🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Anh Hùng Đặc Công Hải Quân Lữ Đoàn 126 Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng PGS.TS. PHẠM VĂN LINH Phó Chủ tịch Hội đồng PHẠM CHÍ THÀNH Thành viên TRẦN QUỐC DÂN TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI TS. NGUYỄN AN TIÊM NGUYỄN VŨ THANH HẢO LỜI NHÀ XUẤT BẢN Sau khi thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, nhằm duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới để thống trị miền Nam và chia cắt lâu dài nước ta, đế quốc Mỹ đã không ngừng đổ quân vào miền Nam, dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, mở rộng chiến tranh. Trước tình hình đó, quân đội Việt Nam buộc phải đẩy mạnh tiến công trên các chiến trường, không ngừng phát triển các lực lượng chủ lực, đặc biệt là lực lượng đặc công, trong đó có đặc công hải quân. Ngày 13 tháng 4 năm 1966, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Đoàn huấn luyện trinh sát đặc công mang phiên hiệu Đoàn 126 trực thuộc Bộ Tư lệnh hải quân (gọi là Đoàn Đặc công hải quân 126 - tiền thân của Lữ đoàn Đặc công hải quân 126 hiện nay). Trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đoàn đã lập nên nhiều kỳ tích hiếm có trong lịch sử quân sự: Chỉ trong gần bảy năm, từ một đơn vị cấp trung, Đoàn đã tiêu diệt hơn 370 tàu chiến, tàu vận tải quân sự và nhiều phương tiện khác của địch, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, cùng quân và dân cả 5 nước làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Có được thành tích vẻ vang như vậy phải kể đến công lao to lớn của các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng, mưu trí, đoàn kết, khắc phục khó khăn, bảo vệ vững chắc vùng biển, vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc. Nhằm góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Những anh hùng Đặc công hải quân Lữ đoàn 126. Cuốn sách ghi lại chiến công thầm lặng của các cán bộ, chiến sĩ đặc công hải quân trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, thông qua những câu chuyện hết sức chân thực, xúc động thắm tình đồng đội, tình quân dân của những anh hùng thuộc Lữ đoàn Đặc công hải quân 126. Xuất bản cuốn sách này, chúng tôi mong muốn cung cấp thêm thông tin, tư liệu lịch sử, những câu chuyện đời thường của các anh hùng trong chiến đấu cũng như trong thời bình. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 6 năm 2016 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6 SÁNG MÃI TÊN ANH Cho đến hôm nay, trong tất cả các tài liệu lịch sử và cả trong câu chuyện của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn Đặc công hải quân 126, Mai Năng là cái tên thường được nhắc đến nhiều nhất, thường xuyên nhất, với sự trân trọng và yêu mến của mọi người. Sở dĩ có chuyện như vậy là bởi cách đây hơn 50 năm, ông chính là một trong những người đã đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng lực lượng đặc công nước nói chung và Đặc công hải quân 126 nói riêng. Mai Năng tên thật là Tạ Văn Thiều, sinh năm 1930, người xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Bí danh Mai Năng, theo ông giải thích, có nghĩa là: sự năng động, sáng tạo để đi đến ngày mai. Cái tên ấy đã gắn với ông ngay từ những năm tháng hoạt động quân báo ở Hải Phòng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông kể, hồi nhỏ, cha mẹ mất sớm, Hải Phòng khi ấy là một trong những thành phố lớn bị địch chiếm đóng, cuộc mưu sinh tự lập của những đứa 7 trẻ mồ côi khiến ông sớm có dịp chứng kiến nhiều tội ác tày trời của quân giặc đối với nhân dân ta. Chứng kiến, rồi ghét, rồi căm thù,... để đến lúc ngọn lửa căm hận ấy bỗng trở thành hoài bão của cả một thế hệ thanh niên khi đó. Vậy là chàng thanh niên Tạ Văn Thiều trở thành người lính quân báo Mai Năng, hoạt động trên địa bàn thành phố Hải Phòng và các vùng lân cận. Tháng 6 năm 1950, bước vào tuổi 20, Mai Năng chính thức tham gia lực lượng chính quy, làm nhiệm vụ thông tin, rồi hoạt động hậu cứ, làm nhiệm vụ nắm tình hình, tạo điều kiện cho bộ đội đánh địch. Chính những kỹ năng và kinh nghiệm thời kỳ hoạt động quân báo đã giúp ông hoàn thành tốt nhiều nhiệm vụ phức tạp ở vị trí này. Ông là một trong số những chiến sĩ tham gia trận đánh vào huyện Kiến An năm 1953, bắt sống tên tỉnh trưởng, khiến quân địch vô cùng hoang mang. Trận đánh lớn đầu tiên mà Mai Năng tham gia phải kể đến là trận đánh sân bay Cát Bi năm 1954, sân bay lớn nhất khu vực Bắc Đông Dương, được địch tăng cường canh phòng hết sức cẩn mật, chúng sử dụng đến bảy tiểu đoàn để bảo vệ, do một thiếu tướng chỉ huy. Trận đánh diễn ra trong thời điểm vô cùng khó khăn, cơ sở xung quanh đều bị trắng. Phải mất cả tháng trời, Mai Năng và các chiến sĩ trinh sát mới tiếp cận được dân để xây dựng lại và ba 8 tháng sau, đến tháng 10 năm 1953 mới vào được sân bay để trinh sát. Đến tháng 3 năm 1954, đơn vị tấn công sân bay. Trận đó chỉ với 32 chiến sĩ, bằng chiến thuật chiến đấu đặc công: “Chuột nhắt chui kho, vào nhỏ ra to”, ta đã phá hủy được 59 máy bay của địch, góp phần chặn đứng con đường chi viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của chúng, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Các chiến sĩ tham gia trận đánh lẫy lừng này sau đó được Bác Hồ gọi là Dũng sĩ Cát Bi và Mai Năng được bầu là Dũng sĩ số 1, được tặng Huân chương Quân công hạng Ba và một khẩu súng cạcbin, món quà hết sức giá trị đối với người lính khi ấy. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 kết thúc chín năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Mai Năng được đơn vị cử đi học văn hóa ở Lạng Sơn. Sau khi hoàn thành chương trình, ông là một trong số những người được chọn đi đào tạo ở Liên Xô, nhưng do những biến động chính trị bên nước bạn thời gian này nên việc đi học không thành. Ông ở lại đơn vị cho đến năm 1961 thì chuyển sang lực lượng hải quân. Sau này nhớ lại, Mai Năng bảo có lẽ việc đi học Liên Xô không thành lại là định mệnh chăng? Bởi nếu ngày ấy ông đi học thì biết đâu câu chuyện về đặc công nước của ta sẽ khác đi. 9 * Chuyển sang hải quân, Mai Năng được điều về làm chính trị viên trên tàu săn ngầm thuộc Đoàn 200 Hải quân Việt Nam đóng tại Hải Phòng. Làm công tác chính trị, nhưng cái “máu” quân báo lâu nay vẫn âm thầm chảy trong con người ông, cộng với tính tình hóm hỉnh, hài hước của tuổi trẻ, nên chỉ một thời gian ngắn sau đó, Mai Năng đã làm một chuyện “động trời”, “tiếng tăm” lên đến tận Bộ Tư lệnh (khi đó là Cục Hải quân), đưa sự nghiệp của ông chuyển sang hướng khác. Số là sau khi về đơn vị một thời gian, nhận thấy công tác canh phòng của ta tại tất cả các tàu nói riêng và toàn đoàn nói chung còn chểnh mảng, chính trị viên Mai Năng bèn tổ chức một đội gồm các chiến sĩ trẻ, thạo bơi lội để lặng lẽ huấn luyện. Sau đó, ông cho đội của mình bí mật tiếp cận các tàu của ta, buộc gạch vào chân vịt rồi phát lệnh báo động,... Cả đơn vị rối như gà mắc tóc vì không di chuyển được. Tiếng vang của “trận đánh đó” lên đến tận Cục Hải quân. Một đoàn cán bộ chủ chốt của Cục tức tốc xuống đơn vị để xem xét. Người làm ra việc này có công hay có tội lúc đó rất khó kết luận. Nói là tội thì cũng đúng, vì tự ý hành động làm giảm sức chiến đấu của đơn vị đâu phải là chuyện nhỏ. Nhưng nói có công thì cũng không hẳn là sai, khi anh ta đã chỉ ra những yếu 10 kém trong công tác phòng thủ của ta. Mỗi người trong đoàn đang theo đuổi một suy nghĩ, một quan điểm khác nhau. Trong lúc đó, đồng chí Nguyễn Kim Sang, Trưởng ban Quân báo của Cục Hải quân nhận ra Mai Năng vốn là một “của quý” của ngành quân báo. Trưởng ban Kim Sang ngay lập tức ra lệnh: - Ngồi yên đây, tuyệt đối không được đi đâu... Thời điểm những năm 1961-1962, trên chiến trường miền Nam, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của quân và dân ta đang diễn biến phức tạp. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chủ trương xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân trên ba vùng chiến lược, trong đó có nhiệm vụ tổ chức các đội đặc công chiến đấu trên cả đường thủy lẫn đường bộ. Thực hiện chủ trương đó, với nhiệm vụ sẵn sàng chi viện cho chiến trường miền Nam khi có yêu cầu, trên cơ sở kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc nơi sông biển của ông cha và kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đầu năm 1961, Đảng ủy Cục Hải quân đã đặt vấn đề tổ chức xây dựng lực lượng đặc công nước với quy mô hợp lý và thích hợp. Sau “sự kiện” ở Đoàn 200, đồng chí Kim Sang đã lập tức xin ý kiến của lãnh đạo Cục. Đến cuối năm 1961, Phòng Tham mưu Cục Hải quân có quyết định rút Mai Năng về Ban Quân 11 báo làm nhiệm vụ nghiên cứu, tìm hiểu, lập đề án tổ chức, xây dựng lực lượng, huấn luyện, bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng đặc công hải quân để đưa vào chiến trường đánh tàu địch. Sau một thời gian nghiên cứu, Mai Năng đã trình lên Đảng ủy và Phòng Tham mưu hải quân đề án xây dựng lực lượng đặc công hải quân phát triển chiến đấu trên chiến trường sông biển. Ban đầu, Mai Năng chỉ đề nghị thành lập một trung đội, nhưng người đứng đầu Cục Hải quân khi ấy là đồng chí Nguyễn Bá Phát muốn xây dựng một lực lượng lớn hơn. Cuối cùng, sau khi bàn bạc, cân nhắc, lãnh đạo Cục Hải quân thống nhất thành lập một đơn vị cấp đại đội. Ngày 15 tháng 10 năm 1962, Chính ủy Cục Hải quân đã ký quyết định thành lập Đại đội Đặc công hải quân. Đơn vị do Mai Năng làm đại đội trưởng, gồm 57 chiến sĩ được tuyển chọn từ các đơn vị trong lực lượng hải quân, có nhiệm vụ nghiên cứu cách đánh địch ở dưới nước. Đây có thể coi là lực lượng tiền thân của Đặc công hải quân nhân dân Việt Nam. Gọi là đặc công nước, nhưng ngày đó, những bài tập đầu tiên của người lính mới chỉ là tập sức bền và các hình thức di chuyển dưới nước. Mai Năng nhớ lại: - Chặng đường tập bơi của chúng tôi khi đó là từ Hải Phòng ra Đồ Sơn, rồi từ Đồ Sơn ra Cát Bà, 12 mỗi chặng bơi chừng sáu tiếng liên tục. Thế nhưng tập bơi mới chỉ là một phần. Với đặc công nước, để chiến đấu được dưới nước thì phải biết đi ngầm. Nói đến đây, ông làm động tác thị phạm “đi ngầm” cho tôi xem. Với người lính đặc công nước nay đã ở vào cái tuổi ngoại bát tuần ấy, thì cho đến giờ có lẽ những động tác ấy vẫn chẳng có gì là khó khăn, nhưng với người bình thường thì làm được động tác đi thẳng, nhưng mặt phải ngửa lên trên mặt nước, lại vừa phải nhẹ nhàng để không gây ra tiếng động, không gây ra sóng phía trên, quả không phải dễ dàng gì. Thị phạm xong ông bảo: - Với động tác đi ngầm này, chiếc ống thở là rất quan trọng. Phải mất khá nhiều thời gian chúng tôi mới tìm ra được loại ống thở thích hợp. Ban đầu dùng ống thủy tinh tưởng là tốt, nhưng đã có người bị vỡ ống, mảnh thủy tinh cắm vào miệng, rất nguy hiểm. Chiếc ống nhựa ngày nay cũng là kết quả của cả một quá trình cải tiến rất nhiều. Rồi cách đi thế nào cho hiệu quả nữa. Tốt nhất là dựa vào thủy triều... Cứ thế vừa mày mò nghiên cứu, vừa thực hành huấn luyện, từ tháng 10 năm 1962 đến giữa năm 1963, đơn vị tiến hành diễn tập báo cáo. Nội dung diễn tập là cho quân bí mật tiếp cận các tàu của ta đang đậu ngoài cảng mà không ai phát 13 hiện được, chương trình được coi là hoàn thành. Ngày 23 tháng 10 năm 1963, Cục Hải quân ra quyết định thành lập Đội 1 - Đặc công hải quân, gồm 80 cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn từ các đơn vị trong Cục Hải quân. Đồng chí Mai Năng được cử làm đội trưởng. Nhiệm vụ của Đội 1 - Đặc công hải quân lúc này là: nghiên cứu nội dung huấn luyện, phương pháp tổ chức xây dựng lực lượng, nghiên cứu cách đánh và các vấn đề trang bị đánh tàu mặt nước của địch,... để tham mưu cho Cục Hải quân và Bộ Quốc phòng trong