🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Vô Sự
Ebooks
Nhóm Zalo
MụcLục
Dẫnnhập
PhầnNguyênLục
Dạychúng
1-ThiềnSưdạy
2-ThiềnSưkhaithịchúng
3-ThiềnSưkhaithị
4-ThiềnSưdạychúng
5-ThiềnSưdạy
6-ThiềnSưdạy
7-ThiềnSưkhaithị
Đốitrịcăncơ
Duhành
TinhyếuLâmTếLục
PhầnBìnhGiảng
DạyChúng
ĐốiTrịCănCơ
BốnPhépĐộNgười
BốnTrườngHợpKháchvàChủ
TinhYếuLâmTếLục
LờiCuối
Dẫn nhập
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng phần thứ hai của LâmTế Lục là phần Dạy Chúng (Khai thị).
Tổ LâmTế là một người con có hiếu, và rất thông minh. Tổ xuất gia từ hồi còn nhỏ. Tổ đã được học rất nhiều kinh, luật và luận. Nhưng sau đó, Tổ thấy phong trào học Phật tuy rầmrộ, mà nhiều kẻ tu hành không đàng hoàng, chỉ lo tìmkiếmdanh, lợi và địa vị, cho nên Tổ chán và quyết định tu thiền để đạt tớisự chứng ngộ. Có lúc Tổ tuyên bố: ‘Tất cả những gì ta học trong kinh, luật, luận đều vô ích. Làm
sao cho mỗi giờ phút trong đờisống hàng ngày, ta sống được cho thật, đừng đánh mất cuộc đời trong sự tìmkiếmhọc hỏi.’Phần lớn những người xuất gia thường đánh mất đời mình trong sự học hỏi, tìmkiếm.
Chúng ta nên nhớ rằng LâmTế Lục không phải là một tác phẩmdo Tổ LâmTế viết ra. Tổ không có mục đích làmra một tác phẩm. Đây là văn nói. Tổ chỉ dạy buổisáng, buổi trưa và buổi chiều. Những đoạn chúng ta đang học đây là nội dung những lời Tổ dạy vào buổi chiều cho nhiều người, gọi là Khai Thị. Đệ tử của Ngài là Pháp Sư Tuệ Nhiên đã ghi chép lại. Tiếc là thầy Tuệ Nhiên không ghi hômnay là ngày mấy, lúc mấy giờ chiều, nămmấy. Chúng ta chỉ biết rằng Tổ nói những lời ấy vào buổi chiều, còn buổisáng thì có những vấn đáp. Tổ thử
xemchúng ta tu chứng tới đâu. Nếu tu chứng không đàng hoàng thì Ngài đánh. LâmTế Lục kêu gọi chúng ta trở về sống cuộc đời của chính ta một cách đàng hoàng đích thực mà đừng phí đời mình trong sự tìmkiếm, dù đó là tìmkiếmNiết Bàn, tìmkiếmchân tâm, tìmkiếm giác ngộ.
Đọc LâmTế Lục chúng ta sẽ khámphá ra con người thật của thiền sư LâmTế, và chúng ta cũng thấy được con người thật của thiền sư LâmTế ở trong ta, chứ không phải không.Nguyên bản của LâmTế Lục bắt đầu bằng phần Đối Trị Căn Cơ. Nhưng chúng ta sẽ không bắt đầu bằng phần này mà bắt đầu bằng phần thứ hai, gọi là phần Khai Thị. Tạisao? Tại vì những người chưa biết gì về thiền, về phương pháp của Tổ mà bắt đầu bằng phần Đối Trị Căn Cơ thì có thể cảmthấy bối rối, lạc lõng.Khai Thị có nghĩa là chỉ bày, chỉ bày cho những thiền khách hoặc những đệ tử bằng những ngôn từ rất từ bi. Đọc LâmTế Lục, chúng ta sẽ thấy được đức từ bi lớn của Tổ. Có nhiều khi Tổ la mắng: ‘Bọn bay ngu quá, không có đủ niềmtin ở bản thân của mình...’, lời nói khá nặng, nhưng kỳ thực rất từ bi. Điều đó không khó hiểu gì cả. Nếu ta mở rộng lòng ra thì ta hiểu được tất cả những điều Tổ nói, không có gì là bí hiểmcả. Nó giống như: Ăn cơmđi! Dạ, ăn cơmxong rồi. Vậy thì uống nước đi! Ngồi chơi đi ! Rất là đơn giản.
Phần Nguyên Lục
Dạy chúng
1- Thiền Sư dạy
Thời bây giờ, người học Phật cần phải có chánh kiến. Có chánh kiến rồi thìsinh tử không còn động được tới mình nữa, lúc ấy ở và đi đều tự do, không cần đi tìmcáisiêu việt mà cáisiêu việt tự tìmtới mình. Này các bạn tu (đạo lưu), các vị cổ đức ngày xưa vị nào cũng đều có hiến tặng con đường thoát cho người, còn chỗ chỉ dạy của ông thầy tu núi này chỉ là khuyên các vị đừng có để cho người ta làmmê hoặc. Sử dụng được lời khuyên này thì hãy sử dụng liền, đừng có chần chừ nghi hoặc. Người tu học thời nay nếu không thành đạt được, đó là vìsao? Đó là vì họ không có đức tự tin. Bởi vì quý vị không đủ đức tự tin cho nên quý vị cứ bận rộn (gấp gáp) chạy theo hàng vạn thứ hoàn cảnh bên ngoài rồi bị các hoàn cảnh ấy xoay chuyển làmmất hết tự do. Nếu quý vị ngừng được những tư tưởng chạy đuổi tìm cầu ấy lại thì quý vịsẽ thấy giữa quý vị và Tổ Phật không có gì khác nhau. Quý vị có muốn biết Tổ Phật là ai không? Tổ Phật chính là quý vị đang đứng trước mặt tôi mà nghe pháp đấy. Kẻ tu hành mà không có đủ đức tự tin thì cứ hướng ra ngoài mà rong ruổi tìmcầu. Dù mà tìmđược một cái gì thì cái ấy cũng chỉ là những hình thái đẹp đẽ của văn tự mà không phải là cái năng lượng tuệ giác sống động của Tổ sư. Chư vị thiền đức ơi, đừng có lầm! Trong giây phút hiện tại này mà quý vị không gặp gỡ được Tổ Bụt thì trong ngàn vạn kiếp sau quý vịsẽ phải luân hồi trong ba cõi, cứ tiếp tục chạy theo để nắmbắt những cảnh huống dễ chịu để rồisẽ liên tiếp sinh vào trong bụng trâu lừa.
Này các bạn tu, theo cái thấy của ông thầy tu núi là tôi đây thì quý vị có khác gì đức Thích Ca đâu? Ngày hômnay, trong mọisinh hoạt thường nhật của chúng ta, quý vị còn cảmthấy thiếu thốn điều gì? Có lúc nào mà sáu đạo thần quang của quý vị ngừng chiếu tỏa? Ai mà thấy được như thế thìsẽ suốt đời là một kẻ vô sự.
Này các vị đại đức, ba cõi không an, giống như nhà lửa, nơi đó không phải là chỗ cư trú lâu dài của quý vị. Quỷ vô thường mỗi phút giây đều ra tay sát hại, không phân biệt già trẻ, quý tiện. Nếu quý vị muốn không khác với Tổ Phật thì đừng hướng ngoại tìmcầu. Mỗi tâm niệmmà phát ra được ánh sáng thanh tịnh, đó là pháp thân Bụt đang ở ngay trong nhà của quý vị; ánh sáng vô phân biệt phát ra từ tâm niệmcủa quý vị chính là báo thân Bụt đang ở ngay trong nhà của quý vị; ánh sáng vô phân biệt phát ra từ mỗi tâmniệmcủa quý vị chính là hóa thân Bụt đang ở ngay trong nhà của quý vị. Ba Thân ấy không là gì khác ngoài quý vị đang đứng trước mặt tôi nghe pháp. Cái công dụng (mầu nhiệm) này chỉ có thể có được khi quý vị không hướng ngoại truy cầu. Nương tựa vào các nhà nghiên cứu và chú giải kinh luận người ta đi tìmBa Thân như những tiêu chuẩn tuyệt đối. Theo tôi thì không phải như thế. Ba Thân ấy chỉ là danh ngôn, và cũng chỉ là ba cái nương tựa vào nhau mà có. Các vị cổ đức đã nói: ‘Thân là dựa vào ý nghĩa mà thành lập, độ là dựa vào bản thể mà luận.’Vậy thì thân của pháp tánh và độ của pháp tánh thật ra (rõ ràng) chỉ là quang ảnh.
Này các vị đại đức, các vị nên biết rằng cái con người đang cầmnắmvà đùa giỡn được với quang ảnh đó là nguồn gốc của chư Bụt. Đối với kẻ ấy, chỗ nào cũng là nhà để trở về (nơi nào cũng là quê hương trở về của người tu tập). Sắc thân tứ đại của quý vị không biết nói pháp nghe pháp, tỳ vị gan mật không biết nói pháp nghe pháp, hư không không biết nói pháp nghe pháp... vậy thì cái gì biết nói pháp nghe pháp? Đó là cáisáng rỡ rõ ràng không chút mảy may hình tướng trước mặt quý vị đấy. Chính cái đó biết nói pháp nghe pháp. Nếu thấy được như thế thì quý vịsẽ không khác gì với Tổ với Bụt. Chỉ có một điều là giữ nó cho miên mật, đừng để cho nó bị gián đoạn, mắt chạmđến đâu là thấy được đến đấy.
Chỉ vì tình thức phát sinh nên trí tuệ ngăn cách, cũng vì tri giác biến đổi cho nên chân thể bị biến hình, vì thế mới có luân hồi trong ba cõi, chịu đựng mọi thứ khổ đau. Theo cái thấy của tôi, thì không có gì là không thâmdiệu, không có gì là không giải thoát.
Này các bạn tu, tâmpháp không hình tướng, thông suốt mười phương, nơi mắt gọi là cái thấy, nơi tai gọi là cái nghe, nơi mũi gọi là cái ngửi, nơi miệng gọi là đàmluận, nơi tay gọi là cầmnắm, nơi chân gọi là cái chạy nhảy, tất cả chỉ từ một cái tinh minh (shining) chia ra thành sáu hòa hợp. Chỗ nào tâmý không còn phát sinh thì chỗ ấy cũng là giải thoát. Tôi nói như thế nghĩa là sao? Chỉ vì mọi thứ tìmcầu của quý vị chưa chấmdứt cho nên quý vị mới bị lọt vào những cái bẫy của cổ nhân bày ra.
Này các bạn tu, hãy thử sử dụng cái thấy của tôi xem. Hãy chặt đứt hết những cái đầu của mọi báo thân và hóa thân của Bụt. Hãy thấy rằng các bậc Bồ-tát trong mười địa chỉ là những người làmcông, các vị Đẳng Giác và Diệu Giác đều là những tên tù đang mang gông cùm, các vị La-hán, Bích-chi đều như những cái hố xí, Bồ Đề và Niết Bàn đều như những cái cọc buộc lừa. Tạisao? Chỉ vì các vị không thông đạt được cái Không của ba a tăng kỳ kiếp cho nên quý vị mới gặp phải những chướng ngại (mà quý vị đang có). Nếu là một người tu chân chính thì quý vịsẽ không như thế. Chỉ nên tùy duyên giúp làmtiêu nghiệp cũ, cứ thanh thản mặc áo, cần đi thì đi, cần ngồi thì ngồi, đừng có một khoảnh khắc nào mong cầu quả vị Bụt.
Tạisao? Người xưa nói: ‘Nếu muốn tìmBụt bằng cách lao tác, thì Bụt sẽ trở thành điềmbáo trước của sinh tử.’
Này các vị đại đức! Thì giờ quý báu, quý vị hãy ngừng lại cái tâmbôn ba chạy sang nhà láng giềng để học thiền học đạo, tìmcâu tìmchữ, cầu Tổ cầu Bụt, cầu thiện tri thức. Đừng lầmlạc như thế. Này các bạn tu, các vị chỉ có một cha một mẹ, vậy thì còn đi tìmgì nữa? Các vị hãy tự nhìn lại đi! Cổ nhân nói: ‘Diễn Nhã Đạt Đa (Yajnadatta) tưởng đã mất đầu, nhưng khi cái tâmđi tìmcầu ngưng lại là chàng đạt tới vô sự (sans affaires) ngay.’
Các vị đại đức, các vị hãy sống cuộc đời của chính mình một cách rất bình thường, đừng làmdáng làmđiệu. Có một bọn đầu hói không phân biệt được thế nào là tốt xấu, nói rằng mình thấy thần thấy quỷ, chỉ Đông vẽ Tây, cầu mưa cầu tạnh, bọn này quyết chắc sẽ phải trả nợ đã vay, và sẽ có ngày trước mặt DiêmVương nuốt hòn sắt nóng. Con cái nhà lành có thể bị bọn dã hồ tinh mị này mê hoặc, một ngày nào đó bọn ấy cũng sẽ phải trả nợ tiền cơmtiền gạo, không tránh thoát được đâu.’
2- Thiền Sư khai thị chúng
Này các bạn tu, các vị rất cần tìmcầu cho được chánh kiến, phải biết đi hiên ngang trong thiên hạ để khỏi bị bọn yêu tinh nói trên mê hoặc. Con người cao quý nhất là con người vô sự! Chỉ cần đừng nghĩ đến chuyện tạo tác (đến chuyện sự nghiệp). Chỉ nên làmmột con người bình thường. Nếu quý vị cứ nghĩ tới chuyện hướng ngoại tìmcầu và tính toán tức là quý vị đã sai lầmrồi vậy.
Hãy đừng cầu Bụt, Bụt chỉ là danh từ suông. Các vị có biết kẻ đi tìmcầu là ai không? Các Bụt và Tổ trong ba đời từ xưa nay cũng chỉ đi tìmPháp. Ngày hômnay các vị thamthiền học đạo cũng chỉ là để cầu Pháp. Được Pháp thì mới giải quyết xong, còn chưa thì vẫn còn luân hồi trong nămđường. Mà Pháp là gì? Pháp là pháp của tâm. Tâmkhông hình, thông suốt mười phương, có diệu dụng ngay trước mắt. Vì người ta không có đủ tín tâmnên mới nhận lầmdanh từ và câu nói, hướng về phía văn tự để tìmcầu pháp của Bụt; cũng vì vậy cho nên mới bị xa cách với Pháp như trời xa đất.
Này các bạn tu, nếu tôi nói Pháp thì Pháp ấy là gì? Tôi nói Pháp của tâmđịa, có thể giúp ta vào phàmvào thánh, vào tịnh vào uế, vào chân vào tục. Nhưng không phải cái chân tục phàmthánh nơi quý vị có thể được diễn bày bằng các danh từ và các ý niệmvề chân tục phàmthánh. Với lại cái chân tục phàmthánh ấy không bao giờ tự gọi mình bằng các danh từ chân tục phàmthánh.
Này các bạn tu, nếu nắmđược cái then chốt này thì nên áp dụng ngay vào đờisống hàng ngày. Đừng nên vướng vào danh tự. Tôi gọi đó là huyền chỉ (nguyên tắc mầu nhiệm).
Pháp của ông thầy tu núi này nói ra với pháp của người trong thiên hạ nói ra rất khác. Dù cho Văn Thù, Phổ Hiền có xuất hiện ra trước mặt, mỗi vị hiện một thân khác nhau đến hỏi pháp, thì vừa mở miệng nói ra ‘Bạch Hòa Thượng’là tôi đã có thể nhận ra được chân tướng của họ rồi. Tôi cứ ngồi yên đây, hễ có ai tới gặp tôi là tôi liền nhận ra được chân tướng và tung tích của người ấy. Tạisao thế? Tại vì cái thấy của tôi khác: ngoài thì không kẹt vào ý niệmphàmthánh, trong thì không dựa vào những cái gọi là nguyên tắc căn bản, vì vậy cái thấy ấy được thông suốt, chẳng còn chỗ nghi ngờ.’
3- Thiền Sư khai thị
Này các bạn tu, trong Phật pháp không cần có sự dụng công (mệt nhọc). Nguyên tắc là bình thường vô sự (tenir dans l’ordinaire, sans affaires), mặc áo ăn cơm, đi tiêu đi tiểu, mệt thì đi nghỉ. Kẻ ngu có thể cười ta nhưng người trísẽ hiểu ta. Cổ nhân nói: ‘Hướng ngoại để công phu, toàn là bọn ngu xuẩn.’Các vị nên tùy nơi làmchủ, nơi nào cũng chân, không để cảnh duyên bên ngoài lôi kéo. Như vậy thì dù có tập khí ngàn xưa, có gây nămnghiệp vô gián thì tất cả cũng thành ra biển cả giải thoát. Người học đạo ngày nay, phần lớn đều không hiểu pháp, giống như con dê gặp gì cũng ăn, không phân biệt thầy tớ chủ khách. Những kẻ ấy lấy tâmtà vào đạo, sẵn sàng đi vào những nơi huyên náo, không thể gọi họ là người xuất gia chân chính. Họ chỉ là những người thế tục. Người xuất gia chân chính thì phải có được những chánh kiến bình thường: phân biệt được Bụt với Ma, Chơn và Ngụy, Phàmvà Thánh. Được như thế mới gọi là chân xuất gia. Nếu không phân biệt được Ma với Bụt, thì chỉ xuất một gia này để vào một gia khác, gọi là chúng sanh tạo nghiệp, chưa được gọi là xuất gia. Bây giờ đây lại có một loại hiện tượng nữa gọi là hiện tượng Bụt Ma, đồng thể không phân biệt, như nước vớisữa hòa lại. Nghe nói Ngỗng Chúa chỉ uống sữa. Các bạn tu mắt sáng thì theo tôi nên đánh ngã cả Ma lẫn Bụt, nếu quý vị còn có khuynh hướng yêu thánh ghét phàmthì quý vịsẽ còn phải chìmđắmtrong biển sinh tử dài dài.’
Hỏi: ‘Thế nào là Bụt, thế nào là Ma?’
Thiền Sư đáp:
Trong tâmcủa quý vị mà có một tư tưởng nghi ngờ (vô minh) thì đó là Ma. Nếu quý vị đạt tới tính vô sinh của vạn pháp, biết rằng tâmlà huyễn hóa, thật ra không có một đối tượng nào, một hiện tượng nào có thật, đâu đâu cũng là thanh tịnh, thì đó là Bụt. Tuy vậy, người ta thường nghĩ là Bụt và Ma là hai cảnh giới nhiễmtịnh khác nhau. Theo cái thấy của tôi thì không có Bụt cũng không có chúng sinh, không có xưa không có nay, đạt được thì đạt ngay, không cần phải đi qua thời gian, không cần tu không cần chứng, không được không mất, trong bất cứ thời gian nào đều cũng không hề có một pháp nào khác biệt. Nếu có một pháp nào khác hơn, thì tôi nói pháp đó cũng chỉ là mộng, là huyễn, đó là tất cả cái gì tôi muốn nói.
Này các bạn tu, mỗi vị đang ngồi trước mặt tôi nghe pháp đây, ngay trong giờ phút hiện tại, đều là bản chất sáng tỏ rõ ràng, người nào cũng không bị ủng trệ, người nào cũng thông suốt mười phương, tự tại trong ba cõi, người nào cũng có thể tự do đi vào mọi cảnh giới không bị trở ngại, mỗi người trong thời gian một nháy mắt có thể thấu nhập pháp giới, gặp Bụt thì nói chuyện Bụt, gặp Tổ nói chuyện Tổ, gặp La-hán nói chuyện La-hán, gặp ngạ quỷ nói chuyện ngạ quỷ, rong chơi khắp mọi quốc độ để giáo hóa chúng sinh mà không cảm thấy một giây phút nào xa cách, ở đâu cũng thanh tịnh, ánh sáng soi thấu mười phương, thấy được vạn pháp là nhất như.
Này các bạn tu, ngày nay muốn làmmột kẻ đại trượng phu thì phải tỏ ngộ được sự thật bản lai vô sự. Chỉ vì đức tin của quý vị chưa chín cho nên quý vị còn tiếp tục tìmcầu trong mỗi giây phút, bỏ đầu tìmđầu, không tự mình dừng lại được.
Các vị cứ hình dung những vị gọi là Bồ-tát viên đốn hiện thân, đi vào pháp giới, hướng về tịnh độ, ghét phàmyêu thánh mà xem. Nếu có
những vị Bồ-tát như thế thì họ vẫn còn vướng vào sự nắmbắt và buông bỏ, trong tâmhọ ý niệmvề nhiễmtịnh vẫn còn. Theo kiến giải của Thiền, thì không thể như vậy. Cái mà tôi chủ trương là tất cả đều phải đang xảy ra ngay trong giờ phút này, không cần đợi tương lai. Trong giây phút hiện tại, thuốc và bịnh phải chữa trị lẫn nhau cùng một lúc, bởi vì thuốc và bịnh là hai cái tương đãi; ngoài ra không có
cái gì khác gọi là có thật. Nếu thấy được như thế thì đó là người xuất gia chân thật, xứng đáng có thể được tiếp nhận phẩmvật cúng dường tương đương mười ngàn lạng vàng mỗi ngày.
Này các bạn tu, đừng để cho các bậc lão sư (giả mạo) đây đó ấn chứng bừa bãi để rồi đi rêu rao: ‘Tôi đã hiểu thế nào là thiền, tôi đã hiểu thế nào là đạo’, để rồi cứ biện luận thao thao như một dòng thác chảy. Tất cả những hành động đó chỉ là để tạo thêmnghiệp địa ngục. Nếu là người học đạo chân chính, thì ta không cần đi bươi móc những lỗi lầmcủa thế gian mà chỉ cần lập tức tìmcầu chánh kiến. Đạt được kiến giải chân chính tròn đầy mới gọi là thành công.
Hỏi: ‘Thế nào là chánh kiến?’
Thiền Sư đáp:
Chánh kiến là thấy được tính cách thành, trú, hoại, không của các pháp khi quý vị đi vào phàmthánh, nhiễmtịnh, đi vào các quốc độ của chư Bụt bất kỳ ở đâu, đi vào lầu các của Di Lặc, đi vào pháp giới của Tỳ Lô Giá Na. Chánh kiến là thấy được các tướng không tới không đi, không sinh không diệt của các hiện tượng xuất thế, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết Bàn của Bụt. Chánh kiến là thấy được tường tận tướng Không của các pháp, rằng không pháp nào có thật khi quý vị đi vào pháp giới vô sinh, rong chơi trong các quốc độ, và đi vào thế giới hoa tạng. Chánh kiến là thấy rằng chính cái con người không cần chỗ tựa đang nghe pháp kia chính là mẹ của chư Bụt. Tại sao? Tại vì các đức Thế Tôn đều do chỗ không nương tựa mà phát sinh. Nếu ngộ được vô y thì thấy rằng bản chất của Bụt cũng là vô đắc. Thấy được như thế là chánh kiến. Người tu không hiểu, cứ chấp vào danh và cú, bị những danh từ như thánh, phàm, v.v.. làmtrở ngại khiến cho mắt tuệ của họ không mở ra được, do đó họ không thấy được thực tại một cách rõ ràng. Mười hai thể tài của giáo lý cũng chỉ là để làmrõ sự thật này. Người tu chẳng hiểu mới hướng tới văn cú để vọng tìmkiến giải. Đó là thái độ đi tìmchỗ bámvíu nương tựa, làmcho mình rơi vào vòng nhân quả, chưa có thể thoát khỏi vòng sinh tử trong ba cõi.
Nếu các vị muốn được tự do đi lại trong sinh tử thì hãy nhận diện cho được con người đang nghe pháp đây, tuy là vô hình, vô tướng, vô căn, vô bản, không có trú xứ, nhưng linh động hoạt bát vô cùng, có thể thi thiết ra muôn ngàn diệu dụng, mà công dụng nào cũng đều có tính cách vô trụ.
Trái lại, nếu càng có ý niệmtìmcầu thì càng cách xa, càng sai trái. Tôi gọi điều này là bí quyết (mầu nhiệm).
