🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nhận Diện Về “Tự Diễn Biến”, “Tự Chuyển Hóa” Và Giải Pháp Đấu Tranh Ngăn Chặn
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
VĂN THỊ THANH HƯƠNGTS. HOÀNG MẠNH THẮNG TRẦN HÀ TRANG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG ANH BÙI BỘI THU
ĐẶNG THU CHỈNH
HOÀNG MINH TÁM
PHƯƠNG ANH
VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/11-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5362-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-6106-9.
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Nhận diện về “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và giải pháp đấu tranh ngăn chặn / Trương Tấn Sang, Lê Khả Phiêu, Lê Hữu Nghĩa... ; B.s.: Cao Văn Thống (ch.b)... - Tái bản lần thứ 1. - H. : Chính trị Quốc gia, 2020. - 280tr. ; 21cm
ISBN 9786045755686
1. Đảng Cộng sản Việt Nam 2. Xây dựng Đảng
324.2597075 - dc23
CTH0617p-CIP
Tập thể sưu tầm và biên soạn
CAO VĂN THỐNG (Chủ biên) SA THỊ HỒNG LAN
PHẠM VĂN ĐỨC
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;... Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Xây dựng và thực hiện quy định mọi đảng viên có trách nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng. Cán bộ chủ chốt cấp ủy đảng phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội”1.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 256-257.
5
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” nhận định: “Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước; đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển. Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng”1.
Đến Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII tiếp tục nhận diện những biểu hiện “tự diễn biến”’, “tự chuyển hóa” trong nội bộ một cách rõ ràng, cụ thể. Từ đó, Đảng ta đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp mới để ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”’, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Để đáp ứng nhu cầu của bạn đọc tìm hiểu thông tin về những vấn đề trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 23-24.
6
tái bản có chỉnh sửa, bổ sung cuốn sách Nhận diện về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và giải pháp đấu tranh ngăn chặn do đồng chí Cao Văn Thống làm chủ biên. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà quản lý, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã công bố trong sách, đăng trên Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân,... về đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” làm thất bại âm mưu chống phá Đảng và chế độ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh và nhận diện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên cùng các chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn để các cán bộ, đảng viên nhận thức được những quy định cơ bản trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, làm cơ sở lý luận trong nhận thức và hành động để đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong giai đoạn hiện nay.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 3 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT7
KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG BIỂU HIỆN THOÁI HÓA, TIÊU CỰC, CHĂM LO XÂY DỰNG ĐẢNG TA
NGÀY CÀNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN, ĐỦ SỨC LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC
NGÀY CÀNG PHÁT TRIỂN1*
NGUYỄN PHÚ TRỌNG**
Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã bàn và thống nhất ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
* Đầu đề do chúng tôi đặt (BT).
** Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, ngày 09/12/2016 (BT).
9
trong nội bộ. Đây là một nghị quyết rất quan trọng, đề cập một vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách, được đông đảo cán bộ, đảng viên và Nhân dân đặc biệt quan tâm và hoan nghênh. Để triển khai thực hiện Nghị quyết, Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện với những nội dung cụ thể. Hôm nay, Bộ Chính trị tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc trực tuyến để phổ biến, quán triệt mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng, những nội dung cốt lõi của Nghị quyết và Kế hoạch triển khai thực hiện, tạo sự thống nhất cao về nhận thức để các đồng chí lãnh đạo chủ chốt từ Trung ương tới cơ sở chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết một cách có hiệu quả ở địa phương, đơn vị, cơ quan mình. Sự có mặt đông đủ của các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và các tỉnh, thành phố trong cả nước đã nói lên tầm quan trọng của Hội nghị này và thể hiện tinh thần nghiêm túc, quyết tâm cao của toàn Đảng.
Thay mặt Bộ Chính trị, tôi nhiệt liệt chào mừng tất cả các đồng chí tham dự Hội nghị ở các đầu cầu trong cả nước, chúc các đồng chí mạnh khỏe, tiếp thu sâu sắc và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết. Trước khi các đồng chí nghe phổ biến, quán triệt các nội dung của Nghị quyết và Kế hoạch triển khai thực hiện, tôi muốn lưu ý các đồng chí một vài vấn đề chung sau đây:
10
Một là, trong quá trình học tập, nghiên cứu Nghị quyết, các đồng chí cần nhận thức đầy đủ rằng việc xây dựng Đảng luôn luôn phải đi đôi chỉnh đốn Đảng; hay nói cách khác, đổi mới, chỉnh đốn Đảng là một bộ phận không tách rời của công tác xây dựng Đảng. Đây là một yêu cầu khách quan, tự nhiên, một việc làm thường xuyên của bất cứ một đảng cách mạng chân chính nào, ở bất kỳ giai đoạn nào. Trong suốt quá trình phát triển và trưởng thành, Đảng ta đã luôn luôn tự đấu tranh, tự chỉnh đốn, loại bỏ những tiêu cực, khắc phục những khuyết điểm, sai lầm nhằm không ngừng làm trong sạch đội ngũ của mình. Có những lúc chúng ta phải “tự chỉ trích”, “đóng cửa” để củng cố, chỉnh đốn Đảng. Chúng ta còn nhớ, tháng 7/1939, trong thời kỳ Đảng còn hoạt động bí mật, trong tác phẩm Tự chỉ trích, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã cho rằng, đối với một đảng chính trị, việc mắc phải khuyết điểm, thậm chí sai lầm là khó tránh khỏi. Điều quan trọng là phải biết tự phê bình, “công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ”1.
Vấn đề đấu tranh chống những thói hư tật xấu, xây dựng đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.624.
11
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Năm 1927, Người viết cuốn Đường cách mệnh, trong đó nêu rõ yêu cầu về tư cách của người cách mạng. Năm 1969, Người viết bài báo cuối cùng Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người cho rằng, một đảng mà không tự nhận thấy khuyết điểm, yếu kém của mình và không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm là “một đảng hỏng”. Chỉ tính riêng từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, nhiều cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, có những lúc Đảng ta đã công khai thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, công khai nói rõ những mặt yếu kém, tiêu cực trong Đảng. Điều đó thể hiện bản lĩnh, sự cầu thị, tính lành mạnh của một đảng cách mạng chân chính.
Ngày nay, trong điều kiện mới, đứng trước yêu cầu cách mạng với quy mô, tầm vóc lớn lao, có nhiều khó khăn, phức tạp mới, hơn bao giờ hết chúng ta càng cần phát huy truyền thống anh hùng và bản chất tốt đẹp của Đảng, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện thoái hóa, tiêu cực, chăm lo xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với Nhân dân, đủ sức lãnh đạo đất nước ngày càng phát triển. Chúng ta không sợ nói ra khuyết điểm, tiêu cực; đồng thời cũng không cho phép ai lợi dụng việc đấu tranh khắc phục khuyết điểm, tiêu cực để bôi nhọ, kích động chống phá Đảng ta, chống phá sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta.
12
Hai là, cần nắm vững những nội dung cơ bản, tư tưởng cốt lõi của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII để tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện một cách có hiệu quả. Như các đồng chí đã biết, điểm mới trong Nghị quyết lần này là đã chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhấn mạnh tính chất nguy hiểm và hậu quả khôn lường của nó. Cùng với việc cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng mà Đại hội XII đề ra, Nghị quyết Trung ương 4 lần này đã đưa ra bốn nhóm giải pháp để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, trong đó tập trung vào việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nghị quyết còn nhấn mạnh một nội dung mới là xây dựng Đảng về đạo đức gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Cần nhận rõ rằng, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là cuộc chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng ta và chế độ ta. Quan điểm chỉ đạo của Đảng là kiên quyết, kiên trì thực hiện, khó mấy cũng phải thực hiện, thực hiện với quyết
13
tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, tiến hành thường xuyên, liên tục ở các cấp, các ngành, đồng bộ cả ở Trung ương và cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình với Đảng, với Tổ quốc để thực hiện Nghị quyết một cách nghiêm túc và có hiệu quả, tránh tình trạng thờ ơ, vô cảm, đứng ngoài cuộc hoặc có tư tưởng chỉ trông chờ, phán xét người khác.
Ba là, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII phải thực hiện đồng bộ với các nghị quyết khác của Trung ương, của Quốc hội và của Chính phủ để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, ổn định tình hình; tạo niềm tin trong Đảng, trong Nhân dân. Không phải là “đóng cửa” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu các cấp phải thật sự đoàn kết, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là phải có những giải pháp đủ mạnh, những việc làm cụ thể để làm chuyển biến rõ rệt tình hình; kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”; tập trung giải quyết dứt điểm những vụ việc bức xúc đã được chỉ ra. Phải đề cao kỷ cương, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kết hợp với sự giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm; chú trọng phát huy vai trò của báo chí và công luận trong quá trình thực hiện Nghị quyết. Kết hợp công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình với việc xây dựng và thực hiện các cơ chế,
14
chính sách; kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; phát huy vai trò của Nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội.
Trong Kế hoạch thực hiện Nghị quyết, Bộ Chính trị đã giao nhiệm vụ cho các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, bí thư cấp ủy các cấp; bí thư đảng đoàn, ban cán sự đảng, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải trực tiếp quán triệt Nghị quyết ở ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Chỉ rõ những nhiệm vụ, giải pháp nào có thể thực hiện ngay để sau Hội nghị khẩn trương quán triệt và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, không chờ đợi. Đối với các nhiệm vụ phải có hướng dẫn, phải chờ xây dựng cơ chế theo lộ trình thì phải phân công cho các cơ quan, đơn vị cụ thể triển khai sớm và đồng bộ, không để chậm trễ.
Tinh thần của Nghị quyết là phải hành động, hành động thiết thực, rõ hiệu quả; tránh nói nhiều làm ít hoặc chỉ nói mà không làm.
Bốn là, phải tăng cường đôn đốc, kiểm tra. Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phải nắm chắc tình hình, thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Định kỳ sơ kết rút kinh nghiệm và có các hình thức khen thưởng kịp thời đối với những tổ chức, cá nhân làm tốt và xử lý kỷ luật đối với những nơi làm không tốt. Tránh tình trạng “đầu voi đuôi chuột”, khi
15
quán triệt, triển khai Nghị quyết thì rầm rộ nhưng khi thực hiện thì tắc trách, không có tập thể, cá nhân nào chịu trách nhiệm.
Thưa các đồng chí,
Đất nước ta đang sống trong những ngày sôi động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Cả hệ thống chính trị đang vào cuộc, đang chuyển động theo chiều hướng tích cực: Đảng ban hành và chỉ đạo thực hiện có kết quả nhiều nghị quyết quan trọng; Chính phủ đang hành động quyết liệt thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng; Quốc hội đang có những đổi mới mạnh mẽ, được cử tri và Nhân dân hoan nghênh. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng bàn và quyết định một số chủ trương lớn, quan trọng mang tầm chiến lược và cấp bách về chuyển đổi mô hình kinh tế, phát triển mạnh sản xuất; tăng cường mở cửa hội nhập quốc tế; xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Một số quyết sách và việc làm của chúng ta trong thời gian gần đây được đông đảo Nhân dân cả nước hoan nghênh và đang đòi hỏi, kỳ vọng phải làm tốt hơn nữa.
