🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Chuyện Kể Về Tấm Gương Trung Thực, Trách Nhiệm, Gắn Bó Với Nhân Dân Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Ebooks
Nhóm Zalo
NHỮNG CHUYỆN KỂ VỀ
TẤM GƯƠNG TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM, GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
PGS.TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng
PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI
TS. NGUYỄN AN TIÊM
NGUYỄN VŨ THANH HẢO
LÊ TRANG
(Sưu tầm)
NHỮNG CHUYỆN KỂ VỀ
TẤM GƯƠNG TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM, GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN CỦA
Chủ tịch HỒ CHÍ MINH
NHÀ XUẤT BẢN
CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
NHÀ XUẤT BẢN
THÔNG TIN TRUYỀN THÔNG
HÀ NỘI - 2016
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Trong những năm qua, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã xuất bản nhiều cuốn sách tập hợp những bài viết dưới dạng hồi ký, giản dị nhưng rất cảm động của cán bộ, chiến sĩ đã từng phục vụ, sống và làm việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh hoặc trong cuộc đời có may mắn, hạnh phúc được một lần gặp Bác, nhận từ Bác những chỉ dẫn ân cần và tình thương yêu vô bờ bến.
Từ những cuốn sách đã được công bố, tác giả Lê Trang đã tuyển chọn một số bài viết và được Nhà xuất bản Thông tin truyền thông xuất bản thành cuốn sách Những chuyện kể về tấm gương trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuốn sách này được Hội đồng chỉ đạo xuất bản sách trang bị cho xã, phường, thị trấn phê duyệt xuất bản năm 2016.
Từ cách sắp xếp tản mạn trong bản thảo của Nhà xuất bản Thông tin truyền thông, chúng tôi tổ hợp, cấu trúc lại, sắp xếp các bài viết có chủ đề gần nhau, chẳng hạn như Bác Hồ với cán bộ, chiến sĩ, Bác Hồ với miền Nam, Bác Hồ đi thăm các địa phương đơn vị, những ngày tháng cuối cùng của Bác Hồ... thành từng cụm để
5
bạn đọc tiện theo dõi. Các bài viết ở từng chủ đề được đặt theo trật tự thời gian diễn ra câu chuyện. Xuất bản cuốn sách nhỏ này, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật mong muốn giúp cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn có thêm hiểu biết về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần thực hiện thắng lợi Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 8 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6
CÓ THỂ CHO NGƯỜI NGHÈO
NHỮNG THỨ ẤY
Khoảng năm 1914, Bác Hồ - lúc bấy giờ gọi là Nguyễn Tất Thành - đã đến Luân Đôn - Thủ đô của nước Anh. Ở đây, có thời gian Bác phải làm phụ bếp cho khách sạn Cáctơn1.
Ở khách sạn Cáctơn, hằng ngày có người phục vụ dưới bếp. Những người này, sau khi khách ăn xong, có nhiệm vụ phải thu dọn bát đĩa... và đổ tất cả thức ăn thừa vào một cái thùng to rồi sau đó đem đổ đi. Có khi những thức ăn thừa là một phần tư con gà, hay cả đĩa bánh mỳ và những miếng bít tết to tướng...
Đến lượt anh Thành làm phụ bếp, những thức ăn thừa của khách, anh đem để riêng và đậy lại cẩn thận sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng rồi đưa cho nhà bếp.
Thấy vậy ông đầu bếp Étcốtphie hỏi lại anh: - Tại sao anh không đem những thức ăn này đổ vào thùng như những người khác?
____________
1. Một khách sạn nổi tiếng ở Luân Đôn do ông Étcốtphie người Pháp làm đầu bếp.
7
Anh Thành điềm tĩnh trả lời:
- Không nên đem vứt những thứ này đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy.
Câu nói của anh Thành làm cho ông đầu bếp rất ngạc nhiên, vì ông thấy từ trước tới nay, chưa có ai ở khách sạn này nghĩ và nói như anh Thành.
Ông chủ bếp và mọi người nhìn anh biểu hiện một sự quý mến và khâm phục trước tấm lòng yêu thương của anh đối với những người nghèo.
Nguồn: Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
8
BÁC QUAN TÂM CHĂM SÓC CÁN BỘ
Tháng 2-1941, Bác Hồ về Pác Bó. Để trực tiếp chỉ đạo phong trào và bồi dưỡng cán bộ, Bác cho mấy anh em Huyện ủy Hà Quảng (Cao Bằng) đang hoạt động bí mật ở cùng với Bác. Ngoài các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Đặng Văn Cáp... đi theo Bác, lúc này trong hang có thêm các đồng chí Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm, Thuỵ Hùng, Đức Thanh và tôi.
Hồi ấy, có đồng chí Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm phụ trách bảo vệ cơ quan Bác và tổng Lục Khu. Còn tôi thì được phân công trực tiếp phụ trách tổng Hà Quảng (gồm những xã Sóc Hà, Nà Sắc và vùng mỏ Sắt bấy giờ), kiêm nhiệm vụ kiểm tra tổng Thông Nông.
Trước khi chúng tôi đi xuống cơ sở công tác, bao giờ Bác cũng bảo báo cáo chương trình, kế hoạch cụ thể cho Bác nghe. Bác bổ sung thêm rồi bảo chúng tôi nhắc lại thật đúng rồi mới cho đi. Do đó, bọn tôi rất vững dạ, như người đi rừng có địa bàn trong tay.
Cứ mỗi lần có đồng chí rời hang là Bác lại lo lắng: lo sao anh em được bình yên trở về, thoát khỏi mọi
9
sự bất trắc dọc đường. Khi thấy anh em về, Bác vui hẳn lên. Câu đầu tiên Bác nói là hỏi han sức khoẻ, sau đó cho anh em nghỉ ngơi, tắm giặt, rồi mới làm việc. Lúc ấy, phong trào đang lên, công việc rất nhiều, nên anh em chúng tôi không ai muốn nghỉ, đợi được báo cáo tình hình, xong là đi ngay. Nhưng Bác không đồng ý.
Thỉnh thoảng đi công tác về, chúng tôi lại được Bác chia cho kẹo. Hỏi đồng chí Cáp mới biết đó là quà của nhân dân Pác Bó đi chợ mua về biếu Bác. Bác chỉ ăn một, hai chiếc. Còn bao nhiêu gói lại, cất vào ống tre, Bác bảo:
- Để dành cho các chú ấy đi công tác về ăn. Quà của Bác tuy nhỏ, nhưng cử chỉ của Bác là cả một tình thương, có sức động viên chúng tôi rất mạnh. Mỗi lần đi lâu ngày mới về, bao giờ Bác cũng dặn đồng chí cấp dưỡng cố gắng tìm mua thức ăn về “thết tiệc” anh em. Gọi là tiệc, nhưng chỉ thêm vài miếng thịt lợn luộc chấm muối. Ở hang, nhưng hằng ngày Bác vẫn giữ đúng giờ giấc. Đến giờ, nếu ai ngủ chưa dậy thì Bác khẽ đánh thức. Song, đối với anh em chúng tôi mới đi công tác về, Bác bảo anh em khác phải im lặng, giữ ý từng bước chân, để chúng tôi được ngủ thêm một lúc.
Tôi còn nhớ một lần, đồng chí Đức Thanh đi công tác về bị ốm, nằm liệt giường. Bác buồn lắm. Bác bảo đồng chí Cáp vào rừng lấy lá thuốc về cho
10
đồng chí Thanh uống và xông. Chốc chốc Bác lại đến sờ trán đồng chí Đức Thanh.
Ngồi làm việc ở một góc hang, tôi im lặng theo dõi từng cử chỉ của Bác. Nhìn nét mặt lo âu của Bác, tôi bỗng nhớ đến lúc còn bé, bị ốm chốc chốc mẹ lại sờ trán tôi, nét mặt vui buồn đều gắn vào độ nóng, lạnh trong người tôi truyền qua bàn tay nhăn nheo của mẹ. Cử chỉ của Bác trong lúc này chẳng khác dáng dấp của mẹ tôi khi xưa.
Những tình cảm sâu sắc của Bác đối với chúng tôi hơn ruột thịt, đã động viên chúng tôi vượt qua mọi khó khăn gian khổ những năm tháng sống trong hang giữa rừng.
Hoàng Tô (nguyên Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam Khu tự trị Việt
Bắc) kể.
Nguồn: Bác Hồ sống mãi với chúng ta,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,
tr.596-598.
11
BÁC THƯƠNG YÊU CÁN BỘ
Bác thương yêu cán bộ rất chân thực, mộc mạc và xuất phát từ đáy lòng. Trong tám đồng chí: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi thì đồng chí Lợi là người Nùng ở Cao Bằng. Anh bảo vệ Bác mấy năm thì xin Bác về với gia đình. Bác tiếc nhưng thông cảm với hoàn cảnh, biết lưu lại không được nên phải cho đồng chí Lợi về. Bác luôn luôn nhớ đồng chí Lợi. Hồi đó tôi công tác tại Cao Bằng. Hai lần được sang báo cáo công tác với Bác, Bác đều dặn tôi lên nói với địa phương thăm nom đồng chí Lợi, giúp đỡ khi ốm đau, kể cả đối với gia đình đồng chí.
Những lúc báo cáo công việc cũng chính là lúc được Bác giáo dục. Bác giao cho tôi và các đồng chí Tỉnh ủy Cao Bằng và ủy ban phải khéo giữ yên ổn vùng biên giới để khỏi bị bọn thân Pháp và phản động ở biên giới quấy rối ta trong lúc ta đang phải tập trung chống Pháp.
Nói chung chúng tôi đã thực hiện được lời Bác dặn. Riêng tôi vì có quan hệ buôn bán với bọn cầm đầu ở biên giới trong chính quyền và quân đội nên
12
quan hệ đôi bên cũng yên ổn. Có lần tôi về báo cáo ngắn gọn. Sau khi nghe xong Bác vui vẻ nhận xét rồi dặn thêm mấy điều mà đến nay tôi còn nhớ mãi. Bác dặn:
- Bọn đặc vụ thân Pháp đang hoạt động ở biên giới để tìm hiểu tình hình của ta và phá hoại ta. Khi sang giao thiệp có gì đáng nói hãy nói, cái gì không đáng nói thì đừng nói. Ngay trong gia đình cũng có những việc không nên nói cho bên ngoài biết. Chú đừng thật thà quá. Đi với Phật phải mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Các chú giữ yên biên giới như thế là tốt, nhưng thành ngữ có câu: “Cư yên tư nguy, cư trị bất vong loạn”1. Chú có hiểu hai câu đó không?
- Thưa Bác có ạ.
Bác cười. Thế là tôi lại khoác ba lô từ giã Bác để đi Cao Bằng. Khi đi đường tôi suy nghĩ thấy Bác thật là một bậc túc nho. Bác thuộc rất nhiều thành ngữ Hán, sử dụng rất nhuần nhuyễn và mỗi khi dùng thành ngữ là một lần Bác giáo dục cán bộ, để cho cán bộ trưởng thành mà không cần nói dài.
Nguồn: Bác Hồ sống mãi với chúng ta,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
____________
1. “Cư an tư nguy, cư trị bất vong loạn”: đại ý là lúc yên, vẫn phải nghĩ đến những mối nguy tiềm ẩn, sống yên bình phải nghĩ đến lúc nguy biến.
13
HÌNH ẢNH BÁC
HÌNH ẢNH DÂN TỘC
Sau Chiến dịch biên giới, tôi lại có lần được theo Bác đi công tác. Ở Chiến dịch biên giới, ta có thu được một ít ô tô quân sự của địch. Bộ Tổng tư lệnh đã đưa một xe đến để Bác đi công tác. Đây là lần đầu tiên trong kháng chiến Bác đi công tác bằng xe ô tô. Để tránh máy bay địch, cứ chập chiều ô tô mới chạy.
Lái xe là một đồng chí bộ đội trẻ, tính vui nhộn. Đi công tác, Bác và anh em chúng tôi đều ăn chung với nhau. Một hôm đồng chí cấp dưỡng tìm được con chim rất béo, đem quay để phần Bác. Lúc ăn, Bác lại đem chia đều cho tất cả mọi người và chỉ nhận cho mình một phần bằng những người
khác. Xong, Bác gắp cái đầu cho đồng chí bác sĩ: - Chú suy nghĩ nhiều cho cái đầu.
Bác gắp đôi cánh cho đồng chí vận tải: - Chú mang vác nhiều cho đôi cánh.
Bác gắp cho đồng chí lái xe:
- Chú chạy nhiều cho cái “giò”
14
Hôm sau, trên đường ô tô bị hỏng. Đồng chí lái xe luống cuống lo lắng.
Bác xuống xe, bảo đồng chí bộ đội lái xe: - Chú cứ bình tĩnh sửa chữa.