Các bạn tu, đừng tự đồng nhất mình với cái anh bạn mộng huyễn này, tại vìsớmmuộn gì chàng ta cũng phải được trả lại trong tay quỷ vô thường. Trong thế giới này, các vị cần những gì để tìmgiải thoát? Các vị chỉ cần một bát cơm, một manh áo, ngoài ra phải để hết tâmlực và thì giờ để tìmthiện tri thức, đừng phí uổng ngày giờ, đuổi theo sự vui chơi. Thì giờ quý báu, cuộc sống vô thường, nói chung là bốn
đại (địa, thủy, hỏa, phong) và nói riêng là bốn tướng (sanh, trụ, dị, diệt) đều đang bức bách ta. Các vị bây giờ đây phải nhận diện bốn cảnh vô tướng để cho đừng bị hoàn cảnh lôi kéo.
Hỏi: ‘Bốn cảnh vô tướng là bốn cảnh nào?’
Thiền Sư đáp:
- Một niệmvô minh (nghi ngờ) nổi lên là quý vị bị đất làmchướng ngại.
- Một niệmthamái nổi lên là quý vị bị nước làmchướng ngại.
- Một niệmsân hận nổi lên là quý vị bị lửa làmchướng ngại.
- Một niệmhí hửng nổi lên là quý vị bị gió làmchướng ngại.
Nếu thấy được như thế thì quý vị không còn bị hoàn cảnh lôi kéo, ở đâu quý vị cũng sử dụng được hoàn cảnh, nổi lên ở phương Đông thì lặn xuống ở phương Tây, nổi lên ở phương Namthì lặn xuống ở phương Bắc, nổi lên ở phía giữa thì lặn xuống ở phía bên, nổi lên ở phía bên thì lặn xuống ở phía giữa, đi trên nước như đi trên đất, đi trên đất như đi trên nước. Tạisao làmđược như thế? Đó là tại vì quý vị đã thấy được bốn đại là như mộng như huyễn.
Này các bạn tu, cái kẻ đang ngồi nghe pháp đây không phải chỉ là bốn đại của quý vị, kẻ đó đang sử dụng được bốn đại mà bốn đại không sử dụng được kẻ đó. Thấy được như thế thì đi ở tự do. Theo cái thấy của tôi, là ta không nên chán ghét cái gì hết (hoặc yêu thích cái gì hết). Quý vị yêu cái thánh, ghét cái phàmphải không? Thánh chỉ là danh từ thánh. Có những hành giả leo lên núi Ngũ Đài Sơn để tìmđức Văn Thù. Làmthế là sai rồi. Trên núi Ngũ Đài Sơn làmgì có đức Văn Thù? Quý vị có muốn biết đức Văn Thù không? Văn Thù chính là cái diệu dụng trước mặt quý vị, xưa nay vẫn thế, ở đâu cũng không hề có sự nghi ngại. Đó là đức Văn Thù sống động. Cái ánh sáng vô phân biệt của mỗi niệmtrong tâmcủa quý vị chiếu tới đâu thì đức Phổ Hiền chân thật hiện ra tới đó. Mỗi niệmtrong tâmcủa quý vị mà không bị trói buộc, chỗ nào cũng tự do thì đó là tammuội của Bồ-tát Quan Thế Âm.
Ba cái ấy thay phiên nhau làmchủ và làmbạn. Khi xuất hiện thì cả ba đều xuất hiện, một là ba, ba là một. Thấy được như thế mới có khả năng học kinh học giáo.
4- Thiền Sư dạy chúng
Người học đạo thời nay cần có đức tự tin, đừng hướng ra ngoài mà tìmcầu. Tìmcầu như thế rốt cuộc chỉ vướng vào trần cảnh, không phân biệt được tà chính. Nói rằng có Bụt có Tổ thì đó cũng chỉ là những dấu tích trong kinh giáo. Thói thường thì khi có ai nêu lên một câu, một lời trong kinh ra, dù nghĩa lý là ẩn hay hiển, thì mình có khuynh hướng lập tức đặt ra nghi vấn, rồi nhìn trời nhìn đất, tìmtới kẻ khác mà thamvấn và càng thamcàng thấy mờ mịt. Kẻ đại trượng phu là người không cần bàn vua bàn giặc, bàn thị bàn phi, bàn sắc bàn tài, không bỏ hết thì giờ vào sự đàmluận. Tôi đây, mỗi khi có người tới, dù người ấy xuất gia hay tại gia, tôi cũng nhìn thấy được tường tận gốc gác của kẻ ấy, nhận diện được rằng tất cả những âmthanh, danh từ và văn cú mà kẻ ấy đưa ra đều là mộng huyễn, và cũng thấy được con người thật của kẻ ấy, con người thật không bị trần cảnh làmchướng ngại. Cái cách nhìn này chính là tông chỉ huyền diệu của Bụt. Cảnh giới của Bụt không bao giờ tự xưng mình là ‘cảnh giới của Bụt.’Chính cái con người học đạo vô y (không nương tựa bámvíu) ấy mới chứng nghiệmđược cảnh giới kia. Nếu có ai tới hỏi tôi về Bụt, tôisẽ ứng hiện cảnh giới thanh tịnh; muốn hỏi tôi về Bồ-tát, tôisẽ làmứng hiện cảnh giới từ bi; muốn hỏi tôi về Bồ Đề, tôisẽ làmứng hiện cảnh giới tịnh diệu; muốn hỏi tôi về Niết Bàn, tôisẽ làmứng hiện cảnh giới tịch tĩnh. Cảnh thì muôn ngàn sai khác, nhưng người thì không. Vì vậy cho nên ta có thể ứng vật hiện hình, như mặt trăng trong nước.
Này các bạn tu, nếu quý vị muốn đạt được pháp chân như thì phải trở nên một bậc đại trượng phu (con người lớn) mới được, còn nếu cứ yếu đuối và cứ tiếp tục thỏa hợp thì không bao giờ thành. Cũng như một cái bình rạn nứt không thể chứa được đề hồ. Nếu muốn làm pháp khí lớn thì phải cương quyết không để cho kẻ khác lường gạt, tới đâu cũng tự mình làmchủ (active sovereignty, not as a victim), đứng đâu mình cũng chân thật là mình (vrai, true). Có ai đến mình cũng không bị ảnh hưởng. Có một niệmnghi ngờ là ma vương đã thâm nhập. Đối với một vị Bồ-tát, nghi hoặc tức là cơ hội của Ma sinh tử. Khi cảnh vật hiện tới, thì phải quán chiếu. Phải tin ở diệu dụng đang có của tâm, thìsẽ thấy được vô sự. Mỗi niệmcủa quý vị có công năng sinh ra ba cõi rồi theo cảnh giới đó mà có sáu trần. Trong cái ứng dụng hằng ngày của quý vị, quý vị đang thiếu thốn cái gì? Trong một sát na, quý vị có thể đi vào nhiễmtịnh, đi vào lầu các Di Lặc, đi vào các cõi nước ba Mắt, rong chơi mọi nơi và chỉ thấy tất cả đều là giả danh (không danh).
Hỏi: ‘Các cõi nước của ba Mắt là gì?’
Thiền Sư đáp:
Các vị và tôi đi vào cõi nước của Tịnh Diệu, mặc áo Thanh Tịnh, nói về Bụt Pháp Thân, rồi đi vào cõi nước Vô Sai Biệt, mặc áo Vô Sai Biệt, nói về Bụt Báo Thân, rồi đi vào cõi nước Giải Thoát, mặc áo Quang Minh, nói về Bụt Hóa Thân. Tất cả các cõi nước của ba Mắt ấy đều do nương tựa (y) vào thể và vào nghĩa mà biến hiện. Theo kinh luận, thì Pháp Thân là căn bản, Báo Thân và Hóa Thân là công dụng. Theo cái thấy của tôi thì Pháp thân không biết thuyết pháp. Vì thế cho nên cổ nhân nói: thân thì nương vào nghĩa mà thành lập, độ thì căn cứ vào thể mà luận bàn (cái thân được thành lập do ý nghĩa người ta gán cho chúng. Các độ chỉ có mặt đứng về phương diện thể tánh của chúng mà thôi) (thân y nghĩa lập, độ cứ thể luận); thân của pháp tánh và độ của pháp tánh như thế rõ ràng đều là những pháp
được kiến lập. Các cõi nước cũng như thế, đều nương vào nghĩa và vào thể mà thiết lập, tất cả đều chỉ là lá vàng và nắmtay không mà người ta sử dụng để gạt trẻ thơ!
Tất cả chỉ là như trái tật lê và gai ấu, toàn là chuyện đi tìmnhững giọt nước mát trong một mảnh xương khô. Ngoài tâmkhông có pháp, trong tâmcũng không có pháp, vậy quý vị đi tìmgì?
Các vị, đâu đâu người ta cũng nói tới đạo, rằng có tu thì có chứng. Đừng lầm. Dù có tu chứng đi nữa thì cái đó cũng chỉ là nghiệp sinh tử. Nói mình tu lục độ vạn hạnh, tôi thấy đó cũng là tạo nghiệp. Cầu Bụt cầu Pháp là tạo nghiệp địa ngục, cầu Bồ-tát cũng vậy, học kinh học giáo cũng là tạo nghiệp. Bụt và Tổ sư là những người vô sự. Đối với các bậc ấy, hữu lậu hay hữu vi, hoặc vô lậu hay vô vi, đều là nghiệp ‘thanh tịnh.’
Có một bọn đầu sói mắt mù, ăn no liền ngồi xuống thực tập thiền quán, nắmgiữ tâmniệmkhông cho phát khởi, chán ồn ưa tĩnh: phép thực tập của họ chẳng qua chỉ là pháp ngoại đạo. Có vị Tổ sư đã nói: ‘Những kẻ tập trung tâmý để quán chiếu cái tịnh rồi lấy tâmquán chiếu bên ngoài, hoặc nhiếp tâmlắng lại bên trong, ngưng tâmvào định, những kẻ ấy đều đang tạo tác. Còn quý vị, những người đang ngồi đó để nghe pháp, quý vị làmthế nào để con người của quý vị có thể tu, có thể chứng, có thể trang nghiêmtốt đẹp? Con người của quý vị không thể tu, không thể chứng, không thể trang nghiêm! Nếu dạy người ta trang nghiêmđược thì cái gì mà không trang nghiêm được? Đừng lầm!
Này các bạn tu, nếu các bạn nắmbắt lấy những lời của các hạng thiền sư ấy rồi cho đó là chân đạo, cho rằng đó là những bậc thiện tri thức bất khả tư nghì, còn mình là tâmphàmphu không dámđo lường các bậc tôn túc ấy, thì quả thật các vị là những kẻ đui mù. Đó là thứ thành kiến mặc cảmmà quý vịsẽ mang theo suốt đời, và như thế là quý vị cô phụ đôi mắt của chính mình quá! Quý vị như một con lừa con đứng trên băng giá và đang run lên cầmcập: ‘Tôi không dámhủy báng các bậc thiện tri thức đâu, tôisợ tạo thành khẩu nghiệp.’Này các bạn tu, chỉ khi nào mình là một vị thiện tri thức lớn mình mới dámhủy Bụt báng Tổ, chỉ trích cuộc đời, mới dámbài xích giáo điển trong tamtạng, mới dámla mắng người khác như la mắng con nít, mới có thể trong các hoàn cảnh thuận nghịch tìmra được con người. Cho nên trong mười hai nămqua, ngó lại đời mình, cố tìmcho ra một cái gì có tính chất của nghiệp báo, dù nhỏ như hạt cải mà tôi cũng không tìmra được. Chúng ta thường chỉ gặp những vị thiền sư giống như các cô dâu mới về nhà chồng, cứ nơmnớp sợ sẽ bị người ta đuổi ra khỏi chùa, không cho ăn cơm. Cũng vì thế mà họ chẳng có an cũng chẳng có lạc. Các bậc tiền bối có tinh thần tiên phong từ xưa đến nay đi đâu cũng bị người ta không tin mà lại còn bị xua đuổi. Cái đó mới là cái quý. Chứ nếu đến đâu ai cũng tin cũng công nhận ngay thì làmđược cái gì? Vì vậy cho nên một khi con sư tử rống lên là lập tức con dã can vỡ óc.
Này các bạn tu, ở đâu người ta cũng nói có đạo để tu, có pháp để chứng. Các vị nói chứng pháp gì, tu đạo gì? Trong đờisống của quý vị hiện nay, quý vị đang thiếu thốn cái gì, quý vị muốn tu bổ chỗ nào nữa? Những sư bé sanh sau đẻ muộn vì không hiểu thấu chỗ ấy cho nên cứ mãi chạy theo bọn chồn hoang tinh mỵ, cứ để cho bọn này huyên thuyên nói ra những điều có công năng ràng buộc kẻ khác, cho rằng ‘lý hành phải tương ứng, ba nghiệp phải hộ trì’mới có thể thành Bụt. Họ cứ tiếp tục nhai đi nhai lại những điều như thế, giống hệt như mưa dầmdai dẳng mùa Đông.
Cổ đức có dạy: ‘Giữa đường gặp người đạt đạo, tốt nhất là đừng nói chuyện tu với họ.’
Cũng vì vậy cho nên lại có người nói:
‘Nếu ta có ý tu đạo, thì đạo sẽ chẳng để cho ta tu. Rồi đủ các thứ cảnh giới tà vậy sẽ giành nhau sinh khởi. Một khi lưỡi gươmtrí tuệ rút ra thìsẽ không còn một vật gì nữa. Vì khi bên sáng còn chưa xuất hiện thì bên tối đã thành sáng rồi.’
Và cũng vì vậy cho nên cổ nhân nói: ‘Tâmbình thường là đạo.’
Này các vị đại đức! Các vị đang đi tìmgì? Trong giây phút hiện tại, các vị đang ngồi trước mặt tôi nghe pháp, sáng rỡ và rõ ràng, không cần nương tựa vào đâu cả, các vị không thiếu thốn gì hết mà phải đi tìmcầu.
Nếu quý vị muốn giữa quý vị và chư Bụt chư Tổ không có gì khác thì quý vị phải thấy điều này, đừng có nghi ngờ gì nữa, đừng có sai lầmgì nữa. Nếu cái thấy này cứ được tiếp tục duy trì như thế mãi (tâmtâmbất dị) thì quý vị là những vị Tổ sống. Nếu cái thấy ấy không còn được như thế (tâmnhược hữu dị) thì giữa tánh và tướng sẽ có sự phân biệt. Sở dĩ tâmkhông khác cho nên tánh và tướng mới không bị phân biệt ra làmhai.
Hỏi: ‘Thế nào gọi là cái thấy được tiếp tục (tâmtâmbất dị)?’
Thiền Sư đáp:
Đặt câu hỏi là đã có sự phân biệt (sự sai khác) rồi, và làmcho tánh tách rời khỏi tướng.
Này các bạn tu, xin đừng lầm. Tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian đều không có tự tánh, đều là vô sinh, cho nên chúng chỉ là giả danh (tên gọisuông), chính cái tên cũng là trống rỗng. Tạisao quý vị lại nhận cái danh làmcái thật? Như vậy là lầmlớn.
Giả sử có gì đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ là những biểu hiện nương dựa vào nhau, gọi là y (y tha). Bồ Đề cũng thế mà Niết Bàn cũng thế, giải thoát cũng thế, mà Ba Thân cũng thế. Cảnh trí (connaissance des objects) cũng thế mà Bồ-tát hay Bụt cũng thế, đều là những cảnh do y biến. Quý vị tìmcái gì nơi những cảnh giới Bụt được biểu hiện trên sự nương tựa (vào nhau) đó? Tamthừa và mười hai thể tài giáo pháp cũng chỉ là giấy vệ sinh. Bụt là thân huyễn hóa, Tổ là những vị tỳ kheo già. Quý vị có phải do mẹ mình sinh ra hay không? Đi tìm Bụt quý vịsẽ bị ma Bụt hớp hồn, đi tìmTổ sẽ bị ma Tổ trói buộc. Các vị càng cầu càng khổ, tốt hơn hết là chỉ nên vô sự. Có một bọn thầy tu đầu sói hay nói với người học đạo: ‘Bụt là mục tiêu tối hậu (cứu cánh). Phải tu trong ba a-tăng-kỳ-kiếp lớn (ba đại vô lượng kiếp) cho công thành quả mãn thì mới thành Bụt được.’Này các bạn tu, nếu nói Bụt là cứu cánh, là mục tiêu tối hậu, thì tạisao chỉ mới có támmươi nămđã phải nằmnghiêng giữa hai cây sala trong rừng Song Lâmtại thành Câu-thi-na mà chết? Bụt bây giờ ở đâu? Cho nên ta phải biết rõ ràng Bụt cũng sinh tử như ta, không khác. Nếu nói có ba mươi hai tướng tốt và támmươi vẻ đẹp là Bụt, thì hóa ra Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Bụt sao? Cho nên phải biết rằng tất cả đều là huyễn hóa. Cổ nhân bảo: ‘Như Lai hiện thân tướng, vì chiều theo thế gian,
sợ ngườisinh đoạn kiến, tạmthiết lập giả danh. Tạmgọi bămhai tướng, támmươi cũng hư thanh, có thân không giác thể, vô tướng mới chân hình.’
Các vị nói Bụt có sáu thần thông không thể nghĩ bàn. Vậy thì chư thiên, chư thần tiên, các loài A-tu-la và các loài quỷ có sức mạnh lớn, vì có thần thông cho nên họ là Bụt cả hay sao? Các bạn tu, các bạn chớ lầm! Khi đoàn A-tu-la giao chiến với quân trời Đế Thích bị thua, cùng với 8.400 quyến thuộc núp vào trong một lỗ củ sen, họ có thần thông như vậy, liệu họ có là Bụt là Thánh chăng? Theo chỗ tôi nói thì tất cả những cái đó chỉ là thần thông của nghiệp và thần thông của sự nương tựa (nghiệp thông, y thông).
Sáu phép thần thông của Bụt rất khác. Bụt đi vào cảnh giới của Sắc mà không bịsắc mê hoặc, đi vào cảnh giới của Thanh mà không bị thanh mê hoặc, đi vào cảnh giới của Hương mà không bị hương mê hoặc, đi vào cảnh giới của Vị mà không bị vị mê hoặc, đi vào cảnh giới của Xúc mà không bị xúc mê hoặc, đi vào cảnh giới của Pháp mà không bị pháp mê hoặc, tại vì Bụt đã đạt tới cái thấy là sáu cái (sắc, thanh, hương vị, xúc và pháp) đều biểu hiện tính Không (không tướng) và những cái ấy đều không thể ràng buộc người tu không bám víu (vô y đạo nhân). Những người tu này tuy vẫn còn mang chất liệu hữu lậu của nămuẩn mà đã có thể thực hiện được phép lạ là đi trên mặt đất (địa hành thần thông).
Này các bạn tu, Bụt chân thật thì vô hình, Pháp chân thật thì vô tướng.
Tạisao quý vị lại nương vào trên cái huyễn hóa mà tạo tác ra những mô hình để nắmbắt? Dù có nắmbắt được cái gì đi nữa, thì cái ấy cũng chỉ là chồn hoang tinh mỵ, không phải là Bụt chân thật, mà chỉ là kiến giải của ngoại đạo. Người tu chân chính thì không nắmbắt Bụt, nắmbắt Bồ-tát, A la hán, không nắmbắt những cái gì gọi là hay đẹp nhất trong ba cõi. Người ấy một mình thong dong, không bịsự vật nào câu thúc. Dù trời đất có đảo ngược tôi cũng không bị một chút nghi hoặc nào làmcho ngần ngại. Dù cho chư Bụt mười phương có xuất hiện trước mặt thì tôi cũng không khởi một tâmvui mừng. Dù cho địa ngục và ba đường dữ xuất hiện trước mặt tôi thì tôi cũng không khởi một niệmsợ hãi. Tạisao thế? Tại vì tôi đã thấy được tướng không của các pháp, khi biểu hiện gọi là có, khi không biểu hiện gọi là không, ba cõi đều do tâm, vạn pháp đều do thức. Cũng vì vậy cho nên tất cả đều là mộng huyễn, đều là hoa đốmgiữa hư không, tại sao ta phải đi tìmbắt cho mệt nhọc?
Duy chỉ có con người thật của các bạn đang có mặt nghe pháp trong giờ phút này và ngay ở đây mới có thể đi vào lửa mà không bị cháy, đi vào nước mà không bị trôi, đi vào địa ngục và ba đường mà như đi du ngoạn trong công viên, đi vào giới ma đói và súc sinh mà không nhận chịu quả báo. Tạisao như thế? Tại vì các vị không kỳ thị bất cứ một cái gì. Nếu quý vị còn yêu thánh ghét phàmthì quý vịsẽ còn bị
nổi chìmtrong biển sinh tử. Phiền não do tâmmà có, nếu vô tâmthì phiền não làmsao trói buộc được ta? Không mất công phân biệt, không kẹt vào tướng thì tự nhiên chứng đắc được đạo quả ngay trong khoảnh khắc.
Nếu các vị cứ bôn ba chạy đi tìmngười mà học đạo thì dù có học hỏi trong vô lượng kiếp cuối cùng cũng vẫn còn qua lại trong cõisinh tử. Chẳng bằng làmmột con người vô sự, đi vào chùa, xếp bằng lại mà ngồi.
Này các bạn tu, giả dụ có kẻ học nhân từ nơi khác đến thamhọc. Sau khi chủ khách đã trông thấy nhau, khách bèn nói ra một câu để thămdò vị thiện tri thức đang ngồi trước mặt. Kẻ ấy némra một câu hiểmhóc vào khóe miệng của vị thiện tri thức, có ý muốn hỏi: ‘Thầy có hiểu cái này chăng?’Nếu vị thiện tri thức biết đó là một cái đối tượng (cảnh) thì ông ta sẽ nắmngay lấy cái đó và liệng nó vào trong hố. Vị học nhân sẽ tìmlại được thái độ bình thường của mình, và sẽ xin vị thiện tri thức nói lên cho một lời. Vị thiện tri thức cũng sẽ làm như đã làm, và sẽ chặt đứt được luôn cái ý muốn tìmcầu mới này. Lúc đó vị học nhân sẽ nói: ‘Thầy thật là một vị thượng căn thượng trí, là một vị đại thiện tri thức.’Và vị thiện tri thức sẽ nói: ‘Đạo hữu hoàn toàn chẳng phân biệt được cái gì tốt cái gì xấu.’
Hoặc vị thiện tri thức có thể đưa ra một đối tượng (cảnh) và đùa bỡn với vị học nhân. Vị học nhân có khả năng nhận diện được rằng đó chỉ là một đối tượng (cảnh), không để mình rơi vào trong cái bẫy của đối tượng đó và từ tư thế khách ông chuyển ra đứng vào tư thế chủ. Vị thiện tri thức bây giờ thị hiện nửa thân, và vị học nhân hét. Vị thiện tri thức cũng có thể lạisử dụng những thứ ngữ ngôn trămlối của mình mà dằn mặt vị học nhân. Nhưng vị học nhân có thể nói: ‘Cái ông thầy sói đầu này chẳng biết phân biệt được cái gì tốt cái gì xấu.’Vị thiện tri thức liền ca ngợi: ‘Ngươi thật là một người tu học chân chính.’
Đó đây có những vị thầy (thiện tri thức) không có khả năng biện biệt được tà chính. Khi có học nhân tới hỏi về cảnh trí của Bồ Đề, Niết Bàn và Ba Thân, các vị lão sư mù này liền tìmmọi cách giải thích. Bị các vị học nhân kia chê trách, họ liền lấy gậy đánh, nói rằng đã đi học đạo mà còn vô lễ. Thật ra, quý vị cũng đừng giận họ, bởi vì họ tuy được gọi là thầy mà chưa có con mắt tuệ, thế thôi.