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng thì nhận thức phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn và phương pháp phải đúng. Bộ Chính trị tin tưởng rằng, với quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của toàn dân, sự vào cuộc của cả hệ thống
16
chính trị, nhất định chúng ta sẽ làm chuyển biến được tình hình để không phụ lòng mong đợi của Nhân dân đối với Đảng; để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thật sự “là đạo đức, là văn minh”.
Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.
(Bài viết in trong sách: Nguyễn Phú Trọng:
Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
khó khăn nào cũng vượt qua,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2018, tr. 364-370).
17
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”
TRƯƠNG TẤN SANG1*
1. Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh và tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Xu thế lớn không thể đảo ngược là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển, song cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên... tiếp tục diễn ra ngày càng phức tạp. Trong điều kiện và đặc điểm đó, nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người, trong đó, nổi lên hàng đầu là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố... Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
* Khi viết bài này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (BT).
18
phát triển và tiến bộ xã hội đang diễn ra sôi động, tuy còn nhiều khó khăn, song đã có những bước tiến và dấu hiệu mới. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành đổi mới, cải cách, giành được những thành tựu mới, quan trọng, tiếp tục trụ vững và phát triển. Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và cánh tả đang có nhiều nỗ lực vượt qua thử thách để dần từng bước khôi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả vẫn gặp nhiều khó khăn gay gắt, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm mọi cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Trong đó, chiến lược “diễn biến hòa bình” được coi là biện pháp hữu hiệu hàng đầu, đã từng góp phần trực tiếp làm sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu những năm trước đây và đang tìm mọi cách tiếp tục hòng làm lung lay dẫn tới sụp đổ các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Trong bối cảnh và đặc điểm đó của tình hình quốc tế, chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc
19
cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đồng thời đề cao cảnh giác, kiên quyết và tỉnh táo đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta. Hai yêu cầu trên không tách rời và mâu thuẫn nhau, mà xuyên thấm vào nhau không chỉ trong tư duy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, mà cả trong toàn bộ hoạt động thực tiễn của chúng ta trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
2. Ngay từ khi còn thực hiện cuộc Chiến tranh lạnh, đối đầu về quân sự, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội đã sử dụng các biện pháp “diễn biến hòa bình” hỗ trợ cho phương thức vũ trang chống các nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó không phải do chúng ta gán ghép hay suy diễn mà thể hiện rõ trong các âm mưu chiến lược của chủ nghĩa đế quốc từ những năm 50 của thế kỷ XX. Chiến lược “phản ứng linh hoạt” với chính sách “mũi tên và cành ô liu” những năm 60, chiến lược “răn đe thực tế” với chính sách “cây gậy và củ cà rốt” những năm 70 của chủ nghĩa đế quốc đã được triển khai liên tục, ráo riết chống các nước xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, mất cảnh giác với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xuất hiện khá phổ biến ở các nước Đông Âu và Liên Xô thời kỳ này đã lấn át tư tưởng, ý chí cách mạng, quan điểm đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, từ đó, ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản
20
ngày càng mở rộng trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Bước vào những năm 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản, sau những năm điều chỉnh, đã đạt được sự ổn định và có bước phát triển. Trong khi đó, do sai lầm kéo dài về nhiều phương diện, nhiều nước xã hội chủ nghĩa bắt đầu lâm vào khủng hoảng, và khi thực hiện đường lối cải cách, cải tổ sai lầm, càng dẫn tới khủng hoảng trầm trọng hơn. Lợi dụng cơ hội này, chủ nghĩa đế quốc hoàn thiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, coi đó là chiến lược cơ bản để giành thắng lợi cuối cùng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Đến năm 1989, 1990, khi nội tình các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã bộc lộ toàn diện sự khủng hoảng trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, chủ nghĩa đế quốc đã dùng các thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ đánh đòn quyết định làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở các nước này.
Về bản chất, so với các chiến lược và mục tiêu trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống đến cùng chủ nghĩa xã hội là không thay đổi. Trong tình hình và thời cơ mới, chiến lược này chỉ thay đổi phương thức và thủ đoạn, đó là “chiến thắng không cần chiến tranh”, “không đánh mà thắng” hoặc “một cuộc cách mạng nhung”, “cách mạng sắc màu”, có nghĩa là, về bản chất sâu xa, họ vẫn tiến hành một cuộc chiến tranh, nhưng như họ đã từng tuyên bố, đó là
21
“một cuộc chiến tranh không có khói súng”. Điều đó có nghĩa là mục đích cuối cùng của chiến lược “diễn biến hòa bình” là xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Để đạt được điều đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định các mục tiêu cơ bản sau:
Một là, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin để thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản trong các nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà lý luận của chiến lược “diễn biến hòa bình” cho rằng, tư tưởng là lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu, vì vậy, mục tiêu phải đạt tới là tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương và coi đó là khâu đột phá của chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Hai là, xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng cộng sản, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong các nước xã hội chủ nghĩa. Luận điệu được sử dụng thường xuyên là đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo là “độc tài”, là “bóp nghẹt dân chủ”, vì thế phải thay thế bằng chế độ chính trị đa đảng! Từ đó, tìm mọi cách nhen nhóm các lực lượng phản động chống đối, cơ hội chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Ba là, gây bất ổn về chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn thường xuyên được sử dụng là lợi dụng, kích động những vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để gây mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ thì lôi kéo một bộ phận quần chúng vào các cuộc bạo loạn chính trị. Các thế lực thù địch bỏ ra nhiều công sức và cả tiền bạc để
22
lôi kéo, tập hợp “những người bất đồng chính kiến”, thực chất là những phần tử chống chủ nghĩa xã hội, phủ nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dùng họ làm “cơ sở”, “nội ứng” cho việc thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”.
Bốn là, làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế. Năm là, chuyển hóa văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo quỹ đạo và các giá trị phương Tây, từ đó làm biến đổi theo chiều hướng tiêu cực và tha hóa con người, dẫn tới biến chất cả một xã hội.
Sáu là, “phi chính trị hóa” để vô hiệu hóa quân đội và công an.
Những mục tiêu cơ bản trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và nếu để cho các thế lực thù địch thực hiện được thì điều không tránh khỏi là họ sẽ đạt mục đích cuối cùng là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Nhận rõ bản chất, mục đích trên của chiến lược “diễn biến hòa bình”, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã vạch trần: “thế lực chống chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc luôn chĩa mũi nhọn vào Đảng, tập trung sức phá hoại nền tảng tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thủ đoạn họ thường dùng là xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng..., thổi phồng sai lầm, khuyết điểm của Đảng, đòi thực hiện nhân quyền và dân chủ kiểu tư sản, đòi phi chính trị hóa bộ máy nhà nước, đòi đa nguyên, đa đảng nhằm tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ lợi dụng những kẻ cơ hội, phản bội về chính trị, hoặc thoái hóa
23
về phẩm chất đạo đức để chia rẽ, làm suy yếu, phá hoại Đảng từ bên trong”1.
Như vậy, rõ ràng là “diễn biến hòa bình” và cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong giai đoạn mới.
3. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, đưa các mối quan hệ quốc tế phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực và bản sắc dân tộc, tranh thủ sức mạnh thời đại để phát triển đất nước. Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đánh giá cao và chân thành cảm ơn các nước, các tổ chức quốc tế đã có sự phối hợp, hợp tác trong sáng, ngày càng có hiệu quả với Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Khẳng định nhất quán điều đó không hề mâu thuẫn với thái độ của chúng ta là chủ động ngăn chặn, giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế và kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của nước ta. Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” nằm trong nhiệm vụ lớn trên đây.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 74-75.
24
Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động coi Việt Nam là một trong những trọng điểm để chống phá. Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á, là ngọn cờ đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Không khuất phục được Nhân dân ta bằng vũ lực, bạo lực vì thất bại trong các cuộc chiến tranh xâm lược từ năm 1945 đến năm 1975, chủ nghĩa đế quốc, các thế lực phản động, thù địch thay đổi phương thức, thủ đoạn, dùng “diễn biến hòa bình” kết hợp bạo loạn lật đổ để chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, đất nước ta đã không sụp đổ theo, mà ngược lại, đã đổi mới thành công, vững bước tiến lên trong một thế giới đầy biến động phức tạp và khó lường. Điều đó đã làm thất vọng các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội và với đất nước, dân tộc ta. Về mặt địa lý, trong quan hệ quốc tế, Việt Nam có một vị trí hết sức quan trọng về địa - chính trị, địa - kinh tế và địa - quân sự. Do vị trí đó, sự tiếp tục tồn tại và phát triển của một nước xã hội chủ nghĩa và của một Đảng Cộng sản cầm quyền ở Đông Nam Á làm cho các lực lượng chống cộng, thù địch tìm mọi cách để chống phá hòng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chống phá, làm tan rã Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để thực hiện âm mưu trên, các thế lực thù địch đã và đang chống phá Việt Nam toàn diện trên tất cả các lĩnh
25
vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhằm chuyển hóa dần từ bên trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội, thực hiện “không đánh mà thắng”. Phải nhận rõ, không chút mơ hồ rằng, đó là âm mưu cơ bản, lâu dài, không thay đổi, phản ánh bản chất chống chủ nghĩa xã hội của các thế lực phản động, thù địch. Âm mưu đó được thể hiện trên các lĩnh vực cụ thể, lợi dụng các quan hệ quốc tế, hợp tác, hội nhập, giao lưu, hỗ trợ... để chống phá, lấy chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế làm mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, “tôn giáo”, “dân tộc”, “nhân quyền” làm ngòi nổ kết hợp với răn đe, gây bạo loạn lật đổ.
“Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị được các thế lực thù địch coi là trận tuyến hàng đầu trong chống phá ta. Xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi mục tiêu, định hướng xã hội chủ nghĩa trong đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước ta, tiến tới thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, thực chất là gây dựng các thế lực chống đối chính trị ngay trong lòng Việt Nam. Thời gian qua, các thế lực phản động, thù địch tìm mọi cách thực hiện âm mưu này hòng “phá vỡ thế đồng nhất một khối của Đảng Cộng sản Việt Nam” và “làm cho phân tán chế độ cộng sản Việt Nam thành nhiều trào lưu đối kháng nhau” như tuyên bố đầy tham vọng và ảo tưởng của một số kẻ phản động là người Việt sống lưu vong.
26
Trên lĩnh vực tư tưởng, các thế lực thù địch, phản động tập trung phản kích, phủ định nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là hoạt động mũi nhọn, đột phá để thực hiện ý đồ chiến lược làm chuyển hóa từ bên trong và bên trên của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Trong cuốn sách “1999 - chiến thắng không cần chiến tranh”, Níchxơn đã xác định: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”. Đánh phá vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nhằm phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng ta và của xã hội ta, tạo ra một “khoảng trống tư tưởng” trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta, từ đó tạo điều kiện thuận lợi du nhập hệ tư tưởng tư sản vào quần chúng, vào nội bộ ta.
