🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Điều Cần Biết Về Lịch Sử Việt Nam (Hỏi - Đáp)
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG
Phó Chủ tịch Hội đồng
Q. Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
PHẠM THỊ THINH
NGUYỄN ĐỨC TÀI
TRẦN THANH LÂM
NGUYỄN HOÀI ANH
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Với mong muốn gửi đến độc giả một tài liệu về lịch sử Việt Nam ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhiều đối tượng, tác giả Nguyễn Thanh Tuyền đã tập hợp tư liệu, nghiên cứu và biên soạn cuốn sách Những điều cần biết về lịch sử Việt Nam (hỏi - đáp).
Với nội dung cơ bản, không dàn trải, cuốn sách hướng đến việc phổ cập tri thức lịch sử thông qua việc trình bày những nội dung nổi bật của từng triều đại, từng giai đoạn lịch sử, một số câu chuyện đặc sắc về các danh nhân... Toàn bộ nội dung cuốn sách được trình bày theo tiến trình lịch sử dân tộc nhưng có điểm nhấn, không lan man, dài dòng hay quá sa đà vào kiến thức.
Cuốn sách là ấn phẩm nằm trong Đề án trang bị sách cho cơ sở xã, phường, thị trấn do Ban Tuyên giáo Trung ương và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp triển khai từ năm 2009 theo chủ trương của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Dù tác giả và Nhà xuất bản đã rất cố gắng nhưng việc khái quát toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam trong một cuốn sách mỏng là rất khó, vì vậy không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Chúng tôi rất
5
mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất bản sau cuốn sách được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 10 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử Việt Nam bắt đầu từ khi con người có mặt trên vùng đất nay là lãnh thổ Việt Nam và đã phát triển qua nhiều thời kỳ, từ nguyên thủy đến cổ đại, trung đại, cận đại và hiện đại.
Lịch sử đất nước ta đã trải qua biết bao thăng trầm, có những lúc lâm vào thử thách ngặt nghèo tưởng chừng không vượt qua nổi, nhưng trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, Nhân dân Việt Nam đã khắc phục mọi khó khăn, thách thức, kiên cường giành lại độc lập, bảo vệ chủ quyền và phát triển đất nước trên mọi phương diện. Để hiểu rõ hơn quá khứ, từ đó đúc rút những bài học kinh nghiệm nhằm phục vụ tốt hơn cho hiện tại và tương lai, chúng ta cần nắm vững lịch sử hình thành và phát triển của đất nước.
Cuốn sách Những điều cần biết về lịch sử Việt Nam (hỏi - đáp) được biên soạn nhằm góp phần phổ cập tri thức lịch sử đến đông đảo Nhân dân. Thông qua việc trình bày những nội dung nổi bật, đáng nhớ, những dấu ấn đậm nét của từng giai đoạn lịch sử..., cuốn sách góp phần tạo nên hứng thú tìm hiểu lịch sử cho độc giả. Với cách làm này, người đọc có thể tiếp cận lịch sử đất nước không chỉ theo thời gian mà còn
7
theo các nội dung cụ thể có ý nghĩa như những “điểm nhấn”, “dấu hiệu nhận biết” của mỗi thời kỳ. Cuốn sách được chia thành 6 chương, mỗi chương gồm nhiều tiểu mục với các câu hỏi - trả lời. Mỗi tiểu mục (hay câu hỏi) hàm chứa một hoặc một số vấn đề lịch sử tiêu biểu.
Tất cả nội dung đề cập trong cuốn sách đều dựa trên các nguồn tư liệu đáng tin cậy và dựa trên quan điểm chính thống của giới sử học Việt Nam hiện nay.
Hy vọng cuốn sách sẽ phần nào hữu ích với quý độc giả, đặc biệt là những người đam mê khám phá dòng chảy vốn rất đa dạng của lịch sử nước nhà.
Do khái quát toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam trong một cuốn sách mỏng nên dù tác giả đã rất cố gắng, nhưng vẫn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 7 năm 2020 NGUYỄN THANH TUYỀN
8
Chương I
VIỆT NAM TỪ KHỞI THỦY
ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ X
I. THỜI NGUYÊN THỦY VÀ CÁC QUỐC GIA ĐẦU TIÊN
1. Cuộc sống của người nguyên thủy ở Việt Nam diễn ra như thế nào?
Cách đây 500.000-700.000 năm, trên vùng đất thuộc lãnh thổ đất nước Việt Nam đã có con người sinh sống. Đó là những người tối cổ. Họ sống thành từng bầy và cư trú trong các hang động hay mái đá. Săn bắt và hái lượm là phương thức sinh sống của họ.
Người tối cổ dần tiến hóa thành người tinh khôn. Quá trình tiến hóa khiến con người thông minh hơn, ý thức về xã hội loài người mạnh mẽ hơn và hoàn thiện hơn về cách chế tác công cụ lao động. Đến nay, dấu vết về sự tồn tại của người tinh khôn được phát hiện trên một địa bàn kéo dài thuộc các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang đến Thanh Hóa, Nghệ An và Quảng Trị.
Khác với người tối cổ, người tinh khôn không còn sống theo bầy đàn, mà cố kết lại thành nhóm theo huyết thống. Những người cùng dòng máu sống chung tạo thành các thị tộc. Nhiều thị tộc có mối quan hệ gần gũi với nhau đã hợp lại thành bộ lạc.
9
Cách nay 7.000-12.000 năm, cư dân cổ ở nước ta, ngoài săn bắt, hái lượm, đã biết thuần hóa, nuôi dưỡng một số loài động vật và trồng một vài loại rau, củ, cây ăn trái. Nền nông nghiệp sơ khai hình thành. Cho đến cách ngày nay 6.000-10.000 năm, cư dân cổ ở nước ta đã đạt những bước tiến vượt bậc về kỹ thuật chế tác công cụ bằng đá. Những công xưởng sản xuất công cụ bằng đá quy mô lớn dần được tổ chức. Cư dân cổ xưa đã biết làm đồ gốm, chế tạo trang sức. Hoạt động chăn nuôi và trồng trọt thành thục hơn, dần trở thành hoạt động kinh tế quan trọng. Dân số tăng nhanh.
Cách ngày nay khoảng 5.000-6.000 năm, cuộc sống của con người trên đất nước Việt Nam ngày càng phát triển. Cây lúa nước được trồng ở khắp nơi. Địa bàn cư trú của các thị tộc, bộ lạc được mở rộng. Nhiều nơi trên nước ta đã phát hiện được dấu vết của người Việt cổ như Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn La, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Gia Lai, Đắk Lắk, Đồng Nai... Giữa các bộ lạc bắt đầu có quan hệ trao đổi, thậm chí là buôn bán sản phẩm.
Đến cuối thời nguyên thủy, cách nay khoảng 3.000-4.000 năm, các bộ lạc trên nước ta bắt đầu biết sử dụng kim loại đồng và thuật luyện kim để chế tạo các loại công cụ sản xuất và vũ khí. Về sau, họ còn biết luyện kim đối với nguyên liệu là sắt. Các loại cày, cuốc, liềm... bằng đồng hay sắt đã giúp cư dân khai phá đất đai nhiều hơn, phát triển nghề trồng lúa nước.
Nghề luyện kim và nông nghiệp lúa nước phát triển đã làm cho cuộc sống phát triển về mọi mặt. Con người sinh tụ thành làng xóm. Một số quan niệm và tập quán
10
về tín ngưỡng, phong tục, thẩm mỹ, chôn cất người chết, nhận thức về tự nhiên và con người hình thành. Trên mỗi miền đất nước lúc này đã phát sinh các nền văn hóa lớn. Ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ là sự hiện diện của văn hóa Phùng Nguyên (từ đầu thiên niên kỷ II TCN), tiến triển qua giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun rồi đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn rực rỡ về sau. Ở vùng Nam Trung Bộ là sự hình thành của văn hóa Sa Huỳnh trên cơ sở văn hóa tiền Sa Huỳnh. Ở miền Nam là sự phát triển của văn hóa Đồng Nai thuộc khu vực Đông Nam Bộ và văn hóa tiền Óc Eo thuộc khu vực Tây Nam Bộ.
2. Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam ra đời và phát triển như thế nào?
Vào cuối thời nguyên thủy, do sự phát triển của kinh tế dẫn đến phân hóa giai cấp và nhu cầu chống thiên tai, địch họa trên cả ba miền đất nước đã hình thành những nhà nước đầu tiên ở mỗi miền.
Ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ, sự phân hóa xã hội trên cơ sở nền kinh tế lấy nghề trồng lúa nước làm chủ đạo, cùng với đó là yêu cầu cấp thiết của cộng đồng về đoàn kết để chống kẻ thù xâm lược và trị thủy đã dẫn đến việc hợp nhất các bộ lạc để tạo thành nhà nước sơ khai đầu tiên trong lịch sử Việt Nam - nhà nước Văn Lang.
Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng thế kỷ VII TCN, với người đứng đầu được gọi chung là Hùng Vương (vua Hùng), truyền ngôi theo nguyên tắc cha truyền con nối. Kinh đô của Văn Lang nằm ở khoảng khu vực Việt Trì, Phú Thọ ngày nay.
11
Nước Văn Lang tồn tại trong khoảng 5 thế kỷ. Nhà nước này vào thời hùng mạnh đã không chịu thần phục các vương quốc trên lãnh thổ Trung Hoa ở thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (771-221 TCN), đồng thời đã bước đầu có sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa người Việt với người Hoa.
Thời kỳ này, ở Trung Hoa, sau khi thống nhất đất nước, kết thúc thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, Tần Thủy Hoàng quyết định phát đại binh xâm lấn phương Nam. Năm 214 TCN, quân Tần đánh đến Văn Lang. Chủ quyền quốc gia bị đe dọa. Nhân dân đã theo người thủ lĩnh đất Tây Âu là Thục Phán cầm vũ khí chống lại kẻ thù. Năm 208 TCN, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tần thắng lợi. Thục Phán lên ngôi, xưng là An Dương Vương và đổi tên nước thành Âu Lạc. Nước Âu Lạc tồn tại đến năm 179 TCN.
Lãnh thổ Âu Lạc được mở rộng hơn vì sự sáp nhập Văn Lang với đất Tây Âu. An Dương Vương chuyển kinh đô xuống vùng đất Đông Anh, Hà Nội ngày nay để tiện bề cai quản đất nước, đặt tên kinh đô là Cổ Loa.
Thời kỳ Văn Lang, Âu Lạc kế tiếp nhau đã góp phần tạo lập và khẳng định vững chắc nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ - nền văn minh sông Hồng, đồng thời mở ra thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Những chiếc trống đồng - kết tinh tài năng, trí tuệ và sức lao động kỳ diệu của người Việt, đã trở thành biểu tượng bất diệt của văn minh sông Hồng và thời đại Hùng Vương - An Dương Vương.
Khi nước Âu Lạc được thành lập, thì tại miền Trung và miền Nam Việt Nam ngày nay, các bộ lạc
12
cũng tiến dần đến quá trình khai sinh nhà nước đầu tiên. Đến đầu công nguyên, tại mỗi miền đã xuất hiện một nhà nước riêng.
Trước hết là vương quốc Phù Nam ở Nam Bộ, hình thành trong thế kỷ I. Cư dân Phù Nam sinh sống bằng nghề nông trồng lúa, chăn nuôi, làm nghề thủ công và giao thương với các nước bên ngoài. Quốc gia này sớm tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ từ thể chế chính trị đến phong tục, lối sống, tôn giáo, nghệ thuật. Từ thế kỷ III đến thế kỷ V, vương quốc Phù Nam phát triển cực thịnh, đem quân chinh phục các nước láng giềng, làm chủ một vùng rộng lớn thuộc Nam Bộ Việt Nam, Campuchia, một phần Thái Lan và vùng bán đảo Mã Lai ngày nay.
Đến thế kỷ VII, vương quốc Phù Nam dần suy yếu và bị mật thuộc quốc của Chân Lạp (nay là Campuchia) thôn tính.
Tại miền Trung Việt Nam, đến thế kỷ II đã hình thành nhà nước của người Chăm. Lúc bấy giờ nước Âu Lạc đã mất, cư dân Âu Lạc đang chìm đắm dưới ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc. Trên bước đường xâm lược Âu Lạc, đội quân của chính quyền phong kiến Trung Quốc đã chiếm một số đất đai của người Chăm và đặt thành quận, huyện. Tượng Lâm là huyện xa nhất, ngày nay tương ứng với các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.
Vào cuối thế kỷ II, nhân khi Trung Quốc có loạn lạc, thủ lĩnh Khu Liên đã hô hào nhân dân Tượng Lâm đứng lên giành quyền tự chủ. Sau khi giành được thắng lợi, Khu Liên lên ngôi vua, đặt tên nước là Lâm Ấp.
13
Các vua Lâm Ấp dần mở rộng lãnh thổ. Phía bắc trải rộng đến sông Gianh (Quảng Bình), phía nam trải rộng đến sông Dinh (Bình Thuận). Đến thế kỷ VI, Lâm Ấp đổi tên thành Chămpa.
Vương quốc Chămpa sớm tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và trên cơ sở chữ Phạn của Ấn Độ đã sáng tạo ra chữ viết riêng (chữ Chăm cổ). Các tháp Chăm còn lại đến ngày nay là minh chứng cho trình độ kỹ thuật cao của cư dân Chămpa trong lịch sử.
Vương quốc Chămpa phát triển qua nhiều giai đoạn, đến thế kỷ XV thì suy sụp và dần sáp nhập vào lãnh thổ nước Đại Việt.
Như vậy, sau thời kỳ nguyên thủy, trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã hình thành các quốc gia đầu tiên. Trong đó, quốc gia Văn Lang - Âu Lạc ra đời sớm nhất và để lại những ảnh hưởng to lớn nhất, thường xuyên nhất, tạo thành dòng chủ lưu trong quá trình vận động của toàn bộ lịch sử nước nhà. Dòng lịch sử của Chămpa và Phù Nam là những bộ phận quan trọng, góp phần tạo nên tính đa dạng, đa chiều của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
II. HƠN 1.000 NĂM ĐẤU TRANH GIÀNH LẠI ĐẤT NƯỚC
1. Đại thảm họa mất nước hơn 1.000 năm diễn ra như thế nào?
Năm 210 TCN, ở Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng mất. Triều Tần duy trì thêm được vài năm thì diệt vong. Một viên quan cai quản khu vực tương ứng với hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay là Triệu Đà nhân thế đã tự chiếm giữ đất đai, lập một
14
nước riêng với tên là Nam Việt. Triệu Đà có dã tâm xâm chiếm Âu Lạc để mở rộng bờ cõi và trên thực tế đã nhiều lần đem quân đánh vào nước ta, nhưng lần nào cũng bị quân đội An Dương Vương đánh bại.
Dùng biện pháp quân sự không xong, Triệu Đà xoay qua kế ngoại giao, xin giảng hòa và kết thông gia với An Dương Vương. An Dương Vương chấp thuận để Trọng Thủy - con trai Triệu Đà được kết hôn với công chúa Mỵ Châu và sang ở rể tại kinh thành Cổ Loa. Trọng Thủy đã ngấm ngầm đánh cắp bí mật quốc phòng của Âu Lạc và xảo quyệt tìm cách phá vỡ khối đoàn kết trong triều đình. Khi thời cơ đến, Triệu Đà liền cử đại binh bất ngờ đánh Âu Lạc. An Dương Vương chống đỡ không nổi, cùng đường đành tự tử. Âu Lạc rơi vào tay giặc. Sự kiện này xảy ra vào năm 179 TCN. Đó là mốc mở đầu một thời kỳ đen tối kéo dài trong lịch sử dân tộc Việt Nam: Thời kỳ hơn 1.000 năm nước ta bị các triều đại phong kiến Trung Quốc thay nhau thống trị - thời Bắc thuộc (từ năm 179 TCN đến năm 938).
Trong thời Bắc thuộc, các triều đại phong kiến Trung Quốc sau đây đã lần lượt thay nhau cai trị nước ta: Triệu (179 TCN - 111 TCN), Hán (111 TCN - 220), Ngô (220-280), Tấn (280-420), Tống (420-479), Tề (479-502), Lương (502-542), Tùy (603-618) và Đường (618-905)1.
