🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nhận Diện Các Thủ Đoạn Lừa Đảo Chiếm Đoạt Tài Sản Và Biện Pháp Phòng Ngừa Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương TRẦN THANH LÂM Phó Chủ tịch Hội đồng Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật VŨ TRỌNG LÂM Thành viên NGUYỄN HOÀI ANH PHẠM THỊ THINH NGUYỄN ĐỨC TÀI TỐNG VĂN THANH LỜI NHÀ XUẤT BẢN Hiện nay, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những loại tội phạm xảy ra khá phổ biến ở nước ta, chủ yếu xuất phát và ẩn giấu qua các giao dịch dân sự nên thường khó phát hiện và ngăn ngừa. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ thông qua các hành vi vay, mượn tiền, tài sản đơn thuần mà đã xuất hiện dưới nhiều dạng hành vi khác. Có nhiều nguyên nhân, điều kiện để các đối tượng phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản lợi dụng hoạt động. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế trong điều kiện công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, đặc biệt trong các lĩnh vực đất đai, tài chính ngân hàng, quản lý các giao dịch dân sự là điều kiện cho các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội. Để chủ động phòng ngừa, đấu tranh, tố giác tội phạm, đồng thời nâng cao tinh thần cảnh giác cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân trước các thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản của tội phạm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Nhận diện các thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản và biện pháp phòng ngừa do Luật gia Trương Ngọc Liêu biên soạn. 5 Cuốn sách tổng hợp một số vụ án, vụ việc có dấu hiệu lừa đảo, chiếm đoạt tài sản bị phát hiện, đã xử lý trong thực tiễn, qua đó tìm hiểu nguyên nhân và hệ lụy của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản; các cách thức nhận diện những thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản phổ biến và đề xuất một số biện pháp phòng ngừa để góp phần nâng cao hiệu quả kiềm chế, ngăn chặn loại tội phạm này. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 8 năm 2023 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6 LỜI NÓI ĐẦU Cuốn sách Nhận diện các thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản và biện pháp phòng ngừa ra đời trong bối cảnh loại tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản đang ngày càng gia tăng, đặc biệt là các thủ đoạn lừa đảo thông qua không gian mạng Internet, mạng viễn thông với thủ đoạn ngày càng tinh vi, hậu quả ngày càng lớn. Kết cấu cuốn sách gồm bốn phần, Phần I nêu lên thực trạng các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong phạm vi cả nước trong thời gian gần đây; tỷ lệ tội phạm lừa đảo theo thủ đoạn truyền thống; tỷ lệ lừa đảo thông qua không gian mạng và những hệ lụy của những hành vi lừa đảo này đến đời sống của cá nhân, gia đình và xã hội. Phần II làm rõ các quy định pháp luật, khung pháp lý áp dụng đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Phần III chỉ ra cách nhận diện từng thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản cụ thể, đồng thời thông tin về vụ việc trên thực tế đã xảy ra sau mỗi thủ đoạn, trong đó có những vụ việc đã đưa ra xét xử và kết án, có những vụ việc đang trong quá trình điều tra, truy tố... (tham khảo qua các bài báo, bài viết đã đăng tải trên các báo viết, báo điện tử thời gian qua) để bạn đọc có được những thông tin chi tiết và thực tế nhất về thủ đoạn của các đối tượng lừa đảo, cũng như thấy được hậu quả pháp lý của việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản 7 của người khác sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật như thế nào. Phần IV đề xuất các biện pháp phòng ngừa đối với các thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong đó có các biện pháp phòng ngừa chung từ phía cơ quan nhà nước cũng như đối với từng cá nhân và một số biện pháp phòng ngừa cụ thể đối với từng thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản được liệt kê. Các thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các đối tượng thường biến đổi liên tục để “thích nghi” với các biện pháp phòng ngừa mà các cơ quan chức năng và từng cá nhân mỗi người đã nắm bắt được. Tuy nhiên, cho dù có biến đổi như thế nào, thủ đoạn tinh vi đến đâu thì các đối tượng lừa đảo cũng có những đặc điểm chung, đều dựa vào các điều kiện tiên quyết là: lòng tham, sự sợ hãi, sự nhẹ dạ cả tin và sự thiếu hiểu biết của nạn nhân để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, chỉ cần khắc phục được một trong bốn yếu tố này là đã góp phần giảm đi đáng kể khả năng bị lừa đảo. Cách khắc phục như thế nào được trình bày rất rõ tại Mục I.2 Phần IV cuốn sách này. Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn đọc trở nên nhạy bén hơn, tinh tường hơn để đối phó với các thủ đoạn lừa đảo đang diễn ra phổ biến hiện nay cũng như trong tương lai. TÁC GIẢ 8 PHẦN I THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ HỆ LỤY CỦA HÀNH VI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN I THỰC TRẠNG LOẠI TỘI PHẠM LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Theo trang điện tử Công an tỉnh Đắk Lắk1, trong 5 năm từ 2015-2019, Công an toàn quốc đã phát hiện, khởi tố điều tra 10.360 vụ và 11.410 bị can về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, số tiền bị chiếm đoạt lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ gây thiệt hại về tài sản cho Nhà nước, xã hội và công dân mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình trật tự, an toàn xã hội. Hàng loạt những vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản lớn đã được đưa ra xét xử như: Vụ án Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều ngân hàng và cá nhân với tổng số tiền hơn 4.900 tỷ đồng; vụ án Lê Xuân Giang, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Liên kết Việt và đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt ___________ 1. https://congan.daklak.gov.vn/-/mot-so-tinh-hinh-noi-len cua-toi-pham-lua-ao-chiem-oat-tai-san. 9 2.000 tỷ đồng của 60.000 người; vụ Chu Minh Ngọc, Giám đốc Công ty Cimco cùng đồng bọn lập khống hồ sơ mua bán thép để hợp thức hồ sơ vay vốn lừa đảo chiếm đoạt 1.124 tỷ đồng của 7 ngân hàng; vụ Phan Bá Tòng, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn xuất nhập khẩu thủy sản Thiên Mã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt 700 tỷ đồng của các ngân hàng và khách hàng; vụ Công ty Cổ phần thương mại đầu tư Phúc Gia Bảo lừa đảo chiếm đoạt 178 tỷ đồng1. Ngoài các thủ đoạn lừa đảo truyền thống như: Giả danh cán bộ cơ quan nhà nước, người nhà lãnh đạo cấp cao để lừa xin việc làm, “chạy chức”, “chạy án”; làm, sử dụng các loại giấy tờ, tài liệu giả liên quan đến quyền sở hữu tài sản để cầm cố, thế chấp, mua bán; lừa đảo trong hoạt động đầu tư, kinh doanh bất động sản, v.v.. Các đối tượng còn lợi dụng không gian mạng để hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản, với phương thức thủ đoạn hết sức tinh vi, đa dạng về cách tiếp cận các nạn nhân, nhiều vụ có lượng lớn người bị hại tham gia tại nhiều địa phương trên khắp cả nước, một số thủ đoạn điển hình như: Sử dụng mạng xã hội để kết bạn, thông báo gửi quà, sau đó giả danh nhân viên sân bay, hải quan, thuế để yêu cầu người bị hại nộp tiền cước vận chuyển, thuế, phí, tiền phạt... vào các tài khoản ngân hàng được chỉ định rồi chiếm đoạt; giả danh cán bộ cơ quan nhà nước, Công an, Viện kiểm sát, Tòa án gọi điện thông báo chủ thuê bao có liên quan đến vụ án, ___________ 1. https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/giai-phap han-che-muc-do-an-cua-toi-pham-lua-dao-c-d10-t770.html. 10 vụ việc đang giải quyết rồi đe dọa, yêu cầu bị hại chuyển để chiếm đoạt, v.v.. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tội phạm học cũng đã xác định: “Các tội phạm kinh tế là những tội phạm có độ ẩn cao. Số liệu thống kê về những tội phạm đã được phát hiện, điều tra và xử lý chỉ phản ánh một phần của tội phạm đã xảy ra, còn một phần quan trọng khác mà cơ quan pháp luật chưa nắm bắt được, chưa phát hiện được”1. Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển và ứng dụng Internet cao nhất thế giới, việc mạng xã hội đang được sử dụng công khai với số lượng người tham gia đông đảo trên các ứng dụng như Facebook, Zalo, Instagram, TikTok, v.v. cùng với việc nhận thức còn hạn chế, nhẹ dạ cả tin, hám lợi, mất cảnh giác của một bộ phận người dùng là điều kiện thuận lợi cho các đối tượng phạm tội. Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực như: Tài chính, ngân hàng, không gian mạng, đất đai, công chứng còn tồn tại nhiều thiếu sót, bất cập; chính sách pháp luật trên một số lĩnh vực chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, tạo kẽ hở để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo Đại tá Trương Sơn Lâm, Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao2, Bộ Công an, tình hình tội phạm ___________ 1. Nguyễn Xuân Yêm: Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. 2. Hiện giữ chức vụ Giám đốc Công an tỉnh Bến Tre (BT). 