🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Gì Chưa Dạy Ở Trường Báo Chí
Ebooks
Nhóm Zalo
1 những gì không học ở trường báo chí
những gì không học ở trường báo chí
những gì không học ở trường báo chí 2
3 những gì không học ở trường báo chí
Những gì
không học ở trường báo chí tài liệu tham khảo
ấn bản thứ ba
trần công khanh
nhà xuất bản giấy vụn 2012
những gì không học ở trường báo chí 4
mở đầu học báo có làm được nghề? v
nội dung
Mở đầu
Học báo có làm được nghề? vii Chương 1
Những nguyên tắc tổng quát để viết báo 1 Chương 2
Trình bày bài viết 11 Chương 3
Các thể loại báo chí 27 Chương 4
Phóng sự - tin mềm 61 Chương 5
Phóng sự thị trường 95 Chương 6
Phỏng vấn-chân dung 139 Chương 7
Bình luận báo chí Việt Nam 153 Chương 8
Ảnh báo chí, medium trực quan 161 Chương 9
Đồ hoạ thông tin 173 Chương 10
Yếu tố nhân cảm 189 Chương 11
Tư duy và phát hiện đề tài 205
vi những gì không học ở trường báo chí
Chương 12
Đồ nghề của phóng viên 255 Chương 13
Trình bày bản thảo 265 Chương 14
Phép hiệu đính “bon” 283 Phụ lục 1
Một số thuật ngữ tiếng Anh 293 Phụ lục 2
Một số thuật ngữ tiếng Pháp 305 Tài liệu tham khảo và trích dẫn lai rai 316
mở đầu học báo có làm được nghề? vii
mở đầu
Học báo có
làm được nghề?
Nguy cơ trở thành nhà gì?
Sáu luận văn đầu tiên của sinh viên báo
chí khoa ngữ văn báo chí Trường đại học
khoa học xã hội nhân văn được bảo vệ ngày 22.6.1999 gồm:
- Đạo đức nghề nghiệp nhà báo trong nền
kinh tế thị trường- Vũ Thị Thanh,
- Gia Định Báo, tờ báo Việt Ngữ đầu tiên -
Ưng Sơn Ca,
- Báo chí yêu nước tiến bộ ở miền Nam giai
đoạn 1954-65 - Phạm Quỳnh Uyên,
- Báo chí học sinh-sinh viên các đô thị miền
Nam thời chống Mỹ - Hoàng Dạ Thi, và
- Báo Tuổi Trẻ TP. HCM với 10 năm đổi
mới trong tiến trình cách mạng Việt Nam -
Phạm Thị Kim Anh (Tuổi Trẻ thứ Ba
8.6.1999)
viii những gì không học ở trường báo chí
Xã hội đang có nhu cầu về kỹ năng viết
báo. Đáp ứng nhu cầu đó, tại TP.
HCM từng có ba trường đào tạo
ngành báo chí: Trường đại học mở
bán công, Trường đại học tổng hợp và
Trường “quản lý” báo chí. Hai bộ
môn báo chí hai trường mở bán công và tổng hợp đã hợp nhất và được đào tạo tại Trường đại học tổng hợp sau đổi thành Trường đại học khoa học nhân văn.
Chúng tôi nêu lại các chương trình của hai bộ môn báo chí thuộc hai trường như là một tư liệu tham khảo về cách soạn thảo chương trình của mỗi đơn vị.
Trường đại học mở bán công có khoa báo chí do tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng làm trưởng khoa; chương trình giáo dục đào tạo tại đây được chia làm hai dạng lớp báo chí; lớp hệ bốn năm dành cho những sinh viên có bằng tú tài và lớp hệ hai năm dành cho những sinh viên có bằng đại học đại cương (nay đã bỏ sản phẩm giáo dục có tên gọi là “đại học đại cương”).
Trường đại học tổng hợp có ngành báo chí trực thuộc
mở đầu học báo có làm được nghề? ix
khoa ngữ văn báo chí do Phó tiến sĩ (nay đã là tiến sĩ) Huỳnh Như Phương làm trưởng khoa; ở đây có một lớp báo chí mở rộng duy nhất và cuối cùng hệ bốn, năm năm và có các lớp báo chí chính qui gồm chính qui bán thời gian và chính quy toàn thời gian; các lớp chính qui này còn chia ra dạng hệ hai năm và dạng hệ bốn năm. Tới nay chỉ còn một loại hình chính quy bốn năm.
Cấu trúc chương trình tại Trường đại học tổng hợp - Tổng số thời gian học tập: 1.860 tiết + 2 tháng thực tập tại toà báo hoặc đài phát thanh, truyền hình + 2 tháng làm bài tập tốt nghiệp. Sau đó thi tốt nghiệp cử nhân báo chí. Ngoài ra để đủ điều kiện tốt nghiệp, sinh viên phải có bằng B tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
- Trong đó có 21 phần trăm trên tổng số thời gian, sinh viên được đào tạo về văn học.
- Các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ học chiếm 11,3 phần trăm.
- Nghiệp vụ thực hành chiếm 17,7 phần trăm. - Sinh ngữ nâng cao chiếm 6,4 phần trăm.
- Cái được gọi là kiến thức nền (chương trình đại cương) chiếm 43,6 phần trăm.
Cấu trúc chương trình tại trường đại học mở bán công Ngược lại với chương trình của trường đại học tổng hợp, ở đây, bạn chỉ phải trải qua chừng 60 tiết văn học trong toàn bộ thời gian đào tạo.
Chương trình của đại học mở bán công nhấn mạnh đến vi tính và quản trị kinh doanh(!).
Hệ quả
Nếu sinh viên là người thành công trong các môn
x những gì không học ở trường báo chí
học, thì:
- học ở Trường đại học tổng hợp lúc bấy giờ sinh viên có nguy cơ trở thành nhà văn hoặc nhà văn học. Tới năm 1999, sinh viên có nguy cơ lớn nhất là trở thành nhà nghiên cứu và lý luận lịch sử báo chí (xem các luận văn tốt nghiệp năm 1999 ở trang 3);
- học ở trường đại học mở bán công bạn có nguy cơ trở thành doanh nhân hoặc chuyên viên dàn trang trên vi tính, thảng hoặc trở thành nhà trị sự báo chí.
Mục đích của tập sách
Trong tập sách này chúng tôi xin trình bày những kỹ thuật cơ bản trong nghề viết báo (những kiến thức mà nơi các lò “học thuật” người ta thường bỏ qua).
Viết cho độc giả của bạn
Nếu phải đưa ra một định nghĩa về báo chí chỉ bằng ba tiếng, sẽ không có khái niệm nào tốt hơn cái sau đây: báo chí là cái gì mới.
Cái gì mới, cái gì hấp dẫn trong thành phố tôi đang ở, trên đất nước tôi đang sống, trên thế giới?
Đó là cái mà người đàn ông bước ra khỏi nhà để mua tờ báo và tìm ở đấy câu trả lời. Cái mà người phụ nữ vừa làm bếp vừa bật radio để tìm câu trả lời. Cái mà cả gia đình ngày nào cũng mất 4 - 5 tiếng đồng hồ quây quần trước TV để nhận câu trả lời.
Cái gì mới và hấp dẫn?
Chính là câu hỏi mà nhà báo bỏ cả cuộc đời để trả lời, thông qua bài viết, qua bài tin phát thanh, qua hình ảnh màn hình. Công việc truyền đạt những gì bạn cần truyền một phần tuỳ thuộc vào tài năng hoặc năng khiếu.
mở đầu học báo có làm được nghề? xi
Phong cách viết, giọng đọc, hình ảnh đều tham gia công việc này.
Nhưng ngay từ căn bản, việc truyền đạt một thông điệp (message) luôn đòi hỏi một kỹ thuật và kỹ thuật ấy chỉ có thể thủ đắc được thông qua đào tạo.
Mong rằng cuốn sách này sẽ cung cấp những chiếc chìa khoá đầu tiên cần thiết cho việc tác nghiệp báo chí.
xii những gì không học ở trường báo chí
chương 1 những nguyên tắc cơ bản để viết báo 1
1.Những nguyên tắc cơ bản để viết báo
Trong chương này...
Văn bản truyền thông
- thông điệp trong sáng
- ngôn ngữ trong sáng
- luật chấm câu
2 những gì không học ở trường báo chí
Văn bản truyền thông
Phóng viên viết ra để độc giả của anh ta đọc và hiểu, trừ phi anh ta không lấy công chúng phổ thông làm đối tượng nhắm đến. Nhưng ngay cả độc giả của một chuyên san cũng không có cùng một trình độ nhất định. Điều này càng hiển nhiên hơn đối với những tờ tin tức phổ thông ra hàng ngày, những tạp chí có số phát hành lớn, các phương tiện truyền thanh và truyền hình.
Cái phóng viên cần quan tâm trước hết là sự trong sáng: sự trong sáng trong thông địêp, trong ngôn ngữ.
Thông điệp trong sáng
Tất cả các bài báo là những thông điệp: về một tin tức, hay một ý kiến. Cách tốt nhất đề truyền đạt thông điệp này là tự bạn hình thành cho bạn một phương thức thể hiện nó thành văn bản, trước khi bạn khởi sự biên tập bài tin.
Đó chính là điều mà ai cũng từng trải qua trong ngày, trong cuộc sống thường nhật, khi có người yều cầu bạn tường thuật lại một cuộc họp, hay một biến cố mà bạn chứng kiến: “Tổng thống đã thoái vị. X... và Y... đứng ra
chương 1 những nguyên tắc cơ bản để viết báo 3
tranh cử” hoặc “Buổi biểu diễn đầu tiên đã bị thất bại. Căn phòng trống quá nửa số ghế và khán giả đã huýt sáo”. Dầu cho đề tài phức tạp đến đâu, cái cốt lõi cần nói có thể quảng diễn gãy gọn bằng hai câu. Nếu bạn chỉ có 10 dòng để trình bày vấn đề, hoặc 10 giây để phát biểu, bạn cần phải ứng xử bằng sự ngắn gọn.
Tự buộc mình trong hai câu trước khi tập viết một bài tin là một phương pháp tốt để trình bày một cách rõ ràng những gì độc giả, thính giả hoặc khán giả cần được thông tin.
Biên tập thông điệp cốt lõi buộc người ta phải chọn lựa, phải cấp độ hoá, phải gạt bỏ những cái phụ thuộc. Đó là cách thức tuyệt vời để nhận thức được rằng bạn sẽ bắt đầu từ đâu trong khi đang lúng túng hoặc bị vây hãm giữa trùng trùng chi tiết.
Đó là cái bạn phải trải qua trong quá trình thực hiện tựa (titre) và chapô (đoạn dẫn, đoạn mở đầu, đoạn lead) bài viết.
Sau cùng hai yếu tố đó cũng là một hướng đạo viên đáng tin cậy cho bố cục bài viết. Thông điệp cốt lõi, đó là ngôi sao bắc đẩu giúp phóng viên không bị lạc hướng.
Một bài viết là một thông điệp cốt lõi và chỉ một. Nếu không biết quảng diễn nó trong vài hàng có nghĩa là chúng ta chưa nắm được cách truyền đạt.
Không kể trường hợp không có gì để nói, và trường hợp này tốt hơn là không nên nói.
May mắn thay là người ta thường có quá nhiều điều để nói. Thế nên phải chọn một góc ưu tiên, còn những cái thứ yếu cần được xử lý giản lược hơn.
Đó là cách đơn giản để tránh bị “vây hãm” đột ngột. Cũng như để tránh một bản tin “quá nhiều góc độ”, khiến độc giả không còn biết đường nào mà lần.
4 những gì không học ở trường báo chí
Nếu thực sự đề tài bao gồm nhiều vấn đề cốt lõi, tốt hơn là tách chúng ra thành nhiều bài viết riêng.
Ngôn ngữ trong sáng
Nhiều phóng viên mới vào nghề bị ám ảnh bởi một vấn đề giả tạo: phong cách viết.
Báo chí không phải là văn chương. Phóng viên trước tiên là người chuyên nghiệp về thông tin. Anh ta viết để thuật lại những gì xảy ra trong nước cũng như trên thế giới.
Những điều ấy được độc giả, thính giả, khán giả của anh ta quan tâm. Nếu, thêm vào đó, anh ta có một năng khiếu diễn đạt, càng tốt - năng khiếu này sẽ sớm được phát hiện.
Nhưng ngay từ đầu, chủ yếu người ta đòi hỏi nhà báo ngoài cái giác quan về thông tin, còn phải có năng khiếu truyền đạt thông tin một cách cụ thể và ai cũng hiểu được.
• Hãy tìm cách diễn đạt thông điệp cốt lõi của bạn một cách đơn giản và trong sáng nhất. Một thông điệp cho mỗi bài tin, một thông tin cho mỗi câu.
Phải tôn trọng luật chính tả. Luật chính tả là một tín hiệu vừa khách quan, vừa logic, giống như tín hiệu giao thông. Mỗi tiếng có một khuôn mặt được độc giả nhận biết từ lâu: lỗi chính tả làm cho tri giác độc giả đối với câu chuyện kể bị rối loạn. Lỗi càng nhiều sẽ khiến cho tác giả bài viết bị đánh giá và chất lượng của thông điệp bị nghi ngờ.
• Hãy chú ý đến mạch văn. Trong tiếng Việt, cấu trúc thông dụng của câu là C-V (chủ-vị). đó là cấu trúc dễ hiểu và dễ “thâm nhập” nhất.
Một cấu trúc khác thường thỉnh thoảng cũng có thể đưa ra một hiệu ứng bất ngờ. Nhưng lạm dụng những cấu trúc lạ sẽ gây khó khăn cho việc nắm bắt thông điệp. • Hãy viết những câu ngắn.
chương 1 những nguyên tắc cơ bản để viết báo 5
Các thí nghiệm về khả năng đọc và nhớ chỉ ra rằng trong một câu trung bình từ 20-30 tiếng, độc giả sẽ nắm bắt nửa đoạn sau khó khăn hơn nửa đoạn trước.
Quá 40 tiếng, một phần lớn của câu sẽ không ghi được vào trí nhớ. Điều đó đủ để lên án những câu từ 50 - 60 tiếng trong bài viết.
Xin nhớ cho rằng người ta không đọc một tờ báo như đọc Marcel Proust (tác giả bộ Đi tìm thời gian đã mất - A la recherche du temps perdu - nổi tiếng).
Nếu mỗi câu độc giả đều phải đọc lại mới nắm được, phản xạ thói quen của họ sẽ bị thui chột.
Cũng không nên áp dụng một “phong cách nhát gừng” bằng những câu dưới 10 tiếng như một số phóng viên đã chọn. Độc giả cũng mau “dứt hơi” với kiểu “nhát gừng” này.
Một sự phối hợp giữa những câu rất ngắn và những câu dài hơn là cần thiết. Nhưng 40 tiếng phải là một giới hạn. • Hãy sử dụng lớp từ vựng toàn dân.
Tất cả những từ lạ đều là một trở ngại gây khó chịu cho độc giả, thính giả cũng như khán giả. Nếu câu nào cũng đụng phải trở ngại, độc giả sẽ bỏ bài báo không đọc nữa và thậm chí còn bỏ tờ báo ra đi.
Tự đặt mình ngang tầm với độc giả không phải là một dấu hiệu khinh chê. Hãy sắp xếp để giải thích những từ có khả năng khó nắm bắt, dùng một từ thông dụng tốt hơn là dùng một từ bác học.
Ví dụ “bị đụng” thay vì “chấn thương”, “cách trị bệnh” thay vì “liệu pháp”, giải thích rành rẽ một từ cổ, so sánh một con số với một độ lớn cụ thể thường là những phản xạ nghề nghiệp sơ đẳng và cần thiết đối với phóng viên.