Thấy đồng chí lái xe loay hoay mãi, Bác hỏi: - Xe hỏng bộ phận nào?
Đồng chí lái xe đáp, rồi tay chỉ vào bộ phận hỏng. Lát sau chỗ hỏng được chữa. Bác bảo đồng chí lái xe ngồi vào lái, Bác quay động cơ cho. Nói rồi Bác lấy ngay chiếc maniven, móc vào đầu máy quay mạnh một vòng. Chiếc xe nổ ậm ạch rồi tắt. Bác lại quay mạnh một vòng nữa, chiếc xe nổ máy giòn tan. Như một phản ứng tự nhiên, tôi liền đưa máy lên chụp Bác.
Khi về tráng phim, tôi rất mừng. Hình ảnh Bác quay động cơ ô tô giúp đồng chí bộ đội lái xe, đã được ghi lại. Bác cui cúi, hai chân vững chãi, cánh tay rắn khoẻ, chiếc khăn quàng một bên buông xuống gương mặt Bác chăm chú gần gũi...
Nhà nhiếp ảnh Đinh Đăng Định kể,
Đăng Trung ghi.
Nguồn: Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Tác
phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội,
1980.
15
LÀM SAO LO CHO CÁC CHÁU ĂN NO, CÓ QUẦN ÁO MẶC
Tháng 8-1945, Ủy ban cách mạng họp ở đình Tân Trào, có đại biểu khắp nơi đến dự để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc. Bác Hồ và các đại biểu đang ngồi họp ở đình Tân Trào thì đồng bào địa phương - đại biểu các dân tộc Tày, Trại, Nùng đến chào mừng, thăm hỏi. Hôm đó có khoảng hai, ba em nhỏ chừng ba bốn tuổi trong xóm ra chơi trước đình.
Các em đều xanh gầy, bụng ỏng, đít beo, lại trần truồng, lấm lem, đi chân đất. Bác Hồ trông thấy rất thương, xúc động, chỉ các cháu, Bác nói với đại biểu đến dự đại hội Tân Trào:
Nhiệm vụ của chúng ta là làm sao cho các cháu được ăn no, có quần áo mặc. Câu nói đó của Người mãi mãi ghi sâu trong trí nhớ mọi người có mặt trong buổi họp và ai cũng thấy có trách nhiệm thiêng liêng chăm lo cho đời sống trẻ em được no cơm, ấm áo.
Theo lời kể của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Nguồn: Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm
gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
16
Ở TÂN TRÀO VỚI BÁC
Ở Tân Trào, Bác cũng ở trong lán dựng trước cửa một cái hang. Với chiếc máy chữ nhỏ đặt trên cái bàn nứa trong lán, Bác làm việc ở đó, và ăn ngủ cũng ở đó.
Cây đa Tân Trào.
Bác bận rộn suốt ngày. Các đồng chí trong Trung ương thường xuyên đến họp bàn, xin ý kiến, nhận chỉ thị của Bác. Các đoàn thể, đồng bào địa phương cũng thường lui tới thăm hỏi Bác.
Bác đi tới đâu cũng chiếm được tình cảm của đồng bào. Chỉ một thời gian ngắn ở Tân Trào mà từ cụ già đến em nhỏ ai cũng hết sức kính trọng, thương yêu Bác như chính người ruột thịt của mình. Đồng bào gọi Bác là ông Ké - ông Ké Nùng, ông Ké Tày. Có chút thịt rừng săn bắn được, hay ngọn măng, con cá, mớ rau đồng bào cũng đem đến biếu Bác. Thường thì Bác chỉ cảm ơn chứ không nhận. Bác không bao giờ làm phiền đồng bào. Đôi khi quá nể phải nhận thì Bác bảo nhà bếp nấu lên, Bác cháu cùng chia ngọt sẻ bùi.
Sinh hoạt quá kham khổ, Bác lại có tuổi mà phải làm việc quá nhiều, sức khỏe sút kém nên
17
thỉnh thoảng Bác bị sốt. Lần ấy Bác sốt cao, kéo dài. Chúng tôi rất lo lắng. Thuốc men không có đủ. Bác sốt vậy mà vẫn cứ làm việc không chịu ngủ.
Tôi ở cái lán bên cạnh lán của Bác. Đêm ấy, thấy Bác vẫn thức làm việc đến tận khuya mà cơn sốt vẫn chưa dứt, tôi đánh liều bước vào thưa:
- Thưa Bác, đã khuya rồi Bác lại đang sốt, xin Bác đi nghỉ.
Bác nhìn tôi âu yếm:
- Đến phiên chú gác à? Bác sợ sốt mà nằm là nó lấn tới. Phải hoạt động, làm việc, vã được mồ hôi ra sẽ nhẹ người, rất tốt.
Thế là Bác lại tiếp tục làm việc. Tôi nhìn mà thương quá. Người Bác gầy đi nhiều. Chòm râu, mái tóc đã thêm nhiều sợi bạc. Bác cặm cụi bên ngọn đèn, lúc quá mệt, Người bước ra vươn vai, hít thở khí trời, đi lại xem anh em chúng tôi ngủ có ngon lành, canh gác có nghiêm, chặt không. Bác giắt lại màn, vén lại chăn cho từng người, rồi Bác lại tiếp tục làm việc.
Bao giờ cũng vậy, chỉ đến khi con chim từ quy đã kêu quá nửa vòng núi, tức đã gần sáng, Bác mới đi ngủ.
...
Hôm sau, tôi báo cáo với các đồng chí cấp trên, bàn phải tìm thầy lang. Ở bản bên cạnh, có một bà lang có tiếng, chúng tôi mời bà đến thăm bệnh cho Bác. Bác không phản đối nhưng Bác cũng không nói gì.
Sau khi thăm bệnh nhân, bà lang đã bảo tôi đi tìm mấy thứ lá cây theo chỉ dẫn của bà đem về.
18
Các loại lá được đun sôi để Bác xông. Nhưng trước khi xông, bà lang dùng cành lá quay chung quanh như phù phép. Bác vẫn ngồi điềm nhiên. Tôi không dám cười. Tôi cứ nghĩ một người cộng sản như Bác làm sao lại có thể tin vào cái trò phù phép ấy. Nhưng sao Bác lại cứ để yên cho bà lang làm như thế, mà không thấy trên nét mặt Bác tỏ ra một thái độ gì.
Cuối cùng bà lang đã bảo Bác xông và sau đó uống thuốc nam.
Đúng là xông xong, Bác thấy người nhẹ nhõm, thoải mái hơn. Bác lại tiếp tục công việc. Mãi đến giờ nghỉ chiều, hai Bác cháu ra bờ suối tưới rau, tôi mới dám hỏi Bác chuyện ấy:
- Thưa Bác, bà lang làm phép như vậy có thể tin không ạ?
Bác cười:
- Bác biết bà lang là người biết cách chữa bệnh bằng cả phương pháp tâm lý nữa. Mình không nên làm phật ý người ta. Vận động, tuyên truyền đồng bào trừ mê tín là việc làm lâu dài, phải kiên trì, không được nôn nóng.
Nghe lời Bác dạy, tôi mới hiểu thêm bài học về cách cư xử của Bác với đồng bào địa phương, cách thức tuyên truyền vận động quần chúng của Bác. Tôi tự rút ra cho mình một bài học trong quan hệ với nhân dân.
Nguồn: Bác Hồ sống mãi với chúng ta,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
19
NHỮNG LỜI BÁC DẠY
Tôi có một niềm hạnh phúc rất lớn là được gặp và làm việc bên Bác Hồ vào những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám và những tháng đầu năm 1950. Những kỷ niệm sâu sắc được sống bên Bác không bao giờ tôi quên.
Hồi đầu Cách mạng Tháng Tám, Hà Nội chuẩn bị đón quân Đồng minh vào tiếp nhận phát xít Nhật đầu hàng. Các đồng chí ở Văn hoá cứu quốc trao trách nhiệm cho đồng chí Nguyễn Huy Tưởng và tôi phụ trách các khẩu hiệu treo ở đường phố. Thủ đô Hà Nội trong những ngày ấy rợp màu đỏ của cờ và khẩu hiệu. Các khẩu hiệu trên băng đỏ, chữ vàng chói lọi bằng các thứ tiếng Việt, Nga, Anh, Pháp với nội dung:
“Nước Việt Nam của người Việt Nam”
“Độc lập hay là chết!”
“Hoan hô những người giải phóng cho chúng ta”. Một hôm, Nguyễn Huy Tưởng cùng đi với tôi trên các hè phố Hà Nội, anh cười bảo tôi: “Khoa này, những khẩu hiệu và cờ như choàng cho Thủ đô chiếc áo ngày cưới”.
20
Đến tối, chúng tôi được biết Bác Hồ chỉ thị phải bỏ khẩu hiệu: “Hoan hô những người giải phóng cho chúng ta”. Bác bảo: Cách mạng Tháng Tám do Đảng ta lãnh đạo chúng ta đấu tranh gian khổ với thực dân Pháp và phát xít Nhật để giành lại chính quyền, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, chứ có ai đến giải phóng cho chúng ta đâu mà các chú làm khẩu hiệu “Hoan hô những người giải phóng cho chúng ta”.
Nguyễn Huy Tưởng và tôi ngay đêm hôm ấy mượn cái xe cam nhông của Toà Thị chính Hà Nội để đi các phố gỡ những khẩu hiệu non yếu về chính trị của chúng tôi.
Bác Hồ của chúng cháu! Chúng cháu nhớ mãi kỷ niệm này của đời một người cán bộ cách mạng: Độc lập, Tự do không nhờ ai đem đến cho mình được. Phải có Đảng lãnh đạo, phải đem xương máu của dân tộc mình ra giành lấy và bảo vệ lấy.
Sau đó, tôi được Đảng điều đến làm việc ở văn phòng Bác. Hôm đến làm việc với Bác, một cử chỉ rất thân mật của Bác làm tôi xúc động, nước mắt cứ trào ra. Bác để tay lên vai tôi, và một tay Bác cài chiếc khuy cổ áo sơ mi cho tôi. Tôi ăn mặc cũng chỉnh tề lắm, nhưng chiếc khuy cổ áo quên không cài. Bác bảo: “Chú làm công tác với những người nước ngoài phải nhớ ăn mặc cho tươm tất”. Lời nói của Bác như một người cha dạy đứa con nhỏ. Năm ấy tôi đã 30 tuổi và cho đến ngày nay và mãi mãi,
21
mỗi khi nghĩ đến cử chỉ thân mật của Bác Hồ, tôi vẫn giữ niềm vui như một đứa trẻ nhỏ được người cha già chăm nom săn sóc cho từng ly từng tí.
Những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, bao nhiêu khó khăn gian khổ: giặc ngoài thù trong giở đủ trò đủ quẻ, ra sức phá hoại cách mạng. Trong những ngày sóng gió như thế, Bác Hồ đã vững tay lái, đưa dân tộc ta qua bao nỗi khó khăn, hiểm nghèo. Tôi nhớ hồi đó, một buổi sáng, đồng chí T. lại đến báo cáo tình hình với Bác. Bọn giặc làm lắm điều ức không thể chịu được. Bọn phản động trong nước cũng ra sức hoành hành. Đồng chí T. gặp phải nhiều khó khăn quá cũng phải lắc đầu. Bác Hồ bình tĩnh bảo: “Cái đầu của chú trong lúc này không được lắc. Để giành được cái to lớn và quý báu, tạm thời chúng quấy nhiễu đòi hỏi gì cũng phải gật”.
Câu nói của Bác đến nay tôi vẫn còn nhớ như in. Bác đã dạy cho những người yêu nước một nhân sinh quan cách mạng: nếu cứu được nước thì dù bao nhiêu cay đắng cũng phải chịu. Càng nghĩ đến câu nói ngày ấy của Bác, cháu càng thấy thấm thía lời Bác dạy ngày nay: Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do.
Năm 1950, tôi lại có dịp được Đảng giao cho đi công tác bên Bác Hồ. Trong khi đi đường, Bác hỏi tôi: Chú Khoa làm công tác văn nghệ có thuộc Chinh phụ ngâm không? Tôi trả lời: Thưa Bác, cháu thuộc từng đoạn thôi ạ.
22
Bác bảo tôi: “Làm công tác văn nghệ mà không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc thì không làm được đâu”. Và từ hôm ấy trong khi đi đường, mỗi buổi sáng, Bác dạy tôi bốn câu trong Chinh phụ ngâm,
buổi chiều Bác bảo tôi đọc lại, rồi Bác lại dạy tôi bốn câu tiếp. Cứ thế trong mấy chục ngày đường đi bộ, Bác dạy tôi thuộc lòng cuốn Chinh phụ ngâm từ đầu đến cuối.
