thành viên hợp tác xã sở hữu tư liệu sản xuất của riêng mình (đất đai, chuồng trại, gia súc, nông cụ,...) để có thể trực tiếp tiến hành nuôi, trồng, chế biến, làm ra sản phẩm của mình, đồng thời sở hữu một phần vốn của hợp tác xã để hợp tác xã thực hiện cung cấp các dịch vụ đầu vào, tiêu thụ sản phẩm. Thứ hai là thị trường kép. Thị trường nội bộ hợp tác xã là thị trường các dịch vụ mà hợp tác xã cung cấp cho thành viên hợp tác xã (bán giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, cày bừa, tưới tiêu, sửa chữa máy móc, thu hoạch trên ruộng của thành viên hợp tác xã,...) và thành viên hợp tác xã phải trả tiền cho các dịch vụ này. Giá các dịch vụ này do hợp tác xã quyết định, thường là thấp hơn giá thị trường. Thị trường bên ngoài là thị trường mà các hộ thành viên hợp tác xã bán sản phẩm của mình, phụ thuộc vào tình hình cung - cầu và cạnh tranh trên thị trường. Thứ ba là hạch toán kép. Hạch toán của hợp tác xã nhìn chung phải không được lỗ hoặc có lời ít, để hợp tác xã đủ sức tiếp tục cung cấp các dịch vụ cho thành viên hợp tác xã. Hạch toán của từng hộ phải đạt thu nhập cao, ít nhất là cao hơn các hộ không tham gia hợp tác xã. Nếu không đạt được kết quả này thì hợp tác xã không có lý do để tồn tại. Thứ tư là giám sát kép. Giám sát nội bộ là hợp tác xã tự giám sát thông qua ban kiểm soát và hội nghị thành viên hợp tác xã. Giám sát bên ngoài là sự kiểm
22
toán, giám sát, tư vấn của Liên hiệp hợp tác xã cùng ngành nghề, theo quy định của Luật Hợp tác xã Cộng hòa Liên bang Đức có từ năm 1889. Nhờ sự giám sát kép này mà khoảng 80 năm nay, không có hợp tác xã nào ở Cộng hòa Liên bang Đức bị phá sản.
Luật Hợp tác xã năm 2012 của Việt Nam thực chất thể hiện sự thay đổi căn bản nhận thức của chúng ta về bản chất và vai trò của hợp tác xã, phù hợp với sự phát triển hợp tác xã trên thế giới hơn 150 năm qua. Theo Luật Hợp tác xã năm 2012, hợp tác xã hoạt động như một doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ cho thành viên hợp tác xã, còn việc trồng cây, nuôi con là việc của thành viên hợp tác xã. Điều 4 Luật Hợp tác xã năm 2012 xác định các sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã cung cấp cho thành viên hợp tác xã là:
- Mua chung sản phẩm, dịch vụ từ thị trường để phục vụ cho thành viên;
- Mua sản phẩm, dịch vụ từ thị trường để bán cho thành viên;
- Bán chung sản phẩm, dịch vụ của thành viên ra thị trường;
- Mua sản phẩm, dịch vụ của thành viên để bán ra thị trường;
- Chế biến sản phẩm của thành viên;
- Cung ứng phương tiện, kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ thành viên;
- Tín dụng cho thành viên;
- Các hoạt động khác theo quy định của điều lệ hợp tác xã.
23
Điều 15 Luật Hợp tác xã năm 2012 xác định 6 nghĩa vụ của thành viên. Trong đó, nghĩa vụ đầu tiên là “Sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã theo hợp đồng dịch vụ”. Điều 16 Luật Hợp tác xã năm 2012 xác định các điều kiện chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã, trong đó có trường hợp “Thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ hợp tác xã nhưng không quá 3 năm”.
Với các đặc trưng nói trên và một số nội dung mới khác của Luật Hợp tác xã năm 2012, có thể khẳng định các hợp tác xã theo Luật này là các hợp tác xã kiểu mới, hoàn toàn khác các hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2003. Trong thực tế, từ trước năm 2012, vì sự tồn tại và cuộc sống của các hộ nông dân, ở nhiều nơi, các hộ nông dân đã sáng tạo, tự thành lập và vận hành hợp tác xã theo nguyên tắc của Luật Hợp tác xã năm 2012, trước khi Luật này ra đời.
Một ví dụ điển hình là Hợp tác xã chăn nuôi Quý Hiền thành lập năm 2010, gồm 24 hộ chăn nuôi gia cầm, lợn ở 10 xã thuộc huyện Bảo Thắng, Lào Cai. Vốn điều lệ khi thành lập là 4,76 tỷ đồng, mỗi thành viên góp 15 triệu đồng bằng tiền mặt, còn lại phải góp các tài sản khác như đất, ôtô vận tải, trị giá tối thiểu 135 triệu đồng không phải để hợp tác xã sử dụng, mà vẫn do thành viên tự sử dụng, song khi cần thì hợp tác xã có thể đem thế chấp để vay vốn cho chính thành viên đó hoặc cho hợp tác xã. Đến năm 2015,
24
hợp tác xã có 29 hộ thành viên (tăng 20,8%), vốn điều lệ đạt 19 tỷ đồng (tăng gần 4 lần). Còn nhiều hộ nông dân muốn gia nhập hợp tác xã, song do cân đối nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm của thành viên nên hợp tác xã chưa kết nạp thêm thành viên. Tuổi bình quân của thành viên là 35. Tất cả các hộ thành viên đều trực tiếp sản xuất, hợp tác xã làm những việc mà các hộ thành viên không tự làm được, hoặc làm được nhưng không hiệu quả. Sản phẩm của hợp tác xã là các dịch vụ: cung cấp vật tư cho thành viên (mỗi năm trên 3.000 tấn thức ăn, 50.000 con gà giống, hơn 2.000 con lợn giống) và tiêu thụ sản phẩm cho thành viên (trên 1.000 tấn gà lông, 200 tấn lợn hơi, trên 6 triệu quả trứng) với doanh số hàng năm hàng chục tỷ đồng, trong đó năm 2014 là 48 tỷ đồng, năm 2015 là 55 tỷ đồng. Hợp tác xã hoạt động theo phương thức lấy đơn vị hộ làm đơn vị hạch toán kinh doanh, các hộ tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất của mình, các hộ chỉ chịu trách nhiệm trước hợp tác xã đối với các nghĩa vụ tài chính phát sinh với hộ mình như: trả tiền cho vật tư mà hợp tác xã cung cấp, trả lãi và vốn vay mà hợp tác xã vay cho mình.
Những việc các hộ nông dân thành viên làm không hiệu quả bằng Hợp tác xã chăn nuôi Quý Hiền là: mua vật tư trên thị trường, vay vốn cho sản xuất, kinh doanh, tổ chức dạy nghề cho nông dân, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
Nếu nông dân tự mua thức ăn cho gà, lợn ở các cơ sở bán thức ăn chăn nuôi lẻ thì vừa không có điều
25
kiện kiểm tra chất lượng thức ăn, vừa mua đắt vì mua số lượng ít. Nhưng hợp tác xã mua thức ăn gia súc, gia cầm với số lượng lớn thì mua trực tiếp tại các công ty có uy tín. Ví dụ, một bao thức ăn cho lợn nếu mua ở đại lý bán lẻ thì phải trả 460.000 đồng, nhưng hợp tác xã mua trực tiếp tại công ty và bán lại cho thành viên chỉ 422.000 đồng, tức là giảm được hơn 8% chi phí thức ăn, làm cho thu nhập của người nông dân tăng tương ứng. Nếu người nông dân tự mua con giống gà, lợn ở các cơ sở giống tư nhân, họ không có khả năng kiểm tra chất lượng giống. Còn hợp tác xã mua con giống với số lượng lớn nên mua tại các công ty có uy tín, đảm bảo chất lượng mà giá lại thấp hơn. Tương tự như vậy, hợp tác xã mua thuốc thú y sẽ đảm bảo chất lượng và giá thấp hơn là các hộ nông dân tự mua. Để theo kịp tiến bộ khoa học - kỹ thuật về thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y và con giống, từng hộ cá thể không thể có điều kiện tiếp cận các khóa huấn luyện, vì khuyến nông của Nhà nước không đủ lực lượng và kinh phí để chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho từng hộ nông dân. Đối với hợp tác xã, do mua thức ăn, thuốc thú y với số lượng lớn, hợp tác xã đã đặt điều kiện các công ty cung cấp thức ăn và thuốc thú y mỗi năm phải tập huấn ít nhất 2 lần về các tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho các thành viên. Vì vậy, các thành viên được cập nhật kịp thời kiến thức, kỹ năng mà hợp tác xã lại không phải tốn tiền cho tập huấn.
Việc tiêu thụ sản phẩm của các hộ nông dân thông qua hợp tác xã hiệu quả hơn nhiều so với các hộ
26
nông dân tự làm. Các hộ nuôi cá thể không thể ký hợp đồng bán sản phẩm cho các công ty mua gia cầm, gia súc hoặc các khách sạn, nhà hàng, vì sau khi bán gia cầm hoặc gia súc phải 3-6 tháng sau mới lại bán được lứa tiếp theo, trong khi các công ty, khách sạn, nhà hàng, cần mua hằng ngày. Ngoài ra, các hộ không thể chứng minh được sự đồng đều về chất lượng sản phẩm (liên quan đến giống, thức ăn, thuốc thú y) và kiểm soát an toàn thực phẩm nên các công ty, khách sạn, nhà hàng, không sẵn sàng mua. Còn hợp tác xã với hàng chục hộ thành viên có thể ký hợp đồng cung cấp gia cầm, gia súc hằng ngày và cam kết đảm bảo chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm. Cũng vì lý do trên mà khi các hộ nông dân riêng lẻ đi vay vốn, rủi ro đối với các tổ chức tín dụng cao nên họ sẽ chỉ cho vay ít và lãi suất cao. Còn hợp tác xã, với việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, khả năng tiêu thụ ổn định và tài sản thế chấp của các hợp tác xã lớn hơn, sẽ dễ tìm được nguồn vốn lớn hơn với lãi suất thấp hơn cho các hộ thành viên.
Những việc các hộ thành viên Hợp tác xã chăn nuôi Quý Hiền không làm được là: quy hoạch đàn nuôi phù hợp với nhu cầu thị trường và xây dựng các quỹ, nhất là quỹ dự phòng rủi ro.
