🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nguyễn Đình Chiểu - Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
TS. VŨ THỊ HƯƠNG
TS. NGUYỄN DIỆU LINH
NGUYỄN MAI ANH
ThS. NGUYỄN THANH HƯƠNG
ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ
Trình bày bìa: ĐƯỜNG HỒNG MAI Chế bản vi tính: NGUYỄN THỊ HẰNG Đọc sách mẫu: MAI ANH - THANH HƯƠNG BÍCH LIỄU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: …2022/CXBIPH/..-../CTQG. Số quyết định xuất bản: ..-QĐ/NXBCTQG, ngày ../../2022. Nộp lưu chiểu: tháng .. năm 2022.
Mã ISBN: 978-604-57-….-…
BAN TUYỂN CHỌN
GS.TS. NGUYỄN CHÍ BỀN PGS.TS. LÂM NHÂN PGS.TS. PHẠM LAN OANH TS. NGUYỄN HOjNG
5
6
7
8
9
10
11
Phiên họp thứ 41, Paris, năm 2021 41 C
41 C / 15
26 tháng 10 năm 2021
Bản gốc: tiếng Pháp
Mục 5.1 của chương trình làm việc tạm thời
ĐỀ XUẤT CỦA CÁC QUỐC GIA THjNH VIÊN TỔ CHỨC LỄ KỶ NIỆM VjO NĂM 2022 - 2023 Mj UNESCO CÓ THỂ CÙNG THỰC HIỆN
ĐỀ CƯƠNG
Nguồn: Quyết định 211EX/30 và Quyết định 212EX/37
Bối cảnh: Theo Quyết định 195/EX25 và 206 EX/30, Chủ tịch Hội đồng đã đệ trình tại phiên họp thứ 211 và 212 của Ban điều hành các đề xuất của các quốc gia thành viên liên quan đến việc tổ chức các ngày kỷ niệm được xem là tuân thủ các tiêu chí luật định và thủ tục.
Mục đích: Đại hội được yêu cầu đưa ra quyết định đối với các khuyến nghị của Ban Chấp hành liên quan đến việc tổ chức các ngày kỷ niệm UNESCO có thể phối hợp thực hiện vào năm 2022 - 2023, được nêu trong Quyết định 211EX/30 và 212EX/37. Yêu cầu quyết định: đoạn 4.
12
1. Theo thủ tục luật định để lựa chọn các ngày kỷ niệm (Quyết định 195 EX/25 và 206 EX/30), Chủ tịch Hội đồng đã trình lên Ban điều hành tại phiên họp thứ 211 danh sách 60 đề cử đưa vào lịch biểu của các lễ kỷ niệm trong năm 2022 - 2023 (tài liệu 211 EX/30).
2. Theo Quyết định 195 EX/25 và 206 EX/30, các quốc gia thành viên từ các khu vực có đại diện hoặc không có đại diện được mời nộp các đề xuất mới cho giai đoạn 2022 - 2023 và gửi kháng cáo (nếu có) liên quan đến các yêu cầu đã bị từ chối trong giai đoạn thủ tục đầu tiên. Do đó, Chủ tịch Hội đồng đã đệ trình lên Ban Chấp hành tại phiên họp thứ 212 danh sách 7 đề xuất, bao gồm các đề xuất sửa đổi và đề xuất mới cho việc tổ chức các ngày kỷ niệm UNESCO có thể phối hợp thực hiện vào năm 2022 - 2023 (tài liệu 207 EX/37).
3. Ban Chấp hành, tại phiên họp thứ 211 và 212, đã khuyến nghị Đại hội đồng lựa chọn để tổ chức các ngày kỷ niệm do các quốc gia thành viên đề xuất và có trong Quyết định 211 EX/30 và 212 EX/37. Kể từ khi Ban điều hành thông qua các quyết định này, một số quốc gia thành viên đã thông báo cho Ban Thư
ký về những thay đổi trong tài trợ, do đó được ghi nhận trong danh sách trình bày trong Phụ lục (Jordan cho ngày kỷ niệm số 34, Thổ Nhĩ Kỳ cho lễ kỷ niệm số 61 và Uzbekistan, Cộng hòa Hồi giáo Iran và Tajikistan cho lễ kỷ niệm số 65.
Dự thảo nghị quyết được đề xuất
4. Vì những điều trên, Đại hội đồng có thể muốn thông qua một nghị quyết theo 4 nội dung:
Đại hội,
Đã kiểm tra tài liệu 41 C/15,
Nhắc lại Quyết định 195 EX/25 và Quyết định 206 EX/30,
13
1. Khuyến khích các quốc gia thành viên cải thiện tính đại diện theo khu vực địa lý và thúc đẩy bình đẳng giới nhằm nâng cao chất lượng, tính đại diện và tầm nhìn của chương trình;
2. Quyết định rằng UNESCO sẽ phối hợp vào năm 2022- 2023 với việc tổ chức lễ kỷ niệm các ngày kỷ niệm có trong Phụ lục của tài liệu 41 C/15;
3. Đồng thời quyết định rằng bất kỳ đóng góp nào của Tổ chức cho các lễ kỷ niệm này sẽ được tài trợ theo Chương trình Tham gia, phù hợp với các quy tắc điều chỉnh Chương trình đó.
14
PHỤ LỤC
LỄ KỶ NIỆM NĂM 2022 - 2023 ĐƯỢC UNESCO PHỐI HỢP THỰC HIỆN (NHƯ ĐƯỢC ĐỀ NGHỊ TRONG
ĐẠI HỘI THEO QUYẾT ĐỊNH 211 EX/30 Vj 212 EX/37; DANH SÁCH ĐƯỢC LIỆT KÊ THEO THỨ TỰ BẢNG CHỮ CÁI DỰA VjO TÊN TIẾNG ANH Mj CÁC THjNH VIÊN GỬI VỀ)
1. Kỷ niệm 100 năm bắt đầu nghiên cứu khảo cổ học ở Afghanistan (1922) (Afghanistan, với hỗ trợ của Azerbaijan và Turkmenistan)
2. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tiến sĩ António Agostinho Neto, nhà thơ, người sáng lập đất nước và là Tổng thống đầu tiên của Angola (1922 - 1979) (Angola, với sự hỗ trợ của Namibia và Mozambique)
3. Kỷ niệm 100 năm thành lập Ủy ban Điện ảnh Nhà nước Armenia (1923) (Armenia, với sự hỗ trợ của Pháp, Gruzia và Liên bang Nga)
4. Kỷ niệm 850 năm ngày mất của Nerses the Gracious (Nerses Shnorhali), nhà thơ, biên niên sử, nhà thần học, nhạc sĩ và dịch giả (1101/2 - 1173) (Armenia, với sự hỗ trợ của Cyprus, Ý, Hy Lạp và Cộng hòa Ảrập Syria)
5. Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Haji Zeynalabdin Taghiyev, nhà từ thiện (1823 - 1924) (Azerbaijan, với sự hỗ trợ của Pakistan, Liên bang Nga và Thổ Nhĩ Kỳ)
6. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà soạn nhạc Fikret Amirov (1922 - 1984) (Azerbaijan, với sự hỗ trợ của Kyrgyzstan, Liên bang Nga và Thổ Nhĩ Kỳ)
7. Kỷ niệm 100 năm thành lập Thư viện Quốc gia Belarus (1922) (Belarus, với sự hỗ trợ của Kazakhstan, Kyrgyzstan, Cộng hòa Moldova, Liên bang Nga và Tajikistan)
15
8. Kỷ niệm 100 năm Hội nghị Solvay đầu tiên về Hóa học (1922) (Bỉ, với sự hỗ trợ của Pháp và Thụy Sĩ)
9. Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Antônio Gonçalves Dias, nhà thơ (1823 - 1864) (Brazil, với sự hỗ trợ của Cabo Verde và Bồ Đào Nha)
10. Kỷ niệm 300 năm ngày sinh của Paisius of Hilendar, nhà sử học (1722 - 1773) (Bulgaria, với sự hỗ trợ của Romania, Liên bang Nga và Slovenia)
11. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Giáo sư Joseph Ki Zerbo, nhà văn (1922 - 2006) (Burkina Faso, với sự hỗ trợ của Côte d'Ivoire và Mali)
12. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Marija Jurić Zagorka, tiểu thuyết gia và nhà nữ quyền (1873 - 1957) (Croatia, với sự hỗ trợ của Bosnia và Herzegovina và Bắc Macedonia)
13. Kỷ niệm 100 năm ngày mất của họa sĩ Vlaho Bukovac (1855 - 1922) (Croatia, với sự hỗ trợ của Bosnia và Herzegovina và Bắc Macedonia)
14. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà khoa học Antonio Núñez Jiménez (1923 - 1998) (Cuba, với sự hỗ trợ của Nicaragua và Cộng hòa Bolivar Venezuela)
15. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Marta Arjona, nhà điêu khắc và thợ vẽ (1923 - 2006) (Cuba, với sự hỗ trợ của Nicaragua và Cộng hòa Bolivar Venezuela)
16. Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Gregor Johann Mendel (1822 - 1884) (Cộng hòa Séc, với sự hỗ trợ của Áo, Đức và Slovakia)
17. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của nhà thơ Hafiz Ibrahim (1872 - 1932) (Ai Cập, với sự hỗ trợ của Jordan, Morocco và Saudi Arabia)
18. Kỷ niệm 75 năm ngày mất của Huda Sha'arawi, nhà lãnh đạo nữ quyền và người sáng lập ra người Ai Cập Liên minh Nữ quyền (1879 - 1947) (Ai Cập, với sự hỗ trợ của Maroc)
16
19. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Juri Lotman, nhà ký hiệu học, học giả văn học và nhà sử học văn hóa (1922 - 1993) (Estonia, với sự hỗ trợ của Hungary, Ý, Litva và Liên bang Nga)
20. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Thérèse thành Lisieux, nhà thần bí (1873 - 1897) (Pháp, với hỗ trợ của Bỉ và Ý) 21. Kỷ niệm 100 năm ngày mất của kỹ sư Gustave Eiffel (1832 - 1923) (Pháp, với sự hỗ trợ của Bỉ và Hungary) 22. Kỷ niệm 100 năm thành lập Học viện Nghệ thuật Bang Tbilisi (1922) (Georgia, với sự hỗ trợ của Armenia) 23. Kỷ niệm 100 năm thành lập Đại học Kỹ thuật Gruzia (GTU) (1922) (Georgia, với sự hỗ trợ của Thổ Nhĩ Kỳ) 24. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà văn Judith Kerr (1923 - 2019) (Đức, với sự hỗ trợ của Thụy Sĩ và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland)
25. Kỷ niệm 25 năm ngày mất của Magda Staudinger, nhà sinh vật học và thực vật học (1902 - 1997) (Đức, với sự hỗ trợ của Estonia và Latvia)
26. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ca sĩ Maria Callas (1923 - 1977) (Hy Lạp, với sự hỗ trợ của Pháp và Ý)
27. Kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Catherine Flon, nhân vật lịch sử (1772 - 1831) (Haiti, với sự hỗ trợ của Chile, Cuba và Uruguay)
28. Kỷ niệm 200 năm bức thư của János Bolyai về việc khám phá ra hình học phi Euclid (1823) (Hungary, với sự hỗ trợ của Romania và Liên bang Nga)
29. Kỷ niệm 100 năm ngày mất của bác sĩ y khoa Vilma Hugonnai (1847 - 1922) (Hungary, với sự hỗ trợ của Hà Lan, Slovenia và Thụy Sĩ)
30. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Pier Paolo Pasolini, đạo diễn điện ảnh, nhà thơ , nhà văn, nhà viết kịch và trí thức (1922 - 1975) (Ý, với sự hỗ trợ của Pháp, Đức, Ấn Độ, Maroc)
17
31. Kỷ niệm 00 năm ngày sinh của nữ diễn viên Adelaide Ristori (1822 - 1906) (Ý, với sự hỗ trợ của Brazil, Pháp, Ukraine)
32. Kỷ niệm 800 năm cuộc đời hoạt động của Muḥammad ibn Alī ibn Malik Dād-i Tabrīzi, được biết đến với cái tên Shams Tabrizi, nhà thần bí và nhà thơ (Cộng hòa Hồi giáo Iran, với sự hỗ trợ của Afghanistan, Kazakhstan và Oman)
33. Kỷ niệm 1050 năm ngày sinh của Sheikh Abolhassan Kharaghani, nhà thần bí (973 - 1033) (Hồi giáo Cộng hòa Iran, với sự hỗ trợ của Afghanistan và Pakistan)
34. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Naser Ed-din Al-Assad, nhà văn (1923 - 2015) (Jordan, với hỗ trợ của Lebanon, Oman và Palestine)
35. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Akhmet Baitursynuly, nhà ngôn ngữ học và nhà văn (1872 - 1937) (Kazakhstan, với sự hỗ trợ của Belarus, Cộng hòa Hồi giáo Iran, Tajikistan và Thổ Nhĩ Kỳ)
36. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Roza Baglanova, nhân vật của công chúng, ca sĩ opera và nhạc pop (1922 - 2011) (Kazakhstan, với sự hỗ trợ của Liên bang Nga và Uzbekistan)
37. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của nghệ sĩ Vilhelms Purvītis (1872 - 1945) (Latvia, với sự hỗ trợ của Estonia và Litva) 38. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Jānis Endzelīns, nhà ngôn ngữ học (1873 - 1961) (Latvia, với sự hỗ trợ của Đức và Litva)
39. Kỷ niệm 700 năm thành lập Thành phố Vilnius (1323) (Litva, với sự hỗ trợ của Czechia, Latvia, Ba Lan và Ukraine)
40. Kỷ niệm 100 năm ngày mất của Hoàng tử Albert I của Monaco (1848 - 1922) (Monaco, với hỗ trợ của Maroc và Bồ Đào Nha)
18
41. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Aco Šopov, nhà thơ (1923 - 1982) (Bắc Macedonia, với sự hỗ trợ của Bosnia và Herzegovina, Croatia, Pháp, Luxembourg, Montenegro, Romania, Serbia, Slovenia và Tunisia)
42. Kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Ahmed bin Majid, nhà thám hiểm (giữa 1418 và 1432 - 1500) (Oman, với sự hỗ trợ của Cộng hòa Hồi giáo Iran và Qatar)
43. Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của nhà khoa học Ignacy Łukasiewicz (1822 - 1882) (Ba Lan, với hỗ trợ của Áo, Romania và Ukraine)
44. Kỷ niệm 550 năm ngày sinh của Nicolaus Copernicus, nhà thiên văn học (1473 - 1543) (Ba Lan, với sự hỗ trợ của Đức và Ý)
45. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn, nhà tư tưởng José Saramago (1922 - 2010) (Bồ Đào Nha, với sự hỗ trợ của Angola, Brazil, Cabo Verde, Equatorial Guinea, Mozambique và Tây Ban Nha)
46. Kỷ niệm 100 năm chuyến bay đầu tiên qua Nam Đại Tây Dương (1922) (Bồ Đào Nha, với hỗ trợ của Brazil và Cabo Verde)
47. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Liviu Ciulei, đạo diễn sân khấu và điện ảnh (1923 - 2011) (Romania, với sự hỗ trợ của Pháp, Cộng hòa Moldova và Serbia)
48. Kỷ niệm 50 năm ngày mất của Elisa Leonida Zamfirescu, kỹ sư hóa học (1877 - 1973) (Romania, với sự hỗ trợ của Đức và Montenegro)
49. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Feodor Chaliapin, ca sĩ opera và thính phòng (1873 - 1938) (Liên bang Nga, với sự hỗ trợ của Azerbaijan, Pháp và Ý)
50. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Sergey Rachmaninov, nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc (1873 - 1943) (Liên bang Nga, với sự hỗ trợ của Azerbaijan, Cộng hòa Moldova và Thụy Sĩ)
19
51. Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của nhà viết kịch Alexander Ostrovsky (1823 - 1886) (Liên bang Nga và Belarus, với sự hỗ trợ của Armenia, Bulgaria và Thái Lan)
52. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Nadežda Petrović, họa sĩ và nhà hoạt động (1873 - 1915) (Serbia, với sự hỗ trợ của Bosnia và Herzegovina, Pháp và Slovenia)
53. Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của nhà văn Ján Palárik (1822 - 1870) (Slovakia)
54. Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của nhà thơ Janko Kráľ (1822 - 1876) (Slovakia)
55. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Jože Ple nik, kiến trúc sư (1872 - 1957) (Slovenia, với sự hỗ trợ của Bulgaria và Serbia)
56. Kỷ niệm 250 năm xây dựng hàng rào chắn nước Idrija klavže (1772) (Slovenia, với sự hỗ trợ của Bulgaria và Serbia)
57. Kỷ niệm 500 năm chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới đầu tiên của Fernando de Magallanes và Juan Sebastián Elcano (1522) (Tây Ban Nha, với sự hỗ trợ của Andorra, Chile và Bồ Đào Nha)
58. Kỷ niệm 2500 năm thành lập thị trấn cổ Takhti Sangin (Tadjikistan, với sự hỗ trợ của Afghanistan, Kyrgyzstan và Uzbekistan)
59. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Công chúa Hoàng gia Galyani Vadhana Krom Luang Naradhiwas Rajanagariesra (1923 - 2008) (Thái Lan, với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Ai Cập, Pháp, Maroc, Liên bang Nga và Thụy Sĩ)
60. Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Phraya Srisundaravohara (Noi Achâryânkura), học giả, nhà văn và nhà giáo (1822 - 1891) (Thái Lan, với sự hỗ trợ của Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines và Việt Nam)
20
61. Kỷ niệm 00 năm ngày mất của Süleyman Çelebi, nhà triết học và nhà thơ (1351 - 1422) (Thổ Nhĩ Kỳ, với sự hỗ trợ của Azerbaijan, Bosnia và Herzegovina, Georgia, Bắc Macedonia, Romania và Ukraine)
62. Kỷ niệm 50 năm ngày mất của Âşı k Veysel, nhà thơ và nhạc sĩ (1894 - 1973) (Thổ Nhĩ Kỳ, với sự hỗ trợ của Azerbaijan, Hungary, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Bắc Macedonia, Ukraine và Uzbekistan)
63. Kỷ niệm 300 năm ngày sinh của Hryhorii Skovoroda (1722 - 1794) (Ukraine, với sự hỗ trợ của Lithuania, Ba Lan và Thổ Nhĩ Kỳ)
64. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Solomiya Krushelnytska (1872 - 1952) (Ukraine, với hỗ trợ của Ý, Lithuania, Ba Lan và Thổ Nhĩ Kỳ)
65. Kỷ niệm 1050 năm ngày sinh của Abu Raykhon Beruniy, học giả (973 - 1048) (Uzbekistan, Cộng hòa Hồi giáo Iran và Tajikistan, với sự hỗ trợ của Thổ Nhĩ Kỳ)
66. Kỷ niệm 250 năm Ngày sinh nhà thơ Hồ Xuân Hương (1772 - 1822) (Việt Nam, với sự hỗ trợ của Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan)
67. Kỷ niệm 200 năm Ngày sinh nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) (Việt Nam, với sự hỗ trợ của Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan).
N
21
LỜI NHj XUẤT BẢN
guyễn Đình Chiểu là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc, ông đã đóng góp rất nhiều tác phẩm có giá trị vào kho
tàng văn học Việt Nam. Ông được biết đến là một người có lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc vô cùng sâu sắc, quyết giữ trọn lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân. Các sáng tác của ông trừ một bài thơ bằng chữ Hán, còn tất cả đều viết bằng chữ Nôm, được chia làm hai giai đoạn, trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ: Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, đều nhằm mục đích truyền bá đạo lý làm người. Đến giai đoạn sau, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỷ XIX với những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáp (còn gọi là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, một truyện thơ). Với tình cảm trân trọng về con người và giá trị thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, trong bài viết Nguyễn Đình Chiểu - ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (tạp chí Văn học năm 1963), Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhà hoạt động cách mạng xuất sắc, người học trò, người đồng chí thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là một nhà giáo dục tâm huyết
22 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
và một nhà lý luận văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam, đồng chí đã viết: “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”. Năm 2021, Nguyễn Đình Chiểu được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới và ra Nghị quyết 41C/15 cùng kỷ niệm lần thứ 200 ngày sinh của nhà thơ.
Để giúp bạn đọc hiểu sâu sắc hơn về con người và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu - Danh nhân văn hóa thế giới.
Cuốn sách gồm hai phần:
Phần I: Nguyễn Đình Chiểu - Danh nhân văn hóa thế giới. (Chuyên luận của các tác giả: GS.TS. Nguyễn Chí Bền (chủ biên), GS.TS. Từ Thị Loan, PGS.TS. Phạm Lan Oanh, TS. Vũ Anh Tú).
Phần II: Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.
(Do GS.TS. Nguyễn Chí Bền, PGS.TS. Lâm Nhân, PGS.TS. Phạm Lan Oanh, TS. Nguyễn Hoàng tuyển chọn). Chuyên luận của các tác giả in trong cuốn sách là một nghiên cứu tổng thể về cuộc đời của Cụ Đồ Chiểu với những nét khái quát về bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa; quê hương và gia đình; con người và sự nghiệp; nhà thơ, nhà văn hóa, vấn đề bảo vệ và phát huy di sản của Nguyễn Đình Chiểu. Cùng với chuyên luận, cuốn sách giới thiệu các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu gồm: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, các bài thơ, thơ điếu, văn tế. Văn bản công bố tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu lần này, Ban tuyển chọn sử dụng các bản in được công bố năm 1982 của tỉnh Bến Tre, tỉnh Long An phối hợp với Ban Văn học, Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh.
LỜI NHj XUẤT BẢN 23
Với một danh nhân văn hóa được UNESCO cùng kỷ niệm 200 ngày sinh như Nguyễn Đình Chiểu, Ban tuyển chọn và các tác giả chuyên luận cũng như Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã cố gắng, nhưng chúng tôi nghĩ rằng cuốn sách khó tránh sơ suất. Rất mong nhận được ý kiến góp ý của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 6 năm 2022
NHj XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
24
25
Phần I
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
26
PHÂN CÔNG BIÊN SOẠN
GS.TS. NGUYỄN CHÍ BỀN Chủ biên, viết Mở đầu, Kết luận, chương 2, chương 3, chương 4, viết
chung chương 1.
GS.TS. TỪ THỊ LOAN viết chương 5.
PGS.TS. PHẠM LAN OANH viết chương 6, chương 7. TS. VŨ ANH TÚ viết chung chương 1.
Đ
27
MỞ ĐẦU
ã có hơn 20 chuyên luận, hàng trăm tiểu luận khoa học về nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) được công bố gần 160 năm qua. Năm 1963, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã có bài viết Nguyễn Đình Chiểu - ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc1. Ngày 23/11/2021, Đại hội đồng UNESCO họp và ra Nghị quyết số 41C/15 về việc UNESCO cùng kỷ niệm lần thứ 200 ngày sinh của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu được vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới. Cụ là Danh nhân văn hóa thế giới thứ sáu của Việt Nam được UNESCO vinh danh sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, Chu Văn An và Hồ Xuân Hương.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu từ góc tiếp cận nhà thơ, nhà văn hóa, cội nguồn cho sáng tạo văn hóa nghệ thuật, cũng như vấn đề bảo vệ và phát huy di sản của Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Chiểu là nghiên cứu cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc. Từ “ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” (Phạm Văn Đồng) đến Danh nhân văn hóa thế giới, tiến trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu đặt ra những vấn đề khoa học cần được giải quyết cặn kẽ.
_______________
1. Xem Tạp chí Văn học, số 7/1963.
28 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Trước hết, việc nghiên cứu sẽ bổ sung vào việc nhận định về một tác giả lao động, sáng tác trong thời kỳ đất nước và các quốc gia trong khu vực đứng trước những tác động và biến đổi. Các nước phương Tây xâm lược các nước phương Đông nói chung và các nước Đông Nam Á nói riêng. Phương Tây hóa và giải phương Tây hóa đặt ra những cơ hội và thách thức cho các nhà sáng tạo văn hóa nghệ thuật ở đây. Đồng thời, việc nghiên cứu một tác giả ở Nam Bộ vào thế kỷ XIX sẽ bổ sung vào việc nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam nói chung, lịch sử văn học Nam Bộ nói riêng, trong khi công việc này mới được thực hiện với các trí thức Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, văn hóa Pháp từ thập niên 40 của thế kỷ XX đến nay như Phan Văn Hùm, Ca Văn Thỉnh, Trần Văn Giàu, v.v..
Mặt khác, kế thừa thành quả của các thế hệ nghiên cứu đi trước về tác gia Nguyễn Đình Chiểu, chuyên luận sẽ nhìn nhận toàn diện về một tác gia văn chương, từ quê hương, con người và sự nghiệp, quan điểm sáng tác, các mẫu nhân vật, vị
thế trong lịch sử văn chương, trên cơ sở ấy đóng góp vào việc nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XIX, một thời kỳ mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói là “khổ nhục nhưng vĩ đại”.
Đồng thời, từ quan niệm về danh nhân văn hóa, nghiên cứu của chuyên luận tiếp cận từ văn hóa học để thấy chân dung một nhà văn hóa của Việt Nam trong thế kỷ XIX, từ triết lý văn hóa, mẫu mô hình nhân cách văn hóa mà nhà văn hóa theo đuổi, sự thể hiện trong đời sống hằng ngày của nhà văn hóa, sự nhất quán giữa triết lý, mẫu nhân cách văn hóa
MỞ ĐẦU 29
và cuộc đời, qua đó bước đầu đưa ra các khuyến nghị về bảo vệ, phát huy giá trị của Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Chiểu trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cuối cùng, sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên địa bàn cả nước nói chung, Nam Bộ nói riêng, rất cần những nghiên cứu về một nhà thơ lớn, một nhà văn hóa kiệt xuất của Nam Bộ nói riêng, Việt Nam nói chung. Những bài học từ cuộc đời và sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu luôn có giá trị và tác dụng trong cuộc sống hôm nay và mai sau.
Mong mỏi và dự kiến như vậy, nhưng trong khi thực hiện, có thể vẫn chưa đạt được những điều mong muốn. Chúng tôi nghĩ rằng chuyên luận này là phác thảo ban đầu về một danh nhân của Việt Nam được UNESCO cùng kỷ
niệm lần thứ 200 năm sinh của ông. Rất mong nhận được các ý kiến góp ý của bạn đọc để nội dung ấn phẩm được hoàn thiện hơn trong những lần xuất bản sau.
Hà Nội, tháng 6 năm 2022
T/M TẬP THỂ TÁC GIẢ
GS.TS. NGUYỄN CHÍ BỀN
30
Chương một
NHÌN LẠI TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
1. Chuyên luận đầu tiên về Nguyễn Đình Chiểu là của tác giả Phan Văn Hùm. Năm 1938, tại Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), tác giả Phan Văn Hùm đã công bố chuyên luận Nỗi lòng Đồ Chiểu do Đỗ Phương Quế xuất bản. Cuốn sách gồm hai phần: Phần thứ nhất: Nỗi lòng Đồ Chiểu; phần thứ hai: Trích lục văn phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. Sách vừa ra thì bị người Pháp cấm tàng trữ. Năm 1957, cuốn sách được in lần thứ hai tại Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, với Lời Bạt của Mai Huỳnh Hoa.
Suốt thời gian sau đó, chưa có một chuyên luận nào tiếp theo về Nguyễn Đình Chiểu được xuất bản. Mãi đến năm 1955, tại Hà Nội, tác giả Vũ Đình Liên mới công bố tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ yêu nước miền Nam (Minh Đức - Thời Đại xuất bản, Hà Nội, 1955). Với Vũ Đình Liên, Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác giả được ông quan tâm, chú ý nhiều nhất trong giai đoạn này, các dịp kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của nhà thơ, ông đều có các bài viết tưởng niệm, trong số đó phải kể đến ngay từ tháng 7/1955 trên báo Tổ quốc, ông đã có bài viết về cụ Đồ Chiểu với nhan đề
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 31
Nguyễn Đình Chiểu - Một nhà văn và một nhà ái quốc miền Nam. Sau bài này, Vũ Đình Liên công bố chuyên luận Nguyễn Đình Chiểu - Nhà thơ yêu nước miền Nam.
Năm 1956, tại Sài Gòn, tác giả Bằng Phong cho in cuốn sách Luận đề Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu. Đây là cuốn sách thuộc loại giáo khoa dành cho học sinh trung học tại miền Nam giai đoạn 1954 - 1975.