Các thế lực thù địch, phản động tập trung mọi cố gắng để chứng minh sự “lỗi thời” của chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng còn vu cáo Đảng ta đã “đem chủ nghĩa Mác - Lênin áp dụng máy móc, gượng ép vào Việt Nam”, đồng thời quảng cáo cho mô hình “xã hội dân chủ” và khả năng đi theo “con đường thứ ba” phi xã hội chủ nghĩa, “đi dưới hai làn đạn”. Chúng nuôi dưỡng, kích động các khuynh hướng cơ hội, hữu khuynh, dao động... trong cán bộ, đảng viên và quần chúng để nhằm tạo ra sự phân hóa, phân liệt,
27
đối lập, xung đột trong đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của xã hội.
Các thế lực thù địch còn tuyên truyền xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, thân thế và sự nghiệp vĩ đại của Người, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cố tình cho rằng “con đường Bác Hồ đã chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội” và “không có ảnh hưởng của tư tưởng Mác - Lênin”. Gần đây, cùng với các âm mưu, thủ đoạn trên, chúng còn dựng chuyện bôi nhọ thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách trắng trợn, vô liêm sỉ.
Hiện nay, kẻ thù đang ráo riết chỉ đạo, phối hợp các lực lượng trong và ngoài nước tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động phản tuyên truyền, trắng trợn vu cáo, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng nhằm đổi trắng thay đen, lẫn lộn giữa công và tội, giữa người cách mạng và kẻ phản dân, hạ bệ thần tượng và các nhân vật lịch sử. Lợi dụng những vấn đề nhạy cảm làm ngòi nổ, các thế lực thù địch ra sức nêu vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, dân chủ để gây rối, phá hoại ổn định chính trị đất nước, tạo dựng các “nguyên cớ” trong các lĩnh vực này để gây rối, bạo loạn. Một số vụ việc xảy ra trong thời gian qua thể hiện rất rõ các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền... để thực hiện mưu đồ đen tối của chúng.
Để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch tìm mọi cách du nhập lối sống, đạo đức,
28
văn hóa tư sản vào nước ta, làm cho văn hóa của chúng ta đi chệch mục tiêu, lý tưởng yêu nước và chủ nghĩa xã hội, phá hoại, làm xói mòn nền tảng và các giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhằm tạo ra một thế hệ mất gốc, thích ăn chơi, thực dụng, vụ lợi, vị kỷ, đua đòi, hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển... Hiện nay, các lực lượng phản động bên trong và bên ngoài phối hợp chặt chẽ với nhau để đưa một số lượng lớn tài liệu, sách báo, tờ rơi, băng hình, băng nhạc có nội dung phản động, đồi trụy vào nước ta. Đặc biệt, trên mạng internet, chúng đưa nhiều thông tin sai lệch, bịa đặt, độc hại để nhiều người có thể truy cập, qua đó tác động rất xấu đến nhận thức, tình cảm, văn hóa, lối sống của một bộ phận cư dân mạng.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Sự hợp tác kinh tế bình đẳng, cùng có lợi của nhiều nước và nhiều tổ chức kinh tế quốc tế đã tạo thuận lợi và thời cơ cho sự phát triển kinh tế Việt Nam những năm qua. Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đánh giá cao và cảm ơn sự hợp tác đó. Cần phải khẳng định rõ ràng điều đó. Song, sự khẳng định đó không trái với một nhận định, đồng thời là một sự thật rằng, vẫn có những mưu đồ, ý định đen tối, lợi dụng các hoạt động kinh tế để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” một cách mềm dẻo, êm thấm nhưng rất thâm độc và nguy hiểm.
29
Thông qua các hoạt động đầu tư, liên doanh, liên kết, tài trợ... để từng bước làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường, làm biến đổi dần cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế nước ta theo hướng tư bản chủ nghĩa, làm cho kinh tế Việt Nam lệ thuộc dần vào các trung tâm kinh tế quốc tế, Nhà nước không kiểm soát, điều hành được nền kinh tế cũng là một ý đồ được các thế lực thù địch tìm nhiều cách để thực hiện trong thời gian qua. Phát triển kinh tế tư nhân như là một trong những động lực của nền kinh tế là cần thiết và đúng đắn, là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng lợi dụng chủ trương đó để thực hiện ý đồ chỉ chú trọng đầu tư, thúc đẩy kinh tế tư bản tư nhân phát triển và cố tình phủ định, tìm cách làm suy yếu, vô hiệu hóa, làm mất dần vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đưa nền kinh tế nước nhà phát triển chệch định hướng xã hội chủ nghĩa lại nằm trong âm mưu lâu dài của chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế đối với nước ta của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội. Cũng có những thế lực, thông qua các hoạt động kinh tế - hợp tác, đầu tư, liên kết, liên doanh, viện trợ... để đặt ra những điều kiện ràng buộc về chính trị, kể cả gây sức ép chính trị, từng bước can thiệp nội bộ và tạo sự chuyển hóa theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Cũng có một số cán bộ đã bị mua chuộc, lôi kéo, bị tha hóa dẫn tới biến chất về chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống do rơi vào cạm bẫy kinh tế của các thế lực phản động, thù địch.
30
Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống Việt Nam, các thế lực thù địch xác định lĩnh vực quốc phòng - an ninh và lực lượng vũ trang là một trong những mục tiêu trọng yếu phải tập trung làm suy yếu và phá hoại. Tham vọng ngông cuồng mà đầy ảo tưởng của họ là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lĩnh vực quốc phòng - an ninh và đối với lực lượng vũ trang. “Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang là mục tiêu lâu dài, xuyên suốt mà các thế lực thù địch tập trung phá hoại bằng nhiều thủ đoạn hết sức đa dạng, bí mật và thâm độc nhằm làm cho lực lượng vũ trang xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, mất phương hướng, không làm tròn vai trò là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh, đặc biệt trong những “thời điểm nóng” và bất ngờ.
Để phá hoại an ninh quốc gia, các thế lực phản động đã đồng thời sử dụng một nhóm kẻ phản động người Việt Nam ở nước ngoài móc nối với các tổ chức phản động trong nước, hỗ trợ, kích động các đối tượng cực đoan, phản động đội lốt tôn giáo, dân tộc nhằm phát triển lực lượng, chống phá chính quyền, đe dọa an ninh quốc gia, tổ chức hoạt động bạo loạn lật đổ.
Thực tiễn những năm qua đã chứng minh rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Đây là cuộc đấu tranh không có chiến tuyến, không có khói lửa, súng đạn, song rất quyết liệt, tinh vi
31
và ngày càng phức tạp. Kẻ thù âm mưu chống phá ngầm từ bên trong, từ bên trên, kết hợp tạo sự chuyển hóa cả bên trong và bên trên với bạo loạn lật đổ khi có thời cơ để xóa bỏ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Các phương tiện sử dụng của kẻ thù rất đa dạng, kết hợp giữa tuyên truyền theo kiểu “rỉ tai”, tâm lý chiến với việc sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật ngày càng hiện đại.
4. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” hiện nay và những năm sắp tới ở nước ta là một hình thái mới của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, phức tạp, tinh vi và lâu dài trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống... của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả dân tộc ta nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cần nhận thức dứt khoát, rõ ràng rằng, cuộc đấu tranh này không chỉ có ý nghĩa về mặt giai cấp mà còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt dân tộc. Tách rời hay đối lập hai nội dung đó sẽ dẫn tới sai lầm trong nhận thức, chỉ đạo và tổ chức đấu tranh. Giành thắng lợi trong chống “diễn biến hòa bình”, chúng ta mới có thể giữ vững được độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và giữ được chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, nếu lơ là, mất cảnh giác, nghi ngờ cho rằng, Đảng thổi phồng nguy cơ “diễn biến hòa bình, tự chuyển hóa, tự diễn biến” từ đó lẩn tránh, không
32
tích cực, thiếu chủ động đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch thì sự tồn tại của dân tộc, chủ quyền quốc gia và của chế độ bị đe dọa trực tiếp. Kết hợp chặt chẽ đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, chống bạo loạn lật đổ là quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà nước ta.
Trong cuộc đấu tranh này, vấn đề có ý nghĩa quyết định là xác định đường lối đúng trong chiến lược phát triển đất nước trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Đảng và Nhà nước không thể phạm sai lầm về đường lối, kiên quyết và tỉnh táo chống các khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, cả khuynh hướng hữu khuynh và tả khuynh. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ XI của Đảng sắp tới, sau khi được cán bộ, đảng viên và toàn thể Nhân dân góp ý, bổ sung và được Đại hội thảo luận, thông qua sẽ là quan điểm, đường lối có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Cần quán triệt sâu sắc, chỉ đạo sát sao, tổ chức thực hiện một cách kiên trì, khoa học và quyết liệt những nội dung trong các văn kiện trên. Đó là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Kinh tế đất nước phát triển nhanh và bền vững, chính trị ổn định, xã hội tốt đẹp, văn hóa tinh thần lành mạnh, quan hệ quốc tế mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao là điều kiện bảo đảm vững chắc làm thất bại các mưu đồ và thủ đoạn thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta của các thế lực thù địch.
33
Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, Đảng và Nhà nước ta khẳng định, cần tạo nên sức mạnh vô địch bằng cách phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quan điểm “sức mạnh tổng hợp” đã được thực hiện thành công trong đấu tranh cách mạng, trong chiến tranh bảo vệ và giải phóng Tổ quốc trước đây phải được phát huy cao độ và phát triển trong cuộc đấu tranh mới này. Mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức và mỗi người dân cần đề cao cảnh giác, coi cuộc đấu tranh này là nhiệm vụ chung, có trách nhiệm tham gia tự nguyện, tích cực, có hiệu quả để nhân lên sức mạnh chung của toàn dân tộc mạnh hơn hẳn sức mạnh chống phá của các thế lực thù địch.
Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo trên, trong hoạt động thực tiễn, cần quán triệt các phương châm cơ bản sau: Một là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với chủ động tiến công. Ngăn chặn, phòng ngừa từ xa, từ trước, đồng thời phải chủ động tiến công từ trong “trứng nước”, từ nơi xuất phát của các âm mưu, ý đồ, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, là phương châm đúng đắn, đã được thực tiễn kiểm nghiệm thời gian qua. Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy xây vững mạnh là chính, đồng thời coi việc chủ động, kiên quyết chống là quan trọng. Đó là hai mặt quan hệ chặt chẽ với nhau bảo đảm cho thắng lợi của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Kinh nghiệm thực tiễn
34
chỉ ra rằng, thời gian qua, nơi nào, tổ chức nào, đơn vị nào làm được điều đó sẽ tạo nên sức mạnh vững chắc, các thế lực thù địch không tìm được “kẽ hở”, điểm yếu để thực hiện âm mưu đen tối “diễn biến hòa bình”, để tạo ra sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Ba là, kiên trì và tỉnh táo giữ vững bên trong, làm thất bại tác động chuyển hóa từ bên ngoài, coi giữ vững bên trong có ý nghĩa quyết định, đồng thời làm thất bại tác động chuyển hóa từ bên ngoài là thường xuyên và quan trọng. Làm được điều này, những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch tác động từ bên ngoài sẽ không có kết quả, sẽ bị vô hiệu hóa. Đó là một bài học thực tiễn sâu sắc được đúc kết trong thời gian qua.