Có một bọn sói đầu không biết được tốt xấu ra sao, cứ chỉ Đông trỏ Tây, ưa mưa thích tạnh, khen chiếc đèn lồng này đẹp hay cây trụ kia xinh. Nhìn họ xem, để coi lông mày của họ còn có bao nhiêu sợi! Những cơ sự như thế xảy ra không phải là không có nguyên do. Kẻ học nhân không hiểu, cho nên tâmtrí bị mê cuồng. Những kẻ đó hoàn toàn là một bọn chồn hoang tinh mị. Những bậc học nhân chân chính thấy họ thì khúc khích cười chê, nói rằng bọn sói đầu mù mắt này chỉ gây rối loạn và mê hoặc trong nhân gian.
Này các bạn tu! Những người xuất gia còn trẻ thì cần phải học đạo; tôi đây (hồi còn trẻ) ngày nào cũng lưu tâmhọc hỏi giới luật và uy nghi, và đã từng nghiên cứu tìmhiểu và thamvấn không biết bao nhiêu kinh luận. Sau một thời gian tôi mới biết đó chỉ là những phương dược cứu đời, được diễn bày qua hình thức lý thuyết. Vì vậy cho nên tôi đã nhất thời buông bỏ tất cả để đi thamvấn và thực tập thiền. May mắn vì gặp được các bậc thiện tri thức lớn cho nên tôi mới có được con mắt đạo để có khả năng nhìn thấy rõ ràng, nhận ra được ai thật sự là những vị cao túc đang có mặt trên đời, ai là giả dối. Cái thấy này không phải tự mình có được từ khi mẹ mình sinh ra, mà là một cái thấy do sự mài dũa, luyện tập, thể nghiệmvà nghiên tầmrồi một mai tự mình chứng ngộ.
Này các bạn tu, nếu các bạn muốn có được kiến giải đúng theo sự thật thì đừng để cho người khác mê hoặc. Bất cứ nội hướng hay ngoại hướng, hễ gặp cái gì thì đừng sợ hãi mà phải tìmcách diệt ngay cái đó. Gặp Bụt thì giết Bụt, gặp Tổ thì giết Tổ, gặp A-la-hán thì giết A-la hán, gặp cha mẹ thì giết cha mẹ, gặp thân quyến thì giết thân quyến, như vậy mới giải thoát được. Đừng để cho sự vật trói buộc thì ta mới có thể ung dung tự tại.
Trong số các bạn tu bốn phương, chưa từng có một người nào tới đây mà không mang theo một cái gì mà họ đang vướng mắc phải. Ông
thầy núi là tôi đây hễ nhận ra được cái đó thì đánh liền. Nếu họ diễn tả cái ấy bằng tay thì tôi đánh vào tay, nếu họ diễn tả cái ấy bằng miệng thì tôi đánh vào miệng, nếu họ diễn tả cái ấy bằng mắt thì tôi đánh vào mắt. Chưa có một ai tới mà chứng tỏ được rằng mình có độc lập tự do, tất cả đều vướng vào những cái bẫy sập của cổ nhân giăng ra. Tôi đây, tôi không có pháp nào để hiến tặng cho quý vị cả. Tôi chỉ giúp trị bệnh và cởi trói cho quý vị.
Các vị học giả từ các nơi tới, quý vị hãy thử đừng nương tựa vào bất cứ một vật nào xem! Tôi muốn bàn bạc với các vị. Từ mười lămnăm nay, tôi thực sự chưa gặp được một (con) người, chỉ gặp toàn những hồn ma nương tựa vào tre vào gỗ, vào cỏ vào lá, những con chồn hoang tinh mị đang gặmnhấmloạn xạ trên những đống phân. Thật là những bọn mù. Họ chỉ làmuổng phí những phẩmvật cúng dường của tín thí mười phương. Kiến giải của họ chỉ nghèo nàn như thế đó, vậy mà họ cứ tuyên bố: ‘Chúng tôi là những người xuất gia.’
Tôi muốn nói với quý vị rằng không có Bụt, không có Pháp, không có Tu cũng không có Chứng. Quý vị đi tìmcầu cái gì từ nơi người khác? Quý vị thiếu thốn cái gì? Đừng làmnhư những kẻ đui mù, trên cái đầu của mình lại muốn đặt thêmmột cái đầu khác. Này các bạn tu, trong giờ phút này, cái diệu dụng của quý vị không có khác gì cái diệu dụng của Tổ của Bụt cả. Chỉ vì quý vị không có niềmtin cho nên quý vị mới đi tìmcầu bên ngoài. Đừng có lầmlẫn. Không có pháp nào ở ngoài để tìm, không có pháp nào ở trong để đạt. Chi bằng nên nghe lời tôi, hãy nghỉ ngơi đi và thực tập làmmột người vô sự. Cái gì đã phát khởi, đừng để cho nó tiếp tục; cái gì chưa phát khởi, đừng để cho nó phát khởi. Làmđược như thế còn có giá trị hơn mười nămđi hành cước.
Theo cái thấy của tôi thì quý vị có cần phải làmgì đâu, chỉ nên sống cho bình thường thôi. Hãy mặc áo, ăn cơm, ngày này qua ngày khác làmmột người vô sự. Các vị từ bốn phương tới đây đều nghĩ rằng mình là những người có tâmcầu Bụt, cầu Pháp, cầu giải thoát, cầu ra khỏi ba cõi. Đồ ngu. Ra khỏi ba cõi thì quý vị đi đâu? Bụt và Tổ đều là những danh từ mà người ta ưa thích, để người ta sử dụng mà trói buộc chính mình. Quý vị có biết ba cõi là gì không? Ba cõi chính là đất tâmcủa chính quý vị, những người trong giây phút này đang ngồi đây nghe pháp. Một niệmthamdục của quý vị phát khởi, đó là dục giới. Một niệmsân hận của quý vị phát khởi, đó là sắc giới. Một niệm nghi ngờ của quý vị phát khởi, đó là vô sắc giới. Những cái ấy đều là bàn, ghế, chiếu, giường đang có mặt trong căn nhà của quý vị. Ba cõi không bao giờ tự nói rằng ‘chúng tôi là ba cõi.’Chính quý vị đang có mặt tại đây với cái tinh minh sáng chói chiếu rõ muôn vật, chính quý vị là người ước lượng thế giới và cho ba cõi mỗi cõi một cái tên.
Này các vị đại đức! Sắc thân bốn đại này là vô thường, kể cả tỳ, vị, gan, mật, tóc, lông, răng, móng. Nếu nhìn vào, ta chỉ thấy tướng Không của các pháp. Khi quý vị ngưng lại được mọi ý niệmthì đó đã là cội Bồ Đề. Nếu ý niệmmà chưa ngưng được thì đó là cây vô minh. Vô minh không có chỗ ở, không có thỉ chung, nếu quý vị không ngưng được tâmý thì quý vịsẽ leo lên cây vô minh, đi vào sáu nẻo, chui qua bốn cách thọ sinh để mang lông và độisừng. Nhưng nếu quý vị ngưng được thì quý vị đạt ngay tới thế giới của pháp thân thanh tịnh. Đạt được trạng thái một niệmkhông sinh (nhất niệmbất sinh) thì quý vị leo lên được trên cây Bồ Đề, biến hóa thần thông trong ba cõi, sử dụng hóa thân sinh ra từ ý (ý sinh thân), đạt được pháp hỷ và thiền duyệt, hào quang nơi thân sẽ bắt đầu tự chiếu, nghĩ tới cái mặc thìsẽ có ngàn muôn lớp áo gấmsa, nghĩ tới cái ăn thìsẽ có đầy đủ hàng trămhảo vị và quý vịsẽ không bao giờ lâmvào các chứng bệnh ngặt nghèo. ‘Bồ Đề không có chỗ ở (trú xứ) vì vậy cho nên gọi nó là vô đắc.’
Này các bạn tu, là bậc đại trượng phu (con người lớn), các vị còn nghi ngờ gì nữa? Cái diệu dụng đang xảy ra trong giờ phút hiện tại, đó là ai vậy? Nắmđược nó để sử dụng, và đừng bị kẹt vào danh tự, cái đó gọi là huyền chỉ (tông chỉ huyền diệu). Ai thấy được như thế, kẻ ấy không còn bị một cái gì làmtrở ngại. Người xưa nói: ‘Tâmtùy vạn cảnh mà đổi thay, và cái đổi thay này đâu có gì là lạ? Hãy tùy theo sự thay đổi ấy mà nhận ra tự tánh của mình, nhận ra được rồi thì vượt thoát cả mừng lẫn lo.’
5- Thiền Sư dạy
Này các bạn tu, theo kiến giải của thiền tông, thìsống chết là lẽ tuần hoàn (trong vũ trụ). Ta cần phải để hết tâmý trong khi thamvấn. Khi chủ và khách gặp nhau, thế nào cũng có lời qua tiếng lại. Hoặc ứng hiện ra những hình tướng khác nhau, hoặc sử dụng toàn thân mà đối phó với đương sự. Có khi lạisử dụng những phương tiện cơ quyền như mừng giận, hoặc hiện nửa thân, hoặc ngồi trên lưng sư tử hay trên lưng voi chúa...
Trong trường hợp một học nhân đích thực thì người này có thể hét lên hoặc đưa ra một cái bẫy (bình keo) trước mặt vị thiện tri thức. Nếu vị này không nhận ra được cái ‘cảnh’ ấy mà lại rơi vào trong cái bẫy, cứ nương vào cái ‘cảnh’ ấy đặt ra đủ thứ mô hình, thì vị học nhân lại có thể hét lên nữa. Nếu vị thiện tri thức còn chưa chịu buông bỏ, thì đó thật là trường hợp của một bệnh nan y. Trường hợp này gọi là trường hợp khách khán chủ.
Hoặc giả vị thiện tri thức chẳng đưa ra cái gì hết, mà cứ đợi kẻ học nhân đưa ra cái gì thì đoạt lấy cái đó. Kẻ học nhân có thể tuy bị tước đoạt tất cả những gì mình muốn đưa ra mà vẫn còn chống cự lại, chết vẫn không chịu buông ra. Trường hợp này là trường hợp chủ khán khách.
Hoặc giả kẻ học nhân đứng trước vị thiện tri thức đưa ra một đối tượng (cảnh) thanh tịnh. Vị thiện tri thức nhận ra được đối tượng ấy, nắm lấy và liệng xuống hầmsâu. Vị học nhân liền nói: ‘Thầy quả là một vị thầy lớn.’Vị thiện tri thức trả lời: ‘–i chà, anh chẳng biết cái gì là tốt cái gì là xấu.’Vị học nhân bèn lạy xuống. Trường hợp này gọi là chủ khán chủ.
Hoặc kẻ học nhân trình diện trước vị thiện tri thức như một người có mang gông cùm. Vị thiện tri thức thấy thế liền đemtới và đeo thêm cho vài cái gông và vài cái cùmkhác. Vị học nhân vui mừng quá đổi đến nỗi không phân biệt được (ai là chủ ai là khách). Trường hợp này gọi là khách khán khách.
Này các vị đại đức! Những gì tôi vừa nói chỉ là để giúp quý vị nhận diện được ma quái và tà đạo, và phân biệt được tà chính.
Này các bạn tu, chân lý khó đạt tới, Phật pháp rất u huyền, tuy nhiên ta vẫn có thể đi vào các lãnh vực ấy để đạt được kiến giải. Ngày này qua ngày khác, tôi chỉ ngồi đây mà thuyết giảng và đánh phá, nhưng hầu hết bọn họ có chịu để ý đâu. Ngàn lần vạn lần họ vẫn tiếp tục dẫmchân lên những vùng đất đen tối, không nhận ra được một cái gì rõ ràng, độc lập, chiếu sáng. Chỉ vì các vị còn thiếu đức tự tin, cứ đi tìmkiến giải trên chữ nghĩa văn cú. Nửa đời người đã đi qua (nửa cõi trămnămđã đi qua) mà cứ vẫn còn ỷ lại vào kẻ khác, tiếp tục khiêng tử thi của chính mình như một gánh nặng mà đi trong cõi nhân gian. Có ngày thế nào họ cũng sẽ phải trả tiền giày dép!
Này các vị đại đức! Khi nghe tôi nói rằng ngoài kia không có pháp gì để tìmcầu cả, thì lại có những kẻ học nhân hiểu lầm, nghĩ rằng phải đi tìmở bên trong. Họ ngồi xuống bất động, quay mặt vào tường, lưỡi dán vào đóc họng, cho rằng đó là pháp môn của Bụt, của Tổ. Họ lầmto! Nếu quý vị cho cái tĩnh (cảnh thanh tịnh bất động) là đạo thì quý vị đã nhận cái vô minh là ông chủ. Người xưa đã nói: ‘Lẵng lặng
là cái hầmsâu đen ngòm, thật là dễ sợ.’Nếu ngược lại, quý vị nhận cái động là đạo thì hóa ra các loài cây cối đang động đậy ngoài kia đều là đạo hay sao? Động là phong đại, bất động là địa đại, động và bất động cả hai đều không có tự tính. Nếu quý vị muốn tìmnó trong cái động, nó sẽ đứng trong cái tĩnh; nếu quý vị muốn tìmnó trong cái tĩnh, nó sẽ đứng trong cái động, giống như con cá trong dòng suối đang vỗ sóng nhảy lên.
Này các vị đại đức, động và bất động chỉ là hai cảnh giới: con người tu không vướng mắc (vô y đạo nhân) có thể sử dụng cả động và bất động.
6- Thiền Sư dạy
Như tôi đây, khi có học giả tới, thì tôisử dụng ba phép quyết đoán để đối phó với ba loại căn cơ. Nếu người có căn cơ dưới trung bình tới, tôisẽ đoạt cảnh của họ, nhưng không đoạt pháp của họ. Nếu người có căn cơ trên trung bình tới, tôisẽ đoạt cả cảnh cả pháp của họ. Nếu là người có căn cơ bén nhạy tới, tôisẽ không đoạt cảnh cũng không đoạt pháp cũng không đoạt người. Nếu là người có kiến giải vượt bực tới, tôisẽ sử dụng toàn thân để đối phó, mà không liệt họ vào một loại căn cơ nào cả.
Này các vị đại đức! Trong trường hợp này, pháp lực của kẻ học nhân sẽ không để cho một ngọn gió nào đi qua và tốc độ của pháp lực ấy lửa đá và điện quang cũng không vượt qua được. Vị học nhân ấy chỉ cần chớp mắt là đã đánh mất sự tương giao, chỉ cần khởi ra một niệm là đã đi vào sự sai trái. Có hiểu được hay không là chỉ ngay trong giây phút đó mà thôi.
Này các vị đại đức, các vị mang bát, mang túi và mang một khúc ruột già đầy phân đi tới người ta để tìmcầu Phật và Pháp, quý vị có biết ai là kẻ đang đi tìmcầu ấy không? Đó là một kẻ sống động, linh hoạt, không vương vào dây mơ rễ má nào cả, lùa thì không vào, xua cũng không đi, chạy tìmthì nó càng lúc càng xa, không tìmthì nó đứng ngay trước mặt, tiếng nói của kẻ ấy đang vọng ngay vào tai quý vị. Không có đủ niềmtin nơi đây thì thật phí cả một cuộc trămnăm.
Các bạn tu, chỉ trong một khoảnh khắc là ta có thể đi vào cảnh giới của Hoa Tạng, đi vào cảnh giới của Bụt Tỳ Lô Giá Na, đi vào các quốc độ của giải thoát, của thần thông, của thanh tịnh, đi vào pháp giới, đi vào uế, đi vào tịnh, đi vào phàm, đi vào thánh, đi vào ngạ quỷ súc sinh và nơi nào ta cũng không tìmkiếmra được cái gọi là sinh tử. Tất cả đều chỉ là danh từ suông (không danh), là hoa đốmhuyễn hóa trong hư không, không đáng để ta nhọc công đi tìmbắt. Lúc đó thì ta sẽ buông bỏ được hết tất cả mọi cái đắc, thất, thị và phi.
Này các bạn tu, cái thấy về Phật pháp của tôi, tôi đã tiếp nhận từ các hòa thượng Ma Cốc, Đan Hà, Đạo Nhất, Lô Sơn và Thạch Đầu. Sự trao truyền của truyền thống này đã phổ biến trên thiên hạ, nhưng vì chưa tin nhận được nên nhiều người còn nhạo báng. Như ý chỉ của Tổ Đạo Nhất, thuần nhất và không tạp loạn như thế, mà cả ba trămnămmươi người tới học cũng không nắmbắt được. Tổ Lô Sơn thảnh thơi và chính chân như thế, nắmvững được cả hai chiều thuận nghịch như thế, mà đệ tử cũng còn hoang mang không thămdò được bờ mé của trí tuệ ngài. Tổ Đan Hà cũng vậy, đùa giỡn với hạt châu, khi ẩn khi hiện, kẻ học nhân tới không ai là không bị Tổ la mắng. Hành tung của Tổ Ma Cốc thì đắng như vỏ cây Hoàng bá, ai đến gần cũng không được. Tổ Thạch Củng thì bí quyết là tìmngười trên đầu một mũi tên làmcho ai nấy cũng đều sợ hãi. Còn cái cách hành xử của ông thầy tu núi là tôi đây thì đó là sự thành hoại chân thực (chân chính thành hoại). Tôi đùa bỡn vớisự thần biến tâmlinh, tôi đi vào được trong tất cả mọi cơ cảnh, và ở đâu tôi cũng duy trì được (bản lĩnh của mình là) vô sự, cảnh không bao giờ đoạt được tôi. Nếu có ai tới tìm, tôisẽ đi ra nhìn người ấy. Kẻ ấy không biết tôi. Tôi liền mặc áo vào. áo có nhiều thứ. Kẻ học nhân nhìn thấy áo, trong tâmliền phát sinh kiến giải, kẹt ngay vào ngôn cú của tôi. Tội nghiệp cái ông thầy đui mù không mắt này quá đi; ông ta nhận lầmcái áo là tôi, cho tôi là hoặc vàng hoặc xanh hoặc trắng hoặc đỏ. Thấy thế tôi mới cởi hết áo đi và để lộ cái ‘thanh tịnh’ra. Vị học nhân thấy thế, liền sinh tâmvui mừng và hammuốn. Tôi liền cởi bỏ luôn cái áo ‘thanh tịnh’ ấy ra nữa. Bấy giờ kẻ học nhân thất kinh, hoang mang, cuống cuồng bỏ chạy, nói rằng tôi ‘trần truồng như nhộng.’Tôi mới nói với kẻ ấy: ‘Chú có
biết cái con người mặc áo trong tôi là ai chưa?’Hốt nhiên kẻ kia quay đầu lại và nhận ra tôi.
Này các vị đại đức! Các vị đừng có kẹt vào cái áo. Áo là bất động, chỉ có người mới có thể mặc áo. Có cái áo thanh tịnh, có cái áo vô sinh, có cái áo Bồ Đề, có cái áo Niết Bàn, có áo Tổ, có áo Bụt.
Các vị đại đức, nếu những cái đó chỉ là âmthanh, danh từ và văn cú thì tất cả đều chỉ là những chiếc áo được biến hiện ra, vận dụng từ huyệt khí hải dưới rốn đi lên làmhàmrăng lách cách phát ra thành câu, thành ý, nên biết rõ những thứ ấy chỉ là trò huyễn hóa.
Này các đại đức, bên ngoài là hành động phát ra âmthanh ngôn ngữ, bên trong là tâmtư làmphát sinh ý niệm, tất cả đều chỉ là những loại áo. Tạisao các vị lại nhận những cái áo ấy làmkiến giải chân thật? Nếu cứ tiếp tục như thế thì dù có tu trải qua muôn vạn kiếp nhiều như vi trần thì cũng chỉ là để hết mặc áo này lại mặc áo khác (chưa phải là thần thông mà chỉ là y thông), chưa thoát ra được luân hồisinh tử. Tất cả đều không bằng thực tập vô sự. ‘Gặp nhau không biết nhau, trò chuyện tên chẳng biết.’
Đời nay, người tu không đạt được đạo cũng vì cứ nhận lầmdanh tự làmkiến giải. Họ ghi chép lại những câu nói, những lời lẽ của các ông già đã chết vào trong một cuốn sách lớn, đemcất dấu trong bốn nămlớp túi vải, không cho ai nhìn thấy, cho những điều ghi chép trong đó là ‘huyền chỉ’, rồi cất dấu bảo trọng. Lầmto! Này bọn mù kia, trong những khúc xương khô ấy, các anh tìmsao cho ra một giọt nước mát? Có một bọn không biết thế nào là xấu tốt, từ trong giáo pháp rút ra những huyền đàmlý luận, chế thành văn cú lý nghĩa, giống như bỏ vào miệng những cục phân rồi nhả ra và mớmlại cho kẻ khác, chẳng khác gì người thế tục chơi trò chuyền miệng. Một đời đi qua oan uổng, vậy mà cứ nói ‘ta là người xuất gia.’Khi có kẻ đến thamvấn về Phật pháp, chúng ngậmmiệng, không nói nên lời, hai mắt mở ra, thất thần và đen ngòmnhư những chiếc ống khói, còn miệng thì trệ xuống như thể một chiếc đòn gánh trĩu nặng hai đầu. Những kẻ như thế thì dù Bụt Di Lặc có ra đời bây giờ đi nữa, họ cũng bị đày đi các thế giới khác hoặc bị gửi xuống địa ngục để nhận chịu quả báo đau khổ.
Này các vị đại đức, các vị bôn ba khắp nơi để tìmkiếmcái gì cho đến nỗi hai bàn chân của quý vị bành ra như thế? Có Bụt đâu mà tìm, có Đạo đâu mà thành, có Pháp đâu mà đắc? Bụt với các tướng tốt mà bạn đang đi tìmấy không giống bạn đâu. Muốn tự biết bản tâmbạn, thì phải thấy được Bụt với bạn không hợp cũng không ly.
Này các bạn tu, chân Phật vô hình, chân Đạo vô thể, chân Pháp vô tướng, cả ba pháp ấy dung hợp nhau làmthành một. Ai không thấy được điều này thì còn là chúng sinh với nghiệp thức mang mang.
Hỏi: ‘Xin Thiền Sư khai thị cho chúng con: chân Phật là gì, chân Pháp là gì, chân Đạo là gì?’
Thiền Sư đáp:
Bụt thật (chân Phật) là sự thanh tịnh của tâmmình. Pháp thật (chân Pháp) là ánh sáng của thân mình. Đạo thật (chân Đạo) là ánh sáng thanh tịnh vô ngại (chiếu soi) khắp chốn. Ba cái là một; cả ba đều là giả danh mà không thật có. Người học đạo chân chính thì phải duy trì
chánh niệmvề ba đối tượng ấy một cách miên mật. Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn-độ sang đây, chỉ cốt đi tìmkiếmcho được một con người không bị kẻ khác làmmê hoặc. Cuối cùng ngài gặp được Huệ Khả, Tổ thứ hai. Chỉ với một câu nói thôi ngài đã giúp cho Tổ Huệ Khả giác ngộ và thấy rõ rằng tất cả công phu trước đó đều là vô dụng. Theo cái thấy của tôi, thì chúng ta không khác gì Tổ và Bụt, hiểu ngay được câu đầu thì ta trở thành bậc thầy của Tổ và Bụt, và nếu đến câu thứ hai ta mới hiểu thì ta cũng có thể trở thành bậc thầy của loài người và loài trời. Nhưng nếu đến câu thứ ba mới hiểu thì ta tự cứu ta cũng còn chưa được huống hồ là mong làmthầy thiên hạ.
Hỏi: ‘Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua đây có ý gì?’
Thiền Sư đáp: ‘Nếu đã có ý, thì tự cứu mình cũng chưa được (huống hồ để độ người).’
Hỏi: ‘Nếu không có ý, thì làmsao Tổ thứ hai đắc pháp được?’
Thiền Sư đáp: ‘Đắc tức là vô đắc.’
Hỏi: ‘Nếu đắc quả là bất đắc, thì làmsao lại có cái ý ‘bất đắc’?’