Các hộ cá thể không có khả năng dự báo nhu cầu thị trường và do không có khả năng bán thông qua các hợp đồng với các công ty hoặc khách sạn, nhà hàng nên không có căn cứ để quy hoạch đàn nuôi của mình. Nếu nuôi nhiều, vượt quá nhu cầu thị trường,
27
giá rớt sẽ lỗ. Còn hợp tác xã, thông qua nghiên cứu thị trường và ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các công ty, khách sạn, nhà hàng, sẽ quy hoạch đàn nuôi của các hộ sao cho phù hợp với các hợp đồng đã ký. Thông qua đóng góp của các thành viên, hợp tác xã thành lập quỹ dự phòng rủi ro. Khi các hộ thành viên gặp rủi ro mà không phải do lỗi của họ, được cán bộ kỹ thuật của hợp tác xã và Ban Kiểm soát xác nhận, thì được cho vay bằng 80% mức thiệt hại với lãi suất bằng 0% để nuôi lại đàn mới, thời hạn trả là 3 lứa nuôi (12 tháng đối với gà và 18 tháng đối với lợn).
Với cách làm như trên, Hợp tác xã chăn nuôi Quý Hiền thực sự đã giúp các hộ thành viên: giảm chi phí và nâng cao chất lượng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm ổn định với giá cao hơn, vì vậy vừa làm cho sản phẩm của thành viên có tính cạnh tranh cao hơn, vừa nâng cao thu nhập cho hộ thành viên, đồng thời kích thích tính sáng tạo, tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các hộ thành viên.
Thực tế thành lập và vận hành các hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012 ở nhiều địa phương đã chứng minh các hợp tác xã này tuy chỉ có vài chục thành viên song đã thực sự giúp các hộ thành viên sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn hẳn, đặc biệt là quy hoạch sản xuất theo nhu cầu thị trường và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Trong quá trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp hướng tới sản xuất quy mô lớn với các sản phẩm chủ lực, sử dụng các giống chất lượng và năng suất cao, quy trình canh tác hiện đại
28
gắn với chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm thì chủ thể quan trọng nhất của quá trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp phải là 12 triệu hộ nông dân Việt Nam, song không phải là 12 triệu hộ riêng lẻ, yếu thế mà phải là các hộ được liên kết lại trong các hợp tác xã là chủ yếu. Nền nông nghiệp nước ta cần chuyển từ sản xuất hộ cá thể, đơn lẻ, yếu thế là chủ yếu sang sản xuất liên kết qua hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp qua hợp tác xã là chủ yếu. Chủ thể tiếp nhận hiệu quả các chính sách của Nhà nước về quản lý, sử dụng đất, về vốn, về đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật, chủ thể để thực hiện liên kết hiệu quả nông dân với doanh nghiệp và các nhà khoa học phải là hợp tác xã. Chủ thể thực hiện cơ khí hóa sản xuất, thủy lợi hóa, hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả cao phải là hợp tác xã và các doanh nghiệp, chứ không phải là các hộ nông dân riêng lẻ.
III. Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp Việt Nam
1. Toàn xã hội cần có nhận thức về cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp Việt Nam
Mục đích cơ cấu lại + Phương thức cơ cấu lại + Con đường phát triển nông nghiệp trong quá trình cơ cấu lại.
2. Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế
Thay đổi tư duy về sản xuất nông nghiệp: sản
29
xuất theo nhu cầu thị trường, xuất phát từ nhu cầu và yêu cầu thị trường mà tổ chức lại sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất cho người nông dân và đất nước. Cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Thị trường mục tiêu là ở đâu (trong nước và nước ngoài), sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, chi phí và chất lượng sản phẩm ra sao.
- Làm rõ sản phẩm chủ lực của quốc gia, từng vùng và địa phương có sức cạnh tranh cao, nhu cầu thị trường đủ lớn.
Chuỗi sản xuất nông nghiệp không thay đổi trong quá trình cơ cấu lại
Yếu tố
đầu vào
(1)
Giống
Vật tư
Công cụ
Thiết bị
lao động
Năng lượng ...
Sản xuất nông
nghiệp (2)
Cây
Con
Thu mua sản phẩm nông nghiệp
(3)
Chế biến, bảo quản (4)
Phân phối (5)
Thị trường (6)
Gần
Xa
Xuất khẩu
Quan hệ các bên đều là quan hệ thị trường: - Thị trường đầu vào (1 → 2).
- Thị trường đầu ra (2 → 3).
- Thị trường sản phẩm trước chế biến (3 → 4). - Thị trường sản phẩm trước phân phối (4 → 5). - Thị trường sản phẩm tiêu dùng cuối cùng (5 → 6). a) Mua đầu vào, bán đầu ra (1→2, 2→3) - Nếu nông dân cá thể tự mua đầu vào, bán đầu ra sẽ phụ thuộc vào yếu tố thời vụ: không bán được hoặc
30
khó bán sản phẩm vì bị ép giá, vì yếu tố chất lượng do bất lợi của hộ nông dân trong đàm phán với người bán đầu vào (có tổ chức, liên kết) và người mua đầu ra (có tổ chức, liên kết).
- Nếu hợp tác xã mua đầu vào, bán đầu ra: hợp tác xã có sức mạnh kinh tế để đàm phán mua đầu vào, bán đầu ra có lợi cho hộ nông dân thành viên của hợp tác xã.
b) Chế biến, bảo quản: mua lẻ (3→4), bán sỉ (4→5):
- Nếu khâu chế biến, bảo quản (4) là các hộ cá thể thì sẽ bị các công ty phân phối (bán sỉ, bán lẻ) (5) ép giá và điều kiện bán vì các hộ không có khả năng đàm phán về giá và điều kiện bán.
- Nếu khâu phân phối (5) là Liên hiệp hợp tác xã1 của các hợp tác xã sản xuất (2+3+4) thì các hợp tác xã sản xuất, các hộ nông dân chi phối Liên hiệp hợp tác xã (phục vụ lợi ích của các hợp tác xã) và Liên hiệp hợp tác xã có năng lực đàm phán với doanh nghiệp thương mại hoặc Liên hiệp hợp tác xã có hệ thống tiêu thụ riêng và trực tiếp xuất khẩu.
Vai trò chủ thể của hộ nông dân Việt Nam trong quá trình cơ cấu lại nền nông nghiệp về mặt kinh tế được thực hiện qua việc hình thành chuỗi liên kết: Hộ nông dân - Hợp tác xã - Liên hiệp hợp tác xã. Hợp tác xã và Liên hiệp hợp tác xã có thể ký hợp đồng với
1. Liên hiệp hợp tác xã là một đơn vị kinh tế hợp tác do các hợp tác xã có cùng lợi ích lập ra để tiêu thụ sản phẩm của các hợp tác xã thành viên và cung cấp đầu vào cho các hợp tác xã thành viên.
31
doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm hoặc trực tiếp xuất khẩu và tiêu thụ qua chuỗi cửa hàng, siêu thị riêng của mình.
3. Các hình thức liên kết trong sản xuất 3.1. Hộ nông dân không liên kết
Các doanh nghiệp cung cấp đầu vào (1)
Giống
Thiết bị
Phân bón
Mua
đầu vào Hộ nông dân sản xuất (2)
Bán
đầu ra Trung gian mua nông sản (3)
Thuốc bảo vệ thực vật
Công nghệ mới...
Hộ nông dân là chủ đất (hoặc có quyền khai thác mặt nước). Hộ nông dân mua trực tiếp các nguyên liệu đầu vào với số lượng ít, không đảm bảo được chất lượng, không đàm phán được giá mua (giá cao). Họ bán sản phẩm cho tư thương với số lượng ít, không thương hiệu, bị ép giá, ép chất lượng. Hộ nông dân bị lép vế, không có năng lực đàm phán trên cả 2 thị trường đầu vào, đầu ra. Năng suất của hộ nông dân có thể rất cao, song thu nhập vẫn rất thấp vì bị ép giá 2 đầu. Với quy mô đất bình quân của 1 hộ nông dân là 3.000-5.000 m2 (80% hộ nông dân có diện tích đất dưới 1 ha), mỗi hộ bình quân có 2 lao động, 97% lao động nông nghiệp không qua đào tạo cơ bản về nghề nông, vốn hầu như không có, thì các hộ nông dân riêng lẻ không đủ điều kiện để tận dụng các hỗ trợ của Nhà nước về ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ.
32
3.2. Hộ nông dân làm thuê cho doanh nghiệp
Thị trường đầu vào Doanh nghiệp Thị trường đầu ra
Hộ nông dân 1
Hộ nông dân 2
Hộ nông dân 3
Hộ nông dân ...
a) Hộ nông dân
- Hộ nông dân là chủ đất, ký hợp đồng sản xuất cho doanh nghiệp theo các điều kiện do doanh nghiệp đặt ra.
- Hộ nông dân không được sự hỗ trợ của Nhà nước về vay vốn, đào tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ (do doanh nghiệp đã chịu trách nhiệm).
- Hộ nông dân lệ thuộc hoàn toàn vào doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp thay đổi chính sách thì nông dân phải chấp nhận, hoặc bỏ hợp đồng lại trở thành hộ sản xuất cá thể.
b) Doanh nghiệp
- Doanh nghiệp nghiên cứu thị trường, quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu, tiêu thụ thế nào, điều kiện hợp đồng với các hộ nông dân làm thuê thế nào, cung cấp các đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật, kiểm soát hộ nông dân tuân thủ kỹ thuật.
- Doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, giá mua sản phẩm nông dân không đàm phán được.
Ví dụ điển hình cho mối liên kết này là Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang (nay là Tập đoàn Lộc Trời) đã hợp đồng với 20.000 hộ nông dân để sản xuất lúa.
33
3.3. Hộ nông dân liên kết thành lập hợp tác xã
Thị trường đầu vào Hợp tác xã Thị trường đầu ra
Hộ nông dân 1
Hộ nông dân 2
Hộ nông dân 3
Hộ nông dân ...
a) Hộ nông dân là chủ đất, chủ sở hữu chuồng trại, tư liệu sản xuất của riêng mình, chịu trách nhiệm về tổ chức sản xuất, hiệu quả sản xuất của mình (sở hữu kép của hộ nông dân: vốn góp vào hợp tác xã và vốn đầu tư sản xuất của riêng mình).
b) Hợp tác xã
- Hợp tác xã nghiên cứu thị trường, quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu, sản xuất như thế nào, hợp đồng bán đầu vào cho các hộ nông dân, mua đầu ra của các hộ nông dân. Hợp tác xã bán các đầu vào với giá thấp hơn thị trường bán lẻ (hạch toán không lỗ), kiểm soát được chất lượng đầu vào (mua tận gốc, số lượng lớn).