Chúng ta phải dựa vững chắc trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo để xây dựng mục tiêu, quyết định đường lối, chiến lược cách mạng. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cách mạng, là nguyện vọng, con đường và lẽ sống của Nhân dân ta, của cả dân tộc ta. Cần kiên trì làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân thấu hiểu và kiên định mục tiêu cao cả trên, từ đó cảnh giác đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị có tham vọng phủ định, xóa bỏ mục tiêu đó.
Triển khai cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận giữ vị trí cực kỳ quan trọng trong nhiệm vụ chống chiến lược
35
“diễn biến hòa bình” hiện nay. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục đổi mới là chủ trương, định hướng quan trọng của Đảng ta. Chúng ta lắng nghe, tiếp nhận có chọn lọc tất cả những tìm tòi khoa học về những vấn đề lý luận quan trọng phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế để phát triển đất nước và chấn hưng dân tộc. Đó là thái độ cầu thị thực sự của Đảng ta, không được biến nó thành thủ pháp, thành hình thức. Đồng thời, chúng ta cũng kiên quyết phản bác những quan điểm phản động, cố tình phủ định, xuyên tạc những quan điểm cốt lõi, có tính nguyên tắc mà Đảng ta đã tổng kết từ thực tiễn cách mạng, đặc biệt từ thực tiễn đổi mới 25 năm qua. Chúng ta cần tập hợp trí tuệ của cả dân tộc, trao đổi, thảo luận, tranh luận dân chủ, khoa học, thiện chí, tâm huyết để đi tới thống nhất và đồng thuận cao trên những vấn đề lý luận hệ trọng nhất của sự nghiệp cách mạng thời kỳ mới. Một loạt những vấn đề lớn trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng đang được toàn dân nghiên cứu, góp ý kiến. Đây là cơ hội lớn để Đảng ta lắng nghe, chắt lọc, tổng hợp, từ đó xây dựng được những văn kiện có giá trị quyết định trong chiến lược phát triển đất nước thời kỳ mới. Và đó sẽ là sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động, thù địch ở vào một thời điểm rất quan trọng hiện nay - đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XI của Đảng sắp tới.
36
Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới, của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Chúng ta đã làm được nhiều việc lớn, có tác dụng tích cực, song phải thừa nhận rằng, trong lĩnh vực rất hệ trọng này, còn nhiều việc phải làm để hiện thực hóa yêu cầu thực hành dân chủ trong Đảng và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thời gian tới, cần kiên quyết chỉ đạo việc thể chế hóa các quan điểm của Đảng về vấn đề dân chủ, quyền làm chủ, quyền phản biện của Nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng; làm rõ hơn nữa, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Nghiên cứu, kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng toàn diện của hệ thống đó, bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc cao nhất là tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân trên cơ sở Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý.
Từ những định hướng trên, tất cả các cấp, các ngành, dưới sự chỉ đạo của cấp ủy đảng, cần triển khai đồng bộ, thường xuyên cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực cụ thể: chính trị, tư tưởng, lý luận, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, ngoại giao... từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Cần chú trọng tính đặc thù trong từng lĩnh vực để lựa chọn, xác định nội dung, phương thức, phương pháp đấu tranh thích hợp,
37
hiệu quả cao. Cần đặc biệt quan tâm, có kế hoạch xây dựng lực lượng nòng cốt trực tiếp tham gia đấu tranh, triển khai đấu tranh có lý, có tình, nâng cao sức thuyết phục, sự cảm hóa và tính khoa học trong đấu tranh trên từng lĩnh vực cụ thể.
Nhân tố quyết định, nội dung và giải pháp đặc biệt quan trọng mà Đảng cần tiếp tục triển khai là tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng với những yêu cầu và phương thức mới, phù hợp với thời kỳ mới, đặc biệt sau Đại hội XI của Đảng. Cuộc vận động mang ý nghĩa cực kỳ sâu sắc này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của Đảng, ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, phòng, chống căn bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang có nguy cơ làm suy yếu uy tín của Đảng, niềm tin của Nhân dân ta đối với Đảng và sự tồn vong của chế độ. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin, uy tín của Đảng trong lòng Nhân dân, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng là câu trả lời đầy sức thuyết phục chống lại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Đảng ta, chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Nhân dân ta.
(Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản
số 816 tháng 10 năm 2010).
38
SUY THOÁI VỀ CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG - TỔ CHỨC - ĐẠO ĐỨC - LỐI SỐNG
LÀ SUY THOÁI VỀ VĂN HÓA
LÊ KHẢ PHIÊU1*
Trên thế giới, người ta nói có đến vài trăm định nghĩa về văn hóa, nhưng tựu trung lại: Văn hóa là tất cả những gì mà loài người sáng tạo, phát minh vì mục đích phục vụ con người và xã hội loài người từ buổi sơ khai đến thời hiện đại.
Văn hóa là vấn đề rộng lớn, lâu dài.
Từ khi Đảng ta bước vào vũ đài cách mạng qua các thời kỳ: chưa giành được chính quyền, Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến chống Pháp thắng lợi, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nửa đất nước, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân, giành độc lập thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, Đảng (Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trung ương và Đại hội Đảng) đều có nghị quyết từng phần về văn hóa. Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII
* Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (BT).
39
đã ra nghị quyết riêng về văn hóa. Khóa IX, khóa X đều có bổ sung và phát triển.
Tôi nghĩ: Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến xây dựng chủ nghĩa xã hội, văn hóa không đứng riêng lẻ, không đứng ngoài bốn vấn đề quan trọng, như Bác Hồ đã nói: Chính trị - kinh tế - xã hội - văn hóa.
Dù trong từng bước, từng giai đoạn, dù đặt ra và giải quyết trong phạm vi hẹp (văn học - nghệ thuật) thì văn hóa, văn học - nghệ thuật vẫn luôn gắn kết với chính trị và kinh tế mà chính trị, kinh tế ở đây là chính trị, kinh tế do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng thì chính trị cách mạng thúc đẩy văn hóa cách mạng phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội kết hợp chặt chẽ với nhau, thúc đẩy và làm tiền đề cho nhau phát triển bền vững.
Cuộc hội thảo này lại trùng vào dịp Trung ương đang chuẩn bị đề án “Một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng đảng hiện nay”.
Đảng ta hiện nay có một bộ phận không nhỏ suy thoái về chính trị, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa không phát triển lành mạnh được, kinh tế phát triển không vững chắc. Tư tưởng, đạo đức xuống cấp thì phải xem việc thực hiện đường lối chính trị, đường lối kinh tế có vấn đề gì? Kinh tế - văn hóa - xã hội không được tách rời nhau và phải gắn bó khăng khít với nhau.
Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII họp ngày 06/7/1998 khẳng định, nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là
40
một thành tố của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa mới, nền văn hóa dân tộc và xã hội chủ nghĩa không chỉ có đạo đức, lối sống mà bao gồm cả lý luận, tư tưởng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hóa lâu đời của 54 dân tộc Việt Nam.
Khi nói về văn hóa (tức nói đến con người), con người mà chúng ta xây dựng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “con người mới - xã hội chủ nghĩa”, chất dân tộc, chất xã hội chủ nghĩa quyện chặt vào nhau, “dân tộc - xã hội chủ nghĩa”.
“Đảng ta là đạo đức, là văn minh”1. Tình hình hiện nay ở một bộ phận không nhỏ trong Đảng đang có sự suy thoái về chính trị - tư tưởng - tổ chức - lối sống, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đó là suy thoái văn hóa. Suy thoái về văn hóa là trách nhiệm của đảng cầm quyền thì Đảng - Nhà nước phải tự giải quyết cho chính mình (Hội nghị Trung ương 4 khóa XI phải nhìn thẳng vấn đề đó).
Những biểu hiện suy thoái về chính trị, suy thoái về văn hóa, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa có ở cấp chiến lược.
Cần thấy hết trách nhiệm từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, các ban, ngành Trung ương đến cấp ủy, cơ quan địa phương, các cơ quan liên quan đến mặt trận văn hóa. Nhất là nhận thức không đầy đủ về vị trí,
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr. 403.
41
tầm quan trọng của văn hóa, sự thiếu gương mẫu về tư tưởng, đạo đức, lối sống của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức có quyền làm suy giảm niềm tin của Nhân dân, tạo cơ sở cho những hoạt động phản văn hóa phát triển.
Muốn giải quyết những biểu hiện tiêu cực đang diễn ra cả trong Đảng, cả trong xã hội thì Đảng phải nghiêm túc đánh giá đúng thực trạng và nghiêm túc tự giải quyết một cách triệt để. Đồng thời, các cơ quan, các hội trực tiếp phụ trách lĩnh vực văn hóa phải nỗ lực, nghiêm túc xem xét trách nhiệm đối với chính bản thân mình, ngành mình về những tiêu cực trong lãnh đạo và quản lý văn hóa vừa qua và hiện nay. Tất nhiên thành tựu mà chúng ta xây dựng về văn hóa không phải là nhỏ, mà rất vĩ đại.
Xin nói lại câu của Bác Hồ: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi”1. Nói như vậy là văn hóa cách mạng kết tinh những điều tốt đẹp của chính trị cách mạng, chính trị cách mạng phản ánh sâu sắc những tinh túy cao cả của văn hóa cách mạng.
Đề nghị hội thảo cũng nên dành thời gian thỏa đáng, có sự trao đổi đi lại với chất lượng cao, tinh thần tự phê bình và phê bình thẳng thắn, chân tình mới có tác dụng thực chất.
(Bài đăng trên Báo Văn nghệ
số 52 năm 2011).
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.XXV.
42
PHÒNG VÀ CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ: NHIỆM VỤ THEN CHỐT TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
GS. NGND. NGUYỄN ĐỨC BÌNH1*
Chống “diễn biến hòa bình” thường được nói nhiều, làm nhiều, nay vẫn phải tiếp tục không một phút lơ là. Trong khi đó, chống “tự diễn biến” thì còn ít được nói đến, nay cần quan tâm và tích cực đặt vấn đề.