Dùng một thứ từ vựng đơn giản không gây trở ngại gì cho sự chính xác. Những động từ mang nét nghĩa rộng cần được thay thế bằng những động từ mang nét nghĩa hẹp
6 những gì không học ở trường báo chí
hơn và thông dụng.
Khi được giải thích, một từ kỹ thuật sẽ tránh được những ngữ trung gian (périphrase) và những ngữ gần nghĩa. Hãy coi chừng những từ đang thời thượng, chạy theo mốt. Tất nhiên giới trẻ sẽ hâm mộ, nhưng một số lượng độc giả khác sẽ bỏ tờ báo.
Một luật vàng: trong bất kỳ trường hợp nào, đừng bao giờ xài một từ mà ngay chính bản thân bạn cũng không hiểu một cách thấu đáo.
Luật chấm câu
Theo kinh nghiệm của chúng tôi, luật chấm câu ở mỗi tờ báo mỗi khác. Nhiều ông/bà biên tập viên còn áp đặt luật riêng của họ bắt các proofreader (nhân viên sửa lỗi chính tả văn bản) răm rắp tuân theo. Chúng tôi xin giới thiệu một số luật chấm câu được áp dụng phổ thông.
Dấu phảy [,] đánh dấu một sự dừng ngắn, bên trong câu, giữa các thành tố câu không được liên kết bằng các từ nối hay các phụ từ.
Dấu phảy cũng còn dùng để tách hai thành tố có cùng chức năng ngữ pháp, đặc biệt là trong các chuỗi liệt kê. Dấu chấm phảy [;] đánh dấu một quảng dừng lâu hơn dấu phảy, giữa hai đoạn của câu có cùng tính chất, và có một độ dài nào đó.
Dấu chấm phảy có tác dụng kéo dài câu. Điều này có hại cho việc nắm bắt khi đọc.
Các phóng viên rất thường có khuynh hướng thay thế dấu chấm phảy bằng dấu chấm. Công dụng chính của dấu chấm phảy là tách các thành tố của một chuỗi liệt kê, khi mà các thành tố này khá đa dạng và bao gồm các liệt kê cấp độ nhỏ hơn, cách nhau bằng dấu phảy.
Dấu hai chấm [:] được dùng:
chương 1 những nguyên tắc cơ bản để viết báo 7
- để dẫn các câu nói của một nhân vật hay dẫn một trích đoạn;
- trước một chuỗi liệt kê;
- để dẫn ra một lời giải thích, một ví dụ, một sự mô tả; và - để trình bày kết lụân, kết quả, sự tổng hợp những cái trước đó mà không phải sử dụng các từ trung gian. Dấu chấm hỏi [?] kết thúc tất cả các câu nghi vấn trực tíêp. Người ta không dùng dấu chấm hỏi ở cuối một nghi vấn gián tiếp. Ví dụ: “Anh ấy hỏi tôi có tin anh ấy không”. Dấu chấm hỏi trong ngoặc đơn (?) thường được dùng để biểu lộ sự nghi ngờ đối với một thông tin đưa ra, một phát ngôn của ai đó.
Dấu chấm than [!] kết thúc các câu ngạc nhiên, thán phục, bất bình, thở phào. Dấu chấm than thường đi sau các từ hô khởi, tán thán (như “Nè! ôi!”), và các câu mệnh lệnh mà người ta muốn nhấn mạnh: “Lại đây!”
Hãy tránh lạm dụng dấu chấm than. Nó thường làm ý nghĩa của ký hiệu bị yếu đi và thường tố giác bạn thiếu năng lực diễn đạt tư tưởng bằng các từ.
Dấu chấm lửng [...] kết thúc hay bỏ lửng một câu dang dở vì một vài lý do (như ngắt câu, ngắt lời, ngập ngừng, chuyển ý, ngừng tạm thời, xúc động, châm biếm, hiểu ngầm, nối dài phần ý tưởng không cần thiết biểu đạt...). Dấu chấm lửng không bao giờ nhiều hơn ba chấm. Nó thường được diễn đạt bằng [...]
Đôi khi dấu chấm lửng là kỹ xảo của phóng viên dùng để làm biếng, né tránh việc đưa ra chi tiết mà không ai bắt bẻ được.
Dấu ngoặc kép [“”]. Người ta đặt giữa dấu ngoặc kép: - những trích đoạn và những lời nói được dẫn nguyên văn vào bài viết;
- những từ hay những ngữ mà tác giả không muốn chịu
8 những gì không học ở trường báo chí
trách nhiệm; và
- những từ mang nghĩa phái sinh mới, những từ hay ngữ mà người ta muốn đánh dấu đặc tính “lóng”, kỹ thuật, vay mượn, hoặc đánh dấu một nét nghĩa lâm thời.
Vài trường hợp đặc biệt
+ trong một trích đoạn gồm nhiều đoạn, dấu ngoặc kép được mở ra ở đầu mỗi đoạn và chỉ đóng lại một lần khi đoạn cuối kết thúc;
+ trong một đoạn thoại, dấu ngoặc kép được mở ra khi bắt đầu câu thoại đầu tiên và đóng lại sau câu cuối. Việc thay đổi bên phát ngôn sẽ được ký hiệu bằng thao tác sang hàng và gạch ngang đầu câu;
+ trong một trích đoạn, khi tác giả của bài viết bắt đầu trở lại vai trò chủ phát ngôn, và thường thường khi có một đoạn chẻn vào giữa trích đoạn, người ta đóng ngoặc trước đoạn chèn và tiếp tục mở ra sau đoạn chèn. Tuy nhiên, khi đoạn chèn cực ngắn như: anh nói, cô trả lời,người ta chỉ đơn giản đặt nó giữa hai dấu phảy;
+ khi đoạn văn đặt giữa ngoặc kép được xét riêng rẽ, nó đòi hỏi một dấu chấm tận, dấu chấm sẽ được chấm trước khi đóng ngoặc. Ví dụ: Bạn đã hỏi tôi: “Bạn làm gì ở đây?” Tôi trả lời: “Tôi chờ bạn.”
Những trường hợp khác, dấu chấm sẽ được đặt đằng sau dấu ngoặc kép. Ví dụ: đó là sự cáo chung của “những thuộc địa mùa hè xinh đẹp”.
Trên radio và TV, người ta đánh dấu đoạn mở đầu một trích đoạn ngắn bằng cách nhắc lại tên tác giả của nó và bằng cách đó tách các từ được trích ra (khỏi mạch văn trước). Gặp một trích đoạn dài hơn người ta sẽ đánh dấu mở đầu và kết thúc bằng “đây/đó là nguyên văn trích đoạn”.
chương 1 những nguyên tắc cơ bản để viết báo 9
Dấu ngoặc đơn () cô lập một từ hay một câu không cần thiết cho nghĩa khái quát của cả câu, nhưng lại có tác dụng nhằm đưa ra một chú thích, giải thích, nhắc lại khiến cho câu dễ hiểu hơn. Sự có mặt của các dấu ngoặc đơn làm các đoạn văn bị manh mún.
Dấu móc [] (crochets/brackets) là một loại ngoặc đơn nhấn mạnh. Trong báo chí, người ta thường dùng để tách riêng một giải thích ngắn của bài viết sau một thông tin, một thư độc giả,...
Dấu ngoặc đơn và dấu móc cũng dùng để “đóng khung” các chấm lửng nhằm biểu đạt một đoạn văn xét thấy không cần thiết phải lặp lại trong một trích đoạn. Ví dụ: “Không phải chúng ta bỏ rơi anh ta [...], chính anh ta tự xa rời chúng ta”.
Dấu gạch ngang [-], khác với ngoặc đơn vốn làm manh mún đoạn văn; dấu gạch ngang làm cho từ hay ngữ mà chúng ta để nằm giữa hai dấu gạch ngang trở nên có giá trị hơn. Ví dụ: “Sau cùng - tôi vỡ lẽ - bọn họ đã chẳng có một bằng chứng nào”.
Ghi chú: khi dấu gạch ngang thứ hai rơi vào cuối câu, người ta bỏ dấu ấy và chỉ đơn giản chấm câu. Ví dụ: “Sau cùng, bọn họ đã chẳng có một bằng chứng nào - tôi vỡ lẽ”.
Dấu gạch ngang còn dùng để thay đổi bên phát ngôn trong một đoạn thoại và để đánh dấu các thành tố của một chuỗi liệt kê.
Chú ý: Dấu gạch ngang không bao giờ thay thế dấu chấm.
Sang hàng đánh dấu một sự dừng lâu hơn dấu chấm, sau khi triển khai một nhóm ý tưởng hoặc thông tin. Sang hàng là một phương tiện hữu hiệu giúp người đọc xả hơi, và cũng để đánh dấu các liệt khai trong bài tin.
Dấu hoa thị [*] hoặc dấu nhắc chú thích [1]được dùng
10 những gì không học ở trường báo chí
để hướng dẫn theo dõi các giải thích, thường được in bằng co chữ nhỏ hơn và nằm ở cuối cột hoặc cuối bài. Chú thích sẽ triển khai một điểm chi tiết, ghi rõ hơn nguồn gốc của một trích đoạn, ghi rõ các nguồn đối chiếu khác. Nên hạn chế sử dụng chúng. Chú thích chỉ đặc biệt tiện dụng để làm rõ một thông tin thực hành: địa chỉ của một cơ quan, ngày, giờ mở cửa, v.v.
chương 2 trình bày bài viết 11
2.Trình bày
bài viết
Trong chương này...
Sao cho dễ đọc
- tít (titre)(*): bảng hiệu
+ tít thông tin
+ tít gợi ý/hình thức
- mở (chapeau, accroche):
cửa kính trưng bày
- tít đoạn (Intertitre): cửa
sổ bài tin
- đóng (Attaque/Chute):
tấn công /hạ màn
- chú thích (Légende):
miếng mồi câu
- hộp (Hors-text): hộp tin
liên quan
(*)Chúng tôi ghi kèm theo nguyên văn các thuật ngữ chuyên môn này - theo báo chí Pháp, vì chúng được dùng bằng tiếng Pháp ở nhiều toà soạn Việt Nam. Những toà soạn mới thành lập hơn có xu hướng dùng tiếng Anh. Độc giả có thể xem đối chiếu ở phần phụ lục.
12 những gì không học ở trường báo chí
Sao cho dễ đọc
Không một độc giả nào đọc trọn vẹn một tờ báo. Nhất là những tờ báo ra hàng ngày và có quá nhiều trang, mặc dầu một số độc giả có thể đọc nhiều tờ báo mỗi ngày.
Để đọc một tờ nhật báo hiện nay, tuỳ theo trường hợp, tuỳ theo báo, phải mất từ 3 - 8 giờ mỗi ngày. Đa số những tạp chí tên tuổi ở nước ngoài, phải mất từ 10 - 20 giờ đọc.
Thời gian trung bình để một người dân đô thị bỏ ra để đọc nhật báo là khoảng từ 20 - 30 phút và để đọc những tờ tạp chí tin tức là khoảng một giờ.
Với thời lượng như thế, độc giả chỉ có thể đọc kỹ một phần nhỏ nội dung tờ báo. Đối lại, nếu gặp tờ báo dễ nuốt, họ có thể nắm được tổng thể nội dung tờ báo và lựa ra thật nhanh những bài viết mà họ sẽ đọc một phần hay toàn bộ.
Tạo điều kiện cho việc chọn lựa này là một trong những nhiệm vụ chính của công tác trình bày kết hợp với công tác toà soạn.
Trình bày “vụng”, bài viết sẽ lọt khỏi “mắt xanh” độc giả. Trình bày “rồng bay phụng múa”, “nhiều kiểu tít, nhiều kiểu chữ (type face) đến độ lạm dụng” làm độc giả dễ nản
chương 2 trình bày bài viết 13
lòng ngay từ cú liếc đầu tiên, như trường hợp tờ Tuổi Trẻ Chủ Nhật(nay là Tuổi Trẻ Cuối Tuần) vào những năm 1990 và đầu những năm 2000.
Một trang báo hiện đại thường đựơc trình bày không quá hai kiểu chữ, mặc dù sử dụng một số loại cỡ chữ khác nhau, tuỳ theo trọng tâm của toà soạn “chào mời” bạn đọc ở những mảng nào.
Khi độc giả lật qua các trang báo, ánh mắt họ đầu tiên hướng đến những bài viết ngắn nhất và được gia tăng giá trị bằng cách trình bày tít(titre), tít phụ trên (surtitre), tít phụ dưới(soustitre), các chú thích(légende/caption/credit) hình ảnh, các tít đoạn (intertitre.)
Nếu bài viết dài độc giả sẽ lưỡng lự không biết có đáng bỏ công đọc từ đầu đến cuối hay không: giúp cho họ có được quyết định là vai trò của mở (chapeau - còn viết là chapô) hoặc của accroche (một số toà soạn Việt Nam gọi là cửa sổ/window, tiếng Anh chính thức lại là liftout quote) và trong một chừng mực nào đó của đoạn attaque (mở ) và chute (đóng). Tất cả những yếu tố kỹ thuật kể trên góp phần vào công việc trình bày bài báo.
Tít
Cũng như bảng hiệu của một cửa tiệm, một bảng tín hiệu giao thông, tít có hai chức năng: gây chú ý và đưa ra một thông báo.
Nhưng nếu tất cả các lò bánh mì đều có thể chấp nhận thông báo “Lò bánh mì”, và những bảng tín hiệu giao thông luôn luôn biểu đạt một loại qui ước nhất định, tít lại phải luôn luôn khác nhau.
Để gây chú ý, tít phải ngắn.
Để dễ nắm bắt, tít phải đơn nhất.
Nén một thông báo thật đậm đặc và hấp dẫn trong
14 những gì không học ở trường báo chí
khuôn khổ một vài từ, đó là khó khăn trong việc đặt tít. So với tít của tờ Far East Economic Review thì tít của tờ Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, vào những năm 1990, dài hơn gấp 3 - 4 lần.
+ Tít thông tin (titre informatif)
Như tên gọi của nó đã nêu rõ, tít thông tin giúp độc giả, khán giả hoặc thính giả nắm được cốt lõi của một thông tin. Đa số tít của các tờ nhật báo và hầu hết các tít tin vắn của truyền thanh và truyền hình ở các nước phương Tây đều thuộc dạng này.
Hãy so sánh ba tít sau đây. Những tít này có thể thấy trên một tờ nhật báo địa phương:
1. Tai nạn chết người
2. Tại Chắc Cà Đao, một ông thợ hồ
lợp ngói giữa cơn mưa giông,
bị té chết
3. Rớt từ mái nhà xuống đất,
một người thợ bị thiệt mạng
Tít thứ nhất ngắn. Đó là chất lượng duy nhất. Nhưng tầm thường và chung chung. Hàng ngày, các nhật báo loan tin nhiều tai nạn chết người. Tít này có thể áp dụng cho bất cứ loại tai nạn nào, vì thế nên nó không tốt.
Tít thứ hai chính xác và đầy đủ. Nó trả lời được tất cả những câu hỏi mà một thông tin yêu cầu: ở đâu? ai? cái gì? như thế nào? tại sao? (trong một tờ nhật báo, cái khi nào thường không ghi và người ta hiểu là hôm qua). Tuy nhiên tít này khó mà nắm bắt. Quá dài (26 tiếng), không thể nắm bắt bằng một cái liếc mắt. Thông báo cốt lõi bị chìm giữa các yếu tố phụ, mà yếu tố phụ thì tràng giang đại hải. “Tại Chắc Cà Đao”, “một ông thợ xây lợp ngói giữa cơn mưa giông”,
chương 2 trình bày bài viết 15
“bị té chết”.
Tít thứ ba đạt hơn cả: khá ngắn nếu xét về vai trò tín hiệu, khá dài nếu xét về chức năng đưa ra thông tin chính. Tuy nhiên cái “ở đâu” đã bị cắt: người ta hy sinh cái tên địa phương chiếm hết ba âm tiết này. Đàng khác, từ “một người thợ” rất mơ hồ: phải chăng là một người thợ xây dựng? một thợ điện?