chỉ đạo xây dựng lực lượng, từ đó xây dựng Đặc công hải quân thành một lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến. Sau những lần tiễn những người lính của mình lên đường, Mai Năng lại bước vào những tháng ngày huấn luyện mới. Đến tháng 6 năm 1964, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 262/TM-QĐ thành lập Đoàn 8 Đặc công nước trực thuộc Bộ Tư lệnh hải quân, có nhiệm vụ huấn luyện cán bộ, chiến sĩ đặc công nước bổ sung cho chiến trường miền Nam, lực lượng của Đoàn bao gồm số cán bộ, chiến sĩ của Đội 1 và một số cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn từ các đơn vị trong Quân chủng với tổng số 189 đồng chí. Biên chế gồm cơ quan đoàn bộ và 3 đội huấn luyện. Cơ quan đoàn bộ có 25 người. Đội 1 có 87 cán bộ, chiến sĩ chuyên huấn luyện kỹ thuật 14 đánh tàu địch bằng phương thức áp mạn. Tháng 12 năm 1964, khóa huấn luyện kết thúc. 150 cán bộ, chiến sĩ phấn khởi nhận nhiệm vụ lên đường ra mặt trận. Đây là những cán bộ, chiến sĩ đặc công hải quân đầu tiên vào chiến trường trực tiếp cùng quân, dân miền Nam chiến đấu; lúc này phiên hiệu Đoàn 8 Đặc công nước không còn nữa. 39 cán bộ, chiến sĩ còn lại được biên chế thành một đội, vẫn gọi là Đội 1 do đồng chí Mai Năng phụ trách, được Bộ Tư lệnh hải quân 1 điều vào hoạt động ở các cửa sông thuộc phía nam Quân khu 3 và Quân khu 4. Từ năm 1963 đến năm 1966, liên tiếp những chiến công vang dội của Đặc công hải quân từ chiến trường báo về, khiến cho không khí của toàn Bộ Tư lệnh nói chung (lúc này Bộ Quốc phòng đã có Quyết định số 01/QP thành lập Bộ Tư lệnh hải quân, thay cho Cục Hải quân trước đây) và cán bộ, chiến sĩ Đội 1 nói riêng, vô cùng náo nức. Nào là những trận đánh tàu có trọng tải trên 10.000 tấn thắng lợi, mà trận đánh vang dội nhất thời kỳ này là trận đánh chìm tàu chở máy bay U.S. Cadơ tại cảng Sài Gòn ngày 2 tháng 5 năm 1964 của Đội biệt động 65. Tàu Cadơ có trọng tải 15.000 tấn, chở máy bay HU-lA, L.19, AD-6. Tiếng nổ đánh chìm con tàu Cadơ tại bến cảng Sài Gòn không chỉ tiêu diệt một số lượng lớn phương 15 tiện chiến tranh của địch, mà còn làm chấn động dư luận nước Mỹ. Những thành tích đánh cầu đã trở thành “thương hiệu” của đặc công nước Bắc Việt, khiến cho quân địch ăn không ngon, ngủ không yên, cùng những trận đánh kinh điển của đặc công Rừng Sác mà tiếng vang đến tận bên kia bán cầu, đã góp phần thay đổi cục diện chiến trường giữa ta và địch. Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát hồ hởi báo cáo lên Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau khi nghe đã chỉ đạo Bộ Tư lệnh nhanh chóng thành lập một đơn vị đặc công trinh sát hải quân để tăng cường lực lượng cho chiến trường, phát huy tối đa hiệu quả của cách đánh táo bạo này. Đến ngày 13 tháng 4 năm 1966, Bộ Quốc phòng đã có quyết định thành lập Đoàn huấn luyện trinh sát đặc công hải quân 126, trực thuộc Bộ Tư lệnh hải quân. Đoàn gồm có 39 đồng chí ở Đội 1 đã từng được huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật đánh đặc công ở Đoàn 8 trước đây và 74 đồng chí ở đại đội đặc công đánh biển thuộc Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu làm nòng cốt. Khi mới thành lập, Đoàn huấn luyện trinh sát đặc công hải quân 126 do đồng chí Nguyễn Kim Sang làm đoàn trưởng, đồng chí Phạm Điệng làm chính ủy. Đến tháng 5 năm 1966, Bộ Tư lệnh hải quân điều thêm 721 cán bộ, chiến sĩ, tuyển chọn từ các đơn vị 16 trong quân chủng về Đoàn 126. Mai Năng lúc này vẫn giữ cương vị là đội trưởng Đội 1, đơn vị nòng cốt của Đoàn. Đoàn 126 huấn luyện đến tháng 10 năm 1966 thì được lệnh lên đường vào Nam chiến đấu. Nhằm thực nghiệm công tác huấn luyện và rút kinh nghiệm về cách đánh, về chiến thuật, trang bị vũ khí, công tác xây dựng cơ sở,... để tiếp tục huấn luyện với chất lượng tốt hơn, Đoàn 126 đã đưa Đội 1 vào chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị. Trong số các thành viên lên đường trong năm đó có mặt Mai Năng. Ông lên đường với cương vị là thành viên Ban Chỉ huy tiền phương của Đoàn, và một số cán bộ do đồng chí Phan Ưng làm trưởng đoàn, đồng chí Lý Thảo phụ trách công tác quân sự, đồng chí Phạm Trung Toan phụ trách công tác chính trị, Mai Năng làm công tác tham mưu. Người thay ông làm đội trưởng Đội 1 là đồng chí Bùi Lý. Vào chiến trường từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1966 vẫn chưa thấy đặc công có hoạt động gì, Bộ Tư lệnh gọi điện hỏi, sau khi nghe báo cáo tình hình, lãnh đạo Bộ Tư lệnh cho rằng Đoàn bố trí Mai Năng làm công tác tham mưu là không hợp lý. Người như ông là con người của hoạt động, là linh hồn của những trận đánh thực tế, nên đã yêu cầu trao lại vị trí đội trưởng Đội 1 cho 17 Mai Năng và đưa đồng chí Bùi Lý về làm công tác tham mưu. Nhận nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy đơn vị chiến đấu, sau ba tháng tổ chức xây dựng cơ sở, trinh sát nắm tình hình địch, đến ngày 31 tháng 3 năm 1967, Mai Năng và các chiến sĩ Đội 1 đã ra quân đánh thắng trận đầu. Trận đánh này ông là người trực tiếp chỉ huy. Mục tiêu của Đội 1 trong lần đầu ra quân này là vừa đánh tàu, vừa tiếp tục quan sát, nắm bắt quy luật hoạt động của tàu địch trên sông, trong cảng để phục vụ nhiệm vụ chiến đấu tiếp theo của đơn vị. Lực lượng chiến đấu chính gồm có hai tổ đánh tàu, một tổ do hai đồng chí Đỗ Khắc và Nguyễn Văn Kiểm, có nhiệm vụ đánh chiếc tàu tuần tiễu Nam Triều Tiên1 đang đậu ở cửa sông. Còn nhiệm vụ quan sát quy luật hoạt động của địch trong cảng và đánh chiếc tàu LST của Mỹ, có trọng tải 5.000 tấn đang neo bốc hàng trong cảng được giao cho hai đồng chí Tống Duy Kiên và Nguyễn Văn Tình đảm nhiệm. Do một trục trặc bất khả kháng trong khi đặt mìn, quả mìn đánh chiếc tàu cuốc do Đỗ Khắc và Nguyễn Văn Kiểm thực hiện bị nổ trước, mặc dù tiêu diệt được mục tiêu, nhưng đã đánh động quân địch trong toàn khu vực, khiến cho nhiệm vụ đánh tàu do _____________ 1. Tức Hàn Quốc (BT). 18 Nguyễn Văn Tình và Tống Duy Kiên không hoàn thành được. Tuy nhiên, nhân cơ hội địch báo động và triển khai lực lượng phản ứng trong toàn khu vực này, hai chiến sĩ đã kịp thời nắm bắt được quy luật hoạt động và bố phòng của địch, làm cơ sở cho những trận đánh sau này. Bắt đầu từ đây, Đoàn Đặc công hải quân 126 nói chung và Đội 1 nói riêng bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chiến đấu hào hùng, sáng tạo, mưu trí và dũng cảm, đánh chìm, đánh hỏng nhiều tàu chiến của Mỹ - ngụy, góp phần làm nên chiến công chung của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước. Mai Năng kể: - Trên chiến trường Quảng Trị lúc ấy có hai đầu mối chính là cảng Cửa Việt và cảng Đông Hà, cách nhau mấy chục cây số. Nếu như dùng phương pháp đánh trên toàn tuyến thì ta không có đủ lực lượng nên buộc lòng phải sử dụng phương pháp đánh phân tán, với phương châm “Bí mật bất ngờ, luồn sâu ém sát, đánh hiểm thắng lớn”. Các chiến sĩ đặc công của ta khi ấy đã chia thành các tổ đánh tàu, bám sát hai cảng chính, còn lại chia thành các tổ hoạt động dọc theo bờ sông, vừa trinh sát nắm tình hình, vừa sẵn sàng chiến đấu khi gặp địch. Tất cả tạo thành một mạng lưới nắm thông tin của địch liên tục. 19 Chính vì thế mà chỉ trong một thời gian ngắn ta đã đánh được nhiều trận thành công. * Ra quân trận đầu, tuy chưa giành được thắng lợi như ý muốn, nhưng với một lực lượng nhỏ, với chiến thuật luồn sâu đánh hiểm, bí mật phá hủy bằng vũ khí thô sơ, các chiến sĩ Đoàn Đặc công hải quân 126 đã đánh chìm chiếc tàu có trọng tải 70 tấn của địch. Thêm vào đó là những bài học kinh nghiệm về kỹ năng tác chiến, về địa điểm xuất phát, thời điểm xuống nước; vấn đề thủy triều và những tác động ngoại cảnh khác có khả năng ảnh hưởng đến kết quả trận đánh,... Nhưng quan trọng nhất vẫn là khả năng ứng biến và tính quyết đoán của người chỉ huy cũng như của mỗi chiến sĩ trên chiến trường. Liên quan đến vấn đề này, về sau, khi đã trở thành một vị tướng dày dạn kinh nghiệm chiến trường, giữ trọng trách là Tư lệnh binh chủng Đặc công, trong một lần trò chuyện với một người bạn cũng đang là tư lệnh một quân khu, Mai Năng bảo: “Ngày ấy, cứ vào chiến trường là thực tế sẽ dạy mình tất cả, chứ chẳng có ai dạy được hết mọi điều”. Quả đúng vậy. Thực tế đem đến cho người lính những bài học, cả thành công lẫn thất bại ngay trên chiến trường, nhưng nếu biết vận dụng, biết ứng biến 20 thì nhiều khi thất bại này lại trở thành cơ hội tốt cho những thành công tiếp theo. Ấy là trường hợp một trận đánh cầu do chính ông trực tiếp chỉ huy. Lần ấy, khi các chiến sĩ đặc công đang tìm cách tiếp cận mục tiêu thì bị địch phát hiện, Mai Năng quyết định rút lui để bảo toàn lực lượng. Khối thuốc nổ nặng hơn trăm cân chuẩn bị dùng đánh cầu được chia nhỏ ra để vận chuyển cho dễ dàng. Trên đường về, gặp một đoàn tàu vận tải của địch đang buông neo trên sông, như một “món quà” của sự may mắn. Vậy là mục tiêu được chuyển hướng. Trận đó diễn ra vào cuối năm 1968, khiến hơn 10 chiếc tàu của địch bị tiêu diệt cùng một lúc trên sông Thạch Hãn, giữa lúc chiến dịch Mậu Thân đang rực lửa trên khắp chiến trường. Sau hàng loạt những chiến thắng vang dội trên chiến trường Quảng Trị từ đầu năm 1967 đến cuối năm 1968, tiếng tăm của Đặc công hải quân 126 càng trở nên lừng lẫy. Quân địch đã nhiều lần tổ chức những cuộc hành quân càn quét, tăng cường tối đa khả năng phòng vệ bằng nhiều biện pháp, thay đổi quy luật hoạt động,... song vẫn không ngăn cản được hoạt động của các chiến sĩ đặc công trên chiến trường. Nhiều loại vũ khí mới, cách đánh mới được ta đưa vào sử dụng trên chiến trường, khiến địch luôn rơi vào tình trạng bất ngờ và lúng túng. Quân địch ở cảng - 21 cái yết hầu trên chiến trường mà lúng túng thì đương nhiên trên toàn bộ chiến trường khu vực Bắc Quảng Trị, Đường 9 - Nam Lào - cái dạ dày của chúng, sẽ vô cùng bi đát. Vậy nên, bằng mọi giá, bất chấp những thiệt hại, những thất bại vẫn thường xuyên diễn ra, địch vẫn phải cố sống cố chết đưa tàu vào cảng và những trận đánh, cùng với những chiến công của các chiến sĩ đặc công cũng ngày càng được nhân lên. Đến giữa năm 1969, Đại úy Tạ Văn Thiều (tức Mai Năng), đội trưởng Đội 1 - Đoàn Đặc công hải quân 126 và Thiếu úy Nguyễn Văn Tình - Phân đội trưởng Đặc công Đội 1 được ra miền Bắc để báo cáo thành tích và tham dự Đại hội tuyên dương Anh hùng Chiến sĩ thi đua. Đây là hai Anh hùng Lực lượng vũ trang đầu tiên của đặc công hải quân nói chung và Đoàn 126 nói riêng. Sau khi được tuyên dương anh hùng, Nguyễn Văn Tình ở lại miền Bắc nhận nhiệm vụ mới, còn Mai Năng trở lại chiến trường tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu. Cũng trong thời gian này, lực lượng đặc công của ta liên tục được tung vào chiến trường, tổng cộng đến sáu đội. Mai Năng được cử làm đoàn phó Đoàn 1A. Lực lượng đặc công hải quân dưới sự chỉ huy của Mai Năng thời gian này đã tham gia các trận đánh lớn và hiệu quả, như trận đánh cầu Đông Hà năm 1971, 22 ngăn chặn đường hành quân và chi viện của địch trên quốc lộ 1 suốt 42 ngày đêm trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Sang năm 1972, tình hình chiến trường trở nên ác liệt hơn, lực lượng đặc công được giao nhiệm vụ phối hợp chiến đấu với các lực lượng khác, bao gồm bộ binh và quân địa phương. Do thay đổi hình thức chiến đấu nên thời gian này, lực lượng của ta thương vong khá nhiều. Mai Năng kể, chỉ trong vòng chưa đầy một năm mà quân số thương vong của đặc công đã bằng con số của cả bảy năm chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị cộng lại, trong đó có cả đoàn trưởng Đoàn 1A là đồng chí Mai Xoa. Mai Năng được cử làm đoàn trưởng Đoàn 1A thay thế Mai Xoa vào đầu năm 1973. Sau đó, các chiến sĩ Đặc công 126 tiếp tục bám trụ chiến