Năm 1957, cũng tại Sài Gòn, tác giả Nguyễn Bá Thế công bố cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu, thân thế và thi văn 1822 - 1888. Đây là một trong vài chuyên khảo đầu tiên về Nguyễn Đình Chiểu được xuất bản khi đất nước bị chia tách làm hai miền Nam - Bắc. Cuốn sách gồm hai phần: thân thế và thi văn; phần thân thế khảo sát qua 8 mục từ Long đong duyên phận cho đến Lòng đạo xin tròn một tấm gương; thi văn được sưu tầm và chú giải trong cuốn sách chủ yếu là bộ phận thơ văn yêu nước chống Pháp. Đây là cuốn sách công phu, tác giả có một thái độ tương đối khách quan khi đề cập thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu.
Cũng năm 1957, tại Sài Gòn, tác giả Thái Bạch công bố cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu 1822 - 1888. Đây là cuốn sách khá toàn diện về Nguyễn Đình Chiểu, từ tiểu sử, thời đại, sự nghiệp văn chương đến giá trị tư tưởng, nghệ thuật. Trong sách này, tác giả Thái Bạch đã nhắc đến truyện thơ Dương Từ - Hà Mậu và giới thiệu tác phẩm này thành một mục riêng.
Năm 1958, tại Hà Nội, tác giả Vũ Đình Liên công bố cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) do Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội xuất bản.
32 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Năm 1960, tại Sài Gòn, tác giả Nguyễn Khoa xuất bản Khảo luận về Nguyễn Đình Chiểu.
Cũng năm 1960, tác giả Nguyễn Duy Diễn, Bằng Phong công bố cuốn sách Luận đề về Nguyễn Đình Chiểu (tiểu sử, tư tưởng, văn thơ, phê bình. Trong cuốn sách, ngoài Lục Vân Tiên, tác giả đề cập thơ, văn tế nhưng còn khá sơ lược bởi mục đích của cuốn sách là tài liệu dùng cho dạy học trong nhà trường.
Hơn chục năm sau không có các chuyên luận về Nguyễn Đình Chiểu. Đến năm 1971, tại Sài Gòn, tác giả Võ Văn Dung công bố cuốn sách Đồ Chiểu chiến sĩ.
Năm 1982, hai tác giả Vũ Khiêu, Nguyễn Đức Sự công bố cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu - Ngôi sao sáng của người trí thức Việt Nam.
Năm 1982, tác giả Lê Trí Viễn xuất bản cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao càng nhìn càng sáng. Năm 2002, cuốn sách này được tái bản bởi Nhà xuất bản Giáo dục.
Năm 1983, tác giả Trần Văn Giàu công bố cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu, đạo làm người do Sở Văn hóa Thông tin Long An xuất bản.
Năm 1983, hai tác giả Cao Tự Thanh và Huỳnh Ngọc Trảng công bố cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu và văn hóa Việt Nam cũng do Sở Văn hóa Thông tin Long An xuất bản.
Năm 1983, tác giả Lê Trần Đức công bố tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu với Ngư Tiều y thuật vấn đáp. Năm 1987, hai tác giả Nguyễn Quảng Tuân và Nguyễn Khắc Thuần công bố tác phẩm Từ ngữ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 33
Năm 1989, hai tác giả Nguyễn Quảng Tuân và Nguyễn Khắc Thuần công bố tác phẩm Từ điển truyện Lục Vân Tiên. Năm 1995, tác giả Hồ Sĩ Hiệp công bố cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 1998, tác giả Nguyễn Phong Nam công bố cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm đến thi pháp học. Năm 2000, tác giả Nguyễn Thạch Giang công bố cuốn sách Từ ngữ - thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 2017, Lê Văn Hỷ công bố cuốn sách Lịch sử tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 2019, Tạ Thị Thanh Huyền bảo vệ Luận án Tiến sĩ với đề tài Nguyễn Đình Chiểu trong không gian văn hóa Nam Bộ.
Năm 2020, Hoàng Thị Cương bảo vệ Luận án Tiến sĩ với đề tài Nguyễn Đình Chiểu với tư cách là tác giả tiên phong của bộ phận văn học chống chủ nghĩa thực dân.
Tựu trung, tính từ chuyên luận đầu tiên của tác giả Phan Văn Hùm về Nguyễn Đình Chiểu công bố năm 1938 đến năm 2020 đã có 21 tác giả công bố trực tiếp chuyên luận về Nguyễn Đình Chiểu. Góc tiếp cận của các tác giả khác nhau, phương pháp nghiên cứu của các tác giả cũng khác nhau. Vì thế giá trị của từng chuyên luận của từng tác giả trong việc trình bày về con người và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu cũng khác nhau. Chuyên luận của tác giả Phan Văn Hùm là sự mở đầu có giá trị về nhiều phương diện. “Có thể nói Phan Văn Hùm là người đầu tiên lý giải Nguyễn Đình Chiểu một cách khoa học, xác đáng theo góc nhìn duy vật lịch sử. Phần sưu tầm, trích lục tác phẩm cũng rất công phu, có những văn
34 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
bản ghi theo người con Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Chiêm (1869 - 1935) ngay lúc ông này còn sống nên giá trị văn bản đáng tin cậy, giúp người nghiên cứu bổ chính nhiều chỗ nhầm trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ghi chép về sau”1. Năm 1971, khi đọc lại cuốn sách này, tác giả Thiếu Sơn đã viết rằng: “... cuốn Nỗi lòng Đồ Chiểu nếu là một nhà nho cũ kỹ viết ra, họa may chỉ nói lên được cái khí tiết của một người quân tử nhưng làm sao phân biệt được những gì đáng đề cao của xã hội phong kiến, những gì lỗi thời và hủ bại,... Phan Văn Hùm chính là ở số người đã hấp thụ những tư tưởng mới để nhìn vào văn hóa của tiền nhân để lại, gạt bỏ những gì lạc hậu, lỗi thời, thêm vào những gì văn minh, tiến bộ,... đưa dân tộc tới một trình độ cao hơn nữa đáp ứng với những yêu cầu của lịch sử và để hoà đồng với đại dương của loài người”2.
Bẵng đi một thời gian dài, đến năm 1955, tại Hà Nội, tác giả thứ hai công bố chuyên luận về Nguyễn Đình Chiểu đó là tác giả Vũ Đình Liên. Trong khi đó, ở Sài Gòn đã có các tác giả như Bằng Phong, Nguyễn Bá Thế, Thái Bạch, Nguyễn Khoa, Võ Văn Dung công bố các chuyên luận về
Nguyễn Đình Chiểu, tư liệu và cách tiếp cận vẫn là theo kiểu _______________
1. Mục từ Phan Văn Hùm, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Thành biên soạn, in trong sách Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Đồng chủ biên): Từ điển văn học, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004, tr.1402.
2. “Bài học Đồ Chiểu”, báo Dân chủ mới, Sài Gòn, số 371, ngày 19/7/1971, in lại trong sách Thiếu Sơn: Những văn nhân, chính khách một thời, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1993.
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 35
văn học sử. Thập niên 80 của thế kỷ XX, tác giả Trần Văn Giàu nhìn nhận khía cạnh đạo làm người của Nguyễn Đình Chiểu, hai tác giả Cao Tự Thanh và Huỳnh Ngọc Trảng nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu từ góc độ văn hóa. Cũng góc tiếp cận như vậy, năm 2019, tác giả Tạ Thị Thanh Huyền công bố nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu.
Thay đổi cách tiếp cận, các tác giả Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Thạch Giang nghiên cứu từ ngữ trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Đáng ghi nhận là tác giả Nguyễn Phong Nam nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu từ thi pháp học; tác giả Lê Văn Hỷ nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu từ lý thuyết tiếp nhận. Đến nay đã có 6, 7 nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ về Nguyễn Đình Chiểu và thời đại của cụ, nghĩa là có 6, 7 chuyên luận về Nguyễn Đình Chiểu được công bố. Trong 44 năm qua, nếu tính từ năm tác giả Phan Văn Hùm công bố chuyên luận Nỗi lòng Đồ Chiểu
đến nay, phải đánh giá cao chuyên luận Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao càng nhìn càng sáng của tác giả Lê Trí Viễn. Công bố lần đầu năm 1982, tái bản lần thứ nhất năm 2002, “có thể xem đây là sự tổng kết thành quả nghiên cứu về Nguyễn
Đình Chiểu của nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn”1. Cách tiếp cận của tác giả Lê Trí Viễn về Nguyễn Đình Chiểu có nét mới, như chính tác giả viết trong chuyên luận của mình: “Phương pháp nghiên cứu lâu nay mới quan tâm đến khâu cuộc sống - tác giả - tác phẩm và khâu tác phẩm, _______________
1. Lê Văn Hỷ: Lịch sử tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, tr.131.
36 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
còn khâu tác phẩm - cuộc sống mới chỉ đề cập qua. Trong vòng đời một áng văn, đó là một giai đoạn có lẽ quan trọng bậc nhất, lý do tồn tại của nó là ở đấy, nó đóng góp được gì cho cuộc sống là ở đấy”1. Trong chuyên luận, tác giả đã phân tích sức sống của truyện thơ Lục Vân Tiên, của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc rất xúc động và khoa học. Trong diện mạo các tác giả của văn chương Việt Nam, không phải tác giả nào cũng được giới nghiên cứu văn chương, văn hóa, lịch sử
quan tâm đến vậy.
2. Trước năm 1945, tiếp thu tinh thần và phương pháp nghiên cứu văn chương của Pháp, năm 1943, tác giả Dương Quảng Hàm biên soạn và công bố nghiên cứu Việt Nam văn học sử yếu rồi đến Văn học thi văn hợp tuyển. Cuốn sách
Việt Nam văn học sử yếu được tái bản nhiều lần bởi nó có giá trị đáng kể. Trong cuốn lịch sử văn học Việt Nam phổ thông đầu tiên này, các tác phẩm của tác giả Nguyễn Đình Chiểu như Lục Vân Tiên và một số tác phẩm khác được đề cập. Như
vậy, đến lúc này, con người và sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, dù chỉ là một số tác phẩm, đã hiện diện chính thức trong nhà trường thời Pháp thuộc qua bộ văn học sử đầu tiên của nền học thuật nước nhà.
Năm 1949, Nghiêm Toản hoàn thành nghiên cứu Việt Nam văn học sử trích yếu. Bộ sách gồm 2 tập được Nhà sách Vĩnh Bảo ấn hành tại Sài Gòn, đến năm 1956 được tái bản, in gộp thành 1 tập và năm 1968 một nửa tập sách được in lại.
_______________
1. Lê Trí Viễn: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao càng nhìn càng sáng, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1982, tr.215.
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 37
Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu được tuyển chọn và đưa vào cuốn sách với mong muốn “... sẽ là gương phản chiếu tâm trạng người mình trong một giai đoạn lịch sử đầy phẫn hận, đau thương”1.
Năm 1952, hai tác giả Nguyễn Tường Phượng và Bùi Hữu Sủng công bố nghiên cứu Văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỷ thứ XIX. Theo tác giả Lê Văn Hỷ, cuốn sách do Trường Nguyễn Khuyến, Hà Nội phát hành, mặc dù là một bộ văn học sử nhưng tác phẩm mới dừng lại là tài liệu giáo khoa bậc trung học lưu hành trong vùng tạm chiếm của Pháp ở các tỉnh phía Bắc giai đoạn 1945 - 1954. Các tác giả Văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỷ thứ XIX đã ghi nhận Nguyễn Đình Chiểu ở hai khuynh hướng văn chương đạo lý và văn chương thời thế. Cách phân chia giai đoạn và khuynh hướng văn học này không có gì mới so với những người đi trước như Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản. Tuy nhiên, cái mới ở công trình này là lần đầu tiên ngoài Lục Vân Tiên, các tác phẩm như Ngư Tiều y thuật vấn đáp, thơ và văn tế như: Trung thần nghĩa sĩ, Điếu lục tỉnh sĩ dân văn, Văn tế vong hồn mộ nghĩa, Văn tế Trương Định đã được đưa vào và bước đầu ghi nhận về mặt nội dung yêu nước.
Năm 1953, tác giả Thanh Lãng công bố cuốn sách Khởi thảo văn học sử Việt Nam - Văn chương chữ Nôm. Trong công trình này, tác giả chỉ tập trung khảo sát tác phẩm Lục Vân Tiên. Sau đó, năm 1958, tác giả công bố nghiên cứu
_______________
1. Nghiêm Toản: Việt Nam văn học sử trích yếu, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1968, tr.177.
38 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Biểu nhất lãm văn học cận đại 1862 - 1945, tập I và năm 1967, công bố nghiên cứu Bảng lược đồ văn học Việt Nam (thượng - hạ 1967). Đây là những công trình văn học sử có giá trị trong sự nghiệp của nhà nghiên cứu Thanh Lãng và tác giả đều đề
cập Nguyễn Đình Chiểu như một đối tượng nghiên cứu. Trừ tác phẩm Dương Từ - Hà Mậu, tác giả Thanh Lãng ít nhắc đến, còn các tác phẩm khác như Lục Vân Tiên, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, thơ và văn tế của Nguyễn Đình Chiểu được chú trọng phân tích, đánh giá.
Năm 1957, tại Hà Nội, nhóm nghiên cứu văn học Lê Quý Đôn công bố bộ sách Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, gồm 3 tập ở Nhà xuất bản Xây dựng.
Từ năm 1957 đến năm 1959, tại Hà Nội, các tác giả Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh đã xuất bản bộ sách Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, gồm 5 quyển ở Nhà xuất bản Văn Sử Địa. Trong bộ sách này, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã được nghiên cứu.
Trong thời gian 1961 - 1965, tại Sài Gòn, tác giả Phạm Thế Ngũ công bố nghiên cứu Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Bộ sách gồm 3 tập, tổng cộng 47 chương, hơn 1.500 trang, Quốc học tùng thư xuất bản, sau đó được tái bản các năm 1968, 1972, 1996. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu được đề
cập khá kỹ trong bộ sách này và có vị trí trong văn học sử Việt Nam.
Năm 1961, tại Hà Nội, hai tác giả Văn Tân - Nguyễn Hồng Phong cho ra mắt công trình Lịch sử văn học Việt Nam (sơ giản). Công trình này có thể xem là phiên bản rút gọn của bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam xuất bản trước đó.
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 39
Năm 1962, hai tác giả Lê Trí Viễn, Phan Côn biên soạn và công bố Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, tập IV. Đề cập Nguyễn Đình Chiểu ở chương III của cuốn sách, sau khi giới thiệu về thân thế, sự nghiệp, nội dung thơ văn, người viết làm sáng tỏ tư tưởng yêu nước và lòng yêu dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Cuốn sách đánh giá Nguyễn Đình Chiểu có một cách nhìn mới mẻ về người nông dân, ca ngợi các lãnh tụ nghĩa quân và triệt để chống bọn tay sai chia cắt đất nước.