Đây là giải pháp bảo đảm tránh khỏi các nhược điểm của ba tít nêu trên:
Tít phụ trên Chắc Cà Đao
Tít Rớt từ mái nhà xuống đất,
một thợ hồ thiệt mạng
Hãy so sánh cường độ thông tin của dòng hai tít trên: “một thơ hồ thiệt mạng”, với dòng hai của tít thứ ba: “một người thợ bị thiệt mạng”.
Đàng khác, sự kết hợp với tít phụ trên cho phép xác định nơi xảy ra sự cố mà không làm cho tít bị nặng nề. Nếu bài tin được triển khai trên ba cột, tất nhiên người ta có thể thêm vào một tít phụ dưới: “khi ông tranh thủ lợp ngói giữa mưa giông”.
Tít phụ trên (surtitre) và tít phụ dưới (soustitre) có nhiệm vụ làm tăng độ chính xác và làm phong phú cho tít đồng thời tránh cho tít bị kéo dài một cách vô ích do phải “đèo” thêm những yếu tố khác.
Cách sử dụng cùng lúc hai hoặc ba loại tít (surtitre, titre, soustitre) được gọi là chùm tít(tiraille). Tít luôn luôn có thể được đọc riêng rẽ, bất chấp sự có mặt của những tít khác.
Luật nghiệt ngã của báo chí là phải cung cấp cái mới mỗi ngày. Tít cũng phải chấp hành luật đó. Một sự việc phát triển (kéo dài) trong nhiều ngày, thậm chí nhiều tháng, sẽ đòi hỏi các tít không ngừng đổi mới. Ví dụ như những trận lũ, những vụ xử án Trần Đàm hoặc Tăng Minh Phụng kéo
16 những gì không học ở trường báo chí
dài trên cả tháng.
Khi tin nổ ra, chỉ vài từ cũng đủ:
Bão lụt miền Tây
Ngày hôm sau, tít này không còn xài lại được nữa. Thông tin phải phong phú hơn và chính xác: Ba xã ngập nước ở hạ lưu sông Tiền
Vài ngày sau nữa, tin đã khá phổ biến, tít đầu tiên có thể biến thành tít phụ trên để gợi nhớ:
tít phụ trên: Bão lụt miền Tây
tít: Nông dân được miễn thuế
+ Tít gợi ý (titre formule)
Tít gợi ý còn được gọi là titre formule, ít được dùng để đưa ra một thông tin. Chủ yếu là nhằm gây ngạc nhiên, gây tò mò, đôi khi làm cho độc giả buột miệng mỉm cười.
Sau khi cái tít trứ danh “Tôi tố cáo” của Emile Zola ra đời (trên thực tế, tít này do chủ bút tờ Aurore, Clémenceau đặt), tít gợi ý trong một thời gian dài được dành cho các bài xã luận, tiểu phẩm, châm biếm, bút chiến, cũng như trong các phóng sự nhiều kỳ.
Từ những năm 1960, kiểu tít này đã hầu như hoàn toàn thâm nhập vào các tờ tạp chí tin tức, và chiếm một vị trí quan trọng (đôi lúc quá đáng) trên các tờ nhật báo.
Ưu điểm của loại tít gợi ý là ngắn và đập vào mắt độc giả (thường nhất là từ 3 - 5 tiếng). Trở ngại của nó là ít thông tin.
Chính vì thế trên các nhật báo nó thường dùng vớitít phụ trên hoặc/và tít phụ dưới đi kèm. Và trong các tạp chí, một mở sẽ làm nhiệm vụ giải thích cho tít.
Việc dùng kèm đặc biệt cần thiết khi tít gợi ý gây mơ hồ: Dân đỏ ở Paris
chương 2 trình bày bài viết 17
Tít này chỉ có thể hiểu được sau khi người ta đọc mở. Các thủ pháp này có nhiệm vụ “dịch” ngay tít gợi ý sang ngôn ngữ thông tin (hãy xem chức năng của mở và trích đoạn trang 32 và 34)
Còn cái tít gợi ý dưới đây, ngược lại, đưa ra một thông báo thông tin dưới dạng một hình ảnh:
Delors vấp té
bởi lạm phát
Thực sự thì thông báo này cũng chưa rõ ràng. Mộttít phụ trên hay một tít phụ dưới sẽ giải thích thêm: Tháng 9, giá cả tăng nhanh hơn dự kiến
Sự tìm kiếm tít hay hiện nay trở thành mục tiêu đeo đuổi của báo chí. Nếu khéo xoay sở, một cái tít có thể vừa mang thông tin vừa gợi ý.
Hãy so sánh:
Hoạt động trở lại trong ngành công nghiệp nón với:
Ngành công nghiệp làm nón trở lại
Một sự cám dỗ mà chúng ta phải biết chống lại: chú trọng “sắp xếp” thực tế hơn là chạy theo các hình thức. Tránh những cái tít “quá đắt”, thường hứa hẹn tờ báo sẽ bị tẩy chay. Tránh những cái tít gợi ý mà độc giả phổ thông không hiểu nổi.
Nhất là, tránh chơi chữ bằng mọi giá. Hình thúc chơi chữ được báo chí hâm mộ từ nhiều năm nay. Năm 1985, người ta từng đọc thấy trên trang nhất của một tờ nhật báo lớn tại Paris một cái tít bí hiểm, mơ hồ và lố bịch:
Jaru dans les brancards (Jaru trong những chiếc cáng) Trong tiếng Pháp có một thành ngữ “ruer dans les brancards” là làm loạn; còn Jarlà từ đồng âm với từ “con ngỗng đực”.
18 những gì không học ở trường báo chí
Ở đây báo muốn nói đến những cuộc biểu tình phản đối chuyến viếng thăm điện Elysée của vị nguyên thủ quốc gia Ba Lan, Jaruzelski...
Mở (Chapeau)
Chapeau còn được viết là chapô. Chapô có mục đích giúp độc giả tiết kiệm thời giờ và tạo điều kiện cho họ dễ chọn lựa khi đọc báo.
Chapôthường xuất hiện theo chùm tít (hệ thống titre). Cỡ chữ và khổ cột chữ in (justification) của chapô khác với khổ bài viết.
Chapô thông tin đem đến cho độc giả một tóm tắt thông tin (thông điệp cốt lõi) được triển khai trong bản tin kèm theo.
Chapô gợi ý có thể so sánh với đoạn mào đầu trong một cuốn phim. Chapôloại này sẽ chỉ ra chủ đề của bài viết và trích ra một vài “mẫu” ngắn nhằm “câu” người đọc.
Hai loại hình chapônày có thể “lấy” nhau: chapôvừa đem đến một phần thông báo thông tin vừa kết bằng một câu gợi tính hiếu kỳ của độc giả và cuốn hút họ vào bài viết.
Chiều dài của bài viết sẽ biện minh cho sự có mặt của chapô: trung bình bài viết từ 2-3 trang bản thảo. Chiều dài của chapô tỷ lệ với chiều dài bài viết: lối 1/10, để tạo được sự cân xứng. Nghĩa là chapô phải được “đội” cho bài tin nhưng không trùm kín mặt mũi bài tin.
Chapô không khác gì một đoạn tóm tắt, khái lược bài viết. Nó cũng giống như một cửa kính bày hàng ở các cửa hiệu. Tất cả những cái cần nói sẽ được nói chi tiết trong bài viết kèm theo.
Dù sao đi nữa, chớ nên coi chapôlà đoạn đầu bài viết. Đó là một đoạn biên tập tự giác, được thực hiện sau khi đã hoàn tất bài viết. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc
chương 2 trình bày bài viết 19
biệt, chapôkhông phản ánh bài viết, nhưng chỉ đóng vai trò mào đầu bài viết.
Chapô thời sự hoá: các yếu tố mới xảy ra khi bài viết đã biên tập xong. Chapô thời sự hoá cho phép giới thiệu các thông tin mới mà không cần đá động gì đến bài viết.
Chapô giới thiệu: phía trên bài viết, bạn muốn giải thích lý do đăng bài, hay giới thiệu tác giả bài viết, hay nhân vật được phỏng vấn.
Chapô nhắc nhớ: Bạn cho đăng một bài điều tra, một phóng sự thành nhiều kỳ. Ở mỗi đầu kỳ mới, bạn cần viết một đoạn ngắn nhắc sơ lược bài trước hoặc những bài trước, giống như ở hình thức chuyện đăng báo nhiều kỳ (feuilleton).
Accroche
Accroche là một biến thế mới đây của chapô. Tại Việt Nam, năm 1995 mới chỉ có tờ VN đầu tư nước ngoài và tờ Thời báo kinh tế VN(những tờ này được sự hỗ trợ kỹ thuật trình bày của Úc và Thụy Điển) sử dụng hình thức biên tập này.
Accroche phân biệt với chapô nhờ co chữ lớn hơn và vị trí linh hoạt hơn. Dài hơn một tít phụ trên hay tít phụ dưới, chapô có thể thay thế hai loại tít vừa nêu (đặt trước hoặc sau tít). Nhiệm vụ là giải thích vừa tít vừa chapô bài tin.
Accroche có khi cũng là một câu đầy đủ của bài tin, có khi là một mệnh đề được làm nổi bật lên một cách rõ ràng (chẳng hạn như đóng khung) trên nền bài tin, hoặc đặt đầu trang vừa lật sang của bài tin.
Trên một vài tờ báo, người ta cũng gọi accroche là cái “chapô tô đậm” đi kèm theo một cái tít - gọi - tên (có khi chỉ dùng vài ba chữ đầu của tít) trong phần giới thiệu nội dung hoặc mục lục hoặc appel giới thiệu bài tin quan trọng
20 những gì không học ở trường báo chí
ra bìa của một kỳ báo (một số toà soạn ở Việt Nam gọi là giật tựa ra bìa).
Tựa đoạn (Intertitre)
Được đưa ra theo một cách khoảng đều (tối đa là một trang bản thảo), các intertitre cũng giống như những cửa sổ giúp độc giả liếc vào bên trong xem xem có đáng đọc bài viết hay không. Intertitre chỉ cần vài tiếng rút ra từ bài viết và được làm nổi bật bằng kỹ thuật trình bày.
Intertitre không phải là tóm tắt các đoạn theo sau nó: nhiệm vụ của nó chỉ thuần tuý gợi ý. Đó có thể là: - Một trích đoạn ngắn (“Đôi khi tôi làm tôi sợ”) - Một hình ảnh (đầu gỗ)
- Một con số gây ấn tượng (bốn quả trứng trong một giây) - Một kiểu giống như tít hình thức (con kiến và con voi) Tất cả những gì cụ thể, gợi hình ảnh, gây ấn tượng đều
làm nên những intertitretốt. Ngược lại hãy tránh những cái trừu tượng, những intertitre hình thức sáo mòn theo kiểu “những vấn đề hóc búa”, “tình huống hiện thời”, “từ cơ chế...”, “... đến thị trường”
(Cặp intertire “từ...” và “...đến” là chuẩn mực intertitre của báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Giải Phóng vào những năm 1990 khi cuốn sách này đang được biên soạn. Có thể nói đây là cặp intertitre của những toà soạn thiếu biên tập viên kỹ năng.)
Tốt hơn là nên soạn các intertitre khi đã hoàn thành bài viết và đang lúc đọc lại toàn bài.
Tránh lập lại cùng một hình thức giữa các intertitre và tít, giữa intertitre và chú thích ảnh.
Đóng (Attaque và chute)
Đoạn đầu và đoạn cuối bài viết có thể được kể chung
vào phần trình bày.
chương 2 trình bày bài viết 21
Thông thường người ta có thể bắt đầu bài viết bằng một hay hai đoạn mở, đoạn khái quát. Những đoạn này có vẻ không ăn nhập gì mấy khi đọc lại toàn bài.
Cũng thế, phần cuối bài tin thường được đưa ra như một kết luận được “kéo dài bằng cách sang hàng” và hoàn toàn thừa, thậm chí người ta có thể lược bỏ.
Trong một bài tin ngắn không chapô, đoạn tấn công (attaque) đơn giản nhất chính là bản thân thông điệp cốt lõi - có thể coi đó là một tiểu đoạn chỉ hạn chế trong một vài hàng.
Trong một bài tin dài, thông điệp cốt lõi được đưa vào trong chapô. Để tránh gây khó chịu do sự lặp lại, người ta có khuynh hướng chọn một góc hẹp để tấn công bài tin, nghĩa là chọn một mặt chính của một điểm chi tiết gây ấn tượng, thu hút được sự chú ý của độc giả, để rồi hướng chú ý ấy vào sự sống động của chủ đề. Câu tấn công này có thể là:
+ Một tóm tắt sơ lược (Summary introduction). The directior of the British Weather Centre has been sacked by the Prime Minister. hoặc The Prime Minister has sacked the di rector of the British Weather Centre.
(tạm dịch: Giám đốc Nha khí tượng Anh Quốc đã bị Thủ tướng cách chức.
hoặc: Thủ tướng đã cách chức giám đốc Nha khí tượng Anh Quốc).
+ Một hình tượng (Figurative introduction). The Prime Minister has blown his cool and fired the director of the British Weather Centre for turning the heat on the government.
(tạm dịch: Thủ tướng đã không còn giữ được sự lạnh lùng cố hữu nên đã cách chức giám đốc Nha khí tượng Anh Quốc vì đã hâm nóng Chính phủ)
22 những gì không học ở trường báo chí
+ Một sự hài hước (Epigram introduction). The direc tor of the British Weather Centre has found out too late that si lence is golden.
(tạm dịch: Giám đốc Nha khí tượng Anh Quốc khi đã vỡ lẽ rằng im lặng là vàng thì đã quá muộn màng). + Một sự giật gân (Oddity introduction). Wanted. Di rector for British Weather Centre. Must be able to keep mouth shut. Applications to the Prime Minister.
(tạm dịch: Cần tuyển: Giám đốc Nha khí tượng Anh Quốc. Yêu cầu là phải biết giữ mồm giữ miệng. Đơn ứng tuyển xin gửi về cho Thủ tướng.
+ Một trích đoạn (Quoted introduction). “It seems I am redundant”.
(tạm dịch: “Dường như tôi không còn cần thiết nữa rồi”). + Một câu hỏi (Question introduction). What is con structive criticism, and what is disloyalty to the State? (tạm dịch: Như thế nào là phê bình mang tính xây dựng, và như thế nào là lòng trung thành đối với quốc gia?) + Một đoạn thoại(Dialogue introduction). “The gov ernment policy on weather researcher is wrong”, said John Jones. “I have no choice but to relieve you of your duties”, said the Prime Minister.
(tạm dịch: “Chính sách của chính phủ về nghiên cứu thời tiết khí tượng là tầm bậy”, ông John Jones nói. “Tôi không có sự chọn lựa nào khác ngoài sự tín nhiệm nơi bổn phận của ông giám đốc”, Thủ tướng nói.)
+ Một “kiểu nã đạn” (bullet introduction). Jones has been sacked.
(tạm dịch: Jones bị hất cẳng).
+ Một kiểu ngắt quãng (Staccato introduction). A burst of anger. A sharp word. It was all over. (tạm dịch: Cơn giận khủng khiếp. Một lời thốt ra. Mọi
cái coi như không thể hàn gắn).
chương 2 trình bày bài viết 23
+ Một kiểu mô tả (Descriptive introduction). Looking tired and unshaven, John Jones packed his briefcase and walked out of the office of director of the British Weather Centre for the last time yesterday.
(tạm dịch: Dáng mệt mỏi, râu không cạo, John Jones thu xếp giấy tờ cho vào cặp và bước ra khỏi văn phòng Nha khí tượng Anh Quốc lần cuối cùng ngày hôm qua).