trường cho đến giữa năm 1973, thì được lệnh rút về miền Bắc để củng cố và tiếp tục huấn luyện, chuẩn bị cho những nhiệm vụ tiếp theo. Tổng kết bảy năm hoạt động trên chiến trường Quảng Trị, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Mai Năng - Tạ Văn Thiều, người đặt nền móng đầu tiên cho lực lượng đặc công hải quân Việt Nam, đã tiến hành chỉ đạo, chỉ huy và trực tiếp chiến đấu trên 300 trận, phá hủy 362 tàu chiến và tàu vận tải của địch, trong đó có tàu 23 trọng tải 15.000 tấn. Trận đánh này sau đó đã đi vào lịch sử truyền thống của lực lượng đặc công hải quân nhân dân Việt Nam, bởi đó là trận đánh lập công đền ơn Bác. Đến tận hôm nay, kể về trận đánh này, vị tướng già Mai Năng vẫn rưng rưng: - Đầu tháng 9 năm 1969, tin Bác Hồ mất đến với cán bộ, chiến sĩ đặc công và nhân dân Quảng Trị đem theo một nỗi đau đến thắt lòng. Trong lúc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đau thương vô hạn trước sự ra đi của vị lãnh tụ kính yêu, thì Mỹ - ngụy lợi dụng những ngày đó, liên tiếp mở những cuộc tấn công, đánh phá trên toàn chiến trường miền Nam, trong đó có vùng Tây Cam Lộ và phía đông Gio Linh - Quảng Trị. Thực hiện lời kêu gọi “Biến đau thương thành hành động” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thực hiện phong trào thi đua Chiến đấu giỏi, huấn luyện, công tác, lao động tốt của Bộ Tư lệnh hải quân, Đảng ủy và Chỉ huy Đoàn 126 phát động phong trào thi đua Tìm diệt nhiều tàu địch, lập công đền ơn Bác... Trận đánh được bắt đầu từ ngày 5 tháng 9 năm 1969, khi cơ sở và trinh sát báo về, có một tàu chở dầu lớn đỗ ngoài khơi, cách Cửa Việt 2 km về hướng đông nam. Lập tức Đảng ủy và Chỉ huy Đoàn 126 lên kế hoạch đánh chiếc tàu này. 24 Trước đó, do thường xuyên bị đặc công nước của ta đánh chìm, đánh hỏng nhiều tàu vận tải trên khúc sông Cửa Việt - Đông Hà, địch buộc phải thay đổi phương thức vận tải. Để tránh thiệt hại, Bộ Chỉ huy hải quân Mỹ - ngụy đã ra lệnh cho các đơn vị vận tải của chúng chỉ được sử dụng tàu dưới 4.000 tấn vào cảng Cửa Việt dỡ hàng. Các tàu có trọng tải lớn hơn phải neo đậu ngoài biển, cách bờ từ 1 đến 5 hải lý, chờ xà lan và tàu nhỏ ra lấy hàng. Tuyệt đối không được vào cảng. Tổ trực tiếp đánh trận đó có ba người: Bùi Văn Hy làm tổ trưởng, hai chiến sĩ là Trần Quang Khải và Trần Văn Hỗ. Sau khi nghiên cứu lập phương án chiến đấu, đến sáng 6 tháng 9, toàn đội nhận lệnh xuất phát. Sau hơn hai ngày hành quân, tiếp cận, vượt qua những tuyến phòng thủ của địch, đến tối 8 tháng 9, hai chiến sĩ đặc công Trần Quang Khải và Trần Văn Hỗ đã gắn được mìn vào thân tàu thì bị địch phát hiện, tấn công, làm bị thương. Các chiến sĩ vừa đánh địch vừa rút lui. Đến 22 giờ ngày 8 tháng 9, khi còn chưa về đến vị trí tập kết thì hai tiếng nổ phát ra, kế đó là một quầng lửa trùm xuống biển,... Chiếc tàu chở dầu trọng tải lớn của Mỹ, có trang thiết bị hiện đại, trong đó có cả thiết bị chống người nhái, chống đặc công nước và được canh gác rất nghiêm ngặt đã bị đánh chìm trên biển Cửa Việt. Sự kiện 25 trên không chỉ khiến Mỹ - ngụy hoang mang, mà dư luận thế giới cũng cho là “ngoài sức tưởng tượng”. Tất cả các báo ở Sài Gòn và hơn 70 tờ báo của các nước khác thời gian đó đã đưa tin và bình luận về sự kiện “kinh hoàng” này. Chiến công đánh chìm chiếc tàu dầu trọng tải 15.000 tấn trên biển trong đêm 8 tháng 9 năm 1969 trước hết là thắng lợi của quyết tâm tích cực chủ động tiêu diệt địch, là thắng lợi của tinh thần quyết đánh và quyết thắng. Đồng thời là thắng lợi của lòng dũng cảm, kiên trì, mưu trí và biết khắc phục khó khăn của cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công hải quân 126 để đền ơn Bác. * Rút quân ra Bắc làm nhiệm vụ củng cố lực lượng và tiếp tục huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, đến đầu năm 1975, chiến trường miền Nam có những biến động lớn, cần sử dụng đến lực lượng đặc biệt và tinh nhuệ này. Tháng 3 năm 1975, Bộ Quốc phòng, mà trực tiếp là Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã gặp gỡ và giao nhiệm vụ cho lực lượng hải quân bằng mọi biện pháp đánh chiếm và giải phóng các đảo do quân ngụy đang chiếm giữ trên quần đảo Trường Sa. Đồng chí Mai Năng lúc này tuy đang điều trị vết thương, song 26 vẫn được Bộ Tư lệnh tín nhiệm giao nhiệm vụ chỉ huy 200 quân lên đường làm nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Nhận lệnh, dẫn quân lên đường từ đầu tháng 3 năm 1975, hành quân từ Quảng Ninh vào đến Đà Nẵng là ngày 28 tháng 3, trong khí thế hừng hực của những đoàn quân đang rầm rập tiến vào Nam. Tại đây, Mai Năng gặp đồng chí Thái thuộc Bộ Tư lệnh hải quân đang phụ trách lực lượng hải quân đóng ở khu vực Đà Nẵng để cùng bàn phương án tác chiến. Thực tế lúc này, ta chưa nắm rõ được tình hình địch cũng như địa bàn tác chiến. Tất cả trong tay chỉ có tấm bản đồ và ba chiếc tàu chiến của Đoàn 125 để chuyển quân ra Trường Sa và một lực lượng phối thuộc của Quân khu 5. Với điều kiện như vậy thì việc dàn quân để đánh chiếm tất cả các đảo cùng một lúc là điều không thể. Mặt khác, hình thức tác chiến của đặc công xưa nay vẫn là phải có thời gian trinh sát để nắm tình hình, từ đó xây dựng phương án tác chiến. Lần ra biển này hoàn toàn khác. Đặc công, nhưng lại phải chiến đấu theo cách của trinh sát vũ trang, nghĩa là đi đến đâu chiến đấu đến đó. Mai Năng đề xuất phương án đánh thí điểm để rút kinh nghiệm. Toàn đội sẽ tập trung đánh chiếm đảo Song Tử Tây trước. 27 Vậy là hành quân. Rời cảng Đà Nẵng từ lúc 0 giờ ngày 11 tháng 4, lênh đênh trên tàu, vượt hơn 200 hải lý, đến ngày 14 tháng 4 thì tới vùng biển cách đảo Song Tử Tây khoảng 5 km. Ba chiếc tàu giả làm tàu cá của Philíppin để tìm cách tiếp cận đảo. Có một điều không lường trước được, ấy là đặc công nước bơi thì giỏi, nhưng khi lên tàu thì lại say sóng, nhất là lại phải ém dưới khoang cả mấy ngày trời. Toàn đội có những người không ăn uống gì nổi, chứ đừng nói gì đến chuyện chiến đấu... Tình thế khá nan giải. Thế nhưng, khi vừa phát lệnh chuẩn bị chiến đấu thì lại một điều cũng không lường trước, tất cả hơn 200 con người đang mệt nhoài vì sóng kia bỗng đứng dậy như chưa từng mệt mỏi. Mai Năng kể lại tinh thần anh em lúc ấy: “Vui như chưa từng có, phấn khởi chưa từng thấy, xa mấy cũng đi, khó mấy cũng đến. Đã đến là đánh. Quyết đánh thắng ngay từ trận đầu...”. Và thế là hơn 200 chiến sĩ lặng lẽ lao mình xuống nước. Thế rồi những tiếng súng bộ binh, B40, B41, DKZ, những tiếng thủ pháo, lựu đạn, súng tiểu liên AK nổi lên từng chặp, dập tan những tiếng súng chống cự yếu ớt từ trên đảo. Thế rồi im lặng! 28 Rồi cờ đỏ sao vàng bay tung trên cột cờ đảo Song Tử Tây... Về sau, trong một cuộc hỏi cung tù binh, tên chỉ huy trên đảo hôm đó nói thật: “Lúc đầu cũng định chống cự vì chưa biết lực lượng tấn công là lực lượng nào, nhưng về sau nghe thấy quân ta nói giọng miền Bắc, biết là gặp phải quân chủ lực, bèn bảo nhau chỉ có hàng thì mới sống, còn chống cự thì chắc chỉ có chết. Vậy là nhất loạt đầu hàng...”. Sau khi rút kinh nghiệm trận đánh trên đảo Song Tử Tây, các chiến sĩ đặc công hải quân tiếp tục vận động đánh chiến các đảo khác như Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa Lớn,... Đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, ta đã làm chủ hoàn toàn các đảo do quân ngụy đang chiếm giữ trên quần đảo Trường Sa. Đặc công bàn giao lại cho các đơn vị bộ binh tiếp quản, lên tàu rút về Sài Gòn, khi ấy cũng vừa được giải phóng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Trường Sa, người chỉ huy Mai Năng được Đảng, Nhà nước và Quân đội tặng Huân chương Quân công hạng Ba. * Trường Sa được giải phóng, chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi, giang sơn thu về một 29 mối. Những người lính nói chung và đặc công hải quân nói riêng trở lại với nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Mai Năng được cấp trên cử đi đào tạo chương trình quân sự cao cấp ở Liên Xô từ năm 1975 đến năm 1977. Về nước với quân hàm thượng tá, ông được điều về làm lữ đoàn phó Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126. Đây là đơn vị được sáp nhập từ Trung đoàn Đặc công hải quân 126, với Trung đoàn 101 Binh chủng hợp thành, lấy phiên hiệu là Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126 (sau này đổi tên là Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 101). Năm 1979, đơn vị được giao làm nhiệm vụ quốc tế bên nước bạn Campuchia. Đặc điểm chiến trường với những vấn đề tế nhị của ngoại giao khi đó đã khiến cho hoạt động của ta tại cảng Kong Pong Xom không đem lại kết quả mong muốn, đòi hỏi phải có phương pháp lãnh đạo, chỉ huy thích hợp hơn. Mai Năng được cất nhắc làm lữ đoàn trưởng để thực hiện nhiệm vụ này và đã thành công ở tỉnh Kô Kông sau đó. Cuối năm 1979, kết thúc nhiệm vụ quốc tế, Thượng tá Mai Năng - Tạ Văn Thiều được rút về bồi dưỡng tại Học viện Quân sự cao cấp và phong quân hàm đại tá. Năm 1980, sau khi học xong, ông được Bộ Quốc phòng điều sang xây dựng binh chủng đặc công với cương vị Phó Tư lệnh. Đến năm 1991, Mai Năng trở thành Tư lệnh Binh 30 chủng Đặc công và phong quân hàm thiếu tướng. Ông làm việc ở cương vị này đến năm 1998 thì nghỉ hưu. Gần 20 năm, từ một người lính quân báo chuyển sang làm nhiệm vụ ở binh chủng đặc công, Mai Năng là người trực tiếp chỉ đạo các hoạt động của lực lượng này tại các khu vực biên giới phía bắc. Ông cũng là người đưa kinh nghiệm chiến đấu của đặc công nước trên chiến trường trước kia vào xây dựng các phương án tác chiến trên cạn. Đó là cách đánh trực tiếp vào sở chỉ huy của địch, theo kiểu “chuột nhắt chui kho, vào nhỏ ra to”, chứ không chỉ đánh bên ngoài. Cách đánh này đã gây cho địch không ít phen điêu đứng và chúng đã phải gọi lực lượng đặc công của ta là những con rồng đất, với một thái độ vừa cay cú lại vừa ngưỡng mộ. * Gần 50 năm quân ngũ, từ một chiến sĩ quân báo hoạt động trong lòng địch, cho đến khi trở thành một vị tướng, tư lệnh của một binh chủng hết sức đặc biệt và tinh nhuệ, người lính Tạ Văn Thiều vẫn mãi là một tấm gương thủy chung với dân, với nước, với lý tưởng cách mạng, bằng một lòng tin son sắt, đúng như ý nghĩa của cái tên 31 Mai Năng mà ông đã chọn. Sự năng động, sáng tạo của hôm nay là tiền đề tốt đẹp để đi đến ngày mai. Với ông, điều ấy luôn đúng. Trở lại đời thường ở tuổi 68 tại quê nhà, thành phố Hải Phòng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Thiếu tướng Mai Năng vẫn tiếp tục gần 10 năm hoạt động trên cương vị Ủy viên Thường vụ Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh thành phố Hải Phòng cho đến tận năm 2007. Từ khi về nghỉ hưu, ông lại có điều kiện gần gũi hơn với những người lính đoàn Đặc công hải quân 126, đơn vị mà ông đã từng lặn lội khắp các đơn vị để lựa chọn những người lính đầu tiên, đã mày mò nghiên cứu để tìm ra những bài tập đầu tiên, những phương án chiến đấu đầu tiên mà gây dựng nên. Đó cũng là đơn vị suốt bao năm đã âm thầm làm nên những chiến công lừng lẫy, làm nên một Mai Năng anh hùng. Đoàn 126 Đặc công hải quân hôm nay như đứa con máu thịt của ông. Sự trưởng thành của Đoàn 126 cũng là kết quả của sự say mê, nhiệt huyết, dày công vun đắp của Đảng ủy cùng Bộ Tư lệnh Quân chủng, mà người thủ trưởng trực tiếp từ những ngày đầu là Tư lệnh Nguyễn Bá Phát và Chính ủy Hoàng Trà, cùng rất nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong quân chủng. Thiếu tướng Mai Năng từng nói: “Thành 32 công trong chiến đấu của lực lượng đặc công, ngoài sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quan tâm chăm sóc của Nhà nước và quân đội, thì điều quan trọng nhất là phải biết dựa vào dân. Phải làm sao để được dân tin yêu, giúp đỡ, thậm chí có người còn dám hy sinh...”