Thiền Sư đáp:
Cũng vì đi tìmtâmkhắp nơi mà không ngưng được, cho nên Tổ mới nói: ‘Ôi hay! Kẻ trượng phu kia! Sao ngươi có đầu rồi mà còn đi tìm đầu mãi vậy?’Nghe được câu nói ấy mà biết đemánh sáng trở về soi chiếu tự tâm, không còn tìmcầu cái gì khác nữa, thì mình biết được thân và tâmmình không khác gì với thân và tâmcủa Tổ và Bụt, và ngay trong giây phút này đạt được trạng thái vô sự. Cái đó mới gọi là đắc pháp.
Này các đại đức! Trong giờ phút này đây vì vạn bất đắc dĩ cho nên tôi mới nói ra những lời nói không mấy tao nhã. Quý vị đừng có vì vậy mà hiểu lầmtôi. Theo cái thấy của tôi thì thật ra chẳng có đạo lý gì để cho ta thuyết giảng. Nếu cần làmgì thì cứ làmđi, nếu không thì cứ nghỉ ngơi đi cho khỏe.
Khắp nơi người ta nói lục độ vạn hạnh là Phật pháp, còn tôi thì tôi nói đó chỉ là những phương tiện điểmtrang, những phương tiện để mình làmPhật sự chứ chưa phải là Phật pháp. Cho đến những việc như trì trai, giữ giới, bưng một bát dầu đừng để nó sóng sánh rơi ra một giọt,... tất cả những cái ấy nếu không có khả năng làmcho con mắt đạo của quý vịsáng ra thì rốt cuộc quý vị cũng phải bị người ta đòi trả tiền cơmnước như thường. Tạisao?
‘Vào đạo không thông lý
Luân hồi đền tín thí
Trưởng giả tám mươi mốt
Cây khô ra mộc nhĩ’
Dù cho quý vị có ở một mình trên đỉnh cô phong, mỗi ngày ăn một bữa, ngồi thiền suốt đêm, không đặt lưng xuống, tu tập sáu thời một ngày tinh chuyên, thì quý vị cũng chỉ là những người đang tạo nghiệp. Dù cho quý vị có bố thí cả quốc thành, thê tử, đầu, mắt, tủy não, voi ngựa, bảy báu, mọi thứ đều đemra cho hết thì những cái ấy rốt cuộc cũng chỉ làmđau nhức thân tâm, đemvề những quả báo khổ đau. Tất cả đều không bằng làmmột kẻ vô sự, thuần nhất, không tạp loạn. Cho dù các vị Bồ-tát đã đi qua mười địa có muốn đemhết tâmmình mà đi tìmdấu vết của một người tu vô sự như thế cũng không tìmra được. Sở dĩ người ấy được chư thiên ca tụng, được Địa thần nâng gót, được chư Bụt mười phương xưng tán, là tại vìsao? Tại vì những người tu ấy, ngay trong giây phút hiện tại, đang ngồi đây nghe pháp mà đang không để lại dấu vết gì.
Hỏi: ‘Bụt Đại Thông Trí Thắng ngồi trong đạo tràng trong mười kiếp liên tục mà Phật pháp không biểu hiện trước mắt, và ngài không thực hiện được Phật đạo.’Câu ấy có nghĩa gì?
Thiền Sư đáp:
Đại Thông có nghĩa là ở đâu cũng tự mình đạt tới được sự thật vô tánh và vô tướng của vạn pháp. Trí Thắng có nghĩa là ở đâu cũng không có một niệmnghi hoặc, không thấy mình có đắc bất cứ một pháp nào. Bụt có nghĩa là sự thanh tịnh của tâm, ánh sáng (của sự thanh tịnh) ấy thấu triệt được cùng pháp giới. Mười kiếp liên tục ngồi ở đạo tràng chính là mười ba la mật. Phật pháp không biểu hiện trước mắt có nghĩa là Phật vốn không sinh, Pháp vốn không diệt, thì làmsao biểu hiện trước mắt? Không thực hiện được Phật đạo có
nghĩa là Bụt đâu có cần thành Bụt nữa. Cổ nhân nói: ‘Bụt thường ở thế gian mà không nhiễmpháp thế gian.’Này các bạn tu, nếu quý vị muốn làmBụt thì đừng tùy thuộc vào vạn vật. Tâmsinh thì mọi pháp sinh, tâmdiệt thì mọi pháp diệt, một tâmkhông sinh, thì các pháp không làmgì mình được nữa.
Trong thế gian cũng như ngoài thế gian (xuất thế gian) chẳng có Bụt mà cũng chẳng có Pháp, không thật sự có trong giây phút hiện tại mà cũng chẳng sẽ là không trong tương lai. Dầu nói có cái gì đi nữa, thì đó cũng chỉ là những danh ngôn và chương cú, chỉ có tác dụng tiếp dẫn được bọn con nít. Phương tiện thiết lập ra như thuốc để trị bệnh, sự biểu hiện danh cú có ra là vì thế. Với lại danh cú không tự gọi mình là danh cú. Chính quý vị đang có mặt đây trong giờ phút này với cái linh giác thấy, nghe sáng rỡ như một ngọn đuốc chiếu sáng kia, chính quý vị mới là người đã an bày ra tất cả các danh cú.
7- Thiền Sư khai thị
Các vị đại đức, phải tạo ra nămnghiệp vô gián thì mới được giải thoát.
Hỏi: ‘Nămnghiệp vô gián là gì?’
Thiền Sư đáp:
Nămnghiệp vô gián là giết cha, giết mẹ, làmBụt chảy máu, chia rẽ tăng đoàn và thiêu đốt linh tượng. Cha ở đây có nghĩa là vô minh. Nếu quý vị ngưng được sự tìmcầu, dù cho trong một khoảnh khắc, cáisinh khởi và cái hoại diệt (của các Pháp) như tiếng vang âmhưởng với hư không, nếu quý vị trong trường hợp nào cũng vô sự được, thì đó là đã giết được cha vô minh. Mẹ đây là sự thamái. Nếu quý vị trong khi đi vào cõi Dục để tìmcầu đối tượng của sự thamái mà có thể, dù cho trong một khoảnh khắc, thấy được rằng các pháp đều Không và bất cứ nơi đâu cũng được vô trước, đó gọi là giết được mẹ thamdục. Bụt ở đây là sự vướng mắc vào các kiến giải phân biệt. Nếu quý vị đi
vào trong pháp giới thanh tịnh mà không làmphát sinh những kiến giải phân biệt, dù chỉ trong một sát na, tới đâu cũng giữ được trí vô phân biệt của mình, đó là quý vị đã làmBụt (của biến kế sở chấp) chảy máu. Tăng đoàn ở đây là sự vướng mắc vào các ý niệmphiền não và sở y. Nếu quý vị đạt được cái thấy là tất cả các phiền não và kết sử đều Không và chẳng có chỗ nương tựa (sở y), thì dù chỉ trong một khoảnh khắc, quý vị cũng đã phá được tăng đoàn của phiền não, kết sử và sở y. Kinh tượng ở đây là những ý niệmvề nhân duyên, về tâmvà về pháp. Nếu quý vị, dù chỉ trong một khoảnh khắc, thấy được tính Không của nhân duyên, của tâmvà của pháp và đoạn trừ được tất cả những khái niệmmình có về nhân duyên, về tâmvà về pháp, đó là quý vị đã thiêu đốt được các kinh tượng của khái niệm, của tâmvà của pháp.
Này các vị đại đức! Nếu làmđược như thế, các vịsẽ không còn bị kẹt vào các danh từ phàmvà thánh.
Quý vị trong mỗi ý niệmđã quen nhìn vào nắmtay không và ngón tay chỉ, cho đó là sự thật, dựa trên căn cảnh mà hình dung ra các pháp hư ngụy không thật có. Các vị có mặc cảmtự ty, cho nên chỉ biết khúmnúmco rút mình lại, và tiếp tục nói: ‘Ta chỉ là một kẻ phàmphu, còn vị ấy là một bậc thánh nhân.’Bọn trọc đầu ngu ngốc kia ơi! Tạisao các ngươi lại chạy đi hối hả tìmcái chết bằng cách đội lốt sư tử lên đầu để kêu thành tiếng của những con dã can như thế? Là kẻ đại trượng phu mà tạisao các ngươi không thở ra được khí phách của kẻ đại trượng phu? Những gì đã có sẵn trong nhà mình mà mình không tin, lại cứ đi tìmkiếmở những nhà khác? Tạisao lại cứ sa vào cái bẫy danh cú của cổ nhân, hết nương vào âmlại tựa vào dương, rốt cuộc chẳng tự mình đạt được gì cả. Gặp hoàn cảnh nào cũng bámvào, gặp đối tượng nào cũng nắmbắt, tiếp xúc tới đâu thì bị lừa gạt tới đó, quý vị không hề có tiêu chuẩn nhận thức nào cả.
Các bạn tu, các bạn đừng bị kẹt vào lời nói của ông thầy tu núi này. Tạisao? Tại vì những lời tôi nói không thực sự có nền tảng nào cả, đó chỉ là những bức vẽ nhất thời trên không gian, dù chúng là những hình tượng có màu có sắc. Này các bạn tu, đừng lấy Bụt làmtiêu chuẩn tuyệt đối. Theo tôi thì cái quan niệmta có về Bụt ấy đó cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ-tát và La-hán cũng chỉ là những kẻ đemtới gông cùm. Vì vậy cho nên mới có hiện tượng Văn Thù mang gươmtới giết Cồ Đàmvà Ương Quật Ma đemđao tới chém
Thích Ca.
Này các bạn tu, Bụt không phải là cái gì mà quý vị có thể nắmbắt được, cho đến giáo lý ba thừa, nămtánh, đốn giáo, viên giáo, tích môn, bản môn... Tất cả chỉ là thuốc và bệnh cùng hiện khởi đối lập nhau nhất thời, không phải là những pháp có thật. Mà dù cho có cái gì đi nữa thì đó cũng chỉ là những cái giả bày như có thật, những biểu hiện tạmthời dưới dạng văn tự để cho công chúng có tạmthời mà sử dụng. Chỉ nói thế thôi!
Này các bạn tu, có một bọn thầy tu thực tập hướng nội công phu, nghĩ rằng mình đang mong cầu pháp xuất thế. Họ lầm. Cầu Bụt thì mất Bụt. Cầu Đạo thì mất Đạo. Cầu Tổ thì mất Tổ. Các đại đức! Đừng lầm. Tôi không cần quý vị giải thích kinh luận cho hay, không cần quý vị làmquốc vương hay đại thần, tôi không cần quý vị biện giải thao thao như một dòng sông, tôi cũng không cần quý vị trở thành những bậc thông minh và trí tuệ. Tôi chỉ cần quý vị có được kiến giải chân chính. Nếu quý vị có giảng giải được một trămbộ kinh luận đi nữa thì quý vị cũng không bằng được một ông thầy tu tầmthường mà vô sự. Giảng giải được kinh luận một cách thao thao chỉ làmcho các vị thêmtự hào tự đắc và sinh ra khinh miệt kẻ khác. Đó cũng chỉ là tâmsự của bọn A-tu-la, chỉ nghĩ đến thắng bại. Vô minh và sự tranh chấp nhân ngã chỉ làmlớn lên cái nghiệp địa ngục. Tỳ khưu Thiện Tinh (Sunaksatra) đấy, thông giải được mười hai thể tài của kinh điển vậy mà vẫn phải rơi vào địa ngục như thường, không còn được ở lại trên trái đất. Hơn hết là nên vô sự và chấmdứt mọi tìmcầu, đói thì ăn, buồn ngủ thì nhắmmắt lại, kẻ ngu có thể cười ta, nhưng người trísẽ hiểu được ta.
Này các bạn tu, đừng đi tìmcầu gì trong văn tự để cho tâmmình thêmđộng, trí mình thêmmệt và phổi mình phải hớp vào những luồng khí lạnh, vô ích. Chi bằng thấy được trong một khoảnh khắc rằng các hiện tượng duyên khởi là vô sinh và siêu việt được cả các vị Bồ-tát quyền học trong ba thừa.
Các vị đại đức, đừng chần chừ cho qua ngày tháng. Ngày xưa, khi chưa thấy đạo, còn đang ở trong vùng mờ mịt đen tối, tôi đã không lúc nào dámlàmbiếng, bầu máu nóng trong người luôn luôn thúc đẩy tôi bôn ba đi thamcầu học đạo. Sau đó nhờ đạt được trí lực, bây giờ mới có dịp ngồi đây nói chuyện với quý vị. Tôi khuyên quý vị là đừng vì chuyện cơmáo và danh lợi mà để thì giờ đi qua. Gặp được thiện tri thức là một điều hy hữu, cũng giống như gặp hoa ưu đàmđang độ nở, lâu lắmmới có một lần. Có những vị từ khắp nơi về đây nghe nói có lão già LâmTế, liền tìmtới định vấn nạn thử giăng bẫy để lừa tôi nói ra những lời ngôn giáo, nhưng các vị ấy đã thất bại. Và khi lão tăng này đã đưa toàn thân ra để phơi bày công dụng, thì quý vị ấy ngồi đó hai mắt tráo trưng, miệng câmnhư hến, hoang mang đến nỗi không biết trả lời tôi ra sao. Tôi xin nói cho quý vị biết: vớisức dẫmđạp của rồng voi thì lừa ngựa không thể nào chịu nổi.
Các vị ấy đã đi khắp nơi, đã trỏ ngực vỗ sườn, nói rằng mình hiểu thiền hiểu đạo. Nhưng các vị ấy đã không thể không tới đây, có khi đi thành hai người, có khi đi ba người một lúc, nhưng rốt cuộc tới đây họ cũng chẳng phô trương được một cái gì cả. Úi chà! Các vị cứ khiêng cái thân và cái tâmấy của quý vị đi khắp nơi để khua tung hai mảnh da môi, lừa gạt dân trong xóm, coi chừng có ngày sẽ bị ăn thiết bổng. Bọn họ không phải là thật người xuất gia đâu, kỳ thực họ đang bị lùa về cảnh giới A-tu-la. Chỗ chí lý của đạo không phải là dùng lý luận để đề cao giáo lý của mình và để chinh phục người đạo khác. Chư Bụt và chư Tổ nối tiếp nhau cũng (đi theo tinh thần này và) không có chủ đích nào khác. Nếu các ngài có thiết lập ngôn giáo thì những ngôn giáo này cũng chỉ nằmtrong những mô thức giáo
hóa đưa người vào các phạmtrù ba thừa, nămtánh và quả báo trời người. Giáo pháp viên đốn thì không như thế. Đồng tử Thiện Tài thật ra chưa từng đi qua một cuộc thamvấn tìmcầu nào cả.
Các vị đại đức! Đừng sử dụng tâmý một cách lầmlạc. Biển lớn không bao giờ chấp nhận tử thi. Mang gánh nặng của tâmlý tìmcầu mà rong ruổi khắp nơi trong thiên hạ, điều này chỉ gây thêmchướng ngại cho cái thấy của chính tâmmình. Nếu mặt trời không bị mây che thì khắp nơi bầu trời được chiếu sáng. Mắt không bị dụi thìsẽ không có hoa đốmtrong hư không.
Này các bạn tu! Nếu các bạn muốn sống theo tinh thần của Pháp thì chỉ cần chấmdứt nghi ngờ. Triển khai ra thì ômlấy cả pháp giới, thu vén lại thì tơ tóc cũng không dung, một mình sáng rỡ, chưa từng thiếu thốn. Cái mà tai không nghe, mắt không thấy, ta gọi nó là cái gì? Người xưa nói: Nói nó là một vật thì cũng không đúng. Quý vị hãy tự mình quán chiếu xemcó cái gì khác hơn không? Nói mãi cũng không cùng, mỗi người phải tự nỗ lực. Xin chào quý vị!
Đối trị căn cơ
Quan Phủ Thường Thị họ Vương cùng với các quan thỉnh thiền sư lên pháp tọa. Thiền sư bước lên nói: ‘Hômnay vì việc bất đắc dĩ thuận theo nhân tình cho nên tôi mới lên ngồi trên pháp tòa này. Nếu nói đến chuyện chính thức đề xuống việc lớn của truyền thống tổ tông Thiền, tôisẽ không thể mở miệng ra được và quý vị cũng sẽ không biết đặt chân vào đâu. Nhưng hômnay vì quan Thường Thị cứ thỉnh cầu mãi thì làmsao tôi còn có thể dấu kín được tông chỉ cương yếu của Thiền? Vậy thì có vị chiến tướng nào muốn phất cờ mở trận thì hãy xin ra đối diện với đại chúng đây để nêu ra vài chứng cứ xemsao?
Có một vị xuất gia bước ra hỏi:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
Thiền sư hét.
Vị xuất gia kia lạy.
Thiền sư nói:
- Ông thầy này có thể nói chuyện được đấy.
Một vị khác hỏi:
- Thiền sư xướng lên khúc hát của truyền thống nào, và tiếp nối tông phong của ai?
Sư đáp:
- Ngày xưa hồi tôi còn ở với thầy Hoàng Bích, ba lần tôi đặt câu hỏi, ba lần bị đánh.
Vị này suy nghĩ. Sư liền hét. Sau đó sư còn đánh thêmcho một cái và nói:
- Thầy đừng có mong đóng cọc trong hư không.
Có vị tọa chủ lên hỏi:
- Giáo lý của ba thừa và của mười hai thể tài không lý không làmsáng lên được tính Bụt trong ta?
Thiền sư nói:
- Cỏ hoang của (vườn tâm) thầy, thầy chưa từng xới.
Tọa chủ thưa:
- Không có lý Bụt lại đánh lừa người?
Sư hỏi:
- Bụt ở đâu?
Vị tọa chủ không nói được.
Sư bảo:
- Có quan Thường Thị ở đây mà thầy lại muốn gạt ông thầy tu già này hả? Rút lui mau, rút lui mau! Để chỗ cho người khác hỏi. Thiền sư lại nói:
- Vì việc lớn cho nên chúng ta mới thiết lập ra buổi tiệc pháp hômnay. Còn ai muốn hỏi hay nói gì nữa không? Hãy mau ra đây. (Tôi nói trước cho quý vị biết) khi quý vị vừa mở miệng ra, thì quý vị đã đánh mất cái liên hệ rồi. Tạisao? Quý vị có nghe đức Thế Tôn nói rằng ‘pháp không dính tới văn tự, không thuộc nhân cũng không do duyên’ hay không? Chỉ vì đức tin của quý vị nơi tự thân còn chưa tới, cho nên hômnay chúng ta chỉ có được những giây leo ký sinh (những lời nói lẻ), chỉ có tác dụng làmủng trệ cái tâmcủa quan Thường Thị và của các quan khác, và làmcho Phật tính của quý vị ấy thêmlu mờ. Tốt hơn là nên rút lui.
Rồi thiền sư hét lên và nói: ‘Những người niềmtin bạc nhược kia ơi, bỏ ra cả ngày để chỉ nói qua nói lại như vậy cũng vô ích thôi! Quý vị đứng lâu mỏi chân rồi, vậy xin tạmbiệt!’
Có lần thiền sư đến Hà phủ. Quan Thường Thị họ Vương thỉnh thiền sư lên pháp tòa.
Lúc bấy giờ có thầy Ma Cốc bước ra hỏi:
- Trong ngàn mắt ngàn tay của đức Đại Bi, con mắt nào là con mắt chính?
Thiền sư nói:
- Trong ngàn mắt ngàn tay của đức Đại Bi, con mắt nào là con mắt chính? Nói mau, nói mau!
Ma Cốc kéo thiền sư xuống tòa rồi tự ngồi lên trên tòa. Thiền sư đến gần, nói: ‘Thầy có khỏe không?.’Ma Cốc còn đang lưỡng lự thì thiền sư kéo Ma Cốc xuống, rồi tự ngồi lên. Ma Cốc đi ra khỏi pháp đường. Thiền sư cũng đi xuống.
Một hômthiền sư lên pháp đường nói:
- Trên đống thịt đỏ au này có một con người thật không có vị trí, thường đi ra đi vào ngay trước cửa mặt của quý vị. Ai chưa thấy được thì hãy nhìn kỹ xem, nhìn kỹ xem!
Lúc bấy giờ có một vị xuất gia đi lên, hỏi:
- Con người thật không có vị trí là gì?
Thiền sư từ thiền sàng bước xuống, nắmlấy vị ấy, bảo:
- Thầy nói đi, thầy nói đi (con người thật không có vị trí là gì?)
Vị ấy lưỡng lự. Thiền sư bèn thả vị ấy ra rồi nói:
- Con người thật không có vị trí là cái cọng cứt khô gì?
Nói xong liền quay về phương trượng.
Thiền sư vừa lên pháp đường thì có một vị xuất gia ra lạy. Sư hét. Vị xuất gia nói:
- Xin lão hòa thượng đừng thử con.
Thiền sư hỏi:
- Thầy nói tôi nghe đi, cái (tiếng hét) ấy đã rơi vào đâu?
Vị xuất gia liền hét.
Có một vị thầy khác lên hỏi:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
Thiền sư hét. Thầy ấy lạy. Thiền sư hỏi:
- Khuyết điểmlà ở chỗ nào?
Thầy ấy nói:
- Nếu tái phạmsẽ không tha thứ lần nữa.
Thiền sư liền hét.
Hômấy hai vị thủ tọa của hai thiền đường vừa thấy nhau thì đồng thời cùng hét. Có một thầy hỏi thiền sư: - Trong trường hợp này có chủ có khách đàng hoàng không?
Thiền sư nói:
- Chủ khách rõ ràng đó.
Và thiền sư nói:
- Đại chúng, nếu quý vị muốn biết về nguyên tắc tứ tân chủ thì hãy tới hỏi hai vị thủ tọa hai thiền đường. - Nói xong thiền sư bước xuống.
Thiền sư lên pháp đường, có một vị xuất gia hỏi:
- Đại ý Phật pháp là gì?
Thiền sư đưa phất trần lên. Vị ấy hét và bị thiền sư đánh cho một cái. Lại có một vị xuất gia khác lên hỏi: - Đại ý Phật pháp là gì?
Thiền sư cũng đưa phất trần lên. Vị ấy hét. Thiền sư cũng hét. Vị ấy do dự, liền bị thiền sư đánh. Thiền sư mới bảo:
- Này đại chúng, người vì pháp thì không sợ táng thất thân mạng. Hai mươi nămvề trước hồi còn ở với tiên sư Hoàng Bích, ba lần tới hỏi về đại ý Phật pháp ba lần tôi được ban cho một gậy, cũng giống như được tiên sư sờ đầu bằng một cành ngãi cứu (armoise) vậy. Đến hôm nay tôi vẫn còn nhớ đến lần được Ngài đánh. Vậy thì ai có thể lên đây giúp tôisống lại giây phút ấy?
Lúc bấy giờ có một vị xuất gia rời chỗ ngồi trong chúng đi lên, nói:
- Con đây có thể làmđược việc ấy.
Thiền sư cầmgậy đưa cho vị kia. Vị kia ngần ngại khi tiếp nhận cây gậy. Thiền sư liền đánh cho vị ấy một gậy. Thiền sư lên pháp đường, có vị xuất gia hỏi:
- Chuyện đầu lưỡi gươmbén là chuyện gì vậy?
Thiền sư nói:
- Nguy rồi! Nguy rồi!
Vị kia lưỡng lự, liền bị thiền sư đánh cho một cái.
Lại có người hỏi:
- Trong trường hợp người hành giả Thạch Thất giả gạo, giây phút anh ta quên mất việc dậmchân xuống chày thì anh ta đi đâu? Thiền sư nói:
- Chìmxuống suốisâu.
Thiền sư lại nói:
- Dù có ai tới với tôi đi nữa thì tôi cũng không phụ lòng người ấy. Luôn luôn tôi biết kẻ ấy từ đâu tới. Nếu người ấy tới với tư thế ấy, thì người ấy cũng giống như tự đánh mất mình, nếu người ấy không tới với tư thế ấy, thì cũng như không có dây mà người ấy tự trói mình. Này quý vị, bất cứ lúc nào cũng vậy, đừng có đắn đo suy nghĩ loạn lên như thế. Hiểu hay không hiểu đều là sai lầm. Tôi nói huỵch toẹt ra như thế đó. Thiên hạ có nói hành tôi thì cứ nói, không sao. Quý vị đứng lâu mỏi chân rồi, xin hẹn dịp khác!