- Hợp tác xã tiêu thụ sản phẩm của các hộ nên có khả năng đàm phán cao nhờ quy mô lớn, chất lượng đồng nhất, kiểm soát được chất lượng, an toàn thực phẩm.
- Hợp tác xã hỗ trợ hướng dẫn kỹ thuật mới, giám sát tuân thủ các yêu cầu chất lượng; lập quỹ dự phòng rủi ro của hợp tác xã để hỗ trợ nông dân khi gặp rủi ro (hạch toán kép trong hợp tác xã: hạch toán của các
34
hộ nông dân (thu nhập của hộ) và hạch toán của hợp tác xã (thu nhập của hợp tác xã)).
- Hợp tác xã xây dựng thương hiệu, lựa chọn đối tác tiêu thụ sản phẩm, có thể xây dựng các cửa hàng tiêu thụ sản phẩm riêng, nhà kho dùng chung cho các thành viên.
- Hợp tác xã với lực lượng chuyên trách về kỹ thuật, công nghệ, về kế hoạch tài chính, về tiêu thụ sản phẩm, có tài sản riêng, có tư cách pháp nhân chính là đối tác thích hợp để tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước cho các hộ nông dân như: vay vốn, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ, đào tạo, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.
- Liên minh hợp tác xã hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý, hướng dẫn xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh, giám sát (kiểm toán các hợp tác xã); kiểm soát kép (hợp tác xã tự kiểm soát qua Hội nghị thành viên, Ban Kiểm soát của hợp tác xã và Liên minh hợp tác xã kiểm toán, tư vấn).
Mô hình liên kết sản xuất qua hợp tác xã và hỗ trợ của Liên minh hợp tác xã đảm bảo tính tự chủ cao của người nông dân, hộ nông dân không mất đất đai, tài sản riêng (có quyền chi phối hợp tác xã).
Tuy nhiên, liên kết này có một số khó khăn, đó là một số hợp tác xã mới, năng lực nghiên cứu thị trường, tự tiêu thụ sản phẩm còn yếu.
Một số ví dụ về mô hình liên kết này là: Hợp tác xã chăn nuôi Quý Hiền, Lào Cai; Hợp tác xã nông
35
nghiệp Long Bình, An Giang; Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ Công bằng Ea Kiết, Đắk Lắk.
3.4. Hộ nông dân liên kết qua hợp tác xã và hợp tác xã liên kết qua thành lập Liên hiệp hợp tác xã tiêu thụ sản phẩm và cung cấp đầu vào cho hợp tác xã
Thị trường đầu vào Liên hiệp hợp tác xã Thị trường đầu ra Thị trường đầu vào Thị trường đầu ra Hợp
Hộ
Hộ
tác xã 1 Hộ
Hộ
Hợp
tác xã 2 Hộ
Hộ
Hợp tác xã 3 ...
Hộ
Hộ
Hộ
nông dân 1
nông dân 2
nông dân ...
nông dân 1
nông dân 2
nông dân ...
nông dân 1
nông dân 2
nông dân ...
a) Hộ nông dân là chủ đất, chủ chuồng trại, tư liệu sản xuất của mình, chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất theo kế hoạch của hợp tác xã, chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất của mình.
b) Hợp tác xã và Liên hiệp hợp tác xã
- Các hợp tác xã cùng nhóm sản phẩm (lúa, trái cây, rau, tiêu, cá, gà, lợn (heo),...) thành lập Liên hiệp hợp tác xã để tiêu thụ sản phẩm của mình (xây dựng thương hiệu của Liên hiệp hợp tác xã hoặc sử dụng thương hiệu của hợp tác xã), kể cả xuất khẩu và mua các đầu vào dùng chung cho các hợp tác xã (theo nhu cầu của hợp tác xã) đảm bảo chất lượng, giá thấp hơn thị trường bán lẻ. Liên hiệp hợp tác xã có thể xây dựng hệ thống cửa hàng của mình để tiêu thụ sản phẩm của các hợp tác xã.
36
- Các hợp tác xã phối hợp với Liên hiệp hợp tác xã nghiên cứu thị trường, quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu, tiêu thụ thế nào (trực tiếp hoặc qua Liên hiệp hợp tác xã), sản xuất như thế nào, hợp đồng cung cấp dịch vụ đầu vào cho các hộ thành viên và mua sản phẩm của các hộ thành viên.
- Các hợp tác xã vẫn có thể tự mua một số đầu vào và tự tiêu thụ một số sản phẩm. Liên hiệp hợp tác xã chỉ nhận tiêu thụ sản phẩm của các hợp tác xã theo các yêu cầu của mình (an toàn thực phẩm, khối lượng tiêu thụ, giá cả cho các hợp tác xã). Liên hiệp hợp tác xã giúp nâng cao hiệu quả kinh tế của hợp tác xã và hộ thành viên, giảm gánh nặng tự tổ chức tiêu thụ sản phẩm cho các hợp tác xã. Khả năng đàm phán của Liên hiệp hợp tác xã rất cao (mua số lượng lớn, bán sản phẩm chất lượng cao).
- Vì Liên hiệp hợp tác xã là do các hợp tác xã lập ra, các hợp tác xã hoàn toàn kiểm soát nên Liên hiệp hợp tác xã hoạt động phục vụ cho lợi ích các hợp tác xã.
Ví dụ tiêu biểu cho mô hình này là: Liên hiệp hợp tác xã tiêu thụ nông sản an toàn Việt Nam (UCAMart), thuộc Liên minh hợp tác xã Việt Nam.
3.5. Hộ nông dân liên kết qua hợp tác xã và hợp tác xã hợp đồng tương đối ổn định với các doanh nghiệp để mua đầu vào và tiêu thụ sản phẩm
a) Hộ nông dân là chủ đất, chủ chuồng trại, tư liệu sản xuất của gia đình, chịu trách nhiệm về tổ chức sản xuất của mình, tiêu thụ sản phẩm qua hợp tác xã.
37
Thị
trường đầu vào
Doanh nghiệp đầu vào HTX
Thị
trường đầu ra
Doanh nghiệp đầu ra HTX
Hộ
nông dân 1
Hộ
nông dân 2
Hộ
nông dân 3
Hộ
nông dân ...
Hộ
nông dân 1
Hộ
nông dân 2
Hộ
nông dân 3
Hộ
nông dân ...
b) Hợp tác xã
- Hợp tác xã có thể ký hợp đồng tương đối dài hạn để mua đầu vào và bán đầu ra với một số doanh nghiệp. Hợp tác xã có quyền và năng lực đàm phán trực tiếp cao (có thể lựa chọn doanh nghiệp để ký hợp đồng).
- Đối với một số đầu vào và đầu ra, hợp tác xã còn có thể trực tiếp mua hoặc bán ra thị trường. - Các hợp tác xã đang cùng mua một số đầu vào từ một doanh nghiệp hoặc cùng bán đầu ra cho cùng một doanh nghiệp có thể phối hợp với nhau trong việc đàm phán hợp đồng mua, bán để tăng khả năng đàm phán, tránh việc bán phá giá.
- Có thể một doanh nghiệp vừa bán đầu vào vừa mua đầu ra của hợp tác xã. Cách này làm giảm gánh nặng tổ chức mua đầu vào và tiêu thụ sản phẩm của hợp tác xã, song cũng tăng tính lệ thuộc của hợp tác xã vào một doanh nghiệp.
Tóm lại, nông dân liên kết qua hợp tác xã là mô hình cơ bản nhất để giữ được đất, đảm bảo quyền lợi, quyền làm chủ của nông dân, từ đó làm cơ sở để liên kết sản xuất ở mức độ cao hơn, có lợi cho nông dân
38
hơn qua liên kết thành lập Liên hiệp hợp tác xã hoặc liên kết với các doanh nghiệp. Thông qua phương thức sản xuất hợp tác xã và Liên hiệp hợp tác xã, vị thế của người nông dân trong đàm phán mua bán trên thị trường đầu vào và đầu ra được thay đổi căn bản, là tiền đề để phân phối lại giá trị gia tăng của chuỗi sản xuất nông nghiệp.
3.6. Ước lượng khả năng phát triển của các loại hình hộ nông dân sản xuất trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam vào năm 2025
1 2 3 4 5
Hộ cá thể không
liên kết
Hộ làm thuê cho doanh
nghiệp
Hộ liên kết qua hợp tác xã
Hộ liên kết qua hợp tác xã và Liên hiệp
hợp tác xã
Hộ liên kết qua hợp tác xã và doanh nghiệp
12 triệu hộ nông dân
10% số hộ nông dân
15%
20% 45%
10%
là chủ đất (hoặc có
25% số hộ nông dân không liên kết qua hợp tác xã
75% số hộ nông dân liên kết qua hợp tác xã
25% số hộ nông dân liên kết qua doanh nghiệp
quyền khai thác mặt nước)
4. Khả năng đóng góp của các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp
4.1. Tín hiệu vui
Một số doanh nghiệp đã đầu tư quy mô tương đối lớn vào nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản).
4.2. Mô hình sản xuất
- Thuê lại đất của nông dân (ít nhất 20 năm), hoặc thuê của Nhà nước (đất nông trường) diện tích từ vài chục đến 200-300 ha.
39
- Đầu tư toàn bộ hạ tầng và sản xuất theo quy trình công nghệ tiên tiến (suất đầu tư có thể rất cao). - Sử dụng giống cây, con chất lượng cao.
- Thuê lao động có trình độ chuyên mô phù hợp để làm cho công ty (một số từ người lao động của các hộ nông dân đã cho thuê đất).
- Sản xuất sản phẩm cuối cùng để tiêu thụ hoặc chế biến, xuất khẩu.
- Sản xuất giống chất lượng cao.