Trước đó, năm 1962, cùng với Phan Côn, tác giả Lê Trí Viễn đã chấp bút chương về Nguyễn Đình Chiểu khảo sát qua thân thế và sự nghiệp, nội dung và tư tưởng thơ văn Nguyễn Đình Chiểu trong nghiên cứu Lịch sử văn học Việt Nam, tập 4a, 1858 - đầu thế kỷ XX.
Năm 1964, công bố nghiên cứu Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam - giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, phần viết về Nguyễn Đình Chiểu vẫn do Vũ Đình Liên chấp bút.
Năm 1971, trong cuốn sách Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, tác giả Nguyễn Lộc có viết về Nguyễn Đình Chiểu. Cuốn giáo trình này xuất bản lần đầu năm 1971, tái bản năm 1976, 1992, và đến năm 1999 gộp lại thành Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX.
Năm 1973, ở Sài Gòn, tác giả Lê Văn Siêu công bố cuốn sách Văn học sử thời kháng Pháp (1858 - 1945) ở Nhà xuất bản Trí Đăng, Sài Gòn. Trong cuốn sách này, tác giả Lê Văn Siêu đã đề cập tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 2006, nhóm tác giả Dòng Việt đã cho xuất bản hai tập Văn học Nam Kỳ Lục tỉnh (Dòng Việt số 19, Dòng Việt số 20),
40 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
sưu tầm các bài viết công bố trước năm 1975 về các tác giả ở Nam Kỳ để xuất bản trong cuốn sách này. Viết về Nguyễn Đình Chiểu có bài của các tác giả Ngô Quang Lý, Võ Lang,
Trương Bá Phát, Trần Cửu Chấn, Võ Văn Dũng, Ngọc Hồ1. Hai năm 2007 - 2008, tác giả Nguyễn Q. Thắng công bố bộ sách Văn học Việt Nam nơi miền đất mới (4 tập), tác giả xếp các tác giả theo tiêu chí biên niên, mở đầu với tác giả Dương Văn An ở tập 1 và kết thúc với tác giả Từ Kế Tường ở tập 4. Tác giả xếp Nguyễn Đình Chiểu vào tập 1, chương IV: Các danh gia thời tao loạn, với tiêu đề Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ thất minh Nam Kỳ, giới thiệu về con người và cuộc đời qua 1 tiểu truyện, trích dẫn bài thơ Chạy giặc và hai bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh. Công trình này là sự mở rộng và bổ sung nghiên cứu Tiến trình văn nghệ miền Nam (1990 - 1998) của chính tác giả trước đó.
Năm 2012, tác giả Trần Nho Thìn công bố nghiên cứu Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Trong công trình này, từ góc nhìn văn hóa, tác giả đã nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu trong tương quan không gian văn học Nam Bộ nói chung, văn học Gia Định nói riêng để làm nổi bật phong cách cá nhân tác giả cũng như phong cách thời đại mà Nguyễn Đình Chiểu sống và sáng tác.
Năm 2012, tác giả Nguyễn Văn Hầu công bố cuốn sách Văn học miền Nam Lục tỉnh, Văn học Hán Nôm thời kháng Pháp
_______________
1. Xem Dòng Việt số 19, CA, 2006, tr.71-152, Dòng Việt số 20, CA, 2006, tr.43-59.
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 41
thuộc Pháp (Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh). Trong phần thứ năm: Văn học Hán Nôm thời chiến tranh Việt - Pháp, tác giả đã viết về Nguyễn Đình Chiểu từ trang 34 đến trang 124.
Năm 2018, tác giả Lưu Chí Cường ở Trung Quốc sau hơn chục năm nghiên cứu đã hoàn thành cuốn sách Nghiên cứu danh tác văn học cổ điển Việt Nam (Việt Nam cổ điển văn học danh trước nghiên cứu) và năm 2021 đã ra mắt bạn đọc Việt Nam. Trong chương 4, tác giả đã dành mục IV để giới thiệu về Nguyễn Đình Chiểu và truyện thơ Lục Vân Tiên (Bản dịch của Phạm Văn Ánh, Bùi Thị Thiên Thai, Ngô Viết Hoàn, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Thị Thanh Chung, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2021), từ trang 220 đến trang 233.
Như vậy, từ năm 1943 đến nay, trong các chuyên luận và giáo trình về lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu luôn là một tác giả được quan tâm nghiên cứu và khẳng định. Giá trị của các chuyên luận và giáo trình ấy có thể
khác nhau, nhất là khi nghiên cứu con người và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu.
3. Những tác giả đầu tiên công bố các tiểu luận về Nguyễn Đình Chiểu lại là những người Pháp. Năm 1864, G. Aubaret đã sưu tầm và dịch tác phẩm Lục Vân Tiên ra tiếng Pháp. Ông viết: “Trong quyển sách này, chúng tôi đã nhận ra những đặc điểm chính của một dân tộc mà chúng tôi đã từng chung sống lâu năm, đến nỗi chúng tôi có thể coi nó như là một trong những sản phẩm hiếm có của trí tuệ con người,
42 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
có cái ưu điểm lớn là diễn tả được trung thực những tình cảm của cả một dân tộc”1.
Sau đó là bản dịch thơ bằng chữ Quốc ngữ do G. Janneau thực hiện năm 1867, tiếp đó là bản dịch Lục Vân Tiên sang tiếng Pháp của Abel des Michels công bố năm 1883. Trong Lời giới thiệu, ông viết: “... người ta còn thấy ở Nam Kỳ có một số rất lớn truyện thơ, tuồng viết bằng chữ Nôm... Nhất là những tập truyện thơ thì có một giá trị lớn và người ta có thể nêu lên một số có thể xem là những kiệt tác thật sự, rất độc đáo, mạnh mẽ và có duyên... Quyển Lục Vân Tiên, tập truyện thơ bình dân vào bậc nhất của xứ này”2. Và một bản dịch ra thơ bằng tiếng Pháp do E. Bajot thực hiện và công bố năm 1885. Năm 1923, tác giả Nguyễn Ngọc Chỉ có tiểu luận Một nhà thi sĩ trứ danh nước ta, cụ Nguyễn Đình Chiểu làm truyện Lục Vân Tiên 1825 - 1885, công bố trên tạp chí Nam Phong, số tháng 10.
Năm 1935, tác giả Mai Huỳnh Hoa có bài Tiểu sử cụ Đồ Chiểu công bố trên tạp chí Tân Văn, số 27 đã cung cấp một tư liệu tương đối khái quát và chính xác, không những về Nguyễn Đình Chiểu mà cả nhân thân của nhà thơ qua 8 tiểu mục, từ tổ phụ cho đến con của cụ Đồ. Những thông tin mà tác giả Mai Huỳnh Hoa viết trong bài này đã làm sáng tỏ con người và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Trong _______________
1. Lời nói đầu ở bản dịch Lục Vân Tiên ra tiếng Pháp, in trên báo Châu Á, loại thứ 6, tập III, tháng giêng và hai, 1864, bản dịch của Lê Xuân Ninh.
2. Lời giới thiệu quyển Lục Vân Tiên, Nxb. Ernest Leroux, Paris, 1883, bản dịch của Lê Xuân Ninh.
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 43
tiểu mục “Tác phẩm của tiên sinh”, bà đã kể các tác phẩm của cụ và cho biết nguyên nhân Dương Từ - Hà Mậu chưa xuất bản được là “Vì lời lẽ xằng bạo”1.
Việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu trở nên sôi động nhất là vào năm 1943, kỷ niệm 55 năm ngày mất của cụ. Tại huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, Sở Thông tin tuyên truyền, báo chí Nam Kỳ của Pháp cùng một số thân hào, trí thức Bến Tre tổ chức lễ kỷ niệm tại mộ nhà thơ vào ngày 19/6/1943. Tác giả Ca Văn Thỉnh khi ấy là Đốc học tỉnh Bến Tre đọc diễn văn Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu; Thống đốc Nam Kỳ Hoeffel đọc diễn văn trước mộ nhà thơ. Sau khi đề cao tài năng, nhân cách Nguyễn Đình Chiểu cũng như giá trị
luân lý Nho giáo của Lục Vân Tiên, hy vọng sẽ góp phần chấn hưng phong hóa cứu vãn tinh thần, Hoeffel mong muốn thanh niên Việt Nam: “... nên dùng quyển Lục Vân Tiên làm kinh nhật tụng, mỗi ngày đem ra thực hành, biết ao ước tiếng liêm sỉ, thèm thuồng danh trung hiếu, yêu chuộng gương trung liệt, đem tinh thần như thế mà phụng sự gia đình, xã hội, quốc gia,...”2. Như thế, mục đích của người Pháp là rõ ràng, lợi dụng Nguyễn Đình Chiểu để ru ngủ thanh niên quên nỗi nhục mất nước, không tìm đường cứu nước. Cũng trong những ngày ấy, trong lễ kỷ niệm diễn ra tại Sài Gòn, tác giả Chim Hải Yến có bài thuyết trình Theo Vân Tiên tìm Đồ Chiểu. Trên báo chí là các bài viết về
_______________
1. Tân Văn, số 27, 1935.
2. Dẫn theo Nguyễn Bá Thế: Nguyễn Đình Chiểu, thân thế và thi văn 1822 - 1888, Tân Việt, Sài Gòn, 1957.
44 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Nguyễn Đình Chiểu của các tác giả Lê Thọ Xuân, Khuông Việt, Nguyễn Hưng Phấn, Phạm Phát Giàu, Trường Sơn Chí. Trong khi đó, cũng năm 1943, tại Hà Nội, tác giả Vũ Ngọc Phan có bài viết Thân thế và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đăng ở kỷ yếu của Hội Khai Trí Tiến Đức số 9 và 10. Sau đó là những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, trừ tác giả Long Điền năm 1946 có một bài viết, còn ít có tác giả công bố các tiểu luận về Nguyễn Đình Chiểu. Năm 1955, tại Hà Nội, tác giả Hoàng Tuệ có tiểu luận Nhân dân tính trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, công bố trên tập san Đại học Sư phạm, số 2, tháng 6, 7. Trong khi đó, tại Sài Gòn, năm 1955, tác giả Nguyễn Đăng Thục có tiểu luận Tinh thần truyền thống với Lục Vân Tiên. Năm 1957, tác giả Bùi Giáng có tiểu luận Lục Vân Tiên hay là tấm lòng của cụ Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 1960, tác giả Đinh Hùng viết bài Một mùa tưởng niệm Nhớ tới ba nhà thơ đã khuất bóng Nguyễn Đình Chiểu - Phan Thanh Giản - Nguyễn Du, đến năm 1967, vài năm sau ngày Đinh Hùng mất mới được công bố trong sách Đốt lò hương cũ (1971).
Cũng năm 1960, tác giả Nguyễn Khoa công bố hai tiểu luận về Nguyễn Đình Chiểu: Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ ái quốc và Một trang hận sử, mấy dòng dư lệ của Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 1961, tác giả Nguyễn Văn Xuân có tiểu luận Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Du hay đại danh từ và các tiếng xưng hô trong Truyện Kiều và Lục Vân Tiên trên Văn hữu, số 10 (tháng 4), từ trang 74-91.
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 45
Năm 1962, Bàng Bá Lân có nghiên cứu phân tích Những đặc điểm trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 1963, kỷ niệm lần thứ 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu, tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Văn Đồng công bố bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc. Bên cạnh đó có các tác giả công bố các tiểu luận về Nguyễn Đình Chiểu như Đặng Thai Mai (tiểu luận Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ yêu nước lớn của nhân dân Việt Nam), Hoài Thanh (tiểu luận Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam), Trần Thanh Mại (tiểu luận Nguyễn Đình Chiểu, lá cờ đầu của nền thơ văn yêu nước thời kỳ cận đại), Trần Nghĩa (tiểu luận Thử bàn về nguồn gốc truyện Lục Vân Tiên), Trần Văn Giàu (tiểu luận Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu), v.v..
Năm 1964, tại Sài Gòn, tác giả Võ Lang có tiểu luận Tìm hiểu Đồ Chiểu qua Lục Vân Tiên. Năm 1966, tác giả Ngô Văn Phát có tiểu luận Nguyễn Đình Chiểu với văn tế công bố trên Đồng Nai văn tập, ba số 7, 8, 9 với 45 trang. Năm 1971, tác giả Trương Bá Phát công bố trên Văn hóa Nguyệt san
tiểu luận Tâm lý dân chúng qua văn, thơ của Nguyễn Đình Chiểu. Cũng năm 1971, tác giả Bàng Bá Lân có bài viết Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ bình dân lớn của miền Nam. Năm 1971, tác giả Vũ Bằng có tiểu luận Ba thời kỳ, ba nhận xét về truyện Lục Vân Tiên. Năm 1971, tại Sài Gòn, trong lễ kỷ niệm do chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ chức, có một số bài trình bày của các tác giả Nguyễn Duy Cần, Võ Văn Dung, Ái Lan, Bàng Bá Lân. Và cũng năm này, Phủ Quốc vụ
46 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã sưu tầm những bài báo về Nguyễn Đình Chiểu thành một tuyển tập với tựa đề Sưu tập những bài báo về Nguyễn Đình Chiểu. Và tuyển tập tiếp theo với tựa đề Sưu tập bổ túc các bài báo về Nguyễn Đình Chiểu. Hầu hết các tiểu luận của các tác giả ở miền Nam nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu đã được tập hợp trong hai tuyển tập này. Năm 1972, tại Hà Nội, với chủ trương kỷ niệm lần thứ 150 năm sinh của Nguyễn Đình Chiểu, giới nghiên cứu văn học, văn hóa, sử học, triết học tại Hà Nội đã công bố nhiều tiểu luận về con người và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu như các tác giả
Hà Huy Giáp, Nguyễn Khánh Toàn, Ca Văn Thỉnh, Lê Thước, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Đức Sự, Nguyễn Trung Hiếu, Cao Huy Đỉnh, Vũ Đình Liên, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Quang Vinh, Nguyễn Văn Hoàn, Thạch Phương, Vũ Đức Phúc, v.v..