Thỉnh thoảng Bác lại hỏi tôi xem có hiểu nghĩa câu văn cho thực sâu không, và Bác bảo tôi ngâm những đoạn Bác thích. Thỉnh thoảng Bác động viên tôi: “Giọng chú ngâm cũng khá đấy!”. Hai Bác cháu cùng cười. Bác bảo: “Đi đường ngâm nga như thế vừa vui vừa quên cái mệt”. Bác đi bộ khoẻ lắm. Có giờ Bác đi tới sáu cây số. Trên những quãng đường vắng của núi rừng Việt Bắc, một ông già mặc bộ quần áo chàm, đầu đội chiếc nón, vai khoác chiếc túi vải xanh trong đựng một cuốn sổ tay, một hộp thuốc lá, một chiếc bật lửa và một chiếc khăn mặt, đó là hình ảnh Hồ Chủ tịch đi bộ hàng chục ngày đường trèo đèo, lội suối để làm việc cho Tổ quốc trong những ngày lịch sử vô cùng trọng đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta! Bác ơi, ngồi viết lại những dòng hồi ký này trong đêm khuya tĩnh mịch, nước mắt cháu trào ra vì đau thương, vì nhớ Bác. Những ngày cháu được công tác bên Bác, cháu đã được nghe Bác kể chuyện những ngày Bác
23
bị tù trong tay bọn Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch. Cả cuộc đời Bác là của giai cấp, của dân tộc, của Tổ quốc. Bác đã dạy dỗ cháu, dìu dắt cháu. Mỗi lần chúng cháu làm xong một phim và được vinh dự đem chiếu để Bác xem, Bác chỉ bảo cho chúng cháu: người làm công tác nghệ thuật phải làm thế nào phục vụ nhân dân được tốt, phải làm gì cho xứng đáng là nghệ sĩ cách mạng.
Chúng cháu nguyện nghe theo lời Bác, cố gắng đấu tranh với bản thân mình, trau dồi đạo đức cách mạng, trau dồi nghệ thuật để xứng đáng đứng trong hàng ngũ những người nghệ sĩ cách mạng, dưới ngọn cờ của Bác.
Nguồn: Người là Hồ Chí Minh (Tập hồi ký),
Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995.
24
BÁC HỒ VÀ TẾT BÍNH TUẤT NĂM 1946
Không hiểu từ bao giờ, Tết Âm lịch đã trở nên thiêng liêng đối với mỗi người dân Việt Nam. Tết Bính Tuất đến chỉ sau ngày Bác tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hơn năm tháng. Vì vậy không chỉ người dân Hà Nội mà mọi người dân trong cả nước đều nghĩ đến Tết độc lập đầu tiên sớm hơn mọi năm. Một tuần nữa mới tới ngày ông Táo lên trời mà mọi nhà đã sửa soạn cả rồi. Đối với Bác Hồ, mặc dù bận trăm công nghìn việc của Chính phủ mới, nhưng vẫn không quên lo Tết cho đồng bào, chiến sĩ.
Tối ngày 19-1-1946, Bác hỏi tôi:
- Chú Cần xem sắp đến ngày Tết ông Táo chưa nhỉ?
- Thưa Bác, hôm nay mới là 18 tháng Chạp, còn năm ngày nữa ạ.
Đêm đó, Bác trằn trọc không ngủ. Nghe tiếng cựa mình, tôi biết Bác còn thức. Chắc giờ này Bác đang nghĩ nhiều đến đồng bào và chiến sĩ cả nước. Sáng 20, Bác gọi tôi lại, bảo lấy giấy bút, Bác đọc cho viết thư kêu gọi đồng bào nhân dịp Tết sắp đến.
25
Thư ngắn gọn và tôi cứ tưởng như Bác đang nói chuyện với mọi người: “Tôi kêu gọi đồng bào và các đoàn thể làm thế nào để chia sẻ cuộc vui Xuân mừng Tết với:
Những chiến sĩ oanh liệt ở trước mặt trận, Những gia quyến các chiến sĩ,
Những đồng bào nghèo nàn,
Sao cho mọi người đều được hưởng các thú vui về Tết Xuân đầu tiên của nước Việt Nam độc lập”1. Ngay chiều hôm đó, Bác lại viết thư gửi thanh niên và nhi đồng. Bác gửi riêng cho thanh niên và nhi đồng bởi đây là những chủ nhân tương lai của đất nước, cả nước đang đặt niềm tin vào thế hệ trẻ mà thư trước Bác chưa nhắc đến. Bác đọc chậm rãi cho tôi viết và cẩn thận sửa lại một số từ mà Bác chưa vừa lòng. Lời so sánh trong thư làm cho bất cứ bạn trẻ nào khi đọc, khi nghe cũng đều thấy một sức xuân phơi phới trong mình: “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”2. Thư Bác khuyên bảo: “Năm mới, chúng ta thực hành đời sống mới để trở nên những công dân mới, xứng đáng với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”3. Ngày 1-2-1946, tức 30 Tết, từ sáng sớm anh Cả (tức đồng chí Nguyễn Lương Bằng) mang đến hai ____________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, t.4, tr.186, 194.
26
bọc nói là Bác đã dặn. Chiều lúc đi làm về, Bác nói với tôi:
- Tối nay chú đưa Bác đến thăm một số gia đình Tết nghèo, Tết vừa, Tết khá, Tết sang. Chú không phải báo trước cho bất cứ ai.
Bác lại dặn chỉ cần hai bảo vệ, một lái xe đi cùng nên tôi rất lo lắng, bởi ta vừa giành được chính quyền, các thế lực phản động vẫn đang rắp tâm phá hoại cách mạng. Thấy tôi không yên tâm Bác giải thích và động viên: “Chú có biết cách bảo vệ tốt nhất là gì không? Bảo vệ tốt nhất là bí mật và bất ngờ!”.
Bác nói thêm:
- Dân ta rất tốt. Chú phải tin vào dân. Lời nói của Bác làm tôi bình tĩnh hơn, nhưng vẫn chưa hết lo. Là một cán bộ hoạt động bí mật ở Hà Nội, tôi hiểu khá tường tận các đường phố nên sắp sẵn trong đầu những chỗ sẽ đến, những phố sẽ đi qua làm thế nào để đường đi ngắn và an toàn. 19 giờ ngày 30 Tết, trời tối đen. Cái tối đêm 30. Trời rét ngọt. Năm Bác cháu lên xe. Xe chạy qua từng phố vắng vẻ. Cái ồn ào, sôi động của không khí đón Tết giờ này đã chuyển vào trong từng ngôi nhà, để lại cho đường phố một vẻ yên tĩnh lạ thường. Xe dừng lại ở đầu ngõ Hàng Đũa, phố Sinh Từ. Bác cháu lần mò vào trong ngõ. Đường mấp mô, có lúc phải bật đèn pin. Tôi đưa Bác vào một nhà ở cuối ngõ, gọi cửa không thấy tiếng trả lời. Không cài then, tôi đẩy cửa vào một căn phòng
27
hẹp lạnh lẽo. Ngọn đèn dầu nhỏ không đủ soi sáng. Tôi hỏi to:
- Nhà có ai không?
Chỉ có tiếng rên từ một chiếc võng tre kê sát vách. Lại gần thấy một người đắp chiếu đang rên. Tôi ghé vào đầu giường nói:
- Cụ Hồ đến chúc Tết đấy!
Không thấy tiếng đáp lại, nhưng tiếng rên không to nữa. Tôi rờ tay lên trán chủ nhà thấy sốt nóng. Bác bảo kéo chiếu kín cho chủ nhà, rồi Bác cháu lặng lẽ đi ra, khép kín cửa lại. Ngồi trên xe Bác nói khẽ như nói với chính mình: “30 Tết mà không có Tết”. Không khí trong xe lặng đi. Chỉ nghe thấy tiếng động cơ xe chạy. Bác dặn tôi: “Mai chú nhớ mang thuốc, quà và thiếp chúc Tết đến thăm hỏi” (Sáng hôm sau, khi mang thuốc, quà và thiếp chúc Tết đến thăm, chúng tôi mới biết chủ nhà là người tỉnh khác về Hà Nội làm phu kéo xe không đủ tiền để về quê ăn Tết với gia đình).
Xe dừng lại trước cửa một nhà ở phố Hàng Lọng gần ga Hàng Cỏ (nay là phố Lê Duẩn), gọi cửa có người ra mở ngay. Khi nhận ra Cụ Hồ, mọi người luýnh quýnh kéo vội quần áo đang phơi trên dây chăng ngang nhà. Đây là nhà của một viên chức nghèo. Cụ Hồ chúc Tết, thăm hỏi gia đình. Gia đình vui sướng quây quần quanh Bác, quên cả chúc Tết Cụ Hồ. Xe tới phố Hàng Vải Thâm. Phố vắng tanh và lạnh, đèn điện sáng lờ mờ. Nhưng khi cánh
28
cửa nhà hé mở thì ánh điện trong nhà sáng loé. Căn nhà hẹp nhưng sâu. Gian bên ngoài kê một bộ sa lông bằng gỗ nghiến trạm trổ, mặt bàn bằng đá vân mây, lọ độc bình cao to cắm cành đào như cả một cây, nụ to, hoa nở đỏ thắm choán cả lối đi. Bên kia là một chậu quất, quả chín mọng. Cạnh đó là mấy chậu cúc vàng. Sâu vào bên trong có một chiếc giường gụ chân quỳ kê sát tủ chè lồng kính. Bên trên là bàn thờ, đỉnh đồng sáng bóng, khói trầm nghi ngút, bày mâm cỗ, bánh chưng và ngũ quả, trong đó có bưởi và phật thủ. Cụ Hồ chúc Tết gia đình và gia đình cũng chúc Cụ Hồ năm mới sống lâu mạnh khỏe!
Tới mấy nhà buôn bán to và quan lại cũ, gọi cửa không thấy mở. Bác ngồi trên xe thấy lâu, ra hiệu thôi. Bác cháu trở về nhà.
Nhắc lại chuyện cũ, tôi nhớ câu thơ của Tố Hữu:
“Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”
Người Hà Nội có thói quen đón Tết trong ngôi nhà ấm cúng của gia đình cho nên đường phố vắng teo. Lúc đó đã là 21 giờ 30 phút. Vừa về đến nhà (số 8 Lê Thái Tổ), Bác bảo riêng tôi lên phòng, bàn chương trình đón giao thừa. Tôi mở hai gói lúc sáng anh Cả chuyển đến. Đó là quần áo dành cho Bác và tôi cải trang đi đón giao thừa ở đền Ngọc Sơn. Bác mặc thử: khăn xếp, áo the, quần trắng,
29
giầy Gia Định, kèm theo chiếc mục kỉnh đeo trễ xuống, trông Bác như một cụ đồ nhà quê. Tôi mặc quần trắng, áo láng đen, chân đi dép da, đầu tóc để trần, trông hệt như con nhà nền nếp. Mặc thử xong Bác bảo tôi:
- Trước 12 giờ, hai Bác cháu đi bộ ra đền Ngọc Sơn hái lộc đón giao thừa.
Bác dặn thêm:
- Không cần bảo vệ đi theo.
Lúc này tôi lo lắng thật sự.
Bác nhắc lại câu: “Bảo vệ tốt nhất là bất ngờ và bí mật”. Và nhớ lại câu nói của Bác “Dân ta rất tốt”, “Chú phải tin ở dân”, nỗi lo trong tôi vơi đi phần nào. Trước lúc ra khỏi nhà tôi giấu Bác giắt khẩu súng ngắn trong cạp quần cho yên tâm.
Chập tối, các đường phố vắng vẻ là thế, mà lúc này, người người nối đuôi nhau trên các nẻo đường đổ về hồ Hoàn Kiếm đón giao thừa. Cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn chật ních người. Tôi đi trước tay trái dắt Bác, tay phải rẽ người chen vào đám đông. Trông Bác lúc này giống hệt ông cụ nhà quê ra ăn Tết với con cháu ở Hà Nội. Người Thủ đô vốn có tiếng là thanh lịch, nhưng đêm giao thừa đó, khi dắt Bác chen qua đám trai thanh gái lịch, tôi vẫn nghe thấy tiếng đầy bực dọc: “Hai ông cháu nhà quê đi đâu mà lớ ngớ, không cúng lễ mà cũng chẳng hái lộc”! Bác như đang hòa vào không khí vui xuân với người dân Hà Nội, còn tôi chỉ lo
30
lạc Bác. Lúc trở ra qua được cầu Thê Húc, hai Bác cháu nhìn nhau mỉm cười. Có lẽ thấy được sự lo lắng của tôi thể hiện trên nét mặt nên Bác nói:
- Tôi trông chú thấy buồn cười quá. Bây giờ chưa về ngay đâu, hai Bác cháu đi dọc thêm phố Hàng Đào xem mọi người đón Tết ra sao.