4.3. Khả năng đóng góp cho phát triển nông nghiệp (cần kiểm nghiệm qua thực tế) - Nếu là doanh nghiệp sản xuất giống (cây, gia cầm, gia súc, thủy sản): cung cấp đầu vào cho hàng triệu hộ nông dân sẽ có tác dụng rất lớn cho toàn bộ nền nông nghiệp.
- Doanh nghiệp sản xuất lúa, rau: Nếu có khoảng 100 doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp sử dụng 300 ha thì diện tích đất cần là 30.000 ha. So với diện tích đất nông nghiệp cả nước (trồng lúa, cây ngắn ngày và cây dài ngày) là 10,2 triệu ha thì chỉ chiếm 0,29%. 99,71% diện tích đất nông nghiệp còn lại được canh tác bởi hộ cá thể, hợp tác xã và hộ nông dân làm thuê cho doanh nghiệp. Nếu bình quân 1 hộ nông dân có gần 1 ha đất, thì số hộ mất đất sẽ là 30.000 hộ, bằng 0,25% số hộ sản xuất nông nghiệp. Như vậy, 99,75% hộ nông dân vẫn sản xuất bình thường.
- Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2016:
40
+ Các doanh nghiệp thủy sản sản xuất khoảng 15 nghìn tấn tôm trong tổng sản lượng tôm cả nước là 610 nghìn tấn. Như vậy, sản lượng tôm do doanh nghiệp sản xuất chỉ chiếm 2,5% tổng sản lượng tôm cả nước. Hộ nông dân và hợp tác xã làm ra 97,5% sản lượng tôm cả nước.
+ Trong tổng sản lượng khoảng 4 triệu tấn thịt lợn của cả nước, các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp khảng 700 nghìn tấn (chiếm 17,5%), các doanh nghiệp trong nước cung cấp khoảng 450 nghìn tấn (chiếm 11,25%). Như vậy, các doanh nghiệp chỉ chiếm 28,75% tổng sản lượng thịt lợn cả nước, còn các hộ nông dân và hợp tác xã chiếm 71,25% sản lượng thịt lợn cả nước.
+ Trong tổng sản lượng khoảng 1 triệu tấn gia cầm của cả nước, các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp khảng 200 nghìn tấn (chiếm 20%), các doanh nghiệp trong nước cung cấp khoảng 150 nghìn tấn (chiếm 15%). Như vậy, các doanh nghiệp chỉ chiếm 35% tổng sản lượng gia cầm cả nước, còn các hộ nông dân và hợp tác xã chiếm 65% sản lượng gia cầm cả nước.
Nếu các doanh nghiệp sản xuất lúa, rau, hoa, tôm... có thể tiêu thụ sản phẩm đạt chất lượng của các hộ nông dân, hợp tác xã thì sẽ rất có ích cho nông dân và nền nông nghiệp nước nhà. Sản phẩm của hợp tác xã mới có điều kiện đáp ứng các đòi hỏi về chất lượng và an toàn thực phẩm của các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm.
41
5. Vai trò của Liên minh hợp tác xã
- Hỗ trợ thành lập các hợp tác xã mới (tuyên truyền, vận động, xây dựng điều lệ hợp tác xã mẫu, giúp nông dân vay vốn,...).
- Hỗ trợ đào tạo cán bộ hợp tác xã, phổ biến các điển hình hợp tác xã làm tốt.
- Hỗ trợ thành lập các Liên hiệp hợp tác xã. - Kiểm toán các hợp tác xã, tư vấn sản xuất - kinh doanh.
- Hỗ trợ tiếp cận các chính sách phát triển nông nghiệp của Nhà nước (vốn, khoa học - công nghệ, đào tạo, tiếp thị...).
- Kiến nghị xây dựng luật pháp, chính sách và giám sát thực hiện chính sách về sản xuất của nông dân (làng nghề, dịch vụ khác...).
6. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân và giai cấp nông dân
- Chủ thể về chính trị: Hội Nông dân Việt Nam. - Chủ thể về kinh tế: phương thức sản xuất hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã và vai trò của Liên minh hợp tác xã.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Hội Nông dân Việt Nam và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam để nông nghiệp Việt Nam phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, đem lại lợi ích cao hơn cho người nông dân và đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
42
IV. MỘT SỐ VIỆC CẦN TRIỂN KHAI SỚM TRONG THỜI GIAN TỚI
Từ những chuyển biến về nhận thức và từ thực tiễn sinh động, sáng tạo trong thành lập và hoạt động của các mô hình hợp tác xã kiểu mới tiêu biểu, để đẩy nhanh việc triển khai thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác, hợp tác xã, Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững của Chính phủ, Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 24-7-2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai thi hành Luật Hợp tác xã, cần tập trung triển khai 7 công việc chính sau đây:
Một là, tổ chức chương trình tuyên truyền sâu rộng về Luật Hợp tác xã năm 2012, vai trò tích cực của hợp tác xã kiểu mới trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất của các hộ sản xuất, kinh doanh cá thể và lo đầu ra cho sản phẩm của các thành viên hợp tác xã. Sau khi phát hành cuốn sách Những hợp tác xã kiểu mới điển hình giai đoạn 2014-2016, cần tổ chức chương trình phổ biến, giới thiệu sâu rộng các điển hình hợp tác xã kiểu mới trong lĩnh vực nông nghiệp và các lĩnh vực khác để nhân dân tự tin, chủ động tự liên kết hình thành các hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác để tự lo cho mình và phát huy tốt nhất các hỗ trợ của Nhà nước. Hàng năm cần tổ chức việc tuyên
43
dương các hợp tác xã kiểu mới hoạt động hiệu quả cao để hình thành phong trào xây dựng các hợp tác xã kiểu mới và các Liên hiệp hợp tác xã.
Hai là, Liên minh hợp tác xã các cấp, nhất là cấp tỉnh, cần triển khai quyết liệt các hoạt động tư vấn, tập huấn cho lực lượng lãnh đạo các hợp tác xã, tổ hợp tác hiện nay, cũng như Ban Giám đốc tương lai của các hợp tác xã, tổ trưởng tổ hợp tác tương lai, làm cho trình độ quản lý của các hợp tác xã, tổ hợp tác thực sự tương thích với đòi hỏi phát triển kinh tế hợp tác trong điều kiện hiện nay. Đây là điều kiện đầu tiên, quan trọng nhất để các hợp tác xã giải quyết 4 vấn đề cơ bản mà các hợp tác xã đang gặp khó khăn là: tiêu thụ sản phẩm, đất đai, vốn và công nghệ.
Ba là, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Liên minh hợp tác xã các tỉnh cần khẩn trương phối hợp với ngành tài chính và sự hỗ trợ của Chính phủ để hình thành các dịch vụ kiểm toán chi phí thấp cho tất cả các hợp tác xã trong cả nước, qua đó giúp các hợp tác xã đánh giá kịp thời, chính xác hiệu quả hoạt động của mình, khắc phục các bất hợp lý trong tổ chức sản xuất của mình và các thành viên hợp tác xã, góp phần quan trọng chấm dứt tình trạng hợp tác xã hoạt động hình thức, hiệu quả thấp.
Bốn là, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Liên minh hợp tác xã các tỉnh cần chủ động triển khai các chương trình hỗ trợ kết nối các hợp tác xã để thành lập các Liên hiệp hợp tác xã hoặc liên kết với các doanh nghiệp để cung cấp đầu vào với chi phí thấp,
44
chất lượng cao và tiêu thụ sản phẩm ổn định, hiệu quả cho các hợp tác xã. Hiện nay, Liên hiệp hợp tác xã tiêu thụ nông sản an toàn Việt Nam sẵn sàng tiêu thụ sản phẩm của các hợp tác xã đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm.
Năm là, trên cơ sở 4 giải pháp trên, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Liên minh hợp tác xã các địa phương phối hợp với các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố triển khai đồng bộ, quyết liệt Đề án “Thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới tại vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016-2020” theo Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 21-3-2016 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15-12-2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020.
Sáu là, việc thành lập các hợp tác xã kiểu mới là một quá trình tự nguyện của các hộ nông dân, song sự vận động, hỗ trợ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên như Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và chính quyền các cấp là rất quan trọng. Đặc biệt, cần có chương trình phối hợp chặt chẽ giữa Hội Nông dân Việt Nam và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam để phát triển các hợp tác xã kiểu mới. Cần có chương trình hiệp thương và phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên và chính quyền các cấp trong xây dựng chỉ tiêu vận động thành lập các
45
hợp tác xã ở mỗi xã, huyện để việc vận động đạt tiến độ nhanh và kết quả cao nhất.
Qua thực tế hoạt động và phong trào thi đua sản xuất giỏi của Hội Nông dân hàng chục năm qua, hiện nay các địa phương trong cả nước đã bình chọn và công nhận hàng triệu nông dân sản xuất giỏi hàng năm. Đây là các nông dân nắm vững các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, có kinh nghiệm tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, có uy tín trong nông dân ở thôn, xã, bản, làng. Họ là lực lượng quan trọng nhất, hiệu quả nhất để đứng ra thành lập các hợp tác xã kiểu mới. Họ cần được tập huấn, động viên và hỗ trợ để là lực lượng đi đầu thành lập các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trong giai đoạn hiện nay.
Bảy là, lãnh đạo các tỉnh, thành phố cần có nghị quyết, chương trình để phát triển kinh tế hợp tác từ nay đến năm 2021, coi đây là con đường cơ bản để đa số nông dân thoát nghèo và có thu nhập ngày càng cao một cách bền vững. Trong chương trình xây dựng nông thôn mới, cần phải đạt được mỗi xã có ít nhất một hợp tác xã kiểu mới trong các lĩnh vực chủ yếu của nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản), và phấn đấu đến năm 2021 trên 50% hộ nông dân tham gia hợp tác xã kiểu mới.
Với Luật Hợp tác xã năm 2012 và các kết quả, tấm gương hợp tác xã kiểu mới ở nhiều địa phương, với sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên liên quan, chúng ta có thể đẩy mạnh việc hình thành và triển khai các hợp
46
tác xã kiểu mới và các Liên hiệp hợp tác xã. Đây có thể coi là yếu tố nền tảng quan trọng nhất, là khâu đột phá để cơ cấu lại nền nông nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam và nâng cao thu nhập bền vững cho nông dân Việt Nam trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ 2016-2030.