. Rồi ông kể lại những câu chuyện về các mẹ, các chị ở Quảng Trị đã từng giấu ông và đồng đội của ông trên gác bếp, còn mình thì ra ngồi tiếp quân địch bên ngoài để bảo đảm an toàn cho bộ đội. Những ân tình ấy vẫn còn sâu đậm lắm trong tâm trí người lính già dạn dày trận mạc, nên đã bao năm mà khi kể lại giọng ông vẫn nghèn nghẹn, rưng rưng. “Và còn cả tình đồng đội nữa. Đồng đội cũng là một phần máu thịt để làm nên chiến thắng, làm nên sự thành công của người lính đặc công”- Ông khẳng định như vậy. Và tôi tin rằng không có người lính nào từng một lần mặt đối mặt với quân thù lại có thể nghi ngờ điều ấy. Năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Thiếu tướng Mai Năng đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nên Đoàn Đặc công hải quân 126 với bao nhiêu chiến công, thành tích và một bề dày truyền thống đầy tự hào hôm nay. Để ghi lại chặng đường vẻ vang đó và tri ân những anh hùng, liệt sĩ, những người con của Tổ quốc đã anh dũng hy sinh khi làm nhiệm vụ, lãnh đạo Bộ Quốc 33 phòng, Quân chủng Hải quân và Lữ đoàn Đặc công hải quân 126 đã nhất trí dựng một quần thể tượng đài Chiến sĩ đặc công hải quân tại khuôn viên Lữ đoàn 126 làm biểu tượng về một lực lượng đặc biệt tinh nhuệ của Hải quân nhân dân Việt Nam, thể hiện sự kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước trên sông, trên biển của cha ông ta từ xa xưa cho đến hôm nay. Khi tôi hỏi ông có suy nghĩ gì về bức tượng đài mà một trong những nhân vật chính có nét gì đó phảng phất giống với phong thái của ông, vị tướng già đưa ánh mắt phong trần về phía xa, nói như gió thoảng: - Tôi đã nói điều này với các đồng chí cán bộ chỉ huy Lữ đoàn Đặc công hải quân 126, rằng tượng đài thì hoành tráng, uy nghiêm lắm. Nhưng giữ gìn và phát huy được cái hoành tráng, uy nghiêm ấy mới là điều quan trọng... Cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Đặc công hải quân 126 coi điều ông nói như một mệnh lệnh. Còn ông thì bảo, đó chính là tâm tư và tình cảm của mình đối với hôm nay và cả ngày mai. LƯƠNG NGỌC AN 34 MỘT ĐỜI VỚI BIỂN Chúng tôi đến thăm ông vào một ngày cuối năm 2015, tại ngôi biệt thự khang trang nằm gần Hồ Tây, Hà Nội, “bến cảng” dừng chân cuối cùng của một người lính đặc công hải quân từng hơn 50 năm lăn lộn với những con sông, bãi biển suốt dọc chiều dài đất nước, từng vào sinh ra tử tại những nơi “đầu sóng ngọn gió”, từ lúc còn đeo quân hàm binh nhì cho đến khi trở thành Anh hùng Lực lượng vũ trang, một vị tướng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo chủ chốt của một quân chủng quan trọng trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Trái với những hình dung ban đầu của mình về một nhân vật tầm cỡ, với tác phong hồ hởi, thân thiện, dễ gần, ngay từ đầu ông đã khiến tôi liên tiếp bất ngờ. Bất ngờ lớn nhất chính là sự bình dị trong lời kể của ông về những chiến công, những thành tích to lớn của một đơn vị, một binh chủng hết sức đặc biệt, mà ông là một trong số những người góp phần xây dựng, đắp bồi nên từ những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy. 35 Tôi hiểu, phải là người từng trải, sống đến tận cùng máu xương, gan ruột với những chuyến trinh sát, những cuộc hành quân, những năm tháng dãi dầu huấn luyện và cả những trận đánh sinh tử; phải cận kề với mất mát hy sinh, biết coi sự có mặt của mình trên đời hôm nay là một thứ “lãi ròng” sau cuộc chiến tranh đằng đẵng bằng cả một đời người mà dân tộc ta đã trải qua, thì mới có thể nói về những thành công và những thành tích của chính mình một cách giản dị và an nhiên đến vậy. Và tôi bắt đầu thấy “cảm” ông từ những suy nghĩ đó. Sau rồi vào câu chuyện, tôi lại càng “cảm” hơn khi ông luôn miệng nhắc: “Nói về thành tích của tôi thì cũng chẳng nên nói nhiều. Thành tích của đơn vị mới là chính...”. Qua đó lại thấy ông yêu, gắn bó với đơn vị đến từng hơi thở, từng suy nghĩ; đến cả từng mẩu chuyện bất chợt cắt ngang dòng chảy của hồi ức đang ngồn ngộn hiện về. Ông là Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chính ủy Quân chủng Hải quân. Và đơn vị mà ông luôn nhắc đến trong câu chuyện của mình là Đoàn 126 Đặc công hải quân, đơn vị đặc biệt của Quân chủng Hải quân có tuổi đời vừa tròn 50 năm với nhiều thành tích to lớn trong huấn luyện và chiến đấu, góp 36 phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước và sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay. Đoàn 126 Đặc công hải quân từng hai lần được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, là chiếc nôi của những chiến công, là bệ đỡ nâng bước cho những thành tựu sau này của ông. * Nguyễn Văn Tình sinh năm 1945, quê ở Giao Thủy (Nam Định). Năm 1963, vừa tròn 18 tuổi, Nguyễn Văn Tình vào học cấp 3. Những đợt tuyên truyền về tội ác của Mỹ - ngụy ở miền Nam khi đó khiến cho tâm trí lớp học sinh như Nguyễn Văn Tình không lúc nào yên. Tất cả đều âm thầm khát khao được lên đường vào Nam đánh giặc. Với Nguyễn Văn Tình, hình ảnh bộ quân phục hải quân của các đơn vị làm công tác tuyển quân ở quê chẳng biết từ bao giờ đã in dấu trong ông, trở thành giấc mơ, khát vọng, để rồi một ngày, chàng thanh niên nhỏ nhắn nhưng hoạt bát, thích bơi lội ấy đã quyết định giấu gia đình, tham gia khám tuyển nghĩa vụ quân sự và trở thành lính hải quân. Trải qua những lớp huấn luyện, tham gia lao động, chờ đợi,... suốt từ quê hương Giao Thủy, lên Nam Định, vào Thanh Hóa, ra Đồ Sơn,... từ tháng 37 10 năm 1963 đến tận tháng 2 năm 1965, Nguyễn Văn Tình mới được đồng chí Mai Năng và các cán bộ của Đội 1 tuyển chọn về xây dựng lực lượng đặc công hải quân. Con đường binh nghiệp của ông cũng từ đó gắn bó đằng đẵng với lực lượng đặc biệt này đến tận lúc nghỉ hưu, tính ra là tròn 55 năm. Trở lại câu chuyện của năm 1964, khi ấy, Đoàn 8 là một đơn vị trực thuộc Phòng Quân báo của Bộ Tham mưu Hải quân. Đơn vị có ba đội thì hai đội đã được điều vào chiến đấu trong chiến trường miền Nam, ngoài miền Bắc chỉ còn lại Đội 1, vì thế, cái tên Đoàn 8 không còn tồn tại nữa, chỉ còn Đội 1, đóng ở khu vực cầu Niệm (Hải Phòng) làm nhiệm vụ huấn luyện. Đây chính là tiền thân của Đoàn 126, cũng là của lực lượng đặc công nước với những chiến công lừng lẫy sau này. Ông Tình kể: ngày ấy, mới nghe chương trình huấn luyện cũng thấy sợ. Với nhiệm vụ đào tạo ra những chiến đấu viên có đủ kỹ năng và sức khỏe để vào Nam đánh tàu địch, chương trình huấn luyện tại Đội 1 lúc bấy giờ khá căng thẳng. Cường độ cao, áp lực lớn, kỹ thuật phức tạp,... đòi hỏi mỗi học viên phải nỗ lực vượt bậc. Tuy nhiên, với nguyện vọng sớm được tung hoành sóng gió, đối mặt với những con tàu hàng ngàn tấn của địch đang đêm ngày nghênh ngang trên sông nước của 38 ta, các chiến sĩ ở đây đều hết sức cố gắng... Sau hơn một năm miệt mài không quản ngày đêm, mưa gió, rét mướt, đến tháng 4 năm 1966, Đoàn huấn luyện trinh sát Đặc công 126 (tiền thân của Lữ đoàn Đặc công hải quân 126) chính thức được thành lập. Đây là đơn vị đặc công chính thức đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, ra đời trước khi thành lập Binh chủng Đặc công (1967). Miệt mài học tập, rèn luyện cả năm trời, đổ bao mồ hôi, xương máu hòa cùng nước biển, những mong đến ngày lên đường vào Nam chiến đấu. Song do yêu cầu của nhiệm vụ mới, toàn bộ 45 chiến đấu viên của Đội 1, trong đó có Nguyễn Văn Tình, lại trở thành các giáo viên và tiểu giáo viên của Đoàn 126 huấn luyện đặc công nước sau khi đơn vị thành lập. Khi ấy, toàn bộ lực lượng hải quân mới chỉ có hai đơn vị thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trường miền Nam là Đoàn 125 - Đoàn tàu Không số và Đoàn 126 - Trinh sát đặc công. Ngay sau khi vừa thành lập, Đoàn 126 được sự quan tâm thích đáng của quân chủng, nên chỉ sau một thời gian ngắn đã phát triển thành 10 đội đặc công nước, chia thành ba liên đội, vừa huấn luyện, vừa sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình nhớ lại: Thành lập tháng 4 năm 1966, tham gia huấn luyện đến tháng 10 năm đó, trước yêu cầu của chiến trường, 39 Đoàn 126 được lệnh lên đường vào miền Nam chiến đấu. Kể từ khi đó, các đơn vị chiến đấu của Đoàn lần lượt rải khắp các chiến trường, từ cửa Thuận An - Huế, đến Đà Nẵng, vào tận sông Lòng Tàu - Sài Gòn và các chiến trường miền Tây Nam Bộ để đánh địch... Riêng bộ khung huấn luyện, bao gồm toàn bộ các chiến đấu viên của Đội 1 cũ, cộng với hơn 70 cán bộ, chiến sĩ của đơn vị lính dù, một đơn vị trinh sát thuộc Bộ Quốc phòng sáp nhập về làm công tác huấn luyện trước đó, được tổ chức lại thành một đơn vị chiến đấu, gọi là Đội 1 của Đoàn 126, đưa vào chiến trường Quảng Trị vừa xây dựng cơ sở, trực tiếp chiến đấu, vừa có nhiệm vụ đúc rút kinh nghiệm thực tiễn để phục vụ hoạt động chiến đấu lâu dài của đơn vị và xây dựng chương trình đào tạo tiếp theo. Vậy là, vẫn không xa rời nhiệm vụ đào tạo, nhưng giờ đây chí tang bồng đã thỏa. Sau hơn ba tuần hành quân bằng xe đạp trên con đường Nam tiến dài hơn 600 km, vượt đèo, vượt suối, qua núi cao, vực thẳm, qua những địa bàn bị đánh phá ác liệt, đến đầu năm 1967, Nguyễn Văn Tình và đồng đội của mình như những con cá kình âm thầm mà quả quyết đã lặng lẽ ùa vào dòng nước thăm thẳm của những dòng sông chảy trên đất Quảng Trị đổ ra biển Cửa Việt, Đông Hà... 40 “Từ năm 1967 đến năm 1969, Nguyễn Văn Tình làm nhiệm vụ đánh tàu địch ở cảng Cửa Việt - Quảng Trị, anh có quyết tâm cao, mưu trí, táo bạo, nhiều lần ra vào bến cảng điều tra, nghiên cứu tình hình, lập phương án chiến đấu. Nguyễn Văn Tình đã đánh nhiều trận, phá hủy hàng nghìn tấn vũ khí, xăng dầu, gây cho địch những thiệt hại nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Cuối năm 1967, mặc dù thời tiết rét buốt, địch bố phòng nghiêm ngặt, Nguyễn Văn Tình vẫn nhiều lần bơi lặn dưới nước điều tra tỉ mỉ, nắm chắc tình hình mọi mặt, đề xuất phương án chiến đấu, khi nổ súng anh đã bơi lặn 8 đến 9 tiếng đồng hồ liền, vượt qua nhiều tuyến phòng thủ của địch vào sâu trong cảng đánh chìm 1 tàu quân sự có trọng tải trên 5.000 tấn. Tháng 6 năm 1968, sau nhiều lần bị đánh đau, địch tăng cường phòng thủ cẩn mật cả trên bộ lẫn dưới nước, Nguyễn Văn Tình vẫn nhiều lần mưu trí, chỉ huy phân đội đột nhập bến cảng để điều tra nắm vững tình hình, nhờ vậy phân đội do anh chỉ huy đã đánh chìm 3 tàu chiến, trong đó có chiếc trọng tải 5.800 tấn...”1. Để có được những chiến công đó, Anh hùng Nguyễn Văn Tình cùng đồng đội, những chiến _____________ 1. Chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2000. 