11 lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng diễn biến ngày càng phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, có tính chất xuyên quốc gia, gây thiệt hại lớn và bức xúc trong nhân dân, xảy ra chủ yếu ở các tỉnh, thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Đồng Nai... Đặc biệt lợi dụng tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, thực hiện chủ trương giãn cách xã hội, nhiều hoạt động xã hội “dịch chuyển” lên không gian mạng nên tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản càng gia tăng hoạt động. Năm 2020, phát hiện khoảng 4.100 vụ việc liên quan đến tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua không gian mạng; trong đó có 776 vụ việc lừa đảo qua mạng viễn thông bằng thủ đoạn giả danh cơ quan thực thi pháp luật (Công an, Tòa án, Viện kiểm sát), các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, bưu điện..., đe dọa, yêu cầu người bị hại cung cấp thông tin tài khoản hoặc chuyển tiền. Riêng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã tiến hành xác minh, điều tra 18 vụ; khởi tố 5 vụ án và 27 bị can; đang tiếp tục xác minh hơn 10 vụ. Nổi bật là vào tháng 01/2020 Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã phối hợp với Công an tỉnh Quảng Nam, Công an Thành phố Hồ Chí Minh đấu tranh, triệt phá Chuyên án bắt giữ, khởi tố 10 đối tượng, trong đó có 2 đối tượng người Malaixia, đã phong tỏa 55 tài khoản của bị hại là người Việt Nam với số tiền 3,7 tỷ đồng 12 và nhiều tài sản, tài liệu có liên quan, tổng số tiền các đối tượng chiếm đoạt lên tới hơn 500 tỷ đồng; Tháng 6/2020, Cục cũng đã phối hợp với Công an tỉnh Thừa Thiên Huế triệt phá thành công chuyên án đấu tranh với nhóm đối tượng lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua Facebook, bắt giữ 3 đối tượng đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của gần 500 nạn nhân trên cả nước với tổng số tiền lên đến 117 tỷ đồng1... Tính từ ngày 25/5/2020 đến 24/5/2021, toàn quốc đã phát hiện xảy ra 5.408 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong đó: 2.894 vụ lừa đảo theo các phương thức truyền thống (chiếm hơn 53,5% tổng số vụ phát hiện); 2.514 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng (chiếm 46,5% tổng số vụ). Đáng chú ý trong đó có nhiều chuyên án, vụ án lớn, được các ngành, các cấp ghi nhận và đánh giá cao, dư luận quần chúng nhân dân đặc biệt quan tâm, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống Nhân dân2. Với sự chuyển dịch sang nền kinh tế số và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, các sản phẩm tài chính ngày càng đa dạng, nhiều hình thức giao dịch điện tử, trực tuyến được triển khai, trong khi năng lực tiếp cận kinh tế số của nước ta còn hạn chế, các yếu tố nền tảng như thể chế, ___________ 1. https://cand.com.vn/Phap-luat/Can-trong-voi-toi-pham lua-dao-chiem-doat-tai-san-khi-tham-gia-khong-gian-mang i591084/. 2. https://congan.daklak.gov.vn/-/mot-so-tinh-hinh-noi len- cua-toi-pham-lua-dao-chiem-doat-tai-san. 13 hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng cao, công nghệ còn thấp, tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhất là lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, hoạt động xuyên quốc gia, có sự cấu kết giữa nhiều đối tượng trong và ngoài nước, nếu không kịp thời phát hiện, ngăn chặn thì hậu quả thiệt hại sẽ rất nghiêm trọng. II NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THỰC TRẠNG LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Tình trạng lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và lừa đảo qua không gian mạng nói riêng diễn biến ngày càng phức tạp và gia tăng với thủ đoạn ngày càng tinh vi chủ yếu do một số nguyên nhân sau: 1. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa thật sự hiệu quả Hiện nay, công tác đẩy mạnh tuyên truyền, phòng ngừa hoạt động lừa đảo, chiếm đoạt tài sản đã và đang được thực hiện mạnh mẽ ở tất cả các cơ quan, ban ngành ở các cấp độ khác nhau và cũng đã đạt được những thành tích nhất định, đặc biệt là kể từ khi Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 25/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường phòng ngừa, xử lý hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từng cơ quan, tổ chức và cá nhân có phương thức tuyên truyền, 14 phổ biến phù hợp với cơ cấu tổ chức, quản lý, chức năng và quyền hạn của mình để thực hiện công tác tuyên truyền nhằm đạt hiệu quả tối đa. Các hình thức tuyên truyền rất phong phú, đa dạng, như thông qua trang Facebook, nhóm Zalo đã kịp thời trao đổi thông tin cũng như nắm bắt tình hình trên địa bàn về phòng, chống tội phạm, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, và các văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức tháng cao điểm tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong đó có pháp luật về phòng, chống tội phạm, các văn bản pháp luật khác liên quan trực tiếp đến phòng ngừa xử lý hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phòng ngừa “tín dụng đen”... Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác phòng, chống tội phạm, phòng ngừa “Tín dụng đen” nhất là hiện tượng lô đề, cá cược, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lừa đảo trên không gian mạng, xuất khẩu lao động trái phép, xuất nhập cảnh trái phép qua biên giới nhằm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản... đến đông đảo các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng công tác tuyên truyền, phổ biến về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội và phòng ngừa các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa sâu rộng, người dân chưa được tiếp cận kịp thời đầy đủ, chính xác thông tin, nhất là các thông tin về quy hoạch, chế độ, chính sách an sinh xã hội, đầu tư, sản xuất, kinh doanh... Nguyên nhân có thể do: 15 - Cán bộ làm công tác tuyên truyền ít được tập huấn để nâng cao khả năng chuyên môn. Vì vậy việc tuyên truyền, triển khai chủ trương, nghị quyết chỉ đạt ở mức độ nhất định, chưa đáp ứng tốt yêu cầu; tài liệu tuyên truyền còn hạn chế, nội dung chưa đáp ứng cho các đối tượng cần được tuyên truyền. - Một số cấp ủy, chính quyền ở cơ sở chưa quan tâm đúng mức cho công tác tuyên truyền, còn chỉ đạo chung chung trong thực hiện. - Thông tin không được mở rộng, phân tích thêm, vì vậy chưa tạo được tính hấp dẫn đối với người nghe. 2. Hạn chế trong nhận thức và mất cảnh giác của một bộ phận nhân dân để tội phạm lợi dụng Mục đích của hành vi lừa đảo là nhằm chiếm đoạt tài sản, phương thức và thủ đoạn thực hiện rất tinh vi và vô cùng bài bản, có kế hoạch, có kịch bản rõ ràng; có sự câu kết, phân chia vai trò thực hiện chặt chẽ. Bởi thế, chỉ cần sự thiếu cảnh giác phòng ngừa là sẽ trở thành nạn nhân của loại tội phạm này. So với mặt bằng chung của thế giới nói chung và so với các nước phát triển nói riêng, trình độ dân trí của Việt Nam vẫn còn khá thấp, đặc biệt là hiểu biết về công nghệ, không gian mạng Internet... do đó, sẽ tạo ra những khó khăn nhất định trong việc định hình, đánh giá được dấu hiệu hành vi lừa đảo của loại tội phạm sử dụng công nghệ cao. Hiểu biết về pháp luật của người dân cũng là một điểm hạn chế khi tỷ lệ người học đại học vẫn còn thấp (chưa tới 30%) mà môn pháp luật đại cương chỉ được đưa vào chương trình đào tạo hệ cao đẳng, đại học, ở các cấp 16 học thấp hơn, việc giáo dục pháp luật còn hạn chế, chưa được phổ biến, giáo dục pháp luật về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản lại càng hiếm hơn. Xuất phát từ các yếu tố trên dẫn đến việc nạn nhân của loại tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Việt Nam vẫn còn nhiều, giá trị tài sản bị lừa đảo chiếm đoạt ngày càng gia tăng. 3. Các quy định pháp luật về một số lĩnh vực chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với thực tiễn, chưa được hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung kịp thời Kể từ khi Hiến pháp năm 2013 ra đời, hàng loạt các bộ luật, luật và văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành để thể chế hóa những quy định trong đạo luật gốc là Hiến pháp, hệ thống pháp luật đã từng bước hoàn thiện, bảo đảm chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được cũng vẫn còn tồn tại không ít những bất cập, vướng mắc như: Sự chồng chéo, mâu thuẫn trong quy định giữa các văn bản quy phạm pháp luật ở nhiều cấp độ; Quy định của pháp luật dễ bị lạc hậu, không theo kịp sự thay đổi của xã hội dẫn đến phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung, thay thế: Trong các lĩnh vực như pháp luật về đất đai, thuế, khối lượng văn bản quy phạm pháp luật ban hành để hướng dẫn luật, nghị định đã rất đồ sộ nhưng những văn bản này lại không ngừng được sửa đổi, bổ sung, thay thế, v.v. và những văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế đó lại tiếp tục được bổ sung, sửa đổi dẫn đến ngoài 17 việc nhiều về số lượng lại phức tạp về khả năng đọc hiểu, nắm bắt nội dung, khó khăn trong việc xác định một nội dung quy định nào đó có đang còn hiệu lực áp dụng hay không, đã bị sửa đổi, bổ sung hay thay thế chưa, v.v.. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật có tuổi thọ ngắn, thiếu tính ổn định như vừa mới ban hành đã phải hoãn thi hành để sửa đổi, bổ sung gấp như Bộ luật Hình sự năm 2015 nhưng đến năm 2017 đã phải ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, trong đó lỗi cần phải sửa đổi, bổ sung còn nhiều bao gồm cả lỗi về kỹ thuật và lỗi về nội dung. 4. Công tác quản lý nhà nước ở nhiều lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, không gian mạng, đất đai, công chứng... còn tồn tại sơ hở, thiếu sót Sự phối hợp giữa các cơ quan, các ngành, các cấp chưa đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; cấp ủy, người đứng đầu một số địa phương thiếu quyết liệt trong chỉ đạo phòng ngừa, xử lý các hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật vẫn còn diễn biến phức tạp một phần là do công tác quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn một số tồn tại, thiếu sót, còn kẽ hở cho tội phạm lợi dụng hoạt động. Công tác phòng ngừa tội phạm chưa mang lại hiệu quả thực chất. Tỷ lệ giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố chưa đạt chỉ tiêu đề ra, còn vi phạm trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm; vi phạm hành chính còn diễn ra phổ biến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, 18 công tác quản lý cư trú, hoạt động xuất, nhập cảnh của người nước ngoài tại Việt Nam còn sơ hở, thiếu sót... Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên chủ yếu là do tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, hệ thống các văn bản pháp luật vẫn đang tiếp tục được hoàn thiện; các nguồn lực cho công tác phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; trình độ nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ thực thi pháp luật còn hạn chế, thậm chí có sai phạm, tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ... làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật1. III HỆ LỤY CỦA HÀNH VI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1. Khó thu hồi lại đầy đủ tài sản bị chiếm đoạt Hậu quả từ thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đặc biệt là thủ đoạn lừa đảo thông qua không gian mạng rất khó khắc phục một cách đầy đủ và trọn vẹn. Bởi dòng tiền trong các vụ án lừa đảo qua mạng xã hội biến động rất nhanh, di chuyển liên tục, rất khó kiểm soát, nếu Cơ quan điều tra không khẩn trương tiến hành các biện pháp phong tỏa tài khoản, đóng băng dòng tiền để ngăn chặn thì các đối tượng ___________ 1. http://socongthuong.binhduong.gov.vn/xem-chi-tiet/quan ly-nha-nuoc-trong-nhieu-linh-vuc-con-ke-ho-cho-toi-pham-loi dung-hoat-dong. 19 sẽ tẩu tán tài sản rất nhanh như chuyển đến tài khoản nước ngoài, chuyển đổi sang các dạng tài sản khác hoặc mua tiền ảo, vật phẩm ảo trong game làm dòng tiền biến mất. Sau khi nạn nhân chuyển tiền vào các tài khoản theo yêu cầu, số tiền này ngay lập tức được chuyển đi nhiều tài khoản khác nhau và chủ các tài khoản nhận tiền chuyển đến là những người được một hoặc một số đối tượng không rõ lai lịch nhờ mở tài khoản và trả tiền công, sau đó các đối tượng sẽ sử dụng những tài khoản này. Vì thế rất khó biết được dòng tiền đi đâu, không xác định được các đối tượng thực hiện hành vi nên việc điều tra xử lý và thu hồi tài sản bị chiếm đoạt trong nhiều trường hợp là rất khó khăn. 2. Khó xử lý, truy cứu trách nhiệm trong một số trường hợp Thời gian qua, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động đầu tư, kinh doanh, các sàn giao dịch tiền ảo có dấu hiệu hoạt động mạnh mẽ trở lại, tăng cả về số lượng người dùng và số lượng sàn giao dịch. Về phương thức hoạt động, khi đầu tư người dân phải sử dụng tiền thật để mua đồng tiền ảo, sau đó nạp tiền ảo này vào tài khoản của công ty sở hữu sàn giao dịch để mua tiền ảo nội bộ với các tên gọi khác nhau như “gem”, “xu”, “kim cương”, “thiên kim”,... Sau khi số lượng tiền ảo nạp vào đủ lớn, đối tượng đứng sau các sàn giao dịch sẽ đánh sập sàn hoặc đưa giá trị tiền ảo nội bộ (gem, xu, kim cương,...) tụt dốc và chiếm đoạt toàn bộ số tiền mà khách hàng đã bỏ ra để mua tiền ảo nội bộ. Mặc dù đã xảy ra nhiều vụ việc lừa đảo liên quan 20 đến sàn giao dịch tiền ảo, tuy nhiên hiện nay pháp luật Việt Nam không công nhận tiền ảo là phương thức thanh toán, là tài sản hay một loại hàng hóa, dịch vụ, vì vậy cơ quan chức năng không có căn cứ để bảo vệ nạn nhân. Có thể thấy, đặc điểm chung của những dạng thủ đoạn này cũng giống với các dạng lừa đảo khác đó là đánh vào lòng tham của các nạn nhân, như việc không cần mất phí vẫn nhận được phần quà giá trị lớn, đưa ra mức lãi suất đầu tư siêu lợi nhuận. Tuy nhiên, các dạng thủ đoạn này nguy hiểm và dễ dẫn dụ hơn rất nhiều vì thực hiện có hệ thống, có sự bàn bạc và câu kết thực hiện một cách bài bản, một số sàn giao dịch tiền ảo đã phát triển thành các ứng dụng (app) có thể đăng ký, nạp tiền, sử dụng dễ dàng ngay trên điện thoại thông minh, việc tiếp cận thuận lợi với các ứng dụng này giúp cho các đối tượng có một số lượng “con mồi” đông đảo. Tính cá nhân trong việc sử dụng các ứng dụng khiến cho hành vi lừa đảo khó bị phát hiện hơn, người dùng khi bị thua lỗ thường không dám nói ra ngoài, có tâm lý cố gắng “hồi vốn” và ngày càng mất nhiều tiền cho các ứng dụng lừa đảo1. 3. Gây ra nhiều hệ lụy cho cá nhân, gia đình và xã hội Hệ lụy đầu tiên và dễ dàng nhận thấy đó là nạn nhân bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản với khả năng ___________ 1. https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/nhan dien-mot-so-thu-doan-lua-dao-chiem-doat-tai-san-d10- t9002.html. 21 thu hồi lại gần như không thể, trở nên mất niềm tin vào người khác, sống khép kín, dễ dẫn đến bị trầm cảm. Một số nạn nhân còn vay mượn tiền người thân, bạn bè, vay nóng để đầu tư vào các sàn giao dịch tiền điện tử và sau khi bị lừa mất toàn bộ số tiền đã đầu tư, đối diện với nợ nần dẫn đến quẫn bách, suy nghĩ tiêu cực và tìm đến cái chết để giải thoát. Không thể phủ nhận yếu tố kinh tế giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống gia đình, bởi thế một khi có vấn đề về kinh tế các thành viên trong gia đình sẽ thường xảy ra các mâu thuẫn, đặc biệt khi người vợ/chồng vì hám lợi mà giấu các thành viên còn lại, đem tất cả tài sản chung của gia đình để đầu tư rồi bị lừa đảo chiếm đoạt hết. Ban đầu những mâu thuẫn xảy ra có thể chỉ là cự cãi nhưng đôi khi nó lại đẩy lên thành bạo lực gia đình, thậm chí dẫn đến ly hôn, gia đình ly tán, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống vật chất và tinh thần của những người trong gia đình. Dưới khía cạnh xã hội, khi các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản vẫn không ngừng biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau, ngày càng tinh vi, số nạn nhân của hành vi lừa đảo ngày càng nhiều mà chưa kịp phòng ngừa và xử lý hết dễ dẫn đến tâm lý hoang mang, sợ hãi cho người dân, khi những nạn nhân bị lừa đảo túng quẫn kinh tế thì lại là cơ hội tốt để các đối tượng cho vay nặng lãi, đòi nợ thuê v.v. hoạt động, gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống nhân dân. 22 PHẦN II KHUNG PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HÀNH VI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin tưởng mà giao tài sản cho người thực hiện hành vi hoặc người khác để chiếm đoạt tài sản đó. Hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản được xác định là hành vi vi phạm pháp luật và tuỳ thuộc vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu xác định đó là tội phạm hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính nếu xác định hành vi đó vi phạm hành chính. I TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1. Quy định chung về tội phạm Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, 23 xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Lưu ý: Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác1. 1.1. Cấu thành tội phạm Từ khái niệm về tội phạm tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, một hành vi chỉ được xem là tội phạm nếu thỏa mãn được các yếu tố cấu thành đối với loại tội phạm đó. Cụ thể, một hành vi cấu thành tội phạm phải bao gồm bốn yếu tố bắt buộc, trong mỗi yếu tố đó có những yếu tố bắt buộc phải có trong mọi loại tội phạm nhưng cũng có những yếu tố không bắt buộc như sau: Mặt khách quan: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; điều kiện, hoàn cảnh, không gian, công cụ, phương tiện thực hiện; Mặt chủ quan: Yếu tố có lỗi, động cơ, mục đích; Mặt khách thể: Xâm phạm các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ; ___________ 1. Khoản 2 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015. 24 Mặt chủ thể: Người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện. 1.2. Phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm (i) Về mặt khách quan Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Bởi lẽ có rất nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội và mức độ của những hành vi này cũng không giống nhau, một hành vi chỉ được xem là hành vi phạm tội khi hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự (tính chất nguy hiểm cao) như hành vi giết người, hành vi hiếp dâm, hành vi cướp tài sản v.v.. Ngược lại nếu một hành vi cũng nguy hiểm cho xã hội nhưng không được quy định trong Bộ luật Hình sự thì không phải là hành vi phạm tội, nội dung này được làm rõ hơn tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật này quy định: Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Biện pháp khác ở đây có thể là biện pháp xử lý hành chính hoặc dân sự. (ii) Về mặt chủ quan Lỗi là yếu tố bắt buộc phải có trong mặt chủ quan của cấu thành tội phạm, lỗi bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý. Theo định nghĩa Từ điển Tiếng Việt thì lỗi là “điều sai sót, không nên, không phải trong cách cư xử, trong hành động”1. Như vậy, nếu một người thực ___________ 1. Trung tâm Từ điển học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2009, tr.719. 25 hiện một hành vi mà không có lỗi (cố ý hoặc vô ý) thì dù họ có thoả mãn được ba điều kiện còn lại trong cấu thành tội phạm thì hành vi đó vẫn không được xem là hành vi phạm tội. - Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây1: + Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (cố ý trực tiếp); + Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp). - Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây2: + Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (vô ý do quá tự tin); + Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó (vô ý do cẩu thả). (iii) Về mặt khách thể Các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ ngay trong khái niệm tội phạm, bao gồm các/nhóm ___________ 1, 2. Điều 10, Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015.26 quan hệ xã hội sau: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. (iv) Về mặt chủ thể - Do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện, đây cũng là điều kiện bắt buộc phải thỏa mãn để xác định một cá nhân, pháp nhân thương mại nào đó có phạm tội hay không. Nếu chủ thể thực hiện hành vi nhưng không có năng lực trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi đó, ví dụ: một cậu bé 10 tuổi ném đá vào đầu bạn chơi cùng gây thương tích 50%. Trong ví dụ này, mặc dù hậu quả của hành vi là nghiêm trọng, có mối quan hệ nhân quả giữa thương tích và hành vi ném đá nhưng cậu bé này chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (nói cách khác là chưa có năng lực chịu trách nhiệm hình sự) nên cậu bé không phạm tội cố ý gây thương tích, tổn hại cho sức khoẻ của người khác. - Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự1 + Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định khác. ___________ 1. Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015. 27 + Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự năm 2015. 2. Truy cứu trách nhiệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 2.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 nếu thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội phạm này. Cụ thể: Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; 28 c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ1. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Tái phạm nguy hiểm; đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; g)2 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b)3 c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: ___________ 1. Cụm từ “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” đã bị bãi bỏ theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13. 2, 3. Điểm này đã bị bãi bỏ theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13. 29 a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b)1 c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. 2.2. Phân tích các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (i) Mặt khách quan Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản - Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra các thông tin không đúng sự thật (có thể bằng lời nói, văn bản, hành động, v.v..) làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Ví dụ: A có ý định chiếm đoạt xe của B để bán lấy tiền tiêu xài nên đã nói B cho A mượn xe để đi chợ, nhưng sau khi lấy được xe thì đem đi bán. - Chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối. ___________ 1. Điểm này đã bị bãi bỏ theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13. 30 Về giá trị tài sản chiếm đoạt: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. (ii) Mặt chủ quan Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý trực tiếp. Khách thể Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. (iii) Mặt chủ thể Có năng lực trách nhiệm hình sự. 2.3. Một số lưu ý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản - Dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt (chỉ chiếm giữ hoặc sử dụng), thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi gian dối trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép hoặc tội sử dụng trái phép tài sản, hoặc đó chỉ là quan hệ dân sự. - Trường hợp hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản cấu thành vào một tội danh độc lập khác trong Bộ luật Hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ bị truy cứu về tội danh đó. - Ý thức chiếm đoạt phải hình thành trước hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt. Bởi vì nếu 31 sau khi có được tài sản một cách hợp pháp như được cho mượn, cho vay thông qua hợp đồng, người phạm tội mới nảy sinh ý định chiếm đoạt rồi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì khi đó không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015. 3. Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác 3.1. Sự nhầm lẫn trong việc định tội danh khi có yếu tố sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản Yếu tố sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản xuất hiện trong nhiều loại tội phạm khác nhau chứ không chỉ đơn thuần có trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015. Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản cho thấy còn xảy ra sự nhầm lẫn giữa các tội danh, trong việc nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các tội danh khác cùng có yếu tố sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt diễn ra tương đối phổ biến. Việc này đã dẫn đến hệ quả truy tố, xét xử không đúng với bản chất của hành vi phạm tội và là một trong những nguyên nhân khiến bản án bị hủy hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung. “Ví dụ: Ông Ngô H cho bà Bùi C vay số tiền 1,2 tỷ đồng để mua căn hộ chung cư bán lại kiếm lời. Tuy nhiên, sau đó thị trường bất động sản bị “đóng băng” dẫn đến căn hộ chung cư của bà C không giao dịch 32 được, vì vậy hai bên đã thỏa thuận chuyển nhượng quyền sở hữu căn hộ cho ông H để trừ nợ. Tháng 12/2019, bà C đã viết giấy chuyển nhượng cho ông H với giá 1,5 tỷ đồng, bà C đã nhận được 1,2 tỷ đồng (là tiền đã vay của ông H) và hẹn đến tháng 10 sẽ làm thủ tục chuyển nhượng. Bà C yêu cầu ông H chuyển 300 triệu đồng còn lại theo thỏa thuận, ông H đã thực hiện việc giao tiền và dọn đến ở tại căn chung cư nói trên. Đến thời điểm làm thủ tục chuyển nhượng theo thỏa thuận, bà C vì muốn dùng giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ trên cầm cố vay thêm tiền để trả nợ nên đã viện lý do mất giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ để trì hoãn. Sau đó bà C đã liên hệ bà Lê M vay 1,5 tỷ. Đến tháng 3/2020, vì không có khả năng trả nợ nên bà C đã thỏa thuận và làm thủ tục chuyển nhượng căn nhà cho bà M. Khi ông H biết được hành vi trên đã làm đơn tố cáo gửi Cơ quan điều tra. Các cơ quan tố tụng nhận định hành vi của bà C cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 và xác định bị hại là ông H vì cho rằng bà C đã thực hiện giao dịch bán chung cư cho ông H nhưng khi nhận tiền lại nảy sinh ý định không thực hiện thỏa thuận chuyển nhượng, đồng thời chiếm đoạt số tiền đã nhận bằng cách nói dối ông H là đã làm mất giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ chung cư. Trên thực tế, quá trình điều tra cho thấy rõ ý định ban đầu của bà C là bán căn nhà cho ông H để trừ nợ, giao dịch dân sự giữa bà C và ông H đã hoàn thành và ông H trở thành chủ sở hữu căn hộ chung 33 cư trên kể từ thời điểm thanh toán đủ số tiền như thỏa thuận và ông H trực tiếp quản lý căn hộ; bà C đã có hành vi lừa dối bà M bằng cách che giấu việc căn chung cư đã được bán cho ông H để chiếm đoạt tài sản của bà M. Hành vi của bà C đã cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 với nạn nhân là bà M. Xác định bà C lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là không phù hợp với tính chất hành vi phạm tội”1. 3.2. Những lưu ý khi giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản2 (i) Xác định dấu hiệu tội phạm trong hành vi của chủ thể Hiện nay, quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng về dấu hiệu định tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên khi nghiên cứu hồ sơ, cán bộ kiểm sát cần chủ động kiểm tra, yêu cầu thu thập đầy đủ những tài liệu, chứng cứ thể hiện hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt của người phạm tội; đánh giá các hành vi này dựa trên mối quan hệ nhân quả với nhau, hành vi lừa dối là điều kiện cần, có ý nghĩa quyết định để hành vi chiếm đoạt có thể được thực hiện. Trong trường hợp xuất hiện cả hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt nhưng hành vi gian dối không có ý nghĩa quyết định để hành vi chiếm đoạt xảy ra thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà ___________ 1, 2. https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc-su-kien/chi-thi-cong-tac nganh-kiem-sat-nhan-dan-nam-2019/mot-so-luu-y-khi-kiem sat-viec-giai-quyet-vu-an-lu-s23-t9254.html. 34 tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội xâm phạm sở hữu khác nếu hành vi chiếm đoạt thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội đó. Ví dụ: A đến cửa hàng điện thoại của B nói dối rằng muốn mua điện thoại và yêu cầu B cho xem mẫu, lợi dụng lúc B không chú ý A đã nhanh chóng cầm lấy chiếc điện thoại của B rồi tẩu thoát. Trong trường hợp này, hành vi của A đã cấu thành Tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 mặc dù hành vi khách quan của A có cả hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. (ii) Cần phải xem xét mặt chủ quan của người phạm tội về ý định chiếm đoạt tài sản Khi định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ngoài việc xem xét, đánh giá hành vi khách quan, cần phải xem xét mặt chủ quan của người phạm tội về ý định chiếm đoạt tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo đó khi định tội, trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, cần xem xét người phạm tội có mục đích chiếm đoạt hay không. Nếu một người có hành vi gian dối trong việc xác lập các giao dịch dân sự nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà coi là vụ án tranh chấp về dân sự, nếu người đó có thiện chí thực hiện các nghĩa vụ dân sự của mình. Đồng thời phải xem xét thời điểm người phạm tội nảy sinh mục đích chiếm đoạt tài sản, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thời 35 điểm nảy sinh ý định chiếm đoạt là trước khi người phạm tội nhận được tài sản từ nạn nhân. Thời điểm phát sinh ý định chiếm đoạt là một trong những yếu tố quan trọng để phân biệt giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, việc xác định thời điểm này không phải dễ dàng, Kiểm sát viên cần dựa trên những kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, đánh giá những lời khai, chứng cứ, tài liệu thể hiện trong hồ sơ để có nhận định chính xác nhất. (iii) Xác định đầy đủ khách thể bị xâm hại Đối với những trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn làm giả giấy tờ, tài liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi lừa đảo, cần phải nhận thức rõ hành vi phạm tội đang xâm phạm đến hai khách thể độc lập được Bộ luật Hình sự bảo vệ, đó là quyền sở hữu tài sản và trật tự quản lý hành chính nhà nước nên bị truy tố về cả hai tội danh là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét kỹ càng về con dấu, tài liệu bị làm giả; về nguyên tắc thì con dấu, tài liệu chỉ bị làm giả khi chúng tồn tại trên thực tế. Điều này có nghĩa, trong trường hợp người phạm tội dựa trên những con dấu, tài liệu thật của cơ quan tổ chức, sau đó sử dụng những phương pháp như khắc dấu giả, đúc con dấu giả, phương pháp in lưới hoặc cắt ghép nội dung để làm giả thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Đối với trường hợp người phạm tội tự chế ra 36 mẫu con dấu, tài liệu không có thật rồi lừa dối làm người khác tin tưởng giao tài sản để chiếm đoạt thì coi hành vi làm giả con dấu, tài liệu này là một dạng hành vi lừa dối của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và không truy cứu thêm về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. 