47
NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG,
CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC, HỢP TÁC XÃ TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Phát triển kinh tế tập thể, nay là kinh tế hợp tác, hợp tác xã là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, đây cũng là sự nghiệp hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải kiên trì. Ngày 18-3-2002, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, Luật Hợp tác xã bổ sung, sửa đổi đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26-11-2003; tiếp đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 177/2004/NĐ-CP ngày 12-10-2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2003, Nghị định số 77/2005/NĐ-CP ngày 09-6- 2005 về việc ban hành mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ hợp tác xã, Nghị định số 87/2005/NĐ-CP ngày 11-
7-2005 về đăng ký kinh doanh hợp tác xã. Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2006-2010 (Quyết định số 272/2005/QĐ-TTg ngày 31-10-2005) và chỉ đạo xây dựng kế hoạch hàng năm. Một số bộ, ngành như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam... đã thành lập
48
cục, vụ chuyên trách quản lý về kinh tế tập thể, xây dựng chương trình phối hợp với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong công tác củng cố và phát triển kinh tế tập thể. Ngày 11-7-2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2005/NĐ-CP về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã, Nghị định này đã có tác dụng tích cực thúc đẩy hợp tác xã phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước nâng cao hiệu quả của các hợp tác xã... Theo báo cáo của 63 tỉnh ủy, thành ủy, đến ngày 31-12-2011, cả nước có khoảng 19.500 hợp tác xã, 54 Liên hiệp hợp tác xã, tăng 4.659 hợp tác xã so với năm 2001; khu vực hợp tác xã thu hút khoảng 10 triệu xã viên và tạo việc làm cho trên 2 triệu người lao động...1.
Trên cơ sở Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 02-01-2008 về tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Chỉ thị nêu rõ: Trong hơn 5 năm qua (2002-2007), việc thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 18-3-2002 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể quần chúng đã đạt được một số kết
1. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 11- 12-2012.
49
quả, thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển: số lượng hợp tác xã, tổ hợp tác mới thành lập tăng đáng kể; các hợp tác xã cũ cơ bản đã được chuyển đổi; hợp tác xã phát triển đa dạng hơn cả về ngành nghề, quy mô và trình độ; khu vực kinh tế tập thể đã khắc phục được một phần tình trạng yếu kém trước đây, củng cố một bước về tổ chức quản lý, bước đầu khẳng định là nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy vậy, Chỉ thị cũng chỉ ra so với mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết thì việc khắc phục những hạn chế, yếu kém của khu vực kinh tế tập thể còn chậm, kinh tế tập thể vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém: quy mô của các tổ hợp tác, hợp tác xã nhỏ; trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý yếu, chất lượng, hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác còn thấp; nhiều hợp tác xã chưa bảo đảm các nguyên tắc của Luật Hợp tác xã, hợp tác xã chưa mở rộng được nhiều hoạt động đáp ứng nhu cầu sản xuất, đời sống ngày càng tăng của hộ xã viên, cộng đồng, chưa đem lại nhiều lợi ích kinh tế, xã hội cho xã viên, thành viên; số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả cao còn ít. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tập thể chậm, thiếu ổn định, tỷ lệ đóng góp vào GDP giảm xuống. Chỉ thị còn nêu rõ phương hướng lãnh đạo để đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế tập thể, đó là đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên tuyền, xây dựng và giám sát việc thi hành Luật Hợp tác xã, đánh giá kết quả thực hiện
50
chính sách, sửa đổi, bổ sung các chính sách phát triển kinh tế tập thể...
Để tạo điều kiện phát triển các hợp tác xã, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1252/QĐ-TTg ngày 18-9-2007 về việc hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương để thực hiện xóa nợ đọng của các hợp tác xã, Nghị định số 151/2007/NĐ-CP ngày 10-10-2007 về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác. Ngoài ra còn ban hành 12 Nghị định và Quyết định về thi hành pháp luật đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã...
Sau khi nghe Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 13-NQ/TW báo cáo kết quả tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể tại phiên họp ngày 20-12-2012 và ý kiến đóng góp của các cơ quan có liên quan, ngày 21-02-2013 Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 56-KL/TW về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Kết luận đã đánh giá:
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, khu vực kinh tế tập thể có những chuyển biến tích cực. Nhiều hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã mới được thành lập, hoạt động đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực; số tổ hợp tác tiếp tục tăng; phần lớn các hợp tác xã đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi theo quy định của pháp luật. Nhiều
51
hợp tác xã được củng cố, đổi mới về tổ chức và hoạt động, trong đó xuất hiện một số điển hình tiên tiến, hỗ trợ tốt hơn kinh tế hộ xã viên, tạo việc làm và thu nhập thường xuyên cho người lao động. Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau và với các tổ chức kinh tế khác bước đầu có sự phát triển. Các tổ chức kinh tế tập thể đã từng bước khẳng định là nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, kinh tế tập thể vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo dài. Nhiều hạn chế, yếu kém của khu vực kinh tế tập thể mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX và Chỉ thị số 20-CT/TW đã chỉ ra, đến nay vẫn chưa được khắc phục. Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tập thể chậm, thiếu ổn định, tỷ lệ đóng góp vào GDP của cả nước giảm dần, không đạt được mục tiêu Nghị quyết đề ra. Nhiều hợp tác xã chưa tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật; còn có những biểu hiện hình thức, xa rời bản chất các nguyên tắc và giá trị hợp tác xã; sự liên kết, hợp tác của các hợp tác xã chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp, vai trò của Liên hiệp hợp tác xã chưa được phát huy.
Kết luận cũng chỉ ra nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, yếu kém trên là do nhận thức về phát triển kinh tế tập thể của nhiều cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa đầy đủ, chưa thống nhất; ý thức trách nhiệm còn thấp; đánh giá về kinh tế tập thể chưa toàn diện, chưa thấy hết vai trò quan trọng của khu
52
vực kinh tế tập thể trong phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng. Năng lực của các tổ chức kinh tế tập thể còn yếu. Công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế, bộ máy phân tán, hoạt động kém hiệu quả; khung pháp luật và chính sách phát triển kinh tế tập thể còn nhiều bất cập. Vai trò, trách nhiệm của Liên minh Hợp tác xã, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa được phát huy.
Kết luận cũng đưa ra một số giải pháp lớn cần tập trung thực hiện như:
Thống nhất và nâng cao nhận thức về bản chất, vai trò của kinh tế tập thể, hợp tác xã: Phát triển kinh tế tập thể là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, đồng thời cũng là sự nghiệp hết sức khó khăn đòi hỏi phải kiên trì, xuất phát từ nhu cầu thực tế, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng vùng, miền, địa phương, tránh hình thức, gò ép hoặc buông lỏng. Phải tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012 và các luật khác có liên quan, bảo đảm hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, do các thành viên tự nguyện thành lập nhằm tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên, trên cơ sở bình đẳng, dân chủ và cùng có lợi. Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng của đất nước, cả về hiệu quả của tổ chức kinh tế tập thể và
53
lợi ích của các thành viên. Tiếp tục đổi mới phương thức học tập, quán triệt, tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết một cách thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng. Tăng cường công tác nghiên cứu, làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế tập thể, hợp tác xã, vận dụng sáng tạo trong thực tế và có biện pháp nhân rộng các mô hình tổ chức kinh tế tập thể điển hình tiên tiến.
Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên trong phát triển kinh tế tập thể: Các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu cần xác định rõ trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết và các quy định của pháp luật, chính sách về phát triển kinh tế tập thể. Có biện pháp tháo gỡ khó khăn, khuyến khích, tạo điều kiện để giúp các tổ chức kinh tế tập thể chủ động vươn lên, nhanh chóng khắc phục những hạn chế, yếu kém, củng cố tổ chức, nâng cao năng lực quản lý, điều hành và hiệu quả hoạt động, phát huy lợi thế vốn có của tổ chức kinh tế tập thể để tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể từ Trung ương đến địa phương, kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể như tinh thần Nghị quyết và quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả, tập trung và thống nhất từ Trung ương đến địa phương...
54
Tổ chức triển khai có hiệu quả Luật Hợp tác xã năm 2012, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của tổ chức Liên minh hợp tác xã, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, hội, hiệp hội trong phát triển kinh tế tập thể.
Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Hợp tác xã năm 2003 đã đem lại một số kết quả, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, Luật Hợp tác xã năm 2003 cũng bộc lộ một số khó khăn, bất cập trong thực tiễn áp dụng dẫn đến tình trạng phát triển hợp tác xã nói chung diễn ra rất chậm, nhất là với các hợp tác xã nông nghiệp. Hợp tác xã chưa thoát ra khỏi yếu kém kéo dài, trình độ công nghệ lạc hậu, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý yếu, chất lượng, hiệu quả hoạt động nói chung thấp. Theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: có 3.744 hợp tác xã có tên nhưng không hoạt động, chiếm 20,3% tổng số hợp tác xã. Nhiều hợp tác xã hoạt động hình thức, hoặc lúng túng trong xây dựng phương án tổ chức hoạt động, chưa mang lại nhiều lợi ích cho thành viên, tổ chức hợp tác xã chưa hấp dẫn nhân dân... Do vậy, Đảng, Nhà nước ta chủ trương sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã năm 2003.
Ngày 20-11-2012, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Hợp tác xã năm 2012; và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2013. Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể,
55
đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã. Luật Hợp tác xã năm 2012 đã chú trọng nhấn mạnh hơn về tính cộng đồng, hợp tác của hợp tác xã; nhất là các hợp tác xã nông nghiệp cần phải lấy mục tiêu phục vụ thành viên làm mục tiêu hoạt động chính của hợp tác xã; đồng thời làm rõ hơn về tài sản chung không chia của hợp tác xã...
Để triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 193/2013/ NĐ-CP ngày 21-11-2013 quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã. Nội dung Nghị định số 193/2013/NĐ-CP đã cụ thể hóa 13 điều trong Luật Hợp tác xã năm 2012 như những quy định chung, việc đăng ký, thành lập và giải thể hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã, những vấn đề về tài chính, tài sản của hợp tác xã; các chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với các hợp tác xã trên các mặt cụ thể: đào tạo, xúc tiến thương mại, khoa học công nghệ, hỗ trợ đầu tư hạ tầng, tín dụng, đất đai, hỗ trợ tổ chức lại hoạt động hợp tác xã...