Cảm giác lo lắng theo tôi suốt dọc đường. Chỉ khi về đến nhà tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi gọi điện cho Giám đốc Sở Liêm phóng, báo tin hai Bác cháu vừa đi đón giao thừa ở đền Ngọc Sơn. Giám đốc Sở Liêm phóng được một phen hú vía. Cũng như Giám đốc Sở dân chính Hà Nội, không ai biết đêm giao thừa đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Cụ Hồ đã cùng nhân dân Thủ đô chen vai sát cánh đón Tết Độc lập.
Sáng mồng một Tết, Bác dậy sớm. Chưa đến giờ làm việc, Bác đã bảo tôi đem giấy ra viết khai bút. Bác bảo tôi viết to cho dễ đọc: “Hôm nay là ngày mồng một Tết năm Bính Tuất. Ngày Tết đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Tôi thấy mình nhỏ bé lại như những ngày đi học trước kia, chẳng khác lúc thầy đọc cho viết chính tả. Bác chúc đồng bào cả nước, chúc các chiến sĩ ngoài mặt trận, chúc gia quyến các chiến sĩ ở hậu phương, năm mới vui vẻ, khoẻ mạnh và thắng lợi. Viết xong, Bác bảo tôi:
- Chú báo chú Hưng, 7 giờ đến gặp Bác ở Bắc Bộ phủ.
31
Đồng chí Trần Duy Hưng có mặt tại phòng làm việc của Bác trước 7 giờ. Bác nói:
- Bác đã viết thư kêu gọi trước Tết ông Táo mà các chú không tổ chức làm cho nhiều gia đình không có Tết. Các chú có khuyết điểm không thực hiện thư Bác. Thế các chú sửa khuyết điểm này như thế nào?
Chúng tôi đứng lặng nhìn nhau, chưa biết nói thế nào, Bác nói tiếp:
- Thôi thế này, các chú cùng đội tuyên truyền xuống các đường phố, xem nhà nào chưa có Tết thì vận động hai nhà bên cạnh biếu họ chiếc bánh chưng và quả cam.
Chúng tôi làm theo lời Bác. Tết năm ấy, những gia đình nghèo cũng được hưởng Tết, đón Xuân.
Đồng chí Vũ Kỳ kể.
Nguồn: Bác Hồ sống mãi với chúng ta,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
32
“MUỐN VẬN ĐỘNG CÓ KẾT QUẢ, MÌNH PHẢI LÀM GƯƠNG!”
Hôm đó là ngày 19-5-1946. Chúng tôi đến chúc thọ Hồ Chủ tịch cùng mấy đoàn thể. Giới thiệu đến Ủy ban Đời sống mới, Cụ bỗng hỏi như níu lại: - Đời sống mới là ai?
Đóng khung câu chuyện, Cụ hỏi dồn dập, chăm chú, không cho chúng tôi lảng sang vấn đề khác. Buổi chúc thọ Hồ Chủ tịch bỗng biến thành cuộc thảo luận ráo riết và thân mật về đời sống mới.
- Chú cho tôi biết cuộc vận động đời sống mới đến đâu rồi?
- Thưa Cụ, - tôi đáp, - chúng tôi đã bắt đầu bằng sự chia ra các ban nghiên cứu, tổ chức, v.v.. Nhưng công việc chính là định rõ cái hướng cho đời sống mới. Mấy khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính” chúng tôi xét ra vừa không đủ, vừa cổ...
- Cổ! Lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa, bây giờ mình ăn cũng cổ à?
Không khí trở nên náo nhiệt, vui vẻ. Lời nói của Chủ tịch làm nở một tiếng cười chung. - Thưa Cụ, - tôi trả lời bằng cách nói tiếp câu
33
mình đang nói dở, - sau mấy buổi họp, Ủy ban Vận động đời sống mới đã định rõ ba nguyên tắc cho đời sống mới là: dân tộc, dân chủ, khoa học.
Chủ tịch như ngơ ngác trước những danh từ to lớn của tôi. Thực tình, tôi lo: nếu Chủ tịch không hiểu thì quần chúng hiểu sao đây. Mà quả thật. Cụ đứng hẳn về phía quần chúng. Cụ nói:
- Hay lắm, nhưng mình phải xem đồng bào bây giờ cần gì? Dân quê đã mấy người hiểu được thế nào là dân chủ, khoa học? Tôi hỏi thật chú, chú đi vận động đời sống mới thì chú làm gì trước?
Mọi người nhìn nhau và riêng tôi không giấu nổi vẻ mặt bối rối. Tôi nói về tuyên truyền, về tổ chức... Cụ lắng nghe. Khi tôi nói hết, Cụ lắc đầu nhìn tôi, nhìn mọi người, tay gân guốc vỗ vào bụng và nói:
- Trước hết là cái này. Dân chúng cần cái này trước hết, phải ăn đã, chú không ăn gì thì chú đi tuyên truyền được không? Mà muốn ăn thì phải làm gì?
- Phải làm việc, - một anh bạn nói.
- Đúng, phải làm việc, phải siêng năng, thế là “cần” đấy. Ừ, muốn dùng cái tiếng gì rõ hơn cũng được, nhưng điều cốt yếu là khẩu hiệu phải thiết thực. Ví dụ bây giờ vận động tập thể thao mà lại hô hào đánh ten nít thì đã mấy người có tiền mua quả ban, cây vợt? Ở đây, ngay trước Bắc Bộ phủ nhiều anh em cứ ra đường chạy, tập luyện với
34
nhau không tốn mấy mà khoẻ, vui lắm. Phải thiết thực như thế, mà đừng nên tung ra nhiều khẩu hiệu quá. Ít mà thực hiện được đến nơi đến chốn thì hơn. Sau nữa, muốn cho cuộc vận động có kết quả, thì người đi vận động phải làm gì?
Cả bọn chúng tôi người bàn thế này, người bàn thế khác. Cụ chậm rãi nói một cách nghiêm trang. - Mình phải làm gương.
Và sợ chúng tôi hoài nghi, Cụ nhắc lại: - Mình phải làm gương.
Cụ đưa mắt nhìn mọi người như để căn dặn điều đó.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng kể.
Nguồn: Người là Hồ Chí Minh, Nxb. Hội
Nhà văn, Hà Nội, 1995.
35
BÁC HỒ VỚI
NHÂN DÂN BÌNH THUẬN
Rời Phan Thiết, thầy giáo Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn. Mái trường Dục Thanh, nơi thầy đã dạy học và thị xã Phan Thiết, nơi thầy từng ở, mãi mãi vẫn để lại những kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Những ngày tháng cuối năm 1910, từ Phan Thiết, Bác vô Sài Gòn, rồi ngày 5-6-1911, từ Bến cảng Nhà Rồng, Bác ra đi tìm đường cứu nước.
Ba mươi năm sau - năm 1941 - Bác về Pác Pó, rồi năm 1945, Bác về Hà Nội. Năm 1946, trước ngày toàn quốc kháng chiến, Bác gặp đoàn cán bộ tỉnh Bình Thuận ra Hà Nội công tác. Cuộc gặp mặt này đầy xúc động. Đoàn cán bộ Bình Thuận biết rằng thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy học ở trường Dục Thanh năm xưa, nay là Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với Bác, đây là cuộc gặp gỡ với những cán bộ đại biểu cho nhân dân Bình Thuận - một vùng đất đã từng cưu mang Bác thời trẻ, thời là thầy giáo dạy học trò. Bình Thuận vẫn là đất tụ
36
nghĩa, cái nôi đầm ấm từng in dấu chân các nhà yêu nước, các chiến sĩ, các nhà khoa bảng lừng danh. Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thông... đã lần lượt có mặt tại vùng đất cực Nam Trung Bộ này.
Trong đoàn cán bộ Bình Thuận, có người đang công tác tại thị xã Phan Thiết. Mấy anh em này tự nhủ: khi gặp Bác sẽ kể lại nỗi nhớ thương, kính trọng của nhân dân Phan Thiết, chắc là Bác vừa vui mừng vừa cảm động. Cuộc gặp Bác đúng vào lúc thời gian đang khẩn trương, căng thẳng, tình thế đất nước ta lúc ấy đang đứng trước một thử thách hết sức lớn lao: Chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Cuộc gặp này rất ngắn, vì Bác quá bận việc. Đồng chí trưởng đoàn giới thiệu từng người với Bác, Bác tươi cười bắt chặt tay từng người, ân cần hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm tình hình Bình Thuận sau ngày giành được chính quyền đến nay.
Bác mời mỗi người một điếu thuốc lá Caravenna. Ai cũng mừng, cầm điếu thuốc trong tay, lại có bao diêm để trên bàn, nhưng không ai xòe diêm để hút. Không ai bảo ai, tất cả đều muốn giữ lại điếu thuốc làm kỷ niệm cuộc gặp gỡ thân tình và hiếm có này. Bác biết tâm trạng đó của anh em, cán bộ “người nhà”. Bác nói vui: Các chú cứ hút, còn một
37
cuộc gặp nữa, Bác sẽ hẹn sau. Rồi Bác tặng mỗi người một huy hiệu Phôngtennơblô.
Lúc ra về, anh em cán bộ Bình Thuận nói với nhau: - Cụ thương anh em mình nên rất tâm lý. Thuốc ngon cứ hút vì còn lần gặp sau nữa. Chỉ thương Cụ gầy quá mà việc nước việc dân đều là những gánh nặng nghìn cân cả. Bận thế, mà Cụ hẹn ba ngày sau gặp lại, thế mới nói tấm lòng của Cụ đối với
cán bộ, nhân dân ở nơi xa xôi như thế nào. Ba ngày sau, trước cửa Bắc Bộ phủ, anh em cán bộ Bình Thuận đã có mặt đông đủ. Xem đồng hồ, mới biết là anh em đến sớm 15 phút. Đúng giờ, Bác và cụ Huỳnh Thúc Kháng bước ra. Bác nói: “Xin mời cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng tôi để chụp chung tấm ảnh với anh em”. Sau đó, anh em cán bộ Bình Thuận phân ra từng nhóm nhỏ chụp ảnh với Bác. Sáng ấy, quả thật Bác Hồ đã ưu ái đối với anh em, Bác “nhận lời mời của đoàn cán bộ người nhà” chụp ảnh với anh em những 7, 8 kiểu. Rồi có cuộc trao đổi chuyện trò đầm ấm dưới mái nhà Bắc Bộ phủ. Bác nhớ từng chi tiết ngôi trường Dục Thanh, nơi Bác từng dạy học hơn 35 năm trước. Bác hỏi tên mấy “anh” học trò thời Bác dạy. Tất nhiên trong cuộc họp mặt vui vẻ này, Bác không quên mời anh em hút thuốc lá. Mấy “anh” học trò của Bác năm xưa, nay đã là bác sĩ, trí thức, là cán bộ đang gánh vác công việc của đất nước. Một thời, Bác khéo léo “đánh thức” lương
38
tâm của các học trò nhỏ, để nay tất cả đều nên người, đều là những công dân có ích cho xã hội. Cuối cuộc gặp, Bác ghi vào sổ lưu niệm của đoàn cán bộ Bình Thuận mấy câu thơ, đúng ra là những lời khuyên của Bác về vấn đề hợp sức lại, cùng nhau xây dựng nước nhà ngày thêm vững mạnh. Những trang sổ ấy đến nay vẫn còn sang đẹp lời Bác ghi:
“Hợp tác xã là đồng bào đồng tâm hợp lực mà công tác. Như thế thì: lực lượng càng mạnh, thế lực càng nâng cao.
Nước càng mau giàu
Dân càng mau mạnh
Đồng bào Bình Thuận
Muốn chống phú cường
Sĩ, nông, công, thương
Đều vào hợp tác”.
Thân ái
Hồ Chí Minh
Lòng Bác đối với nhân dân Bình Thuận luôn luôn như nước biển dâng đầy. Và lòng dân Bình Thuận đối với Bác thì không bao giờ vơi cạn, đúng như bà con Phan Thiết thường nói: “Cụ thương dân, dân xin đáp lại tấm lòng của Cụ”. Xin dẫn ra vài mẫu chuyện nhỏ. Năm 1968, Bình Thuận đang ở trong vòng kiểm soát của Mỹ - ngụy, nhưng nhà sư thích Vĩnh Thọ ở chùa Linh Thắng, phường Đức Thắng vẫn hướng về Bác với sự kính
39
phục, tin tưởng sâu sắc. Nhà sư lưu giữ một tập ảnh ghi một số hoạt động của Bác ở Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua từ ngày 25 đến ngày 30-5-1920, để giới thiệu với các đạo hữu. Và bà Đặng Thị Nở, còn gọi là bà Xã Cà, ở phường Đức Nghĩa, thị xã Phan Thiết, sau khi mất, đã để lại hơn 200 ảnh Bác còn nguyên vẹn trên các tấm giấy bạc 50 đồng, 100 đồng, 500 đồng phát hành giữa hai năm 1949 và 1950. Con cháu của bà giữ những tờ giấy bạc ấy còn hơn giữ vàng nén trong nhà.