+ Dẫn nhập bằng “chi tiết muộn” (Delayed drop in troduction). (Giọt nước vào chén trà đã đầy) John Jones put on his hat and coat, picked up his briefcase, kissed his wife goobye and caught the 8:05 express to London - another work ing day.
But it was far from business as usual. Within a few hours, Jones was back on the streets - sacked by the Prime Minister. (tạm dịch: John Jones đội mũ, khoác áo, xách cặp, hôn từ biệt vợ và đi cho kịp chuyến tàu tốc hành đi Luân Đôn lúc 8:05 - đó là một ngày làm việc mới bắt đầu. Nhưng công việc của ông đã không phải là công việc lệ thường. Trong vòng vài giờ nữa, John sẽ quay trở ra khỏi văn phòng - ông đã bị Thủ tướng cách chức.) + Ngoài ra, đó còn có thể là một so sánh, một giai thoại và có tính biểu tượng...
Những “ngón” này cũng có thể được ứng dụng trong câu đóng (hạ màn) (chute). Câu hạ màn chỉ là “bến đổ” của bài viết chứ không phải kết luận. Độc giả hoàn toàn có thể tự mình rút ra kết luận.
Hạ màn cũng có thể tạo cơ hội để mở rộng cái góc hẹp được tuân thủ trong suốt bài viết bằng cách phác hoạ một mặt khác của vấn đề trong vòng một hoặc hai câu nhưng không để bị hút sâu vào chủ đề mới.
Mặt khác của vấn đề có thể là những câu hỏi, những giả
24 những gì không học ở trường báo chí
thuyết và những viễn cảnh chưa được đề cập, xử lý. Đôi khi hạ màn cũng có thể dùng để xoa dịu phần nào một thông báo quá quả quyết.
Chú thích ảnh (légende)
Thư ký toà soạn rất thường thủ phần chăm lo và cũng có đôi lúc ứng tác công đoạn này. Khi người viết bài tự mình cung cấp ảnh minh hoạ bài viết, anh ta đồng thời cũng đưa ra các légende chính xác và hấp dẫn cho từng bức ảnh một.
Cần nhớ rằng hình ảnh và légendethuộc cấp độ bắt mắt đầu tiên. Hầu như độc giả nào cũng nhìn ảnh và légende trước khi đọc bài tin.
Vậy thì légende - cũng như cơ cấu một tin - phải hội đủ các yếu tố thông tin cần thiết giúp cho độc giả nắm bắt được hình ảnh: nói về ai? cái gì? ở đâu? những nhân vật đó là ai?
Bạn đừng quên dùng légende để “câu” độc giả đến với bài viết bằng cách sử dụng cùng một thủ pháp như ở in tertitre.
Chẳng hạn, bên dưới bức chân dung của một diễn giả “Pierre Renard: Không có gì phải bàn cãi!”
Bàn cãi về cái gì? Đó là điều độc giả sẽ biết được qua bài viết cũng như sẽ gặp lại trích đoạn này trong mạch bài. Trong mọi trường hợp, hãy nhớ rằng một bức ảnh dầu cho có sống động cách mấy, vẫn sẽ diễn đạt được nhiều hơn nếu như có một légende.
Và một bức ảnh mờ nhạt tầm thường có khi được cứu nguy bằng một légende hay.
Những lợi thế của một bức ảnh cũng là những lợi thế của một biểu đồ, một lược đồ, một bản đồ, một đồ hoạ thông tin. Vì thế không hình thức nào được bỏ qua légende.
chương 2 trình bày bài viết 25
Nhất là, dù không đọc bài viết từ đầu đến cuối, độc giả cũng có thể nắm bắt được vấn đề qua các phương tiện minh hoạ. Cho nên chúng ta có thể lập lại không chút do dự trong các légendenhững yếu tố thông tin được triển khai trong bài viết.
Hors-texte hoặc encadré hoặc box
Thường được gọi là “encadré” (đóng khung), bởi vì những bài tin này thường được đóng khung. Hors-texte - các toà soạn Việt Nam thường lại là box (tiếng Anh nhà nghề gọi là sidebar) là một dạng bài viết ngắn (thường không quá một trang bản thảo) đính kèm theo bài tin chính.
Hors-texte/box được trình bày độc lập vì nó nằm ngoài góc độ chủ đề chính, hoặc vì nó thuộc về một mặt chính khác, có khả năng kéo dài chủ đề chính và phá vỡ nhịp độ của chủ đề chính.
Hors-texte/box trình bày một cục diện phụ, một mặt chính khác của vấn đề đang được nêu ra trong bài tin chính:
- chân dung một nhân vật được nêu ra trong bài tin; - một sự kiện lịch sử;
- những con số thống kê;
- những bảng biểu số liệu;
- một cuộc phỏng vấn ngắn;...
Đừng quên rằng khi bài tin ngắn, rõ ràng là hors texte/box sẽ làm tăng giá trị thông tin. Nó thường được đọc trước cả bài tin: như thế nó cần phải độc lập (người ta thường cho nó cái titre riêng) và có thể nắm bắt được mà không cần phải đọc bài viết chính.
26 những gì không học ở trường báo chí
chương 3 các thể loại báo chí 27
3.Các thể loại báo chí
Trong chương này...
Một chùm khả năng thể
hiện thông tin
- những bản tin thông tấn -
bài tường thuật: một chứng
từ
- bài phóng sự: một mảng
cuộc sống
- bài phỏng vấn: dạng điều
tra khác
- bài điều tra: một sự xác
minh
- một chùm các bài tin
(“papiers”)
28 những gì không học ở trường báo chí
Tất cả các bài đăng trên một tờ báo, do
một hãng thông tấn chuyển đến hoặc
nhận từ hệ thống vô tuyến đều là một bài
tin, nhưng từ một tin vắn(brève/briefing)
thuật lại một sự kiện bằng vài hàng đến
một bài xã luận(editorial) bình luận một
vấn đề thời sự, bao gồm cả một chùm thể loại. Nếu như những thể loại này không nhất nhất tuân thủ các niêm luật chặt chẽ như thơ Đường hay Lục bát, ít ra chúng cũng có một số đặc trưng khá rõ nét. Bàitin vắn, tin filet, tin mouturelà những thể loại căn bản mà phóng viên thực hiện tại bàn viết, dựa trên các thông tin từ bên ngoài gửi về.
Bài tường thuật, bài phóng sự, bài điều tra là những thể loại dài hơn được phóng viên thực hiện tại hiện trường, dựa trên thông tin của chính anh ta thu thập.
Dưới đây là những định nghĩa chi tiết.
Cũng còn hàng chục thể loại báo chí khác như tin hành lang(écho), tiểu phẩm (billet), phê bình, chân dung, bình luận,... Định nghĩa vắn tắt các thể loại này sẽ được giải thích
trong phần thuật ngữ.
Các bài tin thông tấn (Dépêches D’agence)
chương 3 các thể loại báo chí 29
Các bài tin thông tấn được biên tập và được đánh dấu bằng điện báo theo một diễn tiến có hệ thống, kể từ tin loan ban đầu đến các bài tin chi tiết.
Trình tự này tuỳ thuộc hoạt động của thông tín viên tại chỗ: do đó, anh ta phải báo động cấp kỳ cho hãng thông tấn ngay khi anh ta biết được biến cố; rồi sau đó, lần lượt gửi về các tin bổ sung mà anh ta nhận được, nắm được.
Tại trụ sở hãng thông tấn, các biên tập viên sẽ làm lại theo giai đoạn và bổ sung một cách ngẫu nhiên các loạt thông tin nhận được để có được các bài tin thống nhất.
Diễn tiến xuyên suốt - chỉ được tái hiện trong trường hợp những tin tối quan trọng - là mẫu tin dưới đây, với chỉ dẫn ký hiệu ưu tiên của hãng AFP:
+ Flash (ưu tiên 1):tin loan ban đầu, gồm vài tiếng, về một sự kiện có một tầm quan trọng ngoại lệ. Ví dụ:
GLGL FRA0105 1 006 FRA/AFP-No40 MORT-BREJNEV FLASH MOSCOU, 11 NOV (AFP) -LEONID BREJNEV EST MORT (OFFI CIEL)
DN/RS
AFP 110901 NOV 82
[Leonid Brejnev từ trần (chính thức)]
+ Bulletin (tin điện) (ưu tiên 2): bulletin chỉ đưa độ chừng hai hoặc ba hàng, thông báo một tin rất quan trọng, nhưng không hẳn là flash, hoặc là tin mở rộng ngay sau một tin flash.
Ví dụ:
30 những gì không học ở trường báo chí
GLGL FRA0107 2 0032 FRA/AFP-No75
MORT-BREJNEV
BULLETIN
MOSCOU 11 NOV (AFP) - LEONID BREJNEV, CHEF DE L’ETAT ET DU PC SOVIETIQUE, EST MORT MERCREDI 10 NOVEMBRE, A 8h30, A L’AGE DE 76 ANS, ANNONCE RADIO-MOSCOU. DM/AT
AFP 110903 NOV 82
[Leonid Brejnev, người đứng đầu Nhà nước và Đảng cộng sản Liên Xô, từ trần hôm thứ tư, 10.11, lúc 8:30, thọ 76 tuổi, đài phát thanh Moscou loan tin].
+ Urgent (tin khẩn) (ưu tiên 3): urgent là một thông tin được phát nhanh, nhưng không hẳn là một bulletin. Hoặc nó mở rộng một tin bulletin, như trong trường hợp sau đây. Urgentthường dài khoảng từ 5 - 15 hàng (tối đa 150 tiếng).
Ví dụ:
GLGL
FRA0114 3 0144 URS/AFP-No37
MORT-BREJNEV
MOSCOU, 11NOV (AFP) - LE SPEAKER DE LA RADIO - TELEVI SION SOVIETQUE A LU AU BULLETIN DE 11H00 LOCALES (08H00 GMT) LE COMMUNIQUE SUIVANT: “LE COMITE CEN TRAL DU PARTI COMMUNISTE DE L’URSS, LE PRAESIDIUM DU SOVIET SUPREME DE L’URSS ET LE CONSEIL DES MINISTRES DE L’URSS ONT LA PROFONDE DOULEUR DE FAIRE PART AU PARTI ET A TOUT LE PEUPLE SOVIETQUE DE LA MORT SUBITE DE LEONID BREJNEV, SECRETAIRE GENERAL DU PCUS, PRESI DENT DU PRAESIDIUM DU SOVIET SUPREME DE L’URSS, SUR VENUE LE 10 NOVEMBRE 1982 A 08H30 (05H30 GMT) DU MATIN”.
“LE NOM DE LEONID BREJNEV, A POURSUIVI LE SPEAKER,
chương 3 các thể loại báo chí 31
CONTINUATEUR FIDELE DE LA GRANDE CAUSE DE LENINE, COMBATTANT ARDENT POUR LA PAIX ET LE COMMUNISME VIVRA ETERNELLEMENT DANS LE COEUR DES SOVIETIQUES ET DE TOUTE L’HUMANITE PROGRESSISTE”
PK/AZ T
AFP 110923 NOV 82
[Moscou, 11-11 (AFP) - Xướng ngôn viên Đài phát thanh - truyền hình Xô Viết thông báo bức công điện hồi 11:00 giờ địa phương (8:00 GMT) như sau: “Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, Chủ tịch đoàn Xô Viết tối cao Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô vô cùng đau đớn báo tin cho toàn Đảng và toàn dân Liên Xô về cái chết đột ngột của Leonid Illitch Brejnev, Tổng Bí thư ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, Chủ tịch đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô, hồi 8:30 (5:30 GMT) sáng”.
“Tên tuổi của Leonid Brejnev, xướng ngôn viên đọc tiếp, người kế tục trung thành chính nghĩa vĩ đại của Lénine, người chiến sĩ kiên cường vì hoà bình và vì Chủ nghĩa cộng sản sẽ sống mãi trong trái tim nhân dân Xô Viết và toàn nhân loại tiến bộ”].
+ Lead (tin mở rộng) (ưu tiên 4): lead là một tin tổng hợp thuật lại trạng huống sau cùng của một biến cố/sự kiện. Lead được viết lại dựa trên tất cả các tin điện được đánh về trước đó.
(NB: từ “lead” cũng còn dùng để chỉ phần attaque (tấn công) của một bài tin. Từ nhà nghề này rất thông dụng trong giới thông tín viên và một vài tờ báo, nhất là báo chí Mỹ).
+ Synthèse (tin tổng hợp) (ưu tiên 4): synthèsetrình bày tất cả các cục diện (không gian và thời gian) của một
32 những gì không học ở trường báo chí
biến cố.
Cũng như lead, người ta có thể cắt một tin synthèse ra thành nhiều tin nhanh (dépêche).
Ví dụ
Fil Fra (phát cho các khách hàng Pháp)
Số thứ tự bài tin đánh đi trong ngày
Loại ưu tiên 3 (urgent)
Loại tin I (international - quốc tế)
Số tiếng
Số hệ thống thông tin
Từ khoá (slug)
FRA0 121 3 I 0146 /AFP-NP81
GANDHI-PROCES
URGENT
CONDAMNATION A MORT DE TROIS POLICIERS SIKHS POUR L’AS SASSINAT D’INDIRA GANDHI NEW DELHI
22 JAN (AFP) - TROIS POLICIERS SIKHS ONT ETE CONDAMNES A MORT MERCREDI, L’UN POUR L’ASSASSINAT DU PREMIER MIN ISTRE INDIEN INDIRA GANDHI ET LES DEUX AUTRES POUR COM PLOT, ANNONCE L’AGENCE DE PRESSE INDIENNE PTI. LE PREMIER SATHANT SINGH, AVAIT ETE DECLARE PEU AUPARAVANT A NEW DELHI COUPABLE DE MEUTRE PAR LE JUGE MANESH CHANDRA. LES DEUX AUTRES POLICIERS, BALBIR SING ET KEAR SINGH, ONT ETE DECLARES COUPABLES DE COMPLOT AU COURS DE CE PROCES, QUI S’EST TENU PENDANT HUIT MOIS DANS UN TRIBUNAL IMPROVISE INSTALLE DANS LA PRISON DE HAUTE SE CURITE DE LA VILLE, LA PRISON TIHAR. UN QUATRIEME POLICIER, BEANT SINGH, AVAIT ETE TUE AUSSITOT APRES LE MEUTRE, LE 31 OCTOBRE 1984. TOUS LES QUATRE ETAIENT DES GARDES DU CORPS DE PREMIER MINISTRE.
chương 3 các thể loại báo chí 33
Chữ viết tắt tên người gửi bản tin tại New Delhi
Chữ viết tắt tên người nhận và được giải mã tại
phòng biên tập Paris
JFL/JLP
Tên các khách hàng kèm theo (T : tous/tất cả)
T
Ngày 22/giờ 8:26
AFP 220826 JAN 86
Tháng 1 năm 1986
Nội dung một bài tin nhanh (Dépêche) (AFP) [Kết án tử hình ba cận vệ người Sikh can tội ám sát Indira Gandhi New Delhi, 22-1 (AFP) - Ba cận vệ người Sikl bị tuyên án tử hình hôm thứ tư. Một kẻ can tội mưu sát nữ Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi và hai kẻ kia can tội đồng loã, theo như hãng thông tấn Ấn Độ (PTI) loan tin. Kẻ thứ nhất, Sathant Singh, đã bị chánh án Manesh Chandra buộc tội sát nhân trong một phiên toà trước đó không lâu. Hai cận vệ khác Balbir Singh và Kear Singh đã bị buộc tội tòng phạm trong một phiên toà kéo dài 8 tháng, được mở đặc biệt tại một nhà tù bảo đảm an ninh tối đa, khám đường Tihar của thành phố.]
Tin ngắn (Brève)
Là một thông tin ngắn, về một sự kiện; tường thuật một cách vắn tắt ai? cái gì? khi nào? ở đâu? và đôi lúc cũng có như thế nào? tại sao?