Hơn 1.000 năm đô hộ cũng là thời gian các chính quyền phong kiến phương Bắc không ngừng thực
1. Con số trong ngoặc đơn là thời gian cai trị thực tế, có thể trùng hoặc không trùng so với năm ra đời và kết thúc của mỗi triều đại.
15
hiện ý đồ xóa bỏ nền độc lập của nước ta, khiến nước ta phụ thuộc chặt chẽ về chính trị, là nơi để bóc lột lâu dài về kinh tế, và dần bị đồng hóa về phong tục tập quán để vĩnh viễn không thoát khỏi sự thống trị của phong kiến phương Bắc.
Để sáp nhập đất Âu Lạc vào lãnh thổ Trung Quốc, từ nhà Triệu đến nhà Đường đều chia đất nước ta thành nhiều quận, châu, huyện và cử quan lại người Hán đến cai trị. Lúc đầu, nhà Triệu chia Âu Lạc thành hai quận là Giao Chỉ, Cửu Chân, đến thời nhà Hán lại chia thành ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và nhập chung với các quận khác thuộc Trung Hoa để tạo thành bộ Giao Chỉ, sau đổi thành Giao Châu. Đến thời nhà Tùy và nhà Đường, nước ta lại bị chia thành nhiều châu. Nhà Đường đổi tên gọi đất nước ta là An Nam và thiết lập cơ quan cai trị gọi là An Nam đô hộ phủ. Cái tên An Nam từ đó về sau luôn được chính quyền phong kiến Trung Hoa dùng để gọi nước ta.
Nhằm triệt để vơ vét tài nguyên và các nguồn lợi kinh tế của nước ta, chính quyền đô hộ thi hành chính sách bóc lột và cống nạp hết sức nặng nề. Chúng cướp đoạt ruộng đất, lập các đồn điền và bắt dân ta cày cấy cho chúng. Chúng nắm độc quyền về sắt và muối - hai thứ rất cần thiết trong cuộc sống thường nhật của người dân. Nhân dân ta phải lên rừng săn thú hiếm, tìm lâm sản, xuống biển mò ngọc trai, hải sản quý, sản xuất các sản phẩm thủ công và các loại cây trái xứ nhiệt đới... để cống nạp cho bọn quan lại đô hộ, nhưng vẫn không sao thỏa mãn được lòng tham của chúng.
16
Để đồng hóa người Việt, chính quyền đô hộ dùng đủ mọi phương sách nhằm hủy hoại tất cả những thứ thuộc về bản sắc văn hóa Việt và áp đặt văn hóa của chúng. Chính quyền phong kiến Trung Hoa ráo riết truyền bá Nho giáo vào nước ta, cưỡng bức Nhân dân ta phải sử dụng tiếng Hán cũng như thay đổi phong tục theo người Hán. Chúng còn áp dụng một hệ thống pháp luật hà khắc và sẵn sàng đàn áp đẫm máu các cuộc phản kháng của Nhân dân ta.
Đại thảm họa mất nước hơn 1.000 năm đã gây nên biết bao hệ lụy cho dân tộc. Bản lĩnh và bản sắc dân tộc cùng phẩm giá người Việt được hun đúc qua nhiều thế kỷ đứng trước nguy cơ bị xóa nhòa tất cả. Độc lập và chủ quyền của quốc gia đứng trước nguy cơ không bao giờ có thể khôi phục. Làm thế nào để thoát khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc là bài toán vô cùng khó khăn mà tổ tiên ta buộc phải tìm ra đáp án nếu muốn tồn tại và giữ được quốc gia của mình.
2. Vì sao Việt Nam có thể tồn tại qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc?
Suốt hơn 1.000 năm, kẻ thù tìm mọi cách đồng hóa Nhân dân ta nhằm chiếm nước ta vĩnh viễn. Trong bối cảnh đó, người Việt không hề chịu khuất phục mà luôn biết cách vượt qua thử thách, từng bước vươn lên khẳng định bản lĩnh dân tộc và quyết tâm giành lại độc lập. Đâu là những yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của dân tộc ta trong thời gian dài bị đô hộ như vậy?
Niềm tự hào về cố quốc Văn Lang - Âu Lạc và tinh hoa của nền văn minh sông Hồng cùng sức mạnh
17
dân tộc được hun đúc qua nhiều thế hệ đã tạo nên “sức đề kháng dân tộc” mạnh mẽ để Nhân dân ta đủ sức đương đầu với mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù.
Trong hơn 1.000 năm, chính quyền đô hộ nhiều khi suy sụp bởi tình hình rối ren, loạn lạc bên Trung Quốc, tạo thuận lợi khách quan cho quá trình đấu tranh giành độc lập của người Việt. Nhưng đó không phải là yếu tố tiên quyết. Tổ tiên ta đã vận dụng nhiều cách thức khác nhau nhằm duy trì sự tồn tại và từng bước tích lũy sức mạnh để có thể thoát khỏi vòng cương tỏa của kẻ thù, trong đó nổi lên bốn cách thức chủ yếu sau đây:
- Kiên quyết duy trì tính độc lập tương đối của các làng xã.
- Không ngừng nổi dậy đấu tranh vũ trang. - Giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền đồng thời tiếp nhận, Việt hóa các tinh hoa văn hóa ngoại nhập.
- Vừa vận dụng kỹ thuật sản xuất cũ vừa áp dụng những kỹ thuật sản xuất mới, tạo ra những chuyển biến khiến nền kinh tế không phụ thuộc hoàn toàn vào kinh tế chính quyền đô hộ và tăng thêm tiềm lực vật chất cho dân tộc.
Chúng ta mất nước nhưng không mất làng. Trong suốt thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ dù rất cố gắng nhưng không thể quản lý được cấp cơ sở. Các làng xã vẫn là những tổ chức tự trị của Nhân dân. Làng là nơi duy trì những tập tục, tín ngưỡng, là nơi giáo dục lòng yêu nước và ý chí tự cường cho bao thế hệ người Việt. Làng cũng là nơi khởi nguồn của các cuộc dấy binh,
18
là nơi Việt hóa những nội dung văn hóa được du nhập từ bên ngoài vào. Do đó, có thể nói, trong thời Bắc thuộc, làng là nguồn gốc, là cơ sở xã hội cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
Hơn 10 thế kỷ mất nước là hơn 10 thế kỷ người Việt liên tục vùng lên, đương đầu với bọn quan quân đô hộ. Phong trào đấu tranh sôi nổi, mạnh mẽ và kéo dài hầu như không ngừng nghỉ. Nhiều lần chúng ta đã đánh đổ chính quyền thống trị, thiết lập chính quyền dân tộc như trong các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Lý Trường Nhân, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng...
Các cuộc khởi nghĩa cuối cùng đều thất bại, nhưng đã đánh mạnh vào ý chí của bọn đô hộ, đồng thời phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và biến nó trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Việt Nam.
Trên phương diện văn hóa, Nhân dân ta kiên quyết giữ vững bản sắc của mình. Đặc biệt, tiếng nói dân tộc là tiếng Việt vẫn được sử dụng và phát triển qua nhiều thế hệ dù chính quyền thống trị ra sức dạy chữ Hán, tiếng Hán.
Song song với đó, Nhân dân ta cũng biết mở cửa đón nhận các yếu tố văn hóa mới từ bên ngoài truyền đến và tìm cách Việt hóa chúng. Trong ba tôn giáo Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đến từ Trung Quốc, Nhân dân ta cởi mở hơn với Phật giáo và Đạo giáo, còn rất dè dặt với Nho giáo bởi đây là công cụ thống trị và đồng hóa của phong kiến phương Bắc.
Nhân dân ta đã lợi dụng tiếng Hán để làm phong phú hơn vốn từ của mình. Trên cơ sở tiếng Hán và chữ Hán, hệ thống từ ngữ Hán - Việt đã ra đời,
19
khiến năng lực diễn đạt ngôn ngữ của người Việt ngày càng phát triển.
Trên phương diện kinh tế, mặc dù bị chính quyền phong kiến Trung Quốc bóc lột hết sức thậm tệ, nhưng Nhân dân ta vẫn miệt mài lao động sản xuất; duy trì nghề nông trồng lúa nước có từ bao đời; du nhập việc bón phân bắc, cày bừa bằng trâu bò, kỹ thuật làm giấy... từ người Trung Quốc và cũng tiếp thu kỹ thuật sản xuất thủy tinh, trồng mía để nấu đường từ Ấn Độ, vùng Trung Á truyền sang.
Vậy là trong hơn 10 thế kỷ dưới ách thống trị của phong kiến Trung Quốc, Nhân dân ta đã biết kết hợp nhiều phương cách khác nhau để vượt qua, giữ vững bản sắc của dân tộc và sau đó giành lại độc lập cho đất nước, hiên ngang bước vào thời kỳ độc lập, tự chủ và thống nhất lâu dài.
3. Những anh hùng chống Bắc thuộc nào được Nhân dân biết đến nhiều nhất? Dưới thời Bắc thuộc, nhiều người con ưu tú của dân tộc đã dũng cảm phát động Nhân dân nhất tề đứng lên giành lại độc lập. Lịch sử dân tộc mãi ghi công các vị anh hùng này. Dưới đây là những anh hùng chống Bắc thuộc tiêu biểu nhất.
Hai Bà Trưng (?-43)
Hai Bà Trưng (tức là hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị) vốn thuộc dòng dõi Hùng Vương, có cha là lạc tướng vùng Mê Linh (Hà Nội). Không cam chịu sống dưới ách áp bức của nhà Hán và sự tham tàn của tên quan đô hộ là Thái thú Tô Định, Trưng Trắc cùng chồng là Thi Sách - con trai lạc tướng vùng Chu Diên
20
đã âm thầm chuẩn bị mọi mặt để nổi dậy. Chẳng may, Thi Sách bị Tô Định lừa bắt và giết hại. Trưng Trắc cùng em gái Trưng Nhị đã biến đau thương thành sức mạnh, quyết tâm nổi dậy giành chính quyền.
Hai Bà Trưng đã quy tụ được dưới trướng nhiều anh hùng hào kiệt trong khắp cõi. Điều đáng lưu ý là nghĩa quân của Hai Bà Trưng, từ tướng lĩnh đến quân sĩ, phần lớn là phụ nữ. Đây là hiện tượng độc đáo của lịch sử Việt Nam và của cả lịch sử thế giới đương thời.
Mùa xuân năm 40, tại cửa sông Hát (Phúc Thọ, Hà Nội), Hai Bà Trưng làm lễ tế cờ xuất quân. Được Nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, quân của Hai Bà Trưng tiến như vũ bão, chẳng mấy chốc đã làm chủ vùng Mê Linh. Thừa thắng, nghĩa quân đánh chiếm Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) rồi Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) - lỵ sở của chính quyền đô hộ. Tô Định buộc phải chạy trốn về nước.
Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Hai Bà Trưng được tôn làm vua, đóng đô ở Mê Linh.
Việc Hai Bà Trưng làm chủ vùng đất nước ta là điều không thể chấp nhận đối với đế chế Đại Hán. Vì vậy, năm 43, vua Hán phái Mã Viện - viên tướng già, khét tiếng tàn ác và lão luyện việc cầm quân, chỉ huy hai vạn quân lính kéo sang nước ta. Quân đội Hai Bà Trưng đã anh dũng chiến đấu, nhưng trước sự chênh lệch quá lớn về quân số, vũ khí và trình độ tác chiến, họ dần bị đẩy lùi. Ở trận chiến lớn cuối cùng diễn ra tại Cấm Khê (vùng đất từ chân núi Ba Vì đến chùa Hương, Hà Nội), Hai Bà Trưng đã hy sinh. Đại quân tan vỡ, số còn lại rút vào cố thủ ở quận Cửu Chân và đến năm 44 thì bị tan rã hoàn toàn.
21
Bà Triệu (226-248)
Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, em gái Triệu Quốc Đạt - một thủ lĩnh địa phương vùng Cửu Chân (Thanh Hóa). Triệu Thị Trinh nổi tiếng là một người phụ nữ xinh đẹp, võ nghệ hơn người và rất mưu trí.
Bấy giờ, Nhân dân ta đang rên xiết dưới ách thống trị của nhà Ngô. Do đó, vào năm 248, Bà Triệu đã hô hào Nhân dân quận Cửu Chân vùng dậy.
Nghĩa quân của Bà Triệu đã đánh cho kẻ địch nhiều phen thất điên bát đảo. Về sau, nhà Ngô phải phái viên tướng lừng danh thiện chiến và xảo quyệt là Lục Dận đem quân sang đàn áp. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, cuối cùng nghĩa quân Bà Triệu bị đánh bại. Bà Triệu hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa).
Lý Nam Đế (503-548) và Triệu Việt Vương (?-571)
Lý Nam Đế tên thật Lý Bí, còn gọi là Lý Bôn, xuất thân từ dòng dõi gia thế. Khi trưởng thành, ông ra làm quan dưới chính quyền đô hộ của nhà Lương một thời gian rồi từ chức. Sau đó, ông đi khắp nơi, bí mật kết giao với hào kiệt các châu, huyện, chờ ngày phất cờ nghĩa đánh đuổi quân Lương.
Mùa xuân năm 542, Lý Bí phát động toàn dân nổi dậy. Chính quyền đô hộ bị đập tan chỉ sau ba tháng. Nhà Lương hai lần điều binh sang đàn áp nhưng đều đại bại.
Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Lý Nam Đế, đóng đô tại vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Với việc xưng đế và dựng nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế đã khẳng
22
định mạnh mẽ ý thức độc lập, tự chủ của người Việt, tự đặt mình ngang hàng với hoàng đế Trung Hoa. Nước Vạn Xuân độc lập ra đời khiến nhà Lương vô cùng tức tối. Một năm sau, năm 545, hoàng đế nhà Lương cử Trần Bá Tiên đem một đội quân lớn sang xâm lược nước Vạn Xuân. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước, lão danh tướng Phạm Tu hy sinh khi giữ thành Tô Lịch. Tình thế muôn vàn khó khăn đối với nước Vạn Xuân non trẻ.
Tại trận kịch chiến ở hồ Điển Triệt (Vĩnh Phúc), quân đội Vạn Xuân tan vỡ. Trong lúc nguy cấp, Lý Nam Đế trao lại binh quyền cho Tả tướng Triệu Quang Phục rồi rút về động Khuất Lão (Phú Thọ) và mất tại đó năm 548.
Trọng trách bảo vệ nước Vạn Xuân giờ đây dồn lên vai vị tướng trẻ Triệu Quang Phục. Ông đã chọn vùng đầm lầy Dạ Trạch (Hưng Yên) làm căn cứ kháng chiến và triệt để áp dụng phương thức tác chiến du kích khiến quân Lương đánh mãi mà không thắng. Khi nghe tin Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương. Người dân còn gọi ông là Dạ Trạch Vương.
Năm 550, nhân khi Trung Quốc có loạn và Trần Bá Tiên phải về nước, Triệu Việt Vương phát động cuộc tổng phản công tiêu diệt toàn bộ quân Lương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến suốt 5 năm.
Triệu Việt Vương tại vị đến năm 571 thì bị một người trong họ của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử dùng xảo kế để cướp ngôi. Lý Phật Tử lên làm vua, gọi là hậu Lý Nam Đế.
Năm 603, nhà Tùy bấy giờ đang làm chủ Trung Quốc, đã đem đại quân sang xâm lăng Vạn Xuân.
23
Lý Phật Tử không có năng lực tổ chức kháng chiến nên cuối cùng bị bắt. Đất nước Vạn Xuân tồn tại gần 60 năm, giờ tiếp tục rơi vào cảnh bị đô hộ. Mai Hắc Đế (?-722)
Mai Hắc Đế tên thật là Mai Thúc Loan, còn gọi là Mai Huyền Thành, người làng Mai Phụ (nay thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh), sau di cư ra vùng Nam Đàn, Nghệ An ngày nay.
Mai Thúc Loan có nước da ngăm đen và rất khỏe mạnh. Cha mẹ mất sớm khiến ông từ nhỏ đã biết tự lập. Nhờ sức khỏe và dũng khí hơn người, Mai Thúc Loan được đông đảo Nhân dân trong vùng mến phục.
Thuở ấy, nhà Đường đang đô hộ nước ta. Mai Thúc Loan sớm có chí cứu nước nên bí mật chiêu tập nghĩa sĩ, kết giao hào kiệt. Năm 713, ông đã đứng lên phát động cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân xây dựng căn cứ ở Sa Nam (Nam Đàn, Nghệ An) và tiến đánh các vùng xung quanh. Mai Thúc Loan còn thuyết phục được các nước trong khu vực như Chămpa, Chân Lạp, Kim Lân cùng liên minh chống quân Đường.