Ngày 15-12-2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2261/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020, trong đó nêu rõ mục tiêu của chương trình là để khuyến
56
khích, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển hợp tác xã mới, tăng cường tính tự chủ, nâng cao hơn nữa vai trò của hợp tác xã đối với sự phát triển... Nội dung hỗ trợ đối với hợp tác xã gồm bồi dưỡng nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, thành lập mới và tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã. Trong Quyết định số 2261/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng có quy định riêng về chính sách ưu tiên, hỗ trợ đối với các hợp tác xã nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và nguồn kinh phí, tổ chức thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020 đối với các bộ, ngành, địa phương, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
Ngày 24-7-2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 19/CT-TTg về việc đẩy mạnh triển khai thi hành Luật Hợp tác xã, trong đó nêu rõ vai trò, nhiệm vụ của các bộ, ngành và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong việc triển khai thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012.
Trong thời kỳ đổi mới, qua mỗi giai đoạn, khu vực kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã được điều chỉnh bởi Luật Hợp tác xã năm 1996, Luật Hợp tác xã năm 2003, Luật Hợp tác xã năm 2012. Khung pháp luật về kinh tế tập thể, hợp tác xã tuân thủ theo quy định chung, cơ bản của mô hình tổ chức hợp tác xã theo chuẩn mực quốc tế, có tính đến đặc thù của Việt Nam.
57
Phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã có vai trò quan trọng trong các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Khuyến khích phát triển bền vững kinh tế hợp tác, nòng cốt là hợp tác xã với nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng; nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác hiệu quả; tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển có hiệu quả trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; góp phần hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ; bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia. Tạo điều kiện hình thành những tổ hợp nông - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao”1.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 293.
58
VAI TRÒ CỦA HỢP TÁC XÃ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1. Đánh giá tình hình phát triển hợp tác xã trong thời gian qua
Thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, đến hết năm 2015 trong lĩnh vực nông nghiệp có 19 liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp, có 10.902 hợp tác xã nông nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, thủy lợi, lâm nghiệp, diêm nghiệp và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp (sau đây gọi tắt là hợp tác xã nông nghiệp), chiếm 55,5% tổng số hợp tác xã trong cả nước. Đa số các hợp tác xã nông nghiệp là các hợp tác xã kinh doanh tổng hợp (khoảng 8.036 hợp tác xã, chiếm 73,7%).
Các hợp tác xã nông nghiệp tập trung nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng (33,5%), Bắc Trung Bộ (19,7%), Đông Bắc Bộ (16,9%), đồng bằng sông Cửu Long (11,2%). Hiện nay, trên phạm vi cả nước tuy số lượng hợp tác xã nông nghiệp thành lập mới mỗi năm khá cao, khoảng 800 hợp tác xã/năm, song do số lượng hợp tác xã nông nghiệp giải thể vì hoạt động kém hiệu quả cũng rất lớn khoảng 550 hợp tác xã/năm nên về tổng số hợp tác xã nông nghiệp tăng trung bình chỉ khoảng 250 hợp tác xã/năm, không tăng nhiều hơn so với trước khi có Luật Hợp tác xã năm 2012.
Về thành viên và hoạt động của hợp tác xã: Hiện nay cả nước có hơn 7,3 triệu thành viên hợp tác xã, trong đó có khoảng gần 6,7 triệu hộ gia đình,
59
cá nhân là thành viên hợp tác xã nông nghiệp, đạt tỷ lệ khoảng 45% trên tổng số hộ nông nghiệp, nông thôn, trung bình 615 thành viên/hợp tác xã. Giá trị sản xuất, kinh doanh khoảng 1,0 tỷ đồng/hợp tác xã. Lợi nhuận bình quân khoảng 200 triệu đồng/hợp tác xã/năm; thu nhập bình quân của các thành viên và người lao động ước đạt trên dưới 1,0 triệu đồng/người/ tháng. Đa số các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay thực hiện các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt ở nông thôn (thấp nhất là 3 dịch vụ và nhiều nhất là 16 dịch vụ), bao gồm: cung ứng các dịch vụ đầu vào (giống, vật tư, phân bón, tưới tiêu...), bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; quản lý và khai thác kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, thực hiện liên kết với các doanh nghiệp để đầu tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Một số hợp tác xã nông nghiệp có sự đổi mới về phương thức hoạt động, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện liên kết với các doanh nghiệp, do đó đã nâng cao được hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, thu nhập của các thành viên và khẳng định được vai trò kinh tế hợp tác với các hộ gia đình thành viên.
Tuy nhiên, đa số các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay mới chỉ tập trung hoạt động đối với các dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như: cung ứng giống, vật tư, phân bón, bảo vệ thực vật, thủy lợi nội đồng...; còn các dịch vụ rất quan trọng như: bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa được quan tâm, nên số hợp tác xã thực hiện việc bao tiêu nông sản cho
60
nông dân ít, hiện mới chỉ có khoảng 10% số hợp tác xã thực hiện việc bao tiêu một phần nông sản cho nông dân. Từ đó chưa hỗ trợ cho việc gia tăng sản lượng và giá trị của sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, một số hợp tác xã được hình thành không đúng bản chất của hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012, mà chủ yếu là để hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Nhiều hợp tác xã nông nghiệp còn lúng túng trong định hướng hoạt động và đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa hợp tác xã với thành viên; vốn ít, doanh thu thấp nên hiệu quả hoạt động chưa cao, một số hợp tác xã hoạt động mang tính hình thức. Nếu xem xét trên góc độ về khả năng tái mở rộng các hoạt động dịch vụ sản xuất và lợi ích mà hợp tác xã mang lại cho thành viên thì hiện mới chỉ có khoảng trên 10% hợp tác xã nông nghiệp hoạt động đạt hiệu quả cao; khoảng 80% hoạt động trung bình và yếu; 8,7% hợp tác xã hoạt động kém hoặc ngừng hoạt động (đến nay còn 950 hợp tác xã). Do hiệu quả hoạt động hạn chế, lợi ích mang lại cho thành viên chưa cao nên người nông dân chưa hăng hái tham gia, gắn bó với hợp tác xã, chưa coi hợp tác xã là “nhà của mình”.
Hiện nay, nhu cầu liên kết là rất lớn, tuy nhiên trên thực tế số hợp tác xã thực hiện liên kết được với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm còn ít. Người nông dân đa số vẫn phải “tự làm, tự bán” là chính,
61
dẫn đến rủi ro nhiều trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và thu nhập của người dân. Trong những lĩnh vực sản xuất hàng hóa phát triển như lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long, bò sữa, mía đường, cà phê, hồ
tiêu cũng chỉ có khoảng 10-15% số lượng nông sản được tiêu thụ thông qua các tổ hợp tác và hợp tác xã.
2. Về vai trò của hợp tác xã đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn
a) Về xây dựng nông thôn mới
Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa X về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Chính phủ đã xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tại Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4-6-2010 và Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16-8-2016 phê duyệt Chương trình giai đoạn 2016-2020.
Sau 6 năm thực hiện, cả nước đã có 2.080 xã hoàn thành 19 tiêu chí và được chính thức công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm hơn 23%). Số xã đạt dưới 5 tiêu chí đã giảm mạnh, từ 42% (năm 2010) xuống còn 3,6% (tháng 5-2016). Cả nước có 28 huyện, thị xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đến cuối năm 2016, cả nước có khoảng 25% số xã và 30 huyện, thị xã đạt chuẩn, hoàn thành xây dựng nông thôn mới.
Kết quả thực tế sau hơn 5 năm triển khai Chương trình đã chứng minh xây dựng nông thôn mới là chủ trương rất hợp lòng dân của Đảng và Nhà nước. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào rộng
62
khắp trong cả nước được cả hệ thống chính trị hưởng ứng tích cực. Dân chủ cơ sở được nâng cao hơn, ý thức và trách nhiệm làm chủ của người dân từng bước được nâng lên rõ rệt. Qua đó đã phát huy được nhiều cách làm sáng tạo, góp phần huy động được nhiều nguồn lực đóng góp cho xây dựng nông thôn mới. Sau 5 năm, bộ mặt nông thôn ở nhiều nơi được đổi mới, văn minh hơn, rõ nhất là kết cấu hạ tầng thiết yếu được nâng cấp, thu nhập của cư dân nông thôn tăng gấp 1,85 lần, đến cuối năm 2015 đạt 24,6 triệu đồng/người, tỷ lệ hộ nghèo nông thôn giảm tương đối nhanh, xuống còn xấp xỉ 7% (theo tiêu chí cũ), điều kiện sống được cải thiện nhanh. Trình độ của cán bộ cấp cơ sở được nâng lên rõ rệt. Nhìn chung, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã được người dân và lãnh đạo các cấp đánh giá là một trong những chương trình có hiệu quả và sức lan tỏa lớn nhất từ trước đến nay.
b) Đóng góp của hợp tác xã vào phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
Thực tế phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn 2010-2015 đã khẳng định vai trò rất to lớn của các tổ chức kinh tế, trong đó có hợp tác xã.
Trong bối cảnh suy thoái của nền kinh tế, hầu hết các hợp tác xã đều gặp khó khăn nhưng nhiều hợp tác xã, nhất là các hợp tác xã kiểu mới, đã có những đóng góp rất tích cực vào xây dựng nông thôn mới, với nhiều hình thức:
63
- Đầu tư vào nông nghiệp, góp phần làm thay đổi cơ cấu sản xuất và tư duy phát triển nông nghiệp ở nhiều vùng nông thôn. Các hợp tác xã, đặc biệt là các hợp tác xã chuyển đổi theo mô hình mới đã giúp tạo thêm việc làm cho nhiều lao động nông thôn với thu nhập ổn định, từ đó tạo việc làm ổn định cho không chỉ các thành viên mà cả lao động địa phương, góp phần thực hiện hiệu quả tiêu chí: Thu nhập, Hộ nghèo và Tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới.
- Là nòng cốt của liên kết nông dân, các hợp tác xã góp phần chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân, bao tiêu nông sản, tham gia tích cực phát triển chuỗi giá trị, khai thác tốt hơn và nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản, tăng thu nhập,... Hơn nữa còn góp phần tích cực thúc đẩy tích tụ ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, tạo nên một đội ngũ nông dân chuyên nghiệp hơn.
