🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Điều Cần Biết Về Ký Kết Và Thực Hiện Hợp Đồng Dân Sự
Ebooks
Nhóm Zalo
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
PGS. TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng
PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI
TS. NGUYỄN AN TIÊM
NGUYỄN VŨ THANH HẢO
TẬP THỂ TÁC GIẢ
TS. VŨ THỊ HỒNG YẾN ሺChủ biênሻ TS. NGUYỄN MINH OANH TS. VƯƠNG THANH THÚY ThS. KIỀU THỊ THÙY LINH ThS. NGUYỄN VĂN HỢI
ThS. LÊ THỊ GIANG
ThS. CHU THỊ LAM GIANG ThS. HOÀNG NGỌC HƯNG ThS. LÊ THỊ HẢI YẾN
ThS. NGUYỄN THỊ LONG
ThS. NGUYỄN HOÀNG LONG ThS. TRẦN NGỌC HIỆP
ThS. HOÀNG THỊ LOAN
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Hợp đồng dân sự là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định quyền, nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Việc giao kết hợp đồng dân sự phù hợp với các quy định pháp luật sẽ hạn chế được những rủi ro pháp lý phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, đồng thời cũng rút ngắn được thời gian giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
Nhằm giúp bạn đọc có được những kiến thức, kỹ năng pháp lý về hợp đồng dân sự để tham gia các giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu hằng ngày bảo đảm đúng pháp luật, tránh được những rủi ro pháp lý không đáng có, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Những điều cần biết về ký kết và thực hiện hợp đồng dân sự của tập thể tác giả là giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội do TS. Vũ Thị Hồng Yến làm chủ biên. Nội dung cuốn sách được biên soạn dưới dạng hỏi và trả lời nhằm giúp bạn đọc nắm được những vấn đề chung của hợp đồng dân sự và cách thức ký kết, thực hiện các hợp đồng dân sự thông dụng được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015. Những nội dung đó được thể hiện qua những tình huống thường xuất
5
phát từ các vấn đề dễ nảy sinh trong cuộc sống. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Th¸ng 7 n¨m 2016
Nhµ xuÊt b¶n ChÝnh trÞ quèc gia Sù thËt6
Phần 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
I. QUÁ TRÌNH KÝ KẾT HỢP ĐỒNG, ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG, CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG, THỜI ĐIỂM VÀ ĐỊA ĐIỂM GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
Câu hỏi 1: Hợp đồng dân sự được hiểu như thế nào? Trả lời:
Hợp đồng dân sự là sự tự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Quy trình xác lập hợp đồng được tiến hành qua hai giai đoạn: Giai đoạn đề nghị giao kết hợp đồng (thương thảo) và giai đoạn chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Câu hỏi 2: Đề nghị giao kết hợp đồng là gì? Cách thức nhận diện đề nghị giao kết hợp đồng?
Trả lời:
Theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật dân sự năm 2015, thì đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị). Có 3 dấu hiệu nhận biết đề nghị giao kết hợp đồng:
7
+ Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng: Người đề nghị muốn xác lập hợp đồng gì, đối tượng của hợp đồng muốn giao kết là tài sản hay công việc...
+ Đề nghị giao kết hợp đồng phải hướng đến một bên chủ thể đã được xác định: Chủ thể tiếp nhận này trước đây Bộ luật dân sự năm 2005 quy định là chủ thể cụ thể, nhưng Bộ luật dân sự năm 2015 quy định người nhận được lời đề nghị là “bên đã được xác định hoặc công chúng”. Như vậy, chủ thể tiếp nhận lời đề nghị phải được xác định cụ thể ngay trong nội dung lời đề nghị.
+ Bên đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu tính ràng buộc đối với lời đề nghị: Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh (khoản 2 Bộ luật dân sự năm 2015).
Câu hỏi 3: Bên đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút, thay đổi, hoặc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng không?
Trả lời:
Theo quy định của Điều 389 Bộ luật dân sự năm 2015: Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau đây: (1) thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị nếu đến sau thời điểm này thì người
8
đưa ra lời đề nghị có thể lựa chọn xử sự hủy lời đề nghị giao kết; (2) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.
Điều 390 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu thỏa mãn hai điều kiện: (1) đã nêu rõ quyền này trong đề nghị và (2) bên được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước khi người này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Câu hỏi 4: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là gì? Các dấu hiệu nhận diện việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng?
Trả lời:
Theo quy định của các Điều 392, 393, 394 Bộ luật dân sự năm 2015, thì chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên (Điều 393 Bộ luật dân sự năm 2015).
- Để nhận biết chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng căn cứ vào ba dấu hiệu sau:
+ Bên được đề nghị chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng (theo khoản 1 Điều 393 Bộ luật dân sự năm 2015).
+ Việc trả lời được thực hiện trong thời hạn trả lời
9
đề nghị giao kết hợp đồng (theo quy định tại khoản 1 Điều 394 Bộ luật dân sự năm 2015).
+ Bên được đề nghị không sửa đổi, bổ sung, thay thế hay nêu điều kiện mới cho nội dung lời đề nghị (theo Điều 392 Bộ luật dân sự năm 2015).
Nếu vi phạm một trong ba dấu hiệu trên được coi là lời đề nghị giao kết hợp đồng mới.
Câu hỏi 5: Thời điểm giao kết hợp đồng là gì? Ý nghĩa của việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng?
Trả lời:
Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản. Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều 400 Bộ luật dân sự năm 2015.
Ý nghĩa của việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng:
-Xác định được thời điểm hợp đồng có hiệu lực. Thông thường, thời điểm giao kết chính là thời điểm hợp đồng phát sinh hiệu lực, thời điểm quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng phát sinh (Điều 401 Bộ luật dân
10
sự năm 2015).
- Là căn cứ xác định giá, lãi suất cơ bản trong các hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng vay tài sản...
Câu hỏi 6: A đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng mua bán nguyên vật liệu với B, thời gian chờ B trả lời có ký kết hay không sẽ do A định đoạt có đúng không?
Trả lời:
Thời hạn này có thể do A và B thỏa thuận hoặc được xác định theo quy định của pháp luật là “một thời hạn hợp lý” theo đoạn 2 khoản 1 Điều 394 Bộ luật dân sự năm 2015.
Câu hỏi 7: A nhắn tin cho B thể hiện mong muốn bán nhà và được B đồng ý, nhưng hợp đồng chưa kịp xác lập bằng văn bản thì A bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Vậy, nội dung tin nhắn của A và B có giá trị pháp lý không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 395 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: trường hợp bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị.
Câu hỏi 8: Hợp đồng có phải được ưu tiên ký kết tại nơi cư trú hoặc trụ sở của bên đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng?
11
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 399 Bộ luật dân sự năm 2015 thì địa điểm giao kết hợp đồng do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng.
Câu hỏi 9: Hợp đồng dân sự phát sinh luôn hiệu lực tại thời điểm giao kết hay không?
Trả lời:
Không phải mọi trường hợp đều như vậy, vì theo quy định tại khoản 1 Điều 401 Bộ luật dân sự năm 2015 còn có một số trường hợp “các bên có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”. Ví dụ: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất luôn phải lập bằng văn bản và chỉ phát sinh hiệu lực khi hợp đồng được đăng ký.
Câu hỏi 10: Anh Nguyễn Văn H gửi một văn bản tới cho anh Trần Văn A với mục đích muốn bán đậu cho anh A. Nội dung văn bản như sau: số lượng bán: 50 tấn đậu; giá 8.000 đồng/kg; phương thức giao hàng: giao hàng làm ba đợt. Mỗi đợt giao cách nhau 15 ngày; phương thức thanh toán: tiền mặt hoặc chuyển khoản qua ngân hàng B. Ngoài ra, trong văn bản còn nêu rõ: kể từ ngày anh A nhận được văn bản đề nghị của anh H thì phải trả lời trong vòng 30 ngày. 5 ngày sau khi nhận được văn bản của anh H, anh A ký kết hợp đồng thuê kho bãi với anh Nguyễn Văn L trong 15 ngày với giá thuê là 700.000 đồng/ngày nhằm mục đích để chứa số đậu mà anh định mua của anh H. 10 ngày sau khi nhận được văn bản của anh H thì anh A có gửi văn bản tới anh H về việc đồng ý với đề nghị mà anh H đã đưa
12
ra kèm thêm yêu cầu anh H giảm giá đậu xuống còn 5.000 đồng/kg. Tuy nhiên, lúc đó anh H mới cho anh A biết là anh đã bán số đậu nói trên cho người khác vì anh đang cần vốn gấp. Vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, văn bản anh H gửi cho anh A có phải là một đề nghị giao kết hợp đồng không? Giải thích rõ tại sao? Văn bản anh A gửi cho anh H có phải là một trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng không? Giải thích rõ tại sao? Anh A có quyền yêu cầu anh H phải bồi thường khoản tiền mà anh đã bỏ ra để thuê kho bãi của anh L hay không? Tại sao?
Trả lời:
Văn bản anh H gửi cho anh A là một đề nghị giao kết hợp đồng vì thỏa mãn các yếu tố của một lời đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 386 Bộ luật dân sự năm 2015: Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng.
Dấu hiệu nhận biết đề nghị giao kết hợp đồng của anh H, đó là:
+ “Văn bản của anh H” gửi anh A đã thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng: Người đề nghị muốn xác lập hợp đồng mua bán tài sản, đối tượng của hợp đồng muốn giao kết là đậu, số lượng bán: 50 tấn đậu; giá 8.000 đồng/kg.
+ Đề nghị giao kết hợp đồng của anh H đã hướng đến một bên chủ thể đã được xác định. Trong tình huống trên, chủ thể tiếp nhận lời đề nghị đã được xác định cụ thể ngay trong nội dung lời đề nghị, người được đề nghị chính là anh A.
13
+ Bên đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu tính ràng buộc đối với lời đề nghị: Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh.
- Phương thức: Đề nghị giao kết hợp đồng mà anh H sử dụng là đề nghị gián tiếp thông qua hành vi gửi “văn bản tới anh A”.
Văn bản anh A gửi cho anh H không phải là trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Vì theo quy định tại khoản 1 Điều 393 Bộ luật dân sự năm 2015 thì chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng “là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị”.
Do vậy, việc trả lời của anh A với anh H phải thỏa mãn các dấu hiệu sau mới được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
+ Anh A là bên được đề nghị chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng.
+ Việc trả lời được thực hiện trong thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng.
+ Bên được đề nghị không sửa đổi, bổ sung, thay thế hay nêu điều kiện mới cho nội dung lời đề nghị. Tuy nhiên, câu trả lời của anh A đã vi phạm ngay dấu hiệu đầu tiên đó là không chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị mà sửa đổi nội dung về giá của tài sản. Trong trường hợp này thì coi đây là một lời đề nghị giao kết hợp đồng mới của anh A gửi cho anh H theo Điều 386 Bộ luật dân sự năm 2015; khi sửa đổi nội dung lời đề nghị ban đầu
14
anh A là người phải chịu tính ràng buộc của lời đề nghị giao kết hợp đồng mới.
Anh A không có quyền yêu cầu anh H bồi thường thiệt hại phát sinh cho mình. Vì theo khoản 2 Điều 386 Bộ luật dân sự năm 2015: “Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”. Quy định này được hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh của bên đề nghị được đặt ra khi bên được đề nghị chờ câu trả lời chấp nhận đề nghị và bên được đề nghị thể hiện rõ ý định đồng ý giao kết hợp đồng. Còn trong tình huống này, văn bản anh A gửi cho anh H không phải là một trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, mà thực chất là lời đề nghị giao kết hợp đồng mới theo Điều 392 Bộ luật dân sự năm 2015: “Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới ” nên anh H không phải bồi thường thiệt hại cho anh A.
Câu hỏi 11: Gia đình anh L có một con gà chọi rất quý giá được nuôi từ nhiều tháng nay. Chị Q là người buôn gà chọi chuyên nghiệp, được người dân trong vùng cho biết về con gà chọi quý hiếm của anh L. Chị Q đã đến tận nhà anh L để xem gà, nhận thấy gà nhà anh L rất đẹp, oai phong và có thể bán được giá cao trên thị trường nên chị thỏa thuận với anh L để mua con gà chọi với giá 3 triệu đồng. Chị Q viết giấy mua bán và ký vào cuối tờ giấy, còn anh L vì muốn suy nghĩ thêm nên hôm sau anh mới ký. Chị
15
Q giao cho anh L 1 triệu đồng đặt cọc trước và hẹn anh 5 ngày sau sẽ quay lại để bắt gà. Tuy nhiên, 3 ngày sau chị Q tử vong do bị tai nạn giao thông, nên không về bắt gà được như đúng thỏa thuận. Xin cho biết việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong tình huống này sẽ được giải quyết theo Bộ luật dân sự năm 2015 như thế nào và hướng xử lý như thế nào?
Trả lời:
- Các thỏa thuận về mua bán gà được chị Q viết vào giấy nên hình thức mua bán là bằng văn bản. Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán gà là thời điểm anh L ký vào văn bản theo quy định tại khoản 4 Điều 400 Bộ luật dân sự năm 2015: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản”. Do anh L và chị Q không có thỏa thuận gì khác, pháp luật cũng không quy định hợp đồng này phải công chứng, đăng ký nên theo quy định tại khoản 1 Điều 401 Bộ luật dân sự năm 2015: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”. Như vậy, Hợp đồng mua bán gà của anh L và chị Q sẽ có hiệu lực từ ngày anh L (người sau cùng) ký vào hợp đồng mua bán.
