🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Điều Cần Biết Về Luật Tố Cáo (Hiện Hành) Ebooks Nhóm Zalo NHỮNGĐIỀUCẦNBIẾTVỀ LUẬTTỐCÁO (HIỆNHÀNH) HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG Phó Chủ tịch Hội đồng Q. Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH Thành viên VŨ TRỌNG LÂM NGUYỄN ĐỨC TÀI TRẦN THANH LÂM NGUYỄN HOÀI ANH ThS.PhạmThịPhượng NHỮNGĐIỀUCẦNBIẾTVỀ LUẬTTỐCÁO (HIỆNHÀNH) NHÀXUẤTBẢNCHÍNHTRỊQUỐCGIASỰTHẬT HàNội-2019 4 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Luật Tố cáo năm 2018 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/6/2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019, thay thế Luật Tố cáo năm 2011. Luật Tố cáo năm 2018 kể từ ngày có hiệu lực, đã tạo được hành lang pháp lý an toàn, rộng mở để mọi công dân có thể thực hiện quyền của mình trong việc tố cáo, một mặt, giúp các cơ quan chức năng kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, mặt khác, giúp ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần tạo ra một xã hội trong sạch, văn minh, hiện đại. Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật về tố cáo của bạn đọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Những điều cần biết về Luật Tố cáo (hiện hành) do ThS. Phạm Thị Phượng biên soạn. Nội dung cuốn sách gồm hai nội dung cơ bản: Một là, sự cần thiết và các nguyên tắc, quan điểm xây dựng Luật Tố cáo năm 2018; Hai là, những nội dung cơ bản, những điểm mới của Luật Tố cáo năm 2018 và Nghị định của Chính phủ số 31/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo. 5 Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra một số ví dụ minh họa nhằm làm rõ các quy định của Luật Tố cáo năm 2018. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc Tháng 9 năm 2019 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 Phần thứ nhất SỰ CẦN THIẾT VÀ CÁC NGUYÊN TẮC, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG LUẬT TỐ CÁO NĂM 2018 I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT TỐ CÁO NĂM 2018 1. Việc xây dựng Luật Tố cáo năm 2018 nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Tố cáo năm 2011 Kể từ ngày có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2012) đến ngày 31/12/2018, Luật Tố cáo năm 2011 đã tạo hành lang pháp lý để công dân thực hiện quyền tố cáo giúp các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kịp thời phát hiện và xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực quản lý nhà nước... Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thực hiện cho thấy Luật Tố cáo năm 2011 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập sau: 7 Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết tố cáo: Luật Tố cáo năm 2011 chưa quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các trường hợp như: tố cáo việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức xảy ra trong thời gian công tác trước đây nay đã chuyển sang cơ quan, tổ chức khác hoặc không còn là cán bộ, công chức, viên chức; tố cáo đối với cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách; tố cáo cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức đã bị giải thể; tố cáo cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ... Luật Tố cáo năm 2011 cũng chưa quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo của các cơ quan như Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của người có chức danh, chức vụ trong doanh nghiệp nhà nước, vì vậy đã gây ra những khó khăn trên thực tế trong việc thực hiện; Thứ hai, về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo: Luật Tố cáo năm 2011 quy định những nội dung cơ bản về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, một số quy định thiếu chặt chẽ hoặc chưa cụ thể trong việc xử lý đối với một số tình huống như: việc tiếp nhận, xử lý ban đầu thông tin tố cáo; quy định về việc rút đơn tố cáo; tạm dừng, 8 đình chỉ giải quyết tố cáo, về tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp...; Thứ ba, về tổ chức thi hành kết luận nội dung tố cáo: Luật Tố cáo năm 2011 chưa quy định rõ về vấn đề này, do vậy trên thực tế đã diễn ra tình trạng có nhiều kết luận, quyết định xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo đã ban hành có hiệu lực pháp luật nhưng không được cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm minh, nhất là việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức; xử lý sai phạm về kinh tế tài chính... Vì vậy gây ra những bức xúc cho người dân và xã hội; Thứ tư, về bảo vệ người tố cáo: Luật Tố cáo năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đưa ra quy định về các biện pháp bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, các quy định về bảo vệ người tố cáo khó thực hiện, chưa tạo nên cơ chế pháp lý cần thiết để bảo vệ người tố cáo một cách hiệu quả và thực chất. Theo đó, cần có các quy định pháp luật cụ thể, chi tiết nhằm bảo vệ kịp thời, hiệu quả người tố cáo và người thân thích của người tố cáo. Những hạn chế, bất cập nêu trên dẫn đến tình trạng làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo, trật tự, kỷ cương pháp luật, vì vậy, cần thiết phải xây dựng Luật Tố cáo năm 2018 nhằm khắc phục tình trạng đó. 9 2. Xây dựng Luật Tố cáo năm 2018 nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền tố cáo của công dân là quyền con người Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Hiến pháp năm 2013 đã có điểm mới so với Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 trong đó quy định quyền tố cáo là quyền con người chứ không chỉ dừng lại ở quyền công dân; đề cao vấn đề thực thi quyền con người, quyền công dân... Mặt khác, những thay đổi về quy trình tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo tội phạm của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng liên quan đến việc xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết tố cáo của người dân trong Luật Tố cáo, điều đó đặt ra yêu cầu quan trọng cần xây dựng Luật Tố cáo năm 2018, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan. Luật Tố cáo năm 2018 cần có những quy định thể hiện rõ nét hơn tinh thần mới của Hiến pháp năm 2013 về quyền tố cáo với góc độ là quyền con người, quy định cụ thể việc bảo vệ người tố cáo, trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo, công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết tố cáo... 10 3. Xây dựng Luật Tố cáo năm 2018 nhằm tiếp tục quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo Việc xây dựng Luật Tố cáo năm 2018 xuất phát từ quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta trong việc đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo: - Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng đã đặt ra các nhiệm vụ, giải pháp để nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng, trong đó đã nêu rõ: “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Tố cáo, bảo đảm các tố cáo về tham nhũng phải được giải quyết kịp thời, tránh tình trạng đùn đẩy, bao che, không giải quyết hoặc giải quyết không đúng quy định pháp luật”. Chỉ thị cũng nhấn mạnh: “Nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý tham nhũng thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, giải quyết tố cáo, xử lý tố giác, tin báo tội phạm”; “Bảo vệ, khen thưởng xứng đáng người dũng cảm tố cáo hành vi tham nhũng; đồng thời xử lý nghiêm mọi hành vi trù dập, trả thù người tố cáo tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để gây mất đoàn kết nội bộ, vu khống, hãm hại người khác”. 11 - Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng đưa ra giải pháp: “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo hướng nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan thanh tra; của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện chức năng giám sát; của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Từ những lý do nêu trên, việc ban hành Luật Tố cáo năm 2018 để thay thế Luật Tố cáo năm 2011 là cần thiết. II. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LUẬT TỐ CÁO NĂM 2018 Việc xây dựng Luật Tố cáo năm 2018 dựa trên những quan điểm và nguyên tắc cơ bản sau: 1. Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về giải quyết tố cáo, cải cách nền hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Luật Tố cáo năm 2018 phải có nội dung và phạm vi điều chỉnh hợp lý, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền tố cáo; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có thẩm 12 quyền trong việc giải quyết tố cáo; quy định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết các loại tố cáo; có cơ chế hữu hiệu bảo vệ người tố cáo; đồng thời xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật về tố cáo. 3. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của Luật Tố cáo trong hệ thống pháp luật, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan, bảo đảm tính khả thi. 4. Việc xây dựng Luật Tố cáo trên cơ sở tổng kết thực tiễn công tác giải quyết tố cáo, triển khai thi hành Luật trong thời gian qua; kế thừa những nội dung còn phù hợp, bổ sung những nội dung mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay. 13 Phần thứ hai NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ CÁO NĂM 2018 VÀ NGHỊ ĐỊNH SỐ 31/2019/NĐ-CP So với Luật Tố cáo năm 2011 thì Luật Tố cáo năm 2018 có thêm một chương mới là Chương V về trách nhiệm tổ chức, thực hiện kết luận nội dung tố cáo. Nhiều vấn đề quan trọng của Luật Tố cáo năm 2011 đã được sửa đổi hoặc bổ sung mới như: thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; rút tố cáo; tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết tố cáo; tố cáo tiếp, giải quyết lại vụ việc tố cáo; trách nhiệm tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo; trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ người tố cáo... Để bảo đảm cho các quy định của Luật Tố cáo được triển khai một cách đầy đủ, đồng bộ, kịp thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo (sau đây viết gọn là Nghị định số 14 31/2019/NĐ-CP). Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định 02 vấn đề cơ bản: một là, quy định các điều, khoản, chương được Luật Tố cáo năm 2018 giao; hai là, quy định các biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo năm 2018 bao gồm các vấn đề: - Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo; - Xử lý thông tin có nội dung tố cáo và tiếp nhận, xử lý tố cáo do cơ quan báo chí, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển đến; - Xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm. I. PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG CỦA LUẬT TỐ CÁO NĂM 2018 1. Phạm vi điều chỉnh Đây là nội dung quan trọng, cơ bản nhất của Luật Tố cáo, làm cơ sở cho việc quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết và những nội dung khác có liên quan của Luật. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền tố cáo của cá nhân cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc giải quyết tố cáo; đồng thời bảo đảm sự thống nhất giữa Luật Tố cáo năm 2018 với Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan, Luật Tố cáo năm 2018 tiếp tục kế thừa quy định của Luật Tố cáo năm 2011 15 về phạm vi điều chỉnh, trong đó quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hai nhóm hành vi vi phạm pháp luật: Nhóm 1: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Đối với nhóm này, đối tượng bị tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của họ. Do đó, phải có 02 điều kiện cần và đủ để giải quyết tố cáo theo nhóm này: một là, đối tượng bị tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức; hai là, hành vi vi phạm bị tố cáo của họ được thực hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ. Chẳng hạn, người dân tố cáo đối với một kế toán viên làm việc tại Ủy ban nhân dân xã có những sai phạm trong việc lập sổ sách, chứng từ; tố cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện có các sai phạm trong việc quản lý tài chính, quản lý đất đai... Nhóm 2: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Những hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trên thực tế rất đa dạng, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn, có các hành vi vi phạm pháp luật của người dân trong các lĩnh vực khác nhau như: lấn chiếm đất đai; xây nhà trên đất trái phép; xả chất thải ra môi trường không qua xử lý làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt; kinh doanh thực phẩm không bảo đảm an toàn vệ sinh 16 thực phẩm; vi phạm pháp luật giao thông đường bộ v.v.. Các hành vi đó vi phạm quy định pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống, xã hội. Trường hợp có tố cáo đối với hành vi vi phạm này sẽ được xem xét, giải quyết theo quy trình của Luật Tố cáo năm 2018. Trên cơ sở phân định 02 nhóm hành vi vi phạm pháp luật nêu trên, Luật Tố cáo năm 2018 phân định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với từng nhóm hành vi vi phạm đó; mỗi nhóm có những đặc thù riêng về thẩm quyền giải quyết và trình tự, thủ tục giải quyết. Do đó, việc xác định hành vi vi phạm bị tố cáo thuộc nhóm nào rất quan trọng, bởi trên cơ sở đó mới xác định đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải quyết. Bên cạnh việc quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với từng nhóm hành vi vi phạm pháp luật, Luật Tố cáo năm 2018 còn quy định về vấn đề bảo vệ người tố cáo; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý công tác giải quyết tố cáo. 2. Áp dụng pháp luật tố cáo và giải quyết tố cáo Nhằm bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, Điều 3 Luật Tố cáo năm 2018 quy định cụ thể như sau: “1. Tố cáo và giải quyết tố cáo được áp dụng theo quy định của Luật này và quy định khác của 17 pháp luật có liên quan. Trường hợp luật khác có quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của luật đó. 2. Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự”. Trong quá trình xây dựng dự án Luật Tố cáo, có một số ý kiến đề nghị xác định Luật Tố cáo là luật gốc, để phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì không nên nêu nguyên tắc áp dụng pháp luật như quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Tố cáo năm 2018 mà các luật khác phải tuân theo quy định của Luật này để áp dụng trong việc điều chỉnh về tố cáo và giải quyết tố cáo từng lĩnh vực; trường hợp Luật Tố cáo năm 2018 phải áp dụng quy định của luật khác thì cũng cần chỉ rõ đó là các quy định nào, ở văn bản nào và ngược lại quy định nào của Luật Tố cáo năm 2018 cần được áp dụng chung trong quá trình giải quyết tố cáo từng lĩnh vực ở văn bản pháp luật khác. Quá trình nghiên cứu cho thấy, bên cạnh Luật Tố cáo năm 2018 - là đạo luật điều chỉnh chung về tố cáo và giải quyết tố cáo, thì hiện nay còn có một số văn bản pháp luật khác, với những hình thức rất khác nhau, có quy định riêng về tố cáo và giải quyết tố cáo như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, 18 Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành án dân sự, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân v.v.. Việc đưa tất cả các quy định liên quan trong các luật nói trên vào Luật Tố cáo năm 2018 hay lấy Luật Tố cáo năm 2018 là căn cứ để điều chỉnh các luật khác là rất phức tạp, không có tính khả thi và không bao quát hết tính đặc thù của việc giải quyết tố cáo trong từng lĩnh vực. Với việc xác định nguyên tắc áp dụng pháp luật như khoản 1 Điều 3 Luật Tố cáo năm 2018 sẽ tránh được tình trạng xung đột pháp luật (mâu thuẫn, chồng chéo hoặc bỏ sót). Như vậy, trường hợp luật khác có quy định khác về tố cáo và giải quyết tố cáo thì mới áp dụng theo quy định của luật đó hoặc trong trường hợp luật khác quy định dẫn chiếu việc thực hiện theo Luật Tố cáo năm 2018 thì việc giải quyết tố cáo trong lĩnh vực được áp dụng theo quy định tại Luật Tố cáo năm 2018. Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, bởi lẽ, vấn đề này có yêu cầu tiếp nhận, giải quyết đặc thù và đã được quy định rất chặt chẽ và cụ thể trong pháp luật về tố tụng hình sự. Như vậy, cũng là tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật, nhưng hành vi vi phạm đó có dấu hiệu của tội phạm, chẳng hạn như tội tham ô, tội nhận hối lộ, tội giết người, cướp tài sản, tội mua bán, sản xuất, tàng trữ hêrôin v.v. thì khi đó, việc giải quyết tố cáo sẽ không thực hiện theo quy trình 19 của Luật Tố cáo năm 2018 mà sẽ theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan. II. VỀ CHỦ THỂ TỐ CÁO Vấn đề chủ thể tố cáo cũng được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm và cho ý kiến góp ý. Có các ý kiến khác nhau về vấn đề này. Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định chủ thể tố cáo là cá nhân như dự thảo Luật mà Chính phủ trình Quốc hội bởi như vậy sẽ phù hợp với quy định về quyền tố cáo của cá nhân tại Điều 30 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, kể cả cá nhân người Việt Nam hay cá nhân nước ngoài đều có quyền tố cáo về các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định của Luật Tố cáo năm 2018. Quy định này mở rộng hơn so với Luật Tố cáo năm 2011. Luật Tố cáo năm 2011 quy định chủ thể thực hiện quyền tố cáo là công dân (phạm vi hẹp hơn so với Luật Tố cáo năm 2018). Loại ý kiến thứ hai đề nghị, ngoài chủ thể là cá nhân thì cần mở rộng người có quyền tố cáo bao gồm cả cơ quan, tổ chức. Bởi vì, với những cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân, hoàn toàn có thể tham gia một cách độc lập vào các quan hệ kinh tế - xã hội và có khả năng chịu sự tác động của các hành vi vi phạm pháp luật - họ có quyền tố cáo. Do đó, cần ghi nhận quyền tố cáo của cơ 20 quan, tổ chức để nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong việc phát hiện, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật. Đây cũng là một biện pháp tích cực, chủ động để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức. Có thể thấy rằng, việc xây dựng Luật Tố cáo năm 2018 nhằm quán triệt đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác giải quyết tố cáo trên cơ sở tổng kết thực tiễn, khắc phục những hạn chế, bất cập trong việc thi hành pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thời gian qua, đồng thời kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật Tố cáo năm 2011 và một số văn bản pháp luật khác. Trong thực tiễn cho thấy, chủ thể thực hiện việc tố cáo là cơ quan, tổ chức tuy có nhưng rất ít, trường hợp đơn tố cáo ký tên nhiều người dưới danh nghĩa là tổ chức không phải là nhiều. Nội dung tố cáo này thường thiên về phản ánh, kiến nghị. Việc thực hiện quyền tố cáo của một chủ thể sẽ làm phát sinh những hậu quả pháp lý và trách nhiệm gắn với cá nhân. Việc quy định cá nhân có quyền tố cáo là phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và chính sách hình sự của nước ta - cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Người tố cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi tố cáo của mình, nếu tố cáo sai sự thật thì phải bị xử lý về hành chính hoặc hình sự tùy theo tính chất và mức độ vi phạm. Vì vậy, nếu quy định cơ quan, tổ chức có quyền tố cáo thì có 21 thể làm phát sinh những vấn đề phức tạp, chưa lường hết được những tác động liên quan đến cơ chế, cách thức để các chủ thể này thực hiện quyền tố cáo như: trình tự tiếp nhận, xác minh thông tin về người tố cáo, việc bảo vệ bí mật thông tin, xác định trách nhiệm của người tố cáo trong trường hợp cố tình tố cáo sai, tố cáo trái pháp luật. Hơn nữa, trên thực tế có rất nhiều loại cơ quan, tổ chức được thành lập và hoạt động theo những cơ chế, nguyên tắc khác nhau, có cơ quan, tổ chức hoạt động theo chế độ thủ trưởng, có cơ quan, tổ chức hoạt động theo chế độ tập thể. Việc xác định tố cáo có thực sự thể hiện ý chí của pháp nhân hay chỉ là nhóm cá nhân mượn danh nghĩa cơ quan, tổ chức cũng là công việc phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Do đó, việc quy định phương thức, thủ tục, trình tự tố cáo và giải quyết tố cáo chung cho mọi loại cơ quan, tổ chức là hết sức khó khăn. Qua tổng kết thực tiễn công tác thi hành pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo thời gian qua cho thấy, đây chưa phải là vấn đề bức xúc. Bên cạnh đó, tuy Luật Tố cáo năm 2011 không quy định về quyền tố cáo của cơ quan, tổ chức, song, vẫn còn nhiều cơ chế khác để các cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin về hành vi vi phạm pháp luật cho các cơ quan có thẩm quyền (ví dụ như thông qua việc khiếu nại, kiến nghị, phản ánh, tin báo về tội phạm v.v.); trong nhiều trường hợp, đây còn là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức. Do 22 vậy, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XIV đã biểu quyết vấn đề này và quyết định Luật Tố cáo năm 2018 quy định: “chỉ cá nhân có quyền tố cáo”. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng, việc quy định chủ thể tố cáo là cá nhân trong Luật Tố cáo năm 2018 không làm hạn chế việc tố cáo của tổ chức đã được quy định trong các luật khác. Về vấn đề nhiều người cùng tố cáo: đây là một vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm. Quá trình nghiên cứu, xây dựng, thảo luận cho thấy, Luật Tố cáo năm 2011 đã quy định về vấn đề này và trên thực tế tình trạng nhiều người cùng đến tố cáo về một hoặc một số hành vi vi phạm pháp luật đã xảy ra. Các cơ quan nhà nước đã tiến hành thụ lý, giải quyết tố cáo đối với nhiều vụ việc mà có nhiều người cùng tố cáo về một nội dung. Thực tế chứng minh chế định nhiều người cùng tố cáo về một nội dung là cần thiết, đáp ứng yêu cầu mà thực tiễn đòi hỏi. Do vậy, Luật Tố cáo năm 2018 tiếp tục kế thừa các quy định về vấn đề này của Luật Tố cáo năm 2011, cụ thể là: “Trường hợp nhiều người cùng tố cáo về cùng một nội dung thì trong đơn tố cáo còn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, cách thức liên hệ với từng người tố cáo; họ tên của người đại diện cho những người tố cáo.” (khoản 1 Điều 23). “Trường hợp nhiều người cùng tố cáo về cùng một nội dung thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo cử đại diện viết đơn tố cáo hoặc ghi 23 lại nội dung tố cáo bằng văn bản và yêu cầu những người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản.” (khoản 2 Điều 23). III. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI TỐ CÁO, NGƯỜI BỊ TỐ CÁO, NGƯỜI GIẢI QUYẾT TỐ CÁO Tổng kết công tác giải quyết tố cáo những năm qua cho thấy, qua đơn thư tố cáo giúp cơ quan nhà nước phát hiện nhiều hành vi tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật, thậm chí tội phạm, để có biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh những người vi phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy có không ít trường hợp công dân đã lợi dụng quyền tố cáo để tố cáo sai, vu cáo, vu khống nhằm làm hại uy tín, danh dự của người khác, gây mất đoàn kết nội bộ do một số cán bộ mất phẩm chất, kéo bè cánh vì những lợi ích cá nhân. Vì vậy, cần phải có quy định để bảo đảm sự công bằng và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo cũng như người giải quyết tố cáo. Trên cơ sở kế thừa các nội dung còn phù hợp của Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định cụ thể và đầy đủ hơn về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo. 24 1. Về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo: Đối với người tố cáo, Luật Tố cáo năm 2018 quy định các quyền cho người tố cáo như: thực hiện tố cáo; được bảo đảm bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác; được thông báo về việc thụ lý hoặc không thụ lý tố cáo, chuyển tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết, gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo, kết luận nội dung tố cáo; tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo chưa được giải quyết; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo; được khen thưởng, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Luật Tố cáo năm 2018 đã bổ sung quyền rút tố cáo của người tố cáo. Bên cạnh các quyền, người tố cáo còn có các nghĩa vụ, đó là: cung cấp thông tin cá nhân quy định tại Điều 23 của Luật Tố cáo năm 2018; trình bày trung thực về nội dung tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình; hợp tác với người giải quyết tố cáo khi có yêu cầu; bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra (Điều 9). 25 Trong số các quyền của người tố cáo, cần lưu ý quyền được bảo đảm bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích và thông tin cá nhân khác. Người tố cáo thực hiện quyền tố cáo của mình chính là để phát hiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những hành vi trái pháp luật, thể hiện trách nhiệm của công dân vì lợi ích chung, lợi ích cộng đồng. Vì vậy, Nhà nước phải có trách nhiệm giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của người tố cáo. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong quá trình tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo, xác minh nội dung tố cáo cũng như trong toàn bộ quá trình giải quyết tố cáo phải có trách nhiệm giữ bí mật cho người tố cáo. Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ người tố cáo, tránh những trường hợp do tiết lộ thông tin nên bị trả thù, trù dập hoặc có những bất lợi khác cho người tố cáo. Bên cạnh đó, việc giữ bí mật không chỉ đối với họ, tên, địa chỉ, bút tích mà còn giữ bí mật cả các thông tin cá nhân khác của người tố cáo. Đây là quyền đương nhiên của người tố cáo và các cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện, áp dụng các biện pháp để bảo đảm an toàn cho người tố cáo. Trên thực tế có không ít trường hợp sau khi báo cho cơ quan nhà nước về hành vi vi phạm pháp luật, người tố cáo đã phải gánh chịu rất nhiều hậu quả của việc trả thù, trù dập, đe dọa tinh vi từ phía người bị tố cáo. Vì thế, Luật Tố cáo 26 năm 2018 đã quy định cho người tố cáo được quyền “yêu cầu” cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập và cũng đã dành một chương riêng quy định về việc bảo vệ người tố cáo. Về bản chất khi thực hiện việc tố cáo, người tố cáo đã vì lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, vì vậy họ có quyền yêu cầu được thông báo việc thụ lý hoặc không thụ lý tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Việc quy định như vậy là phù hợp, vừa góp phần giảm bớt thủ tục hành chính, tạo sự linh hoạt cho quá trình giải quyết tố cáo (vì trong nhiều trường hợp, người tố cáo chỉ mong muốn hợp tác, cung cấp thông tin về hành vi vi phạm pháp luật cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý mà không có điều kiện theo dõi hoặc không cần biết thêm về quá trình xử lý cụ thể của các cơ quan này), song, vẫn bảo đảm cơ chế để người tố cáo cũng như các cơ quan, tổ chức khác giám sát quá trình giải quyết tố cáo của người có thẩm quyền. Cũng cần nói thêm rằng, trách nhiệm giải quyết tố cáo thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong quá trình thụ lý, giải quyết hoặc chuyển vụ việc sang cơ quan khác giải quyết hoặc vụ việc có nhiều vấn đề phức tạp cần phải xác minh, xử lý. Vì vậy, cần lưu ý khi người tố cáo có yêu cầu thì không nhất thiết cơ quan có thẩm 27 quyền phải thông báo cho người tố cáo toàn bộ quá trình và kết quả giải quyết vụ việc mà phải cân nhắc và đối với những nội dung thuộc danh mục bí mật nhà nước thì không được thông báo cho người tố cáo. 2. Về quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo: Mặc dù là đối tượng bị tố cáo nhưng chưa đủ căn cứ, cơ sở để kết luận người bị tố cáo có vi phạm pháp luật hay không. Hành vi bị tố cáo của họ chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau khi đã tiến hành xác minh, kết luận nội dung tố cáo theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Vì vậy, để bảo đảm công bằng và khách quan, pháp luật quy định cho người bị tố cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Các quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo đã được Luật Tố cáo năm 2018 quy định cụ thể và có bổ sung một số quyền, nghĩa vụ so với Luật Tố cáo năm 2011. Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật Tố cáo năm 2018 người bị tố cáo có các quyền sau: - Được thông báo về nội dung tố cáo, việc gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo; - Được giải trình, đưa ra chứng cứ để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật; - Được nhận kết luận nội dung tố cáo; 28 - Được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp khi chưa có kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo; - Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật, người giải quyết tố cáo trái pháp luật; - Được phục hồi danh dự, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được xin lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra theo quy định của pháp luật; - Khiếu nại quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Tương ứng với các quyền, khoản 2 Điều 10 Luật Tố cáo năm 2018 quy định người bị tố cáo có các nghĩa vụ sau: - Có mặt để làm việc theo yêu cầu của người giải quyết tố cáo; - Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu; - Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý theo kết luận nội dung tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; - Bồi thường thiệt hại, bồi hoàn do hành vi trái pháp luật của mình gây ra. So với Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 đã bổ sung một số quyền của người bị tố cáo 29 như được thông báo về việc gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo; được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp khi chưa có kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo; có quyền khiếu nại quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Luật cũng bổ sung nghĩa vụ của người bị tố cáo là có mặt để làm việc theo yêu cầu của người giải quyết tố cáo (Điều 10). Trong số các quyền của người bị tố cáo, đáng lưu ý là quyền “được giải trình, đưa ra chứng cứ để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật”. Đây là một trong những quyền rất quan trọng của người bị tố cáo để họ tự bảo vệ mình trước những thông tin có hại từ việc tố cáo không chính xác đem lại. Quyền này đặc biệt có ý nghĩa trong trường hợp người bị tố cáo bị người khác cố tình bịa đặt, vu khống, bôi nhọ. Những lý lẽ giải trình hoặc các bằng chứng mà người bị tố cáo đưa ra phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét đầy đủ, thận trọng. Thiệt hại xảy ra đối với người bị tố cáo có thể là do hành vi tố cáo sai sự thật hoặc là hậu quả của quá trình xem xét, giải quyết tố cáo thiếu thận trọng hay có sai lầm. Nếu nội dung tố cáo là không đúng sự thật hoặc trong quá trình giải quyết tố cáo, người có thẩm quyền cố ý giải quyết trái pháp luật thì người bị tố cáo có quyền được khôi phục quyền, lợi 30 ích hợp pháp bị xâm phạm, được xin lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra, đồng thời người bị tố cáo có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý người giải quyết tố cáo trái pháp luật. Quy định trên đây thể hiện nguyên tắc bảo đảm sự công bằng giữa quyền, nghĩa vụ, bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Bên cạnh đó, Luật Tố cáo năm 2018 cũng đã ghi nhận người bị tố cáo cũng có quyền được nhận kết luận nội dung tố cáo. 3. Về quyền, nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo: Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Tố cáo năm 2018, người giải quyết tố cáo có các quyền sau: - Yêu cầu người tố cáo đến làm việc, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà người tố cáo có được; - Yêu cầu người bị tố cáo đến làm việc, giải trình về hành vi bị tố cáo, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; - Yêu cầu, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; - Tiến hành các biện pháp cần thiết để xác minh, thu thập thông tin, tài liệu làm căn cứ để 31 giải quyết tố cáo theo quy định của Luật Tố cáo năm 2018 và quy định khác của pháp luật có liên quan; áp dụng hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để ngăn chặn, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo; - Kết luận nội dung tố cáo; - Xử lý kết luận nội dung tố cáo theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Bên cạnh các quyền, Luật Tố cáo năm 2018 quy định người giải quyết tố cáo phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định. Việc thực hiện nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo rất quan trọng, bởi nếu chủ thể này thực hiện tốt các nghĩa vụ của mình mới bảo đảm các quyền của người tố cáo, người bị tố cáo, bảo đảm vụ việc tố cáo được giải quyết một cách khách quan, chính xác. Theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật Tố cáo năm 2018, người giải quyết tố cáo có các nghĩa vụ sau đây: - Bảo đảm khách quan, trung thực, đúng pháp luật trong việc giải quyết tố cáo; - Áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo; - Không tiết lộ thông tin về việc giải quyết tố cáo; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo khi chưa có kết luận nội dung tố cáo; - Thông báo cho người tố cáo về việc thụ lý 32 hoặc không thụ lý tố cáo, việc chuyển vụ việc tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết, gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo, kết luận nội dung tố cáo; - Thông báo cho người bị tố cáo về nội dung tố cáo, gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo; gửi kết luận nội dung tố cáo cho người bị tố cáo; - Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết tố cáo; - Bồi thường thiệt hại, bồi hoàn do hành vi giải quyết tố cáo trái pháp luật của mình gây ra. So với Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định bổ sung một số nghĩa vụ khi giải quyết tố cáo, đó là: bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo khi chưa có kết luận nội dung tố cáo; thông báo cho người tố cáo về việc thụ lý hoặc không thụ lý tố cáo, việc chuyển vụ việc tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết, gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo, kết luận nội dung tố cáo; thông báo cho người bị tố cáo về nội dung tố cáo, gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo; gửi kết luận nội dung tố cáo cho người bị tố cáo (Điều 11). 