1. Trước hết phải làm rõ thế nào là “tự diễn biến”; phải nhận diện cho được các hiện tượng, hình thái tự diễn biến. Có sự khác nhau căn bản giữa “tự diễn biến” và “diễn biến hòa bình”. “Diễn biến hòa bình” thể hiện quan hệ địch - ta. Còn “tự diễn biến” là nói về ta, nói tự trong ta. Hai cuộc chống ấy có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất, đem đồng nhất là sai lầm. Để “không đánh mà thắng”, cùng với những thủ đoạn đặc biệt tinh vi, kẻ thù đế quốc, thực dân không trông mong gì hơn
* Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
43
bên trong hàng ngũ chúng ta có sự “tự diễn biến”. “Tự diễn biến”, về khách quan, là nhịp cầu cho “diễn biến hòa bình” từ bên ngoài.
“Tự diễn biến” là nói nhận thức tư tưởng từ mặt đúng, mặt tốt, mặt vững vàng, trung kiên chuyển hóa thành mặt xấu; dù chưa phải nhưng nếu không phòng, có thể dần trở thành chống đối và bị kẻ thù lợi dụng.
“Tự diễn biến” có thể có trong Đảng, trong hệ thống chính trị, trong xã hội. Nhưng nguy hiểm nhất, cần tập trung phòng, chống là nguy cơ “tự diễn biến” trong Đảng và bài viết này chủ yếu đề cập trong Đảng. “Tự diễn biến” có thể có trong đảng viên, công chức, nhưng chủ yếu và nguy hiểm hơn cả là trong cán bộ, nhất là cán bộ có chức, có quyền, cán bộ trung, cao cấp, cán bộ lãnh đạo, quản lý chiến lược, vĩ mô.
Với nguy cơ “tự diễn biến”, phải có phòng, có chống nhưng phòng là quan trọng nhất. Phòng tốt, có hiệu quả đã có nghĩa là chống. Phòng thật tốt, hiệu quả thật tốt thì khỏi phải chống. Tích cực phòng chính là chống.
“Tự diễn biến” có thể xảy ra trên các mặt tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Quan trọng nhất là phải phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị. Song không coi nhẹ mặt đạo đức, lối sống. Sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống có thể dẫn đến tha hóa về tư tưởng chính trị.
Hiện tượng “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị rất không đơn giản, cần được phân tích, nhận diện chính xác.
44
Đánh giá không chính xác thì có thể đẩy người của ta sang phía địch, rất nguy hiểm. Ví dụ: Đối với quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hễ ai không tin tưởng, không tán thành, có ý kiến phản biện, đã vội cho là “tự diễn biến” thì không đúng. Đối với cấp lãnh đạo, hễ ai không tin tưởng, không tán thành đã vội cho là “tự diễn biến” cũng không đúng. Vấn đề là phải hiểu thật rõ nguyên nhân và nguyên nhân từ nhiều phía. Mấu chốt để nói “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị là ở hệ quan điểm, tư tưởng bị tha hóa, chuyển sang lập trường khác với lập trường tư tưởng chính trị của Đảng, với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cần phân biệt, không đánh đồng lập trường chính trị với nhận thức tư tưởng, nhận thức lý luận. Nhiều khi do nhận thức chưa sâu sắc, toàn diện mà phạm sai lầm về chính trị thì không nên vội chính trị hóa và quy kết là “tự diễn biến”. Đương nhiên, nhận thức tư tưởng, lý luận sai lầm, nhất là sai lầm có ý thức, có hệ thống nhiều khi là khởi điểm dẫn đến sai lầm về chính trị. “Tự diễn biến” có quá trình chuyển hóa dần dần, không phải ngay một lúc. Có khi trong quá trình tự tha hóa, do điều kiện tác động nhất định, như qua tự phê bình và phê bình, qua đấu tranh, lại có thể quay về cái đúng, tự mình là mình. Cho nên, đánh giá “tự diễn biến” và nguy cơ “tự diễn biến” phải hết sức cẩn trọng, lưu ý chính xác các giới hạn, một ly cũng không thể sai lầm.
45
2. Về các giải pháp phòng và chống nguy cơ “tự diễn biến”
Trước hết phải phòng thật tốt, có hiệu quả thì đó chính là chống.
Biện pháp cơ bản hàng đầu là thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII chỉnh đốn Đảng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, là giáo dục và mỗi người tự giáo dục, là tự phê bình và phê bình.
V.I. Lênin đã đưa ra luận điểm: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”1. Trường hợp Goócbachốp, Iacôplép, Sêvácnátgie... những thủ phạm chính của “cải tổ” với cái gọi là “tư duy chính trị mới” làm sụp đổ Liên Xô cuối năm 1990 là minh chứng hùng hồn nhất cho luận điểm vô cùng sáng suốt của V.I. Lênin.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngay từ năm 1927, khi chuẩn bị thành lập Đảng đã nói trong tác phẩm Đường cách mệnh: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.42, tr. 311.
46
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”1.
Vấn đề tư tưởng quan trọng nhất hiện nay trong đội ngũ cán bộ, thậm chí ở một số cán bộ không phải ở cấp thấp là niềm tin. Phải thẳng thắn thừa nhận trong Đảng ta hiện nay, ở một bộ phận không nhỏ, có sự khủng hoảng niềm tin. Đó là hiện tượng dao động về lý tưởng cách mạng, suy giảm niềm tin ở chủ nghĩa Mác - Lênin, ở chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ở sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước. Đó là một chỉ báo quan trọng, nếu không sớm được khắc phục, có thể dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến” lớn.
Biện pháp quan trọng nhất là giáo dục tư tưởng chính trị, lý luận. Trên mặt này, lâu nay chúng ta làm không ít nhưng chất lượng, nội dung, kết quả thấp. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về chỉnh đốn Đảng nêu trước hết phải khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, nhưng đã nhiều năm rồi vấn đề này không được quan tâm. Kiểm điểm phê bình ai cũng nói mình lập trường tư tưởng vững vàng, trung thành, kiên định. Công tác tư tưởng qua nói và viết, báo chí, xuất bản và giảng dạy rất coi nhẹ phê phán và đấu tranh, trong khi có không ít sai trái, lệch lạc ngay trên sách, báo và phát biểu đây đó. Có cái khó là, ở nước ta hiện nay, tuy có nhiều thành
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr. 289.
47
tựu lớn, nhưng cũng đang phải đối mặt trước nhiều khó khăn, thách thức trong khi cả thế giới đang khủng hoảng về lý luận, chủ nghĩa xã hội đang gặp thoái trào và lịch sử thế giới đang trải qua bước quanh co, tình hình đầy phức tạp, khó lường. Hoạt động tư tưởng, lý luận của chúng ta trong hoàn cảnh như vậy không phải dễ. Song, để làm tròn nhiệm vụ tiền phong, Đảng ta mà trước hết là cơ quan lãnh đạo và đội ngũ cán bộ cao, trung cấp của Đảng phải nâng cao và nâng cao nhanh trình độ trí tuệ và lý luận chính trị. Cần đặt kỷ luật “tự học”, “học nữa”. Đồng thời, các trường lớp lý luận chính trị phải đặc biệt nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Công tác tổ chức cán bộ cũng là biện pháp hàng đầu. Tuyển chọn sai con người thì khả năng “tự diễn biến” về sau là khó tránh khỏi. Đương nhiên sẽ có sự giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện sau tuyển chọn, nhưng nếu ngay từ đầu tư tưởng, đạo đức, phẩm chất đã không tốt thì cũng khó tránh hậu quả về sau. Liên Xô sụp đổ để lại nhiều bài học phản diện, trong đó có kinh nghiệm lớn cả về tư tưởng lý luận, cả về công tác tổ chức cán bộ dẫn đến “tự diễn biến”.
Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên không chỉ về lý luận, tư tưởng chính trị mà phải rất coi trọng cả mặt phẩm chất, đạo đức. Bác Hồ dạy: “... Vị công vong tư... Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất...” 1. Nguy cơ đối với Đảng cầm quyền không
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr. 280.
48
những là bệnh quan liêu, hách dịch, vênh váo lên mặt “quan cách mệnh” mà cả các thói hư tật xấu khác rất dễ nảy sinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là trong những người có chức, có quyền như bệnh địa vị, công thần, cục bộ, địa phương, bè phái,... Bác nói: “Có những đồng chí lo ăn ngon mặc đẹp, lo chiếm của công làm của tư, lợi dụng địa vị và công tác của mình mà buôn bán phát tài, lo việc riêng hơn việc công”1. Bác gọi các thứ bệnh ấy là “giặc nội xâm” mà chung quy tất cả đều từ chủ nghĩa cá nhân mà ra, vì vậy phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”2.
Đoàn kết nhất trí trong Đảng là điều kiện cực kỳ cần thiết và quan trọng để phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”. Xin ghi lại trọn vẹn luận điểm của V.I. Lênin đã dẫn ở trên: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ “nếu” này. Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”3...
Hiện nay, tình trạng mất đoàn kết khá phổ biến trong Đảng: mất đoàn kết trong các cấp ủy, cấp lãnh đạo, quản lý hệ thống chính trị. Có nơi nghiêm trọng, có nơi âm ỉ,
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 90.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 622.
3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr. 311.
49
nhưng mất đoàn kết có thể là mảnh đất dẫn đến hoặc có lợi cho nguy cơ “tự diễn biến”. Đặc biệt phải chú ý trong nguyên nhân mất đoàn kết có nhân tố “tự diễn biến” ở số người nào đó. Và cũng cần phân biệt mất đoàn kết với những ý kiến khác nhau thông thường. Trước thực tiễn và những vấn đề phức tạp hiện nay trên thế giới và trong quá trình phát triển đất nước, có nhiều nhận thức và ý kiến khác nhau là điều khó tránh khỏi. Nếu ai đó có dấu hiệu dao động, hoài nghi, ngả nghiêng thì cũng dễ hiểu. Phải cùng nhau thảo luận, tranh luận nội bộ để đạt tới nhất trí, điều đó rất cần thiết. Không nên ngại tranh luận. Không bình thường là mất đoàn kết đến mức chia rẽ. Chia rẽ trên lĩnh vực không thật quan trọng thì không sao, nhưng nếu chia rẽ trên những vấn đề cơ bản về hệ tư tưởng chính trị và lý luận nền tảng thì nhất định phải cố gắng giải quyết kỳ được. Thiếu nhất trí, mất đoàn kết ở phạm vi cục bộ đã phải kiên quyết khắc phục. Còn thiếu nhất trí đến mức chia rẽ ở tầm vĩ mô thì nhất thiết phải triệt để giải quyết theo Cương lĩnh, đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đảng ta dứt khoát không để xảy ra tình hình đó.
Tăng cường kiểm tra, giám sát là không thể thiếu. Không để xảy ra tình trạng bùng nổ mới đặt vấn đề. Phải phòng cho được nguy cơ khi mới là dấu hiệu mầm mống, khả năng. Tất nhiên công tác kiểm tra, giám sát phải hết sức cụ thể, khách quan, thận trọng, đánh giá thật
50
chính xác, không bỏ qua mọi sự việc liên quan nhưng không thổi phồng tình hình và nguyên nhân thành to chuyện. Khi thật sự xảy ra mất đoàn kết, nhất là đến mức chia rẽ bè phái thì nhất định phải xử lý kiên quyết và xử lý từ nhiều phía đối với cá nhân, nhóm, tổ chức. Cần thực hiện đúng lời dạy của Bác Hồ: “Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”1.