Sau khi nghĩa quân làm chủ nhiều vùng đất, Mai Thúc Loan tự xưng là hoàng đế, xây thành Vạn An làm kinh đô. Vì ông da đen nên người đương thời quen gọi là Mai Hắc Đế (hoàng đế da đen họ Mai). Từ Vạn An, Mai Hắc Đế đem quân thẳng tiến ra Bắc, tấn công lỵ sở đô hộ nhà Đường tại thành Tống Bình (Hà Nội). Viên quan đô hộ Quang Sở Khách bỏ thành chạy về Trung Quốc. Đất nước ta được giải phóng.
Năm 722, nhà Đường phái viên tướng nổi danh hung bạo và dày dạn kinh nghiệm chiến trường là Dương Tư Húc phối hợp với Quang Sở Khách kéo quân sang nước ta. Quân và dân ta dưới sự lãnh đạo
24
của Mai Hắc Đế đã dũng cảm chiến đấu nhưng không cản được bước tiến ồ ạt của giặc. Kinh đô Vạn An tan vỡ. Mai Hắc Đế rút vào rừng núi rồi lâm bệnh qua đời. Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (?-?)
Phùng Hưng là người làng Đường Lâm (nay thuộc Sơn Tây, Hà Nội), sinh ra trong gia đình nhiều đời làm quan lang (thủ lĩnh địa phương). Trong khoảng năm 766-780, Phùng Hưng cùng em là Phùng Hải đã hiệu triệu toàn dân nổi dậy, trước là để đánh đuổi tên quan đô hộ Cao Chính Bình tham lam tàn ác, sau là lật đổ nền cai trị của nhà Đường, thiết lập nền tự chủ của người Việt.
Phùng Hưng cầm quyền được khoảng 7 năm thì mất. Con ông là Phùng An lên thay. Phùng An đã truy tôn cha là Bố Cái Đại Vương.
Vài năm sau, nhà Đường cử viên quan nhiều mưu mẹo là Triệu Xương dẫn quân sang. Triệu Xương đã dùng nhiều thủ đoạn uy hiếp, dụ dỗ và rốt cuộc đã khiến Phùng An quy hàng vào năm 791. Nước ta lại rơi vào vòng đô hộ của nhà Đường.
Công cuộc giành độc lập của dân tộc ta tiếp tục trải qua nhiều gian nan.
4. Sự nghiệp giành quyền tự chủ, chấm dứt căn bản thời Bắc thuộc của họ Khúc và họ Dương đầu thế kỷ X được tiến hành như thế nào?
Cuối thế kỷ IX, tình hình nhà Đường ở Trung Quốc ngày càng khủng hoảng. Phiên trấn cát cứ khắp nơi khiến tính thống nhất của chính quyền trung ương không còn. Trong triều, mâu thuẫn phe phái ngày càng lớn. Kinh tế bị tàn phá, nông dân Trung Quốc cùng
25
đường vùng lên chống lại triều đình, lớn nhất là cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào (874-884). Bối cảnh đó khiến nhà Đường không thể quản lý gắt gao vùng đất An Nam được nữa. Bọn quan lại đô hộ tại đây được thể ra sức hoành hành, tha hồ vơ vét cho đầy túi tham.
Năm 880, binh lính ở thành Đại La tổ chức binh biến. Viên quan đô hộ là Tăng Cổn phải chạy trốn. Kể từ đó, nhà Đường ngày càng khó khống chế An Nam.
Lúc ấy, ở miền Cúc Bồ, Hồng Châu (nay thuộc tỉnh Hải Dương), có Khúc Thừa Dụ là một hào trưởng vốn dòng dõi cự tộc, tính tình khoan hòa, nhân ái nên mọi người đều phục. Đầu năm 905, thừa dịp Tiết độ sứ Độc Cô Tổn bị triệu hồi, Khúc Thừa Dụ đã lãnh đạo Nhân dân nổi dậy. Ông nhanh chóng chiếm được thành Đại La, tự xưng Tiết độ sứ. Nhà Đường biết tin nhưng không thể làm gì hơn, đến năm sau buộc phải chấp thuận cho Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ.
Khúc Thừa Dụ dù vẫn mang danh là quan chức của chính quyền đô hộ, nhưng thực tế ông đã hiên ngang giành lấy quyền làm chủ vùng đất nước ta, chối bỏ sự cai trị của triều đình phương Bắc. Ông được người đời sau suy tôn là Khúc Tiên Chúa.
Khúc Thừa Dụ cầm quyền được hai năm thì mất. Con ông là Khúc Hạo nối giữ nghiệp lớn, vẫn xưng là Tiết độ sứ. Khúc Hạo thi hành đường lối cai trị theo hướng “chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị, nhân dân đều được yên vui”1. Khúc Hạo trị nước được
1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch Viện Sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, t.1, tr.207.
26
10 năm thì qua đời. Con trai của Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ lên thay.
Tại Trung Quốc, từ khi nhà Đường diệt vong năm 907, đất nước rơi vào cảnh loạn lạc, chia cắt rất nghiêm trọng. Sử Trung Quốc gọi đó là thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Lúc ấy, sát bên đất An Nam của họ Khúc là vương quốc Nam Hán. Vua Nam Hán nuôi tham vọng thôn tính nước ta, nên năm 930 đã phát binh tấn công. Khúc Thừa Mỹ chống trả không nổi nên bị bắt. Đất nước ta tạm thời rơi vào tay giặc.
Không cam chịu bị đè nén, năm 931, Nhân dân ta đã theo Dương Đình Nghệ - thủ lĩnh đất Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay), là tướng dưới quyền Khúc Hạo trước kia, đánh đuổi quân xâm lược. Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, kế tục sự nghiệp của họ Khúc cai quản đất nước. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị tướng dưới quyền là Kiều Công Tiễn giết chết để cướp quyền.
Sự nghiệp của họ Khúc và họ Dương dù chưa trọn vẹn, nhưng đã thiết lập được chính quyền dân tộc trên khắp cõi, tạo tiền đề để kết thúc vĩnh viễn hơn 1.000 năm Bắc thuộc vào thời gian sau đó.
5. Chiến thắng vĩ đại nào của dân tộc ta đã chấm dứt hoàn toàn thời kỳ Bắc thuộc? Lên cầm quyền, Dương Đình Nghệ đã tin cậy giao cho vị tướng trẻ Ngô Quyền trấn giữ châu Ái - vùng đất quê hương và cũng là nơi dựng nghiệp của họ Dương. Dương Đình Nghệ còn đặc biệt yêu quý và đem con gái gả cho Ngô Quyền.
Ngô Quyền (897-944) sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời là hào trưởng ở đất Đường Lâm (Hà
27
Nội ngày nay). Khi trưởng thành, ông theo Dương Đình Nghệ và góp công không nhỏ vào thắng lợi của cuộc tiến công tiêu diệt quân Nam Hán năm 931. Khi nghe tin Dương Đình Nghệ bị giết hại, Ngô Quyền quyết định đem quân ra hỏi tội tên phản bội Kiều Công Tiễn.
Ở Đại La, nghe tin Ngô Quyền đang kéo quân ra, Kiều Công Tiễn vô cùng sợ hãi. Hắn đã cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán được lời như bắt được vàng, liền sai con trai là Hoằng Tháo dẫn thủy quân tiến sang. Với việc cầu viện Nam Hán, Kiều Công Tiễn đã lộ rõ hắn không chỉ là kẻ bất nghĩa mà còn là kẻ hại dân hại nước, cam tâm “cõng rắn cắn gà nhà”.
Ngô Quyền hay tin, liền quyết định gấp rút hạ thành Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn khi quân Nam Hán chưa kịp đến nơi, sau đó sẽ tính kế sách chống ngoại xâm. Mùa đông năm 938, Hoằng Tháo tiến sát hải phận nước ta nhưng kẻ tiếp ứng là Kiều Công Tiễn đã bị giết nên hắn gặp phải khá nhiều khó khăn.
Ngô Quyền đoán biết Hoằng Tháo sẽ theo đường sông Bạch Đằng (chảy qua địa phận tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng ngày nay) để vào nước ta, nên đã bố trí sẵn một trận địa mai phục.
“Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: “Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn
28
đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát”. Định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển”1.
Đúng như dự liệu, đoàn thuyền của Hoằng Tháo rơi vào ổ phục kích, bị cọc đâm thủng, chìm đắm gần hết. Quân sĩ của Ngô Quyền mai phục hai bên bờ nhất tề tấn công. Quân Nam Hán nhanh chóng đại bại. Hoằng Tháo bị giết chết.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã đập tan hoàn toàn mưu đồ xâm lăng nước ta của nhà Nam Hán, khẳng định vững chắc nền độc lập tự chủ mà họ Khúc và họ Dương đã dày công giành giữ, kết thúc hoàn toàn thời kỳ Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập và tự chủ lâu dài cho đất nước.
1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Đức Thọ dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.1, tr.203.
29
Chương II
VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X
ĐẾN THẾ KỶ XV
I. VIỆT NAM DƯỚI THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
1. Vương triều Ngô có những vấn đề gì đáng nhớ?
Sau đại thắng trên sông Bạch Đằng cuối năm 938, mùa xuân năm 939, Ngô Quyền quyết định xưng vương, bỏ danh hiệu Tiết độ sứ của họ Khúc và họ Dương trước kia. Vương triều Ngô chính thức được dựng lên và tồn tại cho đến năm 965. Trong 26 năm ấy, lịch sử nhà Ngô nổi lên ba điều đáng chú ý sau đây:
Thứ nhất, tái lập kinh đô Cổ Loa sau hơn 1.000 năm kể từ thời An Dương Vương: Việc Ngô Quyền chọn Cổ Loa làm nơi đóng đô là sự khẳng định mạnh mẽ ý thức về quá trình lịch sử lâu dài của dân tộc, kế tục sự nghiệp được tạo lập từ thời các vua Hùng, vua Thục. Ngô Quyền đã chế định triều nghi, đặt các chức quan văn võ, ngày đêm ra sức chăm lo chính sự để đem lại sự yên ổn cho đất nước, ấm no cho Nhân dân.
Thứ hai, nhà Ngô tuy có tất cả bốn đời vua, nhưng một trong số đó là người khác họ, hai người khác thì cùng ngồi ngai vàng trị nước: Ngô Quyền làm vua được 6 năm thì mất. Em vợ ông là Dương Tam Kha nhân đó cướp quyền, tự xưng là Dương Bình Vương.
30
Con trưởng Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập phải trốn đi nơi khác. Năm 950, người con thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn đã lật đổ Dương Tam Kha rồi lên ngôi, lấy vương hiệu Nam Tấn Vương. Nam Tấn Vương sau đó cho người đón anh trai về, mời anh cùng trị nước. Ngô Xương Ngập lấy vương hiệu là Thiên Sách Vương. Tình trạng vua anh - vua em của triều Ngô bắt đầu. Năm 954, Thiên Sách Vương mất. Nam Tấn Vương bấy giờ mới một mình chủ trì mọi việc.
Thứ ba, đất nước dưới thời Ngô chỉ thực sự ổn định trong 6 năm Ngô Quyền trị vì: Từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi, nội bộ triều đình nhà Ngô bắt đầu lục đục, chia thành phe cánh. Hào trưởng và thứ sử một số địa phương thi nhau nổi dậy, giữ đất tự chủ không thần phục chính quyền trung ương. Khi anh em Nam Tấn Vương khôi phục vương quyền, dù rất cố gắng nhưng vẫn không thể lập lại thế cuộc như trước kia. Các thế lực địa phương đem quân đánh giết lẫn nhau khiến đất nước rối loạn, là mầm mống nảy sinh cục diện 12 sứ quân sau khi nhà Ngô sụp đổ.
Nhà Ngô tuy tồn tại một thời gian ngắn nhưng vẫn có vị trí nhất định trong lịch sử nước nhà. Đó là triều đại quân chủ đầu tiên của nước Việt sau thời Bắc thuộc, mở đầu thời kỳ các vương triều dân tộc thay nhau trị nước trong nhiều thế kỷ sau đó.
2. Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp các sứ quân, thu giang sơn về một mối như thế nào? Việc Dương Tam Kha cướp ngôi vua khiến nhiều quan lại và thủ lĩnh địa phương không phục. Nhiều người đã nổi lên cát cứ. Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn không đủ uy tín cũng như sức mạnh để dẹp yên
31
tất cả. Năm 965, Ngô Xương Văn chết trận. Thừa dịp đó, các tướng tá, quan lại cũ của nhà Ngô cùng hào trưởng nhiều địa phương đua nhau xưng hùng, xưng bá rồi đem quân đánh lẫn nhau. Cuối cùng, các thế lực yếu dần bị loại trừ, chỉ còn lại 12 thế lực mạnh nhất. Sử cũ gọi họ là các sứ quân. Tình hình loạn lạc này được gọi là “Loạn 12 sứ quân”. 12 sứ quân đó là:
STT Tên sứ quân Địa bàn chiếm giữ Ghi chú
1 Ngô Nhật Khánh Đường Lâm (Ba Vì, Hà Nội)
2 Kiều Công Hãn Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ)
3 Kiều Thuận Hồi Hồ
(Cẩm Khê, Phú Thọ)
4 Nguyễn Khoan Tam Đái (Vĩnh Phúc) 5 Nguyễn Thủ Tiệp Tiên Du (Bắc Ninh)
6 Nguyễn Siêu Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)
7 Lý Khuê Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh)
8 Lữ Đường Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên)
9 Phạm Bạch Hổ Đằng Châu (Kim Động, Hưng Yên)
10 Đỗ Cảnh Thạc Đỗ Động
(Thanh Oai, Hà Nội)
11 Trần Lãm Bố Hải Khẩu (Thái Bình)
12 Ngô Xương Xí Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa)
Tôn thất nhà Ngô
Cháu nội
Kiều Công Tiễn
Em trai
Kiều Công Hãn
Nguyễn Siêu cùng Nguyễn Khoan và Nguyễn Thủ Tiệp là ba anh em ruột
Con trai
Ngô Xương Ngập
32
Ngoài ra, còn một số thế lực khác cũng khá mạnh nhưng không được xếp vào 12 sứ quân. Đó là Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư (Ninh Bình) và các tướng tá nhà Ngô đang chiếm giữ kinh đô Cổ Loa.
Loạn 12 sứ quân khiến đất nước phân ly, dân tình khốn khổ. Trong lúc đó, ở Trung Quốc, nhà Tống đã chấm dứt thời kỳ Ngũ đại Thập quốc và lăm le chờ dịp chiếm lấy nước ta. Yêu cầu của lịch sử là phải xóa bỏ tình trạng cát cứ, thu non sông về một mối. Đinh Bộ Lĩnh là người đã thực hiện trọn vẹn yêu cầu ấy.
Đinh Bộ Lĩnh (924-979) là con của Thứ sử Đinh Công Trứ (quan chức dưới thời Ngô Quyền). Cha mất sớm, ông về sống với mẹ tại quê nhà Hoa Lư. Khi trưởng thành, Đinh Bộ Lĩnh được dân trong vùng tôn làm thủ lĩnh để bảo vệ địa phương trong hoàn cảnh đất nước đang rối loạn. Đinh Bộ Lĩnh quy tụ được dưới trướng nhiều hào kiệt như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Trịnh Tú, Lưu Cơ, Lê Hoàn... Khi lực lượng đã mạnh, ông đem quân đánh chiếm các vùng xung quanh và xây dựng Hoa Lư thành căn cứ vững chắc. Sau khi nhà Ngô sụp đổ, Đinh Bộ Lĩnh quyết tâm dẹp yên loạn lạc nên đã phát binh đánh các sứ quân.
Để tăng cường lực lượng, ở giai đoạn đầu, Đinh Bộ Lĩnh xin theo về dưới trướng sứ quân Trần Lãm và được Trần Lãm nhận làm con nuôi. Sau đó, ông tiến đánh Đằng Châu buộc sứ quân Phạm Bạch Hổ phải quy hàng. Tiến thêm một bước, ông tiến ra Đỗ Động tranh phong với Đỗ Cảnh Thạc. Đỗ Cảnh Thạc là một sứ quân mạnh. Đinh Bộ Lĩnh phải mất hơn một năm mới đánh bại được. Dẹp xong Đỗ Động, ông đánh chiếm Cổ Loa, diệt bọn tướng tá tại đây.