Nguồn: Tạ Hữu Yên: Nhân đức Hồ Chí Minh,
Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2009.
40
CÁI VÒNG BẠC
Cao Bằng là địa phương mà Bác Hồ đã sống và làm việc nhiều năm, cũng là nơi Bác để lại nhiều kỷ niệm trong lòng bà con các dân tộc. Những câu chuyện về Người, về tình cảm của Người với nhân dân, đặc biệt là với các em nhỏ, luôn làm mọi người xúc động và nhớ mãi. Sau đây là một câu chuyện do bà con ở Cao Bằng kể lại về Bác:
Do điều kiện công tác, sau hơn 2 năm, Bác Hồ mới có dịp trở lại một vùng cơ sở trước đây Người đã từng sống và làm việc. Thấy Bác về, bà con già, trẻ, gái, trai khắp bản ùa ra đón Bác.
Trong số những người đứng vây quanh Bác lớp trong lớp ngoài hôm ấy có một em bé 2 năm trước đã từng quấn quýt bên Bác khi Người ra suối câu cá, hoặc lên nương cuốc đất trồng rau sau những giờ làm việc. Ngày Bác lên đường đi công tác xa, em bé đó theo ra đến đầu bản tiễn Bác. Trước lúc chia tay, Bác cúi xuống hôn má em và Người chưa kịp hỏi gì thì đã nghe em bé nói một câu rất tự nhiên:
- Đến đâu thấy vòng bạc, Bác nhớ mua cho cháu một cái.
41
Đối với em bé dân tộc miền núi Cao Bằng, được cái vòng bạc đeo cổ tay là điều rất thích thú. Bây giờ em bé đó đã qua tuổi nhi đồng, chững chạc, đã biết đọc, biết viết, không còn vòi vĩnh, nũng nịu như ngày được bên Bác và chắc cũng không còn nhớ là mình đã dặn Bác Hồ mua cho cái vòng bạc.
Bà con dân bản tiễn Bác lên đường đi công tác cách đây 2 năm cũng đã quên chuyện “cái vòng bạc” ấy. Sau những lời chúc mừng thăm hỏi sức khoẻ dân bản, nhận ra em bé ngày trước đứng trong đám đông, Bác bước đến, từ từ mở nắp túi áo trước ngực, lấy ra chiếc vòng bạc mới tinh và trao cho em.
Ngỡ ngàng giây lát, rồi nhớ ra lời dặn Bác 2 năm trước, em bé sung sướng quá, không giấu nổi xúc động, hai mắt cứ chớp mãi, líu cả lưỡi mới nói được: - Cháu... cảm... cảm ơn Bác!
Một số người không có mặt hôm tiễn Bác lên đường đi công tác ngày trước, nay thấy vậy lấy làm ngạc nhiên và hỏi đồng chí giúp việc của Bác. Đồng chí này kể lại cho mọi người nghe là trên đường về Bác đã ghé vào một cửa hàng mua chiếc vòng bạc. Khi đồng chí hỏi, Bác giải thích như sau:
- Các cháu khi đã nhờ mua cái gì tức là chúng nó thích cái đó lắm. Thấy có hại thì tìm cách giải thích cho các cháu hiểu; nếu không có hại thì không nên từ chối. Các cháu như tờ giấy trắng nhuộm đỏ thì
42
đỏ, nhuộm xanh thì xanh, đừng để giảm lòng tin của các cháu. Đã hứa là mình phải làm cho kỳ được, không làm được thì đừng có hứa. Đây là chữ Tín, cần giữ trọn lòng tin của mọi người.
Nguồn: Hoàng Giai: Ai yêu các nhi đồng
bằng Bác Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội, 1999.
43
TẤM LÒNG CỦA BÁC
VỚI THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ
Ngày 10-3-1946, báo Cứu quốc đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ. Trong thư có đoạn Người viết: “tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”1.
Tiếp sau đó, trong thư Gửi đồng bào miền Nam, người Pháp và người thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh”2.
Hơn nửa tháng sau khi đi Pháp về, ngày 7-11-1946, Người đã đến dự lễ “Mùa đông binh sĩ” do Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam tổ chức tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội, vận động đồng bào ở hậu phương đóng góp tiền, của để may áo trấn thủ cho chiến sĩ, thương binh, bệnh binh.
____________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.228, 510. 44
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã thu hút nhiều thanh niên nam nữ tham gia quân đội. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một số nữa là thương binh, bệnh binh, đời sống gặp nhiều khó khăn, mặc dù anh chị em tình nguyện chịu đựng không kêu ca, phàn nàn.
Trước tình hình ấy, tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm “Ngày thương binh” để đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Có lẽ - trừ những ngày kỷ niệm quốc tế, “Ngày thương binh” là ngày kỷ niệm trong nước đầu tiên được tổ chức.
Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một hội nghị trù bị đã khai mạc tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gồm có một số đại biểu ở Trung ương, khu và tỉnh. Hội nghị nhất trí lấy ngày 27-7 hằng năm là ngày thương binh, liệt sĩ và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.
Báo Vệ quốc quân số 11, ra ngày 27-7-1947 đã đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc”. Đầu thư Người viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là
45
người xung phong trước hết để chống cự quân thù để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh”1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt.
Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”2.
Cuối thư, Người vận động đồng bào nhường cơm sẻ áo, giúp đỡ thương binh. Bản thân Người đã xung phong góp chiếc áo lụa, một tháng lương và tiền ăn một bữa của Người và của tất cả các nhân viên của Phủ Chủ tịch, tổng cộng là một ngàn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127 đồng) để tặng thương binh.
Năm sau ngày 27-7-1948, trong một lá thư dài đầy tình thương yêu, Bác nói: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó đến như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta.
Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào”3.
____________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.204, 579. 46
Người xót xa viết: “Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống... Ngày nay, bố mẹ họ đã mất một người con yêu quý. Vợ trẻ thơ trở nên bà góa. Con dại trở nên mồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sĩ...
Nhưng tay chân tàn phế của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sĩ sẽ không thể tái sinh”1.
Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương, Trung
tâm Thông tin công tác tư tưởng: Những
mẩu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.579-580.
47
ĐĨA CƠM RANG TRỨNG
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tổ điện đài của đồng chí Trương Duy Thái phục vụ ở Văn phòng Chủ tịch phủ tại Việt Bắc. Một tối mùa hè, tổ phải phát đi một bức điện tối khẩn, nhưng máy móc ậm ạch, đài bạn lại ở xa nên đánh vật mãi từ chập tối đến gần hai giờ sáng mới xong việc.
Thái đang mơ màng thì nghe có tiếng chân người. Theo thói quen của người lính, anh nằm yên, hé mắt nhìn ra. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn, Thái thấy Bác Hồ mặc bộ quần áo bà ba trắng, đang cúi xuống giắt màn cho anh. Thái không động đậy, nằm im, trong lòng xốn xang, hối hận... Bỗng anh chiến sĩ quay máy từ đâu chạy huỳnh huỵch vào nhà. Bác giơ tay lên miệng, ra hiệu bước nhẹ nhàng, chỉ tay về phía anh em đang ngủ, ý bảo để anh em ngon giấc.
Bác vẫy đồng chí “quay viên” lại hỏi nhỏ: - Đêm qua các cháu làm việc đến mấy giờ? - Thưa Bác, gần hai, ba giờ sáng ạ.
Bác lại ghé sát tai hỏi:
- Làm xong có được bồi dưỡng không?
48
- Thưa Bác, việc thường xảy ra luôn như thế, nên cũng không có bồi dưỡng ạ.
Bác nói:
- Sáng mai, các cháu được ngủ đến 6 giờ sáng, tập thể dục sau. Cháu lên giường ngủ đi, nhẹ nhàng để anh em khác khỏi thức giấc. Bác sẽ nói với các chú đánh kẻng
Sáng hôm ấy, đồng chí Thắng bên tiểu đội cấp dưỡng mang sang cho tổ đài một đĩa men to cơm rang với trứng, đầy có ngọn. Thắng nói:
- Bác bảo, đêm hôm qua các cậu làm việc khuya, Bác gửi bồi dưỡng cho các cậu.
Nếu chúng ta biết, dạo ấy ở Việt Bắc, mỗi chiến sĩ một bữa được một bát cơm lưng lửng còn toàn ăn độn ngô, khoai, sắn... và Bác cũng chỉ ăn như anh em trừ có thêm một bát nước cơm bồi dưỡng thì mới thấy “giá trị” đĩa cơm trứng ấy và tấm lòng của Bác.
Nguồn: Bác Hồ với các chiến sĩ, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 2002.
49
BÁC NHƯỜNG CƠM SẺ ÁO
CHO CÁN BỘ
Tôi đi công tác về báo cáo, các đồng chí Kháng và Chiến bảo tôi ngồi ăn cơm với Bác cho Bác vui vì hồi đó Bác yếu, suy nghĩ nhiều nên ăn ít lắm. Ngồi trước mâm cơm có một đĩa nhỏ lòng gà, một đĩa nhỏ thịt gà (con gà bé quá, có lẽ chia đôi làm hai bữa) và một bát canh. Bác ngồi nhấm nháp với một chén rượu hạt mít... Ăn trông nồi, ngồi trông hướng, tôi nói chuyện vui cho Bác nghe nhiều hơn là ăn, nên Bác giục tôi ăn. Bác gắp cho tôi bộ gan gà vừa bằng quả táo. Tôi khó nghĩ quá nên lễ phép gắp lại bát cơm của Bác và mời Bác ăn. Bác lại gắp lại cho tôi và bảo:
- Ăn đi để mai đi đường cho khỏe.
Ở đây tôi không muốn nói tới bộ gan to hay nhỏ, nó bổ được bao nhiêu, mà tôi chỉ thấy tấm lòng của Bác thương yêu cán bộ trong hoàn cảnh khó khăn.
Buổi tối dưới ngọn đèn dầu, tôi đang cùng các đồng chí bảo vệ nói chuyện thì nghe Bác hỏi: Chú Thụy có thiếu quần áo lắm không? Tôi nghĩ bụng
50
chắc Bác muốn cho, nên tôi thưa là có thiếu. Bác bảo đồng chí Kháng: chọn cho chú Thụy một bộ quần áo. Sáng hôm sau tôi nhận được một bộ quần áo mới toanh, bằng lụa, màu gụ, may theo kiểu ta rất đẹp và trên túi áo con ở ngực có thêu mấy chữ: phúc, lộc, thọ. Đây chắc là áo của hội phụ nữ nào biếu Bác. Tôi hỏi đồng chí Kháng tại sao lại cho đồ mới của Bác. Đồng chí Kháng nói: đây là quà của Bác, Bác tặng lại cán bộ.
Thế là trong lúc Bác phải lo bao nhiêu việc vất vả nhưng Bác vẫn quan tâm đến cán bộ. Tôi vừa được ăn lại vừa được mặc. Tôi thấy thực sự xúc động trước tấm lòng thương yêu của Bác.
Nguồn: Bác Hồ sống mãi với chúng ta,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
51
CHIẾC ÁO TRẤN THỦ BÁC CHO
Mỗi ngày sống bên Bác là mỗi ngày tôi có thêm những bài học vô cùng quý báu. Bác chỉ bảo từng ly từng tí. Một kỷ niệm mà mỗi khi nhắc lại tôi thường bồi hồi xúc động, đó là chuyện Bác cho tôi chiếc áo trấn thủ.
Mùa đông năm ấy, Việt Bắc rét hơn mọi năm. Chúng tôi sống trong hang đá, lại càng rét. Sáng ra sương muối xuống dày đặc, làm cóng buốt chân tay. Khi mới về công tác với Bác, tôi chỉ có một bộ quần áo vải mộc. Mấy hôm liền, tôi đi công tác, ngực bị lạnh, làm tôi ho luôn.
Hôm ấy vào đưa thư cho Bác. Tôi đã cố nhịn ho nhưng không sao chịu được.
Thấy tôi ho, Bác hỏi:
- Chú ốm à, chú Thắng?
- Thưa Bác, không ạ!
Bác nhìn tôi:
- Sao trông người chú khác thế?
- Không ạ. - Chưa nói xong tôi đã ho rũ ra... Bác liền đứng dậy:
- Chú không có áo rét à?
52
Bấy giờ cán bộ còn nghèo. Tôi ngần ngừ định không nói thật, nhưng rồi không dám dối Bác. Trả lời xong, tôi quay ra thì Bác gọi lại và đến đầu giường lật tấm chăn mỏng, lấy ra chiếc áo trấn thủ màu ngả vàng, Bác vẫn thường mặc, đưa cho tôi, Bác nói:
- Chú mặc tạm cái này cho đỡ lạnh. Mùa đông cốt nhất phải giữ ngực cho ấm.