Thực tiễn hơn 80 năm qua, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên bao kỳ tích lịch sử. Trên chính trường Việt Nam, Đảng ta có thế mạnh tuyệt đối từ bề dày lịch sử và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng. Đảng ta mạnh nhờ có đường lối duy nhất đúng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi ở nước ta không có và không thể có đất cho một đường lối chính trị nào khác tốt hơn được Nhân dân chấp nhận ngoài đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khách quan lịch sử mà nói, một đường lối khác, chẳng hạn đường lối xã hội dân chủ ai đó đang mơ tưởng, dù có tô vẽ, ngụy trang thế nào đi nữa thì rốt cuộc vẫn không gì khác là một đường lối đưa dân tộc ta đi vào con đường tư bản hoang
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 290.
51
dã tồi tệ, cuối cùng không tránh khỏi trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc vào các thế lực đế quốc, phản động, thực dân kiểu mới.
Nhận thức chính trị đúng đắn và khoa học đó là cơ sở niềm tin vững chắc của toàn Đảng, toàn dân ta giúp bảo đảm thắng lợi trong việc phòng và chống nguy cơ “tự diễn biến”.
(Bài đăng trong cuốn Chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 560-568).
52
CUỘC ĐẤU TRANH TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG TA
GS.TS. LÊ HỮU NGHĨA1*
Tư tưởng chính trị là sự phản ánh trực tiếp các quan hệ chính trị của đời sống xã hội. Đây là một lĩnh vực rất quan trọng vì nó liên quan đến nền tảng tư tưởng của Đảng, đến lý luận chính trị, niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào Đảng, vào chế độ, đến sự đoàn kết trong Đảng và đồng thuận xã hội. Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị là một nội dung quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp, một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đến sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy, phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị để chống lại các quan điểm sai trái,
* Khi viết bài này là nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương (BT).
53
thù địch, âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc.
1. Trong những năm đổi mới, các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.
Các thế lực thù địch sử dụng các thủ đoạn tinh vi, thâm độc thông qua hàng trăm cơ quan báo chí, xuất bản ở nước ngoài, móc nối với các phần tử cơ hội chính trị ở trong nước; thông qua con đường ngoại giao, hợp tác kinh tế, đầu tư... để tác động chuyển hóa nước ta theo quỹ đạo của Mỹ, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, hòng làm mất ổn định chính trị, xã hội, tạo cớ can thiệp chống phá cách mạng nước ta.
Các thế lực thù địch lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót, yếu kém trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước cũng như những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên để gây ra những dao động về tư tưởng, mất lòng tin, thiếu đồng thuận trong Nhân dân, kích động, chia rẽ nội bộ để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, hình thành các tổ chức phản động trong nước.
Chúng dùng mọi biện pháp để đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng gây hoang mang, dao động về
54
hệ tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Chúng tiếp tục xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, cùng lắm là đầu thế kỷ XX, chỉ thích hợp với nền văn minh công nghiệp, văn minh ống khói, còn bây giờ sang thế kỷ XXI - thời đại văn minh tin học, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa nên đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua hoặc cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với các nước Tây Âu, không thích hợp với các nước lạc hậu như Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là sản phẩm của thực tiễn Việt Nam, du nhập vào là “một sai lầm của lịch sử”, “đã kìm hãm sự phát triển của đất nước” hoặc cho rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu chứng tỏ “chủ nghĩa Mác - Lênin là sai lầm, sai lầm từ trong bản chất chứ không phải do nhận thức và vận dụng sai”.
Các thế lực thù địch còn đẩy mạnh tuyên truyền, ca ngợi chủ nghĩa tư bản, cổ súy cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, chúng cho rằng chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội cuối cùng của lịch sử loài người, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là một xã hội áp bức, bóc lột nữa. Đồng thời, chúng coi con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta lựa chọn là “mù mờ”, “thiên đường mù”, “không tưởng”, “không rõ chủ nghĩa xã hội là gì mà dám lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa” hoặc cho rằng “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn dân giàu, nước mạnh” (!). Họ tách rời
55
và đối lập độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, thậm chí cho rằng “xưa kia trong chế độ phong kiến làm gì có chủ nghĩa xã hội đâu mà cha ông ta vẫn giữ vững được độc lập dân tộc” (!)... Đồng thời, chúng còn xuyên tạc, bôi nhọ tư tưởng, đạo đức, tác phong, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng viết sách, báo, sản xuất băng, đĩa hình có nội dung xấu tuyên truyền, xuyên tạc “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”. Họ đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, coi Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là người cộng sản.
Chúng xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”. Hằng năm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có “Báo cáo tình hình nhân quyền” để phán xét tình hình nhân quyền của các nước, trong đó có Việt Nam, cố tình lờ đi tình trạng vi phạm nhân quyền ở nước Mỹ. Thậm chí, họ còn đe dọa đưa nước ta trở lại Danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo (CPC); can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, đòi chúng ta phải thả những tên tội phạm phản quốc, khủng bố, chống Nhà nước ta mà họ gọi là “những tù nhân lương tâm”. Họ còn tài trợ cho các lực lượng chống đối trong tôn giáo và người đi khiếu kiện; tổ chức đình công, bãi công, kích động biểu tình trong giáo dân, người dân tộc thiểu số, sinh viên, học sinh.
Các thế lực thù địch muốn truyền bá lối sống thực dụng, văn hóa phẩm đồi trụy, khuếch trương các quyền
56
tự do, dân chủ trên lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ núp dưới chiêu bài tự do ngôn luận, tự do sáng tác, quyền thông tin; móc nối với những phần tử bất mãn, chống đối trong nước, lợi dụng những sơ hở, yếu kém của ta trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, tung ra những tác phẩm báo chí, văn học nghệ thuật để xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, nói xấu, vu cáo, bôi nhọ chế độ.
Ý đồ lâu dài, không thay đổi của các thế lực thù địch là muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thông qua việc truyền bá những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch, lối sống lai căng vào lớp trẻ, vào một bộ phận cán bộ, đảng viên, dần dần từng bước thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta để đi đến chuyển hóa Đảng, chuyển hóa chế độ và cuối cùng là thực hiện mục tiêu như cựu Tổng thống Mỹ R. Níchxơn đã mong muốn là “chiến thắng không cần chiến tranh”.
Những tác động của âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, trong đó có những tư tưởng, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch đến cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước mà bên cạnh mặt thuận lợi đang có nhiều khó khăn, thách thức đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Chủ nghĩa tư bản còn tồn tại lâu dài, hiện tại còn tiềm năng phát triển, nhất là về kinh tế, đứng đầu là Mỹ đang chi phối trật tự thế giới. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở
57
Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào đã tác động mạnh đến niềm tin, lý tưởng của nhiều cán bộ, đảng viên. Tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng và phức tạp với nhiều xu thế và đặc điểm mới, nhiều vấn đề mới nảy sinh.
Ở trong nước, chúng ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường. Bên cạnh mặt tích cực, kinh tế thị trường cũng tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, nó kích thích chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng phát triển, coi vật chất là tất cả mà xem thường đạo lý, phai nhạt lý tưởng, tình đồng chí, làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm tăng phân hóa giàu, nghèo, khuyến khích lối sống hưởng thụ ích kỷ, không có tình nghĩa. Trong bối cảnh đó, nếu cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, thiếu tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên, thì rất dễ dao động về lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, dễ sa ngã bởi những cám dỗ vật chất tầm thường, rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân. Hiện nay, tình trạng nhạt Đảng, nhạt chính trị, nhạt chủ nghĩa xã hội đang diễn ra và có xu hướng tăng lên.
2. Nhận thức rõ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong các văn kiện đại hội ở thời kỳ đổi mới,
58
Đảng đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng. Văn kiện Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”1. Như vậy, đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một chủ trương nhất quán của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.
Để thực hiện chủ trương đó, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, nhiều chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng như: Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. Để thực hiện chủ trương của Trung ương, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17/4/2009 về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 257.
59
trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, Ban Bí thư và Chính phủ đã lập ra một số ban chỉ đạo như: Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Ban Chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương 94, Ban Chỉ đạo 609. Các ban chỉ đạo này trở thành đầu mối chỉ đạo cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trong từng thời kỳ, đầu mối cung cấp thông tin, phối hợp các lực lượng từ các cơ quan nghiên cứu, giáo dục lý luận, các cơ quan tuyên giáo đến các cơ quan quốc phòng, an ninh, đối ngoại, các cấp ủy, các cơ quan báo chí, truyền hình. Thông qua cuộc đấu tranh đó, góp phần giúp cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân ta cũng như kiều bào ở nước ngoài và bạn bè quốc tế hiểu được tính đúng đắn, chính nghĩa trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, phản bác kịp thời những luận điệu vu khống, xuyên tạc của các thế lực thù địch, làm rõ đúng, sai, góp phần giáo dục, nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đồng thời có biện pháp đấu tranh, ngăn chặn, từng bước đẩy lùi các hoạt động chống phá của chúng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thành tựu của công cuộc đổi mới, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị tư tưởng nhằm chống những quan điểm sai trái, thù địch, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
60
trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được tình hình và nhiệm vụ đặt ra. Cụ thể là:
- Còn không ít cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và Nhân dân chưa nhận thức đúng tính chất nguy hiểm của âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, những quan điểm sai trái, thù địch đi ngược lại đường lối của Đảng, làm ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, chưa nhận thức rõ tác hại của “tự diễn biến” trong nội bộ đang có xu hướng tăng lên, nguy cơ đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta. Nhiều cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên không thấy rõ trách nhiệm phải tham gia vào cuộc đấu tranh này, như người đứng ngoài cuộc, thậm chí có người còn phụ họa theo những quan điểm sai trái.
- Chất lượng và hiệu quả đấu tranh còn thấp. Tính chiến đấu chưa cao, tính lôgíc chặt chẽ trong lập luận còn thiếu, nhiều khi phê phán theo kiểu áp đặt, “nói lấy được” nên tính thuyết phục còn hạn chế. Tác động làm thay đổi nhận thức, củng cố niềm tin, lý tưởng trong cán bộ, đảng viên chưa rộng và chưa sâu. Thiếu những hình thức, biện pháp cụ thể, có sức thuyết phục để xây dựng, củng cố niềm tin, phản bác những quan điểm sai trái, giải đáp những băn khoăn, vướng mắc, những vấn đề phức tạp và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong quá trình đổi mới. Công tác lý luận còn yếu kém, bất cập nên chưa tạo được cơ sở khoa học vững chắc cho
61
đấu tranh tư tưởng, lý luận có hiệu quả. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng còn chung chung, sáo mòn, kém hiệu quả, trong khi sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang có chiều hướng tăng lên càng làm cho sức đề kháng về tư tưởng chính trị của Đảng giảm sút, dễ bị tiêm nhiễm bởi những quan điểm sai trái, thù địch và là môi trường cho số cơ hội chính trị lợi dụng khoét sâu để đả kích Đảng, chế độ.