33
Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục chia quân đánh sang Đường Lâm và đánh lên Tiên Du. Nguyễn Thủ Tiệp thua trận phải chạy dài rồi mất. Ngô Nhật Khánh cùng quẫn phải xin hàng. Kế đó, Đinh Bộ Lĩnh vây thành Phong Châu của Kiều Công Hãn, dùng hỏa công để hạ thành. Kiều Công Hãn chạy ra vùng Trường Châu rồi mất ở đấy.
Các sứ quân còn lại, số bị tiêu diệt, số tự tan rã. Ngô Xương Xí mới nghe phong thanh quân Hoa Lư tiến đánh liền cuốn cờ tháo chạy, sau không rõ tung tích.
Chỉ trong vòng 2 năm (965-967), công cuộc dẹp loạn của Đinh Bộ Lĩnh đã hoàn tất. Đất nước thống nhất. Đinh Bộ Lĩnh tự lập làm hoàng đế vào mùa xuân năm 968. Ông là người đầu tiên xưng đế sau thời Bắc thuộc, thể hiện niềm tự hào và tinh thần tự tôn dân tộc rất cao, đặt nước ta sánh ngang với phương Bắc. Ông tự xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt (quốc hiệu đầu tiên sau thời Bắc thuộc) và chọn Hoa Lư làm đất đóng đô. Sau khi khai sáng vương triều Đinh, Đinh Tiên Hoàng ra sức củng cố chính quyền và dựng xây đất nước. Ông trị vì được 11 năm (968-979).
Đinh Bộ Lĩnh là người có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước và thành lập triều Đinh. Sự nghiệp của ông luôn được con dân nước Việt ngàn đời tưởng nhớ và tôn vinh.
3. Hãy cho biết vài nét về Lê Đại Hành và cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (năm 981)?
Lê Đại Hành là danh xưng do người đời sau đặt. Ông tên thật là Lê Hoàn, sinh năm 941 và mất năm 1005,
34
người Kẻ Sập, Châu Ái (nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa); cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị Sen. Lê Hoàn mồ côi cha mẹ lúc thơ ấu, được một vị quan họ Lê nhận làm con nuôi. Lê Hoàn rất thông minh, sáng dạ nên được mọi người yêu mến. Thuở ấy, đất nước bị loạn 12 sứ quân làm cho suy yếu. Lê Hoàn theo giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp các sứ quân, lập nhiều chiến công, góp phần thống nhất đất nước. Khi nhà Đinh thành lập, ông được phong chức chỉ huy quân Điện tiền kiêm thống lĩnh quân đội cả nước. Khi Đinh Tiên Hoàng mất, ông được cử làm đại thần phụ chính, giúp ấu chúa Đinh Toàn (mới 6 tuổi). Lúc ấy, ở Trung Quốc, nhà Tống vẫn nuôi mưu đồ xâm chiếm Đại Cồ Việt, tái lập sự thống trị lên nước ta. Nay nghe tin Đinh Tiên Hoàng qua đời, vua mới còn nhỏ tuổi, triều đình nhà Tống vội điều binh chuẩn bị tiến sang.
Trước vận nước lâm nguy, Thái hậu họ Dương đã dựa vào sự đồng tình của một số quan lại, khoác long bào cho Lê Hoàn, đưa ông lên ngôi năm 980. Nhà Đinh kết thúc và nhà Lê (Tiền Lê) ra đời kể từ đó.
Lê Hoàn nhanh chóng chuẩn bị mọi mặt để chống giặc. Đến đầu năm 981, quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, chia làm hai đường kéo vào nước ta. Quân bộ tiến vào Lạng Sơn. Quân thủy tiến vào sông Bạch Đằng. Lê Hoàn một mặt tự cầm quân lên biên giới chặn cánh quân bộ của giặc, mặt khác gấp rút cho đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng và cử một đạo quân chặn giặc tại đây.
Cuộc chiến đầu tiên diễn ra ở vùng cửa sông Bạch Đằng. Quân giặc bị chặn đánh quyết liệt, lại bị bãi
35
cọc nhọn ngăn trở, đành rút lui. Tại biên giới phía bắc, Hầu Nhân Bảo chờ mãi không thấy tin của thủy quân đành dẫn quân tiến xuống. Quân ta cho người trá hàng rồi bất ngờ giết chết Hầu Nhân Bảo. Sau đó, đại quân ta tấn công mãnh liệt vào quân Tống. Quân Tống đại bại. Một số viên tướng bị bắt sống. Những tên khác hốt hoảng tháo chạy. Cuộc kháng chiến của quân và dân Đại Cồ Việt thắng lợi hoàn toàn.
Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất thắng lợi đã bảo vệ vững chắc nền độc lập của nước Đại Cồ Việt. Lê Hoàn tiếp tục công cuộc xây dựng đất nước từ thời Đinh. Ông đã đưa nước Đại Cồ Việt trở thành một quốc gia vững mạnh, khiến lân quốc phương Nam là Chămpa phải thần phục, nhà Tống ở phương Bắc phải kính nể.
Năm 1005, Lê Hoàn qua đời. Các hoàng tử đánh giết lẫn nhau để tranh giành ngôi báu. Nhà Tiền Lê từ đó dần suy yếu rồi cáo chung vào cuối năm 1009.
II. VIỆT NAM DƯỚI THỜI LÝ - TRẦN - HỒ 1. Vương triều Lý đã để lại những dấu ấn đặc sắc gì trong lịch sử dân tộc?
Vương triều Lý là triều đại quân chủ Việt Nam do Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ) sáng lập vào cuối năm 1009. Lý Công Uẩn (974-1028) sinh trưởng ở vùng Cổ Pháp (Bắc Ninh ngày nay), từng giữ chức chỉ huy cấm quân dưới triều Tiền Lê. Ông là người khoan dung, nhân từ, được Nhân dân và quan lại trong triều rất mến phục. Khi hoàng đế cuối cùng của nhà Tiền Lê là Lê Ngọa Triều mất, quần thần vì chán ghét nhà Lê hủ bại nên đồng lòng ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi.
36
Triều Lý tồn tại 217 năm (1009-1225) với 9 đời hoàng đế. Ngoài trang sử huy hoàng về cuộc kháng chiến chống Tống (sẽ trình bày ở phần riêng), dưới đây là những dấu ấn nổi bật của vương triều này.
Đặt kinh đô mới Thăng Long
Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định chuyển kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Hà Nội) và đổi tên Đại La thành Thăng Long.
Miền đất Đại La, như lời Chiếu dời đô, là nơi “ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi; địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng, dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi... thật là nơi tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là chốn đô thành bậc nhất của kinh sư muôn đời”1.
Những ưu thế đó là điều mà kinh đô Hoa Lư vốn bị núi đồi bao phủ không thể sánh được.
Thăng Long từ đó liên tục là kinh đô của các triều đại quân chủ Việt Nam suốt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII.
Ban hành bộ luật đầu tiên trong lịch sử Việt Nam trung đại
Đó là bộ luật Hình thư, gồm 3 quyển, được soạn thảo và ban hành năm 1042 theo mệnh lệnh của Hoàng đế Lý Thái Tông (con trai Lý Thái Tổ, ở ngôi từ năm 1028 đến năm 1054).
1. Lý Thái Tổ: Thiên đô chiếu. Bản dịch in trong Bùi Duy Tân (Chủ biên): Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X-XIX), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006, t.1, tr.44.
37
Hình thư là bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử Việt Nam trung đại. Đầu thế kỷ XV, nhà Minh (Trung Quốc) xâm lược và đô hộ nước ta, đã thu gom rồi hủy hoại rất nhiều di sản văn hóa của Đại Việt. Bộ Hình thư bị thất truyền trong thời gian này.
Dựng chùa Một Cột
Chùa Một Cột (tên chữ là Diên Hựu tự, nghĩa là kéo dài mãi cõi phúc) được xây dựng vào năm 1049 dưới thời vua Lý Thái Tông. Chùa được đặt trên một cột trụ giữa hồ nước, tựa như bông hoa sen đang nở. Nhiều công trình xung quanh chùa cũng được xây dựng. Đến năm 1105 đời vua Lý Nhân Tông, chùa được mở mang thêm.
Chùa Một Cột là một biểu tượng của sự tôn sùng Phật giáo dưới thời Lý, và ngày nay đã trở thành một biểu tượng của Thủ đô Hà Nội. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, chùa nhiều lần bị tàn phá. Ngôi chùa hiện nay ở Hà Nội được phục dựng năm 1955, chỉ là một phần nhỏ so với tổng thể công trình ban đầu.
Đặt quốc hiệu Đại Việt
Năm 1054, Hoàng đế Lý Thánh Tông sau khi kế vị đã quyết định đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt. Từ năm 1054 đến năm 1804, Đại Việt liên tục được sử dụng làm quốc hiệu của nước ta dù có thời gian ngắn bị gián đoạn dưới thời Hồ và thời thuộc Minh đầu thế kỷ XV. Đây là quốc hiệu có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử nước ta tính đến thời điểm hiện tại.
Bình Chiêm mở mang bờ cõi
Chiêm Thành (Chămpa) là vương quốc có lãnh thổ tương ứng với khu vực từ Quảng Bình đến Bình Thuận
38
ngày nay, được thành lập vào cuối thế kỷ II, với dân tộc chủ thể là người Chăm. Lãnh thổ của nhà Lý trước năm 1069 gồm phần đất tương ứng với miền Bắc và một phần Bắc Trung Bộ ngày nay. Lúc bấy giờ, Đại Việt và Chiêm Thành là hai quốc gia láng giềng, đã thiết lập mối bang giao trên nhiều mặt. Giữa hai nước cũng từng xảy ra xung đột do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Nửa sau thế kỷ XI, nhà Tống (Trung Quốc) nuôi tham vọng xâm chiếm nước ta một lần nữa, do đó hoàng đế nhà Tống đã lôi kéo Chiêm Thành cùng liên thủ để tấn công Đại Việt. Nhận thấy nguy cơ đó, nhằm phá vỡ âm mưu nham hiểm của kẻ thù, năm 1069, Lý Thánh Tông đã thân chinh cầm quân đánh Chiêm Thành. Quân nhà Lý đại thắng, bắt sống vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ vì muốn giữ mạng đã xin dâng đất Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh (tỉnh Quảng Bình và khu vực phía bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay) để chuộc tội. Lãnh thổ Đại Việt được mở rộng thêm về phía Nam kể từ đây.
Lập Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Nhà Lý rất coi trọng Phật giáo, thậm chí xem đó là quốc giáo, nhưng vẫn tạo điều kiện cho Nho giáo và Đạo giáo phát triển. Năm 1070, Lý Thánh Tông đã cho dựng Văn Miếu làm nơi thờ người khai sinh Nho giáo là Khổng Tử cùng các học trò nổi tiếng của ông.
Năm 1076, nhà Lý tiếp tục xây dựng Quốc Tử Giám, kết nối với Văn Miếu tạo thành công trình kép (Văn Miếu - Quốc Tử Giám). Quốc Tử Giám là trường học cấp quốc gia, nơi đào tạo con em hoàng tộc, quan lại cùng những sĩ tử xuất chúng trong cả nước. Tương
39
tự Văn Miếu, việc nhà Lý thành lập Quốc Tử Giám cũng là một bước tiến trên con đường chính danh hóa ở tầm quốc gia đối với Nho giáo. Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ đây trở đi luôn là trung tâm và biểu tượng của sự tôn sùng Nho giáo, Nho học và đề cao việc học hành, thi cử của Nhà nước và Nhân dân Đại Việt qua các triều đại.
Mở đầu chính sách “ngụ binh ư nông” trong sử Việt
“Ngụ binh ư nông” nghĩa là khi đất nước có chiến tranh thì quân sĩ tham gia chiến đấu, còn lúc bình yên thì thay phiên nhau về cấy cày, canh tác. Chính sách này được đặt ra vào năm 1128 dưới thời Hoàng đế Lý Thần Tông (1128-1137). Từ đó về sau, chính sách “ngụ binh ư nông” luôn được các triều đại sau kế thừa và phát triển như một chiến lược xuyên suốt của Nhà nước. Chính sách này cũng là tiền thân của chiến lược kết hợp kinh tế với quốc phòng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay.
Thiết lập thương cảng Vân Đồn - trung tâm mậu dịch quốc tế đầu tiên của Đại Việt Năm 1149, Hoàng đế Lý Anh Tông đã cho lập trang Vân Đồn ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ ngày nay để làm nơi giao thương giữa Đại Việt với các quốc gia khác. Đây là lần đầu tiên trong thời trung đại, một trung tâm mậu dịch với nước ngoài được Nhà nước tạo dựng, góp phần không nhỏ cho việc phát triển kinh tế, thương mại và tầng lớp thương nhân, đem về nguồn thu phi nông nghiệp khá lớn cho Nhà nước. Vị thế của thương cảng Vân Đồn còn tiếp tục được duy trì qua các triều Trần, Lê, Mạc sau này.
40
Nữ hoàng đế duy nhất trong sử Việt
Lý Chiêu Hoàng là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Việt Nam. Lý Chiêu Hoàng tên thật là Lý Phật Kim, công chúa thứ hai của Hoàng đế Lý Huệ Tông. Đến đời Lý Huệ Tông, nhà Lý đã rất suy yếu, phải dựa vào thế lực ngoại thích họ Trần để bảo vệ ngai vàng. Năm 1224, những người đứng đầu thế lực họ Trần đã ép Huệ Tông phải nhường ngôi cho con gái là Phật Kim, khi ấy mới 6 tuổi. Lý Phật Kim lên ngôi, được gọi là Lý Chiêu Hoàng, trở thành nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Việt Nam.
Năm 1226, họ Trần đã sắp đặt cho Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh (lúc ấy 8 tuổi, con trai của Thái úy Trần Thừa - người đứng đầu thế lực họ Trần) rồi lại khéo léo sắp đặt để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Triều Lý kết thúc từ đây. Triều Trần tiếp nối với người mở đầu là Trần Cảnh, tức Hoàng đế Trần Thái Tông.
2. Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai (1075-1077) diễn ra như thế nào? Giữa lúc vua tôi nhà Lý đang khẩn trương bắt tay chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến không thể tránh khỏi với quân Tống thì năm 1072 Lý Thánh Tông qua đời. Người nối ngôi là Lý Nhân Tông chỉ mới 6 tuổi. Quyền lực triều đình tạm thời do Thái hậu Ỷ Lan và Thái úy Lý Thường Kiệt nắm giữ. Lúc bấy giờ, nhà Tống đang gấp rút chuẩn bị xâm lăng Đại Việt, lấy thành Ung Châu (Quảng Tây) làm trung tâm tích trữ
lương thảo, tập trung lực lượng, chờ ngày tiến quân. Biết rõ điều này, với chủ trương “đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của địch”, cuối năm 1075,
41
Lý Thường Kiệt đã huy động 10 vạn quân tiến sang đất Tống, lần lượt đánh chiếm Khâm Châu, Liêm Châu rồi vây thành Ung Châu. Sau 42 ngày đêm công phá, quân nhà Lý hạ được thành Ung Châu. Lý Thường Kiệt ra lệnh phá hủy hết các kho tàng của quân Tống rồi rút quân về, xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt án ngữ phía bắc Thăng Long để chuẩn bị kháng chiến.
Lý Thường Kiệt (1019-1105) tên thật là Ngô Tuấn, hiệu là Thường Kiệt, về sau được ban quốc tính nên lấy hiệu làm tên, gọi là Lý Thường Kiệt. Ông là người phường Thái Hòa thuộc kinh đô Thăng Long, có cha là võ tướng bậc trung. Ngô Tuấn từ trẻ đã tỏ ra là người say mê binh thư, thích rèn luyện võ nghệ. Lớn lên, ông được tuyển vào cung và giữ một chức quan nhỏ. Ông được các vua Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông tin tưởng giao cho nhiều nhiệm vụ quan trọng. Năm 1069, Lý Thánh Tông đem đại quân đánh Chiêm Thành và Lý Thường Kiệt được cử làm tướng tiên phong. Khi Lý Thánh Tông mất, Lý Thường Kiệt cùng với Thái hậu Ỷ Lan trở thành cột trụ của triều Lý trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược.