- Hỗ trợ xây dựng nông thôn mới bằng vật liệu làm đường giao thông, xây nhà văn hóa, trường học, trạm y tế, sân thể thao, tham gia tích cực công tác an sinh xã hội, xóa nhà tạm cho người nghèo và gia đình chính sách, hỗ trợ người nghèo bằng ủng hộ giống cây trồng, vật nuôi,...
Trong 5 năm qua, tổng mức vốn huy động cho xây dựng nông thôn mới trên cả nước đạt 851.854 tỷ đồng, trong đó vốn của các doanh nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức kinh tế khác hỗ trợ trực tiếp vào xây dựng nông thôn mới đạt 4,9% (tương đương 20.408 tỷ đồng). Nhiều hợp tác xã hàng năm đều dành khoản kinh phí đóng góp trực tiếp cho chương trình
64
xây dựng nông thôn mới và công tác an sinh xã hội. Ở từng địa phương, có rất nhiều hợp tác xã quy mô tuy nhỏ song hàng năm tiêu thụ nông sản trực tiếp cho nông dân rất hiệu quả, tài trợ hàng trăm triệu đồng cho địa phương xây dựng nông thôn mới...
Tính đến hết tháng 6-2016, cả nước có 65,9% số xã đạt tiêu chí số 13. Song có thể nói chất lượng tiêu chí này chưa phản ánh đúng thực trạng về các hợp tác xã, tổ hợp tác khu vực nông thôn.
Thực tế khi đánh giá trực tiếp tại các địa phương cho thấy, công tác tuyên truyền để người dân nhận thức đúng về vai trò, lợi ích khi tham gia hợp tác xã chưa được triển khai mạnh mẽ; việc liên kết với các bộ, ngành, địa phương vẫn còn lỏng lẻo; số lượng hợp tác xã tiếp cận với khoa học - công nghệ trong ứng dụng chuyển giao chưa được nhiều,... Do đó, dấu ấn của các hợp tác xã trong chương trình xây dựng nông thôn mới còn mờ nhạt, chưa phát huy hết tiềm năng của hình thức tổ chức này.
3. Đề xuất, kiến nghị
Từ kết quả đánh giá hợp tác xã kiểu mới sau 4 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, cần thực hiện một số vấn đề sau:
- Rà soát điều chỉnh, bổ sung một số chính sách hỗ trợ hợp tác xã, như:
+ Cơ chế, chính sách để khuyến khích các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho hợp tác xã nông nghiệp vay vốn;
65
+ Cơ chế, chính sách để các hợp tác xã được hỗ trợ về đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hợp tác xã nông nghiệp;
+ Bố trí nguồn kinh phí để thực hiện Quyết định số 2261/QĐ-TTg hỗ trợ các hợp tác xã;
+ Hướng dẫn chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã theo quy định tại Nghị định số 193/2013/NĐ-CP, đặc biệt là nội dung bảo lãnh tín dụng để tạo điều kiện cho các hợp tác xã nông nghiệp tiếp cận vay vốn.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến Luật Hợp tác xã năm 2012, các chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới cho cán bộ, thành viên nâng cao nhận thức về hợp tác xã kiểu mới, thấy rõ được vai trò, nhiệm vụ trong quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới ở địa phương. Tuyên truyền, giới thiệu các mô hình hợp tác xã thực hiện hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới để nhân rộng; vận động, hỗ trợ khuyến khích thành lập các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo Luật.
- Củng cố, phát triển hợp tác xã tổ chức hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012, khuyến khích hợp nhất các hợp tác xã quy mô thôn, liên thôn hoạt động kém hiệu quả thành các hợp tác xã quy mô xã; khuyến khích hợp tác xã mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ kinh doanh, nhất là các dịch vụ đầu ra, khuyến khích phát triển sản xuất như: cơ giới hóa đồng ruộng, dịch vụ chế biến, tiêu thụ sản phẩm, sản xuất giống cây trồng, vật nuôi...
66
- Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động cho đội ngũ cán bộ hợp tác xã; tham mưu đề xuất ban hành các chế độ, chính sách có tính khả thi với hợp tác xã để tổ chức thực hiện hiệu quả, đặc biệt các chính sách khuyến khích hợp tác xã phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới như: đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, bảo quản nông sản, thực hiện cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ các hợp tác xã đẩy mạnh việc chuyển giao ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất tạo ra các vùng sản xuất nông nghiệp sinh thái, sản phẩm nông nghiệp sạch, nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản chế biến, công nghệ thông tin, đưa cơ giới hóa vào sản xuất.
- Giao cho các hợp tác xã có năng lực, đủ điều kiện tham gia thực hiện các dự án, đề án tổ chức sản xuất trong chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các cấp ủy đảng, chính quyền; tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các đề án, kế hoạch, chương trình về phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã, đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra, tập trung tháo gỡ khó khăn cho hợp tác xã, chỉ đạo hướng dẫn việc củng cố phát triển hợp tác xã hoạt động theo Luật, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác xã phát triển bền vững, thực hiện hiệu quả chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.
67
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ
Thông qua nghiên cứu và tìm hiểu thực tế về quá trình phát triển của kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong 30 năm đổi mới vừa qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cơ bản trong việc xây dựng và phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới như sau:
1. Bảo đảm vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền; sự phối hợp vào cuộc của các tổ chức đoàn thể là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công trong việc xây dựng và phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác. Sự phối hợp của ban, ngành, đoàn thể, sự hưởng ứng và tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã kiểu mới một cách hiệu quả, bền vững.
2. Cần chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền tạo ra nhận thức đúng trong các cấp, các ngành, nhất là trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, về vị trí, vai trò và bản chất tốt đẹp của hợp tác xã. Nơi nào làm tốt công tác phổ biến quán triệt về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tạo ra sự chuyển biến tốt về nhận thức và hành động thì nơi đó hợp tác xã hoạt động có hiệu quả; kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh trật tự của địa phương ổn định và phát triển.
3. Bám sát các quan điểm chỉ đạo, vận dụng sáng tạo các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tế. Xây dựng mô
68
hình hợp tác xã điển hình tiên tiến (hợp tác xã kiểu mới), phát huy nội lực của các hợp tác xã là nhân tố quyết định để đưa kinh tế hợp tác, hợp tác xã phát triển vững mạnh; đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới, mang lại lợi ích thiết thực cho thành viên hợp tác xã, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho thành viên hợp tác xã.
4. Chú trọng tổng kết thực tiễn, làm tốt công tác quản lý nhà nước về kinh tế hợp tác, hợp tác xã, tập hợp được đông đảo các lực lượng, huy động mọi nguồn lực của xã hội tham gia vào phát triển kinh tế hợp tác, mà nòng cốt là hợp tác xã. Cần cơ cấu lại một cách cơ bản hệ thống chính sách ưu đãi và chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Đối với các chính sách ưu đãi cần tránh khuynh hướng nặng về bao cấp ngân sách nhà nước đối với hợp tác xã; đồng thời tránh buông lỏng “bỏ rơi” hợp tác xã. Đối với các chính sách hỗ trợ cho phát triển hợp tác xã cần phân biệt rõ, tránh nhầm lẫn giữa chính sách hỗ trợ cho phát triển hợp tác xã với chính sách hỗ trợ cho người dân hưởng lợi thông qua trung gian là hợp tác xã.
5. Công tác cán bộ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, nhất là vai trò có tính quyết định của người đứng đầu (Giám đốc hợp tác xã). Vì vậy, vừa phải khích lệ lòng nhiệt tình, tận tụy, tâm huyết, chủ động, sáng tạo của cán bộ hợp tác xã, vừa phải thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn, động viên, khen thưởng và có chế độ khuyến khích hợp lý để ổn định và xây dựng đội ngũ
69
cán bộ hợp tác xã trẻ, có nhiệt tình, tâm huyết và trí tuệ để xây dựng và phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới đạt hiệu quả cao,...
6. Sự phát triển của kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong thời kỳ đổi mới vừa qua, nhất là trong những năm gần đây đã chứng minh xu thế liên kết, hợp tác trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là tất yếu; từng hộ nông dân, hay từng hợp tác xã, tổ hợp tác hoạt động đơn lẻ sẽ không có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh gay gắt và hội nhập sâu như hiện nay,... Trên thực tế đã xuất hiện những hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã liên kết với các nhà khoa học, ngân hàng và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo chuỗi giá trị gia tăng từ khi chọn giống, vật tư đầu vào, sản xuất, thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm cho hiệu quả cao và phát triển bền vững.
70
Phần thứ hai
GIỚI THIỆU một số HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI ĐIỂN HÌNH
GIAI ĐOẠN 2014-2016
71
NINH BÌNH
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP HỢP TIẾN
(Đơn vị Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới) Hợp với lòng dân
1. Thông tin chung
- Địa chỉ: xóm Chùa, xã Khánh Nhạc, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
- Ngày thành lập: năm 1959. Chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012: tháng 12-2015. - Điện thoại: (0229) 3841427
2. Quy mô hợp tác xã
- Vốn điều lệ: 1,5 tỷ đồng.
- Vốn hoạt động: 4,9 tỷ đồng.
- Thành viên: 1.161 người.
- Diện tích đất canh tác: 446 ha; đất sản xuất nông nghiệp: 331 ha.
3. Ngành nghề, sản phẩm chủ yếu
Dịch vụ nông nghiệp.
4. Các loại dịch vụ hợp tác xã cung cấp cho thành viên
- Dịch vụ vật tư nông nghiệp.
- Dịch vụ điều tiết nước và bảo vệ đồng điền. - Dịch vụ làm đất.
- Dịch vụ bảo vệ thực vật.
- Dịch vụ tín dụng nội bộ.
- Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm.
- Dịch vụ sấy nông sản.
72
5. Thu nhập bình quân của các thành viên và doanh thu của hợp tác xã
- Thu nhập bình quân của thành viên hợp tác xã: 96 triệu đồng/ha/hộ.
- Tổng doanh thu của hợp tác xã: năm 2014 - 4,4 tỷ đồng; năm 2015 - 5,6 tỷ đồng.