Tôi không dám cầm. Mùa rét, Bác cũng chỉ có một chiếc áo trấn thủ và một chiếc áo khoác ngoài. Mà Bác đã già rồi, ít chịu được rét. Thấy tôi chần chừ, Bác bảo:
- Chú mặc đi, cho đỡ rét.
- Thưa Bác...
- Chú cứ mặc vào.
Nhìn đôi mắt trìu mến của Bác, tôi không dám từ chối nữa. Bác giúp tôi cài cẩn thận từng cúc áo một. Có chiếc áo của Bác, ngực tôi ấm dần. Ấm bằng hơi ấm của bông và cả bằng tình thương của Bác. Nhờ có chiếc áo trấn thủ tôi dần dần khỏi ho.
Tôi giữ gìn chiếc áo Bác cho rất cẩn thận. Chỉ những lúc thật rét mới mặc.
Tôi có ý định giữ chiếc áo đó làm kỷ niệm, nhưng không thực hiện được ý định. Một năm, tôi về nhà ăn Tết, dân tộc Dao chúng tôi sống du canh du cư, làm ăn thất thường, nên đời sống đói khổ. Trời rất rét, bố tôi vẫn chỉ có một manh áo mỏng. Thương bố quá, tôi đã biếu bố chiếc áo trấn thủ.
53
Chiếc áo trấn thủ đã sờn, nhưng là chiếc áo ấm đầu tiên trong đời bố tôi được mặc. Bố tôi vui lắm. Nếu biết là chiếc áo của Bác Hồ cho, chắc bố tôi sẽ vui sướng biết chừng nào! Nhưng vì nguyên tắc bí mật, tôi không dám nói.
Bố tôi mặc được mấy năm chiếc áo vẫn còn tốt. Theo phong tục người Dao, khi mất, người ta chôn theo tất cả những đồ quý giá của người đó lúc sống đã dùng. Bố tôi mất, gia đình cũng đã bỏ chiếc áo trấn thủ chôn theo. Chiếc áo trấn thủ Bác cho đã làm ấm ngực tôi, sưởi ấm ngực bố tôi, nay bố tôi đã mất, chiếc áo lại theo xuống suối vàng mãi mãi sưởi ấm cho linh hồn bố tôi. Phải chăng đó cũng là một niềm vinh hạnh cho gia đình chúng tôi.
Triệu Hồng Thắng (nguyên Phó Chủ tịch
Ủy ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc)
kể.
Nguồn: Bác Hồ sống mãi với chúng ta,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,
tr.862-864.
54
CHÚ MẶC CŨNG NHƯ TÔI MẶC
Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta từ các cụ phụ lão, phụ nữ, thiếu niên nhi đồng, các tăng ni, phật tử, đồng bào theo các tôn giáo thường gửi khăn mặt, áo len, áo trấn thủ tặng Bác. Đồng bào biết rõ, tuy là Chủ tịch nước nhưng nước còn nghèo, Bác lại sống giản dị, tiết kiệm nên chắc là không muốn may mặc gì. Đồng bào sợ Bác lạnh, không chống đỡ được cái rét Việt Bắc, núi đá, sương mù...
Bác nhận được áo tặng, bao giờ cũng có thư cảm ơn, nhờ các chiến sĩ giao thông Văn phòng Chính phủ, Ủy ban nhân dân chuyển tới. Quà áo thì nhiều, nhưng nào Bác có mặc, nay Bác tặng ông Đặng Phục Thông, mai Bác lại nhờ người đến tặng bác sĩ Trần Hữu Tước. Đọc báo biết tin có chiến sĩ liên lạc đạt thành tích cao, Bác chuyển tới đơn vị một bộ quần áo tặng đồng chí ấy. Gặp ai, không có khăn quàng, Bác cởi chiến khăn đang quàng quấn vào cổ khách...
Bác cười nói:
- Cụ mặc, chú mặc cũng như tôi mặc. Chú ấm cũng như tôi ấm.
55
Mùa đông năm 1948, ở Việt Bắc có lẽ là mùa đông rét nhất trong những năm kháng chiến chống Pháp. Quân dân ta tuy đã đánh tan cuộc tấn công Thu Đông năm 1947 của giặc Pháp nhưng cũng chưa có điều kiện để trang bị nhiều quần áo, vũ khí cho bộ đội. Năm ấy ở vùng Thái Nguyên - Tuyên Quang đến 9-10 giờ sáng mà sương mù vẫn chưa tan, mặt trời vẫn chưa rạng để sưởi ấm giúp cho con người. Rét lạnh, sương giá nên rất dễ bị ho. Đi phục kích địch mà không giữ được ấm cổ, ho lên vài tiếng có khác gì “lạy ông, tôi ở bụi này”. Không đi đánh địch, nhưng ở ATK (an toàn khu) gác đêm mà bị ho thì cũng không có lợi. Anh em đã xin, đã mua và trồng gừng để ngậm, cố giữ ấm ngực, để không phải ho.
Có một chiến sĩ cảnh vệ trẻ, đến phiên gác tại Văn phòng Phủ Chủ tịch, đêm đã khuya vẫn thấy ngọn đèn trong phòng Bác Hồ sáng. Anh biết là Bác đang còn làm việc và anh tự nhủ phải giữ cho đừng ho. “Ho lên, là gay lắm”, như lời Tiểu đội trưởng dặn. Anh xoa tay vào cổ, ngậm miệng, bịt tay chắn mũi để không cho hơi lạnh vào người... Nhưng rồi anh vẫn ho, ho nhiều...
Nghe tiếng ho, Bác đi ra, đến bên cạnh, nhìn anh quần áo mỏng manh, Bác nói nhẹ: - Cháu mặc thế thảo nào chẳng lạnh.
Bác quay vào nhà lấy ra một áo trấn thủ, đưa cho anh chiến sĩ:
56
- Cháu mặc vào cho đỡ rét.
Bác muốn anh chiến sĩ trẻ “cơm chưa no, lo chưa tới” này đỡ khó khăn vất vả. Anh chiến sĩ lại thương Bác nhiều tuổi, trăm công nghìn việc, nên không dám nhận.
Như hiểu ý anh, Bác giục.
- Cháu cứ giữ lấy mà mặc. Bác đã có áo khoác rồi. Mặc như thế này làm sao mà chẳng ho. Thôi, mặc vào cháu.
Và tự tay Bác lồng cái áo trấn thủ vào vai anh lính trẻ.
Nguồn: Bác Hồ với chiến sĩ, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 2001.
57
MÁI ẤM NÀ LỌM
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược 9 năm, Việt Bắc vừa là khu căn cứ địa cách mạng, vừa là nơi chiến trường. Giặc Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn, cho tàu chiến chạy dọc sông Lô, đánh lên đôi bờ rồi đóng đồn ở một số nơi thuộc vùng rừng núi phía Bắc.
Cuối tháng 7-1947, giặc Pháp đánh rộng ra, mấy tỉnh Việt Bắc đã trở thành nơi giao tranh quyết liệt giữa ta và địch. Nhiều gia đình bị phân tán, bị tan tác, một số em nhỏ chạy vào rừng, thế là bị mất liên lạc với bố mẹ, người thân. Các em thành trẻ mồ côi, bơ vơ, không nơi nương tựa. Một số gia đình và các đoàn thể thương tình, đón các em về nuôi, để các em có điều kiện đi tìm lại gia đình mình.
Lúc ấy, cơ quan Bác cũng vừa chuyển từ Tuyên Quang sang Định Hoá, Thái Nguyên. Chỗ ấy đóng quân vừa kín đáo vừa thuận lợi.
Bác cử cán bộ và các đồng chí bảo vệ đi tìm các em về. Sau nhiều ngày lặn lội, đi đến từng thôn xóm, anh chị em đã tìm được một số cháu, gom lại,
58
lập trại nuôi dưỡng. Trại này không xin tiền gạo của Chính phủ, vì lúc ấy Chính phủ kháng chiến cũng nghèo. Bác kêu gọi một số cơ quan bớt gạo, bớt khẩu phần để góp vào nuôi các cháu.
Bác bảo các chú, các cô phụ trách trại nên vỡ đất để trồng hoa màu, trồng mấy thứ rau xanh và nuôi gà để tạo nguồn thực phẩm, đồng thời khuyến khích các cháu tham gia lao động tùy theo sức của mình.
Thời ấy, các em được học chữ lại được học cả “mấy môn quân sự” nữa. Học quân sự là dậy sớm tập thể dục, tập chạy, học cách sinh hoạt có giờ giấc, đồ dùng cá nhân luôn luôn gọn ghẽ để khi có lệnh là sẵn sàng di chuyển.
Cái trại luôn được “quân sự hoá” đứng trên một quả đồi có tên là Nà Lọm, thuộc xã Phú Minh. Trại là mái ấm của một gia đình gồm 35 em. Sống tập trung, nên các em có ý thức tôn trọng nội quy và thương yêu giúp đỡ nhau trong học tập cũng như trong lao động sản xuất.
Cơ quan Bác đóng gần trại nên các cán bộ có điều kiện thường xuyên đến trại giúp đỡ các em. Vừa dạy các em học chữ, vừa chăm sóc sức khoẻ cho các em, những em ốm đau được chữa trị chu đáo. Bác rất vui khi được biết: Các em đều khoẻ mạnh, được ăn no, được học chữ, và một số em đã biết được tin tức của gia đình.
Bác chuyển đến ở trại đó một thời gian. Các em có biết đâu rằng chính Bác bảo lập trại đó để
59
nuôi dạy các em và Bác đã ở trại đó 25 ngày. Suốt thời gian ở trại, Bác cũng nằm trên giường nứa của các em nằm, cũng làm việc trên bàn tre của các em học...
Sau mấy năm sống ở trại, các em lớn đã xung phong nhập ngũ, trở thành những chiến sĩ lập được chiến công khi vào trận. Một số em sau này là cán bộ, là công nhân.
Trại Nà Lọm đã trở thành một địa danh rất đáng nhớ, trở thành cái tên thân quen mà nhiều em đã ghi vào những trang sổ tay của mình. Sau này, một số em khi đã trở thành cán bộ, công nhân, chiến sĩ quân đội đã có dịp trở lại thăm “mái ấm ngày xưa”. Với 35 em nhỏ đó, có lẽ, đây là một kỷ niệm đáng nhớ đến suốt đời.
Nguồn: Tạ Hữu Yên: Mênh mông tình
thương Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội, 2002.
60
TÌNH THƯƠNG LỚN
Trong kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc có một trường mẫu giáo của quân đội - lúc ấy gọi là trại mẫu giáo. Một lần Bác đến thăm trại mẫu giáo này. Trưa rừng mát mẻ, có tiếng suối reo, tiếng chim hót lại thoang thoảng hương thơm của các loài hoa trên vách núi. Bác cầm tay các cháu nói nựng, hệt như ông nội đi xa về thăm đàn cháu ngoan của mình.
Trưa ấy, Bác nghỉ tại trại. Buổi trưa yên ắng, nhưng thỉnh thoảng Bác có nghe tiếng ho của một cháu nhỏ. Lúc dậy, Bác hỏi cô Phan Thanh Hòa, người phụ trách các cháu:
- Trưa nay, Bác nghe cháu nào ho nhiều thế? Cô Hoà lễ phép:
- Thưa Bác, cháu Bích Nga đấy ạ! Cháu ho mấy ngày rồi, trại đã cho cháu uống thuốc nhưng chưa khỏi hẳn.
Nghe xong, Bác dặn:
- Các bé như búp măng non, cháu chăm sóc các bé cho thật chu đáo. Ở rừng trời lạnh, các cô nhớ cho các bé mặc ấm.
61
Hôm sau, trại nhận được một chai mật ong gửi cho các cháu để chữa ho. Đây là chai mật ong nguyên chất của đồng bào Cao Bằng gửi tặng Bác, nhưng Bác lại dành để cho các cháu.
Trưa rừng, chỉ một tiếng ho của cháu nhỏ cũng làm Bác thao thức. Thế mới hiểu, Bác quan tâm đến lứa tuổi măng non như thế nào.
Lại nhớ đến lời kể của nghệ sĩ Ái Liên về Bác. Có một lần, Bác cho chú bảo vệ đến nhà chị để đón Ái Xuân, Ái Vân vào với Bác. Bác cháu gặp nhau chuyện trò khúc khích. Dạo ấy, gia đình nghệ sĩ Ái Liên đi sơ tán. Gặp các cháu, Bác hỏi:
- Ở nơi sơ tán các cháu ăn cơm có nhiều thức ăn không?
- Dạ, có ạ!
Bác lại hỏi:
- Có thịt nhiều không?
- Dạ, thịt cũng có nhiều ạ!