Thiền sư lên pháp đường, và khai thị:
- Một người đứng trên chót vót đỉnh cô phong không có đường ra, còn một người đứng giữa ngã tư không tiến thối được. Giữa hai kẻ ấy, ai tới trước, ai tớisau? Đừng giả bộ làmDuy Ma Cật cũng đừng đóng vai Phó đạisĩ. Xin chào quý vị.
Thiền sư lên pháp đường, nói:
- Có một người đang mãi mãi ở ngoài đường mà chưa hề lìa khỏi nhà cửa, có một người đã lìa nhà cửa, nhưng mà không đang ở ngoài đường. Trong hai người ấy, ai là kẻ đáng được thiên và nhân cúng dường?
Nói xong liền bước xuống.
Thiền sư lên pháp đường. Có vị xuất gia hỏi:
- Câu nói thứ nhất là gì?
Thiền sư đáp:
- Ấn tam yếu nhấc ra, điểm son rõ
Không hề lưỡng lự, chủ khách phân.
- Còn câu nói thứ hai?
- Diệu giải ngại gì câu vấn đáp
Cơ quan thi thiết chẳng ngăn dòng.
- Còn câu nói thứ ba?
- Hãy nhìn con rối đang trình diễn
Có người dây kéo núp bên trong.
Thiền sư lại nói:
- Một câu nói phải có đủ ba huyền môn. Một huyền môn phải có đủ ba yếu lĩnh. Phải có quyền phải có dụng. Các vị hiểu như thế nào? Nói xong, thiền sư bước xuống.
Tổ Hoàng Bích vào nhà bếp, hỏi thầy đầu bếp:
- Thầy làmgì đó?
Thầy đầu bếp trả lời:
- Con đang nhặt gạo cho chúng tăng.
Tổ Hoàng Bích hỏi:
- Mỗi ngày ăn nhiều ít?
Thầy đầu bếp nói:
- Hai thạch rưỡi.
Tổ Hoàng Bích:
- Như thế có nhiều quá hay không?
Thầy đầu bếp:
- Vậy mà còn sợ thiếu đấy.
Tổ Hoàng Bích liền đánh thầy đầu bếp một cái.
Thầy đầu bếp thuật chuyện này cho thiền sư LâmTế nghe. Thiền sư nói: - Tôisẽ hỏi ông già cho thầy về việc này.
Thiền sư vừa đến đứng bên tổ Hoàng Bích thì tổ liền kể lại câu chuyện. Thiền sư nói: - Thầy đầu bếp không hiểu, xin hòa thượng cho một câu trả lời để con chuyển lại cho thầy ấy. Rồi thiền sư hỏi:
- Như thế có nhiều quá hay không?
Tổ Hoàng Bích nói:
- Tạisao (thầy ấy) không nói ngày mai lại phải ăn thêmmột bữa nữa?
Thiền sư nói:
- Nói ngày mai mà làmgì? Phải ăn ngay ngày hômnay chứ!
Nói xong thiền sư đánh tổ một cái. Tổ Hoàng Bích nói:
- Cái thằng điên này hômnay dámtới đây vuốt râu hùmhả?
Thiền sư liền hét và đi ra.
Sau đó có dịp Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn về chuyện này:
- Hai vị tôn túc kia nói với nhau như thế là có ý gì?
Ngưỡng Sơn:
- Thầy nghĩ gì?
Quy Sơn nói:
- Nuôi con mới biết công lao mẹ hiền.
Ngưỡng Sơn nói:
- Không phải vậy đâu.
Quy Sơn nói:
- Vậy thìsao?
Ngưỡng Sơn nói:
- Cái đó cũng nghiêmtrọng chẳng khác như đưa giặc về phá nhà. Thiền sư hỏi một vị xuất gia:
- Thầy từ đâu tới?
Vị này hét.
Thiền sư liền chào và mời vị kia ngồi xuống. Vị kia lưỡng lự, bèn bị thiền sư đánh.
Thiền sư thấy một vị xuất gia đến, liền nâng phất trần lên. Vị xuất gia làmlễ, liền bị thiền sư đánh.
Lại một vị xuất gia khác đến, thiền sư cũng nâng phất trần lên. Vị này tỏ ra không quan tâmđến. Thiền sư cũng đánh vị này luôn. Một hôm, thiền sư cùng thiền sư Phổ Hóa đi phó trai tại nhà một thí chủ.
Thiền sư hỏi:
- Sợi lông nuốt cả biển cả, hạt cải đựng được núi Tu Di, đó là diệu dụng thần thông, hay sự thực vốn là như thế? Phổ Hóa kéo đổ cả mâmcơm. Thiền sư nói:
- Sao mà thô tháo như thế? (Sao không có uy nghi tế hạnh gì cả?)
Phổ Hóa nói:
- Đây là đâu mà nói thô nói tế?
Ngày hômsau thiền sư lại cùng Phổ Hóa đi phó trai. Thiền sư lại hỏi:
- Hômnay thức ăn cúng dường cũng tương tợ như hômqua, phải không?
Phổ Hóa cũng kéo đổ bàn cơmnhư hômtrước. Thiền sư nói:
- Được thì được đấy, nhưng mà thô tháo thì vẫn rất thô tháo.
Phổ Hóa nói:
- Đồ đui! Trong Phật pháp thì có gì là thô có gì là tế?
Thiền sư bèn le lưỡi.
Một hômđó, thiền sư cùng với hai vị trưởng lão Hà Dương và Mộc Tháp ngồisưởi chân trong tăng đường. Thiền sư nói: - Ngày nào Phổ Hóa cũng làmkẻ điên ngoài phố chợ. Chẳng biết ông ta là phàmhay là thánh.
Ngay lúc ấy Phổ Hóa đi vào. Thiền sư liền hỏi:
- Thầy là phàmhay là thánh?
Phổ Hóa nói:
- Thầy hãy nói đi: tôi là phàmhay là thánh?
Thiền sư hét. Phổ Hóa lấy tay chỉ ba người và nói:
- Hà Dương là cô dâu mới, Mộc Tháp là thiền lão bà, còn LâmTế là một đứa bé con, nhưng nó lại có được một con mắt. Thiền sư nói:
- Tên giặc này!
Phổ Hóa vừa đi ra vừa kêu: Có giặc! Có giặc!
Một hômPhổ Hóa đang ăn bắp cảisống ở tăng đường. Thiền sư liền nói:
- Lớn như một con lừa!
Phổ Hóa liền giả tiếng lừa kêu. Thiền sư nói:
- Tên giặc này!
Phổ Hóa vừa đi ra vừa kêu: Có giặc! Có giặc!
Phổ Hóa thường đi rung chuông ngoài phố chợ và nói:
- Phía sáng tới thì đánh phía sáng, phía tối đến thì đánh phía tối, bốn phương támhướng đến, thì xoay vần mà đánh, hư không đến thì ta đây đánh hết mình.
Thiền sư sai một vị thị giả đi, dặn khi nghe Phổ Hóa nói như thế thì níu thầy ấy lại và hỏi: ‘Nếu không có cái gì tới thìsao?’(Vị thị giả làm y như thế). Phổ Hóa đẩy thị giả ra và nói:
- Ngày maisẽ có trai tăng ở Đại Bi Viện.
Nghe kể lại câu chuyện, thiền sư nói:
- Xưa nay mình vẫn nghi cái anh chàng này.
Có một vị lão túc tới thamvấn, không làmlễ chào hỏi cũng không vấn an. Vị này hỏi: - Làmlễ là phải hay không làmlễ phải?
Thiền sư hét. Vị lão túc làmlễ. Thiền sư nói:
- Hay thay, bọn giặc cỏ này.
Vị lão túc la: ‘Giặc cỏ! Giặc cỏ!’Và đi ra.
Thiền sư nói:
- Đừng nói vô sự là tốt.
Lúc bấy giờ có một vị thủ tọa đang đứng hầu một bên thiền sư. Thiền sư hỏi: - Có lỗi hay không có lỗi?
Vị thủ tọa đáp:
- Cả hai đều có lỗi.
Thiền sư hỏi:
- Lỗi ở chỗ nào?
Vị thủ tọa đi ra.
Thiền sư nói:
- Đừng nói vô sự là tốt.
Sau này có người kể lại câu chuyện với NamTuyền. NamTuyền phê bình: - Ngựa quan đạp nhau.
Nhân vào phó trai ở một doanh trại của quân đội, thiền sư gặp một viên sĩ quan đứng đón ở cửa. Trỏ vào một cây cột trần, thiền sư hỏi: - Cái này là phàmhay thánh?
Vịsĩ quan không nói được.
Thiền sư đánh vào cây cột trần và nói: ‘Dù có nói được hay không thì nó cũng chỉ là một cây cột gỗ.’Bèn đi vào. Thiền sư hỏi viện chủ: ‘Thầy vừa từ đâu về?’
Viện chủ: ‘Đi ra quận bán lúa về.’
Thiền sư: ‘Bán được hết không?’
Viện chủ: ‘Bán được hết.’
Thiền sư lấy gậy vạch một đường trước mặt, hỏi:
- Bán được cái này không?
Viện chủ hét. Thiền sư đánh.
Vị điển tọa tới. Thiền sư kể lại câu chuyện. Vị điển tọa nói:
- Viện chủ không hiểu được ý của hòa thượng.
Thiền sư nói:
- Còn thầy, thầy hiểu không?
Điển tọa nghiêng mình làmlễ, cũng bị thiền sư đánh luôn.
Có vị tọa chủ (giảng sư) tới thămviếng, thiền sư hỏi:
- Tọa chủ giảng những kinh luận nào?
Tọa chủ:
- Con còn dở lắm, chỉ giảng sơ sài được luận Bách Pháp Minh Môn.
Thiền sư nói:
- Có kẻ thông suốt cả giáo lý ba thừa và mười hai thể tài, lại có kẻ không biết gì về giáo lý tamthừa và mười hai thể tài, hai kẻ ấy giống nhau hay khác nhau?
Tọa chủ nói:
- Hiểu được thì giống nhau, không hiểu được thì khác nhau.
Lúc ấy Lạc Phổ đứng sau lưng làmthị giả, nói:
- Thưa tọa chủ, ở đây là đâu mà nói giống nhau hay khác nhau?
Thiền sư quay lại hỏi:
- Thị giả, vậy thì chú nghĩsao?
Thị giả liền hét. Sau khi tiễn tọa chủ đi, thiền sư hỏi thị giả:
- Hồi nảy chú hét tôi hả?
Thị giả nói: ‘Vâng.’Thiền sư bèn đánh thị giả.
Thiền sư nghe Đức Sơn đời thứ hai có nói: ‘Nói được thì lãnh ba mươi gậy, không nói được cũng lãnh ba mươi gậy’, bèn sai Lạc Phổ đi đến, dặn rằng:
- Sau khi hỏi: ‘Nói được sao cũng lãnh 30 gậy?’, chú hãy đợi cho Đức Sơn đánh thì hãy giật gậy và đẩy cho ông ta một cái mạnh, xemông ta hành xử ra sao?
Lạc Phổ làmy như lời dặn. Đức Sơn thấy thế liền rút vào phương trượng. Lạc Phổ về thuật lại cho thiền sư hay. Thiền sư nói: - Từ trước tới nay, ta đã từng nghi ông già ấy. Tuy nhiên, chú thấy thế nào?
Lạc Phổ còn đang lưỡng lự thì bị thiền sư đánh.
Quan Thường Thị họ Vương một hômđến thămthiền sư. Hai người cùng đứng trước tăng đường nhìn vào. Quan hỏi: - Các thầy ở đây có học kinh không?
Thiền sư nói: ‘Không học kinh.’
Quan hỏi:
- Vậy các thầy có học thiền không?
Thiền sư nói: ‘Cũng không học thiền.’
Quan hỏi:
- Kinh cũng không học, thiền cũng không học, thì làmcái gì nữa?
Thiền sư nói:
- Tôi chỉ dạy họ làmBụt làmTổ thôi.
Quan Thường Thị nói:
- Bụi vàng tuy quý, nhưng rơi vào mắt cũng xốn lắm.
Thiền sư bảo:
- Vậy mà xưa nay tôi cứ ngỡ ông là một kẻ tầmthường.
Thiền sư hỏi Hạnh Sơn:
- Thế nào là khoảng đất trống và con trâu trắng?
Hạnh Sơn rống ra tiếng trâu!
Thiền sư: ‘Thầy câmhả?’
Hạnh Sơn nói: ‘Còn hòa thượng thìsao?’
Thiền sư nói: ‘Con vật này!’
Thiền sư hỏi Lạc Phổ:
- Lâu nay, một người dùng gậy, một người dùng tiếng hét. Người nào thân thiết hơn?
Lạc Phổ:
- Cả hai đều không thân thiết.
Thiền sư hỏi:
- Thầy hiểu nghĩa chữ thân thiết thế nào?
Lạc Phổ hét, và bị thiền sư đánh.
Thấy một vị xuất gia đến, thiền sư đưa hai tay ra. Vị xuất gia không nói gì. Thiền sư hỏi: ‘Thầy có hiểu không?’ Vị xuất gia: ‘Con không hiểu.’
Thiền sư nói: ‘Núi Côn Lôn khó mở, ta cho ngươi hai đồng.’
Đại Giác đến thamvấn. Thiền sư đưa phất trần lên. Đại Giác trải tọa cụ. Thiền sư némphất trần xuống đất. Đại Giác liền lấy tọa cụ lên, đi vào tăng đường.
Trong chúng các thầy bàn với nhau:
- Thầy này có quen thân gì với thiền sư của chúng mình không, tạisao không lễ bái mà cũng không bị ăn đòn? Nghe nói thế, thiền sư cho gọi Đại Giác đến. Thiền sư nói:
- Đại chúng đây nói rằng thầy chưa chào hỏi tôi.
Đại Giác trả lời:
- Thiền sư mạnh giỏi không?
Rồi trở vào với chúng.
Trong thời gian hành cước, thiền sư Triệu Châu có dịp ghé lại thămthiền sư, gặp lúc thiền sư đang rửa chân. Triệu Châu hỏi: - Mục đích của Bồ Đề Đạt Ma qua đây là gì?
Thiền sư nói:
- Đúng vào lúc tôi đang rửa chân.
Triệu Châu tới gần ghé tai làmbộ nghe. Thiền sư nói:
- Bây giờ tôi phải lại đổ thêmmột chậu nước dơ nữa hay sao?
Triệu Châu liền bỏ đi.
Có thượng tọa Định đến thamvấn, hỏi:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
Thiền sư từ thiền sàng bước xuống, nắmlấy thượng tọa Định, đánh cho thượng tọa một cái, rồi thả thượng tọa ra. Thượng tọa Định đứng yên.
Có một vị xuất gia đứng đó nói:
- Thượng tọa Định, sao không lạy xuống đi!
Thượng tọa Định lạy xuống thì bỗng dưng đại ngộ.
Ma Cốc đến thamvấn, vừa trải tọa cụ vừa hỏi:
- Mười hai mặt của Quan Âm, mặt nào là mặt chính?
Thiền sư từ thiền sàng bước xuống, một tay nắmtọa cụ, một tay kéo Ma Cốc tới gần, hỏi:
- Quan Âmmười hai mặt bây giờ đang đi đâu?
Ma Cốc xoay mình lại, định lên thiền sàng ngồi thì thiền sư nắmlấy gậy định đánh. Ma Cốc giật gậy. Cả haisau đó cùng nắmgậy đi vào phương trượng.
Thiền sư hỏi một thầy:
- Có lúc tiếng hét giống như lưỡi gươmbáu của KimCương Vương ; có lúc tiếng hét giống như sư tử lông vàng đang ngồi xổm; có lúc tiếng hét giống như chiếc sào dò bóng cỏ ; có lúc tiếng hét không có tác dụng của tiếng hét. Thầy hiểu không?
Vị xuất gia lưỡng lự, liền bị thiền sư đánh.
Thiền sư hỏi một nisư:
- Thiện lai hay ác lai?
Nisư hét. Thiền sư cầmgậy nói:
- Nói đi, nói đi!
Nisư hét thêmmột tiếng thứ hai nhưng vẫn bị thiền sư đánh.
Long Nha hỏi:
- Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn độ qua có mục đích gì?
Thiền sư nói:
- Đemthiền bản lại đây cho ta.
Long Nha đưa thiền bản. Thiền sư tiếp lấy thiền bản và đánh Long Nha. Long Nha:
- Đánh thì cứ đánh nhưng mục đích của tổ sư vẫn chưa thấy rõ ràng.
Sau đó, Long Nha đến thămThúy Vi, và hỏi:
- Tổ sư từ Ấn độ qua có mục đích gì?
Thúy Vi nói:
- Đembồ đoàn lại đây cho ta.
Long Nha đưa bồ đoàn. Thúy Vi tiếp lấy bồ đoàn và đánh Long Nha. Long Nha nói:
- Đánh thì đánh nhưng mục đích của tổ sư cũng vẫn chưa thấy rõ ràng.
Sau này, Long Nha làmViện chủ, có một vị xuất gia đi vào thiền thất hỏi:
- Trong thời gian hòa thượng đi hành cước có thamvấn hai vị tôn túc, vậy hòa thượng có công nhận (tuệ giác) của hai vị ấy không? Long Nha nói:
- Công nhận thì có công nhận, nhưng mục đích của tổ sư vẫn chưa thấy rõ ràng như thường.
Đồ chúng của thiền sư Kỉnh Sơn có tới 500 vị, nhưng trong số ấy có rất ít người đến thamthỉnh thiền sư. Tổ Hoàng Bích phái thiền sư đến thămKỉnh Sơn. Trước khi đi, tổ hỏi:
- Con đến đấy sẽ làmgì?
Thiền sư nói:
- Đến đó con mới biết sẽ làmgì.
Đến nơi, còn mang nguyên áo nón du hành, thiền sư đi thẳng vào pháp đường để gặp Kỉnh Sơn. Kỉnh Sơn vừa ngửng đầu lên thì thiền sư liền hét. Kỉnh Sơn vừa mở miệng chưa kịp nói gì thì thiền sư đã phất tay áo đi ra.
Ngay sau đó có một thầy hỏi Kỉnh Sơn:
- Cái ông thầy kia mới tới, có nói qua nói lại gì với hòa thượng không mà hét như vậy?
Kỉnh Sơn nói:
- Thầy ấy từ đạo tràng của Hoàng Bích tới đấy. Nếu muốn biết thì đi hỏi ông ta đi.
Nămtrămđồ chúng của Kỉnh Sơn sau đó bị phân tán quá hơn một nửa.
Một hômngoài phố chợ, Phổ Hóa ngỏ lời xin chiếc áo một tấm. Ai cũng cho áo, nhưng Phổ Hóa không nhận. Nghe vậy thiền sư bảo viện
chủ mua cho Phổ Hóa một chiếc quan tài. Lúc Phổ Hóa về, thiền sư nói:
- Tôi vừa mới may cho thầy một chiếc áo một tấmrồi đó.
Phổ Hóa liền vác chiếc quan tài đi qua phố chợ, nói:
- LâmTế vừa may cho tôi một chiếc áo một tấm. Bây giờ tôisẽ đi ra cửa Đông để thoát hóa hình hài này. Người ngoài chợ đi theo Phổ Hóa để xem. Nhưng tới nơi Phổ Hóa lại nói:
- Ngày hômnay tôi chưa thoát hóa đâu. Ngày mai tôisẽ thoát hóa tại cửa Nam.
Ngày hômsau Phổ Hóa cũng nói là chưa thoát hóa, đợi ngày hômsau nữa mới thoát hóa ở cửa khác. Ba ngày như vậy nói mà không làm nên không còn ai tin nữa. Đến ngày thứ tư chẳng có ai đi theo, Phổ Hóa một mình đi ra ngoài thành phố, tự nằmvào trong quan tài và đậy nắp lại, nhờ một người qua đường đóng đinh áo quan. Tin tức chuyền đi, lập tức người trong thành phủ đổ ập tới rất đông. Họ đòi mở quan tài ra. Nắp quan tài mở ra thì không thấy Phổ Hóa trong ấy nữa. Người ta chỉ nghe tiếng chuông rung trong hư không càng lúc càng xa.
Trong một buổi thamvấn chiều, thiền sư khai thị: ‘Có lúc đoạt người không đoạt cảnh, có lúc đoạt cảnh không đoạt người, có lúc đoạt cả người cả cảnh, có lúc không đoạt người cũng không đoạt cảnh.’
Lúc bấy giờ có một vị xuất gia hỏi: ‘Đoạt người không đoạt cảnh là sao?’
Thiền Sư đáp: ‘Nắng dậy gấmthêu đầy mặt đất
Hài nhi tóc rủ bạc như tơ.’
Hỏi tiếp: ‘Đoạt cảnh không đoạt người là sao?’
Thiền Sư đáp: ‘Lệnh vua truyền khắp trong thiên hạ
Biên thùy tướng sĩ khói mây tan.’
Hỏi: ‘Còn đoạt cả người cả cảnh là sao?’
Thiền Sư đáp: ‘Hai quận Biện Phần không liên lạc
Dân chúng một mình một cõi riêng.’
Hỏi: ‘Còn không đoạt người cũng không đoạt cảnh là sao? Thiền Sư đáp: ‘Vua bước lên điện báu
Ông già quê hát ca.’
Du hành
Trong thời gian còn tu học với tổ Hoàng Bích, sự tu tập của thiền sư rất thuần nhất. Vị thủ tọa có ý khen rằng tuy thầy thuộc về lớp sau nhưng thầy có những điểmđặc biệt. Thủ tọa hỏi:
- Thầy ở đây lâu chưa?
Thiền sư đáp:
- Được ba năm.
Thầy thủ tọa:
- Đã từng được thamvấn sư tổ chưa?
Thiền sư đáp:
- Con chưa từng thamvấn và cũng chẳng biết thamvấn về đề tài gì.
Thủ tọa bảo:
- Tạisao thầy không tới hỏi hòa thượng đường đầu ‘đại ý của Phật pháp là gì?’
Thiền sư liền tới hỏi tổ Hoàng Bích câu ấy. Hỏi chưa hết câu đã bị tổ đánh. Thiền sư trở về. Vị thủ tọa hỏi: ‘Sao?’ - Con chưa hỏi xong câu hỏi thì bị đánh. Con không hiểu tạisao.
- Vậy cứ tới hỏi lại lần thứ hai xemsao!
Thiền sư tới hỏi lần thứ hai. Và cũng bị tổ Hoàng Bích đánh. Như thế cho đến ba lần.
Thiền sư trở về hỏi vị thủ tọa:
- Cảmơn Thủ tọa đã từ bi chỉ bảo cho con tới thamvấn hòa thượng, nhưng ba lần con hỏi là ba lần con bị hòa thượng đánh. Con tự hận là vì có nhiều chướng duyên nên không lãnh hội được ý chỉsâu sắc của hòa thượng. Nay con xin giã từ đi nơi khác.
Thủ tọa nói:
- Nếu thầy đi thì nên tới từ giã hòa thượng trước khi đi.
Thiền sư lạy rồi rút lui. Vị thủ tọa tới hòa thượng thưa:
- Cái thầy còn trẻ tới thamvấn ấy có thể là một pháp khí tương lai đấy, vậy khi thầy ta tới từ giã xin hòa thượng dùng phương tiện để tiếp độ thầy ấy một chút. Trong tương lai thầy ấy có thể trở nên một cây đại thụ làmbóng mát cho rất nhiều người trong thiên hạ.
Khi thiền sư tới từ biệt tổ, tổ nói:
- Con không nên đi đâu cả, chỉ nên đi tới thầy Đại Ngu ở đầu sông Cao An mà thôi. Thầy Đại Ngu sẽ giúp con. Thiền sư liền đi tới Đại Ngu. Đại Ngu nói: ‘Thầy từ đâu tới?’
Thiền sư nói: ‘Từ tu viện Hoàng Bích tới.’
Đại Ngu: ‘Hoàng Bích có nói gì không?’