- Theo quy định của Điều 395 Bộ luật dân sự năm 2015: “Trường hợp bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị,
16
trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị”. Trong trường hợp này chị Q là người đề nghị giao kết hợp đồng, nhưng do chị Q chết sau khi anh L là bên được đề nghị giao kết hợp đồng đã trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết của chị Q vẫn có hiệu lực. Do nội dung của hợp đồng giữa chị Q và anh L không gắn liền với nhân thân của chị Q, nên nghĩa vụ và quyền lợi phát sinh từ hợp đồng sẽ được chuyển giao cho những người thừa kế theo di chúc (nếu có) hoặc người thừa kế theo pháp luật của chị Q, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế phát sinh từ hợp đồng mua bán nói trên được thực hiện theo pháp luật về thừa kế quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015.
Câu hỏi 12: Do cần tiền chữa bệnh cho con gái nên anh A đăng thông báo bán nhà dán trước cửa nhà và đăng tin này trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh. Anh B là độc giả của tờ báo nói trên, đọc được thông báo của anh A, anh B đã liên lạc theo số điện thoại mà anh A cung cấp. Mặc dù chưa gặp mặt nhưng hai bên đã thỏa thuận về địa điểm ký kết hợp đồng, đồng thuận về giá bán và các chi phí phát sinh trong quá trình chuyển nhượng sẽ thuộc về bên mua là anh B. Tuy nhiên, sau đó 3 ngày, anh A nhận được thư xin lỗi của bệnh viện với nội dung đã gửi kết quả xét nghiệm nhầm, con gái của anh A không mắc bệnh hiểm nghèo. Do không còn nhu cầu khẩn thiết phải bán nhà, anh A gửi thông báo rút lại lời đề nghị giao kết hợp đồng với anh B, nhưng anh B không đồng ý, anh B cho rằng hợp đồng giữa anh A và anh B đã phát sinh hiệu lực và anh A không được rút lại lời đề nghị nữa. Xin cho biết, căn cứ Bộ luật dân sự năm 2015 anh A có thể rút lại đề nghị bán nhà
17
của mình không? Tại sao? Thỏa thuận của anh A và anh B đã có giá trị pháp lý chưa? Nếu anh B cho rằng anh A đã vi phạm thỏa thuận và buộc anh A phải bồi thường thiệt hại thì anh A có phải bồi thường cho anh B không? Tại sao? Anh A có thể rút lại đề nghị bán nhà của mình không? Tại sao?
Trả lời:
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, anh A không thể rút lại lời đề nghị vì khoản 1 Điều 389 quy định: “Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp sau đây:
a) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh”.
Việc thông báo rút đề nghị của anh A đã thực hiện sau khi anh B nhận được đề nghị giao kết hợp đồng. Anh A cũng không thể hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng vì theo quy định tại Điều 390 Bộ luật dân sự năm 2015: “Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ quyền này trong đề nghị và bên được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước khi người này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”. Trên thực tế, dù anh A có nêu rõ điều kiện hủy bỏ lời đề nghị trong thông báo rao bán nhà thì anh A cũng không thể hủy bỏ lời đề nghị đó được. Vì theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, anh A chỉ được hủy bỏ lời đề nghị nếu đồng thời thỏa mãn hai điều kiện
18
cần và đủ bao gồm: (1) trong thông báo rao bán - đề nghị giao kết anh A phải nói rõ điều kiện hủy bỏ; (2) anh B nhận được thông báo về việc hủy bỏ trước khi anh B gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Trường hợp này điều kiện thứ hai đã không thỏa mãn do anh A đã nhận được câu trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của anh B, sau đó mới thông báo rút đề nghị giao kết. Vì vậy, dù là rút hay hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng anh A đều không thể thực hiện được.
Để trả lời câu hỏi thỏa thuận của anh A và B đã có giá trị pháp lý chưa? Nếu anh B cho rằng anh A đã vi phạm thỏa thuận và buộc anh B phải bồi thường thiệt hại thì anh A có phải bồi thường cho anh B không? Tại sao?
Thời điểm anh A nhận được câu trả lời chấp nhận toàn bộ nội dung lời đề nghị giao kết hợp đồng của anh B là thời điểm giao kết hợp đồng theo khoản 3 Điều 394 Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 400 Bộ luật dân sự năm 2015. Quy định tại khoản 1 Điều 401 Bộ luật dân sự năm 2015: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 122 Luật nhà ở năm 2014 quy định hợp đồng mua bán nhà ở giữa các cá nhân phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng. Mặc dù, anh A không thể hủy bỏ lời đề nghị giao kết hợp đồng, nhưng hợp đồng mua bán giữa anh A và anh B chưa phát sinh hiệu lực, do chưa được xác lập bằng văn bản và chưa được công chứng. Nếu anh A kiên quyết không hoàn thiện hình thức của hợp đồng để không phải chuyển giao nhà cho anh B, khiến thỏa
19
thuận của anh A và anh B vô hiệu thì anh A có thể phải bồi thường thiệt hại nếu anh B chứng minh có thiệt hại xảy ra theo quy định tại khoản 4 Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015: “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường” khi giao dịch dân sự vô hiệu. Như vậy, trong trường hợp này, anh A có thể phải bồi thường thiệt hại.
Câu hỏi 13: Khi đọc tin nhắn điện thoại, anh A nhận được tin nhắn số điện thoại lạ thông báo bán sim số đẹp, nội dung tin nhắn có thông báo luôn giá cả của từng đầu số. Vốn là người duy tâm, anh A nhắn tin lại đồng ý mua nhưng chủ thuê bao số điện thoại không hồi âm, mặc dù chưa rõ kết quả nhưng anh A ngay lập tức giao bán số điện thoại đó trên trang facebook cá nhân và nhận được sự đồng ý giao kết hợp đồng của chị C (vì số điện thoại trùng với ngày, tháng, năm sinh của chị C). Sau khi nhận tiền của chị C, anh A mới gọi điện cho số điện thoại đã nhắn tin với mình và được biết người đó đã bán cho người khác số sim mà anh A đã chọn. Quá tức giận, anh A khởi kiện người bán sim vì cho rằng người này đã vi phạm và phải bồi thường thiệt hại cho anh A. Theo Bộ luật dân sự năm 2015, nhận định của anh A đúng hay sai?
Trả lời:
Nhận định của anh A là không có căn cứ. Do nội dung tin nhắn của người bán sim nếu được gửi đến nhiều người tại cùng một thời điểm thì nội dung tin nhắn đó không được coi là lời đề nghị giao kết hợp đồng do không hướng đến chủ thể xác định, nhóm cộng đồng người xác định. Vì vậy, người nhắn tin cho anh A không phải chịu sự ràng buộc đối với lời chào mời mua sim điện thoại của mình. Tin nhắn của người bán sim chỉ
20
được coi là đề nghị giao kết hợp đồng khi thỏa mãn các dấu hiệu quy định tại khoản 1 Điều 389 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, anh A sẽ không thể yêu cầu người bán sim phải bồi thường thiệt hại cho mình.
Câu hỏi 14: Nhà chị A có một con trâu cày rất khỏe, chị B là hàng xóm của chị A nhiều lần qua hỏi mua nhưng chị A không có ý định bán. Sau đó, do cần tiền, chị A gọi chị B sang thỏa thuận sẽ bán trâu cho chị B với giá 50.000.000 đồng, chị B đồng ý mua nhưng thỏa thuận hạ giá xuống 45.000.000 đồng, hẹn 05 ngày sau chị B mới giao đủ tiền và nhận trâu. Trong thời gian 05 ngày, chồng của chị A phải vào viện cấp cứu, vì cần tiền mặt gấp nên khi chị C ngỏ ý muốn mua với giá 41.000.000 đồng giao tiền ngay, chị A đã đồng ý bán cho chị C. Chị B tức giận khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc chị A phải bán trâu cho mình và bồi thường thiệt hại. Xin cho biết, căn cứ Bộ luật dân sự năm 2015, chị A có phải bồi thường thiệt hại cho chị B không? Tại sao?
Trả lời:
Trong trường hợp này, mặc dù chị A là người bày tỏ mong muốn giao kết hợp đồng với chị B trước. Nhưng trong quá trình tiếp nhận và trả lời nội dung lời đề nghị giao kết hợp đồng của chị A, chị B đã thay đổi nội dung về giá trong lời đề nghị giao kết hợp đồng ban đầu. Do
đó, theo quy định của Điều 392 Bộ luật dân sự năm 2015: “Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới” và chính chị B mới phải chịu sự ràng buộc của lời đề nghị giao kết hợp đồng mà không phải là chị A. Tuy nhiên, tại thời điểm chị A
21
đồng ý bán trâu cho chị B, hợp đồng mua bán trâu của chị A và chị B đã phát sinh hiệu lực và vì vậy chị A sẽ phải bồi thường cho chị B nếu bán trâu cho chị C, do vi phạm hợp đồng mua bán, và chị B phải chứng minh được có thiệt hại xảy ra.
II. CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG, ĐIỀU KIỆN VỀ CHỦ THỂ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG, ĐIỀU KIỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CÁC BÊN KHI KÝ KẾT HỢP ĐỒNG, ĐIỀU KIỆN VỀ MỤC ĐÍCH VÀ NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG, ĐIỀU KIỆN VỀ HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG
Câu hỏi 15: Xin cho biết các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự được Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều 116 Bộ luật dân sự năm 2015: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Điều luật này đã kế thừa toàn bộ nội dung của Điều 121 Bộ luật dân sự năm 2005. Xét theo quy định từ điều luật, hợp đồng dân sự trong mọi trường hợp được coi là giao dịch dân sự. Do vậy, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cũng chính là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, những quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự sẽ được áp dụng khi giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự.
Câu hỏi 16: Xin cho biết điều kiện về chủ thể của hợp đồng dân sự được Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như thế nào?
22
Trả lời:
- Điều kiện về chủ thể ký kết hợp đồng: Cá nhân, tổ chức muốn tham gia một quan hệ pháp luật dân sự thì cần có các điều kiện nhất định. Điểm a khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định rằng chủ thể xác lập và thực hiện giao dịch dân sự phải là chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, có năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.
Câu hỏi 17: Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng X được thành lập căn cứ theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, mã số doanh nghiệp là 0123456789, người đại diện theo pháp luật là ông Vũ Ngọc X - Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty. Trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Công ty X có đăng ký các loại hình kinh doanh: xây dựng dân dụng, cầu đường bộ, kinh doanh vật liệu xây dựng. Trong quá trình hoạt động, Công ty X do ông Vũ Ngọc X đại diện đã nhập số lượng lớn dược phẩm từ Ấn Độ và các thực phẩm chức năng để kinh doanh trên thị trường. Công ty X có ký hợp đồng bán một lô hàng là sản phẩm chức năng TOF có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh gan cho Công ty cổ phần Dược phẩm A, giá trị lô hàng là 500 triệu đồng. Sau khi thanh toán, Công ty cổ phần A phát hiện ra nguồn gốc xuất xứ của lô hàng không rõ ràng nên đã yêu cầu Công ty X phải bồi thường. Xin hỏi, theo Bộ luật dân sự năm 2015 thì Công ty X có được phép xác lập và thực hiện hợp đồng mua bán này không?
Trả lời:
- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015: giao dịch dân sự có hiệu lực khi chủ thể có
23
năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.
- Căn cứ khoản 1 Điều 86 Bộ luật dân sự năm 2015: Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.
Dựa vào những căn cứ pháp lý nêu trên, đối chiếu với tình huống thực tế cho thấy, việc Công ty X thực hiện việc xác lập và thực hiện hợp đồng mua bán dược phẩm chức năng là không phù hợp với lĩnh vực ngành nghề hoạt động được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Năng lực pháp luật của pháp nhân thương mại thành lập theo thủ tục cho phép được ghi nhận cụ thể trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, việc xác lập hợp đồng không phù hợp với năng lực pháp luật của pháp nhân là trái pháp luật.
Câu hỏi 18: Ông Nguyễn Văn S và bà Ngô Thị T là vợ chồng, kết hôn hợp pháp và có một người con chung là Nguyễn Văn C. Khi C được 5 tuổi, ông S và bà T chẳng may qua đời trong một vụ tai nạn giao thông. C được hưởng thừa kế là một căn nhà 3 tầng trị giá 3 tỷ đồng và hiện đang sống cùng ông bà nội. Anh trai của ông Nguyễn Văn S là ông Nguyễn Văn H (bác ruột của C) muốn mua lại căn nhà mà C được hưởng thừa kế. Xin hỏi trong trường hợp này, theo Bộ luật dân sự năm 2015, C có được đứng tên trong hợp đồng mua bán nhà với ông Nguyễn Văn H không?
24
Trả lời:
- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015: giao dịch dân sự có hiệu lực khi chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015: giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
- Căn cứ vào các quy định tại khoản 2 Điều 136, điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 52, Điều 54 Bộ luật dân sự năm 2015.