- Do chưa dự báo được những vấn đề mới nảy sinh, kể cả sự xuất hiện những quan điểm sai trái nên chúng ta còn thiếu chủ động, thiếu chuẩn bị trong đấu tranh phê phán. Chúng ta có cả một hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, có đầy đủ thế và lực nhưng thường phản ứng chậm, không kịp thời trước các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh, phê phán chưa chặt chẽ, đồng bộ nên không phát huy được sức mạnh tổng hợp của cuộc đấu tranh.
3. Trong những năm sắp tới, tình hình thế giới sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường và sẽ tác động đến nước ta; tình hình tranh chấp chủ quyền biển, đảo ở Biển Đông tiếp tục diễn ra, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu sẽ càng làm nảy sinh nhiều vấn đề mới; những khó khăn, yếu kém của nền kinh tế do điểm xuất phát thấp cộng với lạm phát, suy giảm kinh tế không thể khắc phục được một sớm một chiều; sự suy thoái về tư tưởng
62
chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa ngăn chặn, đẩy lùi được; các thế lực thù địch vẫn ráo riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị nhằm chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chắc chắn sẽ còn diễn ra quyết liệt. Vì vậy, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, mọi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch, coi nhiệm vụ đấu tranh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của mỗi người. Cần phản bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh chống các luận điệu phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vạch trần thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém của Đảng, Nhà nước ta trong công tác xây dựng Đảng, trong quản lý kinh tế, xã hội nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, trong cuộc đấu tranh này phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không dao động trong bất cứ tình huống nào; tiếp tục đường lối đổi mới,
63
chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.
Làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; không để xảy ra những thiếu sót, khuyết điểm trong quản lý kinh tế - xã hội mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng (như vụ đất đai ở Tiên Lãng (Hải Phòng), Văn Giang (Hưng Yên), Vinashin, Vinalines...).
Nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính chủ động, tính thuyết phục, tính hiệu quả của công cuộc đấu tranh. Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trong các giải pháp đấu tranh, tạo ra sức tự đề kháng trước những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, giữa Trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các binh chủng trên mặt trận tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống hoạt động “diễn biến hòa bình”. Đồng thời, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận mới có thể làm tốt nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng - lý luận, nâng cao được chiều sâu, tính sắc bén, tính thuyết phục của sự phê phán. Cần nghiên cứu một cách có hệ thống những luận điệu sai trái,
64
thù địch để có luận chứng bác bỏ mang tính thuyết phục từng luận điểm. Phải coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận, các chuyên gia về lý luận như là đội quân tinh nhuệ của hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận.
(Bài đăng trên Tạp chí Công an nhân dân
tháng 10 năm 2012).
65
LUẬN BÀN VỀ KHÁI NIỆM
“TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TS. PHẠM CHIẾN KHU*1
Để phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, trước hết chúng ta cần có sự thống nhất về định nghĩa, hay nói cách khác, có cách hiểu thống nhất về bản chất của hiện tượng này. Đây là vấn đề còn chưa được làm rõ trong các văn kiện của Đảng.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ thế nào là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cho đến nay còn quá ít. Mặt khác, ngay trong các nghiên cứu, đã có quan điểm của các học giả về vấn đề này cũng còn chưa thật thỏa đáng và thiếu thống nhất.
Ví dụ, có ý kiến cho rằng: “Tự diễn biến” là nói nhận thức tư tưởng từ mặt đúng, mặt tốt, mặt vững vàng, trung kiên chuyển hóa thành mặt xấu; dù chưa phải nhưng nếu không phòng có thể dần trở thành chống đối và bị kẻ thù lợi dụng. Có sự khác nhau căn bản giữa “tự diễn biến” và “diễn biến hòa bình”. “Diễn biến hòa bình”
* Khi viết bài này là Viện trưởng Viện Nghiên cứu dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương (BT).
66
thể hiện quan hệ địch - ta. Còn “tự diễn biến” là nói về ta, nói tự trong ta. Hai cuộc chống ấy có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất, đem đồng nhất là rất sai lầm1.
Theo quan điểm khác, “tự diễn biến hòa bình” là sản phẩm và là biểu hiện cụ thể của “diễn biến hòa bình”, do sức ép và áp lực từ “diễn biến hòa bình” tạo nên. Như vậy, “diễn biến hòa bình” là hoạt động tấn công từ phía kẻ thù, còn “tự diễn biến hòa bình” là nói về quá trình diễn ra trong chính nội bộ ta. “Tự diễn biến” nói chung là một khái niệm chỉ sự vận động bên trong của mọi sự vật, hiện tượng. Quá trình tự diễn biến chịu sự tác động và chi phối của cả nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó nhân tố chủ quan là quan trọng. Thông thường, khi nói đến “tự diễn biến”, người ta thường đề cập cả hai khuynh hướng của quá trình vận động, theo xu hướng tiến bộ và tích cực hoặc theo xu hướng tiêu cực, tan rã và thoái trào. “Tự diễn biến hòa bình” trong trường hợp này là khái niệm nói lên quá trình tự tan rã, biến chất của một thể chế chính trị - xã hội xét trên tất cả các lĩnh vực chính trị tư tưởng, kinh tế - xã hội, văn hóa - tinh thần, diễn ra một cách hòa bình, không bằng các biện pháp bạo lực2.
1. GS. Nguyễn Đức Bình: Phòng và chống nguy cơ “tự diễn biến”, http://tuyengiao.vn/home/tutuong/lyluanthuctientutuong/2009/ 10/13953.aspx.
2. GS.TS. Trương Giang Long: http://vannghequandoi.com.vn/ vi-VN/News/Dien-dan-van-nghe/Ngan-chan-am-muu-tu-dien-bien hoa-binh-tren-linh-vuc-tu-tuong-truoc-them-dai-hoi-dang-437.vnqd.
67
Sự giống nhau giữa các định nghĩa nêu trên về hiện tượng “tự diễn biến” không phải dễ thấy, có lẽ là ở chỗ cả hai tác giả đều khẳng định trong “tự diễn biến”, yếu tố chủ quan là quyết định. Cả hai tác giả đều coi bản chất của hiện tượng “tự diễn biến” là sự tự chuyển hóa thành mặt đối lập (mặt đối lập đó, trong quan điểm thứ nhất là “mặt xấu”, còn trong quan điểm thứ hai là “tự tan rã, biến chất”) và cả hai đều hàm ý về tính chất hòa bình, không bạo lực của hiện tượng này.
Sự khác nhau giữa hai quan điểm này là ở chỗ: Một là, chủ thể “tự diễn biến” mà quan điểm thứ nhất quan tâm là cá nhân, còn chủ thể “tự diễn biến” mà quan điểm thứ hai quan tâm lại là thể chế chính trị. Hai là, quan điểm thứ nhất nhấn mạnh đặc điểm “chưa phải” là sự chống đối chế độ của hiện tượng “tự diễn biến” (mặc dù cũng cảnh cáo, nếu không phòng, hiện tượng này có thể dần trở thành chống đối và bị kẻ thù lợi dụng); trong khi đó quan điểm thứ hai lại coi “tự diễn biến” là biểu hiện cụ thể của “diễn biến hòa bình” (điều đó cho thấy, theo quan điểm này, “tự diễn biến” cũng mang lại bản sắc chống đối chế độ).
Những điểm chung trong các định nghĩa về hiện tượng “tự diễn biến” nói trên là đúng, nhưng chúng ta vẫn cảm thấy có điều gì đó chưa đủ, chưa ổn, thiếu nó, bản chất của hiện tượng “tự diễn biến” vẫn chưa thực sự được làm sáng tỏ.
68
Điểm mấu chốt trong định nghĩa về hiện tượng “tự diễn biến” là ở chỗ: Định nghĩa này phải có nội hàm thể hiện rõ sự khác biệt căn bản giữa hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với hành vi có liên đới, đó là hành vi “tự phát triển” và hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra.
1. Về sự khác biệt giữa hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và hành vi “tự phát triển” Xem xét một cách trừu tượng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “tự phát triển” đều là các quá trình tự phủ định. Tuy nhiên, xem xét cụ thể thì các hiện tượng này khác nhau về bản chất. “Tự phát triển” là linh hồn biện chứng của mọi cá thể sống, cũng như của mọi thiết chế xã hội, là quá trình cá thể sống hoặc thiết chế xã hội tự phủ định cái phủ định (phủ định các hạn chế, khiếm khuyết, yếu kém) của bản thân mình để ngày càng hoàn thiện hơn. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng là quá trình tự phủ định, nhưng đó không phải là tự phủ định cái phủ định mà là tự phủ định mặt khẳng định, mặt tích cực của chính bản thân mình và do đó nó đồng nhất với sự tự suy thoái, tự tiêu vong của cá nhân, thiết chế xã hội.
Tiền đề của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “tự phát triển” đều là sự nhận thức, nói chính xác hơn, đó là sự nhận thức về những mặt mạnh và đặc biệt là về những hạn chế, yếu kém của bản thân (tư duy phê phán). Tuy nhiên, nhận thức này có thể đúng và cũng
69
có thể sai. Nếu nhận thức này là đúng, thì con người, thiết chế xã hội sẽ tìm ra được các giải pháp thích hợp để phát huy mặt mạnh, khắc phục, vượt qua những hạn chế, yếu kém của bản thân mình, nói cách khác, điều đó đồng nghĩa với sự tự hoàn thiện, tự phát triển. Nếu nhận thức này là sai, lẽ ra là mặt khẳng định, mặt tích cực lại ngộ nhận là hạn chế yếu kém; cái thực sự là hạn chế, yếu kém lại ngộ nhận là ưu điểm, mặt tích cực, thì con người, thiết chế xã hội tất sẽ có những hành động lầm lạc, tự phủ định không phải là những điểm yếu, những hạn chế, khiếm khuyết mà lại là phủ định các điểm mạnh của mình và kết quả là tự làm cho bản thân mình suy yếu, bị diệt vong.
“Tự phát triển” là quá trình tự vượt qua (trước hết là bằng tư duy, bằng nhận thức) các giới hạn hiện có của chính bản thân mình. Các giới hạn hiện có của một con người, một thiết chế xã hội hay một học thuyết là các hạn chế, khiếm khuyết của chính bản thân con người đó, thiết chế xã hội đó, học thuyết đó. Con người, thiết chế xã hội không thể tự phát triển, nếu không nhận ra được những hạn chế, khiếm khuyết của mình. Mọi học thuyết cũng vậy, chúng ta không thể phát triển nó, nếu không nhận ra những hạn chế, khiếm khuyết trong học thuyết đó.