Cuối năm 1076, 30 vạn quân Tống tiến sang Đại Việt. Quân nhà Lý ở các đồn lũy dọc biên giới đã chống trả quyết liệt nhưng không ngăn được bước tiến của địch. Quân Tống tiến rất nhanh đến phòng tuyến sông Như Nguyệt. Chỉ cần vượt qua phòng tuyến này, chúng sẽ tràn đến Thăng Long. Chủ tướng quân Tống là Quách Quỳ hạ lệnh đóng trại để chờ thủy binh đến chở quân vượt sông, không ngờ đạo thủy binh của chúng đã bị chặn đánh tơi bời ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ. Không thể chờ đợi thêm, Quách Quỳ hạ lệnh vượt sông,
42
nhưng cả hai lần liều lĩnh tiến sang, chúng đều bị quân Lý đẩy lui, thương vong rất lớn. Quách Quỳ không dám mạo hiểm thêm, ra lệnh án binh bất động để chờ thời cơ.
Tháng 3/1077, Lý Thường Kiệt huy động đại quân sang sông, thực hiện cuộc tổng phản công chiến lược, tấn công mãnh liệt vào doanh trại quân Tống. Quân Lý đại thắng, Quách Quỳ buộc phải chấp nhận giải pháp nghị hòa và kéo quân về nước. Bài thơ “Nam quốc sơn hà” tương truyền là của Lý Thường Kiệt được xem là bản “tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của người Việt - ra đời trong thời gian này:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Nghĩa là:
“Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự,
Sách trời định phận rõ non sông,
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm,
Bay hãy chờ coi, chuốc bại vong”1.
Chiến công trên phòng tuyến sông Như Nguyệt đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Tống. Đây là lần thứ hai quân Tống xâm lược Đại Việt và chịu thất bại thảm hại (lần đầu năm 981). Chiến thắng này là một mốc son trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, khiến nhà Tống từ đó về sau không dám phát binh tấn công Đại Việt nữa.
1. Khuyết danh: Nam quốc sơn hà. Bản phiên âm và dịch nghĩa in trong Bùi Duy Tân (Chủ biên): Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X-XIX), Sđd, t.1, tr.32-33.
43
3. Vương triều Trần để lại những dấu ấn gì trong lịch sử dân tộc?
Vương triều Trần kế tiếp triều Lý và tồn tại 174 năm (1226-1400), đã có những đóng góp lớn lao cho đất nước trên nhiều khía cạnh. Dưới đây chỉ nêu những đặc điểm nổi bật nhất của vương triều này. Riêng các cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên sẽ được trình bày ở ngay sau mục này.
Mở đầu chế độ Thái Thượng hoàng trong lịch sử Việt Nam
Người mở đầu triều Trần là Trần Thái Tông, lúc lên ngôi mới chỉ 8 tuổi. Thái sư Trần Thủ Độ vì thế đã đề nghị cha của Trần Thái Tông là Trần Thừa giữ vai Thái Thượng hoàng để điều khiển các việc trọng đại. Chế độ Thái Thượng hoàng của triều Trần bắt đầu như vậy và được các đời hoàng đế kế vị nhất mực tuân thủ. Các hoàng đế chỉ ở ngôi trong khoảng thời gian nhất định rồi truyền ngôi cho Thái tử, bản thân trở thành Thái Thượng hoàng, cùng vua con cai quản việc nước.
Các Thái Thượng hoàng nhà Trần thường lui về sống tại hành cung Thiên Trường (Nam Định) và có bộ máy quan chức giúp việc gồm đủ các bộ phận như tại triều đình. Thái Thượng hoàng có quyền lực rất lớn, có thể phế truất và lập mới hoàng đế khi cần.
Triều đại của quý tộc, tôn thất
Tôn thất là dòng họ nhà vua. Nhà Trần thường giao các chức vụ quan trọng về văn, võ cho những người trong họ. Quý tộc, tôn thất họ Trần được phong các tước vương, hầu, có điền trang, thái ấp riêng và được hưởng nhiều ưu đãi đặc biệt khác.
44
Quý tộc họ Trần nắm giữ chính quyền là nét độc đáo của triều đại này. Triều Lý trước đó cũng đã có hiện tượng trên nhưng không duy trì thường xuyên. Các triều đại sau nhà Trần không tiếp tục chế độ này nữa. Nhà Trần do đó còn được gọi là triều đại quân chủ quý tộc, tôn thất.
Nhiều tôn thất họ Trần đã trở thành các danh nhân của nước nhà như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Nguyên Đán...
Vương triều duy nhất thực hiện chế độ hôn nhân nội tộc
Nhà Trần là triều đại duy nhất trong lịch sử nước ta tiến hành chế độ hôn nhân nội tộc, nghĩa là những người cùng huyết thống họ Trần chỉ cần không phải anh em ruột sẽ được kết hôn với nhau. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có việc mưu tính sâu xa để ngai vàng không rơi vào tay người ngoại tộc như trường hợp của nhà Lý.
Từ hoàng đế đến các quý tộc, tôn thất họ Trần đều nhất mực tuân thủ chế độ này. Với các hoàng đế, họ có quyền lập nhiều phi tần, nhưng ngôi vị hoàng hậu thì phải do người trong họ nắm giữ. Bởi điều này nên hoàng hậu của Trần Thánh Tông là con gái của An Sinh Vương Trần Liễu, tức là chị con nhà bác của Thánh Tông; hoàng hậu của Trần Nhân Tông (con Thánh Tông) là con gái của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (con Trần Liễu)...
Giới quý tộc, tôn thất cũng được quyền lấy nhiều thê thiếp khác họ, nhưng người chính thất (vợ cả) vẫn phải là người họ Trần. Bởi quy định này mà chính thất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng chính là
45
cô ruột của ông; chính thất của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải là Công chúa Phụng Dương... Cuộc hôn nhân mở rộng cương giới
Nửa sau thế kỷ XIII, quan hệ giữa Đại Việt với vương quốc Chiêm Thành rất hữu hảo. Khi quân Nguyên xâm lược Chiêm Thành năm 1283, nhà Trần đã điều binh giúp đỡ vua Chiêm Thành. Về sau, Thái tử Chiêm Thành là Harigit lên ngôi (sử ta gọi là vua Chế Mân), càng thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, thậm chí còn mời Thượng hoàng Trần Nhân Tông, bấy giờ đã xuất gia, sang thăm Chiêm Thành (năm 1301).
Trong chuyến đi đầy tình hữu nghị này, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân - con gái út của mình cho Chế Mân. Chế Mân đã xin dâng hai vùng đất Ô và Lý cho Đại Việt xem như sính lễ hỏi cưới công chúa. Năm 1306, công chúa Huyền Trân lên xe hoa về Chiêm Thành rồi được lập làm hoàng hậu. Hai đất Ô và Lý chính thức thuộc về lãnh thổ nước ta. Nhà Trần đổi tên hai vùng đất này thành Thuận Châu và Hóa Châu, tương ứng với khu vực Nam Quảng Trị và toàn bộ Thừa Thiên - Huế ngày nay.
Văn học và các ngành khoa học có nhiều thành tựu đáng ghi nhận
Trước triều Trần, chữ Nôm (là loại chữ viết do Nhân dân ta sáng tạo dựa trên cách viết của chữ Hán (Trung Quốc)) đã ra đời, nhưng chưa được sử dụng phổ biến. Đến thời Trần, chữ Nôm được sử dụng nhiều hơn. Nhiều vị hoàng đế và quan lại đã sử dụng chữ Nôm trong các sáng tác văn học, góp phần thúc đẩy
46
sự phát triển của dòng văn học chữ Nôm bên cạnh dòng văn học chữ Hán đang chiếm ưu thế. Cùng với văn học chữ Nôm, các ngành khoa học khác cũng có những thành tựu rực rỡ. Đầu tiên là sự ra đời bộ quốc sử đầu tiên của dân tộc là Đại Việt sử ký do Lê Văn Hưu hoàn thành năm 1272. Trên phương diện thiên văn và lịch pháp, thời Trần có hai nhân vật nổi tiếng là Đặng Lộ và Trần Nguyên Đán. Đặng Lộ là người chỉnh sửa bộ lịch mang tên Thụ Thời cho sát hợp hơn với thực tế đất nước và cho đổi tên thành lịch Hiệp Kỷ. Ông cũng sáng chế ra một dụng cụ để quan sát thiên văn gọi là Lung linh nghi. Còn Trần Nguyên Đán là tác giả của bộ Bách thế thông khảo - công trình nghiên cứu có hệ thống các hiện tượng thiên văn và phép tính lịch từ xa xưa cho đến thời bấy giờ của Đại Việt và Trung Hoa. Trên lĩnh vực khoa học quân sự, Binh thư yếu lược do Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn soạn thảo là bộ binh pháp đầu tiên của nước Đại Việt. Công trình này đã đánh dấu sự ra đời của nền khoa học quân sự Đại Việt, cũng là một thành tựu đáng tự hào của văn minh Đại Việt thời bấy giờ.
Về y học, nhiều danh y xuất sắc đã xuất hiện như Phạm Bân, Trâu Canh, Tuệ Tĩnh. Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, vừa là một hòa thượng vừa là danh y xuất chúng nhất thời Trần. Ông là tác giả của bộ y thư Nam dược thần hiệu; người đề xướng phương châm “Nam dược trị Nam nhân”, được xem là quan điểm y học thấm đẫm tính dân tộc và chứa đựng niềm tự hào về sự phong phú của dược thảo nước ta.
47
4. Hãy cho biết những nét khái quát về ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên thời Trần?
Cuộc kháng chiến lần thứ nhất (năm 1258) Vào giữa thế kỷ XIII (thời Trần), cuộc sống của Nhân dân Đại Việt đang dần ổn định thì tin tức về quân xâm lược Mông Cổ từ phương Bắc lan tới. Các bộ lạc du mục Mông Cổ sống ở vùng thảo nguyên Bắc Á dần phân hóa thành giai cấp, rồi thành lập nhà nước vào đầu thế kỷ XIII. Mông Cổ đem quân đánh chiếm nhiều nước để mở rộng lãnh thổ. Đế chế Mông Cổ chẳng mấy chốc đã làm chủ một lãnh thổ rộng lớn, kéo dài từ Thái Bình Dương đến bờ Biển Đen. Năm 1257, trên bước đường xâm lược Nam Tống (Trung Quốc), quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý ở phía tây nam Nam Tống, rồi một cánh quân được lệnh phối hợp với quân Đại Lý đã quy hàng đánh xuống Đại Việt để từ đó thẳng đường tấn công mặt phía nam của Nam Tống.
Chủ tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai sai sứ sang yêu cầu nhà Trần đầu hàng. Nhà Trần quyết không nhượng bộ và tống giam bọn sứ giả, rồi lệnh cho cả nước chuẩn bị kháng địch. Mùa đông năm 1257, vị tướng trẻ Trần Quốc Tuấn được lệnh đem quân trấn giữ miền biên ải.
Tháng 01/1258, Ngột Lương Hợp Thai dẫn đầu 3 vạn quân đánh vào nước ta. Tuyến phòng thủ biên giới của ta bị phá. Quân Mông Cổ hùng hổ tiến xuống vùng Bình Lệ Nguyên (Tam Đảo, Vĩnh Phúc). Quân ta do Hoàng đế Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy đã quyết chiến với giặc tại đây. Quân Mông Cổ ra sức tấn
48
công, quân Trần chống chọi không nổi đành phải rút lui nhằm bảo toàn lực lượng. Triều đình tạm thời rút khỏi kinh thành Thăng Long, đem quân chủ lực xuôi sông Hồng về đóng tại vùng Thiên Mạc (Hà Nam). Giữa lúc khó khăn đó, Thái sư Trần Thủ Độ đã dõng dạc tuyên bố: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác”1. Tinh thần đó của Thái sư như tiếp thêm khí thế cho toàn quân.
Quân giặc tiến vào Thăng Long, nhưng trước mắt chúng chỉ là cảnh thành không nhà trống. Người dân ở kinh thành theo lệnh của triều đình đã sơ tán. Giặc điên cuồng tàn phá Thăng Long. Chúng đem quân ra các làng xã xung quanh để tìm lương thực, nhưng đến đâu cũng bị quân dân ta phục kích, chặn đánh tơi bời. Tình thế của chúng ngày càng nguy ngập.
Nắm được tình hình giặc, quân Trần tổ chức cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng ở Hàng Than, Hà Nội). Quân giặc bị đánh bật khỏi Thăng Long, bị truy kích liên tục nên phải chạy lên phía bắc. Đến vùng Quy Hóa (Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai), chúng bị dân binh dân tộc thiểu số bất ngờ đổ ra đánh. Giặc càng hoảng hốt bỏ chạy, không còn đốt phá, cướp bóc như khi mới vào nước ta. Nhân dân ta mỉa mai gọi chúng là “giặc Phật”.
Thế là chỉ trong vòng nửa cuối tháng 01/1258, quân và dân nhà Trần đã đập tan cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Mông Cổ. Tuy nhiên, kẻ thù vẫn chưa thôi ý định thôn tính nước ta.
1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.2, tr.28.
49
Cuộc kháng chiến lần thứ hai (năm 1285) - Những năm trước cuộc chiến
Bị đánh bật khỏi Đại Việt khiến quân Mông Cổ rất tức tối. Tuy nhiên, chúng chưa thể lập tức đem quân báo thù vì nội bộ xảy ra tranh chấp quyền lực, rồi lại phải hoàn thành cuộc xâm lăng Trung Quốc. Năm 1271, Mông Cổ đổi quốc hiệu thành Đại Nguyên. Sau khi diệt được Nam Tống (1279), chúng liền xúc tiến việc bành trướng xuống phương Nam.
Nhà Nguyên nhiều lần sai sứ sang nước ta hạch sách đủ điều: Khi thì đòi nộp sổ sách, lương thảo, nộp người, khi thì đặt chức quan theo dõi hoạt động của ta, lúc lại đòi hoàng đế nhà Trần phải sang trình diện. Bọn sứ giả nghênh ngang đi lại ngoài đường, hống hách không kiêng sợ ai.
Vua tôi nhà Trần một mặt cố gắng tránh va chạm, tiếp đãi sứ giả nhà Nguyên chu đáo, nộp cống đều đặn. Bản thân Trần Quốc Tuấn có lần tiếp sứ bị chúng lấy mũi tên đâm vào đầu, nhưng ông vẫn nín nhịn. Mặt khác, nhà Trần dùng mọi lý lẽ để từ chối các yêu sách của giặc và từng bước chuẩn bị cho cuộc chiến biết chắc là không thể tránh khỏi.
Mùa xuân năm 1283, quân Nguyên do Toa Đô cầm đầu được lệnh đánh xuống Chiêm Thành, nước láng giềng phía Nam Đại Việt. Chúng âm mưu tiêu diệt nhanh Chiêm Thành rồi đánh thẳng lên nước ta. Quân dân Chiêm Thành chống trả kịch liệt khiến Toa Đô tiến quân rất khó khăn.
Trước đó, nhận thấy nguy cơ ngoại xâm đang gần kề, nhà Trần đã tổ chức hội nghị vương hầu và
50
bách quan tại Bình Than (Hải Dương) vào mùa đông năm 1282. Hội nghị bàn kế đánh, phòng bị và chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản mới 15 tuổi nên không được vào dự. Đứng ở ngoài nghe, Quốc Toản căm tức quân giặc đến nỗi tay cầm quả cam vua ban mà bóp nát lúc nào không hay. Quốc Toản về nhà, tự tập hợp được một đội quân hơn 1.000 người, giương cao lá cờ đề 6 chữ “Phá cường địch, báo hoàng ân”, chờ ngày đọ sức với địch.
Mùa đông năm 1284, nhà Trần mở cuộc tập trận quy mô lớn, giao cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo) chức tổng chỉ huy toàn quân. Trong những tháng ngày sục sôi rèn luyện quân sĩ, Trần Hưng Đạo đã viết bài Hịch tướng sĩ nổi tiếng, khích lệ quân sĩ xông lên cứu nước, diệt thù.
Bài hịch có đoạn: “Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ... Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”1.
Đầu năm 1285, hoàng đế nhà Trần triệu tập các bô lão trong cả nước về dự hội nghị tại điện Diên Hồng. Trả lời câu hỏi của hoàng đế: “Thế giặc mạnh
1. Trần Hưng Đạo: Dụ chư tì tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ). Bản dịch in trong Bùi Duy Tân (Chủ biên): Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X-XIX), Sđd, t.1, tr.79.