41 đấu viên của Đoàn 126 khi ấy đã phải trải qua biết bao tháng ngày đầy gian nan. Chiến thắng trên chiến trường là kết tinh của sự kiên trì học hỏi và tôi luyện trong huấn luyện. Và chính chiến thắng ấy đã trở thành những kinh nghiệm thực tiễn vô giá cho những bài giảng trên thao trường sau này... * Quảng Trị những năm 1967 - 1969 là ranh giới giữa hai miền Nam - Bắc trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Với địa thế nằm sát vĩ tuyến 17, chiến trường Quảng Trị luôn có sự đan xen giữa lực lượng của ta và địch cả trên bộ lẫn trên biển. Khi chưa bước vào thời kỳ đánh phá ác liệt, khu vực này bom đạn chưa nhiều, nhưng hoạt động xâm nhập của gián điệp, biệt kích từ phía địch thì vẫn diễn ra thường xuyên. Ngược lại, phía ta là các hoạt động dân vận và ngăn chặn phá hoại của địch. Chiến trường Quảng Trị chỉ trở nên ác liệt từ khi trở thành con đường chi viện nguồn lực cho cuộc chiến của cả hai bên. Nhìn ở một góc độ khác, đây có thể coi là cuộc đọ sức giữa hai miền lúc đó, còn sau này, theo cách đánh giá của ông Tình, cũng là cuộc đọ sức của hai chế độ (xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa). Chính vì thế, cái ác liệt ở đây không chỉ là từ bom đạn, 42 mà còn trong những dòng chảy âm thầm của cuộc sống... Đặt chân vào chiến trường khi đó, nhiệm vụ của quân đội nói chung, của đặc công nói riêng, đặc biệt là đặc công nước, là vô cùng khó khăn. Họ không chỉ có nhiệm vụ chiến đấu, mà còn nhiệm vụ bám dân, xây dựng cơ sở trong lòng dân để bám địch, đánh địch. Chính vì thế, những chiến sĩ Đội 1 Đoàn 126 Đặc công hải quân ngày ấy, trong đó có Nguyễn Văn Tình, mặc dù đều là những người từng trải trong huấn luyện chuyên môn, nhưng khi thực hiện công tác dân vận, cũng không khỏi có những bỡ ngỡ. Đội 1 là đơn vị chủ lực đầu tiên được điều vào khu vực Cửa Việt - Đông Hà. Nhóm đầu tiên gồm 30 người, do đội trưởng Mai Năng phụ trách. Ông Tình thuộc đội tiền trạm của nhóm này. Những ấn tượng đầu tiên trong ông khi vừa đặt chân đến mảnh đất máu lửa ngút ngàn này: - “... Khoảng 17 giờ 30 phút, chúng tôi vào đến thôn 5. Nhìn xa xa, từ trên bãi cát xen lẫn các gốc phi lao lúp xúp, thấy có bóng người, chúng tôi dừng lại quan sát và phát hiện một đoàn hơn chục người đang từ phía khu tập trung Cửa Việt đi ra, hướng về phía chúng tôi. Trong đoàn có cả đàn ông, đàn bà, người già, phụ nữ. Họ mang theo nào là cuốc, xẻng, chiếu, võng, đòn khiêng,... Ngoài ra mỗi người đều đeo thêm những túi cơm vắt và 43 nước uống. Sau khi tiếp xúc, biết là bà con cô bác đằng mình, anh Mai Năng hỏi: - Bà con, cô bác đi đâu mà đông thế này? Một người đáp: - Trong ấp chiến lược, nghe thấy tiếng súng nổ dữ quá, tụi tau e chúng bay đụng bọn nó rồi, thế nào cũng “bị”, nên tới đây. Đứa nào hy sinh thì tụi tau chôn cất, đứa nào bị thương thì băng bó... Còn cơm đây, đứa nào còn sống thì ăn đi rồi vô mà hoạt động...”. Nghe xong, tôi vô cùng xúc động và nghẹn ngào không nói nên lời. Lòng tự nhủ: Tuy sống trong vùng địch tạm chiếm, bị Mỹ - ngụy dồn vào khu tập trung, bị đàn áp, kìm kẹp gắt gao, tàn bạo, thậm chí bị tra tấn, tù đầy, vậy mà bà con ta vẫn một lòng một dạ theo Đảng, theo Bác Hồ, vẫn hướng về miền Bắc yêu thương... Tự nhiên tôi cảm thấy ấm lòng và vững tin hơn khi nhận ra rằng từ nay trở đi mình hoạt động không phải là đơn độc, lẻ loi, mà luôn có chỗ dựa vững chắc, đó chính là bà con, cô bác, là đồng bào của mình... Chính suy nghĩ đó sau này đã luôn thôi thúc, động viên tôi trong quá trình hoạt động, chiến đấu phải làm thế nào để đền đáp lại và xứng đáng với công ơn của bà con, cô bác đã dành cho anh em chúng tôi... * Đặc điểm của đánh đặc công nước là lực lượng ít, hiệu quả lớn, hoạt động xây dựng cơ sở, trinh 44 sát bám địch,... hết sức quan trọng. Trong tất cả những trận đánh của Đoàn 126 trên chiến trường Quảng Trị những năm này, Nguyễn Văn Tình không chỉ là người trực tiếp tham gia như một chiến đấu viên mà còn là người tổ chức các trận đánh. Và cũng chính từ nhiệm vụ này, những tình huống mặt đối mặt với kẻ thù ngay trong gang tấc mà ông gặp phải đã biến người lính đặc công với những kỹ năng chiến đấu đơn thuần thành một con người tự chủ, gan góc và quyết đoán hơn rất nhiều. Đã có không ít lần, ông ngồi trong buồng ở nhà cơ sở mà nghe bọn địch ngồi phòng ngoài sôi nổi kể lại cho nhau nghe về trận đụng độ với chính mình đêm qua. Lại cũng có tình huống hai bên lặng lẽ nhìn nhau rồi lặng lẽ rút lui, chỉ vì ngôi nhà cơ sở mà ông đang trú là nhà bà con của tên địch vừa gườm gườm nhìn ông, tay đặt lên cò súng. Đánh giặc bây giờ không chỉ có mục đích chiến thắng, mà cần bảo toàn lực lượng, duy trì được cơ sở và đặc biệt là giữ được bí mật của đơn vị để chiến đấu lâu dài, có như vậy mới gọi là thành công. Trong những kỷ niệm đáng nhớ của thời gian hoạt động trong lòng địch có câu chuyện hết sức cảm động về tình cảm đối với bộ đội và sự mưu trí của bà con ở đây. Lần ấy, ông và đồng đội thực sự thoát hiểm trong gang tấc. Ấy là vào một đêm tháng 5 năm 1967, một du kích của xã Cam Giang 45 dẫn đường cho ông và đồng chí Nguyễn Đình Thi đi trinh sát cảng Đông Hà về đến gần thôn Thượng Nghĩa thì đã gần 4 giờ sáng. Vì lực lượng đặc công mới về hoạt động trên địa bàn này nên chưa có cơ sở để ở và chưa có hầm bí mật để trú ẩn. Trong khi đó, đây lại là vùng đang nằm trong quyền kiểm soát của địch. Không còn cách nào khác, người du kích nọ bèn dẫn hai người xuống cánh đồng lúa đầu làng để giấu mình. Có lẽ kỹ thuật ngụy trang trên mặt đất không phải là sở trường của đặc công hải quân, nên ba người trong nhóm, mỗi người đều nhanh chóng tìm một vị trí giữa khoảng trống hai bên hàng lúa, trải nilông để nằm nghiêng vào đó mà không hề biết mình đang phơi mình giữa tầm quan sát của những người đi lại trên con lộ gần đó. Trời sáng, có một ông già đi trên đường chợt nhìn thấy họ. Sau phút giây hốt hoảng, ông quay trở lại làng và báo cho cơ sở của ta. Ít phút sau, hai phụ nữ đeo giỏ giả làm người đi bắt cua cứ tiến dần về phía ba người đang nằm. Đến gần vị trí của mỗi người, họ vừa thả xuống một vắt cơm và nói nhỏ: “Mấy eng bò ra ngoài tê mà nằm, nằm như ri đi trên đàng người ta chộ hết đó...”. Nhờ có sự cảnh báo của bà con mà bữa đó cả ba người mới phát hiện ra là mình đang có nguy cơ bị lộ và kịp thời rút ra ngoài. Vậy là, một lần nữa sự chở che, đùm bọc, yêu thương của đồng 46 bào đã làm cho những người lính đặc công không lẻ loi, đơn độc trong cuộc chiến một mất một còn này. Kể lại câu chuyện đã lùi xa gần nửa thế kỷ mà đôi mắt người lính già từng trải và dạn dày trận mạc kia vẫn rưng rưng. * Sau một hồi say sưa trò chuyện, tôi hỏi Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình: - Tại sao trong tất cả các trận đánh mà anh trực tiếp tham gia, số lượng địch bị tiêu diệt chỉ ở mức trung bình, số tàu lớn và các phương tiện chiến tranh bị phá hủy không nhiều hơn so với các đồng đội khác nhưng anh lại được phong Anh hùng rất sớm, chỉ hai năm sau khi vào chiến trường? Ông cười bảo: - Khác với lực lượng chính, Đội 1 của tôi là nhóm có nhiệm vụ bám dân để xây dựng cơ sở và bám địch để trinh sát nắm tình hình là chính, còn “đại quân” thì chỉ vào đánh rồi rút ra. Chính vì thế mà thành tích nói chung của các nhóm cơ sở thường ít hơn so với lực lượng chính. Tuy nhiên, tất cả những trận chúng tôi tham gia thường là các trận quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Ví dụ như trận mở màn, đánh để nghiên cứu rút kinh nghiệm cho các đơn vị sau. Hay như các trận đầu tiên khi địch sử dụng phương pháp 47 phòng thủ mới, hoặc khi ta đưa vào chiến trường những phương pháp chiến đấu mới, những loại vũ khí mới. Rồi ông say sưa nói về các trận đánh mà mình từng trực tiếp tham gia... Trận đánh mở màn đêm 31 tháng 3 năm 1967, với một lực lượng nhỏ, bằng chiến thuật luồn sâu đánh hiểm, bí mật phá hủy, đặc công nước của ta đã đánh chìm một chiếc tàu trọng tải 70 tấn của địch. Đây là trận đánh đầu tiên nên có ý nghĩa rất quan trọng trong phương châm và tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Đảng ủy, chỉ huy đoàn, đồng thời cũng để rút ra những bài học kinh nghiệm cho các trận đánh tiếp theo. Trong trận đánh quan trọng này, tổ của Nguyễn Văn Tình và Tống Duy Kiên được giao hai nhiệm vụ. Thứ nhất là phải quan sát, trinh sát, nghiên cứu toàn bộ quy luật hoạt động, tuần tra canh gác, bố phòng của địch cả trên bờ và dưới nước để phục vụ cho đơn vị đánh sau này; thứ hai là tiếp cận bí mật vào đánh chiếc tàu LST trọng tải 5.000 tấn của địch đang bốc hàng tại cảng Cửa Việt. Trong quá trình phối hợp tác chiến với một tổ khác, hai đồng chí Đỗ Khắc và Nguyễn Văn Kiểm được giao nhiệm vụ đánh chiếc tàu tuần tiễu của Nam Triều Tiên đang neo đậu ở cửa sông. Do có sự trục trặc về kỹ thuật, nên mìn nổ sớm hơn ba tiếng đồng hồ. Mục tiêu tàu Nam Triều Tiên tuy bị tiêu diệt, 48 nhưng đã đánh động lực lượng địch trên toàn bộ khu vực khiến chúng tăng cường sự bố phòng lên đến mức cao nhất. Trong phút giây đầy căng thẳng, để có được một quyết định sáng suốt nhất lúc đó, Nguyễn Văn Tình và Tống Duy Kiên đã chọn phương án vẫn tiếp tục xuất phát làm nhiệm vụ trinh sát và kiểm nghiệm để khẳng định khả năng cũng như kỹ thuật tiếp cận của đặc công nước và nếu có thể thì tiếp tục nhiệm vụ tiêu diệt mục tiêu. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trinh sát, đã có lúc mục tiêu nằm ngay trong tầm tay, song nếu đánh thì nhiệm vụ trinh sát nắm địch sẽ không hoàn thành, thậm chí còn có nguy cơ bị lộ, nên cả hai đều phải bỏ qua để làm nhiệm vụ chính. Cuối cùng trận đó với toàn đơn vị vẫn là một trận đánh thành công, tuy không vang dội như ý muốn, song cũng góp phần cổ vũ, động viên toàn đoàn hăng hái học tập, rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu lập công. Riêng với Nguyễn Văn Tình thì không phải không có chút nuối tiếc. Chiến thắng tưởng đã cầm chắc trong tay mà phải bỏ qua để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng, những việc âm thầm đó không phải ai cũng biết đến, rõ ràng không phải là một quyết định dễ dàng. Kể lại câu chuyện này không chỉ để nói về một quyết định sâu sắc của đội trưởng Nguyễn Văn Tình khi ấy, mà còn để thấm thía thêm về cuộc sống, về chiến công của những người lính đặc 49 công: to lớn đấy, quan trọng đấy, then chốt đấy, nhưng nhiều khi lại hết sức lặng lẽ, âm thầm,... Sau trận đánh đầu tiên ngày 31 tháng 3 năm 1967 tại cảng Cửa Việt, để thực hiện nhiệm vụ chiến đấu của Bộ Tư lệnh hải quân và Bộ Tư lệnh mặt trận B5 giao cho, đồng thời để hiệp đồng với các lực lượng tham gia chiến dịch Trị Thiên, năm 1967, Đoàn 1A đã tổ chức và xây dựng phương án tác chiến ở khu vực cảng Cửa Việt và cảng Đông Hà. Vào thời điểm này, hoạt động của các lực lượng vũ trang quân ta trên chiến trường đã làm tiêu hao và kìm chân một lực lượng lớn quân chủ lực địch, buộc chúng phải điều thêm hàng chục tiểu đoàn Mỹ ra ứng phó. Để đảm bảo mọi nhu cầu cho các đơn vị quân Mỹ - ngụy đóng chốt trên mặt trận Đường 9 - Quảng Trị, Mỹ đã phải huy động một lực lượng lớn tàu vận tải có trọng tải vừa và lớn để vận chuyển trên tuyến đường thủy Cửa Việt - Đông Hà. Đội 1 lúc này được chia làm hai bộ phận để hoạt động và đánh địch ở hai khu vực. Phân đội 1 do đồng chí Mai Năng trực tiếp phụ trách, lên hoạt động ở khu vực cảng Đông Hà, Phân đội 2 do Chính trị viên Hồ Đắc Tư phụ trách, hoạt động và chiến đấu tại khu vực Cửa Việt. Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình nhớ lại: - “... Phân đội 1 của chúng tôi sau khi nhận nhiệm vụ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí 50 Mai Năng, được du kích Cam Lộ dẫn đường, đã vượt sông Bến Hải, qua các cứ điểm Cồn Tiên, Dốc Miếu, bãi Sơn, lên miền Tây, xuyên rừng, xuống đồng bằng, qua Cam Lộ, Quán Ngang và nhiều đồn bốt địch, tìm bắt liên lạc với địa phương, cơ sở để tới vị trí tập kết ở thôn Đại Độ, xã Cam Giang an toàn. Sau khi ổn định nơi đóng quân, chúng tôi bước vào hoạt động ngay, vừa bám dân xây dựng cơ sở, vừa trinh sát nắm địch để chuẩn bị cho những trận đánh sắp tới. Thời điểm này, sau khi bị ta đánh chìm một số tàu tại cảng Cửa Việt, quân Mỹ ở đây trở nên cảnh giác hơn, cứ ban ngày cho tàu vào cảng bốc hàng, chiều tối chúng rút hết ra biển; cũng có khi chiều tối chúng chạy vào cảng, đến đêm lại nhổ neo chạy ra ngoài để nghi binh, rất khó nắm bắt. Vì vậy, đồng chí Mai Năng quyết định giấu toàn bộ lực lượng ở Cam Giang chờ thời cơ, chỉ để lại tổ của tôi và đồng chí Nguyễn Đình Thi chốt ở làng Tây Trì và làng An Lạc phía bờ bắc sông Hiếu, đối diện với quân cảng Đông Hà để xây dựng cơ sở, bám dân, nắm tình hình địch chờ thời cơ. Đến ngày 14 tháng 5 năm 1967, tin từ cơ sở của ta thông báo có tàu Mỹ vào cảng bốc hàng. Đồng chí Mai Năng lệnh cho chúng tôi gấp rút chuẩn bị để xuất phát đánh địch. Chỉ sau hơn một giờ đồng hồ từ lúc nhận lệnh, chúng tôi đã bí mật vượt qua các tuyến phục 51 kích, hàng rào dây thép gai và bom mìn của địch để áp sát thôn Tây Trì. Sau khi chuẩn bị xong mọi mặt, đồng chí Mai Năng ra lệnh xuất phát. Lệnh vừa dứt thì đột nhiên một chiếc tàu vận tải LCU của Mỹ lù lù chạy từ hướng Cửa Việt tới. Khi chỉ còn cách cảng Đông Hà chừng 150 m thì chúng dừng lại thả neo ngay giữa dòng sông. Sau khoảng 20 phút, toàn bộ đèn điện trên tàu tắt hết, chỉ để lại hai tên lính Mỹ cắp súng đi đi lại lại trên boong tàu. Nhận thấy thời cơ thuận lợi đã đến, đồng chí Mai Năng quyết định cho chúng tôi đánh mục tiêu này. Tôi và đồng chí Nguyễn Đình Thi ôm mìn bí mật trườn xuống nước và bắt đầu thực hiện những động tác tiếp cận bằng kỹ thuật CK2...”