Đường lối của Đảng ta cũng vậy, đó là một hệ thống lý luận biện chứng, sống động không ngừng được đổi mới, phát triển. Cái ngày hôm nay là hoàn toàn đúng, nhưng
70
ngày mai, một số nội dung nhất định có thể trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với thực tiễn mới nữa. Việc nhìn nhận ra sự hạn chế, sự không còn phù hợp này là tiền đề để Đảng ta đổi mới tư duy, phát triển lý luận.
Thời điểm nào, những nội dung nào của lý luận, của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trở nên không còn phù hợp với tình hình thực tiễn mới là điều không dễ dàng nhận thấy. Ví dụ, những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, có những quan điểm của Đảng và Nhà nước (ví dụ quan điểm chủ nghĩa xã hội không có kinh tế thị trường) đã trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với thực tiễn mới của đất nước, nhưng không phải Đảng ta, Nhà nước ta và Nhân dân ta đã nhận ra ngay được. Lúc đó, chỉ một số rất ít nhìn thấy điều này và ý kiến phát biểu của họ rằng chủ nghĩa xã hội có kinh tế thị trường tỏ ra là phát ngôn trái với đường lối, quan điểm của Đảng lúc bấy giờ. Có phải sự phát ngôn trái với đường lối, quan điểm của Đảng lúc bấy giờ là biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không? Tất nhiên là không, bởi lẽ sau đó, chính Đảng ta đã thừa nhận quan điểm này là đúng. Nếu không thì phải gọi nó là gì? Đó chính là hiện tượng “tự đổi mới”, “tự phát triển”.
Như vậy, không thể quy mọi phát ngôn trái, khác với đường lối, quan điểm hiện hành của Đảng và Nhà nước vào chung một “rọ” là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Có những phát ngôn trái, khác, nhưng nó đúng với đòi hỏi của thực tiễn, là tiền đề cho sự phát triển về đường lối,
71
về lý luận mà trước sau Đảng, Nhà nước ta cũng đi đến. Đó là biểu hiện “tự đổi mới”, “tự phát triển”. Đại hội VI của Đảng là ví dụ rõ ràng nhất về hiện tượng “tự đổi mới”, “tự phát triển”. Qua Đại hội này, Đảng ta đã phủ định nhiều quan điểm lạc hậu, lỗi thời trước đó, đề ra đường lối đổi mới với nhiều quan điểm trái, khác với những quan điểm trước đó, nhờ đó, đất nước ta đã nhanh chóng thay da, đổi thịt, ngày càng hưng thịnh. Sự phủ định này hoàn toàn không phải là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà là “tự đổi mới”, “tự phát triển”. Chỉ có những phát ngôn, việc làm trái, khác với đường lối, quan điểm hiện hành của Đảng, của Nhà nước cản trở sự phát triển của đất nước, dẫn đến sự suy thoái của Đảng, sự sụp đổ của chế độ, sự lụi tàn của đất nước mới là hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
2. Sự khác biệt giữa hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra
Quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và quá trình “diễn biến hòa bình” không khác nhau ở mục tiêu, kết quả. Cả hai đều tiến đến các mục tiêu, kết quả như: phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, v.v.. Cho nên, nếu nói hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chưa phải là chống đối thì chúng ta quá xem nhẹ
72
tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mặt khác, cũng không đúng với thực tế. Tuy nhiên, nếu đồng nhất hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra thì cũng không ổn, vì nói như thế thì chúng ta chưa thấy hết được tính chất đặc thù của hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Còn về sự khác nhau mà ai cũng dễ dàng nhận thấy giữa chủ thể của “diễn biến hòa bình” và chủ thể của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”: chủ thể của “diễn biến hòa bình” là địch, còn chủ thể của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là ta, thì đó không phải là sự khác nhau giữa chủ thể của hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và chủ thể của hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra. Hai chủ thể này đều là ta cả, nhưng lại rất khác nhau. Nếu không làm rõ được sự khác nhau giữa hai chủ thể đều là ta này thì chúng ta cũng khó có thể phân biệt được đâu là hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đâu là hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra.
Thực ra, sự khác nhau căn bản giữa hai loại hành vi nói trên chính là sự khác nhau về cơ chế hình thành và đặc biệt là về đặc điểm tâm lý, tinh thần của hai loại chủ thể đều là ta cả mà chúng ta vừa nói tới ở trên (chủ thể của hành vi “tự diễn biến” và chủ thể của hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra).
Cơ chế hình thành của loại hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra khác về căn bản so với cơ chế hình thành của loại hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
73
Loại hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra được hình thành, chủ yếu theo cơ chế thụ động, dưới sự tác động mang tính quyết định của các nhân tố bên ngoài. Nói cách khác, hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra là loại hành vi bị “sai khiến”, bị “thôi miên”, bị “ám thị”, bị “nhồi sọ”, bị “kích động”, bị “mua chuộc” bởi các thế lực tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”. Vì thế, chủ thể của hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra thiếu tính tự nguyện, tự giác, không có được sự thanh thản về lương tâm, đạo đức khi thực hiện hành vi này.
Trong khi đó, cơ chế hình thành của hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, ngược lại, mang tính chủ động, tự quyết, tự nguyện, tự giác, dưới sự tác động mang tính quyết định của các yếu tố bên trong như tư duy, nhận thức, lương tâm, đạo đức của chính bản thân chủ thể.
Hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là loại hành vi xuất phát từ sức ép của chính bản thân chủ thể. Nhân tố bên trong có sức ép mạnh nhất đến hành vi của mỗi con người chính là lương tâm, đạo đức. Người có lương tâm, đạo đức tự ép mình làm những điều mà mình cho rằng đó là chân lý, lẽ phải, cái thiện. Đây là sức ép mãnh liệt nhất đối với con người. Mọi hành vi tự nguyện, tự giác của con người đều xuất phát từ sức ép của các thành tố nhân cách này (lương tâm, đạo đức).
Những quan niệm về phải - trái, thiện - ác, đúng - sai của mỗi con người là sản phẩm tư duy độc lập của con người đó. Trải qua sự suy ngẫm, phán xét, suy lý của
74
chính bản thân mình, chủ thể tự rút ra các quan niệm về phải - trái, đúng - sai, thiện - ác này. Những quan niệm này có thể trùng khớp với những quan niệm mà các thế lực thù địch tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” tung ra. Có thể diễn ra quá trình hấp thụ, chuyển hóa cái bên ngoài vào cái bên trong, các quan điểm của các thế lực thù địch tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” thành quan điểm của chính bản thân chủ thể thông qua sự suy ngẫm, phán xét, suy lý của chính bản thân chủ thể về các quan điểm này. Quá trình tư duy độc lập này có thể dẫn đến kết quả sai lầm, ngộ nhận rằng các quan điểm của các thế lực thù địch tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” là “đúng”. Trong trường hợp này, các quan điểm của các thế lực thù địch, chống đối không còn là những gì xa lạ đối với chủ thể như trong trường hợp đối với chủ thể của hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra. Nói cách khác, chủ thể đã “đồng hóa” chúng, biến chúng thành “sở hữu” của mình.
Mọi hành vi chống đối không xuất phát từ tư duy độc lập của chủ thể đều không “xứng” với tên gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và có thể xếp vào loại hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra. Tất nhiên, giữa hành vi bị kích động, bị “xui khiến”, “thôi miên”, “ám thị” bởi “diễn biến hòa bình” và hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có mối liên hệ rất mật thiết với nhau, có thể chuyển hóa lẫn nhau (như đã nói ở trên). Hành vi bị kích động, bị “xui khiến”, bị “thôi miên”, “ám thị” bởi “diễn biến hòa bình”
75
có thể chuyển hóa thành hành vi “tự diễn biến” và ngược lại, hành vi “tự diễn biến” sẽ thúc đẩy sự phát triển của hành vi do “diễn biến hòa bình” gây ra.
Căn nguyên sâu xa nhất của hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chính là tư duy sai lầm, ngộ nhận: ngộ nhận trái thành phải, sai thành đúng, ác thành thiện, hại dân, hại nước thành “ích nước, lợi dân”, v.v..
Những người ngoài cuộc nhìn vào những người có hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì thấy rất rõ rằng các hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đó thể hiện sự tự suy thoái, sự tự tan rã, sự chuyển biến từ tốt thành xấu, từ yêu nước thành phản động; nhưng bản thân những người có hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì lại nghĩ khác, nghĩ ngược lại (do ngộ nhận), thậm chí còn tin tưởng “sắt đá” rằng, chân lý, lẽ phải là thuộc về họ, chính họ mới là những người yêu nước chân chính, yêu nước thực sự. Những người này thường đặt các giá trị tinh thần, các lý tưởng (sai lầm, cuồng tín, nhưng họ đinh ninh là chân lý, lẽ phải, lợi ích quốc gia, dân tộc) lên trên lợi ích cá nhân, cục bộ. Những người này thường tự cho mình là người có đạo đức và họ có thể giữ được sự trong sạch về đạo đức, lối sống, không dễ dàng bị mua chuộc bởi những lợi ích vật chất. Họ, thậm chí là những kẻ “tử vì đạo”, không sợ tù đày, bạo lực, sẵn sàng thực hiện các hành động rất cực đoan (như tự thiêu, tuyệt thực, “đánh bom liều chết”...). Họ chỉ “đầu hàng” khi chúng ta thuyết phục được họ rằng tư duy của họ là
76
sai lầm, lòng yêu nước của họ là ngộ nhận, cứ làm như họ nghĩ thì đất nước sẽ lụi bại, không phát triển được, thậm chí loạn lạc, bị diệt vong.
Những điều nói trên cho thấy tính chất cam go và khó khăn hơn nhiều của cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” so với cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”.
Trong cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, chúng ta đối mặt không phải với địch mà là với ta, với những người có cùng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, nhưng có nhiều điểm khác, không còn chung, thậm chí đối lập về ý thức hệ với chúng ta. Phương châm cơ bản đối với họ từ lâu đã được Đảng vạch ra, đó là đoàn kết (theo chủ trương của Đảng: Đoàn kết tất cả những người Việt Nam có mục tiêu chung là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”1, không phân biệt tôn giáo, ý thức hệ). Phải kiên trì thuyết phục họ, một mặt, trên cơ sở các nền tảng lý luận đã được đổi mới, phát triển, đầy sức thuyết phục của chúng ta về những sai lầm trong tư duy, sự ngộ nhận về chân lý, lẽ phải, lòng yêu nước của họ; mặt khác, trên cơ sở các chủ trương, đường lối, quyết sách, việc làm hợp lòng dân của Đảng và Nhà nước ta.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 70.
77
Trên đây là một số ý kiến góp phần vào việc thảo luận nhằm làm sáng tỏ khái niệm, bản chất của hiện tượng “tự diễn biến”. Chừng nào chúng ta chưa làm rõ được khái niệm, bản chất của hiện tượng này, chừng đó khó có thể đưa ra được các đặc điểm nhận dạng chuẩn xác cũng như các giải pháp phòng, chống đúng đắn, có hiệu quả.
(Bài đăng trên Tạp chí Công an nhân dân
tháng 10 năm 2012).
78