Thiền sư:
- Ba lần tôi tới hỏi về đại ý Phật pháp, ba lần tôi bị đánh. Tôi không biết là tôi có lỗi hay không có lỗi.
Đại Ngu nói:
- Hoàng Bích như một bà ngoại từ mẫn đã hết lòng hết sức giúp thầy vượt qua những khó khăn, vậy mà thầy lại còn nói có lỗi hay không có lỗi!
Nghe thế, thiền sư đại ngộ. Thiền sư nói:
- Thì ra Phật pháp của hòa thượng Hoàng Bích đâu có gì ghê gớmlắmđâu!
Đại Ngu nói:
- Cái con quỷ đái dầmnày, vừa than có lỗi không lỗi đó thì nay lại dámnói Phật pháp của Hoàng Bích không có gì là ghê gớm! Thầy thấy được cái gì, nói nghe xem, nói nghe xem!
Thiền sư mới thụi vào hông Đại Ngu ba cái. Đại Ngu đẩy thiền sư ra, nói:
- Thầy của ông là Hoàng Bích, chuyện này chẳng có dính líu gì đến tôi.
Thiền sư liền từ giã Đại Ngu trở về với tổ Hoàng Bích. Thấy thiền sư trở về, Hoàng Bích nói: - Cái anh chàng này cứ đi đi về về như thế bao giờ mới chấmdứt?
Thiền sư nói:
- Chỉ vì hòa thượng từ bi quá nên con phải trở về.
Làmlễ xong, thiền sư đứng hầu một bên. Hoàng Bích hỏi:
- Đi đâu về thế?
- Mới đây theo lời dạy đầy tình thương của hòa thượng, con đã đến thamvấn Đại Ngu. Nay con mới về. Hoàng Bích: ‘Đại Ngu có nói gì không?’
Thiền sư liền kể lại đầu đuôi câu chuyện. Hoàng Bích nói:
- Cái lão Đại Ngu kia, đợi khi có dịp nắmđược lão, ta sẽ đánh cho lão một trận. Thiền sư liền nói:
- Đâu có cần đợi làmgì, hòa thượng? Hãy tiếp nhận ngay bây giờ đi.
Nói xong thiền sư liền thụi vào Hoàng Bích. Hoàng Bích la:
- Cái thằng điên này, dámtới hang cọp vuốt râu hùmhả?
Thiền sư bèn hét.
Hoàng Bích nói:
- Thị giả đâu, dẫn thằng khùng này vào trong tăng đường đi.
Sau này Quy Sơn có dịp kể lại chuyện này cho Ngưỡng Sơn và hỏi Ngưỡng Sơn: - Hồi ấy LâmTế tiếp nhận năng lượng từ Đại Ngu hay từ Hoàng Bích? Ngưỡng Sơn nói:
- Nếu không cỡi đầu cọp, thì làmsao vuốt được đuôi cọp?
Thiền sư đang trồng tùng. Tổ Hoàng Bích hỏi:
- Trong núisâu trồng tùng làmgì nhiều thế?
Thiền sư đáp:
- Trước là để làmcảnh cho sơn môn, sau là để làmtiêu chuẩn cho các thế hệ tương lai. Nói xong, thiền sư lấy cuốc dộng xuống đất ba lần.
Hoàng Bích nói:
- Tuy là vậy nhưng thầy cũng đã bị tôi cho ăn ba chục gậy rồi (là ít) đấy. Thiền sư lại dộng cuốc xuống đất ba lần nữa, rồi rên lên ư ử. Hoàng Bích nói: - Tông phong của ta đến thế hệ của ngươisẽ được hưng thịnh lớn trên đời. Sau này Quy Sơn lặp lại lời này hỏi Ngưỡng Sơn:
- Lúc ấy Hoàng Bích chỉ phó chúc cho một mình LâmTế hay còn phó chúc cho ai khác? Ngưỡng Sơn:
- Còn chứ, nhưng tại vì hòa thượng quá lớn tuổi rồi nên tôi không nói làmchi đó thôi. Quy Sơn nói:
- Tuy vậy tôi cũng muốn biết, thầy cứ nói xem.
Ngưỡng Sơn:
- Một người chỉ ngón tay về phương Nam, cả nước Ngô lẫn nước Việt đều tuân hành theo lệnh. Gặp gió lớn thì ngừng. (tiên đoán về hòa thượng Phong Huyệt)
Thiền sư một hômđứng hầu thiền sư Đức Sơn. Đức Sơn nói:
- Hômnay tôi mệt.
Thiền sư nói:
- Ông già này đang nói mơ gì đó?
Đức Sơn liền đánh.
Thiền sư lật đổ thiền sàng. Đức Sơn mới ngưng.
Thiền sư đang xới đất trong một buổi chấp tác toàn chúng, thì thấy Tổ Hoàng Bích tới, liền chống cuốc đứng yên. Hoàng Bích hỏi: - Anh chàng này mệt rồi hả?
Thiền sư nói:
- Cuốc chưa nhấc lên mà mệt gì.
Hoàng Bích liền đánh thiền sư một cái. Sư giật lấy gậy của Hoàng Bích xô một cái, Hoàng Bích ngả xuống. Tổ Hoàng Bích gọi: - Thầy Duy Na, thầy Duy Na, tới đỡ tôi dậy đi.
Thầy Duy Na tới gần nói:
- Tạisao hòa thượng lại để cho anh chàng điên này làmmột điều vô lễ như thế?
Hoàng Bích đứng lên được rồi liền đánh thầy Duy Na. Thiền sư thấy thế dộng cuốc xuống đất và nói:
- Ở các nơi khác thì người ta hỏa táng. Còn ở đây thì chỉ chôn sống.
Sau này Quy Sơn có dịp hỏi Ngưỡng Sơn:
- Tạisao Hoàng Bích lại đánh vị Duy Na?
Ngưỡng Sơn:
- Tên giặc thiệt thì đã chạy mất, còn người đuổi giặc lại bị ăn đòn.
Có một hômngồi ở tăng đường, thiền sư thấy Tổ Hoàng Bích đến, liền nhắmmắt lại. Hoàng Bích giả làmbộ sợ, đi về phương trượng. Thiền sư đi theo về phương trượng lễ tạ. Lúc ấy có thầy thủ tọa đang đứng hầu bên tả Hoàng Bích. Hoàng Bích nói:
- Thầy này còn trẻ, nhưng là kẻ biết được vấn đề.
Thủ tọa nói:
- Chân hòa thượng không chấmđất, mà hòa thượng lại ấn chứng cho cái anh chàng trẻ này.
Tổ Hoàng Bích lấy tay tự vả vào miệng Tổ một cái. Thầy thủ tọa nói:
- Nếu hòa thượng biết thì không sao.
Thiền sư đang ngủ trong tăng đường. Hoàng Bích thấy thế, lấy gậy gõ vào thiền sàng một cái. Thiền sư ngửng đầu lên thấy Hoàng Bích, liền nhắmmắt ngủ lại. Hoàng Bích lại gõ thêmmột tiếng, rồi đi lên lầu trên. Thấy vị thủ tọa đang ngồi thiền, Hoàng Bích nói:
- Lầu dưới, người trẻ đang ngồi thiền, tạisao trên này thầy còn ngồi với vọng tưởng?
Thủ tọa nói:
- Cái ông già này làmgì thế?
Hoàng Bích gõ thêmmột cái trên thiền sáng rồi đi ra.
Sau này Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn câu chuyện Hoàng Bích vào tăng đường ấy có nghĩa gì. Ngưỡng Sơn nói: - Một lá bài hai mặt.
Một hômcó buổi chấp tác của cả đại chúng, thiền sư đisau. Tổ Hoàng Bích quay lại, thấy thiền sư tay không, hỏi:
- Cuốc để đâu?
Thiền sư nói:
- Có một người lấy đi mất rồi.
Hoàng Bích nói:
- Tới gần đây để cùng đàmluận.
Thiền sư đến gần. Đưa cuốc lên trời, Tổ nói:
- Cái này đây trong thiên hạ không ai giật khỏi tay ta.
Thiền sư liền giật lấy cuốc của Hoàng Bích, đưa lên và nói:
- Vậy tạisao bây giờ nó nằmtrong tay con đây?
Hoàng Bích nói: ‘Hômnay đã có rất nhiều người chấp tác rồi.’Nói xong liền trở về tăng viện. Sau này Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Cây cuốc đang nằmtrong tay Hoàng Bích tạisao lại vào tay LâmTế?
Ngưỡng Sơn:
- Giặc là tiểu nhân, nhưng nếu có trí, thì tiểu nhân có thể hơn người quân tử.
Thiền sư đemthư của Tổ Hoàng Bích cho Quy Sơn. Lúc ấy Ngưỡng Sơn làmtri khách. Tiếp thư, Ngưỡng Sơn hỏi: - Cái này là thư của Hoàng Bích, còn thư của người đưa thư đâu?
Thiền sư liền thụi Ngưỡng Sơn một cái. Ngưỡng Sơn ômlấy Thiền sư, nói:
- Sư anh biết được như thế là hay rồi, chúng ta hãy thôi đừng đối đáp nữa.
Và cả hai cùng đi tới Quy Sơn. Quy Sơn hỏi:
- Học chúng của sư anh Hoàng Bích có được bao nhiêu vị?
Thiền sư đáp: ‘Có bảy trămvị.’
Quy Sơn: ‘Trong số ấy ai là người dẫn dắt?’
Thiền sư: ‘Người ấy vừa mới trao thư cho thầy đấy.’
Rồi thiền sư hỏi: ‘Ở đây hòa thượng có bao nhiêu vị trong học chúng?’
Quy Sơn nói: ‘Một ngàn nămtrămvị.’
Thiền sư nói: ‘Nhiều quá nhỉ!’
Quy Sơn nói: ‘Học chúng của sư anh Hoàng Bích ta cũng rất đông.’
Thiền sư chào từ giã Quy Sơn. Ngưỡng Sơn đưa Thiền sư ra, nói:
- Nếu mai này sư anh đi lên miền Bắc, sư anh sẽ có một chỗ cư trú.
Thiền sư nói: ‘Sao có thể như thế được?’
Ngưỡng Sơn nói:
- Cứ đi đi thì biết. Sau này sẽ có một người phụ tá cho sư anh, người này sẽ là có đầu mà không có đuôi, có thỉ mà không có chung.
Sau này thiền sư lên Trấn Châu quả gặp Phổ Hóa ở đấy. Khi thiền sư xuất hiện làmviệc hóa độ, thì có Phổ Hóa phụ tá. Chưa ở với Phổ Hóa bao lâu thì Phổ Hóa đã đi, toàn thân không còn lưu dấu vết.
Giữa mùa an cư kết hạ, thiền sư đến thămTổ Hoàng Bích, thấy Tổ đang xemkinh. Thiền sư nói:
- Lâu nay con cứ tưởng thầy là một con người, ngờ đâu thầy chỉ là một vị hòa thượng già, đậu đen ngậmđầy miệng. Thiền sư ở lại vài hômrồi tới từ giã Tổ Hoàng Bích mà đi. Tổ nói:
- Nhà ngươi bỏ an cư tới đây là đã phá hạ, mà tới đây rồi lại không ở cho hết hạ lại còn bỏ đi.
Thiền sư nói:
- Con chỉ tạmđến đây vài ngày để thămthầy thôi.
Hoàng Bích liền đánh và đuổi đi. Đi được vài dặmđường, thiền sư bỗng có nghi vấn về việc này, cho nên trở lại để ở cho hết hạ. Hết hạ rồi, một hômthiền sư đến từ giã Tổ Hoàng Bích. Tổ hỏi:
- Thầy đi đâu?
Thiền sư nói:
- Nếu không phải đi Hà Namthì đi Hà Bắc.
Tổ liền đánh. Thiền sư nắmTổ lại không cho Tổ đánh tiếp, rồi thụi Tổ một cái. Tổ cười lớn và gọi: - Thị giả, đemthiền trượng và kỷ án của sư ông Bách Trượng đến đây cho ta.
Thiền sư nói:
- Thị giả, đemlửa tới đây cho ta.
Tổ Hoàng Bích nói:
- Nói gì thì cứ nói, nhưng con hãy mang những thứ này theo với con. Sau này con sẽ có thể ngồi trên lưỡi của thiên hạ cho xem. Sau này, Quy Sơn có dịp hỏi Ngưỡng Sơn:
- LâmTế có hơi bất nghĩa với Hoàng Bích không?
Ngưỡng Sơn nói: ‘Không.’
Quy Sơn nói: ‘Nghĩa là thế nào?’
Ngưỡng Sơn nói: ‘Biết ơn mới có thể đền ơn.’
Quy Sơn nói:
- Từ xưa tới nay đã có trường hợp nào như thế chưa?’
Ngưỡng Sơn:
- Có chứ, nhưng chuyện đã xảy ra quá xưa rồi, mình không muốn nhắc đến.
Quy Sơn:
- Tuy nhiên tôi vẫn muốn nghe. Nói đi.
Ngưỡng Sơn:
- Trong hội Lăng Nghiêm, thầy Anan tán thán Bụt: ‘Đemhết thân tâmnày ra để cứu độ chúng sinh trong các cõi nhiều như vi trần thì mới gọi là báo đáp được ân đức của Bụt.’Đó chẳng phải là báo ân sao?
Quy Sơn nói:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Cái thấy của mình ngang bằng cái thấy của thầy làmcho mình chỉ có được một nửa uy đức tâmlinh của thầy. Cái thấy của mình nếu hơn cái thấy của thầy thì mình mới xứng đáng là sự tiếp nối của thầy.
Thiền sư đến thămtháp của Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Vị tháp chủ hỏi:
- Hòa thượng lễ Bụt trước hay lễ Tổ trước?
Thiền sư đáp:
- Tôi không lễ Bụt mà cũng không lễ Tổ.
Tháp chủ:
- Bụt và Tổ có oán cừu gì với hòa thượng mà hòa thượng không lễ?
Thiền sư liền phất tay áo ra đi.
Trong một chuyến hành cước, thiền sư ghé đạo tràng của thiền sư Long Quang. Khi Long Quang lên pháp đường, thiền sư ra hỏi: - Không đưa mũi giáo ra, làmsao để chiến thắng?
Long Quang cứ ngồi yên. Thiền sư nói:
- Làmkẻ thiện tri thức lớn mà không thi triển phương tiện quyền xảo gì hết sao? Long Quang trừng mắt nhìn thiền sư, nói: ‘Hừ!’
Thiền sư lấy tay chỉ Long Quang và nói:
- Ông già này hômnay thua cuộc rồi!
Thiền sư đến TamPhong. Hòa thượng Bình hỏi:
- Từ đâu tới?
- Từ đạo tràng Hoàng Bích.
Bình nói:
- Hoàng Bích có nói gì không?
Thiền sư nói:
- Hôm qua trâu vàng lâm khốn đốn
Đến nay chửa thấy vết chân nào.
Bình nói:
- Gió thu lồng sáo ngọc
Ai chính kẻ tri âm?
Thiền sư:
- Vạn trùng quan san đà vượt thấu
Mà không ở lại chốn trời xanh.
Bình: ‘Câu hỏi của thầy hơi cao đấy.’
Thiền sư:
- Rồng sinh ra Kim phụng
Phá vỡ trời lưu ly.
Bình: ‘Thôi ngồi xuống uống trà đi.’Rồi hỏi:
- Mấy hômtrước đây, thầy ở đâu?
Thiền sư:
- Tôi ở đạo tràng Long Quang.
Bình: ‘Long Quang gần đây ra sao?’
Thiền sư liền bỏ đi ra.
Thiền sư đến viếng đạo tràng của thiền sư Đạo Từ. Đạo Từ đang ngồi trong phương trượng. Thiền sư hỏi: - Ngồi yên trong thất thì thế nào?
Từ đáp:
- Xanh xanh tùng đứng ngàn đông lạnh
Tay già hoa nở vạn miền xuân.
Thiền sư:
- Viên trí xưa nay từng siêu việt
Ba non mở được vạn trùng quan.
Từ bèn hét. Thiền sư cũng hét.
Từ hỏi: ‘Thế nào?’Thiền sư phất tay áo bỏ ra.
Thiền sư đến Nhượng Châu, gặp thiền sư Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêmgiả bộ dựa trên chiếc gậy để ngủ. Thiền sư nói:
- Hòa thượng, ngủ làmgì?
Nghiêmnói:
- Vị thiền khách này không giống những vị thiền khách khác. Thiền sư nói:
- Thị giả! Đemtrà lại mời hòa thượng.
Thiền sư Hoa Nghiêmmới gọi thầy Duy Na tới, dặn:
- Sắp cho vị thượng tọa này ngồi ở ghế thứ ba.
Thiền sư đến thămthiền sư Túy Phong. Túy Phong hỏi: - Thầy từ đâu tới?
- Từ đạo tràng Hoàng Bích tới.
- Hoàng Bích có nói câu gì để khai thị cho người ta không? - Hoàng Bích không nói câu gì cả.
- Tạisao lại không được?
- Dù có nói thì cũng không lặp lại được.
Túy Phong nói: ‘Cứ thử lặp lại xem.’
Thiền sư nói: ‘Một mũi tên bay vào trời Tây.’
Thiền sư đến thămthiền sư Tượng Điền, hỏi:
- Không phải phàmmà cũng không phải thánh, thầy thấy sao nói liền đi. Tượng Điền nói:
- Ông thầy già này chỉ như thế này thôi.
Thiền sư liền hét và nói:
- Một bọn trọc đầu đông đảo tới đây để mong tìmđược cái chén bát nào? Thiền sư đến thămthiền sư Minh Hóa. Minh Hóa hỏi:
- Đi đi tới tới hoài như thế để làmcái gì?
Thiền sư nói:
- Chỉ để cho mòn đôi giép cỏ.
Minh Hóa hỏi:
- Cuối cùng để làmgì?
Thiền sư nói:
- Ông già này chẳng biết thế nào là trò chuyện cả sao?
Thiền sư đi thămthiền sư Phụng Lâm, nửa đường gặp một bà già. Bà hỏi: - Thầy đi đâu?
Thiền sư: ‘Tôi đi thămPhụng Lâm.’
Bà nói: ‘Lúc này Phụng Lâmkhông có nhà.’
Thiền sư: ‘Thế Phụng Lâmđi đâu?’
Bà già bước đi. Thiền sư gọi: ‘Này bà!’Bà quay đầu lại, thì bị thiền sư đánh. Thiền sư tới Phụng Lâm. Phụng Lâmhỏi:
- Tôi có chuyện muốn hỏi. Được không?
Thiền sư nói:
- Làmsao xẻ thịt gây vết thương?
Lâm:
- Biển lặng trăng không bóng
Cá đớp vì tự mê.
Thiền sư:
- Trăng biển đã không bóng
Cá lội làm sao mê?
Lâm:
- Thấy gió biết sóng dậy
Nhìn nước biết buồm xuôi
Thiền sư:
- Một vầng chiếu rọi non sông lĩnh
Cười lên một tiếng đất trời kinh
Lâm:
- Muốn đem ba tấc soi trời đất
Đối cơ một cú nói lên xem
Thiền sư:
- Gặp người kiếm khách nên trình kiếm
Chẳng phải người thơ chẳng tặng thơ
Nghe như thế, Phụng Lâmmới thôi. Thiền sư lúc ấy lại nói một bài kệ tụng: Đạo lớn đại đồng
Đừng ngó tây đông
Lửa đá không kịp
Chớp lòe chẳng thông.
(Sau này) Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- ‘Lửa đá không kịp, chớp lòe chẳng thông’, xưa nay các bậc thánh tăng lấy gì để giúp người?
Ngưỡng Sơn: ‘Thầy nghĩsao?’
Quy Sơn: ‘Chỉ có ngôn thuyết, không có ý nghĩa gì thật.’
Ngưỡng Sơn nói: ‘Không phải thế đâu!’
Quy Sơn: ‘Vậy thì thầy hiểu thế nào?’
Ngưỡng Sơn nói:
- Chính thức, thì một cây kimkhông lọt vào được. Tư riêng thì xe ngựa đều có thể chạy qua.
Thiền sư đến thămthiền sư KimNgưu. Trông thấy thiền sư, KimNgưu đưa ngang cây gậy ngồi xổmchận đường vào cửa. Thiền sư lấy gậy đập xuống ba cái và đi vào trong pháp đường, ngồi vào ghế thứ nhất. KimNgưu vào thấy thế hỏi:
- Thói thường thì khi chủ khách gặp nhau, mỗi người đều thực tập uy nghi. Thượng tọa từ đâu tới mà hành xử vô lễ như thế? Thiền sư nói:
- Hòa thượng đang nói cái gì thế?
KimNgưu sắp mở miệng thì bị thiền sư đánh một cái. KimNgưu giả bộ ngả xuống. Thiền sư lại đánh thêmmột cái nữa. Ngưu nói: - Hômnay tôi không gặp may.
Sau này Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Trong hai vị tôn túc ấy có ai thắng ai bại không?
Ngưỡng Sơn nói:
- Thắng thì thắng hết, bại thì bại hết.
Lúc sắp thoát hóa, thiền sư ngồi trên đơn và nói:
- Sau khi tôi chết, đừng để cho chánh pháp nhãn tạng của tôi bị tiêu diệt, nghe không.
Thầy TamThánh bước ra thưa:
- Chúng con sẽ không dámlàmcho chánh pháp nhãn tạng của thầy tiêu diệt đâu.
Thiền sư hỏi:
- Thế thìsau này có người đến hỏi thầy, thầy sẽ trả lời người ấy làmsao?
TamThánh liền hét.
Thiền sư nói:
- Có ai ngờ rằng chính con lừa mù này sẽ làmcho chánh pháp nhãn tạng của tôi bị tiêu diệt hay không? Nói xong, ngồi đoan nghiêmmà thị tịch.
Thiền sư tên húy là Nghĩa Huyền, họ Hình, người NamHoa thuộc quận Tào Châu. Hồi còn nhỏ đã thông minh khác thường. Lớn lên nổi tiếng là có hiếu. Sau khi xuất gia rồi thọ Giới Lớn, được cư trú tại học viện, có dịp học hỏi và nghiên cứu giới luật, và bác lãmvề Kinh Luận. Nhưng một hômsư than thở: ‘Tất cả những thứ này đều là phương thuốc độ đời, không phải là tinh hoa được truyền lại từ ngoài kinh và giáo (giáo ngoại biệt truyền). Liền khoác áo du phương, ban đầu tới học với thiền sư Hoàng Bích. Sau đó lại đi yết kiến thiền sư Đại Ngu. Những cơ duyên và ngữ cú này đều có ghi chép ở phần hành lục. Sau khi được thiền sư Hoàng Bích ấn chứng, thiền sư liền tìm lên Hà Bắc, cư ngụ tại vùng Đông Namthành Trấn Châu, tiếp cận bờ sông Hô Đà, trụ trì tại một thiền viện nhỏ. Tên LâmTế là do cuộc đất mà được đặt ra. Lúc bấy giờ thiền sư Phổ Hóa đã có mặt ở đấy rồi, khùng khùng điên điên trong nhân gian, là thánh hay phàmchẳng ai biết được. Thiền sư tới đó thì trước hết phụ tá cho Phổ Hóa. Khisự nghiệp hóa độ của thiền sư bắt đầu hưng thịnh thì Phổ Hóa thoát hóa toàn thân, rất phù hợp với lời tiên đoán của thiền sư Ngưỡng Sơn về sự xuất hiện của một ‘Tiểu Thích Ca.’Gặp thời chiến tranh, thiền sư liền bỏ nơi ấy ra đi. Quan Thái Úy Mạc Quân Hòa biến ngôi nhà trong thành của mình thành ra một ngôi chùa cũng lấy tên là chùa LâmTế và mời thiền sư đến cư trú ở đấy.
Sau đó thiền sư phất áo đi về phương Namtới phủ Hà Bắc. Quan Thường Thị họ Vương là phủ chủ đã tôn kính tiếp mời thiền sư như một vị đạo sư của mình.