Dựa vào các căn cứ pháp lý nêu trên, nhận thấy Nguyễn Văn C không thể tự mình xác lập hợp đồng mua bán nhà với ông Nguyễn Văn H, mà cần thông qua người giám hộ và trong trường hợp này là ông, bà nội của C.
Câu hỏi 19: Trần Vũ C năm nay 13 tuổi. Nhân dịp đầu năm mới, được mọi người cho tiền mừng tuổi, C sử dụng toàn bộ số tiền mừng tuổi trị giá 20 triệu đồng ra cửa hàng điện thoại di động để mua chiếc điện thoại Iphone 6. Anh V, chủ cửa hàng bán điện thoại di động nhận thấy C còn nhỏ tuổi, nhận thức và hiểu biết hạn chế nhưng vẫn cố ý bán chiếc điện thoại Iphone 6 đã qua sử dụng với mức giá tương đương điện thoại mới chính hãng là 18 triệu đồng. Bố mẹ của C sau khi biết chuyện đã tới gặp anh V để trả lại điện thoại và yêu cầu anh V hoàn trả lại số tiền mà C đã thanh toán sau khi mua điện thoại. Xin hỏi, theo Bộ luật dân sự năm 2015, cháu C đã đủ điều kiện để xác lập, thực hiện hợp đồng mua bán tài sản với anh V
25
chưa?
Trả lời:
- Căn cứ khoản 3 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015: Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Dựa vào căn cứ pháp lý nêu trên, đối chiếu với tình huống thực tế, việc mua điện thoại di động trị giá 18 triệu đồng không phải là một giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi nên giao dịch này cháu C muốn xác lập và thực hiện cần phải có sự đồng ý của cha mẹ cháu C (là người đại diện theo pháp luật của C), dẫn đến hậu quả pháp lý là anh V phải trả lại tiền cho cháu C, cháu C trả lại điện thoại cho anh V.
Câu hỏi 20: Anh Nguyễn Hoàng H và chị Trần Lê C là hai vợ chồng, kết hôn hợp pháp và chung sống được 5 năm thì chị Trần Lê C mắc bệnh tâm thần, không thể nhận thức và làm chủ hành vi. Một hôm thấy chị C lang thang ngoài chợ, trên cổ có đeo một dây chuyền vàng giá trị, Chị Vũ Thị A là chủ cửa hàng bán tạp hóa gần đó đã đề nghị mua lại dây chuyền vàng với giá 100.000 đồng (mặc dù biết giá trị của sợi dây chuyền cao hơn nhiều lần). Anh H chồng chị C biết chuyện đã đến gặp chị A và yêu cầu trả lại chiếc dây chuyền. Trước đó, theo yêu cầu của anh H, căn cứ vào biên bản giám định pháp y tâm thần của Viện Giám định pháp y tâm thần Trung ương, Tòa án nhân dân quận D ra quyết định tuyên bố chị C bị mất năng lực hành vi dân sự. Anh Nguyễn Hoàng H được xác định là người giám hộ
26
cho chị C. Xin hỏi căn cứ Bộ luật dân sự năm 2015, chị C có đủ điều kiện để xác lập, thực hiện hợp đồng mua bán với chị A không?
Trả lời:
- Căn cứ khoản 1 Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015: khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
- Căn cứ khoản 2 Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015: giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
- Căn cứ khoản 1 Điều 53 Bộ luật dân sự năm 2015: trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.
Dựa vào các căn cứ pháp lý nêu trên, đối chiếu với tình huống này, chị C là người đã bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Chị C không được tự mình tham gia xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Mọi giao dịch dân sự liên quan đến lợi ích của chị C phải được thực hiện thông qua người giám hộ (người đại diện theo pháp luật) của chị là anh Nguyễn Hoàng H. Hậu quả pháp lý trong trường hợp này, đó là các bên phải trả cho nhau những gì đã nhận.
Câu hỏi 21: Xin cho biết điều kiện về ý chí chủ thể khi
27
ký kết hợp đồng được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 như thế nào?
Trả lời:
Cá nhân, tổ chức được tự định đoạt trong việc ký kết hợp đồng: tự định đoạt trong việc lựa chọn đối tác, nội dung hợp đồng, trách nhiệm dân sự khi vi phạm hợp đồng... Tuy vậy, quyền định đoạt của các chủ thể khi tham gia hợp đồng phải thỏa mãn được dấu hiệu quan trọng đó là sự tự nguyện của các bên. Điểm b khoản 1
Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định các chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện. Tự nguyện được hiểu là sự thống nhất giữa mong muốn, nguyện vọng đích thực bên trong của chủ thể với hình thức thể hiện ra bên ngoài của giao dịch và không bị lừa dối, ép buộc. Những hợp đồng được ký kết mà thiếu sự tự nguyện đều được coi là không đủ điều kiện có hiệu lực, chẳng hạn như: hợp đồng ký kết do giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, người xác lập thực hiện giao kết hợp đồng trong trạng thái không thể nhận thức và làm chủ hành vi...
Câu hỏi 22: Trịnh Văn H là chủ sở hữu chiếc xe ô tô Camry, trị giá 1,2 tỷ đồng. Trước đó, anh H đang có khoản nợ 800 triệu đồng của anh Ngô Công D, là bạn thân của anh H. Do hai người là bạn thân, nên mặc dù khoản nợ đã đến hạn trả nhưng anh D vẫn chưa yêu cầu anh H trả nợ cho mình. Anh H đang có nhu cầu bán chiếc xe ô tô của mình cho anh Trịnh Đình Q, nhưng lo ngại nếu khi bán xe xong, có tiền anh phải thanh toán khoản nợ cho anh D. Anh H và anh Q thống nhất với nhau: thay vì ký hợp đồng
28
mua bán theo lẽ thường, hai bên ký hợp đồng tặng cho tài sản, nhưng vẫn thanh toán tiền mua bán đầy đủ. Xin hỏi, theo Bộ luật dân sự năm 2015, thì việc ký kết hợp đồng tặng cho tài sản giữa anh H và anh Q có vi phạm sự tự nguyện không?
Trả lời:
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015: chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.
- Căn cứ Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2015: khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Dựa vào các căn cứ pháp lý nêu trên, đối chiếu với tình huống này, thì hợp đồng tặng cho tài sản giữa anh H và Q được xác lập để che giấu hợp đồng mua bán, thực chất có mục đích trốn tránh nghĩa vụ trả nợ của H với anh D. Do vậy, việc ký kết hợp đồng tặng cho tài sản này đã không thỏa mãn được điều kiện tự nguyện về ý chí giữa các chủ thể.
Câu hỏi 23: Công ty trách nhiệm hữu hạn xuất nhập khẩu X chuyên nhập khẩu và cung cấp thiết bị y tế ký hợp đồng mua bán một lô thiết bị y tế bao gồm: máy siêu âm, chụp cắt lớp PES cho Bệnh viện đa khoa C, giá trị lô hàng
29
định giá là 15 tỷ đồng. Trước khi ký kết hợp đồng, Công ty X có cung cấp thông tin về nguồn gốc sản phẩm cho Bệnh viện đa khoa C: toàn bộ sản phẩm được nhập mới từ Đức. Hợp đồng được ký kết, tuy nhiên sau đó khi kiểm tra lại thông tin trên sản phẩm được liệt kê trong hợp đồng, bên mua sản phẩm phát hiện bên bán đã cố ý đưa thông tin không đúng sự thật về xuất xứ của sản phẩm. Toàn bộ sản phẩm đều đã qua sử dụng, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Phía Bệnh viện C có yêu cầu Công ty X hoàn trả lại số tiền đã thanh toán, nếu không sẽ khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu. Xin hỏi theo Bộ luật dân sự năm 2015, việc ký kết hợp đồng mua bán có vi phạm yếu tố tự nguyện trong việc thể hiện ý chí của các bên không?
Trả lời:
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015: Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.
- Căn cứ Điều 127 Bộ luật dân sự năm 2015: khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Dựa vào các căn cứ pháp lý nêu trên, đối chiếu với trường hợp này, cho thấy: việc cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật về đối tượng của hợp đồng mua bán khiến bên mua đồng ý giao kết hợp đồng là hành vi lừa
30
dối nhằm mục đích thu lợi không chính đáng, và không phù hợp với sự tự nguyện ý chí trong giao dịch dân sự. Bệnh viện đa khoa C có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối.
Câu hỏi 24: Ông Nguyễn Văn A và bà Trịnh Thu H là vợ chồng, thường trú tại xã N, huyện T, tỉnh N. Để phát triển chăn nuôi, ông bà đến ngân hàng chính sách xã hội huyện T để làm hồ sơ vay vốn nhưng không được vì ông bà không thuộc diện được vay vốn theo hình thức bảo đảm tín chấp. Ông A được giới thiệu đến gặp anh Phùng Văn B, người cùng quê để vay vốn. Khi đề nghị anh B cho vay số tiền 100 triệu đồng, anh B đã đồng ý ngay nhưng ra điều kiện là ông A muốn vay được số tiền này phải cầm cố Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) và chịu mức lãi suất 7%/tháng. Bản thân ông A thấy mức lãi suất quá vô lý và không thể chấp nhận được nên đã từ chối. Anh B thấy ông A nhất mực từ chối đã gọi người mang hung khí tới, đe dọa và buộc ông A ký vào hợp đồng vay nợ. Hợp đồng vay nợ giữa ông A và anh B được ký kết. Xin hỏi việc giao kết hợp đồng này theo Bộ luật dân sự năm 2015 có hợp pháp không?
Trả lời:
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 117, Điều 127 Bộ luật dân sự năm 2015 và đối chiếu với tình tiết trong tình huống này, thấy rằng hợp đồng vay tài sản giữa ông A và anh B đã có dấu hiệu vi phạm sự tự nguyện trong bày tỏ ý chí của các chủ thể. Anh B đã cố ý đe dọa dùng vũ lực khiến ông A không còn lựa chọn là ký vào bản hợp đồng vay nợ. Hợp đồng này được ký kết hoàn toàn không phù
31
hợp với ý chí, mong muốn chủ quan của ông A, đã có sự mâu thuẫn giữa mong muốn đích thực của chủ thể với sự hiện hữu của hợp đồng. Ông A hoàn toàn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố hợp đồng vay tài sản này vô hiệu.
Câu hỏi 25: Ông Hoàng Tuấn P, là Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời là đại diện theo pháp luật của Công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư bất động sản V. Công ty cổ phần xây dựng Q được đề nghị cung cấp dịch vụ san lấp mặt bằng cho dự án bất động sản L do Công ty trách nhiệm hữu hạn V làm chủ đầu tư. Hai bên đang trong quá trình đàm phán để ký kết hợp đồng nhưng chưa đi đến thống nhất. Trong một bữa tiệc liên hoan, lợi dụng tình trạng không tỉnh táo của ông P do sử dụng rượu, ông Nguyễn Đình H là Chủ tịch Hội đồng quản trị - đại diện theo pháp luật của Công ty Q đã thuyết phục ông P ký vào bản hợp đồng dịch vụ với tiền thù lao và chi phí cho việc san lấp mặt bằng vượt trội gấp nhiều lần so với giá dịch vụ trên thị trường. Sau khi hợp đồng được gửi tới trụ sở Công ty trách nhiệm hữu hạn V, ông P phát hiện ra mình bị lừa dối nên đã yêu cầu bên Công ty Q hủy hợp đồng. Xin hỏi việc ký kết hợp đồng giữa Công ty V và Công ty Q trong trường hợp này theo Bộ luật dân sự năm 2015 có vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng?
Trả lời:
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015: chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.
32
- Căn cứ Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2015: người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
- Căn cứ khoản 1 Điều 87 Bộ luật dân sự năm 2015: pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Dựa vào các căn cứ pháp lý nêu trên, đối chiếu với tình huống này, thấy rằng người đại diện của Công ty trách nhiệm hữu hạn V đã nhân danh công ty tham gia giao kết hợp đồng dịch vụ với Công ty cổ phần Q. Nội dung hợp đồng nằm trong phạm vi đại diện của pháp nhân theo quy định pháp luật, do vậy quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà người đại diện đã ký kết sẽ phát sinh với pháp nhân. Tuy nhiên, trường hợp này, người đại diện pháp nhân (ông P) đã ký kết hợp đồng trong tình trạng không thể nhận thức và làm chủ hành vi do tác động của rượu lên hệ thần kinh. Hợp đồng này đã được giao kết thực chất nhưng không phù hợp với ý chí chủ quan, mong muốn đích thực của pháp nhân. Pháp nhân là Công ty trách nhiệm hữu hạn V có quyền chứng minh và yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo đúng quy định của pháp luật.
Câu hỏi 26: Xin cho biết, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội như thế nào?
33
Trả lời:
Điều 123 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do mục đích và nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Để áp dụng chính xác quy định này, người áp dụng pháp luật phải nắm được những nội dung cơ bản sau: - Mục đích của giao dịch dân sự là những lợi ích hợp pháp mà các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia giao dịch.
- Nội dung của giao dịch dân sự được hiểu là ý chí của chủ thể khi tham gia giao dịch, đối với các giao dịch dân sự dưới dạng hành vi pháp lý đơn phương thì nội dung của giao dịch chính là ý chí của bên đưa ra hành vi pháp lý đơn phương. Trong các hợp đồng dân sự, nội dung của giao dịch dân sự chính là tổng hợp các điều khoản các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, những điều khoản này xác định quyền và nghĩa vụ của các bên.