51
ta nên đánh hay hàng?”, muôn người đồng thanh hô: “Đánh”1. Tiếng hô của các bô lão thể hiện tinh thần bất khuất, quyết tâm giữ nước của toàn dân. - Kháng chiến bùng nổ
Cuối tháng 01/1285, 50 vạn quân Nguyên do con trai vua Nguyên là Thoát Hoan thống lĩnh đã ồ ạt tràn vào nước ta. Phòng tuyến biên giới của ta bị chọc thủng. Quân nhà Trần theo lệnh Trần Hưng Đạo lui về lập phòng tuyến mới tại Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương).
Tại Vạn Kiếp, trả lời nỗi băn khoăn của hoàng đế về việc có nên hàng để cứu muôn dân, Trần Hưng Đạo đã nói một câu bất hủ: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng”2.
Quân Nguyên đánh mạnh vào Vạn Kiếp. Phòng tuyến này cũng không giữ được. Quân Trần tập kết về Thăng Long rồi như lần trước, quyết định dùng kế “vườn không nhà trống” để tạm tránh thế giặc mạnh. Nhân dân Thăng Long tản cư về các miền quê trong khi quân chủ lực rút về Nam.
Thoát Hoan chiếm được kinh thành nhưng khiếp sợ trước cảnh phố phường vắng lặng nên phải đóng trại ở bờ bắc sông Hồng. Hắn lệnh cho Toa Đô đang ở Chiêm Thành lập tức từ phía Nam đánh ra. Tướng trấn giữ Nghệ An là quý tộc họ Trần đem quân hàng giặc. Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải vào cứu Nghệ An nhưng không thành. Toa Đô tiếp tục tiến ra Thanh Hóa.
1, 2. Theo Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.50, 81.
52
Thoát Hoan lệnh cho Toa Đô tiến nhanh hơn nữa. Bản thân Thoát Hoan cũng dẫn quân tấn công mạnh vào chủ lực quân Trần. Chúng âm mưu tạo thành hai gọng kìm bóp nát đầu não kháng chiến của ta.
Tình thế vô cùng gian nguy. Trần Ích Tắc là chú vua cũng hàng giặc. Trần Hưng Đạo tổ chức các trận đánh kìm chân giặc rồi đưa triều đình rút về Thiên Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình). Quân Nguyên đánh ập vào. Trần Hưng Đạo mưu trí đánh lạc hướng giặc, rút ra miền Đông Bắc rồi theo đường biển chuyển vào Nam, chiếm lại Thanh Hóa và củng cố lực lượng tại đây. Chiến lược hai gọng kìm của địch bị bẻ gãy. Toa Đô không thể hội quân với Thoát Hoan.
Trong trận chiến giữ chân giặc tại bãi Thiên Mạc (Hà Nam), tướng Trần Bình Trọng bị giặc bắt. Chúng dụ dỗ ông nếu hàng phục sẽ được phong tước vương. Ông đã quát vào mặt chúng: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” rồi hiên ngang chịu chết.
Thoát Hoan phải rải quân chốt giữ nhiều nơi. Nhưng quân Nguyên càng đóng lâu thì càng thiếu lương thực. Tình hình dần chuyển biến có lợi cho ta. Vị tổng chỉ huy Trần Hưng Đạo nhận định thời cơ đang đến nên ra sức chuẩn bị tổng phản công.
Tháng 5/1285, theo kế hoạch của Trần Hưng Đạo, cả nước được lệnh “nổi lên đánh lớn”. Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái đại thắng tại trận Tây Kết (Khoái Châu, Hưng Yên). Trần Nhật Duật đánh bại giặc ở Hàm Tử (Hưng Yên). Trần Quang Khải giáng đòn sấm sét vào giặc tại bến Chương Dương (Thường Tín, Hà Nội) rồi tiến về giải phóng Thăng Long. Thoát Hoan
53
sợ hãi bỏ Thăng Long. Đến vùng Vạn Kiếp, chúng rơi vào trận địa do Trần Hưng Đạo bố trí sẵn. Trong cơn nguy khốn, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng rồi bắt lính khiêng chạy về nước.
Vào lúc này, Toa Đô từ mạn Thanh Hóa kéo quân ra Thăng Long, định hội quân với Thoát Hoan. Hoàng đế Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông trực tiếp điều khiển tướng sĩ chặn đánh giặc tại Tây Kết. Quân Nguyên tan vỡ. Toa Đô bị chém đầu.
Sau 6 tháng chiến đấu, quân và dân nhà Trần đã đánh tan hơn nửa triệu quân xâm lược. Trong niềm xúc động và tự hào về những chiến thắng vừa qua, Thượng tướng Thái sư, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải đã sáng tác bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư mang đầy khí phách:
“Bến Chương Dương cướp giáo
Cửa Hàm Tử bắt thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước cũ ngàn thu”1.
Cuộc kháng chiến lần thứ ba (1287-1288) Thất bại năm 1285 khiến hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt vô cùng tức tối. Năm 1287, hắn giao cho Thoát Hoan thống lĩnh 30 vạn quân2 sửa soạn sang đánh Đại Việt báo thù. Rút kinh nghiệm hai lần trước, Hốt Tất Liệt chuẩn bị sẵn một lượng lớn quân lương, giao cho Trương Văn Hổ bảo vệ và theo đường biển tiến sang.
1. Trần Quang Khải: Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh). Bản dịch in trong Bùi Duy Tân (Chủ biên): Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X-XIX), Sđd, t.1, tr.89. 2. Một số tài liệu ghi là 50 vạn quân.
54
Được tin quân Nguyên sắp tiến sang, nhà Trần ráo riết chuẩn bị đối phó. Trần Hưng Đạo một lần nữa được phong làm Quốc Công Tiết Chế để lãnh đạo toàn quân.
Tháng 12/1287, quân Nguyên chia hai đường thủy, bộ tiến sang. Quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy đánh vào Lạng Sơn rồi tiến xuống. Quân nhà Trần chặn đánh địch ở một số nơi hiểm yếu rồi rút lui. Thoát Hoan sau đó đóng quân tại Vạn Kiếp, xây dựng nơi đây thành căn cứ và chờ đợi tin tức của thủy quân.
Cánh quân đường thủy do Ô Mã Nhi cầm đầu, gồm 600 chiến thuyền, theo sông Bạch Đằng tiến vào. Đi sau Ô Mã Nhi là đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Tướng Trần Khánh Dư đã đem quân chặn nhưng bị đánh lui. Ô Mã Nhi cho rằng quân nhà Trần không dám chặn đánh nữa nên hăm hở tiến nhanh đến Vạn Kiếp để hội quân cùng Thoát Hoan, bỏ mặc đoàn thuyền lương đang ì ạch phía sau.
Trần Khánh Dư liền tập hợp số quân còn lại và mai phục tại Vân Đồn. Tại đây, quân ta đã diệt gọn đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ.
Cuối tháng 01/1288, Thoát Hoan sốt ruột không thấy Trương Văn Hổ đến, bèn dẫn quân đánh Thăng Long. Một lần nữa, trước mặt chúng lại là một kinh thành trống không. Quân giặc thiếu lương ăn, tinh thần sa sút nghiêm trọng. Thoát Hoan túng thế lại lui về Vạn Kiếp. Đây cũng là lúc Trần Hưng Đạo xác định thời cơ phản công. Quân ta đánh phá Vạn Kiếp liên tục khiến Thoát Hoan cùng đường phải chia quân làm hai để rút về nước.
Tháng 4/1288, Ô Mã Nhi dẫn thủy quân theo đường cũ rút trước. Chúng không ngờ Trần Hưng Đạo
55
đã thiết lập sẵn trận thế cho một trận quyết chiến chiến lược ngay tại cửa sông Bạch Đằng. Nhiều cọc nhọn được đóng xuống lòng sông, còn trên bờ, các đạo quân ta đã phục sẵn.
Quân Trần liên tục tập kích khiến Ô Mã Nhi rất vất vả mới đến được Bạch Đằng. Đúng như thời gian ta dự kiến, ngày 09/4/1288, quân ta cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến rồi giả thua, nhử địch đuổi theo. Ô Mã Nhi thúc đại quân đuổi theo và rơi vào trận địa mai phục của ta. Đúng lúc ấy, thủy triều rút dần, các chiến thuyền của ta xông ra đánh quyết liệt. Quân Nguyên lúng túng vội rút ra biển. Lúc này thủy triều rút, bãi cọc nhọn nhô cao cản bước chúng. Nhiều thuyền giặc bị chọc thủng rồi vỡ, đắm. Quân Nguyên khiếp hãi chạy lên bờ và bị đại quân nhà Trần đón sẵn, tiêu diệt gọn. Đạo thủy binh của giặc tan tành. Ô Mã Nhi bị bắt sống.
Trong khi Ô Mã Nhi đại bại, cánh quân Thoát Hoan cũng bị đánh cho tơi tả trên đường rút về hướng Lạng Sơn. Hắn cùng đám bại quân phải chật vật lắm mới thoát được.
Ngày 18/4/1288, nhà Trần làm lễ mừng chiến thắng. Nhà Nguyên từ đấy không dám xâm lược nước ta nữa.
Ba mươi năm (1258-1288), ba lần đương đầu với thế lực xâm lược hùng mạnh nhưng quân và dân ta thời Trần vẫn vững vàng vượt qua. Đế chế Mông - Nguyên hung bạo bất khả chiến bại trên thế giới đã bị nước Đại Việt bé nhỏ đẩy lui đến ba lần. Các thắng lợi này là thắng lợi của khối đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo tài giỏi của vương triều Trần đang
56
lúc cường thịnh, trong đó không thể không nhắc đến vai trò chỉ huy thiên tài của bậc đại danh tướng, anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo.
5. Vì sao danh tiếng của anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo mãi được lưu truyền trong lịch sử? Trần Hưng Đạo (1300) tên thật là Trần Quốc Tuấn, con trai của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu gọi hoàng đế mở đầu triều Trần (Trần Thái Tông) bằng chú ruột. Ông được ban tước hiệu Hưng Đạo Vương nên còn được gọi là Trần Hưng Đạo.
Trần Quốc Tuấn có dung mạo anh tuấn, văn võ song toàn. Cha ông suốt đời không quên chuyện người vợ yêu đang có thai bị Thái sư Trần Thủ Độ ép phải bỏ chồng để lấy Trần Thái Tông, vì thế hận lây Trần Thái Tông. Trước khi chết, ông dặn dò Trần Quốc Tuấn phải giành lấy ngai vàng thì ông mới yên lòng nhắm mắt. Trần Quốc Tuấn nhớ kỹ nhưng không cho lời đó là phải.
Được phong tước Hưng Đạo Vương, ông càng hết sức giữ mình, tránh gây hiềm khích với quý tộc, quan lại trong triều. Khi giặc Mông Cổ xâm phạm bờ cõi năm 1258, ông được giao nhiệm vụ chỉ huy các đạo quân bảo vệ biên giới. Ông đã góp công không nhỏ trong chiến thắng chung của quân dân ta năm ấy.
Trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1285 và 1287-1288, Trần Hưng Đạo được triều đình tin cậy giao trọng trách thống lĩnh toàn quân. Ông là linh hồn của cả hai lần kháng chiến, là nhà chính trị và quân sự đại tài, đã tạo được khối đoàn kết nhất trí cao trong nội bộ triều Trần và trực tiếp
57
hoạch định sách lược đánh địch. Các chiến thắng lẫy lừng của quân dân triều Trần đều có dấu ấn đậm nét của ông.
Trần Hưng Đạo hai lần đại phá quân Nguyên nên được triều đình đặc biệt trọng thị. Nhà Trần từng lập đền thờ ông ngay khi ông còn sống.
Ông được hoàng đế ban đặc quyền muốn phong tước cho ai thì phong nhưng chưa từng sử dụng để tránh sự vượt quyền triều đình. Ông là cha đẻ của tư tưởng “phụ tử chi binh”, xem binh lính như người nhà nên được tướng sĩ dưới quyền hết mực trung thành và quý trọng. Ông lại biết chiêu hiền đãi sĩ nên quy tụ được nhiều nhân tài cả văn lẫn võ dưới trướng. Mãnh tướng như Phạm Ngũ Lão, văn thần lão luyện như Trương Hán Siêu vốn là môn khách của ông. Bốn con trai của ông và cả các gia nô như Yết Kiêu, Dã Tượng đều trở thành các dũng tướng của triều đình.
Trần Hưng Đạo là tác giả của áng thiên cổ hùng văn Hịch tướng sĩ. Ông còn tổng kết kinh nghiệm chiến tranh các đời để viết nên bộ binh thư lừng danh là Binh thư yếu lược.
Ông nhận thức sâu sắc về sức mạnh to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trước khi lâm chung, ông đã dặn dò cháu ngoại là Hoàng đế Trần Anh Tông rằng: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”1. Di ngôn kết tinh tư tưởng chính trị của ông về vai trò của Nhân dân và sự trường tồn của quốc gia đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.79.
58
Sau khi mất, ông được triều đình và Nhân dân phụng thờ. Trong tâm khảm của dân ta, ông đã trở thành một vị thánh - Đức Thánh Trần - luôn phù trì cho dân tộc và đất nước. Tên tuổi của ông mãi được lưu truyền trong lịch sử.
6. Quốc giáo Phật giáo thời Lý - Trần có những đặc trưng cơ bản nào?
Phật giáo là tôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Từ các thế kỷ đầu Công nguyên, Phật giáo được truyền vào nước ta theo cả hai hướng: Nam truyền và Bắc truyền. Nam truyền là trực tiếp truyền từ Ấn Độ đến các quốc gia Phù Nam, Chămpa. Bắc truyền là truyền từ Ấn Độ sang Trung Quốc rồi từ Trung Quốc vào nước ta trong thời Bắc thuộc. Các thế hệ người Việt trong thời Bắc thuộc đã từng bước tiếp nhận và sùng kính Phật giáo. Đạo Phật ăn sâu trong xã hội nước ta và ngày càng phát triển khi đất nước giành độc lập hoàn toàn (đầu thế kỷ X).
Các triều đại phong kiến từ Ngô tới Trần đều đề cao Phật giáo, xem đây là công cụ tư tưởng quan trọng để củng cố quyền lực và ổn định xã hội. Dưới thời Lý - Trần (thế kỷ XI-XIV), Phật giáo được nâng lên thành quốc giáo, có ảnh hưởng sâu rộng từ triều đình đến bách tính.
Phật giáo thời Lý - Trần chủ yếu là Thiền tông, ngoài ra còn có Mật tông và Tịnh độ tông. Các dòng Thiền tông nổi tiếng có từ thời Bắc thuộc là Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông phát triển mạnh vào thời kỳ này. Một số thiền phái mới xuất hiện, do người Việt sáng lập như Thiền phái Thảo Đường (thời Lý), Thiền
59
phái Trúc Lâm (thời Trần). Thiền phái Trúc Lâm thời Trần đã thống nhất hầu hết các thiền phái trong nước để tiến tới hình thành một giáo hội Phật giáo toàn quốc (tuy còn sơ khai). Người có công đưa Thiền phái Trúc Lâm phát triển đến đỉnh cao là Hoàng đế Trần Nhân Tông, bấy giờ đã xuất gia, được xem là Tổ thứ nhất và được đời sau xưng tụng là Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Nhà Lý tôn nhiều vị sư làm quốc sư như Vạn Hạnh, Minh Không, Từ Đạo Hạnh... Triều đình thời Lý - Trần đặt ra các chức vụ chuyên quản lý Phật giáo. Các kỳ thi Phật giáo được tổ chức. Nhiều hoàng đế, vương hầu, quý tộc và quan lại xuất gia đi tu. Số người dân đi tu nhiều vô kể.
Chùa tháp được dựng lên ở nhiều nơi. Từ kinh thành đến thôn quê, đâu đâu cũng có chùa chiền, cũng dựng tượng, đúc chuông. Năm 1031, Hoàng đế Lý Thái Tông cho xây một lúc 950 chùa, quán ở các nơi. Thái hậu Ỷ Lan (mẹ Hoàng đế Lý Nhân Tông) từng cho xây dựng hơn 100 ngôi chùa. Năm 1256, Hoàng đế Trần Thái Tông cho đúc cùng lúc 330 quả chuông...