. Mục tiêu đã ở ngay trước mắt, cơ hội đã sẵn sàng. Thế nhưng, mọi chuyện không đơn giản như dự kiến. Cũng cần phải nói thêm rằng, một trong những đặc điểm phức tạp và mất nhiều thời gian trong quá trình vận động tiếp cận mục tiêu dưới nước của đặc công khi hoạt động tại những khu vực này là thường hay vướng phải lưới đánh cá bằng sợi nilon của dân thả dọc ven bờ sông. Khi mắc vào lưới, các loại vũ khí mang theo như mìn, dao găm, lựu đạn mỏ vịt,... rất khó gỡ, đòi hỏi chiến sĩ phải thật bình tĩnh, thận trọng, nhẹ nhàng, kiên nhẫn, vì trong tình huống đó chỉ cần sơ suất một động tác nhỏ cũng có thể dẫn đến 52 những hậu quả khôn lường. Mà nếu dùng dao găm cắt cho nhanh thì sáng hôm sau dân biết ắt địch cũng sẽ biết, sẽ tìm ra “Việt Cộng” đã xuất phát từ đâu, đi từ đường nào để đề phòng và giăng bẫy ta. Vậy là, hai chiến sĩ lại phải mất khá nhiều thời gian để khắc phục những sự cố đó... Phó Đô đốc kể tiếp: - “... Khi đã ra đến giữa luồng, chúng tôi ngậm ống lặn thả theo đội hình hàng dọc để bí mật tiếp cận mục tiêu. Tôi đi đầu để bắt mục tiêu, đồng chí Thi đi sau giữ hướng. Cứ như vậy, chúng tôi vượt qua ánh đèn pha, pháo sáng, tàu tuần tiễu và bọn tuần tra canh gác của địch. Tôi bắt được mục tiêu, lần về bánh lái và nhanh chóng kéo đồng chí Thi về phía mình nghỉ ngơi cho lại sức, sau đó chia nhau đi đặt mìn vào những vị trí đã được phân công. Thi đem mìn bơi đi. Tôi bám bánh lái tàu chờ đợi. Khá lâu sau mới thấy Thi trở lại và nói: “Tôi đặt đi đặt lại mà quả mìn không bám được vào tàu...”. Tôi ngạc nhiên nói đồng chí Thi ở lại chờ, còn mình ôm mìn lần tới khoang máy, vị trí được phân công đặt mìn. Đến nơi, tôi áp mìn vào mạn tàu theo lý thuyết được học và kinh nghiệm từ những trận đánh trước, nhưng cứ buông tay là mìn lại rời ra, cứ như thế, tôi đặt đi đặt lại nhiều lần mà vẫn không được... Đang lúc lúng túng, bỗng nhiên tôi nảy ra ý nghĩ là lặn xuống đáy 53 tàu thử xem sao. Quả nhiên khi ôm mìn đặt ngửa vào đáy tàu, thấy mìn bám chặt hơn, tôi mừng quá, gỡ quả mìn ra đặt đi đặt lại đến lần thứ ba, mìn vẫn bám chặt, tôi mới nhanh chóng rút chốt điểm hỏa cả hai kíp hẹn giờ và một kíp chống tháo gỡ rồi lặn về phía đuôi tàu, phổ biến lại kinh nghiệm cho Thi. Nghe xong, Thi ôm mìn bơi về phía khoang hàng của tàu, là vị trí được phân công, để đặt...”. Nguyễn Đình Thi bơi đi rồi, Nguyễn Văn Tình bám vào bánh lái tàu, vừa chờ đồng đội vừa suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân vì sao đặt mìn ở mạn tàu thì mìn lại không bám mà khi đặt ở đáy tàu thì mìn lại bám chặt. Cuối cùng tất cả đều nằm trong kiến thức của môn Vật lý khi còn học ở phổ thông trước đây. Trong quá trình hoạt động lâu ngày ở cơ sở, các chiến sĩ đặc công phải chôn mìn dưới đất, từ tính của nam châm gắn trên thân quả mìn bị tiêu hao nhiều khiến cho sức bám giảm. Ngoài ra, khi chiến đấu, mỗi quả lại có một chiếc phao cột ở phía trên để mìn nổi khi di chuyển. Do đó, khi gắn mìn bên mạn tàu, áp suất của nước đẩy theo phương thẳng đứng, mìn dễ bị bung ra. Nhưng khi gắn dưới đáy tàu thì mìn lại bám chặt, dù sức hút của nam châm tuy yếu nhưng lại được hỗ trợ bởi áp suất không khí trong phao, cùng với lực đẩy Ácsimét làm mìn bám chặt hơn. 54 Nguyễn Đình Thi áp dụng phương pháp mà Nguyễn Văn Tình vừa hướng dẫn và cũng thành công. Sau khi đặt mìn và điểm hỏa xong, cả hai nối lại dây an toàn giữa hai người, lặn một hơi thật dài ra xa mục tiêu, rồi ngậm ống bơi xuôi dòng đến một cự ly an toàn thì tạt vào bờ, bí mật trườn lên bắt liên lạc với Đội trưởng Mai Năng, sau đó rút về cơ sở. Đúng 2 giờ sáng, hai tiếng nổ long trời lở đất vang lên, chiếc tàu LCU trọng tải 360 tấn chở đầy hàng của địch bị đánh chìm tại chỗ. Đồng bào trong vùng vô cùng phấn khởi, truyền tai nhau về chiến công của đặc công, còn bọn địch thì kinh hoàng khiếp sợ. Như vậy, trận đánh mở màn của Phân đội 1 - Đội 1 - Đặc công 126 tại cảng Đông Hà đã thành công tốt đẹp, góp phần động viên, cổ vũ cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, giúp họ phấn khởi, tin tưởng hơn vào kỹ - chiến thuật và cách đánh táo bạo, đầy linh hoạt của đặc công hải quân. Ngay sau đó, bài học kinh nghiệm này đã được phổ biến và áp dụng cho toàn Đội 1 và toàn đoàn sau này. Nhờ vận dụng kinh nghiệm này mà hoạt động chiến đấu của các chiến sĩ đặc công nước thuận lợi hơn, góp phần vào thành tích đánh chìm hàng trăm tàu địch của cả đơn vị. Những trận đánh đầy ấn tượng, đã trở thành kinh điển mà Phó Đô đốc Tình kể thực sự đã góp phần không nhỏ làm nên tên tuổi và truyền thống tự hào của Đặc công hải quân 126 hôm nay. Khi 55 tôi đề nghị ông nói một lời thật ngắn gọn về những chiến công ấy, thì với sự từng trải của bản thân, ông bình thản nói: “Đánh giặc thì đúng là khó khăn, nguy hiểm thật, nhưng vẫn có những trận đơn giản hơn trong huấn luyện nhiều. Ngày trước, khi huấn luyện, không ít lần chúng tôi đã thực sự đối mặt với cái chết cận kề, thậm chí có những đồng chí đã hy sinh. Chính sự khó khăn, nghiệt ngã ấy lại là thứ vũ khí vô hình mà hiệu quả của mỗi người lính trên chiến trường khi đối mặt với quân thù...”. * Không phải đến lúc xông pha trận mạc Nguyễn Văn Tình mới thể hiện phẩm chất của một chiến đấu viên dày dạn kinh nghiệm, mà ngay trong thời gian huấn luyện ở Đội 1, ông đã luôn là một học viên, một giáo viên giỏi ở nhiều lĩnh vực như: bơi ếch, bơi crun cơ bản1, bơi bí mật, bơi đường dài, các động tác kỹ thuật tiềm nhập, tiếp cận và võ thuật,... Khả năng nghiên cứu, phân tích để rút ra những kinh nghiệm trong chiến đấu và đào tạo của ông cũng khá vượt trội. Chính vì thế, khi vào chiến trường, thay vì lập những tổ chiến đấu với các thành viên cố định để _____________ 1. Tức bơi kiểu người nhái (BT). 56 đảm bảo sự ăn ý trong hiệp đồng tác chiến, Nguyễn Văn Tình, giống như người luyện võ, cứ mỗi trận đánh lại chọn một chiến sĩ khác đi cùng, để kèm cặp cho anh em có thêm kinh nghiệm và dày dạn hơn trong chiến trường, làm nòng cốt cho những trận sau. Mỗi trận đánh của ông đều mang dáng dấp, đặc điểm và ý nghĩa khác nhau. Vừa là một phân đội trưởng trực tiếp tham gia chiến đấu, vừa như một huấn luyện viên, lại vừa có trách nhiệm nghiên cứu, rút kinh nghiệm từ mỗi trận đánh để phục vụ công tác đào tạo, nhưng khi nói đến đóng góp của bản thân, ông lại khiêm tốn: “... Về điều này thì không thể không nói đến vai trò của đồng chí Mai Năng, là người chỉ huy của đơn vị khi ấy...”. Kể về những trận đánh đã trải qua, ông bảo: “Với người lính đặc công, mỗi trận đánh, dù thất bại cũng đều có ý nghĩa của nó. Điều quan trọng là phải biết nhìn nhận sự việc ở góc độ khách quan...”. Giọng ông hồ hởi và đầy hào hứng, nụ cười chân thành, cởi mở luôn hiện trên khuôn mặt. Trong câu chuyện, từng con người, từng trận đánh, từng mục tiêu (chiếc tàu, cây cầu) bị phá hủy,... lần lượt hiện về trong hồi ức của ông, sống động và đầy cuốn hút. Đôi khi, giữa chừng câu chuyện, giọng ông như nghẹn lại. Đó là khi chạm đến những đồng đội đã hy sinh, đến đồng bào đã từng cưu mang 57 ông và đồng đội ngay giữa vòng vây, sự kìm kẹp của địch, những người đã từng âm thầm góp công sức, của cải, xương máu của mình vào chiến thắng của những người lính đặc công. Người kể và người nghe cùng lặng đi, ứa nước mắt... Và tôi lại thêm một cái “cảm” nữa với ông: không chỉ là một người lính gan góc, can trường, người chỉ huy thông minh, mưu trí trong chiến đấu, ông còn là một người tình nghĩa thủy chung, nhân hậu và đáng tin cậy trong cuộc sống đời thường. Im lặng một lúc, ông nói tiếp: “Giờ viết hồi ký cũng vậy, cũng phải khách quan và công bằng. Không có thành công nào chỉ có vai trò của một người, mà còn do bối cảnh, hoàn cảnh thực tế nữa...”. * Năm 1968, địch bị ta đánh mạnh trên toàn miền Nam. Nhận thấy con đường chi viện từ miền Bắc vào chiến trường của ta ngày càng trở nên nguy hiểm, chúng càng điên cuồng càn quét ra giới tuyến. Trên bộ, chúng cho lập hàng loạt cứ điểm, với hàng rào điện tử McNamara. Ngoài khơi, hàng loạt tàu vận tải quân sự tăng cường hoạt động chi viện cho chiến trường Bắc Quảng Trị thông qua các cảng Cửa Việt, Đông Hà. Cùng với đó, việc bảo vệ cũng được tăng cường hết sức 58 gắt gao. Trước tình hình đó, Quân ủy Trung ương và Quân chủng Hải quân xác định chiến trường Quảng Trị sẽ là nơi thu hút, giam chân, tiêu hao sinh lực địch, đồng thời cũng là nơi tập dượt của quân ta. Cục diện chiến trường lúc này cũng cho thấy sự chuyển dần từ chiến trường đánh ngụy sang chiến trường đánh Mỹ với những đặc thù cả về hình thức, bản chất cũng như mức độ ác liệt. Chính vì vậy, phương thức chiến đấu của đặc công hải quân cũng đòi hỏi phải có sự thay đổi. Nếu như trước đây đánh đặc công chỉ đơn thuần là đánh bằng chiến thuật (đánh phá các mục tiêu cố định như cầu phà, kho tàng, bến cảng, tàu đỗ,... bằng mìn), thì đến lúc này yêu cầu chuyển sang đánh bằng kỹ thuật hiện đại nhiều hơn, đòi hỏi kiến thức và khả năng tính toán cao hơn, khó khăn sẽ lớn hơn, nhưng nếu thành công thì cũng mang lại hiệu quả cao hơn. Năm 1968 là thời điểm ta đưa loại vũ khí mới vào sử dụng trên chiến trường Quảng Trị thông qua lực lượng đặc công nước. Đó là thủy lôi HAT-2. Đây vốn là loại thủy lôi trang bị cho tàu chiến, dùng để thả ngoài biển, được các kỹ sư, các nhà khoa học ngành kỹ thuật các cấp của ta cải tiến lại thành vũ khí đánh tàu. Sở dĩ có sự thay đổi vũ khí này là bởi lúc này địch đã cảnh giác, không đỗ tàu trong cảng nữa mà đưa ra tận ngoài khơi, đặc công gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận mục tiêu 59 và áp dụng phương pháp đánh mìn trước đây. Chỉ có dùng thủy lôi, loại vũ khí đánh trên đường đi của tàu chiến địch, mới phát huy hiệu quả cao. Trận đánh thủy lôi đầu tiên đêm 19 tháng 1 năm 1968 là trận đánh để lại nhiều bài học kinh nghiệm cùng bao kỷ niệm với Nguyễn Văn Tình. Trong bối cảnh chiến trường lúc đó, để đảm bảo tiếp tế, chi viện cho hơn 30.000 quân Mỹ và hàng vạn quân ngụy đang bị giam chân ở Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, Mỹ - ngụy đã triệt để tận dụng tuyến vận chuyển đường thủy từ Cửa Việt - Đông Hà và coi đây là tuyến vận tải chính, chiếm đến 80% số lượng vận chuyển tại mặt trận này. Trong khi đó, về phía ta, để chuẩn bị tham gia chiến dịch tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 và Bộ Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ cho Đoàn 1A (Đoàn 126) phải tập trung toàn bộ lực lượng đánh chìm thật nhiều tàu địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng, ngăn chặn và làm tê liệt hoạt động vận chuyển đường thủy trên tuyến Cửa Việt - Đông Hà trong thời gian nhất định, phối hợp với các lực lượng vũ trang nhân dân trên chiến trường tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Sau khi nhận nhiệm vụ, lãnh đạo và chỉ huy đoàn chủ trương tổ chức vây hãm cảng Cửa Việt - Đông Hà bằng hệ thống thủy lôi, kết hợp với các 60 trận địa hỏa lực bắn thẳng như B40, B41, súng DKZ bố trí trên bờ, tại những địa hình có lợi để săn tàu