Trăn trở chuyển đổi
Gần hai mươi năm trước, Hợp tác xã nông nghiệp Hợp Tiến bước vào thời kỳ chuyển đổi mô hình hợp tác xã, từ mô hình sản xuất tập trung, rong công, chấm điểm hiệu quả thấp, đời sống của bà con xã viên rất khó khăn, thiếu thốn... sang mô hình hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp theo quy định mới của Luật Hợp tác xã. Từ đó, hợp tác xã từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất, dịch vụ của mình, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ phát triển, được xã viên tin tưởng, ủng hộ. Với việc lập được nhiều thành tích xuất sắc, Hợp tác xã nông nghiệp Hợp Tiến đã được Đảng và Nhà nước phong tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới vào năm 2000. Tuy nhiên, để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hợp tác xã còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Chủ tịch Hội đồng quản trị hợp tác xã Vũ Văn Quyết trăn trở, nếu chỉ nhìn vào lợi nhuận kinh tế đơn thuần của hợp tác xã thì quả nhiên chưa phải là lớn; nhưng để đạt được kết quả lợi nhuận vài trăm triệu đồng của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và làm thay đổi hẳn tập quán canh tác, lối tư duy làm ăn
73
nhỏ lẻ sang tập quán canh tác mới mang tính hàng hóa là cả một quá trình phấn đấu kiên trì và khó nhọc, đặc biệt với điều kiện nghề nông có thu nhập thấp, lại thường xuyên phụ thuộc vào thiên nhiên, chịu nhiều thiên tai, dịch bệnh, cộng với tâm lý ỉ lại, trông chờ lâu nay của bà con nông dân nên càng thêm khó khăn...
Nhớ lại những ngày đầu chuyển đổi, cơ sở vật chất của hợp tác xã nghèo nàn, thiếu vốn trầm trọng, Hội đồng quản trị hợp tác xã vừa huy động vốn của từng thành viên Hội đồng quản trị, vừa thế chấp nhà riêng để vay thêm của ngân hàng để có vốn làm dịch vụ như cung ứng giống, vật tư, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật phục vụ cho hộ thành viên. Thế nhưng đa số hộ thành viên không có tiền trả ngay, nợ của hợp tác xã; còn hợp tác xã lại nợ lại ngân hàng và doanh nghiệp, đến mùa mới trả. Vì vậy, để khuyến khích những thành viên tích cực, trả tiền ngay giúp tăng vòng quay của đồng vốn, hợp tác xã đã giảm phí dịch vụ cho thành viên, chỉ tính thêm chi phí vận chuyển, còn hộ nào nợ vật tư thì phải tính lãi, mặc dù lãi suất rất thấp, nhưng tạo ra được sự công bằng và trách nhiệm giữa hai bên. Dần dần, đến bây giờ, gần như 100% thành viên hợp tác xã sử dụng các khâu dịch vụ của hợp tác xã như: vật tư, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, giống lúa và các loại giống cây trồng, vật nuôi. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để có thể giữ chân được các thành viên hợp tác xã sử dụng dịch vụ
74
của mình, các dịch vụ của hợp tác xã cung cấp phải đảm bảo chất lượng. Chính vì vậy, Ban Quản trị hợp tác xã chủ động tìm kiếm và ký kết hợp đồng với các công ty cung ứng vật tư và giống cây trồng, vật nuôi có uy tín, cam kết đảm bảo chất lượng cho thành viên; đồng thời giá thành phải bằng hoặc rẻ hơn từ 0,8 đến 1% so với tư nhân. Nhờ vậy hàng năm, hợp tác xã làm dịch vụ cung ứng 250-300 tấn phân bón và thức ăn gia súc các loại cho thành viên đảm bảo chất lượng. Các dịch vụ thủy lợi, bảo vệ thực vật, thú y được hợp tác xã tổ chức thành tổ chuyên trách, có chuyên môn, kỹ thuật chăm sóc trên toàn bộ diện tích 331 ha của hợp tác xã nhằm đảm bảo chất lượng phòng trừ sâu bệnh một cách đồng bộ và có hiệu quả cao.
Dồn điền, đổi thửa để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị
Từ năm 2011, thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng, Nhà nước và chính sách dồn điền, đổi thửa của Chính phủ, hợp tác xã đã hoàn thành công tác dồn điền, đổi thửa xong toàn bộ diện tích 331 ha đất trồng trọt, đảm bảo chủ động được nước tưới tiêu trên toàn bộ diện tích. Nếu trước đây mỗi hộ có từ 3 đến 5 mảnh ruộng khác nhau, nay qua dồn điền, đổi thửa chỉ còn 01 thửa/hộ; trong đó có những thửa diện tích rộng vài chục hécta, rất thuận lợi cho việc canh tác, nâng cao năng suất và chất lượng nông sản. Đây cũng chính là cơ hội để hợp tác xã mở ra các dịch vụ mới phục vụ cho sản xuất của thành viên và hỗ trợ kinh tế hộ phát triển.
75
Trước hết là dịch vụ làm đất, hợp tác xã tổ chức 23 máy chuyên làm đất cho các hộ thành viên với mức thu 70.000 đồng/sào/vụ, thấp hơn so với thành viên tự thuê 90.000-100.000 đồng/sào/vụ, gọn vùng mà thời gian lại ngắn, chỉ từ 10 đến 12 ngày là xong toàn bộ diện tích gieo trồng của hợp tác xã theo đúng lịch trình, thời vụ. Hợp tác xã còn động viên thành viên, cán bộ phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật để có năng suất cao, giá thành hạ như: cải tiến máy phay đất tạo thành luống phục vụ cho sản xuất vụ đông, để chuyển sang trồng màu cho năng suất và giá trị cao; cải tiến, nâng cao hiệu quả của máy phun thuốc trừ sâu, giúp cho nhiều hộ thành viên không phải phun thuốc thủ công tốn kém lao động và không đảm bảo an toàn... Để có bộ giống chuẩn phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của địa phương, hợp tác xã đã mượn đất 5% của Ủy ban nhân dân xã cho 15 hộ chuyên sản xuất các loại giống trước khi đưa ra đại trà. Hợp tác xã kết hợp với Trung tâm Khuyến nông của tỉnh, công ty giống, phòng kinh tế huyện tìm giống siêu chủng để nhân giống; cử cán bộ theo dõi hướng dẫn chọn lọc, thu mua, cung ứng tại chỗ cho thành viên và bán cho hợp tác xã bạn, có bảo hành cuối vụ. Ngoài ra, hợp tác xã còn mở thêm các dịch vụ như: tín dụng nội bộ, cắt cỏ, nạo vét kênh mương, diệt chuột, bảo vệ đồng ruộng. Nhờ vậy, các hộ thành viên rất an tâm sản xuất và tin vào thành quả lao động của mình. Đặc biệt, từ năm 2013, được sự giúp đỡ của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình, hợp tác xã đã lắp đặt 1 máy sấy nông sản, công suất 10 tấn/mẻ/ngày phục vụ
76
thành viên hợp tác xã và các hợp tác xã bạn. Mỗi vụ hợp tác xã sấy được 250 đến 300 kg thóc đảm bảo chất lượng làm thóc giống, giá bán cao gấp 2 lần so với giá thóc phơi nắng, tạo việc làm thường xuyên cho 10 lao động với thu nhập ổn định. Những năm gần đây, hợp tác xã cũng chủ động ký kết hợp đồng với các công ty để tiêu thụ nông sản cho thành viên như lúa giống chất lượng cao, ngô ngọt, khoai tây sạch với mức giá cao hơn giá thị trường. Nhiều công ty còn ứng trước cho thành viên về giống, vật tư, phân bón làm cho thành viên rất phấn khởi, tin tưởng vào hợp tác xã, giảm hẳn hiện tượng bán sản phẩm ra bên ngoài, phá vỡ hợp đồng như những năm trước đây.
Quan tâm đào tạo tay nghề, tạo việc làm mới cho thành viên
Để khuyến khích, hỗ trợ kinh tế hộ phát triển, hợp tác xã đã chủ động làm tốt công tác chuyển giao các tiến bộ khoa học, kỹ thuật cho thành viên để mọi người nắm bắt được thông tin và các tiến bộ khoa học công nghệ mới. Hàng năm, hợp tác xã đã kết hợp với các trung tâm, trạm, trại, cơ sở cung ứng vật tư mở từ 10 đến 12 lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cho 765 lượt thành viên về kỹ thuật giống cây trồng mới, kỹ thuật chăn nuôi, sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, kỹ thuật trồng cây vụ đông như khoai tây sạch, ngô ngọt, cà chua bi...
Thực hiện chủ trương, chính sách xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nước, đồng thời phát huy các ngành nghề thủ công sẵn có của địa phương và học
77
hỏi thêm các nghề mới, hợp tác xã thường xuyên cử cán bộ đi học các lớp chuyển giao kỹ thuật, khuyến công, khuyến nông về hướng dẫn cho thành viên tổ chức sản xuất theo phương pháp mới đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Đồng thời, hợp tác xã luôn chủ động hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp để dạy nghề, cung ứng dịch vụ, tạo thêm việc làm mới cho thành viên, góp phần nâng cao đời sống và chuyển dịch cơ cấu lao động tại địa phương. Nhờ vậy, hợp tác xã đã giải quyết được việc làm thường xuyên cho 1.850 lao động lúc thời vụ cũng như lúc nông nhàn, duy trì có hiệu quả các nghề thủ công. Ngoài ra, do thường xuyên cải tiến mẫu mã và có phương thức tiêu thụ linh hoạt nên các mặt hàng như: đan lát cói, bèo bồng khô, đan lát tre nứa, thêu móc sợi, hàng may được tiêu thụ mạnh, mang lại thu nhập từ 40.000-50.000 đồng/người/ngày. Hợp tác xã còn khuyến khích và hỗ trợ mở các nhóm nghề kỹ thuật như cơ khí, nề, xay xát, chế biến, thu mua nông sản, trồng nấm, vì vậy cơ cấu kinh tế trong hợp tác xã đã được chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ lệ giữa các nhóm ngành: trồng trọt, chăn nuôi là 52%, ngành nghề khác 25%, dịch vụ 23%, hướng đến sự phát triển toàn diện và bền vững.
Kết quả đáng phấn khởi
Với sự cố gắng, đoàn kết nhất trí, không ngừng phấn đấu, lao động sáng tạo, trách nhiệm cao của Hội đồng quản trị và thành viên hợp tác xã, trong năm 2015, bình quân 1 ha canh tác của hợp tác xã đã đạt
78