Năm 1973, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã tập hợp các bài tiểu luận của các tác giả công bố năm 1963, năm 1971 xuất bản thành tập tiểu luận Nguyễn Đình Chiểu, tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật. Trước đó, vào năm 1964, Nhà xuất bản Khoa học thuộc Ủy ban Khoa học nhà nước đã xuất bản cuốn sách Mấy vấn đề về cuộc đời thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (tái bản năm 1969 bởi Nhà xuất bản Khoa học xã hội) và năm 1965, đã xuất bản cuốn sách Một số tư liệu về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Năm 1982 là năm kỷ niệm lần thứ 160 năm sinh của Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên, Hội nghị khoa học toàn quốc về Nguyễn Đình Chiểu được tổ chức tại tỉnh Bến Tre, nơi nhà thơ đã
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 47
sống 26 năm cuối đời và an nghỉ tại đó. Trên 200 nhà nghiên cứu, nhà giáo, nhà văn từ các viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan văn hóa - văn nghệ trong cả nước đã về dự. Hàng trăm bản tham luận đã được tập hợp gửi đến, trong đó chủ yếu lựa chọn từ những bài đã tham gia các hội thảo khoa học ở các cơ sở nghiên cứu, giảng dạy,... được tiến hành trước đó không lâu. Sau Hội nghị khoa học toàn quốc này, một kỷ yếu biên soạn khá công phu được công bố, đã trích chọn
91 bài trong tổng số gần 120 tham luận đã gửi đến và một phần đã được trình bày1.
Cũng cần quan tâm xung quanh hai bài thơ Nguyễn Đình Chiểu viếng Phan Thanh Giản, từ năm 1985 đến nay, đã có tranh luận của các tác giả Trần Khuê, Cao Đức Trường, Phan Trọng Hiền, Hoàng Lạc Uyên, Phạm Thị Hảo, v.v. chủ
yếu công bố trên báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh2.
Khác với một số tác giả, khi sáng tác mắt của Nguyễn Đình Chiểu đã mù lòa, nên không trực tiếp ghi chép tác phẩm của mình, vì vậy văn bản tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu là một vấn đề được xem xét. Trước năm 1945, tranh luận về các bài thơ của hay không phải của Nguyễn Đình Chiểu đã được tác giả Lê Thọ Xuân nêu ra. Năm 1977, 1978, hai tác giả Cao Hữu Lạng và Vũ Văn Kinh công bố và bàn luận về văn bản của truyện thơ Dương Từ - Hà Mậu. Năm 1979, tác giả
_______________
1. Xem Nguyễn Đình Chiểu, Kỷ yếu Hội nghị khoa học năm 1982, Sở Văn hóa Thông tin, Hội Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre, 1984. 2. Xem Nhiều tác giả: Trao đổi sử học, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2021.
48 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Vương Hồng Sển công bố một văn bản bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc mới sưu tầm được. Đến năm 1980, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp đã công bố văn bản tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu do các tác giả Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sỹ
Lâm, Nguyễn Thạch Giang biên khảo và giới thiệu. Với các bản in truyện thơ Lục Vân Tiên, các tác giả bộ sách này đã chia thành hai giai đoạn: những bản in khi Nguyễn Đình Chiểu còn sống và những bản in sau khi tác giả qua đời. Năm 1982, trong Hội nghị khoa học về Nguyễn Đình Chiểu tổ chức tại Bến Tre, đã có các tác giả Vũ Thanh Hằng, Lê Trung Hoa, Trần Nghĩa, Bùi Đức Tịnh và Nguyễn Thị Thanh Xuân trao đổi về các vấn đề đặt ra với văn bản tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. Năm 1988, tác giả Cao Tự Thanh công bố mấy tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu mới sưu tầm được sau năm 1982. Năm 1998, vấn đề văn bản truyện thơ Lục Vân Tiên tiếp tục được đặt ra với tác giả Lê Hữu và tác giả Nguyễn Quảng Tuân, năm 2008, v.v..
Từ sau năm 1982, một số nghiên cứu sinh như Lê Văn Hỷ, Tạ Thị Thanh Huyền, Hoàng Thị Cương, Nguyễn Phong Nam, Nguyễn Phước Hoàng khi làm luận án tiến sĩ về Nguyễn Đình Chiểu có công bố một số tiểu luận liên quan đến đề tài luận án.
Tóm lại, nếu tính từ năm 1864 khi người Pháp có các nhận định, đánh giá về con người và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu đến nay, tiến trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu nhìn ở hình thức các tiểu luận đã gần 160 năm. Mỗi một phương diện nghiên cứu đều có những tác giả có tiểu luận tốt. Ở những vấn đề về tiểu sử tác giả, có thể kể đến các tác giả như Lê Văn Hảo, Mai Huỳnh Hoa, Đoàn Khoách, Đoàn Tứ, v.v.;
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 49
ở những vấn đề chung, có thể kể đến các tác giả như Trần Văn Giàu, Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Đổng Chi, Hoài Thanh, Nguyễn Huệ Chi, Lê Phạm Thiều, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Chú, v.v.; ở những vấn đề về phương pháp và nghệ thuật, có thể kể đến các tác giả Nguyễn Đình Chú, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Trung Hiếu, v.v.; ở những vấn đề ngôn ngữ, có thể kể đến các tác giả như Nguyễn Thạch Giang, Đào Thản, Hoàng Tuệ, v.v., ở những vấn đề văn bản, có thể nhắc tới Trần Nghĩa, Bùi Đức Tịnh, v.v..
Mỗi tác giả đều có một, hai tiểu luận đánh dấu sự thành công trong tiến trình nghiên cứu con người và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu. Có tác giả chỉ có một bài nhưng trở thành một bài tiểu luận mẫu mực như tác giả Phạm Văn Đồng với bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc. Các tác giả khác cũng vậy. Chẳng hạn, nhắc đến Ca Văn Thỉnh phải nhớ bài Truyền thống quật cường của Nam Bộ và Việt Nam với tinh thần đấu tranh của Nguyễn Đình Chiểu; nhắc đến Trần Văn Giàu là nhớ đến Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu; nhớ tác giả Đặng Thai Mai là nhớ đến tiểu luận Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ yêu nước lớn của nhân dân Việt Nam; nhớ Nguyễn Đổng Chi là nhớ tiểu luận Nguồn gốc và quá trình hình thành chủ
nghĩa anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, v.v.. Thực ra, sự nghiệp nghiên cứu của các tác giả nói trên không chỉ dừng ở việc nghiên cứu con người và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu, nhưng với nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu, từng tác giả đều có những bài thành công. Các tác giả, tiếp cận từ các góc tiếp cận khác nhau, phương pháp nghiên cứu khác nhau,
50 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
dù cùng một đối tượng nghiên cứu nhưng đều có đóng góp vào tiến trình nghiên cứu và khẳng định vị thế của Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử văn chương, lịch sử văn hóa Việt Nam. Đáng lưu ý, sự nối tiếp giữa các thế hệ nhà nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu rất rõ ràng. Nếu tác giả Trần Đình Hượu, người thầy có tiểu luận Bàn về Nguyễn Đình Chiểu - người nghệ sĩ từ và trong truyện Nôm thì Trần Ngọc Vương, học trò và cũng là đồng nghiệp của thầy Trần Đình Hượu tại khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) lại có tiểu luận Những đặc điểm mang tính quy luật của sự phát triển văn học nhìn nhận qua sáng tác của một tác giả. Đổi mới cách tiếp cận để khác với những người nghiên cứu đi trước là thái độ nhất quán ở thế hệ nghiên cứu đi sau về con người và sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu.
4. Nhìn ở năm sinh, Nguyễn Đình Chiểu đã qua 200 năm, nhìn ở năm mất, thể phách cụ đã xa thế giới này 134 năm, nhìn ở các công trình nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu, tiến trình ấy đã trải qua gần 160 năm. Có thể là một chuyên luận, hay một tiểu luận hoặc một chương trong một cuốn chuyên luận, hay một giáo trình về lịch sử văn học Việt Nam, mỗi công trình của một tác giả, một thế hệ tác giả, dù sống ở các thể chế xã hội khác nhau đã khẳng định vị thế, chân dung và giá trị của Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử văn học, văn hóa Việt Nam. Tác phẩm của cụ, với ba truyện thơ Nôm: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, với các bài thơ, các bài văn tế là các thành tố bất biến nhưng các công trình nghiên cứu
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 51
về con người và tác phẩm của cụ lại là yếu tố luôn biến đổi, tác động lại khiến các thành tố bất biến là hành trang của mọi thế hệ người Việt Nam. Suy ngẫm của tác giả Trần Ngọc Vương khi viết về Nguyễn Đình Chiểu là một ý tưởng khoa học sâu sắc “cho đến nay, chúng ta đã có thể khẳng định mà không sợ sai lệch bao nhiêu về các khuôn mặt tiêu biểu của mười thế kỷ văn học sử. Chúng ta cũng đã thông qua các bộ giáo trình, các công trình nghiên cứu chuyên sâu, các đợt kỷ
niệm tìm hiểu đến mức gây cảm giác bão hòa “không còn gì để nói” đối với các tác giả tiêu biểu đó. Nguyễn Đình Chiểu cũng không phải là một ngoại lệ”1.
Riêng tác giả Nguyễn Đình Chiểu, ngay từ năm 1972, tác giả Vũ Đức Phúc đã đặt ra một số vấn đề mà tác giả gọi là Mở rộng việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu2. Tác giả thống kê trước Cách mạng Tháng Tám có 24 bài báo và công trình viết về Nguyễn Đình Chiểu. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến năm 1967, có 39 bài báo và tiểu luận về Nguyễn Đình Chiểu trên đất miền Bắc. Có các tập tiểu luận về Nguyễn Đình Chiểu đã xuất bản như Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (Nxb. Khoa học xã hội, in lần thứ
hai, Hà Nội, 1969) có 8 tiểu luận, như Nguyễn Đình Chiểu, tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật (Nxb. Khoa học
_______________
1. “Những đặc điểm mang tính quy luật của sự phát triển văn học nhìn nhận qua sáng tác của một tác giả”, in trong sách Trần Ngọc Vương: Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.271.
2. “Mở rộng việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu”, in trong sách Nguyễn Đình Chiểu, tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973, tr.584-602.
52 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
xã hội, Hà Nội, 1973) có 31 tiểu luận, trong đó có một số tiểu luận đã in trong cuốn sách vừa dẫn. Năm 1971, tập Sưu tập những bài báo về Nguyễn Đình Chiểu do Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Việt Nam Cộng hòa tập hợp có 59 bài, cũng năm này, tập Sưu tập bổ túc các bài báo về Nguyễn Đình Chiểu cũng do Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa tập hợp có 16 bài. Năm 1984, tập Kỷ yếu Hội nghị khoa học về Nguyễn Đình Chiểu nhân kỷ niệm lần thứ 160 năm ngày sinh của cụ, có 91 tiểu luận. Tuy nhiên, như
tác giả Vũ Đức Phúc viết “từ xưa đến nay chúng ta mới tìm hiểu được rất ít về Nguyễn Đình Chiểu mà đã thấy ông là một nhà thơ yêu nước thật lớn, “một vì sao có ánh sáng khác thường” và “càng ngày càng thấy sáng”. Nếu chúng ta chịu tìm hiểu ông một cách có phương pháp, sẽ thấy được ngôi sao ấy sáng đến mức nào. “Nguyễn Đình Chiểu học” thực sự mới ở bước đầu. Chúng ta còn phải mất nhiều công phu nữa mới mong tiếp thu được hết cái gia tài văn học mà nhà thơ yêu quý đã để lại cho nhân dân ta”1. Đó là các vấn đề: Thứ nhất là, mọi phương diện về cuộc đời của một người thầy giáo, thầy thuốc, một người sáng tác như việc tự học sau khi đã bị mù lòa, cụ dạy học như thế nào? Vai trò của cụ và những người xung quanh. Việc chữa bệnh của một thầy thuốc? Quan hệ của cụ với các tướng lĩnh của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp xâm lược như Trương Công Định, Thủ khoa Huân, Phan Công Tòng, v.v.. Thái độ của cụ với các nhân vật đương thời _______________
1. “Mở rộng việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu”, in trong sách Nguyễn Đình Chiểu, tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, Sđd, tr.602.
Phần I: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 53
như Phan Thanh Giản, Tôn Thọ Tường, v.v.. Thứ hai là, quá trình sáng tác, sửa chữa tác phẩm của cụ? Ai là người giúp cụ chủ yếu trong ghi chép, sửa chữa văn bản tác phẩm? Thứ ba là, giá trị các tác phẩm và tổng thể giá trị các tác phẩm của cụ, nhất là phương diện nghệ thuật, cụ kế thừa và sáng tạo như thế nào về truyện Nôm, về văn tế và thơ Đường luật?
Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng, mọi vấn đề mà tác giả Vũ Đức Phúc đặt ra từ năm 1982, nhiều vấn đề đã được giới khoa học nghiên cứu, nhưng chưa hẳn đã giải quyết được hết các vấn đề, nói cách khác, cần tiếp tục nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu.
54
Chương hai
BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI Vj VĂN HÓA
C
uộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu nằm trọn vẹn trong thế kỷ XIX. Đây là một thời kỳ lịch sử có quá
nhiều biến đổi, tác động đến vận mệnh của các quốc gia, số phận của mỗi con người.
Sau một thời gian phát triển, thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, các nước phương Tây bắt đầu có nhu cầu tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường nguyên liệu để đưa về phục vụ cho sản xuất. Các nhà tư sản, thông qua thể chế của quốc gia mình tìm đến châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, những nơi mà theo họ là giàu nguyên liệu, đông nhân lực, từ đó bắt đầu các cuộc viễn chinh xâm lược của các nước phương Tây đến châu Á, châu Phi và các nước ở Nam châu Mỹ. Việc chia nhau xâm lược các quốc gia ở các châu lục đã diễn ra. Ở châu Phi, người Pháp chiếm Angiêri, Tuynidi, Marốc, Tây Phi, Xuđăng, Trung Cônggô (nay là Cộng hòa Cônggô), v.v.; người Anh chiếm Ai Cập, Xuđăng, Đông Phi, Kênia, Uganđa, Nam Phi, Nigiêria, v.v.; người Italia chiếm Bắc Phi (nay là Libi), Xômali, Êritơrêa; người Bồ Đào Nha chiếm Ăngôla, Tây Phi, Ghinê (nay là Ghinê Bítxô), v.v.; người Tây Ban Nha chiếm Sahara (nay là Tây Sahara),
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 55
Ghinê Xích đạo, v.v.. Ở châu Á, nước Bồ Đào Nha chiếm một phần Ấn Độ và Trung Hoa, nước Hà Lan chiếm Inđônêxia, nước Anh, nước Pháp chia nhau xâm chiếm Ấn Độ, sau đó là 7 năm chiến tranh (1757 - 1763) giữa hai nước, nên nước Pháp phải nhường quyền chiếm đoạt Ấn Độ cho nước Anh, từ
đó, tư bản Pháp nhòm ngó Việt Nam. Lấy cớ triều đình nhà Nguyễn cự tuyệt bang giao và giết người theo đạo, năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà (nay thuộc thành phố Đà Nẵng), năm 1859, thực dân Pháp đánh thành Gia Định, năm 1862 chiếm ba tỉnh miền Đông, năm 1867 chiếm ba tỉnh miền Tây của Nam Kỳ lục tỉnh. Rồi năm 1883, chiếm toàn bộ nước Việt Nam. Công việc xâm lược của các nước phương Tây đối với các nước bị xâm lược đã tạo ra các cuộc chiến đấu chống xâm lược ở các nước châu Á, châu Phi và Nam châu Mỹ.