Nhà chùa bấy giờ được nhà nước ban cấp, được quý tộc và Nhân dân cúng tiến rất nhiều ruộng đất. Chẳng hạn dưới thời Trần, chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh) được ban cấp, cúng tiến hơn 2.000 mẫu ruộng cùng hàng ngàn gia nô.
Phật giáo thời Lý - Trần là tôn giáo quốc gia, phát triển mạnh mẽ và liên tục, nhưng chưa bao giờ trở thành một lực lượng chính trị và kinh tế chi phối toàn xã hội. Từ nửa sau thế kỷ XIV, Phật giáo bị Nho giáo, bấy giờ đang lên, lấn át và dần trở nên yếu thế trong triều đình, quay về bám rễ trong dân gian.
60
7. Cải cách của Hồ Quý Ly được tiến hành ra sao? Thành bại thế nào?
Hồ Quý Ly sinh trưởng tại tỉnh Thanh Hóa ngày nay, trong một gia đình nhiều đời làm quan. Hồ Quý Ly có hai người cô là phi tần của Hoàng đế Trần Minh Tông, sinh ra các hoàng đế Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông, nên khi trưởng thành, ông được cất nhắc vào triều làm quan.
Hồ Quý Ly được Hoàng đế Trần Nghệ Tông che chở nên thăng tiến rất nhanh rồi dần nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong triều. Hồ Quý Ly dần loại bỏ hết các thế lực chống đối. Trong thập niên cuối thế kỷ XIV, ông trở thành người nắm toàn bộ quyền lực triều đình.
Triều Trần từ nửa sau thế kỷ XIV không còn duy trì được sự thịnh trị như trước. Triều đình không quan tâm chăm lo sản xuất nông nghiệp khiến nhiều năm liên tiếp xảy ra mất mùa, đói kém. Nhiều nơi, nông dân đã nổi dậy khởi nghĩa. Trong khi đó, vương quốc Chămpa ở phía Nam nhiều lần đem quân xâm lấn bờ cõi nước ta. Đến cuối thế kỷ XIV, khi Chămpa hoàn toàn bị đánh bại, thì ở phía Bắc, nhà Minh (Trung Quốc) nhiều lần sai sứ sang hạch sách, âm mưu xâm chiếm nước ta. Nhà Trần càng thêm bối rối.
Chứng kiến quá trình suy sụp của nhà Trần, Hồ Quý Ly và những người ủng hộ đã tiến hành một loạt cải cách về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị nhằm cứu vãn tình hình.
Năm 1396, Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấy để thay tiền đồng. Năm 1397, ông ban hành chính sách hạn điền, quy định trừ quý tộc cao cấp, còn lại không
61
được phép sở hữu quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng đất thừa ra phải nộp cho Nhà nước.
Năm 1398, ông cải tổ một bước việc học, thi cử, đề cao chữ Nôm, loại bớt các sư tăng không đủ tiêu chuẩn. Năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, lập ra nhà Hồ, đổi quốc hiệu từ Đại Việt thành Đại Ngu (nghĩa là “niềm an vui lớn”). Sau khi lên ngôi, ông cùng người kế vị là Hồ Hán Thương tiếp tục cải cách đất nước. Ông ban hành chính sách hạn nô, quy định mỗi hạng người chỉ được phép có một số nô tì nhất định. Ông điều chỉnh phép đánh thuế: Với thuế ruộng thì thu 5 quan tiền mỗi mẫu so với 3 quan/mẫu thời Trần; hạng thuyền buôn được chia làm ba loại để thu thuế... Hồ Quý Ly và triều đình kiên quyết chống lại các hành vi khiêu khích của nhà Minh (Trung Quốc). Ông tuyển thêm quân, huy động dân xây đắp các công trình phòng thủ quốc gia.
Hồ Quý Ly là một nhà cải cách kiên quyết và táo bạo. Các cải cách của ông và triều Hồ đã làm suy yếu sức mạnh chính trị và kinh tế của quý tộc, tôn thất họ Trần, tập trung ruộng đất vào tay nhà nước, làm tăng thêm nguồn thu nhập cho quốc gia. Tuy nhiên, cuộc cải cách vẫn không giải quyết được các yêu cầu bức thiết về cuộc sống, về quyền tự do của Nhân dân. Nông nô, nô tì từ phụ thuộc tư nhân thành phụ thuộc nhà nước và vẫn chưa được giải phóng. Nhân dân phải nộp tô thuế nhiều hơn trong khi nền kinh tế tiếp tục sa sút. Tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ cũng bị chính sách hạn điền làm cho điêu đứng, nên không thể trở thành chỗ dựa mới của nhà nước... Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội từ cuối thời Trần vẫn chưa thể giải quyết triệt để.
62
III. NHÀ LÊ SƠ DIỆT GIẶC VÀ XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC 1. Thảm họa mất nước hơn 20 năm đầu thế kỷ XV xảy ra như thế nào?
Trước hành động cướp ngôi của Hồ Quý Ly, một số quý tộc và quan lại của nhà Trần đã ngấm ngầm sang Trung Quốc cầu cứu sự giúp đỡ của nhà Minh. Vốn sẵn dã tâm xâm lược, nhà Minh bèn viện cớ “Phù Trần diệt Hồ” và chuẩn bị đại binh kéo sang nước ta.
Quân Minh tràn vào lãnh thổ Đại Ngu, nhà Hồ đã kiên quyết kháng chiến, nhưng do chiến lược sai lầm, lại không đoàn kết được toàn dân nên đã thất bại nhanh chóng. Tháng 6/1407, Hồ Quý Ly cùng tập đoàn nhà Hồ bị bắt, cuộc kháng chiến thất bại hoàn toàn.
Đánh bại được nhà Hồ và chiếm được Đại Ngu, quân Minh bèn vứt bỏ chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” và nhanh chóng thiết lập bộ máy cai trị của chúng.
Nước Đại Ngu bị đổi thành quận Giao Chỉ, coi như một bộ phận lãnh thổ của nhà Minh. Nhà Minh đã đề ra nhiều chính sách nhằm tận thu đến cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta. Bốn hình thức bóc lột được chúng tiến hành lâu dài và ổn định là chế độ thuế khóa nặng nề, chính sách độc quyền về muối, chính sách vơ vét tài nguyên và chính sách cướp đoạt ruộng đất.
Quân Minh đã tịch thu sách vở và phá hủy nhiều công trình văn hóa của Nhân dân ta. Hoàng đế nhà Minh là Minh Thành Tổ từng hai lần lệnh cho bọn quan quân đô hộ phải triệt để hủy hoại nền văn hóa Việt, trong đó mọi giấy tờ, sách vở (trừ các sách bói toán) cùng bia đá, chuông đồng... đều phải đốt hoặc phá bỏ cho bằng hết.
63
Cùng với đó là quá trình đồng hóa văn hóa với thủ đoạn chính là bắt dân ta từ bỏ phong tục cũ để theo phong tục, lễ nghi của Trung Quốc. Chế độ giáo dục và thi cử ngu dân cũng được áp đặt.
Đối phó với các cuộc khởi nghĩa của Nhân dân ta, quân Minh không ngần ngại dùng những thủ đoạn khủng bố man rợ nhất. Miêu tả tội ác của chúng, Nguyễn Trãi đã viết:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán trải hai mươi năm”1.
Hai mươi năm dưới sự đô hộ của nhà Minh (1407- 1427), đất nước bị giày xéo, xã hội bị kìm hãm, cuộc sống và nhân phẩm con người bị chà đạp. Toàn thể dân tộc đứng trước thử thách mới vô cùng hiểm nghèo.
2. Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, lập vương triều Hậu Lê như thế nào?
Không cam tâm sống dưới ách cai trị của nhà Minh, các cuộc khởi nghĩa đã bùng lên khắp cả nước với các thủ lĩnh kiệt xuất như Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng, Đặng Tất, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị, Phạm Ngọc... Trong đó, lớn nhất và cuối cùng đã thành công là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.
Lê Lợi (1385-1433) sinh trưởng tại đất Lam Sơn, nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, trong một
1. Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo. Bản dịch in trong Bùi Duy Tân (Chủ biên): Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X-XIX), Sđd, t.1, tr.359.
64
gia đình nhiều đời có uy thế tại địa phương. Ông thường nói: “Bậc trượng phu sinh ở đời phải cứu nạn lớn, lập công to, lưu lại tiếng thơm ngàn năm sau, sao lại chịu hèn nhát để cho người sai khiến”1. Ông đã bí mật chiêu tập lực lượng, kết giao hào kiệt để chờ ngày nổi dậy tuy bề ngoài vẫn tỏ ra nhũn nhặn với quân Minh.
Đầu năm 1416, Lê Lợi và 18 người thân tín tổ chức cắt máu ăn thề tại cánh rừng Lũng Nhai, quyết đánh giặc, cứu nước.
Dựng cờ khởi nghĩa
Ngày mùng 2 Tết năm Mậu Tuất (tức ngày 07/02/1418), Lê Lợi đã long trọng làm lễ tế cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Chỉ 10 ngày sau khi phất cờ khởi nghĩa, nghĩa quân Lam Sơn đã giành thắng lợi đầu tiên. Nhưng khi đó, giặc Minh còn mạnh nên đã tổ chức các cuộc đàn áp đẫm máu. Nghĩa quân Lam Sơn phải ba lần rút lên núi Chí Linh vào các năm 1418, 1419, 1423. Trong lần rút lên núi năm 1419, bị bao vây ngặt nghèo, tướng Lê Lai phải cải trang thành Lê Lợi dẫn đội quân cảm tử xông ra. Lê Lai cùng các nghĩa sĩ cảm tử đã anh dũng hy sinh, Lê Lợi và những người còn lại nhờ đó mới thoát được.
Tháng 5/1423, Lê Lợi quyết định giảng hòa với quân Minh để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng. Quân Minh sau mấy năm không tiêu diệt hẳn được nghĩa quân Lam Sơn thì cũng muốn tìm cách thu phục, nên chấp nhận đề nghị này. Quân Minh rút lui và nghĩa quân quay trở lại Lam Sơn.
1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.240.
65
Lật ngược thế trận
Tranh thủ thời gian hòa hoãn, Lê Lợi và các nghĩa binh ngày đêm luyện tập, sản xuất và tích trữ lương thực, sắm sửa vũ khí, mở rộng lực lượng... Tiềm lực của nghĩa quân Lam Sơn nhanh chóng phục hồi và đủ sức bước vào cuộc chiến lâu dài với quân Minh.
Tháng 10/1424, Lê Lợi quyết định tấn công quân Minh, chấm dứt thời kỳ hòa hoãn. Theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, nghĩa quân Lam Sơn rời bỏ vùng núi rừng phía tây Thanh Hóa và đánh vào Nghệ An để tìm chỗ đứng chân. Kế hoạch này thường được gọi là “Chiến lược Nguyễn Chích”.
Trong thời gian ngắn, nghĩa quân đã giải phóng vùng đồng bằng Nghệ An và thừa thắng tiến ra Bắc giải phóng Diễn Châu, Thanh Hóa; tiến vào Nam giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa.
Cho đến trước tháng 9/1426, một vùng đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hóa trở vào Nam đã được giải phóng. Từ đây, tương quan thế và lực giữa nghĩa quân Lam Sơn với quân Minh đã hoàn toàn thay đổi. Cuộc khởi nghĩa vươn lên trở thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Thẳng tiến ra Bắc, vây hãm Đông Quan Tháng 9/1426, Lê Lợi lệnh cho 9.000 quân chia làm ba đạo, cùng tiến ra Bắc. Trong vòng một tháng, các đạo quân được Nhân dân các nơi nhiệt liệt hưởng ứng và đã đánh thắng ba trận lớn, buộc một loạt tướng lĩnh cao cấp của quân Minh phải co về cố thủ trong thành Đông Quan.
Tháng 11/1426, nhà Minh sai Vương Thông đem 5 vạn quân sang cứu nguy. Quân Lam Sơn đã
66
đánh trận quyết chiến chiến lược với Vương Thông ở Tốt Động - Chúc Động (Hà Nội). Quân Minh thua to. Vương Thông may mắn chạy thoát thân, cố thủ trong thành Đông Quan và liên tục cầu viện triều đình nhà Minh.
Sau trận đánh có quy mô rất lớn đó, Lê Lợi và bộ chỉ huy từ Thanh Hóa tiến ra Bắc, trực tiếp chỉ huy cuộc vây hãm Đông Quan và điều hành các hoạt động khác của nghĩa quân.
Ca khúc khải hoàn
Tháng 10/1427, 15 vạn viện binh của nhà Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạnh cầm đầu, chia làm hai đường kéo sang tiếp viện cho Vương Thông.
Từ đầu tháng 10 đến cuối tháng 11/1427, nghĩa quân Lam Sơn đã tổ chức hàng loạt trận đánh với đạo binh gồm 10 vạn tên do Liễu Thăng chỉ huy. Liễu Thăng bị giết chết trong trận Chi Lăng (Lạng Sơn). Nhiều tướng lĩnh cao cấp khác của địch cũng lần lượt bị giết chết. Trong trận quyết chiến chiến lược tại cánh đồng Xương Giang (Bắc Giang), một lần nữa quân Lam Sơn đại thắng.
Tin đại bại của Liễu Thăng khiến Mộc Thạnh rất kinh sợ. Hắn vội vàng tháo chạy khỏi ải Lê Hoa (Cao Bằng). Quân Lam Sơn đã ráo riết truy kích khiến đạo quân gồm 5 vạn tên này bị diệt đến quá nửa.
Thảm bại của hai đạo quân viện binh đã làm cho Vương Thông mất hết tinh thần. Hắn phải xin hòa và rút tàn quân về nước. Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa quân đã tổ chức Hội thề Đông Quan để giao ước giữa đôi bên, đồng thời tạo điều kiện cho quân giặc rút về. Ngày 03/01/1428, đội quân cuối cùng của Vương Thông rời
67
khỏi nước ta. Cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại của dân tộc ta đã kết thúc toàn thắng. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã trịnh trọng tuyên bố: “Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Ngàn thu nỗi nhục nhã sạch làu”1.
Sau ngày toàn thắng, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế. Ông chọn Thăng Long làm kinh đô, khôi phục quốc hiệu Đại Việt. Vương triều mà Lê Lợi tạo dựng được gọi là nhà Hậu Lê để phân biệt với nhà Tiền Lê do Lê Hoàn tạo dựng ở thế kỷ X.
3. Vương triều Lê sơ để lại những dấu ấn nổi bật nào trong lịch sử dân tộc?
Vương triều Lê sơ là giai đoạn đầu của triều đại Hậu Lê (1428-1788). Vương triều này tồn tại gần 100 năm (1428-1527) với 11 đời hoàng đế.
Nhà Lê sơ đã có những đóng góp to lớn cho quốc gia. Với cuộc cải cách toàn diện và quyết liệt dưới thời Lê Thánh Tông (1460-1497), thiết chế chính trị của nước Đại Việt đã chuyển hẳn sang hình thái quân chủ quan liêu thay cho hình thái quân chủ quý tộc dưới thời Trần.
Trước đó, Hồ Quý Ly đã có ý muốn thay đổi, nhưng chưa thực hiện được trọn vẹn. Việc quý tộc,
1. Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo. Bản dịch in trong Bùi Duy Tân (Chủ biên): Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X-XIX), Sđd, t.1, tr.362.
68
tôn thất không còn độc tôn nắm giữ chính quyền sẽ tạo điều kiện cho các giai tầng khác trong xã hội có cơ hội tham chính và sẽ khuyến khích các hoạt động giáo dục, thi cử để đào tạo cũng như tuyển chọn nhân tài. Những điều này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử khi ấy. Lê sơ là triều đại hoàn thiện thể chế quân chủ quan liêu, đã mở đường cho chế độ quân chủ nước ta tiến lên trong các thế kỷ sau.
Khác với thời Lý - Trần xem trọng Phật giáo, đồng thời có thái độ cởi mở với Nho giáo và Đạo giáo, nhà Lê sơ thực hiện độc tôn Nho giáo và có xu hướng xem nhẹ Phật giáo, Đạo giáo. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng của vương triều Lê, chiếm địa vị chi phối về mọi mặt của đất nước. Mọi mối quan hệ từ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng đến anh - em, bè bạn cùng các quan điểm về trị nước và đạo đức xã hội, nhân cách con người đều tuân theo những chỉ dẫn của quan điểm Nho giáo. Sở dĩ như vậy bởi vì với mô hình quân chủ quan liêu, nhà Lê sơ tìm thấy ở Nho giáo một công cụ đặc biệt hữu hiệu để củng cố chế độ quân chủ tập quyền, ổn định trật tự xã hội và làm nền tảng cho luân lý cùng đạo đức phong kiến.