địch, cùng các hình thức tác chiến đánh địch khác. Để thực hiện nhiệm vụ trên và làm tắc nghẽn tuyến giao thông này, Đoàn chủ trương đưa toàn bộ đội hình vào chiến đấu và tiến công địch trên cả ba hướng: hướng một, đoạn từ ngã ba Duy Phiên đến Xuân Khánh; hướng hai từ Cửa Việt đến làng Thanh Xuân; hướng ba từ đoạn Vinh Quang Hạ đến thôn Đại Độ. Đến ngày 16 tháng 01 năm 1968, mọi công việc chuẩn bị của các đơn vị đã hoàn thành và sẵn sàng chờ lệnh. Đúng 18 giờ ngày 19 tháng 1, các đơn vị nhận được lệnh xuất phát hành quân vào chiến đấu, Đội 1 cũng cấp tốc lên đường. Trước khi hành quân, đội được bổ sung hai trung đội bộ binh để mang vũ khí cho lực lượng trực tiếp chiến đấu và một tổ du kích xã Do Việt dẫn đường. Đồng chí Mai Năng chỉ huy toàn đội. Đơn vị đã bí mật vượt qua đò Tùng Luật, các tuyến bom đạn, chướng ngại vật và các ổ phục kích của địch tiến về hướng Cửa Việt, với hai quả thủy lôi HAT-2, mỗi quả nặng 300 kg. 23 giờ, toàn bộ đội hình của đội đã tập kết tại Xóm Vừng, cách Cửa Việt chừng 400m. Đội trưởng Mai Năng chỉ thị cho hai tổ đánh chính lắp ráp thủy lôi và hóa trang. Sau gần 30 phút, 61 toàn bộ công tác chuẩn bị đã xong, sẵn sàng chờ lệnh xuất phát. Trận này lực lượng đánh chính gồm sáu người, chia làm hai tổ. Tổ đánh quả thứ nhất có Nguyễn Văn Tình và hai chiến sĩ Căn và Độ; tổ đánh quả thứ hai gồm có các đồng chí Miêng, Tâm và Tiến. Đúng giờ G, hai tổ chiến đấu lặng lẽ kéo thủy lôi và trang bị bí mật trườn trên bãi cát xâm xấp nước, vượt qua đèn pha pháo sáng và tuần tra canh gác của địch ở trên bờ và cả tàu tuần tiễu trên sông. ... Khi các chiến sĩ vừa kéo được vũ khí qua hết bãi cạn, ra sát luồng sâu thì đột nhiên một phân đội tàu địch từ trong cảng chạy về hướng Cửa Việt. Khi ba chiếc tàu chạy qua vị trí quân ta chừng hơn 100 m, chúng dừng lại triển khai đội hình thành hàng ngang, mỗi chiếc cách nhau khoảng 20 - 25 m rồi thả neo và tắt đèn. Con đường di chuyển bị đội tàu chắn ngang. Hai tổ hội ý và quyết định sử dụng các động tác kỹ thuật điêu luyện, dìm vũ khí xuống độ sâu nhất định, kéo luồn qua khoảng cách giữa các tàu với nhau nhẹ nhàng và bí mật. Sau khi đã vượt qua đội hình tàu của địch, tiếp tục đưa thủy lôi đến đúng vị trí đã định. Đúng 24 giờ, tổ của Nguyễn Văn Tình rút chốt an toàn khai hỏa quả thủy lôi, sau đó đâm phao cho vũ khí chìm đúng vị trí rồi bí mật rút về, bắt liên lạc với bộ phận chỉ huy ở trên bờ. Đến 0 giờ 15 phút, tổ thứ hai cũng hoàn thành 62 nhiệm vụ, đưa được thủy lôi vào vị trí điểm hỏa và rút về an toàn...”. 8 giờ sáng 20 tháng 1 năm 1968, đội hình tàu địch gồm bảy chiếc chở đầy hàng chạy từ Cửa Việt lên Đông Hà, khi đến ngang làng Thanh Xuân, một chiếc vấp phải thủy lôi của Đội 1, nổ tung và chìm tại chỗ. Các chiếc khác lúng túng quay ngang, quay dọc trên sông, bị lực lượng của ta phục kích trên bờ dùng hỏa lực B40, B41 bắn chìm thêm hai chiếc. Bị phục kích bất ngờ, các tàu khác lùi ra xa không dám vào. Tuyến giao thông thủy Cửa Việt - Đông Hà bị tắc nghẽn, khiến bọn địch trên Đường 9 vô cùng hoang mang và lúng túng. Do nhu cầu tiếp tế cho lực lượng đang đóng quân trên chiến trường rất cấp bách, đến ngày 22 tháng 1, địch lại liều lĩnh cho đoàn tàu vận tải và tàu quân sự hộ tống gồm 15 chiếc chạy lên Đông Hà tiếp tế. Khi chạy đến khúc sông từ ngã ba Duy Khiên đến đoạn Xuân Khánh, năm tàu vấp phải thủy lôi của Đội 2 chìm tại chỗ, lực lượng của ta phục kích trên bờ bắn cháy thêm hai chiếc nữa, khiến cho quân địch càng hoang mang. Những chiến công của Đội 1 và Đội 2 đặc công nước trong những ngày đầu năm 1968, trong đó có vai trò không nhỏ của người chỉ huy dày dạn Mai Năng và những người lính tiên phong dũng cảm, mưu trí như Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Đình Thi,... 63 đã trở thành nguồn động viên, cổ vũ hết sức lớn lao cho cán bộ, chiến sĩ trong đoàn, tạo nên phong trào thi đua giữa các Đội 3 và Đội 4 vươn lên đánh chìm, phá hủy nhiều tàu địch trong những ngày tiếp theo. Chỉ trong 10 ngày liên tục từ 19 đến 29 tháng 1 năm 1968, với ý chí quyết tâm cao, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, đánh đau, đánh hiểm bằng vũ khí mới HAT-2, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 126 Đặc công hải quân đã phối hợp với các lực lượng khác đánh chìm 19 tàu địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, làm tắc nghẽn tuyến vận tải thủy chi viện cho Đường 9, khiến cho địch vô cùng hoang mang, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng bộ binh của ta tiến công địch, giành thắng lợi trên khắp chiến trường. * Thắng lợi của quân và dân ta trong mùa xuân 1968 đã khiến dư luận thế giới xôn xao, làm lung lay tận gốc chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ. Sau thất bại này Mỹ tăng quân vào miền Nam, tổ chức phòng ngự có chiều sâu với nhiều tuyến từ trong ra ngoài, kết hợp lực lượng cơ động bình định đi đôi với tiến công. Đặc biệt, ở chiến trường Trị Thiên - Huế, nơi địch bị đánh đau và thất bại nặng nề nhất, ngay 64 sau Tết Mậu Thân năm 1968, Mỹ - ngụy đã vội vã tăng quân và phương tiện chiến tranh để liên tục mở các cuộc phản kích quyết liệt bằng chiến thuật “quét và giữ” với hai nội dung “bình định cấp tốc” và “ngăn chặn từ xa” nhằm chiếm lại những vùng đã bị mất; củng cố hàng rào McNamara; xây tuyến ngăn chặn từ xa, dồn dân vào ấp chiến lược phía tây đường quốc lộ 1. Chúng thực hiện ý đồ “tát nước bắt cá”, tách cơ sở cách mạng ra khỏi lực lượng của ta. Chúng dùng bom đạn, máy bay, pháo binh đánh phá ác liệt, xe tăng, xe thiết giáp M113 cày ủi, đào xới từng rễ cây, ngọn cỏ, tạo nên một vùng trắng đầy bom đạn; điên cuồng càn quét, lùng sục, phục kích và ngăn chặn, đẩy lực lượng ta từ xa. Trong mùa xuân 1968, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 126 Đặc công hải quân đã chiến đấu vô cùng anh dũng với ý chí tiến công, đã lập nên nhiều chiến công vang dội, đánh chìm, phá hủy nhiều tàu địch và các phương tiện chiến tranh; loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, góp phần xứng đáng vào chiến công của mặt trận. Tuy nhiên, vào thời điểm này, địch cũng gây cho ta vô vàn khó khăn, lực lượng của ta ở đồng bằng bị bật ra ngoài, chính quyền thôn, xã mới được thành lập bị tan vỡ,... Chưa bao giờ cuộc chiến đấu của nhân dân Quảng Trị nói chung và nhân dân vùng Bắc Cửa Việt nói riêng lại gian nan, căng 65 thẳng như giai đoạn này. Tình hình chung đó cũng tạo ra bao thách thức, gian nan, cản trở cán bộ, chiến sĩ Đoàn 126 Đặc công hải quân thực hiện nhiệm vụ chiến đấu. Trong tháng 4 và tháng 5, ta không đánh được trận nào trọn vẹn. Nhiều lần ta xuất quân bị địch phát hiện phải quay về, thậm chí có lúc bị thương vong. Địch huênh hoang tuyên bố “Đặc công thủy Bắc Việt đã bị quân đồng minh và quân lực Việt Nam Cộng hòa quét sạch ra khỏi vùng Cửa Việt - Đông Hà”. Để thực hiện bằng được nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Mặt trận và Bộ Tư lệnh Hải quân giao cho, Đảng ủy - Chỉ huy Đoàn 126 trên cơ sở phân tích khách quan, khoa học những điểm mạnh và điểm yếu cơ bản của địch đã đề ra chủ trương: để giành thế chủ động và luồn sâu vào hậu cứ địch, trước hết phải phối hợp chặt chẽ với đảng bộ và lực lượng vũ trang địa phương, dựa vào dân, khôi phục lại các cơ sở cách mạng, phát triển chiến tranh du kích, đưa phong trào cách mạng của quần chúng lên cao với phương châm là: “Bám trụ kiên cường, luồn sâu đánh nhỏ lẻ, đánh độc lập, đánh liên tục, đánh nhiều mục tiêu với các phương thức khác nhau”. Chủ trương, phương châm đó đã được quán triệt đến từng cán bộ, chiến sĩ trong toàn đoàn. Vào thời điểm này, Bộ Tư lệnh Mặt trận giao cho Đoàn 126 Đặc công hải quân đảm nhận mặt 66 trận phía đông phải tổ chức đánh được một trận vào Cửa Việt để “bịt cái cuống họng” và “cắt đứt cái dạ dày” của địch tại Đông Hà, tạo điều kiện cho quân và dân ta ở mặt trận Đường 9 tấn công Khe Sanh. Lãnh đạo, chỉ huy Đoàn đã giao nhiệm vụ này cho Đội 1. Và lại một lần nữa, Nguyễn Văn Tình với những kinh nghiệm dày dạn và khả năng chiến đấu mưu trí, lại được cấp trên tin cậy giao nhiệm vụ trinh sát, lập phương án và chỉ huy đánh trận khai thông tình thế này. Đúng lúc này, Nguyễn Văn Tình và Đội trưởng Mai Năng đang trên đường ra Bắc để báo cáo thành tích tham dự Đại hội tuyên dương Anh hùng Chiến sĩ thi đua. Mới ra đến Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, được lệnh quay trở lại chiến trường nhận nhiệm vụ chiến đấu, cả hai liền tức tốc quay về đơn vị. “Mừng quá, vì được trở lại đơn vị chiến đấu. Lúc ấy, được chiến đấu mới là quan trọng, phong anh hùng cũng vui, nhưng lại sợ bị chuyển đi đơn vị khác...”, Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình bộc bạch. Cái bộc bạch khi mọi chuyện đã an bài, nhưng vẫn thấy đầy khí phách của một thời... Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình kể: “... Khi về đến đơn vị, chúng tôi hồ hởi bắt tay ngay vào triển khai nhiệm vụ. Lúc đó, với cương vị là phân đội trưởng, tôi đã thảo luận và chuẩn bị phương án để cấp trên thông qua. Theo phương án này, đơn vị gồm ba bộ phận: Bộ phận thứ nhất do đồng chí 67 Cao Xuân Liễn phụ trách, đi đường phía tây vào khu vực Xuân Khánh để trinh sát nắm và nghi binh đánh địch. Bộ phận thứ hai do đồng chí Đỗ Xuân Lãng là chính trị viên phân đội phụ trách lực lượng ra phía sau để huấn luyện, bổ sung những nội dung cần thiết phục vụ trận đánh. Bộ phận thứ ba do tôi trực tiếp phụ trách, đây là bộ phận tổng hợp, có sử dụng người nhái của Phân đội 3 và thô sơ của Phân đội 1 - Đội 1 vào trinh sát. Đúng 18 giờ 30 phút ngày 27 tháng 5 năm 1968, chúng tôi xuất phát tiếp cận...”. Thời gian này, trên đường bộ và bãi cát từ Cửa Tùng vào đến Cửa Việt, Mỹ - ngụy thường xuyên càn quét, lùng sục gắt gao, đặt nhiều các chốt chặn, ổ phục kích, nên Nguyễn Văn Tình cùng tổ trinh sát đã phải tìm một đường tiếp cận mới, hoàn toàn dọc theo bờ biển dài 18 km ở dưới nước. Đoạn nào có địch thì bơi vòng ra xa tránh, đoạn nào địch ở xa thì lại bơi vào gần mép nước để đi. Quá trình đi là quá trình vừa tìm đường, vừa trinh sát, nắm toàn bộ tình hình và quy luật bố phòng, tuần tra canh gác của địch, đồng thời nghiên cứu những điểm cất giấu vũ khí ở dưới biển. Trận đánh này ta cũng sử dụng loại thủy lôi HAT-2, vừa cồng kềnh vừa nặng, nên phải di chuyển ba đêm mới vượt qua chặng đường dài hơn 18 km để vào đến vị trí đánh địch. Trên đường đi khi trời sáng sẽ dừng lại để giấu vũ khí, còn người 68 lên bãi cát ngụy trang để tối đến xuống biển thì tìm vũ khí đi tiếp. Sau ba đêm nghiên cứu, trinh sát, Nguyễn Văn Tình và các chiến sĩ trong đội trinh sát đã hoàn thành nhiệm vụ bước đầu và đi đến kết luận: tuy không phải dễ dàng nhưng nếu có quyết tâm cao, biết khắc phục những điểm yếu, nhất định có khả năng đưa vũ khí vào sào huyệt của địch bằng đường biển để đánh địch. Phương án tác chiến được thông qua, Đội 1 gấp rút làm công tác chuẩn bị để bước vào chiến đấu ngay. Đúng 18 giờ 30 phút ngày 30 tháng 5 năm 1968, đội của Nguyễn Văn Tình và Cao Xuân Liễn được lệnh lên đường thực hành chiến đấu. Nguyễn Văn Tình trực tiếp chỉ huy Phân đội 1, có nhiệm vụ dùng HAT-2 bí mật luồn sâu tiếp cận vào hậu cứ của địch ở Cửa Việt bằng con đường vừa tìm ra để tiêu diệt tàu vận tải của địch từ Đà Nẵng ra Cửa Việt, Đông Hà. Còn lực lượng của Cao Xuân Liễn chỉ huy có nhiệm vụ hoạt động nghi binh đánh lừa địch ở phía Xuân Khánh - Tây Cửa Việt để tạo điều kiện bất ngờ cho Phân đội 1 hoàn thành nhiệm vụ. Khi có thời cơ thì dùng hỏa lực B40, B41 tiêu diệt tàu địch cơ động trên sông. Đồng chí Mai Năng chỉ huy chung. Sau khi hành quân đến vị trí tập kết, toàn bộ vũ khí trang bị đã lắp ráp an toàn, đồng