3.3. Một số tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự năm 2015 có yếu tố lừa dối để chiếm đoạt tài sản nhưng không phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm được liệt kê tại Bộ luật Hình sự năm 2015 sau đây, nếu thoả mãn các yếu tố cấu thành tội phạm đó. Cụ thể bao gồm một số tội phạm sau: (i) Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 37 a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; g) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. 4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc 38 nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. (ii) Tội quảng cáo gian dối Điều 197. Tội quảng cáo gian dối 1. Người nào quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (iii) Tội lừa dối khách hàng Điều 198. Tội lừa dối khách hàng 1. Người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; b) Thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: 39 a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (iv) Tội trốn thuế Điều 200. Tội trốn thuế 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: a) Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật; b) Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; c) Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán; 40 d) Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn; đ) Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; e) Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; g) Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; h) Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; i) Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Có tổ chức; b) Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; 41 c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trốn thuế với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. 5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: a) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này trốn thuế với số tiền từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195 và 196 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng; b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 42 10.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. (v) Tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán Điều 212. Tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán 1. Người nào làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán thu lợi bất chính từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho nhà đầu tư từ 1.500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Thu lợi bất chính 2.000.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 3.000.000.000 đồng trở lên; c) Có tổ chức; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng, cấm đảm 43 nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (vi) Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm Điều 213. Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tiền bảo hiểm từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật; b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra; c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm; d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm, trừ trường hợp luật có quy định khác. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; 44 c) Chiếm đoạt số tiền bảo hiểm từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; d) Gây thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; đ) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Chiếm đoạt số tiền bảo hiểm 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. 5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: a) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này chiếm đoạt số tiền bảo hiểm từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 400.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng; b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b và đ khoản 2 Điều này hoặc chiếm đoạt số tiền bảo hiểm từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; 45 c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này chiếm đoạt số tiền bảo hiểm 3.000.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại 5.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng; d) Pháp nhân thương mại còn có thể bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. (vii) Tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp Điều 214. Tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng mà không thuộc trường hợp quy định tại một trong các điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ bảo hiểm xã hội, hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội; b) Dùng hồ sơ giả hoặc hồ sơ đã bị làm sai lệch nội dung lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: 46 a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; d) Gây thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (viii) Tội gian lận bảo hiểm y tế Điều 215. Tội gian lận bảo hiểm y tế 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng mà không thuộc trường hợp quy định tại một trong các điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Lập hồ sơ bệnh án, kê đơn thuốc khống hoặc kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, 47 dịch vụ kỹ thuật, chi phí giường bệnh và các chi phí khác mà thực tế người bệnh không sử dụng; b) Giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế hoặc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế được cấp khống, thẻ bảo hiểm y tế giả, thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa, thẻ bảo hiểm y tế của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ bảo hiểm y tế trái quy định. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; d) Gây thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (ix) Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp 48 Điều 217a. Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp 1. Người nào tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hoặc không đúng với nội dung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 174 và Điều 290 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; b) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; c) Gây thiệt hại cho người khác từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại cho người khác 1.500.000.000 đồng trở lên; c) Quy mô mạng lưới người tham gia 100 người trở lên. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm hành 49 nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (x) Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản; đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, Internet nhằm chiếm đoạt tài sản. 50 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Có tính chất chuyên nghiệp; d) Số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ; đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; e) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; g) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; c) Số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên; c) Số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. (xi) Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, 51 tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức Điều 341. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức 1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Làm từ 02 con dấu đến 05 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác; d) Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng; đ) Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Làm 06 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên; b) Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; c) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.52 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. II XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI LỪA ĐẢO 1. Những quy định chung về xử phạt vi phạm hành chính 1.1. Một số khái niệm (i) Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính1. (ii) Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính2. (iii) Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý ___________ 1, 2. Khoản 1, 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022. 53 hành chính mà lại thực hiện hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó1. (iv) Vi phạm hành chính nhiều lần là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính mà trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa bị xử lý và chưa hết thời hiệu xử lý2. (v) Vi phạm hành chính có tổ chức là trường hợp cá nhân, tổ chức câu kết với cá nhân, tổ chức khác để cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính3. 