33 IV. GIẢI QUYẾT TỐ CÁO ĐỐI VỚI HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, CÔNG VỤ Việc giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là vấn đề trọng tâm, chủ yếu của Luật Tố cáo năm 2018. Trong quá trình xây dựng Luật Tố cáo năm 2018, đây cũng là vấn đề nhận được rất nhiều ý kiến tham gia và góp ý của các nhà khoa học cũng như những người trực tiếp làm công tác giải quyết tố cáo. So với Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 có rất nhiều điểm mới trong các quy định về thẩm quyền cũng như về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với nhóm hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. 1. Về nguyên tắc xác định thẩm quyền Luật Tố cáo năm 2018 tiếp tục kế thừa nguyên tắc xác định thẩm quyền trong Luật Tố cáo năm 2011, ngoài ra còn bổ sung thêm một số nguyên tắc để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay: tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức xảy ra trong thời gian công tác trước đây nay đã chuyển sang cơ quan, tổ chức khác hoặc không còn là cán bộ, công chức, viên chức; tố cáo đối với cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách; tố cáo cán bộ, công 34 chức, viên chức của cơ quan, tổ chức đã bị giải thể; tố cáo cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ (Điều 12). Nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ được quy định tại Điều 12 Luật Tố cáo năm 2018, theo đó: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết. Ví dụ: Anh Nguyễn Văn A là công chức làm việc tại Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B. Anh A bị tố cáo về một số sai phạm trong quá trình thẩm định hồ sơ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp C đang hoạt động trên địa bàn tỉnh B. Trong trường hợp này, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của anh A. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết. Đây chính là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo và là nguyên tắc về giải quyết tố cáo đối với hành vi vi 35 phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Những tố cáo này thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức, viên chức có hành vi bị tố cáo. Như vậy, nguyên tắc xác định thẩm quyền này được áp dụng khi có hai điều kiện: - Người bị tố cáo là cán bộ, công chức hoặc viên chức; - Hành vi bị tố cáo vi phạm quy định, nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Ví dụ: Anh Nguyễn Văn B là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã X, huyện Y bị tố cáo có một số sai phạm trong việc quản lý tài chính của Ủy ban nhân dân xã. Trong trường hợp này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của anh B. Nguyên tắc về thẩm quyền giải quyết tố cáo rất quan trọng khi xác định thẩm quyền giải quyết đối với một vụ việc tố cáo cụ thể. Trong trường hợp một cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm nhưng không liên quan đến việc thực thi nhiệm vụ, công vụ thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức của cán bộ, công chức, viên chức đó không phải là người có thẩm quyền giải quyết. Chẳng hạn, chị Trần Thị C là công chức làm việc tại Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện D, khi tham gia giao thông chị có hành vi vượt đèn đỏ. Nếu hành vi vi phạm này của chị C bị tố cáo, thì Chủ tịch 36 Ủy ban nhân dân huyện D không giải quyết tố cáo mà thuộc thẩm quyền giải quyết của cảnh sát giao thông trên đoạn đường chị C xảy ra hành vi vi phạm. Về giải quyết tố cáo liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức: Trên thực tế, tố cáo có nội dung hết sức đa dạng, phức tạp, có tố cáo thuộc trách nhiệm giải quyết của một cơ quan, tổ chức, song, có tố cáo lại liên quan đến chức năng quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức. Vì vậy, việc xác định thẩm quyền giải quyết đối với loại tố cáo này hết sức phức tạp, nó liên quan đến cơ chế quản lý và kỷ luật cán bộ, công chức, đảng viên và phạm vi quản lý của các cơ quan nhà nước, sự phân cấp giữa trung ương với địa phương v.v.. Vì vậy, Luật Tố cáo năm 2018 đã xác định nguyên tắc trong việc xử lý trường hợp này như sau: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp giải quyết. Tố cáo cán bộ, công chức, viên chức xảy ra trong thời gian công tác trước đây nay đã chuyển sang cơ quan, tổ chức khác hoặc không còn là cán bộ, công chức, viên chức: Qua tổng kết thi hành Luật Tố cáo năm 2011 37 cho thấy, đây là vấn đề đã và đang phát sinh trên thực tế, tuy nhiên Luật Tố cáo năm 2011 chưa quy định vấn đề này, do đó, không ít các cơ quan, tổ chức còn vướng mắc trong việc giải quyết tố cáo đối với những trường hợp này. Để giải quyết vướng mắc đó, Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định cụ thể về nguyên tắc giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức xảy ra trong thời gian công tác trước đây nay đã chuyển sang cơ quan, tổ chức khác hoặc không còn là cán bộ, công chức, viên chức như sau: - Trường hợp người bị tố cáo là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu đã chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác mà vẫn giữ chức vụ tương đương thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức quản lý người bị tố cáo tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đang quản lý người bị tố cáo phối hợp giải quyết; - Trường hợp người bị tố cáo đã chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác và giữ chức vụ cao hơn thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức đang quản lý người bị tố cáo chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý người bị tố cáo tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật phối hợp giải quyết. 38 Ví dụ, anh A là Phó Trưởng phòng, Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc huyện B, tỉnh C. Tháng 01/2019, anh A được điều động và bổ nhiệm là Trưởng phòng thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C. Sau đó, anh A đã bị tố cáo về một số sai phạm trong việc làm thủ tục để thu hồi đất của gia đình chị D trong năm 2018, khi anh còn công tác tại Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện B. Trong trường hợp này, theo quy định nêu trên, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo là người đứng đầu cơ quan, tổ chức đang quản lý người bị tố cáo, tức là Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C; - Trường hợp người bị tố cáo đã chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác và là người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã quản lý người bị tố cáo tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật phối hợp giải quyết; - Trường hợp người bị tố cáo đã chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác mà không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 Điều 12 Luật Tố cáo năm 2018 thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý người bị tố cáo tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ chức đang quản lý người bị tố cáo phối hợp giải quyết. 39 Như vậy, theo quy định này, nếu người bị tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý khi chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác mà bị tố cáo về hành vi vi phạm xảy ra tại cơ quan trước khi chuyển công tác thì người đứng đầu cơ quan cũ của người đó sẽ có trách nhiệm chủ trì giải quyết. Ví dụ, anh M là chuyên viên của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh N, năm 2019 anh chuyển công tác, làm chuyên viên của Sở Tài chính tỉnh N, sau đó, anh lại bị tố cáo về hành vi vi phạm của anh trong việc làm thủ tục cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp khi anh còn làm việc tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh N. Trong trường hợp này, theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 12 Luật Tố cáo năm 2018, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh N là người chủ trì giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của anh M; - Trường hợp người bị tố cáo không còn là cán bộ, công chức, viên chức thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý người bị tố cáo tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp giải quyết. Quy định này áp dụng đối với người đã từng là cán bộ, công chức, viên chức nhưng nay họ không phải là cán bộ, công chức, viên chức nữa, chẳng hạn đã nghỉ hưu hoặc đã chuyển ra ngoài làm ở khu vực tư (như lao động tự do hoặc làm trong 40 doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn v.v.). Đối với tất cả những trường hợp này, điểm d khoản 2 Điều 12 Luật Tố cáo năm 2018 đều quy định thống nhất chủ thể có thẩm quyền chủ trì giải quyết tố cáo đối với họ là người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý người bị tố cáo tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ, ông H là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, ông nghỉ hưu từ tháng 11/2018. Đến tháng 4/2019, ông H bị tố cáo về các sai phạm liên quan đến quản lý đất đai của ông trong thời gian ông là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã K. Trong trường hợp này, người có thẩm quyền chủ trì giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của ông H là người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý ông tại thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật, tức là Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T. Ngoài ra, Điều 12 Luật Tố cáo năm 2018 cũng quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các trường hợp cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể và giải quyết tố cáo đối với cơ quan, tổ chức. Cụ thể như sau: - Tố cáo cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách do người đứng đầu cơ quan, tổ chức sau hợp nhất, sáp nhập, chia, tách mà người bị tố cáo đang công tác chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ 41 chức có liên quan phối hợp giải quyết (khoản 4 Điều 12). Ví dụ, anh A là thanh tra viên của Sở Giao thông Vận tải tỉnh F. Năm 2018, Sở Giao thông vận tải và Sở Xây dựng tỉnh F được sáp nhập thành Sở Giao thông - Xây dựng. Đến năm 2019, anh A bị tố cáo về hành vi vi phạm khi anh còn làm ở Sở Giao thông vận tải. Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 4 Điều 12 Luật Tố cáo năm 2018, người đứng đầu cơ quan sau hợp nhất có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của anh A, tức là Giám đốc Sở Giao thông - Xây dựng tỉnh F; - Tố cáo cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức đã bị giải thể do người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý cơ quan, tổ chức trước khi bị giải thể giải quyết (khoản 5 Điều 12). Ví dụ, chị D trước kia làm tại một đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh T, hiện nay đơn vị đó đã giải thể, chị chuyển đến công tác tại Sở Tư pháp tỉnh T. Chị bị tố cáo về những sai phạm khi chị còn công tác tại đơn vị sự nghiệp đó. Trường hợp này, người giải quyết tố cáo đối với chị là người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý cơ quan, tổ chức trước khi bị giải thể, cụ thể là Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của chị D; 42 - Tố cáo cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết (khoản 6 Điều 12). Trên thực tế, trước khi Luật Tố cáo năm 2018 được ban hành, một số địa phương còn vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với cơ quan, tổ chức vì Luật Tố cáo năm 2011 không quy định vấn đề này. Để giải quyết vướng mắc đó, Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với cơ quan, tổ chức. Đây là điểm mới của Luật Tố cáo năm 2018 mà các chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo cần lưu ý trong quá trình áp dụng pháp luật. Chẳng hạn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với cơ quan, tổ chức mà Ủy ban nhân dân cấp mình quản lý trực tiếp. Trên cơ sở nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo, Luật Tố cáo đã chia ra thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các cơ quan hành chính nhà nước, trong cơ quan khác của Nhà nước, trong đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước; trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. 2. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định cụ thể, chi 43 tiết về thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước. Theo đó, Điều 13 đã quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; thẩm quyền giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thẩm quyền giải quyết tố cáo của Tổng cục trưởng, Cục trưởng và cấp tương đương; thẩm quyền giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ, của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và thẩm quyền giải quyết tố cáo của Thủ tướng Chính phủ. Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định đầy đủ, chi tiết về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước, cụ thể: - Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp (khoản 1 Điều 13). Chẳng hạn, nếu tố cáo đối với công chức làm công tác tư pháp, văn phòng, địa chính v.v. làm tại Ủy ban nhân dân xã có các sai phạm trong việc thực hiện nhiệm vụ thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã có thẩm quyền giải quyết tố cáo. 44 - Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cán bộ, công chức, viên chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp; trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý trực tiếp (khoản 2 Điều 13). Ví dụ: Ông Trần Văn B là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã X thuộc huyện Y. Ông B bị tố cáo về việc tự ý cấp đất trái thẩm quyền cho 03 hộ gia đình trên địa bàn của xã. Trong trường hợp này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y là người giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của ông B. Như vậy, đối với cấp huyện, thẩm quyền giải quyết tố cáo và giải quyết khiếu nại có sự khác nhau rất rõ. Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011, sửa đổi năm 2013, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của công chức do mình quản lý trực tiếp. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Tố cáo năm 2018, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện không có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Mọi hành vi vi phạm bị tố cáo trong việc thực hiện 45 nhiệm vụ, công vụ của công chức làm việc tại các phòng chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, kể cả Trưởng phòng, Phó trưởng phòng và chuyên viên của phòng đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Ngoài ra, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện còn có thẩm quyền giải quyết tố cáo trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý trực tiếp. Chẳng hạn, công dân T tố cáo sai phạm của tập thể Ủy ban nhân dân xã X, huyện Y trong việc quản lý đất đai, xây dựng. Trường hợp này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với tập thể Ủy ban nhân dân xã X. - Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trực thuộc cơ quan mình, công chức, viên chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp; trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp (khoản 3 Điều 13 Luật Tố cáo năm 2018). Với quy định này, thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với công chức, viên chức công tác tại Sở tập trung vào Giám đốc Sở. Như vậy, nếu tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của Trưởng phòng, 46 Phó Trưởng phòng và các nhân viên trong các phòng thuộc Sở trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì Giám đốc Sở có thẩm quyền giải quyết tố cáo. - Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, công chức, viên chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp; trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý trực tiếp (khoản 4 Điều 13 Luật Tố cáo năm 2018). Ví dụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện A, tỉnh B bị tố cáo có các sai phạm trong việc thực hiện nhiệm vụ thu hồi đất của dân, giải phóng mặt bằng. Trường hợp này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B có thẩm quyền giải quyết tố cáo. - Tổng cục trưởng, Cục trưởng và cấp tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được phân cấp quản lý cán bộ, công chức, viên chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc tổng cục, cục và cấp tương đương, công chức, viên chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp; trong việc thực hiện 47 nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp (khoản 5 Điều 13 Luật Tố cáo năm 2018). - Người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, công chức, viên chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp; trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp (khoản 6 Điều 13 Luật Tố cáo năm 2018). - Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan ngang bộ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cán bộ, công chức, viên chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp; trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp (khoản 7 Điều 13 Luật Tố cáo năm 2018). - Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Bộ trưởng, Thứ trưởng, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cán bộ, công chức, viên chức khác do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp; trong việc thực hiện 48 nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp (khoản 8 Điều 13 Luật Tố cáo năm 2018). So với Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 đã bổ sung về thẩm quyền giải quyết tố cáo của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp. Quy định này đã khắc phục những vướng mắc, khó khăn trên thực tế trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với trường hợp các cơ quan, tổ chức vi phạm pháp luật. Ngoài ra, Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định bổ sung về thẩm quyền giải quyết tố cáo của người đứng đầu các cơ quan thuộc Chính phủ. Quy định này nhằm giúp các cơ quan thuộc Chính phủ như Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam v.v. có cơ sở pháp lý rõ ràng để xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong cơ quan, đơn vị mình. 3. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan khác của Nhà nước, trong đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2018 thì ngoài đối tượng là cán bộ, công chức hiện đang 49 làm việc tại các cơ quan nhà nước, còn có cán bộ, công chức làm việc tại các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, bên cạnh đội ngũ cán bộ, công chức còn có đội ngũ viên chức và theo quy định của Luật Viên chức năm 2010, thì những người này chịu sự quản lý trực tiếp của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Do đó, để làm cơ sở cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết, xử lý tố cáo đối với tất cả các đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức thì Luật Tố cáo năm 2018 còn quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức trong cơ quan khác của Nhà nước; thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập; thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức. Cụ thể như sau: Về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong ngành Tòa án (Điều 14): Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp. 50 Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, công chức khác do mình quản lý trực tiếp; trong việc thực hiện công vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh; việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức, viên chức khác do mình quản lý trực tiếp; giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp, của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong ngành Kiểm sát (Điều 15): Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm 51 pháp luật trong việc thực hiện công vụ của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, công chức khác do mình quản lý trực tiếp; trong việc thực hiện công vụ của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện công vụ của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức, viên chức khác do mình quản lý trực tiếp; giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp, của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. So với Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 đã xác định cụ thể về thẩm quyền giải quyết tố cáo của người đứng đầu Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp (cấp huyện, cấp tỉnh, cấp cao, tối cao), đồng thời bổ sung về thẩm quyền giải quyết của các chức danh này trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp. 52 Về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong ngành Kiểm toán (Điều 16): Tổng Kiểm toán nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức, viên chức, đơn vị trong Kiểm toán nhà nước. Về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 17): Nếu như Luật Tố cáo năm 2011 chỉ quy định một cách chung nhất về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp thì Luật Tố cáo năm 2018 quy định cụ thể về việc giải quyết tố cáo đối với các chức danh này. Cụ thể là: - Ủy ban thường vụ Quốc hội giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách; của đại biểu Quốc hội khác khi thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội; của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu Văn phòng Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. - Thường trực Hội đồng nhân dân có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; của đại biểu Hội đồng nhân dân khác khi thực hiện nhiệm vụ đại biểu Hội đồng nhân dân, trừ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp mình. 53 Ví dụ, ông X là đại biểu Hội đồng nhân dân xã Y, huyện F. Tháng 4/2019, ông X bị tố cáo về một số vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu. Trong trường hợp này, Thường trực Hội đồng nhân dân xã Y có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm của ông X. - Cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn việc bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Ví dụ, bà B là Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã M, huyện N. Tháng 6/2019, bà B bị tố cáo về một số vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu. Trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn việc bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã M – tức là Thường trực Hội đồng nhân dân huyện N có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm của bà B. Ngoài ra, đối với các cơ quan khác của Nhà nước, Luật Tố cáo năm 2018 quy định, người đứng đầu cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp và của cơ quan, tổ chức do mình quản lý trực tiếp. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan khác của Nhà 54 nước do người có thẩm quyền bổ nhiệm người đó giải quyết (khoản 3 Điều 17). Về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các đơn vị sự nghiệp công lập (Điều 18): Đối với đơn vị sự nghiệp công lập, bên cạnh các quy định về việc giải quyết tố cáo đối với các công chức, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp này, Luật Tố cáo năm 2018 bổ sung quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với tổ chức, đơn vị trực thuộc đơn vị sự nghiệp công lập và đối với chính các đơn vị sự nghiệp công lập. Theo đó, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu tổ chức, đơn vị trực thuộc, công chức, viên chức do mình tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý trực tiếp; của tổ chức, đơn vị do mình quản lý trực tiếp. Ví dụ, anh E là bác sĩ làm việc tại Khoa Tim mạch, Bệnh viện F, thuộc tỉnh V. Tháng 3/2019, anh E bị tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật khi anh làm nhiệm vụ khám bệnh cho bệnh nhân. Trường hợp này, Giám đốc Bệnh viện F có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của anh E. Người đứng đầu cơ quan nhà nước quản lý đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, 55 cấp phó của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập, công chức, viên chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp; của đơn vị sự nghiệp công lập do mình quản lý trực tiếp. Ví dụ, chị Q là hiệu trưởng trường Trung học cơ sở A, trên địa bàn xã T, huyện K. Chị bị tố cáo có các sai phạm trong việc tổ chức thu tiền của phụ huynh học sinh trong trường trái quy định. Trường hợp này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện K là người bổ nhiệm chị Q có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm đối với chị Q. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của người có chức danh, chức vụ trong doanh nghiệp nhà nước (Điều 19): Thực tế những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước còn gặp nhiều vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với các cán bộ lãnh đạo, quản lý trong đơn vị mình. Hơn nữa, mô hình tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước cũng rất đa dạng, với nhiều loại hình khác nhau, quy mô khác nhau và cũng nhiều chức danh lãnh đạo, quản lý. Để giải quyết những vướng mắc về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong doanh nghiệp nhà nước, Điều 19 Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định khái quát và thống nhất về vấn đề này, cụ thể là: - Người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm 56 pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đơn vị trực thuộc hoặc người khác do mình bổ nhiệm; của đơn vị trực thuộc do mình quản lý trực tiếp. - Người đứng đầu cơ quan nhà nước được giao quản lý doanh nghiệp nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, kiểm soát viên do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp trong doanh nghiệp nhà nước. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Điều 20): Để bảo đảm tính đặc thù cũng như sự chủ động và thống nhất trong việc giải quyết tố cáo tại các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, Luật Tố cáo năm 2018 giao Cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong các tổ chức đó. Ngoài ra, Luật Tố cáo năm 2018 tiếp tục kế thừa quy định của Luật Tố cáo năm 2011 khi quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức. Hiện nay, tại các cơ quan nhà nước, ngoài các đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức còn có một số đối tượng khác cũng được giao thực hiện một số 57 nhiệm vụ, công vụ có tính chất tương tự như cán bộ, công chức (ví dụ những người lao động hợp đồng trong cơ quan, tổ chức...). Để xác định người có thẩm quyền giải quyết khi có tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng nói trên, Điều 21 Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý trực tiếp người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người đó trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. 4. Về hình thức tố cáo, tiếp nhận, xử lý ban đầu thông tin tố cáo a) Hình thức tố cáo: Đây là một trong những vấn đề nhận được rất nhiều ý kiến tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học cũng như nhiều đại biểu Quốc hội. Có hai quan điểm khác nhau về hình thức tố cáo. Quan điểm thứ nhất cho rằng trong thời đại hiện nay, với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, cần mở rộng hình thức tố cáo, công dân không chỉ có quyền tố cáo qua đơn hoặc tố cáo trực tiếp mà cần quy định bổ sung các cách thức tố cáo khác như qua điện thoại, email, bản fax... Quan điểm thứ hai cho rằng trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, cần giữ nguyên hai hình 58 thức tố cáo như quy định của Luật Tố cáo năm 2011: tố cáo bằng đơn và tố cáo trực tiếp. Một mặt, phải tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền tố cáo, nhưng mặt khác phải hạn chế việc lợi dụng quyền tố cáo để gây rối, vi phạm pháp luật; không làm phát sinh chi phí, gây khó khăn, phức tạp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xử lý ban đầu thông tin tố cáo (trước khi quyết định thụ lý giải quyết) như xác định chính xác họ tên, địa chỉ của người tố cáo, làm rõ cơ sở xác thực của nội dung tố cáo... Nếu mở rộng hình thức tố cáo, nhất là tố cáo qua điện thoại, có thể sẽ dẫn đến tình trạng tố cáo tràn lan, thiếu căn cứ; các cơ quan chức năng không thể xác minh nội dung tố cáo, người tố cáo, cũng như xử lý trách nhiệm trong trường hợp tố cáo sai sự thật. Hơn nữa, tố cáo cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là việc rất phức tạp, cần phải được tiếp nhận và xử lý theo quy trình chặt chẽ. Hiện nay, các vụ việc tố cáo có số lượng rất lớn, nhất là vào những dịp chuẩn bị diễn ra đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Tình hình thực tế như vậy, nếu mở rộng hình thức tố cáo qua thư điện tử, fax, điện thoại sẽ không có tác dụng tích cực, tính khả thi rất thấp. Thực tế cho thấy rất khó kiểm soát người gửi qua máy fax dịch vụ ngoài xã hội, thư điện tử tự tạo lập ảo rất dễ dàng; hình thức tố cáo trực tiếp thì 59 có lập biên bản, ký hoặc điểm chỉ xác nhận nhưng tố cáo qua điện thoại thì rất khó xác định tính chính xác, khó kiểm soát người cố ý dùng chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước, hộ chiếu của người khác... Tuy không giải quyết đối với những hình thức tố cáo qua điện thoại, fax, hộp thư điện tử theo quy trình giải quyết tố cáo nhưng những hành vi vi phạm pháp luật được phản ánh qua điện thoại, fax, hộp thư điện tử không bị bỏ sót, bỏ lọt mà vẫn được các cơ quan nhà nước tiếp nhận, xử lý phục vụ yêu cầu công tác thanh tra, kiểm tra. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã điều chỉnh vấn đề này. Về tố cáo trong tố tụng hình sự, tại Điều 479 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người tố cáo có quyền gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, người có thẩm quyền”. Vì những lý do trên, Quốc hội đã biểu quyết không bổ sung hình thức tố cáo mới là fax, thư điện tử và qua điện thoại vào Luật Tố cáo năm 2018 mà vẫn tiếp tục quy định 02 hình thức tố cáo như quy định trong Luật Tố cáo năm 2011, đó là việc tố cáo được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Điều 22). Luật Tố cáo năm 2018 cũng quy định cụ thể về từng hình thức tố cáo, qua đó tạo thuận lợi cho 60 người dân thực hiện quyền tố cáo của mình. Điều 23 quy định: - Trường hợp tố cáo được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ tên, địa chỉ của người tố cáo, cách thức liên hệ với người tố cáo; hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo; người bị tố cáo và các thông tin khác có liên quan. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo về cùng một nội dung thì trong đơn tố cáo còn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, cách thức liên hệ với từng người tố cáo; họ tên của người đại diện cho những người tố cáo. Người tố cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn tố cáo. - Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo viết đơn tố cáo hoặc ghi lại nội dung tố cáo bằng văn bản và yêu cầu người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật Tố cáo năm 2018. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo về cùng một nội dung thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo cử đại diện viết đơn tố cáo hoặc ghi lại nội dung tố cáo bằng văn bản và yêu cầu những người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản. Như vậy, dù tố cáo được thực hiện bằng hình thức viết đơn hoặc tố cáo trực tiếp thì người tố cáo cũng phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn tố cáo. 61 Qua đó, xác nhận trách nhiệm của người tố cáo đối với nội dung tố cáo của mình. Thực tế ở Việt Nam những năm qua, tình trạng tố cáo sai còn chiếm một tỷ lệ khá cao. Năm 2016, phân tích kết quả giải quyết 6.190 vụ việc tố cáo trong phạm vi cả nước cho thấy: có 613 tố cáo đúng (9,9%); 4.073 tố cáo sai (65,8%); 1.504 tố cáo có đúng, có sai (24,3%)1. Năm 2017, qua kết quả giải quyết 5.276 vụ việc tố cáo cho thấy: có 560 tố cáo đúng (10,6%); 3.794 tố cáo sai (71,9%); 922 tố cáo có đúng, có sai (17,5%)2. Năm 2018, qua kết quả giải quyết 6.390 vụ việc tố cáo cho thấy: có 790 tố cáo đúng (12,4%); 4.225 tố cáo sai (66,1%); 1.375 tố cáo có đúng, có sai (21,5%)3. Thực tế, tình trạng tố cáo sai còn chiếm tỷ lệ cao như vậy, đòi hỏi việc quy định chặt chẽ về hình thức tố cáo là rất cần thiết. Do đó, tại điểm a khoản 1 Điều 29 Luật Tố cáo năm 2018 quy định một trong những điều kiện để cơ quan có thẩm quyền thụ lý tố cáo là tố cáo được thực hiện theo hình thức được quy định tại Điều 23 của Luật này. ___________ 1. Báo cáo số 326/BC-CP ngày 20/9/2016 của Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2016. 2. Báo cáo số 471/BC-CP ngày 19/10/2017 của Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2017. 3. Báo cáo số 503/BC-CP ngày 16/10/2018 của Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018. 62 b) Tiếp nhận, xử lý ban đầu thông tin tố cáo: Đây là bước quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền quyết định thụ lý hay không thụ lý giải quyết tố cáo. Do đó, Luật Tố cáo năm 2018 quy định cụ thể việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn tố cáo, bảo đảm cho việc xử lý được thực hiện theo quy trình chặt chẽ. Theo đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo có trách nhiệm tổ chức việc tiếp nhận tố cáo. Cụ thể là, trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm vào sổ, phân loại, xử lý ban đầu thông tin tố cáo, kiểm tra, xác minh thông tin về người tố cáo và điều kiện thụ lý tố cáo; trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm hoặc phải ủy quyền cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiểm tra, xác minh thì thời hạn này có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm việc (khoản 1 Điều 24 Luật Tố cáo năm 2018). Trường hợp đủ điều kiện thụ lý thì ra quyết định thụ lý tố cáo theo quy định tại Điều 29 Luật Tố cáo năm 2018; trường hợp không đủ điều kiện thụ lý thì không thụ lý tố cáo và thông báo ngay cho người tố cáo biết lý do không thụ lý tố cáo. Trường hợp tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, phải chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo. 63 Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Luật Tố cáo năm 2018 cũng quy định về tiếp nhận, xử lý thông tin có nội dung tố cáo; Tiếp nhận, xử lý tố cáo do cơ quan báo chí, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển đến; Xử lý tố cáo có dấu hiệu của tội phạm, áp dụng biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm (từ Điều 25 đến Điều 27). Trong việc xử lý đối với thông tin tố cáo, Luật Tố cáo năm 2018 có quy định một số điểm mới: Một là, đối với đơn tố cáo được gửi đến nhiều nơi, khoản 3 Điều 24 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: trường hợp tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và được gửi đồng thời cho nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó có cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết hoặc trường hợp đã hướng dẫn nhưng người tố cáo vẫn gửi tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân không có thẩm quyền giải quyết thì cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận được tố cáo không xử lý. Bởi trên thực tế, không ít trường hợp công dân gửi đơn tố cáo đến rất nhiều cơ quan, tổ chức, dẫn đến tình trạng đơn tố cáo gửi tràn lan, vượt cấp và đơn thư được gửi lòng vòng, gây tốn kém thời gian, công sức của người tiếp nhận, xử lý đơn. Quy định này nhằm tránh tình trạng người tố cáo 64 gửi đơn tố cáo tràn lan, vượt cấp, đồng thời bảo đảm tính hiệu quả cho các cơ quan, tổ chức trong việc xử lý đối với tố cáo không thuộc thẩm quyền; Hai là, đối với tố cáo nặc danh, mạo danh, Điều 25 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: khi nhận được thông tin có nội dung tố cáo nhưng không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo hoặc qua kiểm tra, xác minh không xác định được người tố cáo hoặc người tố cáo sử dụng họ tên của người khác để tố cáo hoặc thông tin có nội dung tố cáo được phản ánh không theo hình thức quy định tại Điều 22 của Luật này thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không xử lý. Như vậy, về nguyên tắc, theo quy định của Luật Tố cáo năm 2018, không xử lý đối với tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo (tố cáo nặc danh) hoặc sử dụng họ tên của người khác để tố cáo (tố cáo mạo danh). Tuy nhiên, để kịp thời xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước, khoản 2 Điều 25 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: trường hợp thông tin có nội dung tố cáo có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tiến hành việc thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để tiến 65 hành việc thanh tra, kiểm tra phục vụ cho công tác quản lý. Như vậy, thông tin có nội dung tố cáo mà nội dung rõ ràng về hành vi vi phạm, có chứng cứ cụ thể là một trong những kênh thông tin để các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc kiểm tra, thanh tra đối với các tổ chức, cá nhân bị tố cáo. Qua đó, nhằm kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; đồng thời bảo đảm sự chặt chẽ trong công tác quản lý của Nhà nước. Trên thực tế, có không ít trường hợp các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành các quyết định thanh tra, kiểm tra đột xuất đối với các tổ chức, cá nhân khi tiếp nhận được các thông tin có nội dung tố cáo với tài liệu, chứng cứ cụ thể. Cũng để phù hợp với nguyên tắc áp dụng pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo được quy định tại Điều 3 Luật Tố cáo năm 2018, Điều 27 Luật Tố cáo năm 2018 tiếp tục ghi nhận việc cơ quan, tổ chức trong quá trình tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo, nếu thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu của tội phạm thì phải chuyển ngay hồ sơ, tài liệu cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật. Khoản 2 Điều 27 Luật Tố cáo năm 2018 quy định, trường hợp hành vi bị tố cáo gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền 66 và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân thì cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận được tố cáo phải áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc thông báo ngay cho cơ quan Công an, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền để ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm. 5. Về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018 quy định có một số điểm mới so với Luật Tố cáo năm 2011. Theo quy định tại Điều 18 Luật Tố cáo năm 2011, việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự 05 bước sau đây: 1. Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo; 2. Xác minh nội dung tố cáo; 3. Kết luận nội dung tố cáo; 4. Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo; 5. Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Nếu như Luật Tố cáo năm 2011 quy định trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo bắt đầu từ khâu tiếp nhận tố cáo thì Luật Tố cáo năm 2018 quy định trình tự, thủ tục này bắt đầu từ khâu thụ lý tố cáo. Đây cũng là thời điểm bắt đầu để tính thời hạn giải quyết tố cáo. Luật Tố cáo năm 2018 quy định 04 bước trong quy trình giải quyết tố cáo, cụ thể như sau: 67 - Thụ lý tố cáo. - Xác minh nội dung tố cáo. - Kết luận nội dung tố cáo. - Xử lý kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo. Luật Tố cáo năm 2018 và Nghị định số 31/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo (sau đây gọi là Nghị định số 31/2019/NĐ-CP) quy định cụ thể, chặt chẽ về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo, qua đó bảo đảm cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện một cách thống nhất. a) Thụ lý tố cáo Thụ lý tố cáo là mốc quan trọng để xác định thời điểm bắt đầu giải quyết vụ việc tố cáo. Đây là thời điểm để tính thời hạn giải quyết tố cáo, cũng là thời điểm xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình giải quyết tố cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, trước khi thụ lý tố cáo, người giải quyết tố cáo tự mình hoặc giao cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác xác minh thông tin về người tố cáo và điều kiện thụ lý tố cáo. Trường hợp người tố cáo không cư trú tại địa bàn quản lý hoặc gặp khó khăn trong việc xác minh thì người giải quyết tố cáo có thể ủy quyền cho cơ quan nhà nước ngang cấp hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới xác minh thông 68 tin cần thiết phục vụ việc ra quyết định thụ lý tố cáo. Khi xét thấy vụ việc tố cáo đủ điều kiện thụ lý tố cáo, người giải quyết tố cáo sẽ ban hành quyết định thụ lý tố cáo. Về điều kiện thụ lý tố cáo: Để bảo đảm việc thụ lý tố cáo của các cơ quan, tổ chức được thực hiện một cách thuận lợi và thống nhất, Luật Tố cáo năm 2018 không nêu các trường hợp không thụ lý như Luật Tố cáo năm 2011 mà quy định rõ điều kiện thụ lý tố cáo. Trong Luật Tố cáo năm 2011, tại khoản 2 Điều 20 quy định người có thẩm quyền không thụ lý giải quyết tố cáo trong các trường hợp sau đây: - Tố cáo về vụ việc đã được người đó giải quyết mà người tố cáo không cung cấp thông tin, tình tiết mới; - Tố cáo về vụ việc mà nội dung và những thông tin người tố cáo cung cấp không có cơ sở để xác định người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật; - Tố cáo về vụ việc mà người có thẩm quyền giải quyết tố cáo không đủ điều kiện để kiểm tra, xác minh hành vi vi phạm pháp luật, người vi phạm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc áp dụng khoản 2 Điều 20 Luật Tố cáo năm 2011 còn khó khăn và chưa thống nhất giữa các bộ, ngành, địa phương. Điều đó đặt ra yêu cầu phải sửa đổi quy định này, bảo đảm tính cụ thể, dễ áp dụng. Vì vậy, nếu như Luật Tố cáo năm 2011 quy định 69 những trường hợp không thụ lý tố cáo thì Luật Tố cáo năm 2018 lại lược bỏ quy định này và quy định rõ về điều kiện thụ lý tố cáo (khoản 1 Điều 29). Đây là căn cứ quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định thụ lý vụ việc tố cáo. Theo đó, người giải quyết tố cáo ra quyết định thụ lý tố cáo khi có đủ các điều kiện sau đây: - Tố cáo được thực hiện theo quy định tại Điều 23 của Luật Tố cáo năm 2018 (phải bảo đảm về hình thức tố cáo). - Người tố cáo có đủ năng lực hành vi dân sự; trường hợp không có đủ năng lực hành vi dân sự thì phải có người đại diện theo quy định của pháp luật; - Vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo; - Nội dung tố cáo có cơ sở để xác định người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế phát sinh không ít các trường hợp chuyển từ khiếu nại sang tố cáo mà không có căn cứ. Để giải quyết vấn đề này, khoản 1 Điều 29 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: trường hợp tố cáo xuất phát từ vụ việc khiếu nại đã được giải quyết đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật nhưng người khiếu nại không đồng ý mà chuyển sang tố cáo người đã giải quyết khiếu nại thì chỉ thụ lý tố cáo khi người tố cáo cung cấp được thông tin, tài liệu, chứng cứ để xác định người giải quyết khiếu nại có hành vi vi phạm pháp luật. 70 Về nội dung của quyết định thụ lý tố cáo: Quyết định thụ lý tố cáo là văn bản đầu tiên của quy trình giải quyết tố cáo, khẳng định việc giải quyết vụ việc tố cáo của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Luật Tố cáo năm 2018, quyết định thụ lý tố cáo bao gồm các nội dung chính sau đây: - Ngày, tháng, năm ra quyết định; - Căn cứ ra quyết định; - Nội dung tố cáo được thụ lý; - Thời hạn giải quyết tố cáo. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định thụ lý tố cáo, người giải quyết tố cáo có trách nhiệm thông báo cho người tố cáo và thông báo về nội dung tố cáo cho người bị tố cáo biết. b) Xác minh nội dung tố cáo Khái niệm “xác minh” trong giải quyết tố cáo cần được hiểu là những hoạt động nghiệp vụ nằm trong phạm vi các hoạt động cần thiết để phục vụ việc giải quyết tố cáo. Xác minh nội dung tố cáo là một khâu rất quan trọng trong toàn bộ quá trình giải quyết tố cáo. Kết quả và chất lượng của xác minh có ý nghĩa quyết định đến tính chuẩn xác của các kết luận và tính đúng đắn của quyết định xử lý tố cáo của người có thẩm quyền giải quyết. Để có cơ sở kết luận nội dung tố cáo, xác định đúng, sai, quy rõ trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức nào vi phạm thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành nhiều biện pháp 71 thu thập, xác minh chứng cứ nhằm làm sáng tỏ vụ việc. Đây là giai đoạn rất quan trọng có ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến hiệu quả của việc giải quyết tố cáo. Theo quy định tại Điều 31 Luật Tố cáo năm 2018, người giải quyết tố cáo tiến hành xác minh hoặc giao cho cơ quan thanh tra cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác xác minh nội dung tố cáo. Việc giao xác minh nội dung tố cáo phải thực hiện bằng văn bản. Văn bản giao xác minh nội dung tố cáo có các nội dung chính sau đây: - Ngày, tháng, năm giao xác minh; - Người được giao xác minh nội dung tố cáo; - Họ tên, địa chỉ của người bị tố cáo; tên gọi, trụ sở của cơ quan, tổ chức bị tố cáo; - Nội dung cần xác minh; - Thời gian tiến hành xác minh; - Quyền và trách nhiệm của người được giao xác minh nội dung tố cáo. Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, trường hợp thành lập Tổ xác minh thì phải có từ hai người trở lên, trong đó giao cho một người làm Tổ trưởng. Trường hợp người giải quyết tố cáo giao cho cơ quan thanh tra cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác xác minh nội dung tố cáo thì văn bản giao xác minh nội dung tố cáo thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 31 Luật Tố cáo năm 2018. Thủ trưởng cơ 72 quan thanh tra hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo có trách nhiệm thành lập Tổ xác minh. Để bảo đảm cho việc giải quyết tố cáo được khách quan, khoản 3 Điều 10 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định: người giải quyết tố cáo hoặc Thủ trưởng cơ quan thanh tra hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo không giao nhiệm vụ làm Tổ trưởng Tổ xác minh, thành viên Tổ xác minh đối với những người có vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố mẹ bên vợ hoặc bên chồng, con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị ruột, em ruột là người bị tố cáo hoặc có lợi ích liên quan trực tiếp với người bị tố cáo. Tổ trưởng Tổ xác minh, thành viên Tổ xác minh có trách nhiệm báo cáo với người giao nhiệm vụ xác minh nếu thuộc trường hợp quy định nêu trên. Khoản 3 Điều 31 Luật Tố cáo năm 2018 quy định, người xác minh nội dung tố cáo phải tiến hành các biện pháp cần thiết để thu thập thông tin, tài liệu, làm rõ nội dung tố cáo. Để quy định chi tiết vấn đề này, Nghị định số 31/2019/NĐ-CP đã quy định về các biện pháp, cách thức để thu thập thông tin, tài liệu, làm rõ nội dung tố cáo, cụ thể là: Làm việc trực tiếp với người tố cáo: Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, người giải quyết tố cáo, Tổ xác 73 minh làm việc trực tiếp với người tố cáo; yêu cầu người tố cáo cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng mà họ có được để làm rõ nội dung tố cáo. Người tố cáo có trách nhiệm trình bày trung thực về nội dung tố cáo, hợp tác, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được. Nội dung làm việc với người tố cáo phải lập thành biên bản, có chữ ký của người tố cáo, người chủ trì làm việc với người tố cáo. Biên bản được lập thành ít nhất 02 bản, giao 01 bản cho người tố cáo (nếu người tố cáo có yêu cầu) và lưu 01 bản trong hồ sơ giải quyết tố cáo. Trường hợp người tố cáo không ký biên bản làm việc thì người chủ trì làm việc với người tố cáo và thành viên khác của Tổ xác minh ký biên bản và ghi rõ việc người tố cáo không ký. Trường hợp không làm việc trực tiếp với người tố cáo vì lý do khách quan thì người giải quyết tố cáo, người ra quyết định thành lập Tổ xác minh hoặc Tổ trưởng Tổ xác minh có văn bản yêu cầu người tố cáo cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng để làm rõ nội dung tố cáo. Làm việc trực tiếp với người bị tố cáo Theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, người giải quyết tố cáo, Tổ xác minh phải làm việc trực tiếp với người bị tố cáo; yêu cầu người bị tố cáo giải trình bằng văn bản về những nội dung bị tố cáo, cung cấp thông tin, tài 74 liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung bị tố cáo, nội dung giải trình. Nội dung làm việc với người bị tố cáo phải được lập thành biên bản theo Mẫu số 08 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 31/2019/NĐ-CP. Biên bản phải có chữ ký của người bị tố cáo, người chủ trì làm việc với người bị tố cáo và được lập thành ít nhất 02 bản, giao 01 bản cho người bị tố cáo (nếu người bị tố cáo có yêu cầu) và lưu 01 bản trong hồ sơ giải quyết tố cáo. Trường hợp thông tin, tài liệu, bằng chứng do người bị tố cáo cung cấp chưa đầy đủ, việc giải trình của người bị tố cáo chưa rõ thì người giải quyết tố cáo, Tổ xác minh yêu cầu người bị tố cáo tiếp tục cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng, giải trình về các vấn đề còn chưa rõ. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung tố cáo Điều 13 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định, người giải quyết tố cáo hoặc người ra quyết định thành lập Tổ xác minh hoặc Tổ xác minh yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan để làm rõ nội dung tố cáo. Trường hợp cần thiết, Tổ xác minh trực tiếp làm việc với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân để thu thập thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung tố cáo. Nội dung làm việc được lập thành biên bản. Biên bản phải 75 có chữ ký của đại diện Tổ xác minh, người đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng và được lập thành ít nhất 02 bản, giao 01 bản cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng và lưu 01 bản trong hồ sơ giải quyết tố cáo. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu, bằng chứng có liên quan đến nội dung tố cáo phải cung cấp kịp thời, đầy đủ theo yêu cầu của người giải quyết tố cáo, người ra quyết định thành lập Tổ xác minh hoặc Tổ xác minh. Xác minh thực tế Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, căn cứ vào tình tiết vụ việc hoặc chỉ đạo của người ra quyết định thành lập Tổ xác minh, Tổ xác minh tiến hành xác minh thực tế ở những địa điểm cần thiết để thu thập, kiểm tra, xác định tính chính xác, hợp pháp của các thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung tố cáo. Việc xác minh thực tế phải lập thành biên bản ghi đầy đủ kết quả xác minh, ý kiến của những người tham gia xác minh và những người khác có liên quan. Biên bản phải có chữ ký của người xác minh, những người có liên quan và phải lưu trong hồ sơ giải quyết tố cáo. Trưng cầu giám định Trong nhiều trường hợp, để có cơ sở kết luận chính xác về nội dung tố cáo, người giải quyết tố 76 cáo phải tiến hành trưng cầu giám định. Qua giám định, các cơ quan chuyên môn sẽ có kết luận giám định – căn cứ khoa học để đánh giá tính chính xác, khách quan của nội dung vụ việc. Để cụ thể hóa vấn đề này, Điều 15 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định: - Khi xét thấy cần có sự đánh giá về nội dung liên quan đến chuyên môn, kỹ thuật làm căn cứ cho việc kết luận nội dung tố cáo, xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo thì người giải quyết tố cáo quyết định việc trưng cầu giám định; - Việc trưng cầu giám định được thực hiện bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên cơ quan, tổ chức giám định; nội dung yêu cầu giám định; thời hạn đề nghị gửi kết luận giám định. Văn bản trưng cầu giám định được gửi cho người giải quyết tố cáo, người tố cáo và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; - Trường hợp giao cơ quan thanh tra nhà nước xác minh nội dung tố cáo thì người giải quyết tố cáo có thể ủy quyền cho cơ quan thanh tra nhà nước quyết định việc trưng cầu giám định. Cơ quan, tổ chức giám định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, khách quan, kịp thời của kết quả giám định. Báo cáo kết quả xác minh nội dung tố cáo Điều 16 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định, Tổ trưởng Tổ xác minh phải báo cáo bằng văn bản về kết quả xác minh nội dung tố cáo với 77 người ra quyết định thành lập Tổ xác minh. Văn bản báo cáo phải được các thành viên trong Tổ xác minh thảo luận, đóng góp ý kiến. Báo cáo của Tổ xác minh về kết quả xác minh nội dung tố cáo phải có các nội dung chính sau đây: - Tóm tắt nội dung tố cáo; - Kết quả xác minh từng nội dung tố cáo; - Nội dung giải trình của người bị tố cáo (nếu có); - Đề xuất đánh giá về nội dung tố cáo là đúng, đúng một phần hoặc tố cáo sai sự thật; xác định trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến nội dung tố cáo; - Kiến nghị xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm; các biện pháp cần thiết để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong quá trình xác minh, nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì Tổ trưởng Tổ xác minh báo cáo ngay với người ra quyết định thành lập Tổ xác minh. Người ra quyết định thành lập Tổ xác minh phải kịp thời báo cáo người giải quyết tố cáo xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. Thủ trưởng cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo phải báo cáo với người giải quyết tố cáo về kết quả xác minh nội dung tố cáo. Trường hợp xác minh để giải quyết lại tố cáo thì ngoài những nội dung quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, trong báo 78