Bác nói vui:
- Chắc ăn vào phần tiêu chuẩn của má phải không? Hai chị em cùng cười. Sau đó, hai nghệ sĩ nhỏ tuổi này còn khoe với Bác là thích món bún ốc nóng bốc hơi, bán ở gốc cây trên hè đường nữa. Lúc hai chị em về, Bác cho kẹo và dặn:
- Các cháu nhớ phần quà cho ba má và cho bé Ái Thanh nữa.
Nguồn: Tạ Hữu Yên: Mênh mông tình
thương Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh Niên,
Hà Nội, 2001.
62
BÁC YÊU CÁC CHÁU
Một buổi sáng tháng 5-1953, Bác dành hẳn một ngày đến chơi với các cháu trong trại mẫu giáo ở chiến khu.
Bác đến mà không báo trước. Nhưng Bác vừa qua con suối nhỏ, bước vào cổng trại, thì các cháu bé đã nhận ra Bác. Các cháu chạy ùa ra ôm chầm Bác. Cháu Minh Phương bé nhất, được Bác bế lên; cháu hôn Bác và vuốt râu Bác, Bác xếp các cháu đứng vòng quanh sân, rồi Bác hồn nhiên cầm tay các cháu cùng nhảy múa. Xong rồi, Bác chia kẹo và rút trong túi áo nâu ra một bộ ảnh màu. Bác cho các cháu xem và đố các cháu bức ảnh vẽ cái gì. Đến trưa, Bác ăn chung với chị em giáo viên, cơm ăn với tương và rau.
Ăn xong, Bác đã đi nằm được một lúc thì ở cuối dãy nhà bên kia sân có tiếng ho của một em bé. Bác cho gọi chị Hòa lên hỏi: “Cháu nào ho đấy? Sao ho dài thế? Cô phải liệu trông nom và đừng để lây sang cháu khác”. Rồi Bác dặn thêm chị Đơ: “Ngoài vườn có cây dại, giữ gìn đừng cho các cháu ăn phải quả độc đấy”. Chiều đến, Bác lại ra sân múa hát với các cháu.
63
Lúc Bác trở về khu Trung ương rồi, đồng bào có biếu Bác chai mật ong. Bác không uống, Bác bảo để dành cho các cháu. Một lần nữa, Bác nhận được một hộp bánh ngon, Bác bảo mang tận tay cho các cháu.
Lần thứ hai Bác đến thăm khu trại mẫu giáo. 10 giờ trưa, máy bay giặc lượn nhiều vòng trên đầu rồi ném bom xuống bản bên cạnh. Dạo này địch ráo riết thực hiện Kế hoạch Nava, hàng ngày ném bom bắn phá căn cứ địa của ta. Bác ngồi dưới hầm, ôm các cháu vào lòng. Máy bay đi rồi, Bác bảo các đồng chí ở đây nội ngày mai phải chuyển tất cả các cháu vào khu Bác ở, ở đấy có hầm hố chắc chắn hơn. Các chị chuyển lời Bác lên đồng chí phụ trách. Đồng chí này cân nhắc: “Chỗ Bác làm việc cần giữ yên tĩnh, bí mật, an toàn. Vậy tạm thời bố trí người để mỗi sáng đưa các cháu vào rừng, tối đưa về trại. Trong khi đó trại sẽ sửa sang lại hầm hố cho các cháu”. Chiều hôm sau, Bác gọi hỏi tình hình. Sau khi nghe chuyện ấy, giọng Bác bỗng trầm xuống: “Nội đêm hôm nay, nếu các cô, các chú không chuyển hết các cháu về chỗ Bác, thì Bác không thể nào yên tâm được”.
Lần này, lời nhắc nhở của Bác thấm thía vô cùng. Ngay trong đêm ấy, một đơn vị bộ đội được điều động đến, mỗi chiến sĩ cõng một em, lội đồng, vượt núi đưa vào khu rừng nơi Bác ở.
Nguồn: Hồ Chí Minh - Cuộc đời huyền thoại,
Nxb. Hải Phòng, 2001.
64
TÔI VẼ BÁC HỒ
Đến Việt Bắc đã mấy hôm, nhưng tôi vẫn chưa được gặp Bác vì từ chỗ tôi ở đến hội trường Đại hội Đảng (lần thứ II, 1951) cũng khá xa. Biết rằng đến Việt Bắc lần này thế nào cũng có dịp gặp Bác nên tôi đã chuẩn bị khá nhiều dụng cụ và chất liệu (bút, màu, than, sơn dầu, v.v.) để vẽ Bác. Đó là đầu tiên mà cũng là lần tôi được sống lâu nhất cạnh Bác. Khoảng gần sáu tháng. Thời gian đó là thời gian sung sướng nhất trong đời tôi. Sống gần Bác, điều làm tôi ngạc nhiên trước tiên là tính giản dị của Bác.
Khi thấy tôi vẽ cái bàn làm việc của Bác trong một bức tranh, các đồng chí phục vụ Bác hỏi tôi: - Anh biết chuyện cái bàn này chưa?
- Chưa.
- Khi trước chưa có cái bàn này Bác vẫn phải ngồi xếp bằng, làm việc trước một cái bàn con. Nhìn Bác già yếu mà phải khom lưng mãi thế, thương quá, chúng tôi mới bàn nhau kiếm cái bàn này. Bác đi công tác về, thấy cái bàn, Bác bảo: làm việc với cái bàn con trên nhà đấy, đủ rồi, các chú phải nhọc công tìm kiếm làm gì?
65
Có lần, anh Định, người nấu ăn cho Bác thấy Bác làm việc nhiều, nghe người ta nói rượu ba ba uống bổ lắm, anh tìm mua một con ba ba, lấy tiết pha rượu dâng Bác. Thấy cốc rượu, Bác hỏi:
- Gì đấy chú?
- Thưa Bác, rượu ba ba.
- Ở đâu vậy. Chú mua đấy à?
Anh Định sợ quá phải nói dối:
- Dạ, con ba ba cháu bắt được. Nghe đồng bào nói rượu huyết ba ba người lớn tuổi uống khỏe ra. Cháu làm để Bác dùng...
- Thôi, Bác không uống đâu. Bác cho chú đấy. Lúc đó là sáng sớm. Anh Định ấp úng không biết nói sao, đành phải mang xuống nhưng lòng áy náy không yên. Khoảng chín giờ, anh lại bưng cốc rượu lên. Bác lại hỏi:
- Gì đấy chú?
- Dạ, cháu nghe nói rượu ba ba bổ lắm. Bác mệt... - Bác đã nói là Bác không uống đâu.
Anh Định đành mang xuống lần thứ hai. Trưa đến lúc Bác ngồi ăn cơm, lại thấy cốc rượu ban sáng trên bàn. Bác nhìn anh Định mỉm cười rồi cầm cốc rượu uống. Nhưng Bác chỉ uống một nửa, còn một nửa, Bác đưa lại:
- Bác uống thế là đủ rồi. Phần này Bác cho chú đấy!
Mỗi bữa Bác chỉ ăn hai bát cơm. Tôi ái ngại, hỏi Bác:
66
- Cháu thấy Bác ăn ít quá, sức khỏe có kém không? - Bác ăn thế, thấy sức khoẻ cũng bình thường. Tôi bày anh Định làm thêm nhiều món, biết
đâu lạ miệng có khi Bác ăn được nhiều chăng? (mà nào có gì đâu, chỉ là rau rừng, đọt bí, măng nứa vậy thôi). Nhìn cơm, nhìn thức ăn, Bác nói với anh em:
- Hôm nay các chú làm cơm cho Bác nhiều quá. Bác ăn còn thừa, đổ đi cũng không ai biết, nhưng Bác không nỡ. Đồng bào mình còn đang thiếu thốn...
Một cái bàn, một vài bát cơm, một hai đĩa rau có gì là nhiều? Nhưng Bác vẫn không muốn nhận cho mình bất kỳ một cái gì nhiều hơn người khác, tuy rằng công việc của Bác nặng nề, to lớn hơn bất kỳ người nào khác.
Một hôm thấy Bác thay áo ra, có đồng chí phục vụ vội cầm xuống suối giặt. Anh vừa ngồi xuống tảng đá, thì có tiếng người gọi, anh vội bỏ áo đấy chạy đi. Một lát sau, trở lại không thấy cái áo đâu. Anh lo quá, cứ men theo suối đi tìm. Tìm mãi vẫn không thấy, anh đành về thưa thật với Bác, Bác cười nói:
- Bác xuống suối thấy áo, Bác đã giặt và phơi kia rồi. Lần sau chú đừng bỏ như thế nhỡ nước lũ trôi mất, lãng phí...
Có lần Bác đưa tôi lên nhà. Đúng như cảnh “nhà sàn đơn sơ” mà anh Tố Hữu đã tả trong bài thơ Sáng tháng Năm:
67
Bác kêu con đến bên bàn
Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ
Con bồ câu trắng ngây thơ
Nó đi tìm thóc quanh bồ công văn
... Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ đậm đà...
Ngoài chiếc máy đánh chữ, tất cả đồ dùng cá nhân, Bác cho vào một cái bị nhỏ, Bác nói: - Khi cần đi, Bác chỉ cần mang cái bị là xong ngay. Vừa nói, Bác vừa khoác bị lên vai một cách rất gọn gàng. Bác thật là một bài học sống cho chúng tôi về tác phong quân sự hoá trong kháng chiến. Bây giờ ai cũng biết tấm ảnh chụp quang cảnh Bác đang xắn quần lội qua suối. Sự thật thì không phải Bác xắn quần đâu. Bác dùng một sợi dây luồn vào trong, treo ống quần lên thắt lưng, đi đường xa dốc núi không bao giờ quần bị sổ ra mà hai tay lại rảnh rang.
Bác không hề đòi hỏi gì cho bản thân, nhưng đối với người khác thì Bác lại chăm sóc từng li từng tí, mặc dù Bác rất bận. Mỗi lần Bác đi công tác về, thật như mang cả một luồng ánh sáng vào nhà, làm rộn lên cả cái tập thể nhỏ bé của chúng tôi.
Cứ một tuần lễ thì Bác lại qua rước mấy cháu bên anh Đồng về chơi, ngủ với Bác. Hôm nọ vào lúc chiều tối, có một em nhớ nhà đòi về. Tôi nhìn em bé đi mà chạnh lòng thương Bác quá. Bác nói rất hiền lành, dịu dàng: “Cháu nó chưa quen, còn
68
nhớ mẹ. Thôi để cho nó về với mẹ nó”. Một lần có máy bay địch lượn gần nhà. Mọi người đều xuống hầm. Thấy tôi chưa có hầm (vì tôi hay chạy xuống suối nấp), Bác chỉ hầm của Bác bảo tôi:
- Chú xuống đi...
- Thưa Bác, Bác xuống hầm, cháu nấp đằng này cũng được.
- Không, chú cứ xuống hầm của Bác.
Ôi đồng bào, đồng chí ta, ai cũng sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ Bác khi cần thiết, thế mà Bác, Bác Hồ của chúng ta lại sẵn sàng nhường hầm của Bác cho tôi. Dù có tan thây làm trăm mảnh ở ngoài, tôi cũng vui, có đâu dám xuống hầm của Bác. Giữa lúc đó thì Bác cười:
- Thôi, máy bay đã đi mất rồi...
Dù bận nhiều việc lắm, nhưng Bác rất quan tâm tới công tác văn nghệ. Bác dạy chúng tôi, một cách hết sức nhẹ nhàng. Tưởng Bác đùa, nhưng càng ngẫm càng thấy ý nghĩa sâu sắc vô cùng trong mỗi câu nói vui, bình thường của Bác. Có một dạo, anh Đinh Đăng Định theo Bác đi công tác. Về rồi, một hôm Bác gọi anh sang ăn cơm và nói:
- Hôm trước chú chụp khá nhiều đấy. Bây giờ rửa ảnh ra xem cái nào dùng được, đưa qua Bác coi. Còn thì cất đi. Rồi Bác cười với chúng tôi: “Cái gì cũng đưa ra hết sao!”.
Các bài báo của Bác, nghĩ đến đâu Bác đánh máy đến đấy. Bác không viết trước, Bác đánh từ
69
từ, chậm rãi, đánh mổ cò bằng hai ngón tay. Anh Đinh Đăng Định đến xin chụp ảnh Bác, vừa đưa máy ảnh ngắm, Bác vội khoát tay:
- Không, Bác đánh mổ cò thế này... để Bác sửa lại đã. Không thì người ta cười cho!
Chẳng những Bác dạy chúng tôi đừng có tự nhiên chủ nghĩa trong nghệ thuật, phải có một kiến thức rộng rãi, mà còn phải lắng nghe ý kiến quần chúng.