1.2. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính Nguyên tắc 1: Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật4; Nguyên tắc 2: Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật5; Nguyên tắc 3: Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng6; ___________ 1, 2, 3. Khoản 5, 6, 7 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022. 4, 5. Điểm a, b khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022. 6. Điểm c khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022. 54 Nguyên tắc 41: Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng; Nguyên tắc 5: Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính2; Nguyên tắc 6: Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân3. 1.3. Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính4 (i) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp sau đây: Vi phạm hành chính về kế toán; hóa đơn; phí, lệ phí; kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá; chứng khoán; ___________ 1, 2, 3. Điểm d, đ, e khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022. 4. Khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022. 55 sở hữu trí tuệ; xây dựng; thủy sản; lâm nghiệp; điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác; bảo vệ môi trường; năng lượng nguyên tử; quản lý, phát triển nhà và công sở; đất đai; đê điều; báo chí; xuất bản; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa; sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; quản lý lao động ngoài nước thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02 năm. Vi phạm hành chính về thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế; (ii) Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau: Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm. Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm; (iii) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời hiệu được áp dụng theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. (iv) Trong thời hạn được quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022 mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính 56 được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt. (v) Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Chương III từ Điều 68 đến Điều 79 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình (Nghị định số 144/2021/NĐ-CP). 2. Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản 2.1. Điều kiện áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính Những hành vi lừa đảo tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể (không thỏa mãn yếu tố mặt khách quan của tội phạm) thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác trong đó có biện pháp xử phạt vi phạm hành chính. Theo đó, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản không đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định số 144/2021/NĐ-CP. 2.2. Mức xử phạt vi phạm hành chính Nghị định số 144/2021/NĐ-CP không nêu khái niệm lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà liệt kê các hành vi lừa đảo và mức phạt tương ứng với từng hành vi đó, ví dụ: Gian lận hoặc lừa đảo trong việc môi giới, hướng dẫn giới thiệu dịch vụ mua, bán nhà, đất hoặc các tài sản khác; sẽ bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng 57 đến 5.000.000 đồng (Điểm c khoản 2 Điều 15 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP). Ngoài ra, các hành vi vi phạm, mức xử phạt chính, mức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi quy định tại Điều 15 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP, cụ thể: Điều 15. Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác 1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a) Trộm cắp tài sản, xâm nhập vào khu vực nhà ở, kho bãi hoặc địa điểm khác thuộc quản lý của người khác nhằm mục đích trộm cắp, chiếm đoạt tài sản; b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản; c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời điểm trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; d) Không trả lại tài sản cho người khác do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản; đ) Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. 2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a) Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của cá nhân, tổ chức, trừ trường hợp vi phạm quy định tại điểm b khoản 3 Điều 21 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP; 58 b) Dùng thủ đoạn hoặc tạo ra hoàn cảnh để buộc người khác đưa tiền, tài sản; c) Gian lận hoặc lừa đảo trong việc môi giới, hướng dẫn giới thiệu dịch vụ mua, bán nhà, đất hoặc các tài sản khác; d) Mua, bán, cất giữ hoặc sử dụng tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có; đ) Sử dụng, mua, bán, thế chấp, cầm cố trái phép hoặc chiếm giữ tài sản của người khác; e) Cưỡng đoạt tài sản nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 3. Hình thức xử phạt bổ sung: a) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 và các điểm a, b, c và đ khoản 2 Điều 15; b) Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 15. 4. Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các điểm c, d và đ khoản 2 Điều 15; b) Buộc trả lại tài sản do chiếm giữ trái phép đối với hành vi vi phạm quy định tại các điểm đ và e khoản 2 Điều 15; c) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 15. 59 PHẦN III NHẬN DIỆN CÁC THỦ ĐOẠN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN PHỔ BIẾN I CÁC THỦ ĐOẠN LỪA ĐẢO TRUYỀN THỐNG 1. Lừa “chạy việc” 1.1. Thủ đoạn lừa đảo “chạy việc”, “xin việc” Theo “Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý IV năm 2021 và chỉ số phát triển con người Việt Nam 2016-20201 của Tổng cục Thống kê, đã công bố về vấn đề thất nghiệp trong độ tuổi lao động tại Việt Nam như sau: Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2021 là hơn 1,4 triệu người, tăng 203,7 nghìn người so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 3,22%, tăng 0,54 điểm phần trăm so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 4,42%, cao hơn 1,94 điểm phần trăm so với khu vực nông thôn. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (15-24 tuổi) là 8,48%, tăng 0,52 điểm phần trăm so với năm trước. ___________ 1. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/ 01/thong-cao-bao-chi-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iv-nam 2021-va-chi-so-phat-trien-con-nguoi-viet-nam-2016-2020/. 60 Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 11,91%, tăng 1,33 điểm phần trăm so với năm trước. Mặc dù Chính phủ đã có các chính sách chủ động thích ứng linh hoạt trong phòng chống Covid-19, vừa thực hiện phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội nhưng tính chung cả năm 2021 thị trường lao động vẫn còn gặp nhiều khó khăn, với tỷ lệ thất nghiệp năm nay cao hơn năm trước, trong đó khu vực thành thị vượt mốc 4%. Trong quý I năm 2023 tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước tính là 2,25%, giảm 0,07 điểm phần trăm so với quý trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước tính là 2,25%, giảm 0,07 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,21 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) là 7,61%, giảm 0,09 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,32 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước tính là 2,25%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 1,94%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,07 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước1. Mặc dù, tỷ lệ thất nghiệp đang dần được cải thiện so với trước đây, xuất phát từ thực trạng trên và nắm bắt tâm lý của bậc cha mẹ mong muốn con em mình sau khi ra trường có được việc làm ổn định ___________ 1. https://nhandan.vn/quy-i2023-ty-le-that-nghiep-trong do-tuoi-lao-dong-uoc-tinh-la-225-post745234.html. 61 trong cơ quan nhà nước, các đối tượng thường là những người có quen biết hoặc được người quen giới thiệu, đưa ra các thông tin gian dối như có mối quan hệ với nhiều lãnh đạo cấp cao, hiện người nhà của đối tượng cũng đang làm lãnh đạo cơ quan nhà nước A, B, C... và chắc chắn sẽ xin được việc làm cho bị hại/người nhà của họ với điều kiện là phải chịu “chung chi” lo được tiền “chạy việc”. Do không tìm hiểu kỹ thông tin, lại thêm phần “nhẹ dạ cả tin”, người nhà đã dễ dàng tin tưởng vào thông tin gian dối mà các đối tượng đưa ra. Nhiều gia đình không có điều kiện phải vay mượn anh em họ hàng, thậm chí cầm cố nhà cửa, tài sản cho ngân hàng để có tiền lo cho con em mình, số tiền “chạy việc”, ít thì vài chục triệu, trung bình cũng vài trăm triệu, cá biệt có những trường hợp số tiền lên đến hàng tỷ đồng, đến khi tiền mất, việc không có mới tìm đến cơ quan chức năng trình báo. Bạn đọc tham khảo bài viết trên Báo điện tử Nhân dân1 sau đây: - Tháng 10/2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố HN hoàn tất cáo trạng truy tố bị can Trịnh Thị Thanh H (sinh năm 1958, trú tại xã H, huyện T, thành phố HN) về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Theo cáo trạng, H có hành vi lừa đảo thông qua việc nhận tiền để xin cho các cá nhân đi làm tại các bệnh viện, đi học tại các trường công an nhân dân. ___________ 1. https://nhandan.vn/ban-doc-viet/dau-tranh-voi-thu-doan lua-dao-thong-qua-hinh-thuc-xin-viec-672963/. 