chí Mai Năng cho các lực lượng rút ra, chỉ để lại ba tổ trực tiếp đánh thủy lôi, mỗi tổ gồm ba người: 69 Tổ 1 do đồng chí Trịnh Kiên phụ trách, Tổ 2 do Nguyễn Văn Tình vừa làm tổ trưởng vừa trực tiếp chỉ huy toàn phân đội, Tổ 3 do đồng chí Độ phụ trách. Mỗi tổ mang theo một trái thủy lôi HAT-2. Cả ba đội kéo vũ khí bơi theo đội hình hàng dọc, mỗi tổ cách nhau 20 m. Cứ như thế vừa đi vừa quan sát và tránh tàu tuần tiễu của địch trên biển, tránh đèn pha pháo sáng, máy bay và những vị trí phục kích của địch ở bờ biển. Đêm hành quân, ngày giấu vũ khí dưới nước, ngụy trang người trên bãi cát nghỉ ngơi, đợi đêm đi tiếp. Cứ thế đến đêm 1 tháng 6, toàn phân đội đã tiếp cận được vị trí thả thủy lôi. Ông Tình nhớ lại: “... Đêm 1 tháng 6 năm 1968, đúng giờ G, tôi cho tổ xuất phát xuống nước, tiếp cận khu vực thả thủy lôi. Vào dịp này, ban ngày trời nắng gắt, nhưng ban đêm ngâm mình ở dưới nước lâu thì rất lạnh. Càng vào gần khu vực Cửa Việt sóng càng to, địch càng phòng thủ cẩn mật và chặt chẽ, nên mọi động tác của ta lúc này càng phải thận trọng để tránh những sơ suất đáng tiếc có thể xảy ra. Mọi công tác chuẩn bị đã xong, tôi cho đội hình tiếp cận. Đang trên đường vào thì một con sóng to đánh vỡ phao quả thủy lôi của chúng tôi, đội hình phải dựng lại và đẩy thủy lôi sát mép nước, thổi phao dự bị thay thế. Ba người phải nằm sấp sát mép nước, ghé miệng thay nhau thổi một cái phao cao su dài khoảng 2,4 m 70 với đường kính 0,45 cm căng phồng đủ để cho toàn bộ quả thủy lôi nặng 300 kg lấp ló mặt nước, trong điều kiện gần sát với địch là điều không dễ dàng. Song chúng tôi đã khắc phục được và tiếp tục kéo vũ khí vào vị trí. Càng vào sát Cửa Việt, sóng càng dữ dội. Đang đi, tôi phát hiện Tổ 3 không còn trong đội hình nữa. Tôi cho hai tổ dừng lại, lợi dụng ánh sáng đèn pha, pháo sáng và đèn dù của địch để quan sát. Song do sóng to, trời lại tối nên rất khó quan sát. Lúc này, nhìn đồng hồ, thời gian đã muộn, không cho phép chậm trễ, tôi quyết định hai tổ còn lại tiếp tục đưa thủy lôi ra vị trí đã xác định để đánh địch. Khi cả hai tổ đã bắt được liên lạc lại với nhau, dàn đội hình để rút ra thì phát hiện Tổ 3 đang kéo vũ khí đi ngược về hướng chúng tôi. Trong chiến đấu đặc công, khi gặp những tình huống như thế này thì căn cứ vào tình hình cụ thể, người chỉ huy sẽ đưa ra quyết định để vừa hoàn thành nhiệm vụ, vừa bảo đảm an toàn lực lượng, còn lại các chiến đấu viên phải tự xử lý vì mỗi chiến sĩ vừa là người trực tiếp chiến đấu, vừa là người chỉ huy, thậm chí có lúc chỉ chỉ huy một mình để hoàn thành nhiệm vụ. Tôi cho đội hình dừng lại để chờ Tổ 3 đưa thủy lôi ra khoảng giữa hai quả của Tổ 1 và Tổ 2 đã thả để khỏi chồng chéo lên nhau. Trên đường kéo thủy lôi ra giữa luồng, mới cách bãi cát chừng 30 m, độ sâu mới đạt được ở 71 mức độ nhất định thì sóng lại đánh vỡ phao, thủy lôi chìm ngay tại chỗ. Anh em trong tổ đã lặn xuống vần thủy lôi ra sâu nhưng do thủy lôi nặng, sóng to, mọi người đã quá mệt nên đành để thủy lôi nằm tại chỗ rút chốt an toàn, bắn liên lạc với hai tổ đang chờ và toàn bộ đội hình nhanh chóng rút ra. Khi ấy, đã hừng đông...”. 8 giờ sáng ngày 2 tháng 6, một đoàn tàu vận tải của địch từ Đà Nẵng từ từ tiến vào Cửa Việt. Sau khi các xe rà cắt, tàu tuần tiễu chạy vào không phát hiện được gì, toàn bộ đội hình tàu đi sau tiến vào cảng Cửa Việt, đột nhiên quả thủy lôi ngoài cùng nổ tung, nhấn chìm một tàu LCU tại chỗ, cùng lúc đó quả thủy lôi của Tổ 1 ở vị trí trong cùng cũng phát nổ, chiếc tàu LST cắm mũi xuống nước, chạy được một đoạn cũng chìm luôn. Lúc này, toàn bộ đội hình tàu còn lại của địch chạy loạn xạ và lùi ra biển, không chiếc nào dám vào cảng nữa. Bọn địch báo động toàn bộ khu vực cảng Cửa Việt, chúng cho xe lội nước, tàu tuần tiễu, máy bay lùng sục, đánh phá ác liệt trong khu vực suốt ngày hôm đó và cả ngày hôm sau. Đến ngày thứ ba, tức 4 tháng 6, địch lại cho các loại xe tăng, xe bọc thép, xe hơi nước chạy hai bên để rà cắt và quét đón đường, sau đó cho tàu tuần tiễu đi trước, bảo vệ cho đoàn tàu vận tải chở hàng vào. Trên đường đi, một chiếc trúng phải quả thủy lôi thứ ba nổ tung chìm tại chỗ, khiến 72 cho toàn bộ đội hình tàu vận tải phía sau hoảng hốt lùi ra xa rồi phải quay về Đà Nẵng. Ngoài ba tàu bị trúng thủy lôi của đặc công, hướng đánh địch nghi binh do đồng chí Cao Xuân Liễn phụ trách tuy gặp khó khăn, nhưng cũng phục kích tiêu diệt một tàu tuần tiễu của địch bằng súng B40, B41. Như vậy, trong trận này, cả hai mũi ta đã đánh chìm bốn tàu của Mỹ. So với yêu cầu mà Bộ Tư lệnh Mặt trận giao cho là phải “cắt cuống họng” và bịt Cửa Việt trong ba ngày, thì ta đã cắt đứt được con đường vận tải quan trọng này trong năm ngày. Những tiếng nổ đầy bất ngờ và kiêu hãnh của thủy lôi trên cảng Cửa Việt ngày ấy không chỉ gây cho quân địch thiệt hại về vật chất và phương tiện chiến tranh, mà còn đánh tan ý chí cũng như tinh thần của chúng cả trên biển và trên bộ. Trận đánh vang lừng đó sau này được Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 Đàm Quang Trung ví như trận đánh vào một sân bay trên biển và gọi đó là trận Ngựa hý biển Đông, trận đánh có tính chất quyết định để hai tuần sau đó ta hoàn toàn giải phóng Khe Sanh. * Sau trận đánh khai thông tình thế trên chiến trường giữa năm 1968, hình thức đánh địch bằng 73 thủy lôi đã mở ra những hướng mới trong các phương án tác chiến của đặc công hải quân. Các chiến sĩ Đoàn 126 lại dồn dập đánh địch. Trước tình thế ấy, quân địch ngày càng cay cú và tăng cường lực lượng để đẩy ta ra xa. Sang đến năm 1969, chúng mở nhiều cuộc hành quân lớn càn quét vào địa bàn ta đang bám trụ. Các chiến sĩ đặc công hải quân vẫn nắm chắc dân, nắm chắc địa bàn, đánh những trận lớn phối hợp với các lực lượng khác trên chiến trường, gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề cho đến cuối chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Thời gian này, Nguyễn Văn Tình và Mai Năng được ra miền Bắc để báo cáo thành tích và tham dự Đại hội tuyên dương Anh hùng chiến sĩ thi đua. Đây là hai anh hùng lực lượng vũ trang đầu tiên của đặc công hải quân nói chung và Đoàn 126 nói riêng. Khi ấy Nguyễn Văn Tình đang là thiếu úy, phân đội trưởng Đặc công Đội 1, còn Mai Năng là đại úy, đội trưởng Đội 1 - Đoàn 126 Đặc công hải quân. Sau khi được tuyên dương anh hùng, Mai Năng trở lại chiến trường tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu. Các chiến sĩ đặc công Đoàn 126 tiếp tục bám trụ tại chiến trường cho đến sau ngày Quảng Trị được giải phóng. Đầu năm 1973, đoàn được lệnh rút về miền Bắc để củng cố và tiếp tục huấn luyện, chuẩn bị cho nhiệm vụ mới. 74 Năm 1969, Nguyễn Văn Tình ở lại miền Bắc để làm công tác đào tạo, huấn luyện, viết tài liệu tổng kết các trận đánh, kinh nghiệm chiến đấu, xây dựng cơ sở trong lòng địch và tham mưu, chỉ đạo huấn luyện cho các đơn vị chuyên huấn luyện đặc công nước của hải quân. Con đường binh nghiệp của ông dường như đang chuyển dần sang một hướng khác... * Rời chiến trường, bắt đầu từ năm 1970 cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước và trong những năm sau đó, Nguyễn Văn Tình được cấp trên cử tham dự nhiều lớp đào tạo cán bộ chính trị của quân đội, sau đó về đảm nhiệm nhiệm vụ này tại các đơn vị huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng đặc công hải quân. Trong thời gian này, ông tham gia làm nghĩa vụ quốc tế cho đến năm 1979 thì được cử sang đào tạo tại Học viện Quân chính Lênin ở Liên Xô. Phải đến khi tốt nghiệp, trở về nước năm 1984, Nguyễn Văn Tình mới trở lại với nhiệm vụ quân sự, khi đó, tình hình biển Đông bắt đầu có những biểu hiện phức tạp. Tư lệnh hải quân khi ấy là Đô đốc Giáp Văn Cương đang có chương trình nghiên cứu về biển Đông và chủ trương xây dựng hệ thống phòng thủ trên các bãi đá ngầm 75 thuộc khu vực quần đảo Trường Sa. Nguyễn Văn Tình, khi đó mang quân hàm trung tá, được Tư lệnh Hải quân cử về làm Đoàn trưởng Đoàn 861 Đặc công hải quân. Đây là tiểu đoàn đặc công nước tách ra từ Lữ đoàn 126 - Đơn vị bao gồm lực lượng đặc công nước 126 sáp nhập với Lữ đoàn 101 Binh chủng hợp thành. Vào năm 1985, trên cương vị đoàn trưởng, Nguyễn Văn Tình đã xin phép tập hợp lại toàn bộ số cán bộ cũ của Đoàn 126 Đặc công hải quân trước đây đang rải rác khắp các đơn vị trong Bộ Tư lệnh để xây dựng một đơn vị đặc công nước đủ sức mạnh bảo đảm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Trưởng thành từ một người lính đặc công nước ở Đội 1 - Đoàn 126, với vị trí là một chiến đấu viên, sau đúng 20 năm, qua bao trận đánh vào sinh ra tử, rồi qua bao đơn vị khác nhau, với những nhiệm vụ khác nhau, mãi đến lúc này mới được trở về với đúng sở trường, đúng niềm mong ước, trong một tình yêu như máu thịt trên mảnh đất Thủy Nguyên - Hải Phòng. Giống như Đoàn 126 của ông, không biết đã bao lần thay đổi, nhập rồi lại tách, tách rồi nhập với đơn vị khác, đổi tên, đổi phiên hiệu, đổi quy mô,... tùy theo từng thời kỳ, từng nhiệm vụ, từng địa bàn chiến đấu khác nhau, giờ đây cũng đang đứng chân trên mảnh đất đó. Nhiệm vụ mới, đơn vị mới, cơ sở vật chất chưa nhiều, chỉ có con người 76 với lòng yêu nước, yêu biển, với những nhiệt huyết và sự từng trải, dạn dày qua bao trận đánh là tràn đầy. Và cũng chỉ bằng tất cả những thứ ấy, một đơn vị với hệ thống doanh trại bề thế khang trang, với thao trường hiện đại, với những con người vững vàng như sắt đá dần dần được hình thành và lớn mạnh. Cũng trong thời gian này, Đoàn trưởng Nguyễn Văn Tình cùng cán bộ chỉ huy Đoàn 861 được Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan quân chủng thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khảo sát các đảo và bãi đá ngầm trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam để xây dựng kế hoạch phòng thủ trên biển của lực lượng hải quân, chương trình mà Đô đốc Giáp Văn Cương đã ấp ủ bấy lâu nay. Vậy là lại những ngày lênh đênh trên biển, cắm chốt ngoài đảo để thăm dò đến thuộc lòng từng bãi đá, từng dòng chảy, âm thầm làm những cột mốc giữa biển khơi. Khi cái tên Đoàn 126 trước đây chưa kịp đem về thì năm 1989 ông lại lên đường. Lần này, sau khi tham dự lớp đào tạo cán bộ quân sự cao cấp, ông được Bộ Quốc phòng điều sang Bộ Tư lệnh đặc công. Con đường phát triển của ông bên Binh chủng đặc công cũng có nhiều thuận lợi. Ông đã từng đảm nhiệm vai trò Phó Tư lệnh Binh chủng, nhưng hình như cái duyên với hải quân vẫn chưa dứt. Đúng 10 năm sau, năm 1999, ông 77 trở lại với hải quân, lần lượt giữ cương vị Phó Tư lệnh Quân chủng, Phó Tư lệnh Chính trị, rồi Chính ủy, Ủy viên Trung ương Đảng, Chuẩn Đô đốc, Phó Đô đốc. Trong bất kỳ cương vị nào, phẩm chất anh hùng và ý thức về tư cách của một người anh hùng cũng được ông nâng niu, trân trọng, phát huy. Và cũng chỉ đến lúc ở cương vị cao nhất, ông mới thực hiện được một điều tâm nguyện lâu nay vẫn đang canh cánh trong lòng. Đó là trả lại tên Đoàn 126 đầy truyền thống và tự hào cho đơn vị đặc công nước chính thức đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam, thay cho tên Đoàn 861 mà ông đã gây dựng từ những ngày đầu. Hình như với con người ấy, dù đi đâu, làm gì, thì nơi đây vẫn luôn là mái nhà đầy tình nghĩa và tràn ngập những kỷ niệm ấm áp, thân thương. * Năm 2016 này, khi những người lính của Lữ đoàn 126 Đặc công hải quân đang náo nức chuẩn bị kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống của đơn vị, thì người lính già một đời với biển ấy đã buông neo được sáu năm. Bến cảng bình yên của ông là ngôi biệt thự khang trang và ấm áp giữa lòng Thủ đô Hà Nội, món quà khiêm tốn mà quân đội đãi ngộ cho hơn 50 năm cống hiến, hy sinh của ông. Nói là buông neo, nhưng với người năng nổ, từng 78