Ở đấy không lâu, thiền sư về chùa Hưng Hóa ở phủ Đại Danh và ở tại tăng đường phía Đông. Một hôm, không bệnh tật gì, thiền sư vén áo ngồi yên, nói chuyện với đệ tử là TamThánh vài câu, rồi imlặng qua đời. Đó là ngày mồng mười tháng giêng nămĐinh Hợi, niên hiệu HàmThông thứ támđời Đường. Môn đồ đemtoàn thân thiền sư nhập tháp ở phía Tây Bắc phủ Đại Danh. Vua sắc ban cho thiền sư tên thụy là Tuệ Chiếu Thiền Sư, tháp hiệu là Trừng Linh.
Nay chắp tay cúi đầu ghi lại đại lược.
Tiểu sư nối dòng pháp là Bảo Thọ ở Trấn Châu hiệu là Diên Chiểu kính ghi chép.
Tinh yếu Lâm Tế Lục
Trong LâmTế Lục, Tổ có nói rằng mục đích của Tổ là đánh phá, trị bệnh và cởi trói. Như vậy thì mục đích của Tổ không phải là đưa ra những tư tưởng uyên áo để chúng ta học hỏi, đàmluận và mắc kẹt vào đấy. Vì vậy nếu ta học LâmTế Lục với mục đích tìmcầu những tư tưởng uyên áo để đàmluận và để mắc kẹt vào chúng là ta đã đi ngược với ý của Tổ. Những giáo lý và những phương tiện thi thiết của người xưa (người xưa ở đây là Bụt và Tổ) sẽ trở thành những cái bẫy sập giamhãmta, vì vậy ta hãy cẩn thận, hãy nhớ tất cả những thi thiết ấy, dù là tamthân, thập địa, thế giới hoa tạng hay tịnh độ..., trước hết đều là những giả danh (Tổ gọi là danh từ suông, văn cú, chữ nghĩa). Nếu ta mắc kẹt vào những thi thiết ấy, cho chúng là những thực tại khách quan có mặt ngoài ta, là ta đã bịsa vào bẫy sập.
Ta không nên đi tìmcầu Bụt, Tổ, Bồ Tát, tamthân, thập địa, thế giới hoa tạng, lầu các của Di Lặc ngoài ta. Ta phải chấmdứt mọi tìmcầu. Phải ngưng sự tìmcầu ngay và hãy trở về bản thân trong giây phút hiện tại. Bản thân trong giây phút hiện tại chứa đựng tất cả những gì ta muốn tìmcầu: pháp thân, bát nhã, giải thoát, Bụt, Tổ và các cõi nước trang nghiêm. Bản thân ở đây không hẳn là nămuẩn, vì nămuẩn
vô thường có đó không đó. Nhưng bản thân cũng không phải là một cái gì có thể nhận thức ngoài nămuẩn, bởi vì nhờ có nămuẩn nương nhau mà ta nhận diện được bản thân ấy vốn là con người thật của chính ta. Con người thật ấy là chân tâmsáng chói có diệu dụng nhận diện và tiếp xúc với mọi mầu nhiệmcủa sự sống: Tổ gọi đó là cái tinh minh sáng rỡ biểu hiện thành sáu đạo thần quang: khả năng thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạmvà tư duy. Nămuẩn là vô thường nhưng bản tâmbiểu hiện nhờ nămuẩn là con người thật của ta thì không sinh, không diệt, không có, không không, vượt thoát mọi khái niệm. Đó là con người thật không có vị trí (nghĩa là không thể được đồng nhất với một uẩn trong nămuẩn hoặc cả nămuẩn). Con người thật đó là Bụt. Bụt không phải là một thực thể có ngoài con người thật đó. Bụt và chúng sinh không phải là hai thực thể riêng biệt (Phật sinh vô nhị). Nếu không thấy được điều này, nếu không có đức tin vững chãi nơisự thật này, thì không bao giờ chấmdứt được sự tìmcầu, phóng thể, vẫn không dừng lại được để làmmột con người vô sự, vẫn còn có khuynh hướng chán phàmyêu thánh, vẫn chưa có được hạnh phúc và an vui thật sự.
Người nào có khả năng vận dụng được cái tâmsáng chói và sáu đạo thần quang kia thì có thể ngay tại đây trong giờ phút này tiếp xúc được với thế giới hoa tạng, với tamthân, với hằng sa Bụt và Bồ tát, có thể ứng thân hiện vật, độ đời, giúp người, và thấy rằng tất cả những cảnh giới này cũng đều là những hình ảnh phản chiếu (quang ảnh) của cái tâmsáng chói và mầu nhiệmkia.
Mẫu người lý tưởng trong đạo Bụt nguyên thỉ là vị La hán, mẫu người lý tưởng trong đạo Bụt đại thừa là vị Bồ tát, còn mẫu người lý tưởng trong thiền LâmTế là con người vô sự. Con người vô sự là con người không chạy theo nắmbắt bất cứ một cái gì nữa cả, dù đó là Bụt, là Tổ, là Niết bàn, là Tamthân, là Tịnh độ. Con người vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc vào một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một cái gì có thể kéo đi, kể cả lý tưởng độ sinh, cứu đời. Bởi vì lý tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt mình chạy đi tìmcầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất cái tâmsáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn là nguồn gốc của tất cả chư Bụt và các Phật độ.
Bụt không phải là đối tượng tìmcầu của ta, đừng lấy Bụt làmmục tiêu lý tưởng của mình, đừng cho Bụt là một thực thể tồn tại ngoài ta.
Hình ảnh của ta xây dựng trong đầu về Bụt không phải là Bụt. Bụt ấy có sinh, có trú, có hoại, có diệt, Bụt ấy không đáng là hình ảnh lý tưởng mà ta chạy theo. Bụt ấy là một bóng Ma, gọi là Ma Bụt, có thể hớp hồn ta, vì vậy gặp Ma Bụt ta phải chémđầu liền, gặp Ma Tổ cũng vậy, ta cũng phải chémđầu. Ta phải chémđầu tất cả các loài Ma, bởi vì tất cả những tạo dựng của trí óc, tất cả những thi thiết của cổ nhân chỉ có giá trị của thuốc hay trị bệnh, nếu ta xemnhững cái đó là những thực tại có thật biệt lập ngoài ta, không phải là những phương tiện chữa trị các căn bệnh si mê, thamái, sân hận và tìmcầu của ta thì chúng trở thành chướng ngại, trở thành bẫy sập, vì vậy ta phải chặt đầu chúng mỗi khi chúng xuất hiện.
Con người thật, con người vô sự không bao giờ bị cảnh vật lôi kéo, vì vậy luôn luôn giữ được tự do. Cảnh giới Ma không lôi kéo mình được đã đành, cảnh giới Bụt cũng không lôi kéo mình được. Tại vì mình đã thấy rằng Ma và Bụt tương tức, Ma và Bụt bất nhị, đó là bệnh và thuốc có mặt một lần để trị nhau, để nương nhau. Con người vô sự vì thế thấy Ma cũng mỉmcười và thấy Bụt cũng mỉmcười. Con người vô sự có thể đánh dẹp được cả Ma và cả Bụt.
Tổ khuyên mọi người đừng ỷ lại vào kẻ khác, dù họ tự gọi là Bụt, là Tổ, là đại thiền sư, là thánh tăng, đừng đi tìmkiến giải nơi từ chương, nơi kinh điển, nơi văn cú, đừng kẹt vào các danh từ, đừng hy vọng tìmgiải thoát và trí tuệ nơisự học hỏi và nghiên tầmkinh điển. Tìm giải thoát và giác ngộ nơisự nghiên tầmkinh điển cũng như hy vọng tìmđược những giọt nước mát trong một bộ xương khô. Giáo điển chỉ là những bộ xương khô. Phải trở về giây phút hiện tại, vận dụng cái tâmsáng chói đang có mặt ngay tại đây thì mới có thể tiếp xúc được với giải thoát và giác ngộ, tiếp xúc được với Bụt và Tổ đang là những thực thể sống động nơi giây phút này.
Người tu đạo không cần phải dụng công mệt nhọc. Đừng đày đọa thân thể và tâmtrí bằng cách chạy đi tìmcầu. Trong tinh thần vô đắc mình phải thấy rằng mình đã là cái mình đang tìmcầu rồi, cũng như đợt sóng tự biết mình là nước, có thể ngưng ngay lạisự bôn ba đi tìm nước. Phương pháp thực tập là dừng lại, bởi vì giây phút hiện tại nào cũng là giây phút trở về ngôi nhà đích thực của chính mình, từ bước chân, hơi thở cho đến hành động ăn cơm, mặc áo, uống nước, đi cầu. Không cần đi đâu hết, không cần làmgì nữa. Cái mà mình đi tìmđã có sẵn ngay ở đây. Vì vậy mình có thể thực sự là một người vô sự. Nếu mình tiếp tục đày đọa thân tâmvìsự thực tập, vìsự tìmcầu, vìsự nghiên cứu, vìsự dụng công khổ nhọc của mình thì mình đi ngược với con người của Tổ và của Bụt, và mình cách xa với Tổ và Bụt như trời xa cách đất.
Con người vô sự là con người tự do, ở đâu cũng làmchủ được mình. Nếu mình có được cái thấy chân thật (kiến giải chân chính) thì mình không còn bị kẹt vào những tướng sinh, trú, dị, diệt của vạn pháp, kể cả những tướng sinh, trú, dị, diệt của Bụt Thích Ca, và vì vậy mình cũng không bị kẹt vào hóa thân Bụt. Dù sự vật quanh mình và chính bản thân nămuẩn của mình có đang đi ngang qua những tướng sinh, trú, dị, diệt ấy mình cũng không trở thành nạn nhân của sự buồn vui hay thương ghét. Mình không bị cảnh đoạt. Mình luôn luôn đứng vào vị trí chủ động, đứng vững trong chánh kiến của mình và không trở nên nạn nhân của hoàn cảnh, của kẻ khác, không than phiền rằng hoàn cảnh như thế đó, người ta như thế đó cho nên tôi đã phải như thế này. Mình chuyển được hoàn cảnh mà hoàn cảnh không thể chuyển được mình. Mình luôn luôn là con người thật của mình trong bốn động tác đi, đứng, nằm, ngồi, mình không cần phải đóng kịch, dù là đóng vai giải thoát, đóng vai giác ngộ, đóng vai đại thiền sư. Cái này gọi là ‘tùy xứ tác chủ, lập xứ đắc chân’. Con người
thật có nghĩa như thế.
Vì mình có khả năng sống với con người thật của mình cho nên mình không cần phải làmdáng làmđiệu. Mình đâu có cần phải chứng tỏ mình là giải thoát, là giác ngộ. Mình có thể sống một cuộc sống bình thường, mình chỉ cần làmmột con người bình thường. Con người bình thường này là con người vô sự, có giá trị cao hơn cả những vị Bồ tát tự xưng là đang đi trên con đường viên đốn, đang đi ngang qua mười địa, đang đi vào tịnh độ, tại vì các vị này vẫn còn mang theo tâmniệmyêu thánh, ghét phàm, vẫn còn cái nhìn nhị nguyên, vẫn còn đi tìmcầu, chưa dừng lại được. Con người vô sự mới đích thực là con người đáng được chư thiên ca tụng, được địa thần nâng gót, được chư Bụt muôn phương xưng tán. Tại vì con người vô sự là con người hoàn toàn tự do, vô tướng, không làmdáng làmđiệu, không cần để lại vết tích gì.
Con người vô sự này chính là Bụt, là Tổ đích thực. Ngay trong giờ phút này, con người (vô sự) ấy đang ở trên quê hương của mình, không cần đi tìmcầu gì nữa. Ngay trong giờ phút này, con người ấy có thể ứng thân hiện vật, thể hiện thần thông, tiếp xúc với chư Bụt mười phương, rong chơi nơi mọi cõi nước, và dù nămuẩn của mình vẫn còn là nămuẩn có sinh có diệt, người ấy vẫn có thể ngay trong giờ phút hiện tại, biểu diễn được phép thần thông là đi an lạc ngay trên mặt đất (địa hành thần thông). Người ấy không cần đi đâu hết, không cần phải ra khỏi tamgiới. Tamgiới đối với người ấy chỉ là quang ảnh. Người ấy có tự do cho nên người ấy thảnh thơi ngay tại nơi này, những yếu tố của tamgiới là dục, sắc và vô sắc không động được người ấy.
Tổ LâmTế rất có ý thức là những lời nói của Tổ chỉ là những phương tiện đánh phá, cởi trói và trị bịnh nên Tổ không muốn chúng ta xem những lời nói ấy là khuôn vàng thước ngọc để học hỏi và tôn thờ. Tổ dạy rằng những lời Tổ nói chỉ là những bức vẽ được thực hiện trong hư không, chúng ta đừng bị kẹt vào chúng. Tổ dạy: Để độ đời, có khi ta phải mặc đủ thứ áo: áo thanh tịnh, áo giải thoát, áo giới luật, áo vô phân biệt... Thấy những chiếc áo ấy người ta phát sinh kiến giải rồi bị mắc kẹt vào những kiến giải ấy. Vì vậy có khi ta phải cởi hết áo ra, để cho người ta thấy được con người. Con người có thể mặc áo. Nhưng con người không phải là áo. Chỉ khi nào thấy được con người, ta mới tiếp xúc được với con người, và với con người trong ta, và chỉ lúc ấy ta mới buông bỏ được tất cả những gông cùmmình từng mang lấy xưa nay, những gông cùmdo cổ nhân (Bụt, Tổ) thi thiết và đemtới. Thấy được con người thật, họ mới đạt được quả vị vô sự.
Không nên đi tìmVăn Thù trên Ngũ Đài Sơn, không nên đi tìmQuan Âmngoài biển NamHải, không nên đi tìmPhổ Hiền ở Nga Mi Sơn. Các vị làmgì có mặt trên đó. Các vị đang có mặt tại đây, trong giờ phút này trước mặt chúng ta, trong tâmchúng ta. Phải tiếp xúc với các vị ngay trong giờ phút này. Nếu thất bại thìsẽ thất bại mãi mãi trong tương lai, tại vì Văn Thù, Phổ Hiền và Quan Âmkhông có trong tương lai và không thể tiếp xúc được trong tương lai. Ta là kẻ đại trượng phu, tạisao ta phải đi tìmVăn Thù, Phổ Hiền và Quan Âmngoài ta. Ta chính là Văn Thù, Phổ Hiền và Quan Âmngay tại đây, trong giây phút hiện tại.
Từ bỏ sự tìmkiếmbên ngoài không phải là để bắt đầu một sự tìmkiếmbên trong. Cái mà ta tìmcầu bên ngoài đã không có thì bên trong làmgì có! Trong và ngoài chỉ là hai ý niệm. Động cũng không phải là nó mà Tĩnh cũng không phải là nó. Đừng tưởng Tĩnh là cửa ngỏ và bức màn vén cho ta thấy sự thật. Sự thật vượt ra ngoài động và tĩnh, vượt ra khỏi trong và ngoài. Công án cũng như mặc chiếu đều là sự
tìmcầu, không thể đưa ta tới trạng thái vô sự.
Để độ người, ta có thể hoặc đoạt cảnh, hoặc đoạt nhân, hoặc đoạt cả cảnh và nhân, hoặc không cần đoạt cái gì hết. Đoạt cảnh là giúp cho người ta chấmdứt sự tìmcầu bên ngoài. Con chó có Phật tính không, đại ý của Phật pháp là gì, chủ ý của Tổ Đạt Ma là gì? Tất cả những cái ấy đều là bẫy sập. Tìmhiểu tất cả những cái đó không có ích lợi gì cho sự thực hiện tùy xứ tác chủ, lập xứ đắc chân cả. Phải đoạt tất cả những cảnh đó. Nếu cần thì đánh. Nết cần thì hét. Nhưng học nhân có thể trở về và mắc kẹt vào chủ thể nhận thức, nghĩ rằng
mình đã thoát được đối tượng nhận thức. Nhưng chủ thể làmgì có, nếu đối tượng không có? Cho nên đoạt cảnh xong cũng phải đoạt người. Đoạt cảnh mà giúp người ta đừng kẹt vào người thì hay rồi, nhưng nếu người ấy còn kẹt vào nội hướng, vào chủ thể thì phải đoạt luôn. Có khi đoạt người có thể giúp kẻ kia thoát luôn cả cảnh cùng một lúc. Đó là những phương tiện đánh phá, cởi trói, trị bệnh, có gì là thần kỳ bí hiểm?
Kiến giải chân chính không phải là kết quả của công phu nghiên tầmhọc hỏi. Kiến giải chân chính là cái thấy sâu sắc về tính không sinh không diệt, không người không ta, không có không không của vạn pháp. Thấy được là thấy ngay, không thấy được thì có nói qua nói lại nhiều lần cũng vô ích. Cho nên đệ nhất cú, câu khai thị đầu, là cơ hội duy nhất. Đánh mất cơ hội này thì đánh mất hết. Đệ nhị cú là sự vớt vát. Đệ nhị cú chỉ là sự an ủi. Đệ tamcú là sự thất bại hoàn toàn. Tứ liệu giản không có gì bí hiểmthì tamhuyền, tamyếu cũng như tiếng
hét và cây gậy, cũng không có gì là bí hiểm. Trong quá trình học hỏi và tu chứng, công phu thamvấn được dựa trên nguyên tắc chủ và khách. Chủ đáng lý là phải độ được khách. Chủ là người thiện tri thức và khách là người đến thamvấn. Có khi khách giúp được chủ. Có khi khách giúp được khách. Có khi chủ giúp được khách. Có khi chủ giúp được chủ. Có khi chủ và khách đều giúp được nhau. Có khi chủ và khách làmhại cho nhau. Đó là những trường hợp ta có thể nhận diện nếu ta có được trực giác của chánh kiến. Cũng không có gì là bí hiểmtrong tứ tân chủ.
Tuệ giác không phải là kiến thức khái niệm. Tuệ giác có khả năng mang tớisống động và tự do trong giây phút hiện tại. Kiến thức không làmđược việc ấy. Vì vậy cho nên không hiểu thì bị đòn đã đành mà hiểu cũng bị đòn như thường, nếu ‘hiểu’ chỉ là kiến thức suông mà không phải tuệ giác. Nếu thấy được điều này, ta có thể cảmthông được với những gì đang xảy ra trong các cuộc đối diện: Ta không nên cố tìmtrong các mẫu đối thoại và hành xử (khámbiện) ấy những tư tưởng đặc thù hoặc những ý chỉsâu sắc. Những gì ta thấy đang xảy ra giữa các đương sự là cơ hội của họ. Nếu đứng ngoài mà quán sát ta sẽ không thấy được gì. Nếu ta bước vào trong, đemhết sự sống của ta ra thamdự thì ta có thể có một cơ hội để tuệ giác bừng mở. Nếu bước vào trong mà ta không cảmđược một cái gì hết, thì có nghĩa là trường hợp đó không phải là trường hợp của ta, thế thôi. Cũng như khi ta đứng ngắmmột bức tranh siêu thực, ta đừng cố tìmhiểu nghĩa lý. Ta đừng nói là ‘ta không hiểu’. Hiểu hay không hiểu ta cũng lãnh ba mươi gậy như thường. Tổ không có ý muốn khuyên ta chấmdứt sự học hỏi và thực tập giới, định và tuệ. Tổ chỉ muốn ta đừng mắc kẹt vào sự học hỏi và thực tập mà thôi. Học hỏi để trở thành học giả, tamtạng pháp sư, thuyết giảng thao thao bất tuyệt, Tổ không cần cái đó. Cái đó Tổ gọi là nghiệp địa ngục. Bản chất của nó là sự tìmcầu, không hẳn là sự tìmgiải thoát mà là sự tìmcầu danh lợi. Ta cần học hỏi, ta cần hành trì, nhưng sự học hỏi và hành trì ấy phải có tác dụng giúp ta trở thành con người vô sự, con người giải thoát. Bằng không, những học hỏi và những thực tập đó chỉ là gông cùm.
Con người vô sự là con người tùy xứ tác chủ nên không phải là con người thụ động. Trái lại, người ấy luôn luôn đứng về phía chủ động. Ta không thể nào nói rằng: nếu người tu đạo không theo đuổi một chí hướng, không thao thức thực hiện một lý tưởng, không có mục đích theo đuổi, thì aisẽ là người tế độ chúng sinh, cứu vớt những loài đang chìmđắmtrong biển khổ? Bụt là một người vô sự, không tìm kiếmmột cái gì. Nhưng Bụt là một người hoạt động độ sinh không ngừng nghỉ. Con người vô sự tuy rất tích cực trong việc giúp đời độ người, nhưng không bao giờ bị kéo theo hoàn cảnh và công việc, không bao giờ đánh mất mình trong mong cầu, trong dự án, trong công việc. Con người vô sự luôn luôn còn là mình, còn tự do, không bao giờ bị ‘burn out’(hết xí quách), cho nên con người vô sự còn mãi thong dong. Tổ khuyên chúng ta: đừng chạy theo danh lợi, đừng chạy theo sự nghiệp, đừng bỏ thì giờ mua vui, đừng hamxây cất chùa lớn, đừng vận động làmtăng thống, đừng cố thi đậu bằng tiến sĩ, đừng mong cầu chức vụ đại thiền sư. Chỉ cần mỗi ngày một bát cơm, một manh áo, một chiếc giường nhỏ. Để thì giờ để sống thật với mình, để trở thành một con người vô sự, giải thoát thật sự. Tất cả những công phu học hỏi và tu tập đều phải giúp cho mình trở nên thong dong, đemlại hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Nếu không làm được như vậy, thì tất cả đều chỉ là gông cùm. Con người thật của ta, vô vị chân nhân, cũng như con người thật của Bụt, đang có mặt đích thật trong giờ phút hiện tại. Hãy trở về vận dụng cái tâmsáng chói vớisáu đạo thần quang để nhận diện nó. Nó không phải là sáu trần đang mang tính thành, trú, hoại, không. Nó không phải là một vật, vì vậy gọi nó là một vật thì không đúng. Nhưng nó đang có mặt kia, và ta chỉ cần nhận diện nó.
Phần Bình Giảng
Dạy Chúng
Thiền Sư dạy: Thời bây giờ, người học Phật cần phải có chánh kiến. Có chánh kiến rồi thìsanh tử không còn động được tới mình nữa, lúc ấy ở và đi đều tự do, không cần đi tìmcáisiêu việt mà cáisiêu việt tự tìmtới mình.
Nguyên văn là kiến giải chân chính, ở đây dịch là chánh kiến. Cáisiêu việt tức là cái không sinh không diệt, không tới không đi, là đại trí đại bi.
Này các bạn tu (đạo lưu), các vị cổ đức ngày xưa vị nào cũng đều có hiến tặng con đường thoát cho người, còn chỗ chỉ dạy của ông thầy tu núi này chỉ là khuyên các vị đừng có để cho người ta làmmê hoặc. Sử dụng được lời khuyên này thì hãy sử dụng liền, đừng có chần chừ nghi hoặc. Người tu học thời nay nếu không thành đạt được, đó là vìsao? Đó là vì họ không có đức tự tin. Bởi vì quý vị không đủ đức tự tin cho nên quý vị cứ bận rộn (gấp gáp) chạy theo hàng vạn thứ hoàn cảnh bên ngoài rồi bị các hoàn cảnh ấy xoay chuyển làm mất hết tự do. Nếu quý vị ngừng được những tư tưởng chạy đuổi tìmcầu ấy lại thì quý vịsẽ thấy giữa quý vị và Tổ Phật không có gì khác nhau. Quý vị có muốn biết Tổ Phật là ai không? Tổ Phật chính là quý vị đang đứng trước mặt tôi mà nghe pháp đấy.