Ở Đông Nam châu Á, các cuộc chiến tranh của nhân dân Inđônêxia chống Bồ Đào Nha và Hà Lan dưới sự lãnh đạo của Tơrunô Giôgiô, Đipônêgôrô; cuộc kháng chiến của nhân dân Achê; cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ở các địa phương Đà Nẵng, Quảng Nam, Gia Định và những cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ dưới sự lãnh đạo của Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực...; những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Khmer dưới sự lãnh đạo của Hoàng thân Sivôtha, Acha Soa, Pô Cum Bô ở Campuchia; những cuộc chống trả quân Anh của quân đội Miến Điện (nay là Mianma) do Mahabanđula chỉ huy và những cuộc kháng cự sau đó của nhân dân Miến Điện; các cuộc nổi dậy chống Tây Ban Nha của các tiểu vương và các bộ lạc ở Cebu,
56 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Manila, các đảo Luxông, Xamara, Lâyetta của Philíppin... mang những sắc thái khác nhau nhưng đều chung mục đích chống xâm lược, bảo vệ độc lập và chịu chung một kết cục là bị đàn áp và thất bại.
Quá trình đấu tranh chống xâm lược của nhân dân các nước Đông Nam Á diễn ra không cùng thời điểm cụ thể, không giống nhau về hình thức, khác về phương pháp đấu tranh, nhưng lại có điểm chung, thống nhất ở mục tiêu: ngăn chặn quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân, cố gắng bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Trong quá trình xâm lược, thực dân phương Tây vấp phải sự kháng cự kéo dài và kiên cường, liên tục của nhân dân từng nước. Ngay trong một nước, cuộc kháng cự này thất bại, cuộc khởi nghĩa khác lại nổi lên, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, kiên quyết đánh đuổi quân xâm lược. Ở Campuchia, cuộc chiến đấu do Hoàng thân Sivôtha tổ chức đang tiếp diễn thì cuộc khởi nghĩa do Acha Soa lãnh đạo đã bùng lên. Khi Acha Soa bị bắt, cuộc khởi nghĩa không tan rã mà nó được tiếp sức bằng cuộc nổi dậy của nghĩa quân Pô Cum Bô.
Ở Việt Nam, cuộc xâm lăng của thực dân Pháp bị sự tấn công liên tục và khắp nơi của nhân dân yêu nước. Từ Đà Nẵng, Quảng Nam cho tới Gia Định, Cần Thơ, Đồng Tháp Mười... đều vấp phải phong trào kháng Pháp của nhân dân. Ở Miến Điện, ba lần tiến hành chiến tranh là cả ba lần thực dân Anh gặp phải sự chống cự quyết liệt của quân đội triều đình. Sau khi quân triều đình thất bại, thì nhân dân khắp cả nước vùng lên chống lại thực dân Anh bằng cuộc chiến tranh du kích bền bỉ, anh dũng làm cho quân giặc khiếp sợ.
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 57
Ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XVIII, cuộc chiến giữa vương triều Tây Sơn và con cháu của các chúa Nguyễn diễn ra căng thẳng. Nhờ sự hỗ trợ của các giáo sĩ và một số người Pháp, do vua Quang Trung mất đột ngột, Nguyễn Phúc Ánh thắng thế. “Sự thắng lợi của Nguyễn Phúc Ánh đặt cuộc thống nhất trên một lãnh thổ rộng rãi hơn ở thời Tây Sơn. Song nó lại khôi phục sự thống trị của một tập đoàn phong kiến phản động hơn và xóa bỏ những cải cách tương đối tiến bộ mà nhà Tây Sơn đã mang lại cho nhân dân. Phúc Ánh lại mang cái tội cầu viện người Pháp để cho bọn thực dân Pháp có cơ sở mà thực hiện mưu mô xâm lược nước ta sau này”1. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long, bắt đầu thực thi các chính sách của mình, xóa bỏ các cải cách tiến bộ của vương triều Tây Sơn. Về quan hệ với nước ngoài, Nguyễn Phúc Ánh là người tạo cơ hội cho sự can thiệp, xâm lược của người Pháp với Việt Nam, bởi Nguyễn Phúc Ánh mời người Pháp, một kỹ sư công binh tên là Oliver Puymanel thiết kế và chỉ huy xây dựng thành Gia Định theo kiểu Vôbăng (Vauban) của phương Tây, và mời người Pháp huấn luyện quân đội, không bài xích Thiên Chúa giáo, không cấm đoán việc truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam. Ở trong nước, chính sách của vua Gia Long thể hiện một thái độ bảo thủ. Để có người trong quan trường, triều Nguyễn tiếp tục dùng chế độ khoa cử. Năm 1803, vua Gia Long mở Quốc Tử Giám tại Kinh đô Huế và đặt chức Đốc học để trông nom việc
_______________
1. Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.450.
58 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
giáo dục tại các trấn (sau là các tỉnh). Năm 1807, khoa thi Hương đầu tiên được mở, năm 1822, vua Minh Mạng mở khoa thi Hội, thi Đình. Các vua triều Nguyễn đề cao Nho học, phục hưng chế độ phong kiến với nhà nước trung ương tập quyền, bởi trong thế kỷ XVIII, ở Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong, Nho giáo đã tàn tạ, suy sụp. Về mặt đối nội, nước Việt Nam thời vua Gia Long xuất hiện nhiều chính sách tàn bạo: tăng thuế khóa, phu phen, lao dịch nặng nề nên người dân ở
các vùng quê bất bình, đứng lên khởi nghĩa. Trong 18 năm dưới thời vua Gia Long, trong nước ta xuất hiện khoảng 90 cuộc khởi nghĩa của người dân. Nhà vua cho soạn và ban hành Hoàng triều luật lệ, hay còn gọi là Luật Gia Long, sao chép bộ luật của nhà Thanh ở Trung Quốc nên rất khắc nghiệt chứ không tiến bộ như Luật Hồng Đức của nhà Lê. Về mặt đối ngoại, vương triều cấm người dân buôn bán với nước ngoài, nhưng cho phép các giáo sĩ truyền đạo, sử dụng một số người phương Tây trong việc huấn luyện cho quân đội, xây thành trì.
Năm 1820, vua Gia Long mất, Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi vua với niên hiệu là Minh Mạng, nhà vua tiếp tục duy trì chính sách của vua Gia Long: Bế quan tỏa cảng, khước từ mọi giao lưu với phương Tây, cấm người dân buôn bán với ngoại quốc, khiến Việt Nam dần tụt hậu do không tiếp thu được các thành tựu mới về khoa học kỹ thuật của phương Tây. Trong thời gian trị vì, vua Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính: lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở Kinh đô Huế, bãi bỏ chức Tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh. Nhà vua rất quan tâm đến Nho giáo,
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 59
duy trì chế độ khoa cử theo Nho giáo, mở lại các kỳ thi Hội, thi Đình ở Kinh đô Huế để tuyển lựa nhân tài, bổ sung vào hệ thống quan chức, đồng thời nghiêm cấm việc truyền bá đạo Cơ đốc, vì cho đó là thứ tà đạo làm băng hoại truyền thống dân tộc. Ở trong nước, thời vua Minh Mạng, nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại triều đình như
khởi nghĩa của Phan Bá Vành, Lê Duy Lương, Nông Văn Vân, Lê Văn Khôi. Các nhà sử học đã thống kê trong 21 năm vua Minh Mạng cầm quyền, đã có 234 cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình.
Năm 1840, vua Minh Mạng mất, Nguyễn Phúc Miên Tông lên làm vua, đặt niên hiệu là Thiệu Trị, trị vì từ năm 1841 đến năm 1847. Nhà vua không đưa ra cải cách gì mới, chỉ duy trì các chính sách có từ thời vua cha Minh Mạng, nhưng đất nước đối mặt với sự xâm lược của thực dân Pháp. Năm 1847, tại cửa biển Đà Nẵng, quân Pháp bắn chìm 5 tàu đồng của Đại Nam.
Năm 1847, vua Thiệu Trị mất, Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên ngôi Hoàng đế với niên hiệu là Tự Đức. Thời gian nhà vua trị vì từ năm 1847 đến năm 1883 là thời gian suy yếu của vương triều Nguyễn. Năm 1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng, quan quân nhà Nguyễn chống cự quyết liệt nên năm 1859, người Pháp quay vào phương Nam đánh thành Gia Định. Năm 1861, họ chiếm thành Gia Định, Biên Hòa. Năm 1862, triều Nguyễn cắt ba tỉnh miền Đông (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) cho người Pháp. Năm 1867, người Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Năm 1873, người Pháp đánh
60 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
thành Hà Nội. Năm 1874, vương triều Nguyễn ký Hiệp ước Giáp Tuất, nhượng sáu tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp, hủy bỏ các chỉ dụ cấm đạo, cho người dân trong nước được tự do hành đạo Thiên Chúa. Năm 1882, người Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai. Năm 1884, vương triều Nguyễn ký Hòa ước Giáp Thân, hay còn gọi là Hòa ước Patơnốt (Patenôtre) thừa nhận quyền đô hộ của nước Pháp trên toàn bộ đất nước Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng việc mất nước không phải là tất yếu. Sử gia người Pháp Gosslin viết: “Những vị hoàng đế An Nam phải chịu trách nhiệm về sự đổ
vỡ và xuống dốc của đất nước họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng đáng có quyền được những người cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ đã mù quáng vì không dự liệu, không chuẩn bị gì hết”1. Thực ra, vương triều Nguyễn đến thời vua Tự Đức (1847 - 1883) đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, làm cho vận nước suy yếu và thất bại trước sự xâm lược của thực dân Pháp, khi thì cổ vũ việc chống Pháp xâm lược, khi thì ký hòa ước bán nước và cuối cùng là mất nước. Câu hỏi lớn của lịch sử là phải canh tân đất nước thì vua Tự Đức biết mà không làm được, triều thần biết mà không đồng lòng canh tân đất nước. Thực dân Pháp với dã tâm xâm lược rõ ràng và hành động mau lẹ, với vũ khí hiện đại khiến vương triều Nguyễn thất bại, để mất nước. Những nông dân, những tướng lĩnh của triều đình nhà Nguyễn đã cam chịu thất bại. _______________
1. Dẫn theo Nguyễn Phan Quang: “Triều Nguyễn và xã hội Việt Nam thế kỷ XIX”, in trong sách Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, Tạp chí Xưa & Nay, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr.325.
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 61
Thất bại của những người nông dân và các tướng lĩnh có thể thấy trước nếu người ta nhìn sang thất bại của các nước láng giềng châu Á, ví dụ như thất bại của nước Trung Quốc dưới triều Thanh trong cuộc chiến tranh thuốc phiện 1840 - 1842. Vì thế, thực dân hóa và phi thực dân hóa là hai chiều lực xuất hiện trong giai đoạn này tác động đến mọi phương diện tư tưởng, xã hội, văn hóa của châu Á, cả Đông Nam Á lẫn Đông Bắc Á. Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng chịu tác động của thực dân hóa và phi thực dân hóa đậm nét. Biến đổi lịch sử này với Nam Bộ có những khác biệt, bởi lịch sử
Nam Bộ, có nếp gãy, và với các tộc người ở Nam Bộ, họ mới lập làng, lập ấp tại Nam Bộ chưa tới 200 năm. Nhìn nhận Nguyễn Đình Chiểu phải đặt tác giả trong bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa ấy.
62
Chương ba
QUÊ HƯƠNG Vj GIA ĐÌNH
Q
uê nội của Nguyễn Đình Chiểu tại xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là thôn Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Hiện nay, huyện Phong Điền nằm ở phía bắc tỉnh Thừa Thiên Huế, phía đông giáp huyện Quảng Điền và thị xã Hương Trà; phía nam giáp huyện A Lưới; phía tây giáp huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị; phía tây bắc giáp huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị; phía bắc giáp Biển Đông.
Nhìn lại tiến trình lịch sử, vùng đất này do cư dân người Chăm khai phá. Năm 1301, Thượng hoàng Trần Nhân Tông của vương triều Trần, sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, đã đi thăm các nước láng giềng. Khi thăm Chiêm Thành, Trần Nhân Tông được vua Chế Mân của vương quốc này tiếp đãi nồng hậu và ở lại đây 9 tháng. Để tạ ơn, khi ra về, Thượng hoàng hứa gả công chúa Huyền Trân (em gái Trần Anh Tông) cho vua Chế Mân. Cuối năm 1301, vua Chế Mân mang lễ vật sang cưới công chúa Huyền Trân. Năm 1306, vua Chế Mân đã tặng cho nhà Trần châu Ô và châu Rí (châu Lý), làm lễ vật dẫn cưới công chúa Huyền Trân
(nhà Trần). Thế là, một dải đất từ bờ Nam sông Thạch Hãn
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 63
đến bờ Bắc sông Thu Bồn đã nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Năm 1307, vua Trần Anh Tông của vương triều Trần đã đổi tên châu Ô thành châu Thuận, châu Lý thành châu Hóa. Tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay là một phần lớn của châu Hóa thời ấy. Châu Thuận gồm các huyện Đăng Xương (nay là Triệu Phong), Hải Lăng, Phong Điền, Quảng Điền và Hương Trà. Châu Hóa gồm các huyện Phú Vang, Phú Lộc, Diên Phước và Hòa Vang. Từ năm 1307, công cuộc di dân chính thức của người Việt từ đồng bằng Thanh - Nghệ vào châu Thuận, châu Hóa đã khởi đầu và ngày càng bổ sung thành phần cư dân Việt. Tại Thừa Thiên Huế, việc di dân của người Việt diễn ra rải rác trong thế kỷ XIV. Đến cuối thế kỷ XIV, vương triều Trần đã lập tại vùng đất Hóa Châu 7 huyện mới: Trà Kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh với khoảng trên 40 làng, ấp, thôn, trại, sách.