62 Sau khi nhận tiền, bà H không thực hiện như cam kết và chiếm đoạt tiền của nhiều người. Trong số các nạn nhân, có hai người bị lừa với số tiền lớn, lần lượt là 770 triệu đồng và 620 triệu đồng; - Ngày 14/10/2021, Công an thành phố ĐN thực hiện lệnh bắt tạm giam bốn tháng đối tượng Văn Hữu T (sinh năm 1987, trú quận HC) về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Để lừa đảo, T tự xưng là người nhà của một nguyên lãnh đạo thành phố ĐN rồi đưa thông tin là có thể xin việc làm nhân viên an ninh, thợ điện,... tại sân bay cho ai có nhu cầu với “giá” 20.000 USD/suất. Bằng thủ đoạn nêu trên, T lừa đảo được 60.000 USD và 400 triệu đồng rồi cắt đứt liên lạc với các nạn nhân và bỏ trốn. Trên đây là hai trong số rất nhiều vụ lừa đảo thông qua hình thức xin việc xảy ra trong thời gian qua. Theo báo cáo của Bộ Công an, từ ngày 25/5/2020 đến ngày 24/5/2021, cả nước phát hiện hơn 5.400 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản với số tiền hàng nghìn tỷ đồng. Với các vụ lừa đảo “chạy việc”, có thể thấy, để thực hiện hành vi, các đối tượng đã đưa ra các thông tin là có nhiều mối quan hệ, quen biết với các lãnh đạo, người nhà lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước... để khuếch trương thanh thế, tạo sự tin tưởng. Khi người dân không tìm hiểu kỹ sẽ trở thành “con mồi” của các đối tượng nêu trên. Phần lớn các vụ lừa đảo sau khi nhận tiền của nạn nhân, đối tượng sẽ kiếm các lý do để thoái thác trách nhiệm. Nhiều đối tượng sau khi nhận tiền đã thay đổi nơi cư trú, đổi số điện thoại... 63 1.2. Những khó khăn trong công tác điều tra, xử lý các đối tượng về hành vi lừa đảo xin việc Trên thực tế, công tác điều tra, xử lý các đối tượng về hành vi lừa đảo xin việc gặp nhiều khó khăn vì tất cả các thỏa thuận về nội dung “chạy việc” chỉ là những thỏa thuận bằng lời nói và không có bằng chứng kèm theo. Phần thỏa thuận về số tiền chạy việc được đối tượng và nạn nhân viết tay dưới hình thức vay nợ mà không hề đề cập nội dung xin việc. Mặc dù, xét về góc độ pháp lý giao dịch vay nợ là một giao dịch dân sự và giao dịch này sẽ bị vô hiệu do giả tạo hoặc vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, các bên sẽ phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận - tức là người nhận tiền sẽ phải trả lại khoản tiền đã nhận theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 20151 nhưng để thực hiện ___________ 1. Bộ luật Dân sự năm 2015 ... Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. ... 64 được việc này, người bị hại phải khởi kiện, yêu cầu Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu trả lại tiền theo thủ tục tố tụng dân sự. Theo đuổi tiến trình tố tụng này, người khởi kiện sẽ phải mất rất nhiều thời gian và công sức nếu như đối tượng lừa đảo không thiện chí trong việc trả lại tiền. ___________ Điều 122. Giao dịch dân sự vô hiệu Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác. ... Điều 124. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo 1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan. 2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu. ... Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu 1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. 3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. 4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. 5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định. 65 Có thể thấy, hành vi chi tiền để xin việc không chỉ có nguy cơ làm mất đi cơ hội của những người đủ điều kiện tuyển dụng, mà còn là hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, khi bị mất tiền thông qua các đối tượng nhận “chạy việc” thì nạn nhân sẽ phải chịu rủi ro rất cao về pháp lý và rất khó đòi lại được tiền. 1.3. Một số lưu ý trong các vụ nhận tiền để xin việc Lưu ý 1: Người đưa tiền để xin việc có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ quy định tại Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015 với mức cao nhất của khung hình phạt lên đến 20 năm tù1; ___________ 1. Điều 364. Tội đưa hối lộ 1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; b) Lợi ích phi vật chất. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đ) Phạm tội 02 lần trở lên; e) Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. 3. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. 66 Lưu ý 2: Người trung gian hứa xin việc sẽ bị truy cứu về tội môi giới hối lộ quy định tại Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015 với mức cao nhất của khung hình phạt lên đến 15 năm tù1; Lưu ý 3: Người nhận tiền sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ quy định tại Điều 354 ___________ 4. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. 6. Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này. 7. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. 1. Điều 365. Tội môi giới hối lộ 1. Người nào môi giới hối lộ mà của hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; b) Lợi ích phi vật chất. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước; 67 Bộ luật Hình sự năm 2015 với mức phạt cao nhất của khung hình phạt là tử hình1. 2. Lừa “chạy án” Đối tượng thực hiện hành vi lừa đảo “chạy án” cơ bản cũng thực hiện cùng phương thức với thủ ___________ đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; e) Phạm tội 02 lần trở lên; g) Của hối lộ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. 3. Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. 4. Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng. 6. Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. 7. Người nào môi giới hối lộ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này. 1. Điều 354. Tội nhận hối lộ 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; b) Lợi ích phi vật chất. 68 đoạn lừa “chạy việc”. Bước đầu đối tượng sẽ tạo vỏ bọc là người có quen biết với Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án hoặc chính họ là những người đang công tác trong ngành. Sau đó họ chủ động hoặc thông qua trung gian để tiếp cận với người phạm tội hoặc thân nhân của họ. Lợi dụng tâm lý của nạn ___________ 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn; c) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; d) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng; đ) Phạm tội 02 lần trở lên; e) Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước; g) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm: a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên. 5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. 6. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này. 69 nhân khi có hành vi vi phạm pháp luật thường sợ phải thụ án tại các trại giam nên tìm đủ mọi cách để xin giảm từ tù giam xuống cải tạo không giam giữ, hoặc rút ngắn thời gian thi hành án phạt tù, các đối tượng đặt vấn đề “chạy án”. Thực tế cho thấy, đa phần các đối tượng sau khi chiếm được lòng tin của bị hại, nhận được tiền rồi đều sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân chứ không có bất kỳ động thái nào để “chạy án” cho bị hại. Lưu ý: Trong trường hợp có hành vi “chạy án” mà người nhận hồ sơ “chạy án” là người có chức vụ thì người đưa tiền để “chạy án” có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ quy định tại Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015; Người trung gian hứa tìm người “chạy án” sẽ bị truy cứu về tội môi giới hối lộ quy định tại Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015; Người nhận tiền sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ quy định tại Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bạn đọc tham khảo bài viết trên Báo điện tử VnExpress sau đây1: Ngày 12/01, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh T cho biết vừa ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam đối với Phùng Ánh T, sinh năm 1974, ở khu 5, thị trấn H, huyện L để điều tra, làm rõ hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. ___________ 1. https://vnexpress.net/lua-chay-an-lay-hon-800-trieu dong-4431465.html. 70 Trước đó, ngày 29/12/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh T tiếp nhận đơn tố giác của bà Nguyễn Hồng N, ở xã H, huyện T về việc bị T lừa chiếm đoạt số tiền lớn thông qua hình thức “chạy án”. Theo nội dung đơn tố giác, vào ngày 14/9/2021, con trai bà N là Nguyễn Anh T bị Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh bắt giữ về tội “Đánh bạc và cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Ngay sau khi anh T bị bắt, bà N gặp và nói chuyện với Phùng Ánh T về việc anh T bị bắt. Phùng Ánh T đưa ra thông tin, bản thân có nhiều mối quan hệ có thể lo cho anh T và hứa hẹn với bà N sẽ chạy cho anh T được tại ngoại và không bị xử lý hình sự, đồng thời yêu cầu bà N chuẩn bị số tiền 2 tỷ đồng đưa cho Phùng Ánh T để “chạy án”. Do tin tưởng, bà N đã bàn bạc với gia đình chuẩn bị số tiền là 1 tỷ 995 triệu đồng để đưa cho Phùng Ánh T. Sau khi giao tiền, bà N không thấy con trai được tại ngoại mà còn bị Cơ quan cảnh sát điều tra khởi tố thêm nhiều tội danh khác. Cho rằng đã bị Phùng Ánh T lừa đảo chiếm đoạt tiền, bà N đã làm đơn tố giác đến cơ quan điều tra. Ngay sau khi tiếp nhận đơn tố giác, Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành triệu tập đối với Phùng Ánh T, nhưng đối tượng bỏ trốn, đến ngày 30/12/2021 T đã đến đầu thú tại Cơ quan cảnh sát điều tra. Cơ quan cảnh sát điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam đối với Phùng Ánh T để điều tra mở rộng vụ án. 71 3. Lừa tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài Bước đầu tiên các đối tượng thực hiện là thành lập doanh nghiệp nhưng thực tế không có hoạt động sản xuất kinh doanh. Sau đó trực tiếp hoặc thông qua các cá nhân, doanh nghiệp trong nước để lập các bộ hồ sơ gửi tới các cơ quan của Đảng, Chính phủ đề nghị xem xét, giải quyết cho tiếp nhận, giải ngân nguồn vốn đầu tư nước ngoài, khai thác kho báu... có sử dụng giấy tờ giả mạo của các ngân hàng, tổ chức tài chính lớn như hối phiếu/trái phiếu quốc tế, điện chuyển tiền, chứng từ bảo lãnh, chứng nhận sở hữu tài sản, di sản thừa kế có giá trị hàng triệu đến hàng