- Điều cấm của pháp luật là những quy định không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. - Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Bất kỳ một giao dịch dân sự nào khi xác lập, nếu có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì đều bị coi là vô hiệu bất kể nó xuất phát từ mục đích của một bên hay các bên trong giao dịch.
34
Câu hỏi 27: Do mâu thuẫn cá nhân với A từ trước, B đã gặp C và thỏa thuận sẽ trả cho C số tiền 2 triệu đồng để C đánh A. Ngay sau đó, C đã tìm và đánh A theo đúng thỏa thuận với B. Trường hợp này, theo Bộ luật dân sự năm 2015 giao dịch dân sự giữa B với C có hiệu lực pháp luật không? Nếu vô hiệu thì nguyên nhân vô hiệu là gì?
Trả lời:
Trong tình huống trên, giữa B với C đã giao kết một giao dịch dân sự (hợp đồng dân sự) có đối tượng là một công việc phải thực hiện, theo đó C sẽ đánh A, tức là sẽ thực hiện hành vi xâm phạm đến sức khỏe của A. Theo quy định của pháp luật hiện hành, giao dịch dân sự này sẽ vô hiệu vì mục đích của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật dân sự. Pháp luật dân sự ghi nhận và bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy ín, nhân phẩm, tài sản của mọi cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy mọi hành vi xâm phạm đến những giá trị nói trên đều bị pháp luật cấm không được thực hiện. Ngoài ra, B và C sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự hiện hành.
Câu hỏi 28: Trước khi chết, ông X có lập di chúc sẽ cho con trai của mình là anh Y được hưởng toàn bộ di sản của ông với điều kiện anh Y phải bỏ vợ của mình là chị Z để lấy cô W vì lý do chị Z không thể sinh con trai nối dõi cho gia đình anh Y. Sau khi ông X chết, di chúc của ông X có hiệu lực pháp luật không? và anh Y nếu không bỏ vợ có được nhận di sản của ông X để lại không?
Trả lời:
Hành vi lập di chúc của ông X là một dạng của giao
35
dịch dân sự thể hiện dưới dạng hành vi pháp lý đơn phương. Trong trường hợp này, giao dịch dân sự do ông X thực hiện sẽ vô hiệu vì nội dung của giao dịch trái đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Vì vậy, anh Y sẽ không được hưởng di sản của ông X để lại theo nội dung di chúc. Tuy nhiên, anh Y có thể hưởng di sản của ông X theo quy định pháp luật vì anh Y thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông X, trừ trường hợp anh Y là người không được quyền hưởng di sản thừa kế nếu như anh Y có một trong những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015.
Câu hỏi 29: H đã có hành vi mượn xe máy Wave 110 của B rồi đem xe máy đến tiệm cầm đồ bán cho chủ tiệm cầm đồ là T với giá 3 triệu (do không có giấy tờ sở hữu). Khi bị B đến tiệm đòi lại tài sản, T lấy lý do là mình không biết đấy là xe H đã mượn của B nên mới mua, vì vậy nhất quyết không trả lại tài sản. Xin hỏi, theo Bộ luật dân sự năm 2015, Hợp đồng mua bán xe máy giữa H và T có hiệu lực pháp luật không? Tại sao?
Trả lời:
Tình huống trên có một giao dịch dân sự là hợp đồng mua bán chiếc xe máy Wave 110 giữa H và T giá 3 triệu. Do H không phải là chủ sở hữu xe máy (H mượn xe máy của B) nên H không có quyền định đoạt tài sản, còn T đã cố tình mua chiếc xe máy không có giấy tờ chứng minh chủ sở hữu. Trường hợp này, T được coi là người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật và không ngay tình. Hợp đồng mua bán xe máy giữa H với T vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. H có hành vi
36
mượn tài sản và cố tình bán tài sản không phải của mình, còn T có hành vi cố tình mua một tài sản do phạm tội mà có, do vậy, H và T sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành.
Câu hỏi 30: Anh Lầu A K có thỏa thuận bán cho anh Lò Văn B 20 kg hoa anh túc do K trồng được ở nhà với giá 20 triệu đồng. Hai bên đã thực hiện hợp đồng ngay sau khi giao kết. Trên đường đi bán hoa anh túc, Lò Văn B đã bị công an huyện C, tỉnh L bắt giữ và tịch thu số hoa đó. Sau khi bị xử lý và tịch thu, B có đến nhà K yêu cầu K trả lại cho mình 20 triệu đồng là số tiền đã bỏ ra để mua 20 kg hoa anh túc nói trên. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng mua bán hoa anh túc giữa Lầu A K và Lò Văn B có hiệu lực pháp luật không? B có quyền đòi lại 20 triệu đồng từ K không?
Trả lời:
Xét thấy trong trường hợp nêu trên, hợp đồng mua bán tài sản với đối tượng hàng hóa là 20 kg hoa anh túc với giá 20 triệu đồng giữa Lầu A K và Lò Văn B. Do hoa anh túc là loại tài sản pháp luật dân sự cấm giao dịch, chính vì vậy hợp đồng mua bán này sẽ bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật dân sự. Căn cứ vào khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015, anh B có quyền đòi lại từ K số tiền 20 triệu đồng. Nhưng hành vi của K và L có yếu tố cấu thành tội phạm nên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự; số tiền và hàng hóa (hoa anh túc) sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự.
37
Câu hỏi 31: Ông Nguyễn Văn A có tặng cho con trai của mình là anh Nguyễn Văn B một mảnh đất 200m2 và ngôi nhà trên đất với mục đích để sau này anh B sẽ làm nơi thờ tự, hương hỏa cho tổ tiên. Hợp đồng tặng cho này đã được chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của ông A và chưa được anh B đi đăng ký chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nay, do anh B nhiều lần có hành vi chửi mắng, đánh đập ông A nên ông A không muốn cho anh B nhà và quyền sử dụng đất của mình nữa. Vậy, theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 ông A có quyền lấy lại nhà và quyền sử dụng đất không? Nếu có thì căn cứ vào cơ sở pháp lý nào?
Trả lời:
Giữa ông Nguyễn Văn A và anh Nguyễn Văn B đã giao kết một hợp đồng tặng cho bất động sản có đối tượng gồm quyền sử dụng 200m2 đất và nhà ở gắn liền trên đất thuộc sở hữu hợp pháp của ông A. Hợp đồng này đã được chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của ông A. Theo quy định tại Điều 459 Bộ luật dân sự năm 2015 về tặng cho bất động sản:
“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật.
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản”.
Căn cứ vào quy định này có thể thấy, đối với hợp 38
đồng tặng cho bất động sản của ông A cho anh B tuy đã được lập thành văn bản và được chứng thực nhưng vẫn chưa có hiệu lực pháp luật do các bên chưa thực hiện việc đăng ký tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chính vì vậy, ông A hoàn toàn có quyền lấy lại tài sản của mình mặc dù đã giao tài sản cho anh B sử dụng.
Câu hỏi 32: Anh Bùi Việt G có ký kết hợp đồng viết tay bán ngôi nhà chung cư số 505 tòa nhà Trung tâm, đường T, thành phố B, tỉnh BN cho anh Bùi Ngọc Đ với giá thỏa thuận 2,5 tỷ đồng. Tại thời điểm ký kết anh Đ có trả trước cho anh G 2 tỷ đồng, 500 triệu đồng còn lại các bên hẹn khi nào làm thủ tục đăng ký xong thì anh Đ sẽ thanh toán. Nay, do giá nhà tăng cao, anh G không muốn bán nhà nữa với lý do hợp đồng mua bán này các bên chưa công chứng nên không có hiệu lực. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng mua bán nhà ở giữa anh G và anh Đ có hiệu lực pháp luật không? Anh G có bắt buộc phải giao lại nhà cho anh Đ không?
Trả lời:
Giữa anh Bùi Việt G và anh Bùi Ngọc Đ đã ký kết một hợp đồng mua bán viết tay căn nhà chung cư số 505 tòa nhà Trung tâm, đường T, thành phố BN tỉnh BN. Theo quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật nhà ở năm 2014 về việc
công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở:
“1. Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
39
Đối với các giao dịch tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng”.
Căn cứ theo quy định trên thì hợp đồng mua bán nhà ở giữa anh G và anh Đ bắt buộc phải đi công chứng hoặc chứng thực. Do hai bên chưa đi công chứng, chứng thực nên hợp đồng này chưa phát sinh hiệu lực của các bên. Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ về mặt hình thức:
“2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.
Có thể thấy rằng, tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán ngôi nhà giá 2,5 tỷ đồng, anh Đ đã chuyển giao cho anh G số tiền 2 tỷ đồng tức là anh Đ đã thực hiện được hơn hai phần ba nghĩa vụ của hợp đồng. Vì vậy, anh Đ hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của hợp đồng mua bán này và không cần phải đi công chứng hay chứng thực nữa mặc dù hợp đồng đã ký vi phạm về mặt hình thức do Luật nhà ở năm 2014 quy định.
Câu hỏi 33: Bà Nguyễn Thị N có ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 500m2 đất thuộc quyền sử dụng của bà N cho ông Vũ Đức T với giá 3 tỷ đồng. Hai bên đã làm hợp đồng viết tay, ông T có trả trước
40
1.5 tỷ đồng cho bà N. Hai bên có thỏa thuận số tiền còn lại ông T sẽ trả cho bà N khi nào hoàn thành thủ tục đăng ký sang tên. Do giá trị mảnh đất bị giảm sút, nên ông T không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng với bà N nữa đã lấy lý do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và bà N không có hiệu lực pháp luật vì chưa đi công chứng, chứng thực hợp đồng và làm đơn ra Tòa đòi lại 1,5 tỷ đồng từ bà N. Theo quy định của pháp luật hiện hành yêu cầu của ông T có hợp pháp không? Tại sao?
Trả lời:
Ông T có quyền đòi 1,5 tỷ đồng từ bà N với lý do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 500 m2 đất giữa ông T và bà N là không có hiệu lực pháp luật vì căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai năm 2013 về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất:
“3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:
a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”.
Theo quy định này, hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đất giữa bà N và ông T bắt buộc phải lập thành văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực. Tuy nhiên, khi giao kết hợp đồng, bà N và ông T đã không thực hiện đúng yêu cầu của pháp luật, chính vì vậy, hợp đồng
41
mua bán quyền sử dụng đất giữa bà N và ông T có thể bị Tòa án tuyên vô hiệu do vi phạm quy định về mặt hình thức của hợp đồng.
III. CẤU TRÚC CỦA HỢP ĐỒNG, CÁC ĐIỀU KHOẢN TRONG HỢP ĐỒNG, PHỤ LỤC HỢP ĐỒNG, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG HỢP ĐỒNG
Câu hỏi 34: Hợp đồng dân sự có kết cấu như thế nào? Nếu hợp đồng được ký kết mà không tuân thủ theo kết cấu đó thì hậu quả pháp lý như thế nào?
Trả lời:
Hợp đồng dân sự được kết cấu thành 4 phần cơ bản và phần phụ lục hoặc phần sửa đổi, bổ sung hợp đồng (nếu có):
1. Phần mở đầu:
Phần mở đầu là một phần của hợp đồng (tùy thuộc vào loại hợp đồng mà các bên soạn thảo hợp đồng cho phù hợp). Phần mở đầu có các nội dung sau: - Quốc hiệu;
- Số và ký hiệu của hợp đồng;
- Tên hợp đồng;
- Những căn cứ pháp lý xác lập hợp đồng;
- Địa điểm, thời điểm ký hợp đồng.
2. Phần thông tin về chủ thể hợp đồng:
- Tên chủ thể ký kết hợp đồng: nếu chủ thể là cá nhân thì cần ghi đầy đủ họ, tên theo Giấy chứng minh nhân dân, ngày, tháng, năm sinh, số chứng minh nhân dân.
Nếu chủ thể là pháp nhân thì cần ghi đúng tên trong giấy phép thành lập hợp pháp của chủ thể, người đại
42
diện theo pháp luật của chủ thể hoặc người đại diện theo ủy quyền.
- Địa chỉ của chủ thể hợp đồng: nếu chủ thể là cá nhân có nơi cư trú khác với nơi đăng ký hộ khẩu thường trú thì cần phải ghi đủ cả hai nơi. Nếu chủ thể là pháp nhân cần ghi địa chỉ trụ sở chính của pháp nhân. Ghi rõ số nhà, đường phố, xóm ấp, phường, xã, quận, huyện, tỉnh, thành phố.
- Điện thoại, telex, fax, email, website: việc ghi điện thoại, telex, fax, email, website sẽ giúp các bên trao đổi thông tin nhanh chóng hơn, giảm bớt chi phí đi lại, trừ những trường hợp cần thiết.
- Người đại diện ký kết hợp đồng: đây là một trong những nội dung quan trọng của hợp đồng. Nó liên quan đến tính hiệu lực của hợp đồng bởi người này phải là người có thẩm quyền ký kết hợp đồng. Pháp luật hiện hành quy định mỗi bên chỉ cần một đại diện hợp pháp ký kết hợp đồng. Đó có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền. Trong trường hợp người được ủy quyền ký kết hợp đồng thì phải ghi rõ thời gian ủy quyền, chức vụ của người ký giấy ủy quyền, số giấy ủy quyền.