Đầu thế kỷ XV, những làng Việt định cư đã dần dần được thành lập rải rác ven bờ Nam sông Ô Lâu, bờ Bắc sông Bồ và ven phá Tam Giang, tuy nhiên dân cư còn thưa thớt. Tính đến giữa thế kỷ XVI, trên địa bàn Phong Điền mới chỉ có 24 làng. Đến cuối thế kỷ XVIII, cũng chỉ có 44 đơn vị dân cư
gồm 32 làng, 8 thôn và 3 phường. Con số ấy gần như duy trì cho đến cuối thế kỷ XIX với 45 đơn vị.
Năm 1428, Lê Lợi đuổi được quân Minh ra khỏi lãnh thổ và lên ngôi vua, hiệu Thái Tổ. Trước thế lực của nhà Lê, vua Ba Đích Lại của Chiêm Thành trả những vùng đất đã chiếm dưới thời nhà Minh. Nhà Lê đổi thành lộ Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây và đặt quan cai trị.
64 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Năm 1558, Nguyễn Hoàng xin và được chúa Trịnh Kiểm chấp thuận vào cai quản xứ Thuận Hóa.
Xứ Thuận Hóa khi ấy có 2 phủ, vùng đất Phong Điền hiện nay khi ấy là huyện Quảng Điền, một trong 6 huyện, 2 châu của phủ Triệu Phong.
Theo Dương Văn An trong Ô châu cận lục, làng Bồ Điền là một trong 54 làng thuộc huyện Đan Điền, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Làng Bồ Điền được nhắc đến cùng với nhiều làng khác thuộc huyện Đan Điền như: La Vân, Khúc Ốc, Niêm Phò, Thế Chí, Đông Dã, Tây Thành, Bác Vọng, Thủ
Lễ, Phò Nam, Lương Cổ, Lại Bằng, Đan Lương, Bái Đáp, Phò Lê,... “Đi về Lôi Trạch sương đầy nón lá. Đi qua Bồ Điền mưa ướt áo tơi”1.
Năm 1666, Lê Quý Đôn viết trong Phủ biên tạp lục, làng Bồ Điền là một trong 8 làng, 2 thôn, 2 phường của huyện Đan Điền gồm: làng Hoa Lang, Cao Ban, Bồ Điền, Nam Dương, Cổ Tháp, Lãnh Tuyền, Cao Xá Thượng, Cao Xá Hạ; thôn Ô Sa và Đông Lâm Thượng; phường Cương Gián Đông và Cương Gián Tây.
Thời các chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong, ranh giới địa lý của xứ Thuận Hóa vẫn như vậy. Thời nhà Tây Sơn, ranh giới ấy không có gì thay đổi.
Năm 1802, chúa Nguyễn Ánh thắng thế, lập vương triều Nguyễn, đặt niên hiệu là Gia Long, chọn Huế lập Kinh đô. Vua Gia Long cho lập dinh Quảng Đức. Lỵ sở của dinh
_______________
1. Dương Văn An: Ô châu cận lục, Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc dịch và hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2014, tr.84-85.
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 65
Quảng Đức đóng ở phía đông nam của Kinh thành, quản lý phủ Triệu Phong, ba huyện Hương Trà, Quảng Điền và Phú Vang.
Năm 1822, vua Minh Mạng cho đổi dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên. Đầu năm 1835 (năm Minh Mạng thứ 16), nhà vua cho đặt ba huyện nữa là Phong Điền, Hương Thủy, Phú Lộc thuộc phủ Thừa Thiên. Như thế, tên huyện Phong Điền chính thức xuất hiện trong danh sách các huyện ở Thừa Thiên.
Năm 1885, người Pháp xâm lược và cai trị Kinh đô Huế. Sách Đồng Khánh địa dư chí (1885 - 1888) biên soạn vào thời Nguyễn cho biết vào cuối thế kỷ XIX, huyện Phong Điền có 5 tổng, 45 xã, thôn, ấp, phường, giáp. Làng Bồ Điền là một trong 7 xã, 5 ấp, 1 phường của tổng Phò Ninh: xã Phò Ninh, Thượng An, Bồ Điền, Đông Dã Thượng, Hiền Sĩ, Cổ Bi, Xuân Lộc; ấp Sơn Quả, Điền Xuân, Huỳnh Liên, Cổ Xuân, Lương Sĩ; phường Thanh Tân.
Năm 1945, nhân dân Thừa Thiên Huế, dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền, huyện Phong Điền vẫn thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cai quản tỉnh Thừa Thiên Huế cùng chính quyền cách mạng. Theo hồ sơ địa phương chí, huyện Phong Điền khi ấy có 9 liên xã, 70 làng. Năm 1958, trong 7 xã của quận Phong Điền có xã Phong An, gồm các thôn: Hiền Sĩ, Thượng An, Đông Gia, Phò Ninh, Đông Lâm, Bồ Điền, Hương Hóp.
Năm 1975, chính quyền cách mạng ra mắt, cai quản địa phương. Huyện Phong Điền khi ấy có 13 xã, 78 thôn.
66 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Sau năm 1975, huyện Phong Điền thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, gồm 14 xã: Điền Hải, Điền Hòa, Điền Hương, Điền Lộc, Điền Môn, Phong An, Phong Bình, Phong Chương, Phong Hải, Phong Hiền, Phong Hòa, Phong Mỹ, Phong Sơn và Phong Thu. Năm 1989, tỉnh Bình Trị Thiên lại chia thành ba tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Ngày 30/6/1989, huyện Hương Điền thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế vừa mới
tái lập.
Từ năm 2002 đến nay, huyện Phong Điền có 15 xã và 1 thị trấn, trong đó có xã Phong An.
Bồ Điền là một ngôi làng cổ, ở vùng đồng bằng tả ngạn sông Bồ, nay thuộc xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong Ô châu cận lục, được tác giả Dương Văn An viết năm 1553, đã ghi nhận xã Bồ Điền thuộc huyện Đan Điền, phủ Triệu Phong1. Tên gọi Bồ Điền, một đơn vị
hành chính cũ, vẫn giữ nguyên từ xưa đến nay. Làng Bồ Điền: phía nam giáp sông Bồ; phía đông, đông bắc, đông nam giáp làng An Lỗ; phía tây, tây nam, tây bắc giáp làng Thượng An; phía bắc giáp làng Cao Ban.
Như thế, làng Bồ Điền hẹp theo chiều đông - tây, kéo dài theo chiều nam - bắc. Về thổ nhưỡng chủ yếu là đất đồng bằng phù sa, xen kẽ là các cồn, bàu. Dân cư tụ tập chủ yếu là ở triền đất cao ven sông Bồ về phía nam và gò đất ở khu vực xóm Bồ ở phía bắc. Quốc lộ 1A chạy xuyên qua giữa làng tách làng Bồ Điền thành hai phần điền địa và cư dân. Nhìn vào
_______________
1. Xem Vô Danh thị: Ô châu cận lục, Dương Văn An nhuận sắc tập thành, Bùi Lương phiên dịch, Văn hóa Á châu, Sài Gòn, 1961, tr.41.
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 67
bản đồ và quan sát thực địa có thể nhận thấy giáp giới giữa các làng còn lưu lại dấu tích của công cuộc khai khẩn điền thổ được hoạch định thuở ban đầu, đó là con đường từ sông Bồ đi về hướng bắc tiếp nối với bờ ruộng làm ranh giới1.
Tương truyền, những vị tổ đầu tiên đến khai thác điền địa làng Bồ Điền, ban đầu lập trại ở xứ Cửa Trại (thôn Đồng Lâm, xã Phong An) để ở tạm rồi tiến hành canh phá điền địa, lập làng định cư. Quá trình khai canh, khai khẩn, quy dân, lập làng được hậu thế lưu truyền theo thứ tự của các họ đến trước và đến sau. Đầu tiên là vị tổ của họ Phạm (khai canh), kế đến là họ Nguyễn (khai khẩn), sau đó là các họ Tịnh, Đỗ, Phan, Hoàng (4 họ), Hồ. Những họ tộc thuộc lớp cư dân đầu tiên đến định cư lập làng được gọi là “Thập tộc”. Sau này, làng còn được bổ sung khá nhiều họ khác đến định cư nơi đây.
Sinh cư tại vùng đồng bằng phù sa, người dân làng Bồ Điền từ xưa đến nay gắn bó chặt chẽ với ruộng, trồng cây lúa nước. Ở những vùng đất cao (cồn), người dân còn trồng thêm các loại cây hoa màu như lạc, khoai, mì, ớt... Là vùng đất có mạng lưới giao thông thủy, bộ thuận lợi nên chợ Bồ Điền xưa có hoạt động thương mại tấp nập với khá đông người dân tham gia. Sau này, chợ Bồ Điền bãi bỏ, những ngôi chợ khác
_______________
1. Giáp giới với làng Thượng An là con đường xóm nối dài với bờ ruộng. Tại bờ ruộng, người xưa đã xây một mốc giới có dạng như một tấm bình phong. Chiều dài của tấm bình phong phóng về hai hướng nam, bắc làm giới hạn của hai làng. Còn dấu tích giáp giới với làng An Lỗ do nhiều công trình kiến trúc được xây dựng nên việc quan sát trên thực địa có phần khó khăn hơn, nhưng vẫn có thể nhận thấy những dấu hiệu trên thực địa.
68 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
như chợ An Lỗ, chợ Phù Ninh được hình thành, làng Bồ Điền không còn là một trung tâm thương mại của vùng. Song, nghề thương mại của người dân Bồ Điền vẫn còn duy trì ở những ngôi chợ mới. Ngoài ra làng Bồ Điền còn có truyền thống Nho học, một số người lấy việc học hành làm sự nghiệp. Những người đỗ đạt thường ra làm việc cho triều đình, còn những người không đỗ đạt thì dạy học hoặc làm thầy cúng, thầy pháp. Truyền thống này có thể thấy ở trong họ Nguyễn Đình, qua tước hiệu của những người trong tộc được viết trong các cuốn gia phổ cũng như lời tựa trong một cuốn tộc phổ có tựa đề Nguyễn Đình tộc phổ1.
Như các làng cận cư khác, làng Bồ Điền có các công trình kiến trúc văn hóa, tín ngưỡng cộng đồng như: đình làng, chùa làng (nay là chùa - Niệm Phật đường Bồ Điền), miếu xóm, từ đường các dòng họ, giáo đường Thiên Chúa (giáo xứ
Bồ Điền)... Do chiến tranh, bom đạn tàn phá nên hầu hết các công trình kiến trúc tín ngưỡng của làng Bồ Điền bị hư hại nặng nề và đã trải qua nhiều lần tu bổ, thậm chí được xây mới hoàn toàn. Những công trình kiến trúc cộng đồng này
_______________
1. Y! Ngã tổ tông tự đế tạo dĩ lai giai dĩ Nho học danh dĩ văn chương hiển sở truyền thư tịch, văn tự, dĩ vi hậu nhân tác thụ chi lương điền. Lập thân kì lộ kỳ tích luỹ chi công đãi phi nhất nhật.
Dịch nghĩa: Ôi! Tổ tông ta từ xưa đến nay, lấy Nho học để lập danh, lấy văn chương làm hiển đạt, truyền lại sách vở để cho đời sau làm ruộng tốt cấy cày. Con đường lập thân do công của tổ tiên tích luỹ đâu phải chỉ trong một ngày (Nguyễn Đình tộc phổ - Nguyễn Đình tộc phổ thực lục, 1943, ảnh 9). Phần này, chúng tôi sử dụng kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Long, Lê Đình Hùng.
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 69
phần nào phản ánh đời sống văn hóa, tín ngưỡng cổ truyền của người dân nơi đây.
Năm 1982, tác giả Lê Văn Hảo viết: “Căn cứ vào gia phả tham khảo được ở làng Bồ Điền ngày nay, chúng ta biết rằng tổ tiên của Nguyễn Đình Chiểu là người miền Bắc (gia phả không ghi cụ thể tỉnh nào). Vào năm 1672, dưới triều Lê Gia Tông, họ vào lập nghiệp ở xã Bồ Điền, tổng Phò Ninh, huyện Phong Điền”1. Theo bài Nguyễn Đình tộc phổ thực lục bằng chữ Hán đề năm 1811, thì chúng ta biết thêm được một nguồn gốc của Nguyễn Đình Chiểu xưa hơn và rõ ràng hơn: “Họ Nguyễn Đình dòng dõi nguyên ở Kinh Bắc, từ triều Hồng Ninh, vì họ Mạc không giữ đạo bề tôi, gây rối loạn trong nước, nên ông cao tổ ba đời của ta bỏ tối theo sáng, vào khai thác và gìn giữ vùng đất xã Bồ Điền, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Từ đó đến nay, đời đời nối nhau, việc phát khởi thực bắt đầu từ ông khai canh Nguyễn Quý Công...”2. Kinh Bắc tức trấn Kinh Bắc thời Lê, đến thời vua Minh Mạng năm thứ 3 (1822) đổi làm trấn Bắc Ninh, và năm thứ 12 (1831) đổi làm tỉnh Bắc Ninh. Nói tới vùng Kinh Bắc là nói tới phần phía bắc Kinh thành Thăng Long, bên kia sông Hồng, hiện nay là địa phận quận Long Biên, huyện
_______________
1. Lê Văn Hảo: “Nguyễn Đình Chiểu với quê nội Thừa Thiên - Huế và văn hóa dân gian miền Trung”, in trong sách Nguyễn Đình Chiểu, Kỷ yếu Hội nghị khoa học năm 1982, Sở Văn hóa và Thông tin Bến Tre và Hội Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre, 1984, tr.18-19.
2. Đoàn Khoách: “Góp phần xác minh nguồn gốc Nguyễn Đình Chiểu qua việc tìm hiểu Nguyễn Chi thế phổ và Nguyễn Đình tộc phổ”, in trong sách Nguyễn Đình Chiểu, Sđd, tr.33.