- Tin ngắn không có tít;
- Những tiếng đầu tiên - thay cho tít - phải được chọn lựa công phu và đầy đủ ý nghĩa;
- Những tiếng đầu tiên này sẽ được đánh dấu bằng co chữ lớn/mập, in nghiêng, hoặc dùng co bằng nhưng in hoa toàn bộ;
- Trước bài tin ngắn thường có dấu mời đọc (appel) hoặc một “con rệp” (lnmo);
34 những gì không học ở trường báo chí
- Bài tin ngắn chỉ gồm một đoạn, không được vượt quá năm hoặc sáu hàng đánh máy.
Đây là một thí dụ bài tin ngắn biên tập tồi:
Giữa phiên họp khoáng đại hàng năm hôm 27.11, hiệp hội những người bạn của thiên nhiên Moutier đã tập trung thảo luận những biện pháp cần thiết để xây dựng lại chỗ ẩn trú cho thú tại đèo Fourches đã bị thiêu rụi sau trận hoả hoạn hồi tháng 8 vừa qua. Hội nghị quyết định hoàn tất công trình trong vòng từ đây đến hai năm.
Những tiếng đầu tiên của cái tin trên không đầy đủ ý nghĩa để thay titre (nhiều tin ngắn thường mở đầu kiểu này). Thông tin chính và mới rơi vào cuối bài.
Đây là một tin ngắn được viết lại từ tin trên
Chỗ ẩn trú của thú tại đèo Fourches sẽ được xây dựng lại trong vòng từ đây đến hai năm, Hiệp hội những người bạn của thiên nhiên đã đưa ra quyết định này trong một phiên họp khoáng đại hôm 27.11. Một đám cháy đã thiêu rụi công trình này hồi tháng 8 vừa qua.
Vài tờ báo giữ thói quen - tuyệt vời - dẫn nguồn tin ngắn, dầu rất vắn tắt, ở cuối bài tin (hãng thông tấn, thông báo, cộng tác viên, v.v.).
Các tin ngắn thường được sử dụng như một công cụ lấp chỗ trống trong suốt một thời gian dài.
Ngày nay, người ta thường tính trước để đưa vào ma quette/layout (trang báo đã được định dạng) và tập trung dưới một chuyên mục (tin vắn, đó đây, tin vắn kinh tế, v.v.).
Cũng có khi các tin vắn này được trình bày tiếp theo một tin mà chúng có ít nhiều liên quan.
Filet (tin ngắn có titre)
chương 3 các thể loại báo chí 35
Cũng như tin ngắn, filet là một thông tin ngắn, không bình luận. Nhưng do tầm quan trọng của nó, người ta thường đặt cho nó một cái tít riêng.
Filet thường được trình bày trong khuôn khổ một cột báo, nội dung được triển khai dài hơn tin ngắn (brève). Trong khi tin ngắn chủ yếu chỉ trả lời các câu hỏi ai? cái gì? khi nào? ở đâu? thì filet trình bày chi tiết hơn các câu hỏi thế nào? tại sao?
Việc này có thể chiếm nhiều đoạn (trung bình hai hoặc ba). Nhưng hiếm khi nào filet dài hơn 20 hàng đánh máy. Ví dụ:
Một chủ hiệu kim hoàn Lyon bị giết trong một vụ trấn lột Một chủ hiệu kim hoàn ở Lyon, ông Raymond Jacquemier, 60 tuổi, đã bị bắn chết chiều qua, trước giờ đóng cửa hiệu không bao lâu. Thủ phạm là một cặp găng tơ còn trẻ. Ông Jacquemier lúc đó đang ở tại cửa hiệu cùng với vợ và cậu con trai khoảng mười mấy tuổi. Ông đã tìm cách rút vũ khí để đương đầu với hai tên cướp. Đó là một đôi thanh niên nam nữ trạc ngoài 20 tuổi. Ngay lúc vừa đặt tay lên khẩu súng ngắn giấu dưới ngăn kéo tủ tiền, ông đã bị bắn một phát súng vào đầu. Người chủ hiệu kim hoàn chết tại chỗ. Hai tên lưu manh trốn thoát.
Thường thường, filet là một tin thông tấn được “bê nguyên xi” lên mặt báo. Nhưng phần đông các tờ báo đổi tít lại, và nhiều tờ viết bài tin lại cho trôi chảy hơn, nhưng vẫn tuân thủ chặt chẽ lối hành văn thông tấn.
Cũng như tin ngắn, hiện nay người ta có xu hướng gom các bài filet vào một chỗ khá cố định (ví dụ như nguyên một cột dọc tiếng nhà nghề gọi là rivière và được trình bày bằng một hình thức hấp dẫn hơn, chẳng hạn chạy trame (nền lót) màu khác.
36 những gì không học ở trường báo chí
Trên các báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, các tin filetnằm hầu hết trên trang hai và một số trên trang một.
Mouture (tin tổng hợp)
Là một tin tổng hợp từ nhiều thông tin khác nhau về một đề tài. Các thông tin này có thể được lấy từ một nguồn (một hãng tin chẳng hạn) hoặc từ nhiều nguồn (hãng tin, cộng tác viên, thông tín viên, tư liệu báo chí).
Đơn giản và thông dụng nhất được xây dựng trình tự và tạo thành một mạch chặt chẽ, dựa trên một loạt những tin dépêche (thông tấn) hoặc các chi tiết lấy từ các tin dépêche, về cùng một đề tài. Hình thức mouture này thường được gọi là dàn dựng lại (montage).
Thể loại này thường được thực hiện bằng... những nhát kéo, để chỉ giữ lại các đoạn trong các dépêche xét thấy có lợi cho thông tin cần phát đi và phù hợp với khuôn khổ của qui ước bài tin. Vì thế, phóng viên chỉ phải viết những phân cảnh cần thiết để bảo đảm tính nhất quán của bài tin. Nói cách chính xác hơn, mouturelà một công đoạn làm lại, viết lại toàn bộ thông tin từ nhiều nguồn khác nhau.
Giống như nghĩa đen của mouturetrong tiếng Pháp vốn là nghiền ra, xay cho nhuyễn. Những thông tin ban đầu của các nguồn ấy vốn chồng chéo lên nhau và đôi lúc có những điểm mâu thuẫn nhau.
Công đoạn này yêu cầu một thái độ lao động vô cùng khắt khe, đặc biệt trong việc dẫn chính xác các nguồn tin. Mặc dầu được biên tập theo một phong cách cá nhân hoặc phong cách riêng của tờ báo, mouture vẫn đòi hỏi tính thông tin nghiêm nhặt và khách quan (neutre/trung tính).
Sẽ không có một chút bình luận, một lời phê phán nào trong tin mouture. Bởi lẽ điều này khiến người đọc đâm ra nghi ngờ độ tin cậy của cả bài tin. Nghĩa là, những bình
chương 3 các thể loại báo chí 37
luận, phê phán thường làm cho tổng thể thông tin chứa đựng trong bài tin bị nhuộm màu.
Nếu bắt buộc phải đưa ra một lời bình luận, bài tin sẽ được thể hiện bằng một thể loại khác. Được ký tên người viết. Nếu lời bình luận ngắn, nó có thể được trình bày trong ngoặc móc (crochets) ở cuối bài tin, và được ghi rõ: “chú thích của biên tập” hoặc ghi tắt.
Một tin filet có thể đã phần nào mang dáng dấp của một tin mouture. Tuy vậy mouturethường chi tiết hơn và do đó dài hơn filet. Có thể mở rộng mouturetừ 20 - 100 hàng đánh máy, tuỳ theo mức độ quan trọng của đề tài. Nếu yêu cầu của các chi tiết đòi hỏi hơn 100 hàng, tốt hơn, nên xử lý đề tài thành hai hoặc ba bài tin dưới nhiều góc độ khác nhau, dưới dạng một hors-texte hay một encadré (box/tin đóng khung).
Hình thức xử lý một đề tài thành nhiều bài tin được gọi là éclatement(làm vỡ ra nhiều mảnh).
Bố cục bài tin
Bố cục của một bài tin luôn luôn được xây dựng chung quanh thông điệp cốt lõi. Tuy nhiên người ta có thể đưa ra một điển hình tóm lược:
+ Bố cục trình tự (chronologique), mô tả sự kiện theo trình tự xảy diễn. Phương pháp này về nhiều phương diện là tự nhiên nhất, tuy nhiên lại ngày càng ít thông dụng, vì lẽ biến cố thường đã được radio và TV loan tin trước, lập lại sẽ làm cho người đọc cáo biệt tờ báo.
Ngay cả khi một cái lead độc đáo hoặc một chapô đã đóng trọn vẹn vai trò dẫn nhập, giới thiệu kết quả của tin, việc khởi đi lại từ đầu một câu chuyện mà cốt lõi đã được biết trước vẫn có khả năng làm cho độc giả nản lòng.
Người ta chỉ nên nghĩ đến chỗ sở dụng của bố cục trình
38 những gì không học ở trường báo chí
tự khi đứng trước những biến cố, sự kiện mà thời điểm thắt nút (chung cục) đang diễn ra một cách dồn dập.
+ Bố cục flash back (lộn ngược trình tự), được bắt đầu bằng những sự kiện nóng nhất hay bằng những viễn cảnh mở của các sự kiện trong một biến cố.
Từ đó quay ngược lại nguồn gốc của biến cố theo một trình tự ngược. Bằng thủ pháp này độc giả sẽ có được cảm giác đối diện với một thông tin mới vừa được tiết lộ nhiều hơn.
Điểm khởi đầu của thông tin chỉ cốt nhắc họ nhớ lại. Kỹ thuật này đặc biệt chính đáng trong trường hợp hậu quả của biến cố đang được tường thuật quan trọng hơn diễn tiến: như một chiến dịch chính trị lớn, cái chết của một nhân vật quan trọng hàng đầu,...
Trong những trường hợp đó một flash back giải thích sẽ kết thúc ngay tại các biến cố nguội/cũ nhất, thông qua thủ pháp đảo ngược trình tự sự kiện.
+ Bố cục kim tự tháp đảo ngược được sử dụng phổ biến nhất trong các tin thông tấn.
Loại bố cục này nhắm đến lối trình bày các yếu tố thông tin theo một trình tự giảm quan trọng dần, sao cho trong trường hợp cần thiết, những đoạn sau cùng có thể cắt bỏ.
Ngược lại, bằng thủ pháp này, bao giờ biên tập viên cũng có thể thay thế đoạn này bằng đoạn khác, hoặc thêm vào những đoạn mới mà không phải thay thế tổng thể bài tin khi các chi tiết mới tiếp tục được gửi đến toà soạn. Hình thức biên tập này, tuy vậy, cũng mắc một nhược điểm là khá rời rạc, nhất là khi biên tập viên chưa thành thạo. Nhưng dẫu sao nó cũng là thủ pháp đắc dụng nhất đối với các yêu cầu của việc thông tin.
chương 3 các thể loại báo chí 39
+ Bố cục bình đựng nước (the carafe)là hình thức kéo dài của hình thức kim tự tháp đảo ngược.
Kiểu bố cục này đưa một phần tường thuật hoặc đưa phần giải thích ý nghĩa và hạt nhân của vấn đề vào phần dẫn nhập. Sau đó phát triển theo hình thức tường thuật trình tự thời gian.
Nữ phóng viên tờ Atlanta Journal sử dụng lối bố cục này để chi tiết hoá cuộc bàn bạc của ban hội thẩm tại phiên toà xử Wayne Williams can tội giết hai thiếu niên:
Khi bà chủ tịch ban hội thẩm đặt bút ký vào lời tuyên án Wayne Williams can tội giết hai người, 12 hội thẩm viên nắm chặt tay và cầu nguyện, cũng như một số bắt đầu khóc thương cho gia đình Williams và không thể cứu giúp được nữa vì sự cố gắng của chính bản thân họ đã chấm dứt. Sau chín tuần lắng nghe lời khai từ những chứng cứ cứng rắn tới lời phản bác của các nhân chứng và bị cáo và những bằng chứng cảm động do cha mẹ bị cáo đưa ra, ban hội thẩm nhóm họp lúc 5g20 chiều thứ sáu trong phòng toà án - thay vì phòng hội thẩm - vì số lượng chứng cứ quá nhiều để tiến hành cân nhắc kỹ càng trong 11g30 phút về số phận của Williams.
Đó là dẫn nhập.
Tiếp theo là phần tường thuật những biên bản lưu của cuộc họp do bốn vị hội thẩm viên thu thập lại, những người này đã đồng ý phát biểu với tờ Atlanta Journal nhưng yêu cầu không tiết lộ tên. Từ đó Laurie Baum đi vào tường thuật từng giờ một bắt đầu là bà chủ tịch hội thẩm, tổng kết lại bằng nhiều nhân chứng, bàn đến “những lời nói dối” rõ ràng của Williams và của các nhân chứng cố chấp, phương kế biểu quyết của một tay lão luyện và sự nhất trí ở một trường hợp và bàn cãi tiếp theo ở một trường hợp
40 những gì không học ở trường báo chí
khác. Kết thúc câu chuyện. Đối với họ, sự tuyên án có nghĩa là kết thúc một kinh nghiệm lạ thường - cái mà họ gọi là “sáng tỏ, tốt, bị sức ép nặng nề và kinh hoàng”.
Hình thức bình đựng nước đã có chỗ đứng ttong cách viết báo qua nhiều thế hệ, mặc dầu nó được sử dụng sơ sài.
+ Bố cục viên kim cương (the diamond) được tờ Wall Street Journal nâng lên thành hình thức nghệ thuật của báo.
Cơ bản, bố cục này có phần tường thuật mở đầu, thường là một giai thoại hoặc một hình ảnh cá biệt hoá, dẫn tới đoạn hạt nhân, nơi đó vấn đề cốt lõi được biểu lộ, theo sau là một đoạn làm sáng tỏ thêm, liên hệ vấn đề cốt lõi với các sự kiện chung quanh.
Những đoạn hạt nhân và những đoạn làm sáng tỏ thêm dẫn đến lối viết kim tự tháp đảo ngược, trong đó những vấn đề có liên quan và nền tảng được bàn luận theo thứ tự giảm dần mức độ quan trọng.
Ví dụ:
Lynchburg, bang Virginia - Trên một bàn họp bày bừa bãi những mảnh nhỏ của gót giày da và những đôi giày mẫu, Robert Lockridge đang chỉ cho người khách xem một biểu đồ với cái nhìn đen tối của ông về tương lai nền kinh tế: đường biểu diễn ngày càng đi xuống qua năm 1975 và 1976. Ông Lockridge, giám đốc công ty giày Cadrad dock-Terry, một người làm giày dép căn cứ vào đây, ngón tay chỉ vào một điểm tiêu biểu cho tháng 6 năm 1974 và nói, “Đây là lúc tôi bảo các nhân viên của tôi ngừng mua mọi thứ chúng tôi không sử dụng trong 30 ngày”.
Công ty của ông đã giậm chân tại chỗ trong thời kỳ khó khăn kéo dài, một quản trị viên nói. Ông ta còn nói: “Bây giờ là lúc phải tính toán chặt chẽ thận trọng và không mở
chương 3 các thể loại báo chí 41
rộng nữa”.
Sau khi nghe những khó khăn của ông Lockridge, bài tin chuyển sang đoạn cốt lõi:
Tinh thần chống-đỡ-những-cảnh-tối-tăm chỉ là một trong những dấu hiệu cho biết nền kinh tế quốc dân đã bắt đầu đi xuống thực sự, đụng chạm đến từng nhà trong vùng tiền đồn công nghiệp dưới chân núi Blue Ridge, bang Vir ginia.
Có thể kể ra nhiều bằng chứng khác: sự gián đoạn sản xuất tuy nhỏ nhưng kéo dài, buôn bán lẻ giảm sút, hàng hoá tồn kho kéo dài quá thời hạn, nguyên vật liệu thiếu hụt một cách bi thảm, sự khan hiếm, và dấu hiệu đầu tiên của sự phá giá.