3. Nội dung của hợp đồng (các điều khoản của hợp đồng):
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể hợp đồng. Thông thường có 3 loại điều khoản:
- Điều khoản thông thường:
Là những điều khoản được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Những nội dung này các bên có
43
thể đưa vào hợp đồng nhằm khẳng định lại hoặc tăng tầm quan trọng của nó hoặc cụ thể hóa nhưng không được trái quy định của pháp luật.
Đối với điều khoản thông thường, cần lưu ý quy định về phạt vi phạm hợp đồng vì theo quy định của pháp luật dân sự và thương mại thì, các bên chỉ có thể áp dụng phạt vi phạm hợp đồng khi trong hợp đồng có điều khoản thỏa thuận về vấn đề này.
- Điều khoản chủ yếu (cơ bản):
Là những điều khoản căn bản nhất của hợp đồng nên bắt buộc các bên phải thỏa thuận ghi vào văn bản của hợp đồng. Điều 398 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nội dung của hợp đồng cụ thể như sau:
“1. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng.
2. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây: a) Đối tượng của hợp đồng;
b) Số lượng, chất lượng;
c) Giá, phương thức thanh toán;
d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên;
e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
g) Phương thức giải quyết tranh chấp”.
- Điều khoản tùy nghi:
Là những điều khoản do các bên tự thỏa thuận với nhau khi chưa có quy định của pháp luật hoặc đã có quy định của pháp luật nhưng các bên chưa được phép vận dụng linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của các bên mà không trái với pháp luật.
44
4. Phần ký kết hợp đồng:
- Số lượng bản hợp đồng cần ký kết: căn cứ vào nhu cầu của các bên ký kết hợp đồng mà thỏa thuận số lượng bản hợp đồng cho phù hợp. Điều quan trọng là các bản hợp đồng phải đảm bảo nội dung giống nhau và có giá trị pháp lý như nhau.
- Chữ ký của các bên: mỗi bên chỉ cần một người ký vào hợp đồng, người đó là đại diện hợp pháp của các bên ghi trong phần “thông tin về chủ thể hợp đồng”. Chữ ký nháy vào từng trang không có giá trị pháp lý mà chỉ có chữ ký vào phần “các bên giao kết hợp đồng” hay “chủ thể ký kết hợp đồng” thì hợp đồng mới coi như được giao kết.
- Đóng dấu của các bên: thông thường hợp đồng ký kết giữa các bên có dấu đóng lên trên chữ ký của đại diện ký kết hợp đồng. Dấu của đơn vị được đóng trùm lên phần chữ ký. Việc đóng dấu giáp lai giữa các trang của hợp đồng là việc làm cần thiết để bảo đảm hợp đồng không bị làm giả hay bị thay thế một số trang.
Nếu hợp đồng mà thiếu một trong các phần trên thì không gọi đó là hợp đồng và không có giá trị pháp lý để thi hành.
5. Phụ lục hợp đồng và các văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng:
- Phụ lục hợp đồng:
Đây là văn bản phụ và không tách rời với hợp đồng chính, việc lập văn bản phụ lục hợp đồng được áp dụng trong trường hợp các bên chủ thể hợp đồng cần chi tiết và cụ thể hóa các điều khoản hợp đồng mà trong hợp đồng không thể hoặc không nên ghi chi tiết, cụ thể trong hợp đồng.
45
Nguyên tắc chung là phụ lục hợp đồng được ký kết cùng thời điểm với hợp đồng và nội dung của phụ lục không được trái với hợp đồng.
- Văn bản điều chỉnh hợp đồng:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận xác lập văn bản để bổ sung hoặc sửa đổi những điều khoản của hợp đồng đã ký kết như: thay đổi, bổ sung nội dung các điều khoản của hợp đồng đang thực hiện cho phù hợp với điều kiện thực tế của các bên.
Văn bản điều chỉnh hợp đồng là một bộ phận của hợp đồng và có giá trị pháp lý như hợp đồng.
Câu hỏi 35: Anh A phải trả cho chị B một khoản tiền. Sau đó, anh A thống nhất chuyển nghĩa vụ trả tiền trên cho chị C. Như vậy, quan hệ nghĩa vụ dân sự của anh A được chuyển sang cho chị C và chị B. Câu hỏi đặt ra là: Theo Bộ luật dân sự năm 2015 thỏa thuận giữa anh A và chị C có hợp pháp không? Nếu chị C không thực hiện nghĩa vụ dân sự hay thực hiện được một phần và không thực hiện nữa (như bỏ trốn) thì chị B có được quay sang đòi anh A không?
Trả lời:
Sự thỏa thuận giữa anh A và chị C chỉ hợp pháp nếu có sự đồng ý của chị B theo quy định tại Điều 370 Bộ luật dân sự năm 2015:
“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế 46
nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
Sau đó, anh A và chị B phải lập văn bản sửa đổi hợp đồng vay ban đầu (nếu hợp đồng vay ban đầu lập thành văn bản có công chứng thì phần sửa đổi về chủ thể của hợp đồng cũng cần phải có công chứng).
Nếu chị C không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì chị B không có quyền đòi anh A vì sau khi chuyển giao nghĩa vụ cho chị C thì anh A không còn bất cứ sự ràng buộc hay trách nhiệm nào đối với chị B bởi vì chị C đã trở thành người thế nghĩa vụ cho anh A. Tuy nhiên, nếu anh A có cam kết về khả năng trả nợ của C đối với chị B thì khi đó anh A và chị C phải liên đới trả nợ cho chị B. Lúc này, chị B có quyền yêu cầu bất cứ ai: anh A hay chị C phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho mình.
Câu hỏi 36: Ông A ký hợp đồng bán nhà (nhà thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng ông A) cho ông B nhưng phần chủ thể trong hợp đồng chỉ ghi tên ông A (ông A có vợ là bà C). Trong phần chữ ký của bên bán thì có cả chữ ký của ông A và vợ là bà C, và sau đó hợp đồng được công chứng. Xin hỏi theo Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng đó có hiệu lực không?
Trả lời:
Hợp đồng vẫn có hiệu lực vì quan trọng nhất là chữ ký của các bên trong hợp đồng đã đồng thuận với những nội dung đã được ghi trong hợp đồng. Trường hợp này coi như hợp đồng có sai sót về kỹ thuật trong trình bày văn bản: thiếu phần ghi tên người vợ là chủ thể của hợp đồng và có thể sửa chữa phần này. Nhưng nếu ngược lại, trong phần chủ thể có ghi tên đủ cả vợ và chồng nhưng khi ký thì người vợ không ký thì hợp đồng có
47
nguy cơ bị Tòa án tuyên vô hiệu. Khoản 4 Điều 400 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản”.
Câu hỏi 37: Anh A thỏa thuận cho chị B thuê một ngôi nhà trong thời hạn 8 năm với giá thuê là 20 triệu đồng/tháng với điều kiện hợp đồng trên sẽ chấm dứt dù chưa hết hạn khi con của anh A từ nước ngoài về định cư tại Việt Nam. Toàn bộ tiền thuê theo thời hạn thuê được trả trước 50%. Xin hỏi theo Bộ luật dân sự năm 2015 sự kiện con của anh A trở về định cư tại Việt Nam là thuộc loại điều khoản nào trong hợp đồng nói trên? Hậu quả pháp lý khi con của anh A trở về định cư tại Việt Nam?
Trả lời:
Sự kiện các bên thỏa thuận trong hợp đồng thuộc loại điều khoản cơ bản vì theo ý chí của bên cho thuê (anh A) thì chỉ khi nào thống nhất với nhau về nội dung này thì hợp đồng thuê nhà mới được ký kết. Đây là điều khoản làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trước thời hạn. Sự kiện con của anh A trở về định cư ở Việt Nam là chưa xảy ra vào thời điểm các bên giao kết hợp đồng, không chắc chắn có xảy ra hay không. Vậy, nếu sự kiện các bên thỏa thuận trong hợp đồng đã xảy ra thì hợp đồng thuê nhà được chấm dứt trước thời hạn thuê mà A không phải chịu phạt hay phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chị B, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Câu hỏi 38: Ông A có ký hợp đồng thuê nhà. Trong 48
hợp đồng ghi: diện tích nhà thuê là 60 m2. Tiền thuê nhà là 4 triệu đồng/1 tháng. Sau đó, ông A lại ký tiếp hợp đồng thứ 2 với cùng một người thuê: Cho thuê cũng căn nhà đó, nhưng trong hợp đồng ghi: diện tích thuê là 110 m2. Tiền thuê nhà là 11 triệu đồng/1 tháng (ký sau hợp đồng trước 4 ngày). Các điều khoản khác đều hoàn toàn giống nhau (thời hạn cho thuê là 5 năm). Diện tích thực mà người thuê đang sử dụng là 110 m2 (đúng với diện tích thực tế của căn nhà). Cả hai hợp đồng đều chỉ ký tay với nhau, không được công chứng.
Nay xảy ra tranh chấp hợp đồng thuê nhà giữa người thuê nhà và gia đình ông A. Sau thời gian dài đã trả tiền thuê nhà theo hợp đồng sau, nay người thuê muốn trả tiền 4 triệu đồng/1 tháng theo hợp đồng trước. Lâu nay, khi trả tiền đều không có biên lai, chỉ nói với nhau bằng miệng. Xin hỏi theo Bộ luật dân sự năm 2015, tình huống này sẽ được giải quyết như thế nào?
Trả lời:
Thứ nhất, về hiệu lực của hợp đồng dân sự: Trường hợp các bên giao kết nhiều hợp đồng dân sự đối với cùng một đối tượng, nếu các hợp đồng trên không có mâu thuẫn với nhau thì được coi là giữa các bên có sự bổ sung nội dung của hợp đồng theo quy định tại Điều 421 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó, hậu quả pháp lý của việc bổ sung nội dung của hợp đồng là tất cả các hợp đồng trên đều có giá trị pháp lý:
“1. Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng. 2. Hợp đồng có thể được sửa đổi theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này.
3. Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của
49
hợp đồng ban đầu”.
Đối với trường hợp này, nội dung của các hợp đồng trên có sự mâu thuẫn với nhau thì được coi là có sự sửa đổi nội dung của hợp đồng, hợp đồng ký sau nếu được ký kết hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì hợp đồng được giao kết sau cùng sẽ có giá trị pháp lý và thay thế hợp đồng được giao kết trước đó.
Mặt khác, hợp đồng được giao kết sau đã được thực hiện một thời gian dài, như vậy việc sửa đổi nội dung của hợp đồng hoàn toàn xuất phát từ ý chí tự nguyện của các bên. Trong trường hợp này, hợp đồng thuê nhà được áp dụng là hợp đồng được ký kết sau hợp đồng trước 4 ngày.
Thứ hai, về hình thức của hợp đồng thuê nhà: Theo quy định của Luật nhà ở năm 2014 thì hợp đồng thuê nhà không phải công chứng hoặc chứng thực.
Theo đó hợp đồng thuê nhà được xác lập sau giữa ông A và người thuê nhà có hiệu lực kể từ thời điểm ký kết.
Câu hỏi 39: Công ty A chuyên cung cấp dịch vụ bảo vệ ký hợp đồng cung cấp vệ sĩ cho công ty B với thời hạn một năm. Khi ký hợp đồng thì người ký hợp đồng không phải là giám đốc (người đại diện theo pháp luật) mà là Phó giám đốc của công ty B. Hợp đồng thực hiện được 6 tháng thì công ty B gửi văn bản thông báo hợp đồng vô hiệu do không phải người đại diện theo pháp luật ký. Vậy, theo Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng này có vô hiệu hay không? Hợp đồng của pháp nhân ký thông qua người đại
50
diện (hợp đồng ủy quyền có dấu của pháp nhân) với người thứ ba không có đóng dấu của pháp nhân thì hợp đồng có hiệu lực không nếu pháp nhân không thừa nhận hợp đồng này? Người đại diện pháp nhân ký không đóng dấu có được không? Hợp đồng có chữ ký của người không có thẩm quyền đại diện cho pháp nhân mà có đóng dấu thì giá trị pháp lý như thế nào?
Trả lời:
Hợp đồng này về nguyên tắc là vô hiệu do chủ thể không có thẩm quyền ký kết hợp đồng. Tuy nhiên nếu như Công ty B đã biết hoặc buộc phải biết về việc ký kết hợp đồng này nhưng không phản đối trong một thời gian hợp lý thì hợp đồng vẫn có hiệu lực. Theo quy định tại khoản 1 Điều 142 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện thì: “1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch; b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện”.
Nếu hợp đồng được ký với người thứ ba nhưng không có dấu của pháp nhân mặc dù chủ thể ký kết thông qua ủy quyền hợp pháp thì hợp đồng vẫn có hiệu lực vì theo Điều 44 Luật doanh nghiệp năm 2014: hợp
51
đồng của pháp nhân chỉ cần đóng dấu trong một số trường hợp pháp luật có quy định bắt buộc hoặc các bên có thỏa thuận (khoản 4 Điều 44 Luật doanh nghiệp năm 2014).