ngàn tỷ USD, EUR...; thậm chí sử dụng các văn bản tiếp nhận đơn, thư, phiếu giải quyết văn bản của các cơ quan nhà nước để lấy mẫu dấu, chữ ký và làm văn bản giả mạo để hoạt động lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Các đối tượng tìm cách tiếp cận các cán bộ lão thành, lãnh đạo các cấp để gây sức ép tới các bộ, ngành, địa phương xử lý hồ sơ, tiếp nhận đơn thư, tạo uy tín cho bản thân; lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân, doanh nghiệp trong nước để tiếp cận, tạo niềm tin và đề nghị ký kết hợp đồng hợp tác hoặc tham gia vào việc lập hồ sơ để đăng ký tiếp nhận nguồn vốn nước ngoài, khai thác “kho báu”, “di sản, tài sản thừa kế”; mập mờ, che giấu thông tin trong việc mua, bán các loại tiền xu lưu niệm có màu vàng, bạc của các quốc gia, các loại thẻ được tự giới thiệu có tính chất như thẻ tín dụng ngân hàng... 72 Bên cạnh đó, các đối tượng còn móc nối với các cá nhân là người nước ngoài, Việt kiều tự xưng là “chuyên gia”, người đại diện cho các tổ chức, quỹ tài chính quốc tế, xét duyệt dự án, tìm kiếm “kho báu”, sở hữu tiền và tài sản trôi nổi của các quốc gia khác tại Việt Nam... hoặc tự nhận là người của lãnh đạo các ban, bộ, ngành đang giữ các thông tin, tài liệu liên quan đến “dự án”, “kho báu”, “di sản, tài sản thừa kế”... Từ đó, các đối tượng đề nghị các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có nhu cầu tiếp nhận/vay vốn phải tạm ứng, chi trả các “chi phí cho chuyên gia xét duyệt hồ sơ”, “chi phí tìm kiếm kho báu”, “chi phí làm thủ tục tiếp nhận di sản, tài sản thừa kế”, “chi phí ngoại giao, bôi trơn”, “chi phí xem hồ sơ, nguồn tiền”... rồi chiếm đoạt tài sản. Bạn đọc tham khảo bài viết đăng trên Báo điện tử Công an nhân dân sau đây1: Thời gian gần đây, qua công tác nắm tình hình, lực lượng Công an phát hiện nhiều nhóm cá nhân, doanh nghiệp được thành lập và hoạt động mang dấu hiệu lừa đảo thông qua việc lập các hồ sơ, đơn thư xin tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tìm kiếm, khai thác “kho báu”, “tiếp nhận di sản”, “tiền trôi nổi”... có giá trị từ hàng trăm đến hàng ngàn tỷ đồng, USD, EURO, Yên Nhật... ___________ 1. http://bocongan.gov.vn/canh-bao-toi-pham/dau-hieu lua-dao-tu-cac-don-thu-xin-tiep-nhan-hang-nghin-ty-dong tu-nguon-von-nuoc-ngoai-khai-thac-kho-bau-tiep-nhan-di san-d104-t29106.html. 73 Các đối tượng liên tục làm “Tờ trình”, “Thông báo”, đơn “Đề nghị” xin được “khai thác kho báu”, “tiếp nhận di sản”. Điển hình có thể kể đến như: Công ty cổ phần Quốc tế H, Công ty cổ phần Di sản quốc tế H, do Nguyễn Quốc L, Lê Nguyên Th (còn tự xưng là Chủ tịch Hội đoàn xử lý di sản quốc tế) là thành viên sáng lập, đại diện pháp luật (các đối tượng đã có tiền án, tiền sự); Công ty cổ phần CT Toàn cầu giác mạc 13579 do Văn Hùng T là Tổng Giám đốc; Công ty cổ phần Đầu tư N do Trần Minh Ph là Tổng Giám đốc; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đ do Nguyễn Hoàng N là Giám đốc; Công ty cổ phần Quốc tế A; Công ty Đ miền Nam; Công ty cổ phần T do Trần Lê Thu T làm đại diện pháp luật... Một số cá nhân có liên quan như: Nguyễn Thị Thúy Ch, Lê Thị Thu L, Lê Quang N, Lý Ngọc Th có dấu hiệu lừa đảo... Các đối tượng thành lập các doanh nghiệp nhưng không có hoạt động sản xuất kinh doanh; tự xưng các tổ chức (không có cơ sở pháp lý), không đúng quy định của pháp luật; phần lớn các cá nhân tham gia vào hoạt động lừa đảo này đều có tiền án, tiền sự về tội lừa đảo, làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức, không có nghề nghiệp, nơi cư trú rõ ràng. Qua xác minh, đa phần các đối tượng đều không có mặt tại nơi cư trú theo địa chỉ trong giấy phép đăng ký kinh doanh. Các cá nhân, doanh nghiệp này đã nhiều lần trực tiếp hoặc thông qua các doanh nghiệp trong nước lập các bộ hồ sơ gửi tới các cơ quan Trung ương đề nghị xem xét, giải quyết cho tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài, khai thác “kho báu”... 74 Hoạt động mang dấu hiệu lừa đảo này đã được Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tuyên truyền, cảnh báo nhiều lần; một số đối tượng đã bị Công an các địa phương khởi tố, điều tra về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc phối hợp với các ban, ngành để xử lý theo quy định của pháp luật (thu hồi giấy phép), yêu cầu viết cam kết không thực hiện các hoạt động tương tự. Tuy nhiên, thời gian gần đây, các cá nhân, doanh nghiệp nêu trên vẫn tiếp tục hoạt động, lập và sử dụng nhiều pháp nhân mới, tự xưng là người của các tổ chức mới (không có thật) như “Tổ chức hậu cần mật”, “Di sản Triều Nguyễn”, “Hội đoàn xử lý di sản tài chính thế giới”, “Tập đoàn JESC”... để soạn thảo các “Tờ trình”, “Thông báo” và “Đề nghị” gửi các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương đề xuất xin được “khai thác kho báu”, “tiếp nhận di sản”; chào mời các cá nhân, doanh nghiệp hợp tác đầu tư, góp vốn, gây thiệt hại kinh tế cho các cá nhân, doanh nghiệp và làm ảnh hưởng hoạt động của các cơ quan nhà nước khi liên tục phải tiếp nhận, xử lý các hồ sơ “không có thật” do các đối tượng gửi đến. 4. Lừa kêu gọi đầu tư vào các công ty, dự án Thủ đoạn lừa đảo dạng này khá mới và cũng rất khó chứng minh yếu tố lừa đảo bởi khi kêu gọi đầu tư, trước khi chuyển khoản các đối tượng yêu cầu bị hại ghi nội dung chuyển tiền là “chuyển tiền để thành lập công ty” và trên nguyên tắc một khi đầu 75 tư thì “lời ăn lỗ chịu” do đó khi bị lừa đảo mất tiền thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự rất khó khăn. Theo đó, các đối tượng này thường núp dưới vỏ bọc là những doanh nhân thành đạt, giàu có. Họ đánh bóng tên tuổi, sự thành công bằng cách đi những chiếc xe hơi sang trọng, đắt tiền; thường tiếp xúc và chụp ảnh chung với những lãnh đạo cấp cao và có mối quan hệ thân thiết với lãnh đạo cấp cao đó. Tiếp đến, các đối tượng này tiếp cận các nạn nhân, những người đang có nhu cầu muốn thành lập công ty, muốn đầu tư kinh doanh hoặc đang rơi vào lúc khó khăn về tài chính cần sự hợp tác để “giải ngân các nguồn vốn tỷ đô” của các công ty nước ngoài mà các đối tượng vẽ ra. Sau khi dụ dỗ được nạn nhân góp vốn đầu tư thì các đối tượng chiếm đoạt. Bạn đọc tham khảo nội dung bài viết đăng trên Báo điện tử Công an nhân dân sau đây1: Khoảng đầu năm 2014, trong lúc khó khăn trong việc làm ăn, qua một vài trận tennis giao lưu cùng các đối tác, ông D được một người thanh niên tên Nguyễn Văn T, tự giới thiệu là Giám đốc của một công ty đầu tư lớn, đến làm quen. Người thanh niên này không quên “đánh bóng thương hiệu”, hé lộ cho ông D biết mình có chân trong một quỹ đầu tư và đang có nhu cầu giải ngân một số vốn lên tới gần 1 tỷ đô la Mỹ. Biết doanh nghiệp của D đang trong hoàn cảnh khó khăn về vốn đầu tư, T gợi ý sẽ tạo vốn cho ông D để ___________ 1. https://cand.com.vn/Phap-luat/Canh-giac-voi-thu-doan lua-dao-keu-goi-gop-von-dau-tu-vao-cac-du-an-i403334/. 76 doanh nghiệp của ông có thể vượt qua cơn khủng hoảng thiếu vốn. Để làm được điều này, thì ông D và bên phía T phải xúc tiến thành lập một công ty quốc tế, có trụ sở tại một quốc gia Đông Nam Á, mỗi bên sẽ góp một nửa chi phí. Sau khi công ty được cấp đăng ký kinh doanh, T sẽ giải ngân cho công ty ông D từ 5 đến 10% tổng số vốn của dự án. T đưa ra những tài khoản có số dư vài trăm triệu đô la ở ngân hàng Anh Quốc, Thụy Sỹ, và nhiều văn bản mà nội dung xoay quanh việc đầu tư nhiều dự án “khủng” ở nhiều nơi như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh... Đặc biệt, T còn có trong tay văn bản trả lời của Văn phòng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ về một số dự án “đất vàng” mà T liên doanh liên kết... Tin theo lời của T, khoảng tháng 5/2015, ông D đã chuyển khoản cho T số tiền gần 200 triệu đồng để T thành lập một công ty có trụ sở đặt tại Kuala Lumpur, Malaixia. Đến tháng 6/2016, khi đã nhiều lần chuyển tiền cho T nhưng vẫn thấy công việc đầu tư hầu như vẫn án binh bất động, ông D đã tuyên bố chấm dứt việc liên kết làm ăn với T và đòi lại số tiền đã góp. T chỉ trả lời ráo hoảnh từ chối trả tiền cho ông D. Không đòi được vốn đã chuyển cho T, ông D đã viết đơn tố cáo hành vi lừa đảo của T và đồng bọn. Trường hợp của ông Phạm Tuấn V (51 tuổi, là Tổng Giám đốc công ty xây dựng V) cũng bị T cùng đồng bọn lừa đảo. Khi thấy T ngỏ lời có dự án hơn 500 triệu đô la (khoảng 10.000 tỷ đồng) đang cần 77 một đơn vị có pháp danh ở Việt Nam để phối hợp triển khai thì ông V lập tức “cắn câu”. Vẫn với chiêu bài thành lập công ty quốc tế, nhưng lần này T còn rủ Tổng Giám đốc V sang tận Kuala Lumpur (Malaixia) để gặp các nhà đầu tư quốc tế và ăn uống tại các nhà hàng, khách sạn bậc nhất tại đây. Về tới Việt Nam ông V ngay lập tức chuyển 150 triệu đồng vào tài khoản của T để đặt cọc tham gia dự án. Cho đến giữa năm 2016, sau nhiều lần gọi điện không thấy T nghe máy, ông V mới liên lạc với ông D thì mới biết, ông D cũng bị lừa với thủ đoạn tương tự... Được biết, từ năm 2015 đến nay, Hoàng Văn T và đồng bọn là Trần Huyền M, bằng thủ đoạn rủ rê đầu tư một số dự án với đối tác ngoại đã lừa được cả chục giám đốc công ty chuyên về xây dựng ở Hà Nội và một vài tỉnh thành như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng... Hai đối tượng Hoàng Văn T và Trần Huyền M vốn là những kẻ không có việc làm, sống tại các khách sạn bằng tiền lừa đảo. Trong hành lý của hai đối tượng mang theo gồm quần áo, bình nước nóng, ấm đun nước, sạc điện thoại, giắc cắm các loại; thậm chí còn có sẵn cả túi nilon để làm đá lạnh. Những văn bản của Văn phòng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ về một số dự án được các đối tượng “cắt dán” ở nhiều tài liệu khác nhau. Thông qua một số kênh, chúng có được một số tài liệu của Thanh tra Chính phủ trả lời về một số nội dung khiếu kiện về đất đai. 78