Tóm lại, khủng hoảng kinh tế đã đến với Lynchburg. Còn những sự kiện chung quanh?
Đoạn tiếp theo sẽ làm sáng tỏ thêm:
Với nền kinh tế đa dạng gồm những xưởng đúc, hiệu quần áo, nhà máy giày, nhà máy giấy, xí nghiệp điện tử, và nhiều xí nghiệp khác, Lynchburg phản ánh khá tốt khuynh hướng mở rộng trong nền kinh tế không lệ thuộc vào bất kỳ ngành công nghiệp riêng biệt nào.
Lynchburg không suy yếu khi việc buôn bán ô tô giảm sút hoặc việc xây dựng nhà cửa sụt giá nhanh. Hơn nữa nó còn là một phong vũ biểu của nền kinh tế quốc dân.
Và ngay bây giờ, công việc kinh doanh của Lynchburg đang dánh dấu một cuộc khủng hoảng từ từ và rộng khắp, lan tràn từ ngành công nghiệp này đến ngành công nghiệp khác như một căn bệnh hay lây.
(James P.Gannon, báo Wall Street Journal)
42 những gì không học ở trường báo chí
Chắc chắn cũng có thay đổi trong hình thức bố cục này. Đôi khi theo sau đoạn cốt lõi là một số giai thoại trước khi đoạn làm sáng tỏ thêm được đưa vào.
Rồi bạn sẽ phải ứng dụng hình thức bố cục này trong công việc của bạn vì ngày càng có nhiều tờ báo noi gương sự thành công của tờ Wall Street Journal.
+ Bố cục trứng ngỗng.Khi do dự, hãy viết theo một vòng khép kín. Thực vậy, ít khi đoán được sự tiếp cận của những cây bút có phong cách riêng, và những người kinh nghiệm có thể bắt đầu bài tin từ bất cứ chỗ nào và giải quyết bài tin bằng một đoạn kết hấp dẫn.
Càng tiếp cận vấn đề then chốt, những bài tin hay nhất thường có khuynh hướng viết theo một vòng khép kín. Chúng tôi có ý nói một bài tin khởi đầu với một tiền đề đặc biệt và trở lại tiền đề đó ở đoạn kết.
Hình thức trứng ngỗng (goose egg) thực ra là một hình thức kể chuyện cổ điển. Khung cảnh mở ra, sự kiện xuất hiện, phần đầu được giải thích theo ý nghĩa bài học đạo đức ở đoạn kết. Chúng ta đã biết được sự nguy hiểm của cách sắp đặt những đoạn kết hay trong các bài viết của bạn vì biên tập viên của bạn có thể cắt bỏ.
Nhiều (chớ không phải tất cả) biên tập viên ngày càng thông cảm với những bài báo hay và sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ một đoạn kết với vấn đề then chốt được xác định rõ ràng.
Theo quan điểm của Jim Naughton, trợ lý tổng thư ký toà soạn tờ Philadelphia Inquirer và là cựu phóng viên về Nhà Trắng của tờ New York Times, một đoạn kết hay là phần thưởng của người viết dành cho độc giả đã cất công theo dõi câu chuyện từ đầu tới cuối.
Suy nghĩ của nhà báo trên khác với những phóng viên
chương 3 các thể loại báo chí 43
trong nước thường hạ bút nhiều bài tin theo thói quen lên gân dạy dỗ: “Nên chăng thế này... nên chăng thế kia”. Những cây bút có phong cách riêng cũng nhận thấy hiệu quả gây xúc động mạnh của những đoạn kết hay. Họ dũng cảm chiến đấu và chiến thắng các biên tập viên, những người có thói quen cắt những bài viết ở đoạn cuối. Dĩ nhiên, giữa phần đầu lôi cuốn và phần cuối bất ngờ, người viết phải đan dệt một câu chuyện xứng đáng với sự theo dõi của độc giả.
Trong nghề báo, câu chuyện đó phải bao gồm những vấn đề quan trọng, những chi tiết đầy ý nghĩa, những lời giải thích và kiến thức. Tất cả những sự kiện đó tạo nên bài báo.
Một trong những nhà thực hành tiên phong của bố cục trứng ngỗng là Richard Ben Cramer của tờ Philadelphia In quirer, quê hương hiện thời của báo chí hoa mỹ, với sự ổn định của những cây bút giàu tưởng tượng.
Sau đây là thí dụ về cách anh đã viết theo một vòng khép kín trong một câu chuyện về người bạn trai của một trong những nạn nhân của tên giết người “Đứa con của Sam” ở New York.
Câu chuyện bắt đầu trong một quán rượu:
Johnny Diel lái xe tới Ridgewood III hơi trễ một tý so với ca làm việc 6 giờ chiều của anh - một nhân viên phục vụ quầy rượu.
Nét mặt anh đỏ bừng. Anh chào hỏi mấy người khách quen thuộc trong quán rượu, hơi thở phả ra thoang thoảng mùi vị của rượu Jagermeister, thứ rượu Đức anh thích.
Không ai nói gì với anh về rượu Jagermeister và sự say xỉn của anh. Ở Ridgewood những ngày này Johnny được đối xử tốt giữa những láng giềng bình dân người Đức, Hung
44 những gì không học ở trường báo chí
và Nam Tư trên vùng giáp ranh Queens-Brooklyn. Từ ngày 30.1, Johnny không làm gì ngoài việc lang thang với những gã ở Ridgewood. Anh không có ý định gì. Anh thường ngà ngà say.
Cũng như mọi lần, khi anh quá say, hoặc khi gặp những người khách đến từ “thành phố” - tên dân Ridgewood gọi dân Manhattan - anh đều nói về ngày 30.1.
Đó là ngày cô bạn gái của Johnny, Christine Freunde, bị đứa con của Sam bắn chết, khi Johnny ngồi bên cạnh cô trên chiếc xe của anh.
Đoạn kết quay trở lại quán rượu.
Diel đang nói: “Ngay bây giờ, chúng tôi đã đính hôn rồi. Chúng tôi định làm đám cưới. Tất cả đã khác đi. Tôi không bao giờ yêu ai khác như tôi đã yêu Chris. Chúng tôi đã đi qua lứa tuổi 20 với nhau, và tôi cho rằng đó là lứa tuổi đặc biệt nhất”.
Một vị khách tại quán rượu nói rằng ông ta biết lứa tuổi ấy như thế nào rồi.
“Ông không biết”, Diel nói. “Những người duy nhất biết là những người đã trải qua lứa tuổi đó. Ông đã không có thời gian đẹp đẽ đó và một người ngu ngốc nào đã sống cùng với ông và làm thui chột một đoạn đời của ông, ông không thể biết”.
Ở đoạn giữa, Cramer với lối văn đơn giản gần như mang tính chất cổ điển của báo, giới thiệu cho chúng ta lần lượt những cảnh thương tâm.
Chung cuộc, nó không phải là bút pháp được báo trước mà là sự chọn lựa ngẫu hứng những sự kiện hình thành trạng thái của sự việc.
chương 3 các thể loại báo chí 45
Một thí dụ khác từ đoạn giữa câu chuyện: Bây giờ ở tuổi 30, không dự định, không ham muốn, không tình yêu ngoài một cô gái độc thân đã chết và không hy vọng tìm một ai khác, Johnny Diel chẳng đi đâu cả.
Ở nhà, anh thức dậy vào giữa trưa, hành động đầu tiên là đeo sợi dây chuyền có gắn một chữ “C” bằng bạc. Trước kia, đôi lúc cô ấy đeo cái vật quyến rũ này. Anh thì bao giờ cũng đeo nó.
Anh chải mái tóc dài đen nhánh, xoa hàm râu rậm và ria mép trước tấm gương ở bàn trang điểm.
Trên bàn có để những tấm ảnh: Chris và John trong buổi tiệc giáng sinh ở nhà cô, Chris và John với bộ y phục Mexico trong ngày hội Halloween, Chris trên bãi biển, Chris trong bộ áo dài trịnh trọng.
Anh cho những người khách xem cuốn album ảnh đầy những hình ảnh đám ma Chris.
Rồi anh lái chiếc Pontiac cùng với người khách đến một cửa hàng hoa. Người đàn bà sau quầy không cần hỏi cũng biết Diel cần một chục hoa hồng mang đến nghĩa trang.
Lúc anh đứng đợi hoa, một chú mèo nhỏ màu xám đang đùa nghịch với sợi dây chuyền trên sàn nhà. “Ông à, Chris và tôi đã từng nuôi con mèo nhỏ như thế này...” Diel nói.
Con mèo vẫn còn ở với cha mẹ của Chris Freunde. Anh gặp con mèo mỗi tuần khi anh đến thăm họ. Tại nghĩa trang anh thay những bông hồng cũ đã héo tàn vì cái nóng tháng tám bằng những bông hồng tươi. Khi anh quỳ trước tấm bia mộ đen bóng, trong bia phản chiếu hình dáng cúi đầu của anh dưới tên cô ta và dòng chữ khắc tiếng Đức: “Geliedt and Unvergessen” - Thương yêu và không quên.
46 những gì không học ở trường báo chí
Thông qua câu chuyện, chúng ta thấy Cramer tập trung vào nỗi ám ảnh của một người đàn ông với bi kịch cá nhân.
Nếu bạn quan tâm đầy đủ bạn cũng có thể thấy Cramer đi bên cạnh anh ta, chăm chú quan sát những thói quen riêng của Diel, suy nghĩ của anh, cách nói của anh. Hơi nghi rằng Cramer đồng nghĩa với người khách ngồi ở quán rượu, thử đưa ra tình cảm và nhận câu trả lời cho đoạn kết xúc động của câu chuyện: “Ông không biết... Ông không thể biết”.
Trong quá trình đó, Cramer đã cho chúng ta thấy bản lĩnh kiệt xuất giữa những người viết báo, khả năng thâm nhập vào câu chuyện chứ không xuất hiện một cách khiên cưỡng.
Anh ta ở đó, nhưng chỉ là một người khách. Câu chuyện được Cramer kể rất tự nhiên như chính những cảm xúc Cramer có được.
Lời khuyên tốt nhất đối với việc này, theo Leonard Ray Teel và Ron Taylor, hãy viết như thế đó. Cảm xúc và tài năng là năng khiếu thường có của những người viết hay.
Các nguồn
Biên tập một tin mouture tổng hợp về một biến cố quan trọng, diễn tiến song song với lúc thể hiện bài tin, trong điều kiện không có mặt tại hiện trường, là công việc thường ngày của phóng viên.
Công đoạn này đòi hỏi một phản ứng nhanh, một sự tập trung thật bền bỉ và một sự nghiêm nhặt, cẩn trọng triệt để.
Ai nói gì?
Một tai nạn đường sắt, một vụ bắt cóc, một cơn động đất, một vụ mưu sát một yếu nhân, một vụ đảo chính sẽ
chương 3 các thể loại báo chí 47
bị tràn ngập bởi những tin điện thường trái ngược nhau, đến một cách nhỏ giọt và đôi lúc phóng viên cần phải cảnh giác.
Các thông tín viên luôn luôn dẫn nguồn một cách chính xác khi đánh tin về, hay ít ra họ cũng đưa ra độ tin cậy của tin theo ngôn ngữ qui ước (codé).
Từ “nguồn tin có thẩm quyền” sẽ cho ta một thông tin chính thức, đến “nguồn tin chưa được phối kiểm” có cả một chùm những tiểu dị nằm ở giữa (nguồn “bán chính thức”, “đáng tin cậy”, “giới thân cận”, “khá thông thạo”, “ngoại giao” và “các quan sát viên” khác).
Phóng viên phải hết sức lưu tâm đối với các tiểu dị này. Hãy coi chừng các loại tín hiệu đó, trừ phi bạn có đường dây riêng chắc chắn hơn.
Sự khôn ngoan cần thiết. Trong những phút, trong những giờ tiếp theo một biến cố quan trọng đang ồn ào, hàng ngàn kẻ lắm lời, vốn chẳng biết gì, sẽ đưa ra lời giải thích, bình luận thêu dệt và dựng chuyện.
Sau một thiên tai, con số người chết biến động hàng giờ, biến động giữa nguồn tin này với nguồn tin khác. Giữa một cuộc bạo động hay một cuộc nổi dậy, những tin đồn hỗn loạn nhất sẽ tràn lan. Bắt đứng cái tình huống không dễ gì nắm vững và đầy biến động đó, ngay thời điểm đóng nút của tờ báo, đòi hỏi một sự bình tĩnh, sự suy xét, và nhất là sự khôn ngoan.
Đặc biệt đối với báo viết; sau khi báo ra người ta sẽ đọc nó nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày.
Trước loại tình huống này, phóng viên nên chọn đứng vào vị trí những yếu tố thông tin nóng nhất và nghiêm trọng nhất... và khi dẫn nguồn cần chỉ ra các mâu thuẫn của chúng.
Tránh kết luận và càng nên tránh dự báo.
48 những gì không học ở trường báo chí
Ngày 9.5.1927, tờ La Presse đưa tin về chuyến hạ cánh xuống New York đầy vẻ vang của hai phi công người Pháp Nungesser và Coli với đầy đủ chi tiết.
Nhưng hai viên phi công nọ đã lâm nạn trên Đại Tây Dương...
60 năm sau, người ta vẫn còn nhắc lại sự cố này trên các báo.
Đó cũng là trường hợp của tờ Nhật báo Paris bất cẩn. Năm 1986, tờ báo này đã đưa tin cái chết của Marcel Dassault sớm một tháng.
Tin ngắn, tin filet, tin mouture được thực hiện tại nơi dân nhà nghề gọi là desk, nghĩa là toà soạn - phòng biên tập tin: phóng viên viết các bài tin dựa trên những thông tin từ bên ngoài gửi về.
Trong bốn thể loại được trình bày sau đây: tường thuật, phóng sự, phỏng vấn, điều tra, phóng viên tự mình thu thập thông tin tại nguồn, và thể hiện bài dựa vào các ghi chép của mình.
Điều quan yếu là phải phân biệt chính xác những đặc trưng của các thể loại này.
Nhiều phóng viên hiện nay nhận thức tính đặc trưng của từng thể loại một cách khá mù mờ.
Bài tường thuật
Bài tường thuật tỏ rõ ưu thế có mặt tại chỗ của phóng viên. Đó thường là những thông tín viên, đặc phái viên địa phương và một số không nhỏ phóng viên các tờ nhật báo, các đài truyền thanh và truyền hình.
Đây là một thể loại mang đậm tính thông tin. Mục đích: cung cấp cho độc giả, thính giả hay khán giả cái cốt lõi của các thông tin trước một biến cố họ đang quan tâm theo dõi.
chương 3 các thể loại báo chí 49
Cũng như bài phóng sự, bài tường thuật yêu cầu phóng viên có mặt tại hiện trường.
Nhưng ngược với đặc tính cá nhân cùng chủ quan của phóng sự, bài tường thuật luôn luôn cố giữ tính “khách quan”.
Những cái ngoặc kép muốn chỉ ra rằng chúng ta đã không còn tin mấy nỗi vào cái tính ngữ quá ư sáo mòn kia. Một cái máy hình, tự thân nó trung tính và khách quan; vào tay một “phó nháy”, nó sẽ không còn trung tính và khách quan nữa.
Khi chọn các sự kiện để tường thuật (hoặc để “trích dẫn”), tầm quan trọng của sự kiện, cách truyền đạt sự kiện, dù muốn hay không đều tuỳ thuộc vào tư cách của nhân chứng. Ít ra phóng viên phải là một nhân chứng trung thực.
Yêu cầu trước nhất của bài tường thuật là chỉ tường thuật những sự kiện, tất cả những sự kiện phóng viên cho là quan trọng, mới và hấp dẫn đối với công chúng của anh ta.