Theo quy định của khoản 4 Điều 400 Bộ luật dân sự năm 2015: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản” thì chữ ký của chủ thể giao kết hợp đồng làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng chứ không phải phụ thuộc vào việc hợp đồng có được đóng dấu hay không? Pháp luật chỉ đòi hỏi người đặt bút ký vào hợp đồng của pháp nhân là người có thẩm quyền đại diện hợp pháp.
Câu hỏi 40: Điều kiện giao dịch chung là gì? Điều kiện giao dịch chung có quan hệ như thế nào đối với các điều khoản trong hợp đồng?
Trả lời:
Để đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn có rất nhiều công ty lớn ban hành các điều kiện nghiệp vụ để áp dụng khi giao kết hợp đồng hay còn được gọi là điều kiện giao dịch chung, ví dụ: điều kiện cấp tín dụng, điều kiện thanh toán... của ngân hàng, điều kiện cung cấp một sản phẩm bảo hiểm. Về vấn đề này, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định: “Điều kiện giao dịch chung là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối với người tiêu dùng” (điểm 6 Điều 3). Với tư cách là luật chung của hệ thống luật tư, Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định về điều kiện giao dịch chung
52
trong hợp đồng đang tồn tại như một loại quy tắc trong giao lưu dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Điều 406 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:
“1. Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này.
2. Điều kiện giao dịch chung chỉ có hiệu lực với bên xác lập giao dịch trong trường hợp điều kiện giao dịch này đã được công khai để bên xác lập giao dịch biết hoặc phải biết về điều kiện đó.
Trình tự, thể thức công khai điều kiện giao dịch chung thực hiện theo quy định của pháp luật. 3. Điều kiện giao dịch chung phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên. Trường hợp điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì quy định này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Câu hỏi 41: Ông A ủy quyền cho ông B đại diện cho mình để mua nhà của ông C. Nhưng do bận công việc nên ông B đã ủy quyền lại cho vợ của ông là bà Q ký kết hợp đồng. Xin hỏi theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng mua nhà được ký kết giữa bà Q với ông C có hợp pháp không?
Trả lời:
Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Q và ông C về
53
nguyên tắc thì không hợp pháp bởi theo quy định của Điều 564 Bộ luật dân sự 2015 về ủy quyền lại: “1. Bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác trong trường hợp sau đây:
a) Có sự đồng ý của bên ủy quyền;
b) Do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được.
2. Việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu.
3. Hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu”.
Do đó, việc ông B tự ý ủy quyền lại cho bà Q để mua nhà ông C mà không có sự đồng ý của ông A là không có giá trị pháp lý. Điều này kéo theo việc bà Q ký hợp đồng mua bán nhà với ông C cũng không có hiệu lực. Tuy nhiên, nếu có các chứng cứ khác để chứng minh cho các trường hợp theo quy định của khoản 1 Điều 142 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hợp đồng giữa bà Q và ông C vẫn có hiệu lực: “Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch; b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện”.
54
Câu hỏi 42: Công ty B là doanh nghiệp trong nước (bên mua) và Công ty C là doanh nghiệp nước ngoài (bên bán) đã ký một hợp đồng 5 năm với nội dung mua, bán hàng hóa cho từng năm và mỗi năm với số lượng cụ thể, giá cụ thể (cùng với thỏa thuận chọn Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam - VIAC là cơ quan giải quyết tranh chấp). Sau đó, các bên nảy sinh tranh chấp và đưa tranh chấp ra VIAC xuất phát từ việc các bên không đạt được thỏa thuận từ việc giá của hàng hóa năm thứ 3 trên thị trường chỉ còn bằng 1/3 giá nêu trong hợp đồng (bên bán yêu cầu giữ nguyên giá trong hợp đồng còn bên mua yêu cầu giá mới do giá trên thị trường đã giảm còn bằng 1/3 giá trong hợp đồng đã ký trước đó 3 năm). Vậy, theo Bộ luật dân sự năm 2015, yêu cầu của bên mua có căn cứ không? Nếu bên bán không đồng ý thì hướng giải quyết như thế nào?
Trả lời:
Yêu cầu của bên mua là có căn cứ vì trong thời hạn thực hiện hợp đồng có những sự kiện khách quan xảy ra khiến cho một bên bị thiệt hại nghiêm trọng. Sự sửa đổi hợp đồng để tránh thiệt hại cho bên mua, rủi ro cần được chia sẻ giữa các bên cũng là bảo đảm sự công bằng.
Vì căn cứ Điều 420 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về nội dung này như sau: “Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
1. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;
b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh;
55
c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;
đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.
2. Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.
3. Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:
a) Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định; b) Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.
4. Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Câu hỏi 43: Gia đình bà A thế chấp cho Ngân hàng X quyền sử dụng đối với mảnh đất có diện tích 50 m2 (Hợp đồng đã ký kết, được công chứng và đăng ký tại Văn
56
phòng đăng ký đất đai). Sau đó, bà A xây ngôi nhà 5 tầng trên diện tích đất thế chấp nói trên. Sau khi xây dựng nhà xong, bà A và Ngân hàng X lập phụ lục hợp đồng để thay đổi tài sản thế chấp từ quyền sử dụng đất thành cả nhà và đất. Vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, việc đặt tên Phụ lục hợp đồng cho việc sửa đổi nói trên có hợp pháp không? Phụ lục này chỉ có công chứng nhưng không đăng ký thì có hiệu lực không?
Trả lời:
Việc đặt tên cho phần sửa đổi là Phụ lục sửa đổi hợp đồng thế chấp là hợp pháp vì phụ lục hợp đồng không những chỉ để quy định chi tiết cho các điều khoản trong hợp đồng mà còn để sửa đổi, bổ sung hợp đồng đã ký trước đó. Điều 403 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“1. Hợp đồng có thể có phụ lục kèm theo để quy định chi tiết một số điều khoản của hợp đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng. Nội dung của phụ lục hợp đồng không được trái với nội dung của hợp đồng.
2. Trường hợp phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với nội dung của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được sửa đổi”.
Phụ lục sửa đổi hợp đồng thế chấp chỉ có công chứng nhưng không đăng ký thì không có hiệu lực vì tại khoản 3 Điều 421 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp
57
đồng ban đầu”. Hình thức ban đầu của hợp đồng có cả công chứng và đăng ký thì phần sửa đổi hợp đồng sau đó cũng cần phải có công chứng và đăng ký thì mới phát sinh hiệu lực pháp lý.
IV. PHÂN LOẠI HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
Cũng giống như trong Bộ luật dân sự năm 2005, việc phân loại hợp đồng trong Bộ luật dân sự năm 2015 cũng không được quy định tập trung trong một điều luật, mà nó được quy định rải rác ở các điều luật khác nhau. Cụ thể đó là các Điều 402 và Điều 405. Ngoài ra, việc phân loại một số hợp đồng dân sự không dựa trên những quy định cụ thể, mà dựa vào bản chất của mỗi loại hợp đồng khác nhau, chúng ta có thể có các cách phân loại khác nhau. Theo đó, căn cứ vào những quy định pháp luật có liên quan và tính chất của các loại hợp đồng dân sự, có thể phân loại hợp đồng dân sự theo các nhóm sau:
1. Hợp đồng chính và hợp đồng phụ
Việc phân loại hợp đồng thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ là dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các loại hợp đồng. Theo đó, hợp đồng chính được hiểu là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ. Còn hợp đồng phụ lại được hiểu là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính. Khái niệm hợp đồng chính, hợp đồng phụ được cụ thể hóa trong quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 402 Bộ luật dân sự năm 2015. Khái niệm này không có sự thay đổi mà vẫn được kế thừa hoàn toàn quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005. Sự phụ thuộc về hiệu lực giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ còn thể hiện ở quy định có
58
liên quan đến hợp đồng dân sự vô hiệu, theo đó tại khoản 2 và khoản 3 Điều 407 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
3. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính”.
Chúng ta có thể dẫn chiếu một ví dụ sau đây: Trường Đại học X và Tiến sĩ A đã ký một hợp đồng giảng dạy (hợp đồng nguyên tắc), trong đó quy định những quyền và nghĩa vụ cơ bản và chung nhất của các bên liên quan đến các hoạt động giảng dạy mà ông A sẽ thực hiện cho trường Đại học X trong vòng 10 năm. Ngoài ra, các bên có thỏa thuận rằng, mỗi một học kỳ, giữa hai bên sẽ ký các hợp đồng phụ để cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ của các bên tương ứng với học kỳ đó. Trong ví dụ trên, hợp đồng nguyên tắc mà hai bên ký kết có thể được coi là hợp đồng chính, hiệu lực của hợp đồng này sẽ phát sinh một cách độc lập theo quy định của pháp luật chứ không phụ thuộc vào hợp đồng phụ được ký từng kỳ. Hợp đồng mà các bên ký mỗi học kỳ được coi là các hợp đồng phụ. Theo đó, hiệu lực của các hợp đồng này sẽ được điều chỉnh bởi các quy định có liên quan. Theo những quy định được dẫn chiếu ở trên, nếu hợp đồng nguyên tắc mà vô hiệu, thì hợp đồng được ký trong mỗi học kỳ sẽ chấm dứt (trừ khi trong hợp đồng
59
được ký ở mỗi học kỳ, các bên đã thỏa thuận hợp đồng đó được thay thế hợp đồng nguyên tắc). Tuy nhiên, hợp đồng được ký ở mỗi học kỳ bị vô hiệu sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng nguyên tắc (trừ khi các bên thỏa thuận hợp đồng được ký ở mỗi học kỳ là một bộ phận không thể tách rời của hợp đồng nguyên tắc).
Một trong những cặp hợp đồng chính - phụ hay được đề cập đó là hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm với hợp đồng bảo đảm (ví dụ hợp đồng vay tiền là hợp đồng chính, hợp đồng thế chấp là hợp đồng phụ). Tuy nhiên, những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu như khoản 2 Điều 407 Bộ luật dân sự năm 2015 đề cập lại không áp dụng với các biện pháp bảo đảm. Tức là hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu thì hợp đồng bảo đảm cũng chưa chắc đã chấm dứt, ngay cả khi các bên không có thỏa thuận gì khác. Đây là đặc thù trong quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ, biện pháp bảo đảm có thể được xác lập để bảo đảm cho nghĩa vụ hình thành trong tương lai, nên bản thân hợp đồng bảo đảm (hình thức xác lập của biện pháp bảo đảm) sẽ có hiệu lực trước khi hợp đồng có nghĩa vụ bảo đảm được hình thành. Thậm chí, một số hợp đồng bảo đảm còn được xác lập để bảo đảm cho việc giao kết một hợp đồng, nên việc hợp đồng có được giao kết hay không cũng không ảnh hưởng đến sự tồn tại cũng như hiệu lực của hợp đồng bảo đảm đã được xác lập trước đó. Ví dụ, hợp đồng đặt cọc được xác lập để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng thuê nhà và bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng thuê nhà, nên khi hợp đồng thuê nhà chưa được giao kết thì hợp đồng đặt cọc đã phát
60
sinh hiệu lực.
2. Hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù
Thuật ngữ “hợp đồng có đền bù” và “hợp đồng không có đền bù” không được liệt kê trong Điều 402 Bộ luật dân sự năm 2015 về các loại hợp đồng chủ yếu mà lại xuất hiện tại Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015 về kiện đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình. Trong đó, những thuật ngữ này chỉ được sử dụng như một căn cứ để xác định quyền kiện đòi của chủ sở hữu, mà không được định nghĩa một cách cụ thể. Việc phân loại hợp đồng thành có đền bù và không có đền bù là dựa vào bản chất của các loại hợp đồng và tính chất có đi có lại về lợi ích giữa các bên chủ thể hợp đồng. Theo đó, khái niệm hợp đồng có đền bù và không có đền bù được hiểu như sau:
Hợp đồng có đền bù được hiểu là hợp đồng mà các bên chủ thể sẽ nhận được lợi ích từ phía chủ thể đối lập sau khi đã (hoặc sẽ) chuyển đi một lợi ích tương ứng. Ví dụ hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản,...
Hợp đồng không có đền bù là loại hợp đồng mà trong đó một bên chủ thể nhận được lợi ích từ phía bên kia, nhưng không phải chuyển đi bất cứ một lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào. Ví dụ hợp đồng tặng cho tài sản, hợp đồng mượn tài sản,...
Tính chất đền bù hay không đền bù của hợp đồng là do pháp luật quy định phù hợp với bản chất của từng loại hợp đồng, chứ không do các bên thỏa thuận. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng chứ không thể thỏa thuận để xác định hợp đồng nào đó là có đền bù hay không có đền bù. Ví dụ, về bản
61
chất, hợp đồng mua bán tài sản là hợp đồng có đền bù, theo đó bên bán chuyển giao tài sản cho bên mua thì sẽ nhận được lợi ích tương ứng là khoản tiền mà bên mua thanh toán. Nếu các bên thỏa thuận rằng bên mua không phải trả tiền, thì về bản chất hợp đồng đó là hợp đồng tặng cho tài sản chứ không phải hợp đồng mua bán tài sản. Bên mua chỉ có thể không phải trả tiền nếu được bên bán miễn việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Hoặc ví dụ, hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng không có đền bù, các bên không thể thỏa thuận bên được tặng cho phải chuyển giao một lợi ích hoặc thực hiện một công việc để mang lại lợi ích cho bên tặng cho. Bởi vì, bản chất của hợp đồng sẽ thay đổi sang hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng trao đổi tài sản hoặc hợp đồng dịch vụ,...