70 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Gia Lâm, huyện Đông Anh của thành phố Hà Nội, huyện Văn Lâm của tỉnh Hưng Yên, cả tỉnh Bắc Ninh, một phần tỉnh Bắc Giang. Còn Hồng Ninh là niên hiệu cuối cùng của Mạc Mậu Hợp (1591 - 1592). Theo Nguyễn Đình tộc phổ, họ
Nguyễn làng Bồ Điền có hai chi Nguyễn Chánh và Nguyễn Đình, cùng chung một thủy tổ là Nguyễn Thế Lại. Đến đời Nguyễn Đình Thế, họ Nguyễn mới chia hai chi: Nguyễn Chánh Nghĩa (anh) và Nguyễn Đình Thế (em). Nguyễn Đình Thế trở thành cao cao cao tổ khảo của họ Nguyễn Đình. Đời thứ tư là cụ Nguyễn Đình Hiên, đời thứ năm là cụ Nguyễn Đình Thung, đời thứ sáu là cụ Nguyễn Đình Vân, đời thứ bảy là cụ Nguyễn Đình Ánh, đời thứ tám là cụ Nguyễn Đình Huy và Nguyễn Đình Chiểu là đời thứ chín.
Như thế, làng Bồ Điền nói hẹp hay Kinh đô Huế nói rộng là vùng đất mà Nguyễn Đình Chiểu gắn bó từ năm 11 tuổi đến khi trở về Gia Định để tham dự kỳ thi Hương và từ khi trở lại để dự kỳ thi tại Kinh đô Huế. Ở Kinh đô Huế, khoảng cuối thế kỷ XVIII, là thời kỳ trình diễn rầm rộ những vở
tuồng kinh điển của nghệ thuật tuồng cung đình nhà Nguyễn như Sơn hậu, Tam nữ đồ vương, Lý Thiên Luông... Tuồng (còn gọi là tuồng hát bội) được các vua Nguyễn say mê, khuyến khích, ủng hộ vì ngoài câu chuyện thưởng thức nghệ
thuật, trước hết vì họ nhận thấy bộ môn nghệ thuật trình diễn này đóng vai trò củng cố đạo trung hiếu, đề cao các gương trung quân, có lợi cho sự tập trung quyền lực của vương triều. Năm 1805, vua Gia Long lập Thanh Phong đường, một dạng sân khấu nhà hát; năm 1817, lập Thanh Bình thự đào tạo nghệ nhân. Vua Minh Mạng cho xây dựng
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 71
Duyệt Thị đường, một nhà hát tuồng quy mô lớn. Năm 1843, vua Thiệu Trị lập Tinh Quan viện biểu diễn phục vụ hoàng gia. Vua Tự Đức xây Minh Khiêm đường ngay trong khuôn viên lăng của mình để biểu diễn nghệ thuật. Lễ sinh nhật thứ 50 của vua Minh Mạng được chúc mừng bằng diễn tuồng (hát bội). Thời vua Tự Đức là thời kỳ hoàng kim của nghệ
thuật sân khấu hát bội cung đình. Nhà Nguyễn phục hưng Nho giáo, sáng tác của hoàng tộc lại càng hướng vào đạo đức Nho giáo để phục vụ cho nền thống trị quân chủ chuyên chế. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, nhất là Tự Đức đều là những ông vua hay chữ, sử dụng văn chương để tuyên truyền, giáo huấn đạo đức theo tư tưởng Nho giáo.
Tất cả những yếu tố lịch sử - văn hóa ấy của quê nội làng Bồ Điền nói hẹp, Thừa Thiên Huế nói rộng, ắt tác động đến Nguyễn Đình Chiểu cả về học vấn, tư tưởng và nhân cách.
Thân sinh Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy. Cụ sinh ngày 29 tháng Chạp năm Nhâm Tý (09/02/1793), năm mất không rõ, hiệu là Dương Minh Phủ, giữ chức Thư lại tại Văn hàn ty Tả quân dinh Lê Văn Duyệt. Ở Bồ Điền, Nguyễn Đình Huy lập gia đình với bà Phan Thị Hữu, sinh hạ một con trai và hai con gái. Năm 1820, vua Minh Mạng cử Tả quân Lê Văn Duyệt giữ chức Tổng trấn Gia Định, Nguyễn Đình Huy theo vào làm Thư lại ở Văn hàn ty của Lê Văn Duyệt. Vào Gia Định một thời gian, ông tiếp tục kết duyên cùng bà Trương Thị Thiệt, sinh được bốn con trai, ba con gái (sau không nuôi được một người). Nguyễn Đình Chiểu là con trai đầu.
Quê ngoại của Nguyễn Đình Chiểu tại thôn Tân Thới, tổng Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trấn Phiên An
72 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
(nay là phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Sau năm 1802, Gia Định thành cũng như trấn Phiên An, đã hơn 10 năm không chịu tác động của chiến tranh như các vùng khác của nước ta. Thập niên 20 của thế kỷ XIX, triều Nguyễn (1802 - 1945) mới cai quản một đất nước thống nhất. Kinh đô đặt tại Kinh thành Huế nên sự cai trị trực tiếp tại Gia Định là Tổng trấn Lê Văn Duyệt từ năm 1820. Theo miêu tả của Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí thì thành Gia Định “thành bát quái hình như hoa sen mở ra 8 cửa, có 8 con đường ngang dọc, từ đông đến tây là 131 trượng 2 thước, từ nam đến bắc cũng thế, bề cao 13 thước, dưới chân dày 7 trượng 5 thước...”1. Đây là ngôi thành được xây dựng từ năm 1789 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Ánh, sau cuộc binh biến của Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng cho phá đi, xây lại. Năm 1812, Finlayson, một thương nhân người Anh ghé thăm thành Gia Định đã ghi chép: “... thành phố này làm cho du khách phải ngạc nhiên: chúng tôi không ngờ ở miền xa xôi này lại có một thị tứ to và rộng như vậy... Khi chúng tôi xuống bến, đi hàng mấy hải lý mà chưa hết nhà cửa... Đường sá rất rộng... Cách đặt phố xá ở đây còn phong quang, thứ tự hơn nhiều kinh đô Âu châu... Những cửa hiệu ở Sài Gòn có đủ mặt hàng”2. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cũng ghi về chợ Sài Gòn: “phố xá liên tiếp _______________
1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Nguyễn Tạo, Nha văn hóa, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1972, tập hạ, tr.74.
2. Dẫn theo Lê Đình Chân: Cuộc đời oanh liệt của Tả quân Lê Văn Duyệt, Phổ thông, Sài Gòn, 1956, tr.60.
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 73
mái sát nhau, người Tàu và người ta ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong các phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu, sách vở, thuốc thang, trà bột, v.v.. Những hóa vật ở Nam Bắc theo đường sông, đường biển chở đến không thiếu món nào... Gặp ngày Tết đêm trăng, tam nguyên, sóc, vọng thì treo đèn đặt án tranh đua kỹ xảo trông như là cây lửa, cầu sao, thành gấm vóc như hội quỳnh dao, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, ấy là một thị phố lớn và đô hội náo nhiệt”1(*). Cuộc sống ở thành Gia Định được ghi lại trong văn chương mà bài phú Cổ Gia Định phong cảnh vịnh của Trương Vĩnh Ký (1882) là một chứng tích ghi nhận sự phồn vinh của thành Gia Định thuở ấy:
Phủ Gia Định, phủ Gia Định, nhà đủ, người no chốn chốn Xứ Sài Gòn, xứ Sài Gòn ở ăn vui thú nơi nơi...
Đông đảo thay làng Mỹ Hội
Sum nghiêm bấy làng Tân Khai
Mái cuốn đôi lân, phố phường khách nhà ngang dãy dọc Hiên sè cánh én, nhà quan dân hàng vắn hàng dài _______________
1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Nguyễn Tạo, Sđd, tập hạ, tr.99.
(*) Riêng đoạn văn này, dẫn theo tác giả Cao Tự Thanh trong chương Văn học Hán Nôm ở Gia Định, in trong sách Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Đồng chủ biên): Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 2: Văn học - Báo chí - Giáo dục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2018, tr.106 như sau: “Hai huyện Bình Long, Tân Long dân cư đông đúc, chợ phố san sát, nhà cửa liên tiếp nối nhau... Tàu thuyền từ biển lui tới buôn bán, cột buồm san sát, thật là đô hội lớn ở thành Gia Định, cả nước không đâu sánh bằng. Dân quen nghề buôn bán, có người chuyên sống ở chợ búa. Có kẻ ở trên thuyền, gọi là dân sông nước, có nhiều kẻ từ các nơi đến tụ họp, gọi là dân tứ chiếng”.
74 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Gái nha nhuốc tay vòng tay chuỗi
Trai xênh xang chân hán, chân hài...
... Dưới Bến Nghé hát lẳng lơ, giọng con đò, giọng con rỗi. Trên tàu voi ca khủng khỉnh, tiếng thằng mục, tiếng thằng nài
... Trọ trẹ dưới sông, quân Huế kéo neo hò hụi
Xi xô ình đường các khách già rao kẹo ối chao ôi! ... Bọn quân phường ngồi dưới cội, nghe đổ sứa hồi khoan hồi nhặt, giọng oan (uyên) ương hơi thiệt tốn hơi. ... Chốn chốn phong quan ca xướng,
Nhà nhà lịch lãm an nơi;
Lũ bảy đoàn ba, rật rật thấy bạn mai khách trúc... Tác giả Ca Văn Thỉnh ghi lại theo hồi ức của những người con của Nguyễn Đình Chiểu, rằng lúc bấy giờ sinh hoạt văn hóa đáng lưu ý ở thành Gia Định là tuồng (hát bội), bà Trương Thị Thiệt thường dẫn con mình đi xem. Theo truyền ngôn, Lê Văn Duyệt từng lập gánh hát bội của riêng mình. Ca hát là một hình thức sinh hoạt văn hóa mà người dân Gia Định rất ưa thích. Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí khi chép về sông An Thông (tức sông Sài Gòn): “dòng sông sâu rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, theo hai con nước lên nước ròng thuyền bè qua lại chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, làm chỗ đô hội lưu thông khắp ngả, rất là tiện lợi”1. Quê ngoại - thành Gia Định chắc in đậm vào tâm khảm Nguyễn Đình Chiểu những hình ảnh tươi đẹp.
_______________
1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Nguyễn Tạo, Sđd, tập thượng, tr.42.
Phần 1: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI 75
Các truyện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều y thuật vấn đáp cho thấy Nguyễn Đình Chiểu chịu ảnh hưởng của tuồng (hát bội). Lịch sử vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, nhất là thế kỷ XIX, hát bội phát triển có vị trí vững vàng trong đời sống văn hóa mà Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn từng khẳng định.
Mặt khác, không thể không nhìn nhận quan hệ tác động của vùng Ba Tri (Bến Tre) với Nguyễn Đình Chiểu. Đây là vùng quê mà Nguyễn Đình Chiểu gắn bó 26 năm cuối đời, xấp xỉ thời gian Nguyễn Đình Chiểu gắn bó với quê ngoại. Sau khi triều Nguyễn ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862) với thực dân Pháp, từ Cần Giuộc, quê vợ, Nguyễn Đình Chiểu cùng vợ
và bốn con nhỏ về tỵ địa ở Ba Tri (Bến Tre). Huyện Ba Tri ngày nay một bên giáp sông Ba Lai, qua sông là huyện Bình Đại, một bên giáp sông Hàm Luông, qua sông là huyện Thạnh Phú, phía tây là huyện Giồng Trôm, ba huyện đều thuộc tỉnh Bến Tre, phía đông là Biển Đông. Thuở Nguyễn Đình Chiểu về đây sinh sống, Ba Tri là huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nơi Nguyễn Đình Chiểu sinh sống là làng An Bình Đông, sau thành xã An Đức. Chắc không chỉ có lý do khi ấy vùng Ba Tri chưa bị xâm lược, nên các trí thức ở Gia Định dời mộ của thầy giáo Võ Trường Toản về vùng này, có thể còn nhiều lý do khác mà hiện tại chưa thể xác minh. Với Nguyễn Đình Chiểu, lựa chọn vùng Ba Tri để sinh sống có lẽ không phải ngẫu nhiên. Bên kia sông Ba Lai là tỉnh Định Tường. Đó là vùng hoạt động của nghĩa quân Trương Công Định, Thủ khoa Huân chống thực dân Pháp xâm lược.
76 NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Giữ quan hệ mật thiết với các tướng lĩnh của triều đình chống giặc xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu đã lựa chọn vùng Ba Tri làm nơi sinh sống để dễ liên hệ với các tướng lĩnh chống Pháp lúc bấy giờ. Mặt khác, Ba Tri nằm cuối cù lao Bảo, sát Biển Đông. Một bên là sông Ba Lai, một bên là sông Hàm Luông, trông ra Biển Đông, Ba Tri thuận lợi cho việc buôn bán với Chợ Lớn. Khi về đây sinh sống, Nguyễn Đình Chiểu sống bằng nghề dạy học và chữa bệnh. Cả hai nghề đều cần đến sách và thuốc mà đường giao thương buôn bán giữa Ba Tri và Chợ Lớn có thể giải quyết được. Hồi ấy, Chợ Lớn là nơi có nhiều sách, cả sách thuốc lẫn sách học chữ Nho, giúp Nguyễn Đình Chiểu có thể hành nghề, nuôi vợ và bốn con, về sau sinh thêm ba con nữa. Hơn nữa, vào thời điểm ấy, người dân Gia Định chỉ có thể tỵ địa ra Bình Thuận hoặc về Vĩnh Long, những nơi chưa bị thực dân Pháp xâm lược. Sau khi thực dân Pháp chiếm Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu và vợ con đã về lánh nạn tại Cần Giuộc, nên việc tỵ địa về Ba Tri dễ xảy ra. Vả lại, các sĩ phu Nam Kỳ lục tỉnh đã dời mộ thầy học của mình là Võ Trường Toản về đây. Cần ghi nhận tác động của vùng Ba Tri tới quá trình hoàn thiện nhân cách và quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Nơi này là quê hương của Phan Thanh Giản - người đỗ tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ lục tỉnh dưới triều Nguyễn, cũng là quê hương của một nhân vật lưu truyền trong dân gian: ông già Ba Tri, người ra tận Kinh đô Huế khiếu kiện với nhà vua vì hương chức hội tề sai trái. Khi về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu rất thân thiết với Phan Công Tòng, hương giáo làng Bình Đông, sau đứng đầu cuộc chống