Hãy cố gắng ghìm cương các ý kiến và ấn tượng cá nhân lại. Quyền chọn lựa thông tin để truyền đạt đã khá lớn, chớ nên dài tay bóp méo hoặc cắt xén thông tin.
Đó là chưa kể đến căn bệnh mãn tính của báo chí: lúc nào cũng tìm cách “xáo” thông tin với bình luận thông tin. Trong bài tường thuật, phóng viên kể lại các sự kiện và dành cho độc giả quyền kết luận. Sự có mặt của anh ta tại hiện trường chỉ được cảm nhận xuyên qua sự chính xác của các chứng lý.
Do đó bài tường thuật không được thiếu sự sống và màu sắc. Đặc biệt một bài tường thuật sẽ trở nên sống động nhờ các trích dẫn - chính xác và ngắn gọn - bằng lối trực tiếp.
Bài tường thuật có thể dung nạp một vài “món” mà thể loại phóng sự vốn “hảo”: phác hoạ một nhân vật, giai thoại,
50 những gì không học ở trường báo chí
đặc tả ngắn gọn về khung cảnh...
Tuy nhiên phóng viên luôn luôn giữ những khoảng cách nhất định khi đối diện với chủ đề, đối tượng và không đưa ra các phản ứng cá nhân. Chính điểm này là ranh giới ngăn cách giữa tường thuật và phóng sự.
Phóng sự
Mục đích của phóng sự là để giúp người đọc thấy, nghe, ngửi, cảm nhận những gì phóng viên thấy, nghe, ngửi, cảm nhận.
Thể loại phóng sự thường được chọn khi thông tin mang đặc tính của một “quang cảnh” sống động đầy các tình tiết phong phú.
Cùng một đề tài có thể xử lý bằng tường thuật hoặc phóng sự.
Chẳng hạn một trận bóng đá:
- Một bài tường thuật sẽ tái hiện câu chuyện một cách chi tiết và chính xác qua các pha chính của trận đấu: “Phút 13, tiền vệ cánh trái làm động tác giả dụ trung vệ Bernard để Paul khống chế bóng trước mũi các cầu thủ đối phương và ghi bàn”.
- Một bài phóng sự ít chú trọng đến các chi tiết của trận đấu hơn cái “khoảnh khắc cuộc sống” trong dịp đó. Tuỳ theo sự thẩm thấu của phóng viên, những gì xảy diễn trước và sau trận đấu, những gì xảy diễn trên khán đài, trong phòng thay đồ cũng trở nên quan trọng ngang bằng, đôi lúc vượt hơn cả những diễn tiến của chính trận đấu. Một khán giả danh tiếng có thể chiếm nhiều chỗ hơn một cầu thủ ngôi sao...
Phóng viên phóng sự sử dụng các giác quan của mình thay cho người khác. Anh ta đại diện cho độc giả, thính giả hoặc khán giả không có mặt tại hiện trường.
chương 3 các thể loại báo chí 51
Họ sẽ nhận thức được hiện trường thông qua phóng viên. Vì thế, phóng viên có nhiệm vụ ghi nhận một cách hết sức nhạy cảm, linh hoạt và tập trung. Biết dựng lại cuộc sống, theo quan niệm chung, thuộc về những người có “năng khiếu”.
Nhưng năng khiếu bao giờ cũng dựa trên một kỹ thuật. Kỹ thuật phóng sự dựa trên một sự thu thập phong phú tất cả những gì làm nên cuộc sống:
- những nhân vật tiêu biểu, có tên tuổi, có mặt mũi, có cách ứng xử, có lối phát biểu riêng;
- những phát biểu tường thuật trực tiếp, những đoạn thoại;
- những cảnh huống sống động, những giai thoại; - những màu sắc, mùi vị, tiếng động;
- những khung cảnh vẻ phác vài nét chính xác. Tất cả những thành tố này đều cần thiết để xây dựng một phóng sự. Nhưng không phải chỉ việc tập hợp và dựng lại “cả mớ” các thành tố trên là có được một bài phóng sự thành công.
Trước khi viết, phóng viên phải tự hỏi: “Đâu là ấn tượng (thông điệp cốt lõi) tôi phải truyền đạt lại cho độc giả?” Giữa các thông tin thu thập được, những cái nào phù hợp để tạo ấn tượng cho độc giả?
Thế là phóng viên bắt đầu chắt lọc những ghi chép có lợi và lược bỏ những cái khác. Sau đó anh ta lắp ráp chúng lại, đưa ra “công diễn” nhưng vẫn dựa sát trên các sự kiện. Chính ở giai đoạn này “năng khiếu” sẽ can thiệp vào.
Một phóng sự xuất sắc hay không tuỳ theo ngòi bút của tác giả. Tuy nhiên sẽ không khi nào có chuyện hỏng nếu như chúng ta đã tập hợp đầy đủ các chất liệu cần thiết.
Phóng sự đòi hỏi mạnh mẽ một phần tính chủ quan. Hai phóng viên cùng có mặt tại hiện trường sẽ có những
52 những gì không học ở trường báo chí
ghi nhận hoàn toàn khác nhau, sẽ không bị bó buộc phải đưa ra những ấn tương trùng lắp.
Điều đáng nói là khi các quan sát viên không ở cùng một chỗ, biến cố xảy diễn phức tạp, cảnh trường rộng, các vai diễn đông đúc... bài phóng sự sẽ là sự “tổng quan” của nhiều phóng viên.
Luật vàng đối với phóng viên: khắt khe trong xử lý thông tin. Ấn tượng của anh ta sẽ được truyền đạt thông qua các sự kiện chọn lọc và duy chỉ các sự kiện, tránh kiểu bình luận lộ liễu.
Đấy sẽ là những sự kiện anh ta đã chứng kiến, hoặc giả anh ta sẽ tường thuật đồng thời dẫn nguồn ra. Chuyện “đơm đặt” là một tội lỗi nghề nghiệp.
Loại phóng sự “định hướng”, trong đó phóng viên cố tình lờ đi những sự kiện quan trọng, không phải là bản chất của báo chí.
Phỏng vấn
Sẽ là lạm xưng khi gọi những “phát biểu góp nhặt” là phỏng vấn.
Một tuyên bố - dẫu cho dành riêng cho một tờ báo (ex clusive) - được ghi băng vội vàng trên bậc thềm nhà một bộ trưởng hay ngay lúc khai mạc một sự kiện nào đó không phải là phỏng vấn.
Cũng thế, cuộc gặp gỡ mà phóng viên muốn được nghe một chuyên gia giải thích, ví dụ về một đề tài kỹ thuật, càng không phải là một cuộc phỏng vấn, nhưng chỉ là một trao đổi tham khảo.
Phỏng vấn là một dạng điều tra: nó nhằm mục đích thu thập các thông tin hay các ý kiến chưa hề đăng tải ở đâu do một nhân vật đưa ra và đồng ý cho công bố các phát ngôn của ông trước công chúng.
chương 3 các thể loại báo chí 53
Cũng như điều tra, phỏng vấn xuất phát từ các câu hỏi mà một phóng viên (hay công chúng) đặt ra trước một vấn đề.
Nhưng ở đây các câu hỏi này được nêu với một người đang giữ những câu trả lời hay những ý kiến công chúng quan tâm.
Một người đã chấp nhận một cuộc phỏng vấn hàm ý rằng ông ta chấp nhận cho phóng viên đặt ra tất cả những câu hỏi mà phóng viên nhận thấy cần thiết đối với đề tài đã xác định, dựa trên một thỏa thuận song phương.
Cũng như ông ta chấp nhận cho công bố các câu trả lời của mình. Đó là lý do bổ sung để tránh mọi mơ hồ giữa “phỏng vấn” và “trao đổi”.
Người ta có thể chấp nhận một cuộc trao đổi với một phóng viên nhưng từ chối anh ta một cuộc phỏng vấn. Trong cuộc trao đổi “bình thường”, phóng viên phải xin phép trích đăng cụ thể phát ngôn nào của người đối thoại và chỉ được trích khi người ấy OK.
Ngược lại, trong một cuộc phỏng vấn, chính người được phỏng vấn phải chỉ rõ phát ngôn nào của mình không đưọc công bố. Người ấy chỉ cần nói: “Không ghi đoạn này” (off the record). Phóng viên phải nhất nhất tôn trọng yêu cầu này.
Tưởng cũng cần xác định ngay từ đầu: bản chất cuộc gặp gỡ do phóng viên thu xếp. Đôi khi nên bằng lòng với một cuộc trao đổi (mà nội dung có thể hoàn toàn được giữ kín, tuỳ theo giới hạn) còn hơn là cố nằn nì một cuộc phỏng vấn để bị nghe tiếng sập cửa trước mũi.
Tóm lại, một người đối thoại thường dễ chấp nhận một cuộc trao đổi thành phỏng vấn, nếu phóng viên biết tạo các mối quan hệ tin cậy lẫn nhau với người ấy. Phỏng vấn, thường hơn hết, là một cuộc đầu-đối-đầu.
54 những gì không học ở trường báo chí
Nếu người phỏng vấn đối diện cùng một lúc ba đối thoại viên, hoặc nếu ngưòi được phỏng vấn bị cùng lúc ba phóng viên “quay”, điều đó sẽ tạo ra một tương quan lực lượng không cân bằng, ít hạp với không khí tự nguyện và còn ít độ tin cậy hơn nữa.
Phỏng vấn đòi hỏi thời gian: trước khi bắt đầu phỏng vấn cần dàn xếp với đối tượng một thời gian tối thiểu, thường thì không dưới 45 phút.
Phỏng vấn phải được chuẩn bị. Phỏng vấn càng không biết đặt câu hỏi càng ít thu thập được thông tin - những thông tin chưa từng đăng tải.
Trong trường hợp xấu nhất, phóng viên sẽ chỉ đóng vai trò đơn thuần của một máy thu băng và người được phỏng vấn tha hồ ba hoa những gì họ muốn. Hoặc trong giới báo chí còn gọi là cầm micro cho nhân vật kia nói.
Phỏng vấn không phải là một cuộc tranh cãi, cũng không phải là một vụ biện hộ.
Phóng viên có mặt để đặt câu hỏi chứ không phải để góp ý kiến. Bộ câu hỏi này cần được soạn sẵn thành văn bản, để giúp phóng viên luôn luôn giữ được chủ kiến độc lập trong phỏng vấn.
Tuy nhiên cũng không nên để bị gò bó trong cái khuôn của chính mình: nếu người được phỏng vấn thình lình đưa ra một hướng mở ngoài dự liệu, người phỏng vấn nên sẵn sàng để mở rộng vấn đề bằng những câu hỏi bất ngờ.
Chắt lọc và tái hiện
Đừng để bị khớp. Nếu người đối thoại với bạn đã chấp nhận một cuộc phỏng vấn, có nghĩa là người ấy thấy cần phải được chia sẻ.
Nếu người ấy từ chối trả lời một câu hỏi (trong chủ đề đã chọn), nếu người ấy tránh trả lời thẳng, ắt họ sẽ tìm cách
chương 3 các thể loại báo chí 55
“dìm chết con cá”, bạn hãy lặp lại câu hỏi một cách lịch sự nhưng thẳng thừng: một sự lẫn tránh lần nữa càng làm cho ý nghĩa thêm rõ ràng.
Bài tin ghi lại một cuộc phỏng vấn dĩ nhiên là không phải được ghi từng chữ những gì đã nói, trừ khi đó là một phỏng vấn được trực tiếp truyền thanh hay truyền hình.
Một cuộc phỏng vấn kéo dài suốt một giờ đồng hồ hiếm khi chịu đựng nổi cho đến phút cuối. Trong bài viết, từng ấy thời gian sẽ chiếm trọn hai trang của tờ nhật báo.
Cũng như phóng sự, phỏng vấn cũng là một sự chắt lọc và tái hiện - ở đây những câu trả lời do người được phỏng vấn thực hiện.
Trước khi biên tập (hoặc dựng tiếng, dựng hình) bài phỏng vấn của mình, phóng viên tự hỏi, cũng như thông lệ trước bất kỳ bài viết, đâu là “thông điệp cốt lõi”, tuỳ theo góc chọn và công chúng mà phóng viên nhắm đến.
Các câu trả lời sẽ được rút gọn, lược bỏ những chi tiết ngoài đề, những điều lặp lại không có lợi, những ngữ trung gian vô bổ.
Trong báo viết, viết lại những gì người trả lời phỏng vấn phát biểu lộn xộn thành mạch lạc là công việc không hề bị cấm...
Tuy nhiên chú ý giữ lại những nét đặc trưng trong phát ngôn của đối thoại viên: đừng để cho con người lại nói năng như sách...
Hãy giữ lại các quá ngữ đặc trưng cá nhân, một từ tán thán, kể cả một cố tật ngôn ngữ (“không phải”, “tôi đoan chắc rằng”...) Sau khi đọc lại bài trả lời phỏng vấn của mình, người đối thoại với phóng viên phải thừa nhận: “Tuy không đúng y những cái tôi đã nói, nhưng đúng là những điều tôi muốn nói ra”.
Điều tra
56 những gì không học ở trường báo chí
Phóng sự nêu ra, còn điều tra chứng minh. Đề tài của phóng sự là một quang cảnh, đề tài của điều tra là một vấn đề.
Nhu cầu viết điều tra sẽ được đặt ra ngay khi phóng viên muốn giải đáp một câu hỏi bằng cách đến tại nguồn để săn tìm các câu trả lời.
Một bài điều tra có thể đòi hỏi 1 giờ và ba cú điện thoại - hoặc có khi đến 3 - 4 tháng làm việc cật lực. Phóng viên Stevens Spielberg, tờ Washington Post cho biết để viết 4.000 chữ về việc sát nhập hai hãng chế tạo máy bay Boeing và McDonnell, ông đã phải mất bốn tháng và tài liệu lên cao bằng chiều cao của mình. Ví dụ: một vụ cướp có vũ trang vừa xảy ra trong chi nhánh bưu điện. Phóng viên có thể bằng lòng với những tường trình của cảnh sát: đó là một bài phóng sự. Trong khi đến tại hiện trường để làm một bài phóng sự, anh ta phát hiện ra rằng đây là một vụ trấn lột thứ hai xảy ra tại bưu trạm này trong vòng 6 tháng.
Phóng sự trở thành điều tra: những biện pháp an ninh có được đề ra sau vụ trấn lột thứ nhất chăng? Nếu không, tại sao? Nếu có, tại sao? Các biện pháp đề ra không có tác dụng? Còn có những vụ cưỡng đoạt nào khác tại các chi nhánh bưu điện viễn thông chăng?...
Từ chỉ lần ra kim, phóng viên điều tra có thể tạo nên được vấn đề được công chúng quan tâm, bằng cách đưa ra những thông tin chưa hề đăng. Cách điều tra giống như từng bước từng bước trong khám phá khoa học, và người ta có thể chia nó ra làm năm công đoạn:
1. Đặt câu hỏi đúng hướng, theo một công thức rõ ràng, tập trung vào một vấn đề chính (đó là góc điều tra); 2. Xác định các tư liệu liên quan đến vấn đề; 3. Lập các giả thuyết để tiến hành điều tra, không nên
qua một tiên nghiệm nào;
chương 3 các thể loại báo chí 57
4. Xác minh các giả thuyết, tại hiện trường;
5. Đưa ra kết luận.
Một bài điều tra xứng đáng với tên gọi của nó sẽ không bỏ qua bất kỳ một công đoạn nào trong năm công đoạn trên, và đặc biệt là công đoạn thứ tư.
Nhiều bài điều tra “dỏm” thực ra chỉ là mớ tư liệu đã có về các đề tài đeo đuổi.