Ngoài hai loại hợp đồng có đền bù và không có đền bù, trong khoa học pháp lý còn xuất hiện một loại hợp đồng thứ ba, đó là hợp đồng có thể có hoặc không có đền bù. Đây là loại hợp đồng mà có những trường hợp nó là hợp đồng có đền bù, nhưng có những trường hợp lại là hợp đồng không có đền bù. Trong số các hợp đồng dân sự thông dụng được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng thuộc loại này bao gồm: hợp đồng vay tài sản (nếu vay có lãi thì có đền bù, vay không có lãi thì không có đền bù), hợp đồng gửi giữ tài sản (nếu không có thỏa thuận hoặc pháp luật không có quy định khác thì bên gửi tài sản phải trả tiền, tức là hợp đồng có đền bù, và ngược lại), hợp đồng ủy quyền (nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định gì khác thì bên ủy quyền không phải trả thù lao, tức là hợp đồng không có đền bù, và ngược lại).
Việc phân loại hợp đồng thành đền bù, không đền 62
bù hoặc có thể có hoặc không có đền bù và việc xác định các hợp đồng dân sự thông dụng thuộc loại nào sẽ góp phần vào việc xác định nghĩa vụ chuyển giao lợi ích của các bên. Ví dụ, khi giao kết hợp đồng thuê tài sản, kể cả không có thỏa thuận thì bên thuê vẫn phải trả tiền thuê; khi giao kết hợp đồng mượn tài sản, bên mượn sẽ không phải trả chi phí cho bên cho mượn; khi giao kết hợp đồng vay mà không có thỏa thuận thì không phải trả lãi,...
3. Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ
Dựa trên cơ sở mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể, hợp đồng được phân loại thành hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. Thuật ngữ hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ là các thuật ngữ pháp lý được định nghĩa cụ thể trong Bộ luật dân sự năm 2015 tại Điều 402. Theo khoản 1 Điều 402 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên đều có nghĩa vụ đối với nhau (ví dụ trong hợp đồng mua bán tài sản, bên bán và bên mua đều có nghĩa vụ đối với nhau). Còn theo khoản 2 Điều 402 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ (ví dụ trong hợp đồng tặng cho tài sản chỉ bên tặng cho mới có nghĩa vụ, bên được tặng cho chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ).
Một hợp đồng được xác định là hợp đồng đơn vụ hay hợp đồng song vụ là do bản chất của hợp đồng quy định chứ không phải do các bên thỏa thuận. Tức là các bên không thể thỏa thuận để xác định hợp đồng nào đó là đơn vụ hay song vụ. Ví dụ, hợp đồng thuê tài sản là hợp đồng song vụ do pháp luật quy định, bên cho thuê và bên thuê đều có các nghĩa vụ với nhau, các bên giao kết
63
hợp đồng thuê không thể thỏa thuận để xác định rằng hợp đồng này là hợp đồng đơn vụ. Hoặc ví dụ hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng đơn vụ, bởi vì luật quy định bên được tặng cho không phải thực hiện nghĩa vụ chứ không phải do các bên thỏa thuận, các bên cũng không thể thỏa thuận bên tặng cho phải thực hiện nghĩa vụ cũng như thỏa thuận rằng hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng song vụ.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần nhận thấy rằng hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên có nghĩa vụ với nhau, nhưng không có nghĩa rằng các bên đều phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau. Bởi vì, thực tế thực hiện hợp đồng, có thể một bên được bên kia miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên kia. Khi đó, chỉ có một bên phải thực hiện nghĩa vụ trên thực tế, nhưng hợp đồng đó vẫn được xác định là hợp đồng song vụ. Ví dụ, A bán tài sản cho B, thỏa thuận thanh toán tiền sau khi đã chuyển giao tài sản, nhưng sau đó A lại miễn cho B việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Do đó, về thực tế, chỉ có A phải thực hiện nghĩa vụ giao tài sản đối với B, còn B không phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền đối với A. Tuy nhiên, hợp đồng này vẫn là hợp đồng song vụ, vì khi hợp đồng có hiệu lực, cả hai bên đều có nghĩa vụ đối với nhau.
Hợp đồng song vụ thường là hợp đồng có đền bù, còn hợp đồng đơn vụ thường là hợp đồng không có đền bù. Bởi vì, việc các bên thực hiện nghĩa vụ đối với nhau thường sẽ mang lại lợi ích cho nhau, nên nếu các bên đều thực hiện nghĩa vụ đối với nhau thì các bên đều có lợi ích. Tuy nhiên, có nhiều hợp đồng song vụ lại không phải là hợp đồng có đền bù. Ví dụ, hợp đồng mượn tài sản là hợp đồng song vụ (vì bên cho mượn hay bên mượn đều
64
phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau) nhưng không phải là hợp đồng có đền bù. Bởi vì, trong hợp đồng này, bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn sử dụng sẽ mang lại lợi ích cho bên mượn (được khai thác công dụng của tài sản để mang lại lợi ích), còn nghĩa vụ trả lại tài sản mượn của bên mượn không mang lại bất kỳ lợi ích nào cho bên cho mượn.
4. Hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế
Thuật ngữ “hợp đồng ưng thuận” và “hợp đồng thực tế” không phải là các thuật ngữ pháp lý, bởi vì Bộ luật dân sự năm 2015 không có bất cứ điều nào đề cập các thuật ngữ này. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý, đặc biệt là khoa học luật dân sự, đây là những thuật ngữ được sử dụng để phân loại hợp đồng. Căn cứ để phân loại hợp đồng thành hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế chính là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Theo đó, hai loại hợp đồng này được hiểu như sau:
- Hợp đồng ưng thuận là hợp đồng phát sinh hiệu lực tại thời điểm giao kết hoặc thời điểm do các bên thỏa thuận.
- Hợp đồng thực tế là hợp đồng phát sinh hiệu lực tại thời điểm chuyển giao tài sản. Việc chuyển giao tài sản có thể biểu hiện ở những khía cạnh cơ bản như: bên giao hoàn thành việc giao tài sản; bên nhận nhận được tài sản; việc giao nhận tài sản đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận (đăng ký sang tên),... Tức là việc chuyển giao tài sản có thể thể hiện ở việc giao nhận trên thực tế, hoặc hoàn thành thủ tục xác nhận việc chuyển giao tài sản.
Liên quan đến thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, Bộ
65
luật dân sự năm 2015 có những quy định như sau: Khoản 1 Điều 401 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”.
Điều 458 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho động tài sản, theo đó khoản 1 Điều này quy định: “Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”, khoản 2 Điều này lại quy định: “Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký”.
Khoản 2 Điều 459 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho bất động sản như sau: “Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản”.
Thông qua những phân tích và liệt kê ở trên cho thấy, hầu hết các hợp đồng đều thuộc loại hợp đồng ưng thuận, tức là hầu hết các hợp đồng đều phát sinh hiệu lực tại thời điểm giao kết. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng (ví dụ hợp đồng có hiệu lực sau 5 ngày kể từ ngày ký, hoặc hợp đồng có hiệu lực tại thời điểm bên bán giao tài sản cho bên mua,...) thì hợp đồng đó cũng vẫn là hợp đồng ưng thuận, bởi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Nếu theo những phân tích và những trích dẫn quy định có liên quan ở trên, rất ít hợp đồng là hợp đồng
66
thực tế. Thường thì chỉ khi hợp đồng phát sinh hiệu lực tại thời điểm chuyển giao tài sản theo quy định của pháp luật thì mới là hợp đồng thực tế. Trong Bộ luật dân sự năm 2005, có hai hợp đồng thuộc nhóm hợp đồng thực tế là hợp đồng cầm cố tài sản1 và hợp đồng tặng cho tài sản2. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 310 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng cầm cố là hợp đồng ưng thuận chứ không phải là hợp đồng thực tế 3. Do đó, theo quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015, chỉ có hợp đồng tặng cho tài sản được xác định là hợp đồng thực tế.
5. Hợp đồng theo mẫu
Thông thường, khi giao kết hợp đồng, các bên được tự do bày tỏ ý chí về tất cả các nội dung của hợp đồng. Theo đó, tất cả các điều khoản đều được các bên thảo luận, trao đổi trước khi đưa ra quyết định (ví dụ, bà A ra cửa hàng gạo của bà B hỏi mua gạo, cả hai bên có quyền trao đổi và đề xuất ý kiến về mức giá cho phù hợp với loại gạo mà bà A muốn mua, sau khi thống nhất thì mới đi đến việc giao kết hợp đồng mua bán). Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp, bên đề nghị giao kết hợp đồng đưa ra một bản hợp đồng hoàn chỉnh với đầy đủ các điều khoản để cho bên được đề nghị xem xét, nếu chấp nhận giao kết thì ký vào bản hợp đồng có sẵn đó và phải chấp nhận toàn bộ nội dung của hợp đồng đó. Hợp đồng được ký kết trong trường hợp này được gọi là hợp đồng theo mẫu.
1, 2. Xem: Điều 328; Điều 466, 467 Bộ luật dân sự năm 2005.
3. Xem: Điều 310 Bộ luật dân sự năm 2015.
67
Theo quy định tại khoản 1 Điều 405 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng theo mẫu được hiểu như sau: “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra”. Có thể lấy ví dụ về các loại hợp đồng theo mẫu như hợp đồng mua bán điện, hợp đồng cung cấp dịch vụ internet, hợp đồng lao động, hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai,...
Theo quy định tại Điều 405 Bộ luật dân sự năm 2015, quá trình giao kết hợp đồng theo mẫu phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
Một là, bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải công khai hợp đồng để bên kia biết về tất cả các nội dung của hợp đồng. Ví dụ, trước khi ký hợp đồng sử dụng dịch vụ internet, bên cung ứng dịch vụ phải chuyển cho bên sử dụng dịch vụ một bản hợp đồng hoàn chỉnh để xem xét và cân nhắc về tất cả các điều khoản có trong hợp đồng.
Hai là, các điều khoản trong hợp đồng phải rõ ràng, cụ thể, tránh gây nhầm lẫn. Nếu có điều khoản không rõ ràng thì khi giải thích hợp đồng, bên đưa ra hợp đồng sẽ phải chịu bất lợi từ việc giải thích hợp đồng.
Ba là, nếu hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Ví dụ, trong hợp đồng mua bán căn hộ chung cư giữa bên A (bên bán) và bên B (bên mua), bên A đã đưa ra bản hợp đồng theo mẫu có sẵn. Trong đó có xác định:
68
“Nếu bên A không hoàn thành tiến độ giao nhà thì có quyền gia hạn thời hạn giao nhà nhưng không quá 3 tháng. Nếu bên B chậm thanh toán tiền theo các đợt thỏa thuận thì bên B phải chịu lãi chậm trả theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm thanh toán”. Đây là điều khoản nhằm miễn trách nhiệm của bên bán (bên đưa ra hợp đồng theo mẫu), tăng trách nhiệm của bên mua. Do đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 405 Bộ luật dân sự năm 2015, điều khoản này sẽ không có hiệu lực nếu các bên không có thỏa thuận gì khác.
Mặc dù hợp đồng theo mẫu là hợp đồng do một bên đưa ra tất cả các điều khoản để bên kia tham khảo và quyết định ký hoặc không ký. Tuy nhiên, điều này cũng không làm mất đi bản chất của hợp đồng đó là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên. Trong loại hợp đồng này, bên được đề nghị ký hợp đồng vẫn thể hiện được ý chí thông qua việc họ hoàn toàn có quyền quyết định ký hoặc không ký hợp đồng theo mẫu do bên đề nghị giao kết hợp đồng đưa ra.
6. Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba
Chúng ta đều biết rằng, lợi ích được coi là tiền đề của mọi quan hệ pháp luật (trong đó có quan hệ pháp luật về hợp đồng). Thông thường, các bên giao kết hợp đồng đều nhằm đạt được những lợi ích vật chất hoặc tinh thần nhất định. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, các chủ thể giao kết hợp đồng lại hướng tới việc đem lại lợi ích cho người khác. Hợp đồng loại này được gọi là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 402 Bộ luật dân sự
69
năm 2015, hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó. Theo khái niệm này, hai bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ để cho người thứ ba hưởng lợi ích (hợp đồng vận chuyển tài sản cho người thứ ba hưởng, hợp đồng bảo hiểm mà người thứ ba là người được hưởng bảo hiểm,...). Tuy nhiên, chúng ta cũng cần hiểu rằng, trong hợp đồng đó, không chỉ có người thứ ba mới được hưởng lợi ích, mà các chủ thể giao kết hợp đồng cũng được hưởng những lợi ích nhất định. Để chứng minh điều này, chúng ta cùng xem xét ví dụ sau:
Ví dụ, anh A muốn tặng anh B một món quà, nhưng do ở cách xa nhau, nên anh A đã ký hợp đồng vận chuyển với Công ty chuyển phát C. Theo đó, Công ty C có nghĩa vụ chuyển món quà đó đến tận tay anh B. Trong ví dụ này, anh A và Công ty C đều có nghĩa vụ, còn anh B được hưởng lợi ích (nhận món quà). Tuy nhiên, anh A phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền công vận chuyển và không được hưởng lợi ích gì từ việc ký hợp đồng vận chuyển, còn Công ty C có nghĩa vụ vận chuyển món quà đến cho anh B nhưng Công ty C đã được nhận tiền thù lao do anh A thanh toán. Rõ ràng, trong trường hợp này, ngoài anh B ra, Công ty C cũng là người được hưởng lợi ích.