Có thể nói rằng Bác là một nhà nghệ thuật lớn, có một tâm hồn lớn về nghệ thuật mang đầy tính chất nhà thơ Á Đông. Không những Bác chú ý đến việc vẽ của tôi, phê bình, góp ý kiến... mà trong cuộc sống Bác rất chú ý đến cái đẹp. Trong việc tìm nơi ở, ngoài việc bảo đảm an toàn, Bác còn chú ý đến vẻ đẹp thiên nhiên, tìm hang, lợp mái, Bác thích nơi có tre trúc rủ trước nhà, trông xa mây vờn lưng núi, suối khe róc rách gần bên (tôi theo Bác đi tìm thấy mấy chục hang Bác chỉ chọn có ba hang) và trên đường đi, chỗ nào có cảnh đẹp Bác thường dừng lại giây lát để thưởng thức... Lần đầu tiên được theo Bác đi tìm một địa điểm mới, trong khi đang lội qua suối, bác dừng lại chỉ tay ra phía trước: “Chú Châu, chú thấy có đẹp không?”, tôi nhìn theo tay Bác trỏ, thấy giữa dòng suối có một hòn đá, nước suối chảy mạnh đập vào tung toé, bụi nước tung lên như ánh bạc. Có một đêm hai Bác cháu đang nghe đài phát thanh, bỗng Bác gọi:
70
- Chú Châu, qua đây!
Tôi đến ngồi cạnh Bác, Bác kéo đầu tôi ghé cạnh Bác, trỏ ra khung cửa sổ. Một mảnh trăng liềm vừa nhô ra khỏi núi, toả sắc xanh huyền ảo xuống những dãy rừng xa. Bác nói:
- Của chú đấy!
“Cái gì đẹp, thơ mộng thì Bác cũng cho là của nghệ sĩ. Chính thật ra là của Bác. Bác đã tạo ra một sắc thái mới cho trời đất, núi sông, cây cỏ và cả dân tộc này...”. Lúc bấy giờ tôi nghĩ thế, và bây giờ tôi cũng nghĩ như thế.
Tôi ở với Bác không đầy sáu tháng, nhưng cũng nhiều lần dời nhà. Trước khi đi khỏi ngôi nhà thứ hai, Bác lúi húi trồng một cây quít, tôi luẩn quẩn theo Bác, giúp Bác xới đất cắm cọc xung quanh cây quít nhỏ. Tôi nói:
- Thưa Bác, mai ta dời đi rồi. Bác còn trồng làm gì? Bác đứng dậy ngắm nghía cây quít mới trồng một lúc, như chợt nhớ câu tôi vừa hỏi, Bác quay lại nói:
- À, mình đi thì trồng để mai sau ai qua ngang đây gặp ăn cũng được...
Nơi nào Bác ở cũng lưu lại trong tâm hồn chúng tôi những hình ảnh và không khí đầm ấm. Nhớ khi rời khỏi ngôi nhà thứ nhất, nghe anh em phục vụ Bác bảo nhà này phải đốt đi để giữ bí mật, tôi đau lòng quá. Tôi xin Bác: “Thưa Bác, Bác cho cháu ở lại một ngày để vẽ rồi hãy đốt”. Bác
71
đồng ý và để anh Định, người chịu trách nhiệm đốt, ở lại với tôi. Mờ sáng hôm sau tôi vội thức dậy để vẽ, say sưa vẽ lại chỗ Bác ngồi, nơi Bác ăn, Bác ngủ. Tôi sờ từng cây cột, nấc thang, tấm bìa lịch hằng ngày Bác bóc, đốt đi như cháy lòng tôi. Cả những tấm lá cọ, cả những tàu chuối đung đưa... tôi đều ghi chép tỉ mỉ. Tôi muốn giữ lại cho mai sau, dù là những cái gì nhỏ nhất, đã được sống gần và mang hơi ấm của Bác.
Bác còn là một tấm gương sáng về sự giữ gìn và rèn luyện sức khoẻ. Bất kỳ thời tiết nào, dù việc nhiều việc bận đến đâu, sáng nào Bác cũng tập thể dục. Có lần tôi được thấy Bác tập võ. Giữa cảnh núi rừng hùng vĩ, nhìn Bác phất phơ chòm râu bạc, đi một đường quyền uyển chuyển nhẹ nhàng, tôi có cái cảm giác như đang lạc vào một cảnh tiên, gặp một ông tiên nào đó. Bác cũng thường nhân những lúc nghỉ, ra ngồi câu cá bên bờ suối. Nhất là những đêm trăng sáng, Bác hay gọi chúng tôi đến kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện trong đời hoạt động của Bác. Và chúng tôi như những đứa cháu nhỏ quây quần chung quanh ông nội, nghe ông kể chuyện. Thật là những giờ phút suốt đời tôi không bao giờ quên được.
Họa sĩ Diệp Minh Châu kể, Đoàn Giỏi ghi.
Nguồn: Người là Hồ Chí Minh, Tập hồi ký,
Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995.
72
TĂNG TIÊU CHUẨN CHO CHIẾN SĨ
Năm 1952, khi vùng tự do đã được mở rộng sau nhiều chiến dịch lớn, các đại đoàn chủ lực đã được thành lập. Chính sách thuế nông nghiệp được ban hành, nhân dân nhiều vùng ra sức đóng góp thuế nông nghiệp để nuôi quân.
Bác đề nghị tăng gấp đôi tiêu chuẩn cho bộ đội (lúc đó chiến sĩ được tiêu chuẩn 1 kg gạo/ngày, kể cả ăn và tiêu vặt), cán bộ thì được hơn.
Chủ trương đó được phổ biến tới Tổng cục Hậu cần và Cục Quân lương. Các đồng chí quân lương nhiều lần làm đề án trình Bác, căn cứ vào thực tế thóc có trong kho và tính toán cân đối với Bộ Tài chính thì tăng gấp đôi cho cán bộ từ trung đội phó trở lên, còn chiến sĩ chỉ thêm hai lạng, tức là mỗi ngày được tiêu chuẩn 1,2 kg gạo.
Tôi thấy nhiều đêm Bác thao thức về vấn đề này. Có lần đến phiên tôi trực, Bác hỏi: “Sức trai như chú mỗi bữa ăn mấy bát cơm thì no?”. Lúc ấy ăn uống thức ăn chẳng có gì, chủ yếu là ăn cơm. Tôi hiểu tâm trạng Bác hỏi là có ý, nên đã thưa thực:
73
- Thưa Bác, như sức cháu mỗi bữa ăn năm bát mới no.
- Năm bát cơm phải một bơ bò đầy gạo là 0,33kg, ngày ba bữa, riêng ăn đã là 1 kg rồi.
Vào một đêm tháng Chạp năm đó, trời rét như cắt thịt. Tôi thu mình trong chiếc áo dạ chiến lợi phẩm đứng dưới nhà sàn của Bác. Ánh đèn trên nhà sàn vẫn sáng. Khoảng 1 giờ sáng có tiếng lẹp xẹp trên sàn nứa, tôi đoán Bác lại suy tư điều gì, xuống hỏi tôi đây.
Đúng như dự đoán, chỉ hơn một phút sau Bác đã đứng cạnh tôi, Bác đưa cho tôi một điếu thuốc lá hút cho đỡ rét rồi hỏi:
- Chú ăn cơm chiều lúc mấy giờ?
- Thưa Bác lúc năm giờ rưỡi ạ!
- Chú đã đói chưa?
Biết là không thể nói dối Bác được, tôi thú thật: - Thưa Bác, đói rồi ạ!
Bác vui hẳn lên như tìm ra một vật quý và nói - giọng nói đầy thương yêu.
- Đúng rồi, chú bảo vệ ở hậu phương mà lúc này đói, thì các chiến sĩ công đồn, phục kích quân địch, vào lúc này chắc sẽ đói gấp đôi. Vậy mỗi chú chỉ có 1,2 kg gạo thì đánh giặc sao nổi.
Bác lên sàn rồi quay lại rất nhanh đưa cho tôi một bắp ngô nếp luộc rất to.
- Phần của chú đây, chú ăn đi cho đỡ đõi để làm nhiệm vụ.
74
Tôi biết không thể từ chối, nên cầm bắp ngô ăn, trong bụng vẫn băn khoăn không biết đêm nay Bác đã ăn gì chưa? Khi nhà sàn tắt đèn, tôi liếc nhìn đồng hồ thì đã 2 giờ sáng. Những gì diễn ra tiếp đó thì tôi không rõ, chỉ biết rằng đầu tháng sau các chiến sĩ bảo vệ chúng tôi cũng được tăng tiêu chuẩn 2 kg gạo/ngày.
Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương,
Trung tâm Thông tin công tác tư tưởng:
Những mẩu chuyện về tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2008.
75
BÀI HỌC DỰA VÀO DÂN
Đầu năm 1950, đoàn đại biểu Đảng - Công đoàn Nam Bộ được đến chào Bác cùng các vị trong Ban Thường trực Quốc hội và Chính phủ. Chúng tôi được chụp ảnh chung với Bác. Khi từ Sài Gòn ra tôi đang là Trưởng Ban cán sự nội thành Sài Gòn.
Đây là lần đầu tiên tôi được gặp Bác Hồ. Ấn tượng của tôi lúc gặp Bác tôi vẫn còn giữ mãi cho tới tận bây giờ, đó là nét mặt hiền từ, tấm lòng đôn hậu và sự quan tâm đặc biệt của Bác với nhân dân.
Tháng 1-1950, tại chiến khu Việt Bắc tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc lần thứ 3, bàn về tổng phản công. Đại biểu các nơi phát biểu về tình hình của địa phương mình. Đó là các đại biểu từ Liên khu 5 và Tây Nguyên, có một chi tiết khá thú vị là khi giới thiệu tên các đại biểu, có một đồng chí tên là Phan Đình Công. Nghe đến tên đó, Bác cười và nói vui:
- Lúc này chúng ta chưa đình công đâu, mà còn phải kháng chiến.
76
Sau khi đại biểu ở các địa phương trong cả nước báo cáo, Bác không phát biểu ngay, Người mời hai cụ Phan Kế Toại và Phạm Bá Trực cho ý kiến về các bản báo cáo đó. Hai cụ khiêm tốn mời Bác nói trước.
Bác hỏi thăm sức khoẻ của các cán bộ và căn dặn mọi người phải giữ gìn sức khoẻ để cùng đồng bào kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
Tối hôm đó, có một cuộc tiệc trà để chào mừng các đoàn đại biểu. Trong buổi liên hoan, tôi thấy Bác đi ra, như đang tìm ai. Thấy thế, anh Trần Duy Hưng hỏi Bác:
- Thưa Bác, Bác đang tìm ai đấy ạ?
Bác trả lời:
- Bác thấy mấy cháu nhỏ ở xung quanh đây, Bác muốn cho các cháu cùng ăn bánh kẹo. Tôi còn nhớ hôm gặp đoàn đại biểu Nam Bộ, Bác hỏi rất kỹ về tình hình đấu tranh của đồng bào miền Nam. Với tư cách là người phụ trách công tác ở nội thành Sài Gòn, tôi đã báo cáo tỉ mỉ với Bác về tình hình đấu tranh ở Sài Gòn. Tôi còn chuyển lên Bác bản kiến nghị của hơn một nghìn trí thức nội thành Sài Gòn gửi đại diện Pháp đòi rút quân, đòi cải cách dân chủ, v.v..
Trong thời gian còn ở Việt Bắc, có lần tôi được đi theo các anh Phạm Hùng và Võ Nguyên Giáp đến nhà sàn của Bác ở An toàn khu Sơn Dương. Trong buổi nói chuyện, tôi thấy Bác đặc biệt chú ý
77
tới tình hình miền Nam. Khi tôi nói ý định xin tiền của Trung ương, Bác cười và bảo:
- Trung ương không có tiền, mà chỉ cấp tiền để cho các chú đi và về thôi. Các chú phải dựa vào dân. Nếu chú có một que diêm, nhưng biết cách thì cũng có thể đốt được cả một cánh đồng. Còn nếu có cả mồi lửa to, nhưng không biết cách thì cũng không châm lên được.
Bác muốn nhắc nhở: Phải tuyệt đối tin ở dân, dựa vào dân để kháng chiến.
Văn phòng Trung ương xây dựng ở chỗ nào là tốt nhất?
Tôi còn nhớ hồi còn ở Thành uỷ Hà Nội, tôi được cùng tham gia trong buổi Bác duyệt bản quy hoạch thành phố Hà Nội. Hiện nay bức ảnh chụp Bác đang xem bản quy hoạch tôi vẫn còn giữ trong cuốn sổ album của mình. Sự kiện này làm tôi nhớ mãi, vì lúc đó có một đồng chí trong Trung ương đề nghị Bác là nên xây dựng Văn phòng Trung ương Đảng ở nơi khác, đẹp hơn chỗ hiện nay, là trường học của Anbexarô. Nghe thấy thế, Bác trả lời:
- Văn phòng Trung ương như thế là được rồi. Sau khi im lặng một lúc, Bác hỏi:
- Thế các chú có biết Văn phòng Trung ương xây dựng ở chỗ nào thì tốt không?
78