Một số bài khác chỉ là những phỏng đoán (loại bài nhận định/ articles “d’idées”) không được xác minh qua thực tế. Một số bài khác nữa chỉ là những chứng minh thành kiến rút ra từ một kết luận đã thành định kiến ngay từ đầu. Khởi đầu một bài điều tra, phóng viên phải biết mình
tìm cái gì; chứ không phải muốn chứng minh cái gì. Một giả thuyết hay nhiều giả thuyết do phóng viên đề ra vốn cần thiết để triển khai tìm kiếm. Các giả thuyết ấy phải được đem ra cọ xát với thực tế từ lúc này sang lúc khác. Một cuộc điều tra được thực hiện nghiêm nhặt có thể dẫn đến một kết luận hoàn toàn bất ngờ.
Trong mọi trường hợp, ngay cả khi ý tưởng ban đầu đi đúng hướng, việc xác minh tại hiện trường sẽ dẫn đến những thông tin buộc phải điều chỉnh ý ban đầu lại hoặc phải bổ sung thêm các chi tiết cần thiết.
Như những thể loại khác, bài điều tra sẽ được biên tập dựa vào thông điệp cốt lõi. Với loại này thông điệp cốt lõi chính là kết luận. Và chính thông điệp cốt lõi này qui định bố cục bài tin.
Bố cục này, thực sự mà nói, rất giống với bố cục của một chứng minh khoa học: vấn đề - giả thuyết - xác minh - kết luận.
Người ta còn gặp cấu trúc này dưới nhiều dạng khác nhau: Tình huống - nguyên do - giải pháp khả thi - giải pháp
58 những gì không học ở trường báo chí
ưu thế.
Xung đột - lập luận bên này - lập luận bên kia - các sự kiện - ý kiến các chuyên gia - bên có lý.
Nếu cái sườn này thực sự tồn tại trong một vụ điều tra báo chí, người ta cũng khó mà nhận ra nó. Các kiểu sườn thường bị chìm khuất giữa hàng loạt các loại hình văn bản.
Một bài tin điều tra không phải là một báo cáo tường trình lạnh lùng và trừu tượng.
Bài điều tra phải đầy đủ dẫn chứng, nhân chứng và vật chứng nhằm làm sáng tỏ các công đoạn chứng minh. Bài điều tra không những đòi hỏi tất cả bản lĩnh nghiệp vụ của phóng viên, mà còn đòi hỏi tất cả các nguồn hỗ trợ từ các văn bản báo chí như phóng sự, phỏng vấn, chân dung...
Một bài điều tra quan trọng có thể coi như một bài bình luận (éditorial). Trong chiều hướng này người ta có thể gọi đó là thể loại của những thể loại.
[N.B: xem chú thích éditorial trong phần thuật ngữ.]
Những thể loại khác
Một số thể loại khác thường dùng tại nhiều toà báo, nhưng không phải là thể loại lớn như hai chùm thể loại chúng tôi vừa nêu.
Đó là:
+ Bình luận, thường nằm trên trang mục ý kiến hoặc diễn đàn.
Tuy nhiên, hiện nay, báo chí Mỹ có xu hướng phát triển thể loại bình luận như là một “loại tin nên xảy ra” - một đặc trưng dân chủ của nước này: trọng lượng ý kiến nhiều chiều của người dân.
Với báo chí Mỹ, tin tức là “loại tin đã xảy ra hoặc sắp xảy ra” so với bình luận là “loại tin nên xảy ra”, cả hai loại đang
chương 3 các thể loại báo chí 59
được đăng tải khá cân bằng, không như trước đó mỗi kỳ báo chỉ có một trang.
+ Xã luận, bài báo nêu lên chính kiến của tờ báo, do ban biên tập thực hiện.
Xin xem ở chương 7 Bình luận báo chí ở Việt Nam. Trong bài phỏng vấn chúng tôi có đề cập đến thuật ngữ: Trao đổi tham khảo. Đây là thể loại khá phổ biến ở các tờ báo, thường sử dụng ngay sau khi một biến cố/sự kiện xảy ra mà trọng tâm của nó là một vấn đề người đọc còn chưa nắm bắt hết khái niệm. Chẳng hạn:
- ngay sau tin Mỹ dùng vũ khí uranium bẩn ở Nam Tư. Người đọc rất cần hiểu uranium bẩn là gì?
- tháng 12.2003, khi dịch cúm gà gây ra với dư luận rằng virus này có thể lây lan sang người, người đọc cần những thông tin về cúm gà và cúm người và lời giải thích về các cơ chế lây, virus nào?
- tháng 2.2004, Tamiflu được nhập vào Việt Nam dưới hình thức viện trợ nhân đạo, được nhiều người đổ xô truy tìm thông tin: liệu Tamiflu có an toàn khi mắc cúm do virus hay không? Cơ chế diệt virus của Tamiflu như thế nào.
- khi Mỹ xua quân vào Iraq nhằm lật đổ chính phủ của tổng thống Saddam Hussein năm 2003, báo chí Việt Nam trong những ngày đầu chiến tranh đều nhất loạt đưa tin một nông dân Iraq dùng súng trường cá nhân bắn rơi một chiếc trực thăng Apache của Mỹ trên ruộng mình. Một số thông tin trên Internet cho rằng loại máy bay này chuyên diệt xe tăng, súng trường cá nhân bắng không thủng.
Với những toà báo có đạo đức, sau khi đưa tin bắn rơi, nắm được luồng dư luận này, phải tìm hiểu về mặt kỹ thuật, phải lập tức đính chính lại bằng hình thức hỏi đáp về tính năng của loại máy bay này. Nhưng không có tờ báo Việt Nam nào làm điều đạo đức chức nghiệp đó.
60 những gì không học ở trường báo chí
Thể loại này thường gọi là hỏi & đáp. Đôi lúc bị một số toà báo trong nước lạm xưng là phỏng vấn. Những câu hỏi đưa ra trong thể loại này phần lớn là đứng dưới góc độ thắc mắc của người đọc chủ lực mà tờ báo nhắm đến.
Những hình thức bài viết khác như điểm sách/đọc sách, điểm phim, điểm sân khấu, điểm ca khúc, v.v. vẫn đưa dưới hình thức 5W+1H, duy có điều H được nhấn mạnh hơn bằng ý kiến chủ quan của người viết, tức là nặng tính bình luận. Những người viết mảng này thường có kiến thức nền tốt về lĩnh vực.
chương 4 phóng sự - tin mềm 61
4.Phóng sự -
tin mềm
Trong chương này...
Cận cảnh kỹ thuật viết
phóng sự
- Phóng sự trên báo, đài
+ tin cứng/tin mềm
+ các kiểu phóng sự
- Viết, tổ chức phóng sự
+ tìm kiếm đề tài và phát
triển câu chuyện
+ viết lead/thân/kết
+ bài phóng sự ví dụ
- Bảng chỉ nam cho người
viết
62 những gì không học ở trường báo chí
Theo quan niệm của Mary Gillespie, một
cây bút chuyên viết phóng sự của tờ
Chicago Sun-Times, viết phóng sự là
viết tin bằng trái tim. “Những người viết
tin yêu thích sự cấp tập khi họ đi săn ở
ngoài và đưa tin nóng,” cô nói. “đó là sự
thách thức của họ. Sự thách thức của tôi là vồ lấy độc giả và không để họ quay đi khi mà họ còn chưa đọc xong câu chuyện, đưa họ đi xa hơn cái mà họ có thể đã đọc trên báo ngày hôm trước.”
Gillespie viết cho phần Living (đời sống) hàng ngày của tờ Sun-Times, đó là phần phóng sự chính của tờ báo. Cô viết đủ mọi chuyện trừ tin cứng, nghệ thuật và giải trí. Lĩnh vực của cô là bất kì nơi nào có chuyện. Cô đã từng có mặt trên một chiếc xà lan trên hồ Michi gan nguyên một ngày, phỏng vấn những người thả phao tiêu cho mùa hè du thuyền; cô đã từng có mặt tại cuộc thi Hoa hậu Mỹ để tìm xem các thí sinh làm gì trước và sau cuộc thi; và cô đã sang Luxembourg để nhen nhóm lại những ký ức của chiến trận Bulge.
chương 4 phóng sự - tin mềm 63
“Tôi đã từng viết một phóng sự về ngủ trưa,” cô nói. “Ai ngủ. Ai không ngủ. Những người ngủ trưa tự nguyện hay không tự nguyện. Những người ngủ trưa trứ danh trong lịch sử.
“Có hằng hà phóng sự quanh ta. Đối với tôi, chỗ tốt nhất để tìm thấy một phóng sự là nhìn vào những gì đang xảy ra quanh ta. Nhìn vào tin tức. Trò chuyện với người dân đi siêu thị. Nói cách khác là hãy sống.
“Một phóng sự thu hút khán giả theo mức độ điều đó có thể xảy ra cho bạn. Bạn đang truyền đạt cho mọi người một điều gì đó về chính họ. Bạn đang bảo họ Hãy để ý xem điều gì đang xảy đến với anh chàng này. Đây là cái mà bạn có thể rút kinh nghiệm từ điều đó. Phóng sự cũng giống như ta giơ lên một chiếc gương soi.”
Công việc đầu tiên của Gillespie sau khi tốt nghiệp là làm phóng viên viết tin tại tờ Suburban Sun-Times. “Bạn phải học ABC về viết tin cái đã, rồi sau mới có thể viết phóng sự,” cô nói. “Cả hai thể loại đan xen vào nhau. Bạn có thể bắt đầu như là một người viết tin, nhưng bạn không thể vĩnh viễn tiến hoá với giai đoạn who, what, where, why và when. Thách thức của người viết phóng sự là đi xa hơn.”
Phóng sự trên báo đài
Tin cứng và tin mềm
Buổi sáng mọi người thức dậy và muốn biết cái gì xảy ra kể từ khi họ đi ngủ. Họ đọc một tờ báo buổi sáng và bật máy xem tin buổi sáng. Họ bật radio trên xe hoặc văn phòng để nghe tin suốt ngày để biết cái gì vừa xảy ra.
Khi trở về nhà, họ bật đài buổi tối hoặc đọc một tờ báo buổi chiều để cập nhật những gì xảy ra trong ngày. Một bài tin có thể là cứng, tường thuật cô đọng đến mức
64 những gì không học ở trường báo chí
có thể được những who, what, where, when, why và how của một sự kiện.
Hoặc bài tin có thể mềm, đứng lùi ra sau để quan sát dân tình, nơi chốn và sự việc làm nên thế giới, quốc gia và cộng đồng.
Những sự kiện tin cứng, như cuộc họp ban giám hiệu nhà trường, bầu phiếu, liên quan đến nhiều người, và công việc trước tiên của các phương tiện là tường thuật chúng như chúng xảy ra.
Tin mềm, cũng như sự quay lại ưa chuộng các loại xe hơi mui mềm hoặc người dân cầm cự với thời tiết lạnh ra sao, cũng được tường thuật bởi các phương tiện. Phóng sự thường được viết dựa vào các sự kiện tin mềm.
Phóng sự: khi nào thì tin mềm thích hợp?
Không có một đường ranh chắc chắn giữa một bài tin và một bài phóng sự, đặc biệt là ngày nay, khi mà nhiều sự kiện tin được “phóng sự hoá”.
Chẳng hạn, thứ hai có thể là ngày nóng nhất trong năm tính cho đến nay. Một bài tin phát sóng có thể bắt đầu “cơn nóng kỷ lục đã nướng thành phố hôm thứ hai, và trước mắt, không có dấu hiệu giảm.”
Một bài phóng sự hoá trên một tờ báo có thể bắt đầu: “John Hilkevich đã làm cái điều mà bất kì người dân nào trong thành phố cũng muốn làm hôm thứ hai. Ông bỏ cả ngày để phơi nắng trên bãi biển.”
Hầu hết tin các báo và đài được trình bày lẫn lộn: vừa dưới hình thức bài tin cứng tường thuật những sự kiện đáng chú ý xảy ra từ sau khi số báo mới nhất được phát hành, và “phóng sự” các:
- Chân dung con người làm nên tin;
- Giải thích các sự kiện làm chấn động tin tức;
chương 4 phóng sự - tin mềm 65
- Phân tích những cái đang xảy ra trên thế giới, trong quốc gia hoặc cộng đồng;
- Hướng dẫn độc giả làm một điều gì đó;
- Gợi ra những lối sống tốt lành hơn trong một thế giới phức tạp;
- Khảo sát các xu hướng thay đổi liên tục trong các xã hội;
- Giải trí.
Bất kể mối quan tâm ngày nay dành cho phóng sự, tin cứng vẫn còn chiếm hầu hết trang mặt của tờ báo; một show phát sóng thường bắt đầu bằng nhiều tin cứng.
Tuy nhiên, bên trong tờ báo và thường ở phần nửa dưới của trang mặt, các bài tin trở nên mềm hơn. Sau khi các phát thanh viên truyền hình hoặc truyền thanh tường thuật những tin tức chính trong ngày, họ bắt đầu quay sang phóng sự.
Các phương tiện hàng ngày hiện nay dùng nhiều yếu tố để chuyển tải cái gì đang xảy ra mà họ muốn tường thuật, bao gồm thời gian tính, sự gần gũi, hậu quả, mối quan tâm nhận thức của đối tượng theo dõi, sự cạnh tranh, mục tiêu của ban biên tập và kể cả ảnh hưởng của những nhà quảng cáo.
Tất cả những yếu tố đó gây áp lực đối với các phương tiện nhằm đem lại cho độc giả vừa tin vừa phóng sự. Độc giả, khán giả và thính giả muốn tin cứng kể cho họ những who, what, where, when, why và how của các sự kiện xảy ra luôn luôn trên thế giới, quốc gia và cộng đồng của họ.
Họ cũng muốn được giải trí, muốn cười hoặc khóc, muốn học và muốn ngồi nán lại và muốn thật sự thưởng thức một bài báo.
Một tờ báo có vẻ như đã tìm ra một công thức trộn lẫn
66 những gì không học ở trường báo chí
tin cứng và tin mềm là tờ The Wall Street Journal. Mỗi ngày, tờ Journal in các tin tường thuật điều độ về kinh doanh và tài chính. Tờ báo cũng có cột “What’s News” tóm tắt các bài tin quan trọng. Xen lẫn giữa những bài tin đó là những bài phóng sự tập trung vào thế giới kinh doanh.
Thỉnh thoảng, sự phân biệt giữa tin cứng và tin mềm rất rõ ràng. Khi người dân bị thiệt mạng trong một vụ hoả hoạn, sẽ có tin mang giá trị tức thời. Những tin nóng sẽ được viết theo hình thức kim tự tháp ngược tiêu biểu đưa điểm quan trọng nhất lên đầu.
Tuy nhiên, khi thống đốc thăm thành phố chỉ để ăn tương ớt tại một nhà hàng được ưa chuộng ở khu trung tâm, phóng viên sẽ chọn một hình thức khác kim tự tháp đảo ngược.
Đó là chỗ mà sự khác biệt giữa tin cứng và tin mềm trở nên mơ hồ. Câu chuyện về thống đốc có thể được viết bằng tin cứng, tường thuật rằng thống đốc đang ở thành phố để ăn tương ớt. Đó có thể là một tin lớn tại một thành phố nhỏ.
Tuy nhiên, câu chuyện cũng có thể được viết dưới dạng phóng sự mềm, phản ánh về thống đốc và những việc khác giải thích tại sao tương ớt và nhà hàng này lại ngon.
Đàng khác, câu chuyện phải được thể hiện khách quan đến mức có thể được bằng ngôn ngữ trong sáng. Đây là một tình huống khác qua đó sự phân biệt không tách bạch. Một sinh viên báo chí được chỉ định viết về mức độ trộm cắp trong các chung cư gần đại học đang gia tăng. Sinh viên này gọi điện cho công an phường, yêu cầu mở cuộc phỏng vấn viên chức phụ trách các chi tiết về trộm cắp và nhận ra rằng tình trạng đang đến mức báo động. Viên chức đó nói rằng trừ phi công an phường được cấp