Như vậy, xét về bản chất, hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba phải được hiểu là hợp đồng mà người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng chứ không phải đây là hợp đồng hoàn toàn vì lợi ích của người thứ ba. Bởi vì, ngoài người thứ ba ra, ít nhất một trong hai bên hợp đồng cũng được hưởng những lợi
70
ích nhất định.
71
Phần 2
CÁC HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
THÔNG DỤNG
I. CÁC HỢP ĐỒNG CÓ MỤC ĐÍCH CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI TÀI SẢN
1. Các hợp đồng thông dụng
Câu hỏi 44: Bà B mua của bà A 10 con gà mái với giá 800.000 đồng. Do nhà đang có việc nên bà B chưa nhận 10 con gà này ngay mà hẹn sau một tuần nữa sẽ sang nhận gà. Bà B thỏa thuận sẽ trả một nửa số tiền, một nửa số tiền còn lại khi nào nhận gà sẽ trả nốt. Do bà A chỉ đồng ý giữ gà cho bà B với điều kiện bà B phải trả toàn bộ số tiền 800.000 đồng nên bà B đã trả đầy đủ số tiền và thỏa thuận sẽ sang lấy 10 con gà vào tuần kế tiếp. Sáu ngày sau, số gà này đẻ ra 8 quả trứng và có hai con gà bị chết. Ngày hôm sau, sang nhận gà, nghe bà A kể chuyện, bà B đòi 8 quả trứng vì cho rằng gà là của mình nên trứng gà cũng phải là của mình. Ngoài ra, bà B yêu cầu bà A phải trả lại số tiền tương ứng với 2 con gà chết. Bà A phản đối với lý do số gà này bà vẫn đang phải trông coi nên trứng gà là của bà, còn bà B trả hết tiền rồi nên gà chết bà B phải chịu, bà A không có trách nhiệm gì. Căn cứ Bộ luật dân sự năm
72
2015, thì trường hợp này sẽ giải quyết như thế nào? Trả lời:
Theo Điều 430 Bộ luật dân sự năm 2015, giữa bà A và bà B đã thỏa thuận xác lập một hợp đồng mua bán tài sản, theo đó, bà A là bên bán, bà B là bên mua. Bà A có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu tài sản mua bán cho bà B và bà B có nghĩa vụ trả tiền cho bà A.
Theo Điều 431 Bộ luật dân sự năm 2015, đối tượng của hợp đồng mua bán này là 10 con gà mái. Căn cứ vào các loại tài sản thì đối tượng này thuộc loại vật, được tự do lưu thông. 10 con gà mái này thuộc sở hữu của người bán. Giả sử bà A và bà B thỏa thuận với nhau về việc mua bán một loại tài sản bị cấm lưu thông hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thì bên mua và bên bán cần phải có thêm những điều kiện phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng mua bán mới phát sinh hiệu lực.
Theo Điều 432 Bộ luật dân sự năm 2015, chất lượng của tài sản mua bán do bà A và bà B thỏa thuận. Tức là 10 con gà mái này hiện trạng như thế nào, được các bên chấp nhận và thống nhất. Nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là loại tài sản có chất lượng được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định thì thỏa thuận về chất lượng của tài sản giữa bên bán và bên mua không được thấp hơn chất lượng của tài sản được xác định theo tiêu chuẩn đã công bố hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo Điều 433 Bộ luật dân sự năm 2015, giá của tài sản mua bán trong hợp đồng này là 800.000 đồng, phương thức thanh toán trực tiếp, bằng tiền mặt, được xác định theo thỏa thuận của bà A và bà B. Giả thiết rằng
73
loại tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán thuộc trường hợp pháp luật quy định giá, phương thức thanh toán phải theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì thỏa thuận của các bên phải phù hợp với quy định đó. Nếu các bên trong hợp đồng mua bán không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng về giá (ví dụ: bà B chỉ thỏa thuận mua gà của bà A mà không xác định rõ giá mua bán là bao nhiêu tiền hoặc chỉ thỏa thuận sẽ thanh toán giá phù hợp) thì giá được xác định theo giá thị trường tại thời điểm các bên giao kết, phương thức thanh toán được xác định theo tập quán và thời điểm giao kết hợp đồng (ví dụ: tại làng quê mà bà A và bà B đang sinh sống có tập quán mọi giao dịch mua bán gia cầm đều phải thanh toán trực tiếp, đầy đủ, bằng tiền mặt, ngay sau khi nhận gia cầm thì bà A và bà B phải thực hiện theo tập quán này khi không có thỏa thuận về các nội dung đó).
Theo Điều 434 Bộ luật dân sự năm 2015, nghĩa vụ trả 800.000 đồng được thực hiện ngay khi bà A đồng ý bán 10 con gà cho bà B và nghĩa vụ giao gà được thực hiện sau 07 ngày kể từ thời điểm hai bên thống nhất về việc mua bán. Như vậy, thời hạn thực hiện hợp đồng mua bán trong tình huống này được xác định theo thỏa thuận của bên mua và bên bán. Giả sử rằng sau khi đã thống nhất, bà A muốn trả gà cho bà B trước 07 ngày thì bà B có quyền đồng ý nhận hay không. Nếu bà B không đồng ý thì bà A bắt buộc phải tiếp tục giữ số gà trên và chỉ được giao cho bà B theo đúng thời hạn đã thỏa thuận. Trường hợp các bên trong hợp đồng không thỏa thuận về thời hạn giao tài sản thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán giao tài sản và bên bán cũng có quyền yêu cầu bên mua nhận tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho
74
nhau trong khoảng thời gian hợp lý. Nếu các bên không xác định hoặc xác định không rõ ràng thời gian thanh toán thì bên mua phải thanh toán ngay tại thời điểm nhận tài sản mua hoặc nhận giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (với loại tài sản có giấy chứng nhận quyền sở hữu).
Theo Điều 435 Bộ luật dân sự năm 2015, địa điểm giao 10 con gà, đối tượng mua bán là tại nhà của bà A, theo thỏa thuận giữa bà A và bà B. Nếu các bên không có thỏa thuận thì địa điểm giao số gà trên phải là nhà của bà B (nơi cư trú của bên mua).
Trong quy định về hợp đồng mua bán tài sản không xác định thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng mua bán, do đó, thời điểm này được xác định theo quy định chung. Theo Điều 161 Bộ luật dân sự năm 2015, thời điểm xác lập quyền sở hữu (khi các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định) là thời điểm tài sản được chuyển giao. Như vậy, trong tình huống này, chỉ từ khi nhận số gà trên thì bà B mới là chủ sở hữu của số gà. Khoản 2 Điều 161 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định: “tài sản chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Do đó, số trứng gà sẽ thuộc về bà A.
Theo Điều 441 Bộ luật dân sự năm 2015, nếu số gà bị chết là do nguyên nhân khách quan (chỉ là rủi ro) thì bà A phải chịu trách nhiệm đối với số gà chết này bởi vì số gà chưa được giao cho bên mua. Giả thiết đối tượng hợp đồng mua bán là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành
75
thủ tục đăng ký, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Như vậy, bà A (bên bán) được hưởng 08 quả trứng do số gà đẻ ra trong thời gian bà A vẫn giữ số gà và bà A phải hoàn lại tiền tương ứng với 02 con gà cho bà B do bà là người phải chịu rủi ro đối với tài sản (trừ trường hợp chứng minh được số gà chết do lỗi của chủ thể khác).
Câu hỏi 45: Chị H đến cửa hàng điện máy của anh K để mua một chiếc điều hòa Panasonic trị giá 9 triệu đồng, có thời hạn bảo hành là 01 năm. Do đang có đợt khuyến mại hỗ trợ khách hàng nên sau khi trả đủ 9 triệu đồng, chị H để lại địa chỉ nhà cho anh K và anh K cho người mang chiếc điều hòa đến cho chị H. Để tiết kiệm chi phí, chị H cùng chồng đã tự mày mò lắp điều hòa vào phòng khách. Nhưng do không có kinh nghiệm nên vợ chồng chị đã cắm nguồn điện không theo yêu cầu của sản phẩm, dẫn đến chiếc điều hòa bị chập điện. Chị H yêu cầu anh K phải cho người đến bảo hành. Tuy nhiên, anh K cho rằng việc sản phẩm bị hỏng là do vợ chồng chị H tự gây ra, nếu cần sửa chữa thì cửa hàng anh K có dịch vụ sửa chữa nhưng chị H phải trả tiền vì đây không phải là nghĩa vụ của cửa hàng K. Căn cứ Bộ luật dân sự năm 2015, anh K có trách nhiệm bảo hành cho chị H không?
Trả lời:
Theo Điều 442 Bộ luật dân sự năm 2015, chi phí vận chuyển điều hòa trong trường hợp này do anh K chịu trách nhiệm (do các bên có thỏa thuận). Trường hợp các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì chi phí vận chuyển được xác định theo chi phí được công bố, quy định của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo
76
tiêu chuẩn ngành nghề. Nếu chi phí này không được quy định bởi cơ quan nhà nước hoặc văn bản pháp luật thì các chi phí này do bên bán phải chịu.
Theo Điều 443 Bộ luật dân sự năm 2015, việc sử dụng tài sản cũng như việc cung cấp các thông tin cần thiết về tài sản (chiếc điều hòa) thuộc về nghĩa vụ của bên bán. Như vậy, khi anh K không cung cấp các thông tin về chiếc điều hòa và không hướng dẫn sử dụng về tài sản là vi phạm nghĩa vụ của bên bán. Tuy nhiên, đối với trường hợp này, anh K có thể xác định việc mình không vi phạm nghĩa vụ bằng việc chứng minh mình đã giao điều hòa cùng toàn bộ giấy tờ có liên quan đến hướng dẫn sử dụng cũng như có liên quan đến các thông số kỹ thuật của chiếc điều hòa.
Theo quy định tại Điều 447 và Điều 448 Bộ luật dân sự năm 2015 thì trong thời hạn bảo hành, bên mua có quyền yêu cầu và bên bán có nghĩa vụ sửa chữa vật mua bán. Bên bán chịu chi phí về sửa chữa, vận chuyển vật đến nơi sửa chữa và từ nơi sửa chữa về đến nhà của người mua. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là việc chiếc điều hòa hỏng trong tình huống này có thể gây tranh cãi và khó áp dụng chính xác quy định của pháp luật vì đây chưa chắc là khuyết tật của tài sản mua bán và thiệt hại này có phải xuất phát từ lỗi của anh K (bên bán) hay không là chưa rõ ràng (khi đối chiếu các quy định pháp luật) vì có thể do lỗi lắp đặt của chồng chị H.
Câu hỏi 46: Anh C là người bán hàng của Công ty trách nhiệm hữu hạn X chuyên cung cấp máy photocopy cho các văn phòng. Anh C đến văn phòng ABC, gặp gỡ và giới thiệu cho chủ văn phòng là anh D chiếc máy
77
photocopy được sản xuất theo công nghệ mới. Để giới thiệu về các tính năng ưu việt của máy, anh C đưa ra đề nghị để hai chiếc máy này tại văn phòng cho nhân viên của anh D dùng thử trong 07 ngày sau đó sẽ mua để văn phòng kiểm tra chất lượng và kỹ thuật của máy, anh C sẽ cung cấp cho văn phòng 3 hộp giấy A4 và 2 ống mực cho mỗi máy photocopy. Sau khi anh D đồng ý, anh C đã cho người mang máy, giấy và mực cung cấp cho văn phòng đúng như giao hẹn. Sau 10 ngày, anh D mới nhớ ra thời hạn hai bên thỏa thuận đã hết nên gọi điện thoại yêu cầu anh C đến lấy lại máy và trả lời là không mua do không có nhu cầu dù chất lượng máy rất tốt, đúng như giới thiệu của anh C. Tuy vậy, anh C cho rằng nếu không vì chất lượng của máy không đúng như giới thiệu thì văn phòng anh D bắt buộc phải mua do đã xác lập thỏa thuận dùng thử máy photocopy với mình và không chấp nhận việc từ chối mua của anh D. Sau đó, nhân viên văn phòng có báo cáo với anh D về việc sau khi nhận máy được 02 ngày, do bị cắt điện đột ngột dẫn đến xung điện một trong hai chiếc máy bị hỏng chức năng photo hai mặt đối với văn bản. Xin hỏi, căn cứ Bộ luật dân sự năm 2015, trường hợp này sẽ được giải quyết như thế nào?
Trả lời:
Theo Điều 452 Bộ luật dân sự năm 2015, trường hợp này giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn X và văn phòng của anh D đã xác lập với nhau một hợp đồng mua bán trong trường hợp đặc biệt, đó là thỏa thuận mua sau khi dùng thử. Theo đó, vật dùng thử là 02 chiếc máy photocopy, thời hạn dùng thử là 07 ngày. Trong thời hạn
78