Trên phương diện kinh tế - xã hội, nhà nước Lê sơ là triều đại đầu tiên trong lịch sử dân tộc thực thi chế độ quân điền, tức là nhà nước phân chia và phân phối ruộng đất công của làng xã theo định kỳ cho dân làng. Chế độ quân điền được thực hiện từ năm 1429 dưới thời Lê Thái Tổ và được hoàn thiện dưới thời Lê Thánh Tông.
Theo quy định dưới thời Lê Thánh Tông, ruộng đất công của làng xã cứ 6 năm chia lại một lần. Phần
69
ruộng được nhận của mỗi đối tượng (gọi là ruộng khẩu phần) có sự phân biệt tùy theo địa vị và thân phận. Những người được chia ruộng chỉ có quyền sử dụng chứ không được quyền sở hữu.
Trên lĩnh vực giáo dục và khoa cử, vương triều Lê sơ đã học hỏi kinh nghiệm của Trung Hoa và đặt ra nhiều điển lệ làm quy chuẩn cho các triều đại về sau. Đó là định lệ chặt chẽ về các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, quy định cứ 3 năm tổ chức một kỳ thi Hội. Đó là việc khắc tên những người thi đỗ trong mỗi kỳ thi vào bia đá rồi đặt trang trọng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám... Thời Lê Thánh Tông được xem là thời cực thịnh của chế độ giáo dục và thi cử của lịch sử Việt Nam trung đại; trong 38 năm đã tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 9 trạng nguyên trên tổng số 46 trạng nguyên suốt toàn bộ nền khoa cử Nho học Việt Nam.
Thời Lê sơ còn ghi dấu trong lịch sử với việc xuất hiện nhiều công trình văn học và khoa học đồ sộ. Về văn học, nổi tiếng nhất là áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), kế đó là Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Quốc ngữ thi tập (đều của Nguyễn Trãi), Hồng Đức quốc âm thi tập (Lê Thánh Tông)... Về khoa học, có Đại Việt sử ký toàn thư (bộ quốc sử lớn nhất thời phong kiến), Dư địa chí (địa lý học - Nguyễn Trãi), Hồng Đức bản đồ (địa lý và bản đồ học), Quốc triều hình luật (hay luật Hồng Đức, bộ luật hoàn bị nhất thời phong kiến), Thiên Nam dư hạ tập (công trình điển chương pháp chế lớn nhất thế kỷ XV), Đại thành toán pháp (toán học - Lương Thế Vinh), Lập thành toán pháp (toán học - Vũ Hữu), Bản thảo thực vật toát yếu (y học - Phan Phu Tiên)...
70
Một đặc điểm nổi bật nữa của thời Lê sơ là việc lãnh thổ được mở rộng về phía tây và phía nam. Dưới thời Lê Nhân Tông (1442-1459), tù trưởng đất Bồn Man (Lào) xin dâng đất và theo về với nhà Lê. Triều Lê đã đổi vùng đất ấy thành châu Quy Hợp. Đến thời Lê Thánh Tông thì đổi thành Trấn Ninh. Vùng đất này tương ứng với một phần phía Tây Nghệ An và một phần Đông Bắc của Lào ngày nay.
Năm 1471, Lê Thánh Tông chinh phạt Chămpa và sáp nhập một bộ phận đất đai Chămpa vào Đại Việt. Từ đó, biên giới nước nhà mở rộng được đến đèo Cù Mông, tức ranh giới tự nhiên giữa Bình Định - Phú Yên ngày nay.
Với gần 100 năm trị nước, nhà Lê sơ đã khiến nước Đại Việt được phục hưng trên mọi phương diện, trở thành một cường quốc trong khu vực Đông Nam Á đương thời.
4. Hãy cho biết đôi nét về danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi?
Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, quê gốc ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội). Cha ông là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Thái học sinh cuối thời Trần.
Ông sớm đã nổi tiếng về tài văn chương, kinh sử cùng binh thư thao lược đều am hiểu. Năm 20 tuổi (1400), Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan cho nhà Hồ.
Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta. Vua tôi triều Hồ bị bắt đưa về Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc cha. Nghe lời cha khuyên, ông trở
71
về, nhưng bị quân Minh bắt giữ ở thành Đông Quan. Thoát khỏi tay giặc, ông tìm đường vào Lam Sơn (Thanh Hóa) để phò tá Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa.
Nguyễn Trãi là một trong những người tham dự Hội thề Lũng Nhai năm 1416, là người viết Bình Ngô sách dâng lên Lê Lợi, trong đó xác định rõ mục tiêu và phương hướng của cuộc khởi nghĩa. Khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, ông không những sát cánh với chủ tướng Lê Lợi để bàn mưu tính kế mà còn trực tiếp viết thư gửi tướng tá nhà Minh, đấu trí với chúng, vận động chúng quy hàng. Ông trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa bên cạnh lãnh tụ tối cao Lê Lợi.
Tháng 4/1428, nhà Hậu Lê được dựng lên sau khi quét sạch quân giặc. Nguyễn Trãi trở thành khai quốc công thần và là một trong các trụ cột của triều đình. Sau một thời gian làm quan, ông xin trí sĩ, chọn đất Côn Sơn (Hải Dương) làm nơi ở ẩn. Đó là vào những năm 1438-1440.
Năm 1440, Hoàng đế Lê Thái Tông mời ông về triều và giao cho nhiều chức vụ quan trọng. Mọi việc đang tốt đẹp thì xảy ra chuyện Lê Thái Tông đột ngột băng hà khi tuần du qua Lệ Chi Viên (Bắc Ninh). Nhân cơ hội này, bọn gian thần đã vu cho Nguyễn Trãi chủ mưu giết vua rồi khép ông vào trọng tội phải tru di ba họ. Nguyễn Trãi cùng gia quyến và họ hàng thân thích bị xử tử vào ngày 19/9/1442.
Nỗi oan ấy, mãi đến năm 1464, Hoàng đế Lê Thánh Tông mới hóa giải và bổ dụng người con còn sống sót của Nguyễn Trãi làm quan.
Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc có công giải phóng đất nước, thành lập vương triều Hậu Lê. Ông luôn quan niệm “dân là gốc”, mọi sự thành bại của đất
72
nước đều xuất phát từ việc người cầm quyền được dân ủng hộ hay đánh mất lòng dân.
Ông còn là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà văn hóa, nhà văn và nhà thơ kiệt xuất. Ông để lại cho đời nhiều danh tác đó là: Bình Ngô đại cáo - được xem như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của đất nước (sau bài thơ Nam quốc sơn hà thời Lý); Quân trung từ mệnh tập - tập hợp các văn kiện đấu tranh ngoại giao của ông thời Lam Sơn khởi nghĩa; Lam Sơn thực lục - công trình sử học đầu tiên ghi chép một cách hệ thống về quá trình diễn biến và thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn; Dư địa chí - công trình ghi chép tương đối đầy đủ về địa lý và sản vật của đất nước đương thời; là các tập thơ Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập cùng một loạt sáng tác văn học khác... Công lao và tài đức của ông mãi lưu danh trong sử sách, được hậu thế nể trọng và đánh giá rất cao.
Năm 1980, tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục (UNESCO) của Liên hợp quốc đã kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi, xếp ông vào hàng các danh nhân văn hóa lừng danh của thế giới. Sự tôn vinh đó là xứng đáng với các đóng góp to lớn của ông cho Nhân dân, đất nước Việt Nam cùng sự lan tỏa các giá trị văn hóa, tư tưởng của ông trên phạm vi toàn nhân loại.
5. Vì sao Lê Thánh Tông được xem là bậc minh quân sáng giá nhất trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam?
Lê Thánh Tông là hoàng đế thứ 5 của nhà Lê sơ. Ông tên thật Lê Tư Thành, sinh năm 1442, mất năm 1497.
73
Ông là hoàng tử thứ tư của Hoàng đế Lê Thái Tông, mẹ là Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Giao. Ông lên ngôi năm 1460. Trong thời gian nắm quyền, ông sử dụng hai niên hiệu là Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497).
Lê Thánh Tông là bậc minh quân hiếm có trong lịch sử đất nước ta. Cần mẫn chăm lo việc nước đến cuối đời, ông đã có những đóng góp rất quan trọng cho nước nhà. Có thể khái quát về những đóng góp của ông như sau:
- Củng cố, tăng cường chế độ quân chủ tập quyền. Lê Thánh Tông bãi bỏ chức tể tướng, tập trung quyền lực vào tay nhà vua. Hệ thống quan lại được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn và hiệu quả, có sự liên kết và ràng buộc nhau giữa các chức vụ nhằm tránh sự lạm quyền cũng như tình trạng tham nhũng. Ông đẩy mạnh tuyển chọn nhân tài thông qua chế độ thi cử Nho học. Chế độ quân chủ tập quyền nước ta đến đây đã chuyển hẳn sang hình thái quân chủ quan liêu
thay vì quân chủ tôn thất như dưới thời Trần. - Giữ vững chủ quyền đất nước, củng cố nền thống nhất quốc gia và mở mang bờ cõi.
Đối với biên giới phía tây và phía nam, Lê Thánh Tông luôn kiên quyết, sẵn sàng trừng trị đích đáng các hành vi quấy nhiễu, xâm lấn của các nước láng giềng (Ai Lao, Bồn Man, Chămpa). Đối với biên giới phía bắc, Lê Thánh Tông vừa cho thiết lập hệ thống phòng thủ biên giới kiên cố, vừa kiên quyết chống lại những hành động quấy nhiễu biên giới của quân Minh (vào các năm 1467, 1480...).
74
Năm 1467, Lê Thánh Tông đã hạ lệnh vẽ bản đồ đất nước. Trên cơ sở đó, năm 1490, bản đồ Hồng Đức ra đời, xác định rõ lãnh thổ và cương giới quốc gia.
Năm 1471, Lê Thánh Tông cầm quân chinh phạt Chămpa, mở rộng lãnh thổ Đại Việt về phía nam. - Thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp, đem lại cuộc sống ấm no cho Nhân dân.
Năm 1466, Lê Thánh Tông quy định quan lại thuộc 12 đạo trong nước phải đôn đốc việc đắp đê, nếu để đê vỡ phải chịu tội và bồi thường thiệt hại cho nông dân.
Năm 1481, Lê Thánh Tông ban chiếu lập đồn điền, nêu rõ mục đích lập đồn điền là nhằm mở rộng diện tích sản xuất và thúc đẩy canh tác nông nghiệp. Năm 1485, Lê Thánh Tông ra lệnh cho các địa phương trong nước phải đôn đốc Nhân dân cày cấy hết diện tích, không được để bỏ hoang ruộng đất được giao gây lãng phí. Chính sách “ngụ binh ư nông” được nghiêm chỉnh thực hiện...
Lê Thánh Tông chú trọng phát triển nông nghiệp đã thúc đẩy sức sản xuất xã hội. Mùa màng nhiều năm bội thu (các năm 1491, 1493, 1494...), mang đến cuộc sống ấm no, ổn định và sung túc cho Nhân dân.
- Phục hưng văn hóa nước nhà, đưa nền văn hóa Đại Việt đạt đến đỉnh cao với những thành tựu rực rỡ. Ông luôn khuyến khích hoạt động sáng tác văn học, thúc đẩy sự phát triển văn học cả chữ Hán, chữ Nôm và nền văn học dân gian. Bản thân Lê Thánh Tông cũng để lại một di sản thơ văn phong phú, đồ sộ với các tác phẩm như Quỳnh uyển cửu ca, Chinh tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú (chữ Hán), Hồng Đức quốc âm thi tập (chữ Nôm)... Đặc biệt, ông còn là chủ súy
75
Hội Tao đàn - một tổ chức sáng tác, phê bình văn học với 28 thành viên, được xưng tụng là “Tao đàn nhị thập bát tú”.
Lê Thánh Tông rất chú trọng phát triển nền giáo dục và thi cử của đất nước. “Khoa cử các đời, thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau càng không thể theo kịp”1.
Ngoài ra, ông còn cho mở rộng Văn Miếu và nhà Thái Học (1483), dựng bia đá khắc tên người đỗ đạt (1484)... nhằm khuyến khích người tài dốc tâm, dốc sức học tập để phò vua giúp nước.
Suốt 38 năm trị nước, Lê Thánh Tông đã đưa nhà Lê nói riêng và nước Đại Việt nói chung phát triển cực thịnh. Các sử thần triều Lê đã đánh giá vắn tắt, nhưng rất xác đáng về vị hoàng đế lừng danh của vương triều rằng: “Vua sáng lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được”2.
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Bản dịch Viện sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, t.2, tr.18. 2. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.2, tr.387.
76
Chương III
VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ XVI
ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
I. VIỆT NAM THỜI MẠC VÀ CHIẾN TRANH NAM - BẮC TRIỀU
1. Đất nước dưới thời Mạc có gì mới? Sau khi Hoàng đế Lê Thánh Tông mất (1497), triều Lê sơ duy trì sự thịnh vượng thêm một thời gian dưới thời Lê Hiến Tông (1497-1504) và Lê Túc Tông (1504) rồi dần suy yếu. Các hoàng đế sau Lê Túc Tông bỏ bê việc nước, mặc sức ăn chơi, trở thành các “vua quỷ”, “vua lợn” trong mắt người đời.
Giữa lúc triều Lê sơ đang lụn bại, thì một nhân vật của thời cuộc là Mạc Đăng Dung xuất hiện. Mạc Đăng Dung (1483-1541) quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay thuộc Hải Phòng), là cháu 7 đời của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi thời Trần. Đến đời Mạc Đăng Dung, gia cảnh sa sút, ông phải làm nghề đánh cá mưu sinh. Là người có sức khỏe phi thường và mưu trí, trong một lần Hoàng đế Lê Uy Mục tuyển dũng sĩ, Mạc Đăng Dung đã ứng thí và được tuyển làm đô lực sĩ xuất thân. Bằng tài năng và sự khôn khéo, Mạc Đăng Dung thăng tiến rất nhanh, giữ chức Thái sư An Hưng Vương, trở thành một đại thần và quyền thần của nhà Lê.
77
Tháng 6/1527, Mạc Đăng Dung bức ép hoàng đế nhà Lê là Lê Cung Hoàng trao lại ngai vàng cho mình. Mạc Đăng Dung lên ngôi (Mạc Thái Tổ), nhà Mạc được dựng lên từ đó. Nhà Lê tạm thời mất vị trí trên vũ đài chính trị Đại Việt.
Mạc Thái Tổ sau khi lên ngôi, đã tích cực khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân sau nhiều năm điêu đứng cuối thời Lê sơ. Ông ở ngôi được hai năm thì giao lại cho con để làm Thái Thượng hoàng, lui về Dương Kinh (Hải Phòng ngày nay), thực chất là nhằm trấn giữ từ xa cho kinh thành Thăng Long.
Con ông là Mạc Thái Tông (cầm quyền từ năm 1530 đến năm 1540) đã ra sức xây dựng đất nước và đạt những thành tựu đáng kể.
Lúc bấy giờ “trúng mùa luôn, thóc rẻ gạo hơn, thuế nhẹ dịch ít, ai nấy no đủ thư thái, lại thêm tư pháp nghiêm minh, quan lại thanh cần”1.
“Những người đi buôn bán chỉ đi tay không, không phải đem khí giới tự vệ, trong khoảng mấy năm, trộm cướp biệt tăm, súc vật chăn nuôi, tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi tháng một lần kiểm điểm thôi... Mấy năm liền được mùa, nhân dân bốn trấn đều được yên ổn”2.
Sau khi Mạc Thái Tông qua đời, cuộc chiến Nam - Bắc triều (sẽ nói rõ ở phần sau) trở nên quyết liệt. Các
1. Lê triều hưng quốc công nghiệp (bản chữ Hán, sách viết tay). Dẫn lại từ Viện sử học: Lịch sử Việt Nam, tập 3 (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017, tr.448.
2. Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, Văn Tân hiệu đính và chú thích, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007, tr.342.
78