Các bạn tu được dịch từ chữ đạo lưu. Đạo là con đường, lưu là chảy. Hình ảnh của một dòng sông đang chảy, nghĩa là những thành phần cùng đi chung một hướng, cho nên đạo lưu dịch là các bạn tu thì phù hợp hơn. Này các bạn tu (đạo lưu), các vị cổ đức ngày xưa vị nào cũng đều hiến tặng con đường thoát cho người. Con đường thoát là những pháp môn, phương tiện. Còn chỗ chỉ dạy của ông thầy tu núi này... Ngài tự xưng là sơn tăng (ông thầy tu núi). Những đoạn sau, chữ sơn tăng được dịch là tôi cho dễ hiểu. Còn chỗ chỉ dạy của ông thầy tu núi này chỉ là khuyên các vị đừng có để cho người ta làmmê hoặc. Câu này rất quan trọng. Người ta làmmê hoặc mình bằng cách gì? Bằng các lý thuyết cao siêu, bằng những điều hấp dẫn..., và mình bị cuốn theo rồi tự đánh mất mình. Cho nên tất cả những gì mình học, mình nghe, mình tìmhiểu phải có tác dụng đưa mình trở về với mình và làmlớn lên khả năng tự do, hạnh phúc, vững chãi và thảnh thơi nơi mình thì mới được. Thiền sư LâmTế là một vị thầy không phải như những vị thầy khác, đây là một vị thầy dámnói thật.
Trong LâmTế Lục, thiền sư LâmTế có nói tới các vị thiền sư khác như những nàng dâu mới về nhà chồng. Sợ bà mẹ chồng không cho ăn cơm, sợ bị đuổi ra khỏi nhà, sợ đói lạnh..., nên không dámnói ra sự thật. Đi tu làmthiền sư hoặc làmtrú trì cũng giống như đi làmdâu của mọi người. Bổn đạo nói gì thì mình phải làmtheo, nếu không bổn đạo đóng cửa chùa và đuổi mình ra không cho ở tu nữa. Thiền sư con dâu là hình ảnh mà thiền sư LâmTế đã dùng để gọi những vị thiền sư, những ông thầy, những sư cô đã làmdâu cho bổn đạo. Đó là tình trạng xã hội trong thời đại của thiền sư LâmTế. Thấy như vậy, thiền sư LâmTế không chấp nhận được và đã có can đảmnói lên sư thật, vì thiền sư chỉ muốn làmmột con người thật (chân nhân).
Này các bạn tu (đạo lưu), các vị cổ đức ngày xưa vị nào cũng đều có hiến tặng con đường thoát cho người, còn chỗ chỉ dạy của ông thầy tu núi này chỉ là khuyên các vị đừng có để cho người ta làmmê hoặc. Sử dụng được lời khuyên này thì hãy sử dụng liền, đừng có chần chừ nghi hoặc.
Đã nghe và biết rồi, nhưng mình vẫn còn yếu đuối chần chừ: ‘Thôi để mai mốt sắp đặt xong, tôisẽ có tự do.’Nhưng không bao giờ mình có tự do. Nếu quý vị có những người quen trong giới xuất gia, quý vị cũng đã biết những thầy cô đó cũng muốn thoát ra cảnh làmdâu cho bổn đạo, nhưng nămnăm, mười năm, mười lămnămvà hai mươi nămđã trôi qua mà họ chưa bao giờ thoát ra được. Cho nên thiền sư LâmTế mới nói:sử dụng được lời khuyên này thì hãy sử dụng liền, đừng có chần chừ nghi hoặc. Chuyện đã xảy ra vào thế kỷ thứ chín, thứ mười, bây giờ cũng còn tiếp diễn trong xã hội thời nay của chúng ta.
Người tu học thời nay nếu không thành đạt được, đó là vìsao? Đó là vì họ không có đức tự tin. Bởi vì quý vị không đủ đức tự tin cho nên quý vị cứ bận rộn (gấp gáp) chạy theo hàng vạn thứ hoàn cảnh bên ngoài rồi bị các hoàn cảnh ấy xoay chuyển làmmất hết tự do. Nếu quý vị ngừng được những tư tưởng chạy đuổi tìmcầu ấy lại thì quý vịsẽ thấy giữa quý vị và Tổ Phật không có gì khác nhau. Quý vị có muốn biết Tổ Phật là ai không? Tổ Phật chính là quý vị đang đứng trước mặt tôi mà nghe pháp đấy.
Ngay trong đoạn này, thiền sư LâmTế khuyên chúng ta trở về nơi chính mình và phải có đức tự tin nơi mình, đừng mặc cảmmình không là gì cả mà chỉ là đau khổ. Nếu áp dụng được thái độ tự tin này thì áp dụng liền. Theo ngôn từ của Làng Mai là trong mỗi chúng ta đều có hạt giống của hạnh phúc, của giác ngộ, của bất sinh bất diệt, và sự học hỏi của chúng ta là làmcho chúng được tưới tẩmvà lớn lên. Những điều chúng ta đi tìmkhông phải ở trong kinh điển hay trong một vị thiền sư. Kinh điển và thiền sư chỉ có khả năng giúp tưới tẩm những hạt giống đã sẵn có trong ta. Không có niềmtin, ta không thể nào tu được. Nếu có mặc cảmlà mình không có giá trị, mình chỉ là con số không, thì mình thấy phải đi tìmkiếmbên ngoài. Đó là thái độ sai lầmcăn bản. Cái ý này được lặp đi lặp lại trong LâmTế Lục bằng nhiều cách.
Khi học LâmTế Lục, ta hình dung ra được một ông thầy đang đứng trước mặt hét lên rằng: ‘Đừng hy vọng! Đừng tìmtới tôi làmgì, đừng tìmkiếmbên ngoài. Những hạt giống hạnh phúc, giác ngộ, vững chãi, thảnh thơi đều sẵn có trong quý vị. Tất cả những gì quý vị làm trong đờisống hằng ngày như nghe pháp, tụng kinh hay pháp đàmlà để giúp cho quý vị trở về với chính mình, tưới tẩmvà làmlớn lên những hạt giống tốt sẵn có trong quý vị. Nếu quý vị cứ đi tìmcầu trong kinh sách, trong thầy, trong bạn..., những điều quý vị cho là mình không có là quý vị đã sai lầm. Quý vị không có đức tự tin, mà không có đức tự tin ở nơi mình thì không thể nào tu được.’
Quý vị có muốn biết Tổ Phật là ai không? Tổ Phật chính là quý vị đang đứng trước mặt tôi mà nghe pháp đấy.
Câu nói này rất cách mạng. Ta phải tìmcho ra con người thật của ta. Con người thật của ta là Tổ, là Phật, đang nằmngay ở trong ta chứ không phải ở đâu xa. Cái thấy của thiền sư LâmTế rất khoa học. Hằng hà sa số chư Bụt và tất cả những quốc độ được nói tới ở trong kinh là những sản phẩmcủa tâmthức, ta không nên đi tìmtrong không gian và thời gian mà chỉ nên đi tìmở trong tâmthức của ta mà thôi. Khi học kinh, học luận hay nghe pháp, ta phải có tự do để đừng bị kéo theo hay bị hấp dẫn bởi những hình ảnh người khác đưa ra. Nếu
không, ta sẽ tự đánh mất mình. Quý vị có biết Bụt Tổ là ai không? Bụt Tổ chính là những người đang ngồi nghe pháp đó, chứ không phải Bụt Tổ nằmtrong quá khứ, không phải Bụt Tổ nằmtrong tương lai, cũng không phải Bụt Tổ nằmở phương trời nào khác; Bụt Tổ ở ngay trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây.
Trong khi lễ lạy, ta phải lễ lạy như thế nào để đừng trở thành con số không, để càng ngày càng có đức tin ở nơi khả năng sống an lạc, hạnh phúc và thảnh thơi của ta. Nếu không, ta trở thành vọng ngoại. Ta nghĩ chỉ có Bụt và Tổ là những người có hạnh phúc và tự do, còn ta thì không có gì cả. Ta chỉ cần đi kiếmchác chút đỉnh bố thí của Bụt, của Tổ để có một chút xíu vững chãi, tự do và may mắn để
sống cho qua được cuộc đời của mình. Đó là thái độ không xứng đáng của người xuất gia. Lạy Bụt như thế nào để thấy người lạy (năng lễ) và người được lạy (sở lễ) là một. Lạy Bụt như thế nào để niềmtin nơi khả năng giác ngộ, khả năng hạnh phúc của mình càng ngày càng lớn. Đó là lời khuyên của thiền sư LâmTế.
Kẻ tu hành mà không có đủ đức tự tin thì cứ hướng ra ngoài mà rong ruổi tìmcầu. Dù mà tìmđược một cái gì thì cái ấy cũng chỉ là những hình thái đẹp đẽ của văn tự mà không phải là cái năng lượng tuệ giác sống động của Tổ sư. Chư vị thiền đức ơi, đừng có lầm! Trong giây phút hiện tại này mà quý vị không gặp gỡ được Tổ Bụt thì trong ngàn vạn kiếp sau quý vịsẽ phải luân hồi trong ba cõi, cứ tiếp tục chạy theo để nắmbắt những cảnh huống dễ chịu để rồisẽ liên tiếp sinh vào trong bụng trâu lừa.
Những hình thái đẹp đẽ của văn tự, là những hình ảnh do văn tự tạo ra. Văn tự cho ta biết rằng Bụt có ba mươi hai tướng chính và tám mươi tướng phụ rất đẹp. Ta nghĩ Bụt là như vậy và ta đi tìmBụt theo hình tướng ấy, và chúng trở thành những cái ta đi tìmcầu. Ta không biết rằng chúng chỉ là những cái vẽ vời của tâmý. Kỳ thực, chúng cũng có thực chất, và thực chất ấy có thể được tìmthấy trong bản thân của chúng ta.
Cơ Đốc giáo vẽ ra hình ảnh của một thiên đường, nơi đó có Thượng Đế đang ngồi với hình thái của một người đàn ông có râu dài. Người đàn ông đó là cha của tất cả mọi loài. Ta gọi người đàn ông đó là God. Father Almighty tức là Thượng Đế toàn năng, hoặc người cha toàn năng. Nếu ai tin vào Thượng Đế, thìsau khi chết, người đó sẽ được về cõi Chúa và được ngồi dưới chân của Ngài. Đó là những hình ảnh
đẹp đẽ của văn tự. Nếu chúng ta đi tìmThượng Đế dưới dạng những hình ảnh đẹp đẽ đó thì chúng ta có thể lầm. Niềmtin đó có phải là ngây thơ không? Có bao nhiêu người được ngồi dưới chân Ngài? Nếu được lên thiên đường, không biết có còn chỗ để cho mình ngồi dưới chân Ngài hay không? Tất cả những điều ấy là những hình thái đẹp đẽ của văn tự.
Cũng như vậy, chúng ta hình dung ra đức Thế Tôn với hào quang sáng chói, có ba mươi hai tướng tốt, támmươi tướng phụ và hàng vạn Báo thân, Hóa thân và ứng thân, và có không biết bao nhiêu vị Bồ-tát vây quanh. Tất cả những cái đó đều là những hình thái của văn tự. Và mục đích tìmcầu của ta là đạt tới những hình thái ấy. TìmBụt ở đâu? TìmThượng Đế ở đâu? Tổ dạy, ta không thể tìmnơi những hình thái văn tự đẹp đẽ ấy. Những người ghi chép Thánh kinh, những người ghi chép kinh Đại Thừa là những nghệ sĩ, các vị ấy đã dùng hình
ảnh và văn tự để diễn tả cái thấy của họ. Nếu kẹt vào những hình ảnh đẹp đẽ của văn tự, suốt đời ta sẽ đi tìmnhững hình ảnh ấy ở bên ngoài, ta sẽ không tìmthấy thực chất của nó và không bao giờ sống được với những thực chất đó cả. Dù tìmđược một điều gìsau bao nhiêu nămhọc hỏi ở Phật học viện, thì cũng chỉ là những hình thái đẹp đẽ của văn tự mà không phải là cái năng lượng sống động của Bụt
Tổ, không phải là điều Bụt Tổ muốn trao truyền.
Chư vị thiền đức ơi, đừng có lầm! Trong giây phút hiện tại này mà quý vị không gặp gỡ được Tổ Bụt thì trong ngàn vạn kiếp sau quý vị sẽ phải luân hồi trong ba cõi, cứ tiếp tục chạy theo để nắmbắt những cảnh huống dễ chịu để rồisẽ liên tiếp sinh vào trong bụng trâu lừa.
Tổ LâmTế có ý nói rằng: ‘Ngay trong giờ phút quý vị đang ngồi nghe pháp đây thì Tổ và Bụt đang ngồi ở trong quý vị. Nếu trong giây phút này mà không tiếp xúc được với Tổ, với Bụt, thì đừng mong tiếp xúc được trong tương lai.’Chúng ta cứ nghĩ là chỉ có thể tiếp xúc được với Bụt và Tổ trong tương lai thôi, không biết rằng giây phút hiện tại là giây phút duy nhất trong đó ta có thể tiếp xúc được với Bụt và Tổ. Nếu thất bại trong giây phút hiện tại, cố nhiên ta sẽ thất bại trong tương lai.
Thử thời bất ngộ nghĩa là trong giây phút bây giờ mà không có cơ duyên gặp gỡ, không có khả năng tỉnh dậy. Chữ ngộ tức là gặp gỡ. Nếu trong giây phút này không gặp gỡ được Tổ và Bụt, thì đừng mong cầu sẽ được gặp gỡ Bụt và Tổ ở trong tương lai. ‘Thử thời’: Chỉ có giây phút hiện tại mới là có thật. Bốn chữ này rất quan trọng. Giây phút hiện tại là giây phút duy nhất. Đừng phóng tâmvề tương lai, trong giây phút hiện tại, ta có thể tiếp xúc được với Bụt và Tổ.
Khi đọc kinh, đọc luận, gặp những chữ căn bản như vậy, ta phải dừng lại vì chúng gói trọn những tinh hoa của kinh và luận. Trong giây phút này, nếu ta đánh mất cơ hội, không tiếp xúc được với Tổ và Bụt thì ngàn vạn kiếp sẽ luân hồi, đầu thai làmlừa làmngựa. Khi nghe một tiếng chuông, ta trở về với hơi thở của ta. Làmthế nào để trong khi nghe tiếng chuông, ta tiếp xúc được với Tổ và Bụt, với thời gian vô cùng và không gian vô tận, có sự thông suốt giữa ta với muôn đời, có sự thông suốt giữa ta với tamthiên đại thiên thế giới.
Sáng hômnay khi có tiếng chuông, tôi đã nghe như vậy đó. Nghe một tiếng chuông phải thấy rõ ràng là mình liên hệ được với giây phút hiện tại. Nó ômlấy hết thời gian vô cùng và không gian vô biên, trong đó có Bụt, có Tổ, có tất cả những mầu nhiệmcủa sự sống. Tiếng chuông là một cơ hội để ta thấy mình là thế giới, là vũ trụ, không có một sự ngăn cách nào, giây phút đó trở thành giây phút bất diệt. Quá khứ, hiện tại, tương lai đều nằmtrong giây phút hiện tại; tamthiên đại thiên thế giới, tất cả các cõi Bụt đều nằmtrong giây phút hiện tại, và ta tiếp xúc được một cách rất dễ dàng. Ta không thiếu gì cả. Đó là thần thông. Thần thông này chỉ cần nghe tiếng chuông là có thể thực hiện được. Khả năng nghe chuông của chúng ta như thế nào thì chúng ta tự biết. Nghe tiếng chuông, buông bỏ hết tất cả những suy tư, trở về với hơi thở và tiếp xúc với thời gian vô cùng, không gian vô biên, thì không có Bụt Tổ nào mà ta không tiếp xúc được trong giờ phút ấy. Giây phút hiện tại là giây phút duy nhất trong đó ta có thể thành đạo, có thể tiếp xúc với Tịnh Độ, tiếp xúc với những mầu nhiệmcủa sự sống. Trong khi đi thiền hành cũng vậy. Mỗi bước chân dẫmlên mặt đất giúp ta tiếp xúc với tamthiên đại thiên thế giới, đem sự sống trở về, làmcho ta tiếp xúc được với Bụt với Tổ. Đi như vậy là thể hiện thần thông. Sau này, ta sẽ thấy danh từ địa hành thần thông của Tổ. Địa hành thần thông nghĩa là đi trên mặt đất là thể hiện thần thông. Điều này cho chúng ta thấy rõ sự thực tập ở Làng Mai dính líu tới lời dạy của Tổ LâmTế sâu sắc đến bực nào.
Này các bạn tu, theo cái thấy của ông thầy tu núi là tôi đây thì quý vị có khác gì đức Thích Ca đâu? Ngày hômnay, trong mọisinh hoạt thường nhật của chúng ta, quý vị còn cảmthấy thiếu thốn điều gì?
Quý vị đi tìmcái gì? Quý vị thiếu cái gì nữa? Quý vị chính là Bụt Thích Ca đó. Ngày hômnay trong mọisinh hoạt hằng ngày, chúng ta còn cảmthấy thiếu thốn điều gì trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, rửa bát, nấu cơm, dọn dẹp thiền đường, thắp hương, lạy Bụt? Chúng ta đang tìmcái gì? Đó là câu hỏi của Tổ.
Có lúc nào mà sáu đạo thần quang của quý vị ngừng chiếu tỏa? Ai mà thấy được như thế thìsẽ suốt đời là một kẻ vô sự.
Người vô sự là một danh từ rất quan trọng của Tổ LâmTế. Vô sự có thể dịch tiếng Pháp là sans affaires. ‘Il n’y a rien à faire, vous êtes libre.’Ta không cần làmgì nữa, không cần theo đuổi một kế hoạch nào nữa cả, ta hoàn toàn tự do. Làng Mai có bài hát:
Happiness is here and now
I have dropped my worries
No where to go, nothing to do
No longer in a hurry
Ta hạnh phúc liền giây phút này
Lòng đã quyết dứt hết âu lo
Không đi đâu nữa, có chi để làm?
Học buông thả, sống trong nhẹ nhàng
Bài hát nói lên ý nghĩa vô sự. Hoàn toàn tự do là tinh thần của giáo lý Vô tác, một trong ba cánh cửa giải thoát ? . Chúng ta còn muốn làm gì nữa? Chúng ta còn thiếu điều gì? Ta chính là Bụt Thích Ca mà ta không biết, cho nên ta mới đi tìmBụt Thích Ca ở ngoài. Chúng ta đã là cái chúng ta muốn. We are already what we want to become. Tại vìsao? Tại vì trong giây phút hiện tại, trong những sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, sáu luồng ánh sáng linh diệu (lục đạo thần quang) luôn luôn chiếu tỏa. Sáu đạo thần quang đó biểu hiện bằng cái thấy, cái
nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạmvà cái tư duy của ta. Nếu biết sử dụng một cách khéo léo sáu đạo thần quang thì ta là Bụt, là Tổ. Trong mỗi giây phút của đờisống hằng ngày, ta có ánh sáng của chánh niệm, ta là người có chủ quyền, ta sử dụng một cách rất tự do sáu luồng hào quang đó. Khi thấy, ta thấy như Bụt; khi nghe, ta nghe như Bụt; khi ngửi, ta ngửi như Bụt..., lúc đó ta là Bụt, là Tổ. Đưa yếu tố chánh niệmvào làmcho chánh định, chánh tuệ biểu hiện ra thìsáu thức trở thành sáu luồng hào quang. Nếu không có niệm, định và tuệ, sáu đạo thần quang đó không tỏa chiếu được. ‘Lục đạo thần quang vị tằng gián hiết’, nghĩa là sáu đạo thần quang đó chưa bao giờ ngừng chiếu tỏa. Ai thấy được điều này, ai khéo tay sử dụng được sáu đạo thần quang, người ấy trở thành một người vô sự.
Vô sự nhân là danh từ mà Tổ LâmTế dùng đi dùng lại nhiều lần. Mục đích của người tu - theo Tổ - là trở thành người vô sự. Người vô sự là một con người tự do, không còn dự án nào, không còn ước mơ nào cần phải thực hiện, tất cả đều tốt đẹp. Chúng ta với Tổ và Bụt không khác, không cần phải đi tìmở chỗ này chỗ kia. Giáo lý và pháp môn của Tổ LâmTế mang màu sắc nhân bản (humanism) rất vững chãi, luôn nhắc nhở mình trở về với con người của chính mình mà không nên đi tìmcầu dù là đi tìmcầu Bụt, Tổ, Thượng đế, hoặc cõi này hay cõi khác. Trở về với chính mình là có đủ tất cả.
Này các vị đại đức, ba cõi không an, giống như nhà lửa, nơi đó không phải là chỗ cư trú lâu dài của quý vị.
‘Tamgiới bất an do như hỏa trạch’, nghĩa là ba cõi không an ổn như căn nhà đang cháy, là hình ảnh ví dụ của kinh Pháp Hoa đưa ra. Tam giới tức là ba cõi: cõi dục, cõisắc và cõi vô sắc. Ta phải tìmcách ra khỏi căn nhà đang cháy đó, tức là ra khỏi tamgiới.
Quỷ vô thường mỗi phút giây đều ra tay sát hại, không phân biệt già trẻ, quý tiện.
Vì vậy ta không nên chần chừ nữa, ta phải hạ thủ công phu, phải trở về với chính mình, phải tiếp xúc được với Bụt, với Tổ để ta có thể trở thành không khác với Bụt và Tổ ngay trong giờ phút hiện tại.
Nếu quý vị muốn không khác với Tổ Phật thì đừng hướng ngoại tìmcầu.
Đừng chạy đi tìmcầu ở ngoài!
Mỗi tâmniệmmà phát ra được ánh sáng thanh tịnh, đó là Pháp thân Bụt đang ở ngay trong nhà của quý vị; ánh sáng vô phân biệt phát ra từ tâmniệmcủa quý vị chính là Báo thân Bụt đang ở ngay trong nhà của quý vị; ánh sáng vô phân biệt phát ra từ mỗi tâmniệmcủa quý vị chính là Hóa thân Bụt đang ở ngay trong nhà của quý vị. Ba thân ấy không là gì khác ngoài quý vị đang đứng trước mặt tôi nghe pháp.
Quỷ vô thường, tức là cái chết (la mort), có biểu tượng là bộ xương tay cầmmột lưỡi hái. Ba thân không nằmở ngoài ta. Nếu ta trở về với tự thân thì có thể tiếp xúc được với ba thân. Ba thân tức là Pháp thân, Hóa thân và Báo thân. Pháp thân là dharmakaya (dharma body), đó là thể. Hóa thân là nirmanakaya (transformation body), là sự biểu hiện của Pháp thân dưới nhiều hình thức. Báo thân là sambhogakaya (body of retribution). Báo thân của Bụt Thích Ca rất đẹp.
Một chiếc lá khi mới nhú ra cuộn tròn trông đã đẹp. Đến khi nó xòe ra cũng đẹp; nó lớn lên xanh rờn cũng đẹp; mùa thu tới, nó vàng đi cũng đẹp, và khi mùa đông đến, nó rụng xuống cũng đẹp. Tất cả chúng ta cũng đều đẹp như chiếc lá. Đó là Báo thân, thân của nghiệp báo. Nhờ công phu tu tập mà thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh và ý thanh tịnh, cho nên mỗi ngày Báo thân của ta càng lộ ra nét đẹp của nó, và ta có thể hưởng thụ được cái đẹp đó, gọi là Tự thọ dụng; những người khác cũng hưởng thụ được cái đẹp đó, gọi là Tha thọ dụng. Thọ dụng nghĩa là nhờ cậy được, sử dụng được, thưởng thức được.
Ba thân ấy không là gì khác ngoài quý vị đang đứng trước mặt tôi nghe pháp. Chúng ta đừng có mặc cảm! Trong chúng ta ai cũng có đầy đủ ba thân như Bụt. Chúng ta có thể tiếp xúc được ba thân ấy ngay trong giờ phút hiện tại. Tuy cách diễn tả của Tổ có khác, nhưng tinh thần giống với tinh thần giáo lý Làng Mai. Chúng ta nhờ thừa hưởng được tuệ giác đó, sự thực tập đó và thừa hưởng được sự tiến bộ của văn tự, của ngữ ngôn, cho nên ngày hômnay chúng ta có thể diễn tả những điều Tổ dạy một cách dễ dàng và rõ ràng hơn. Đọc lại văn của thế kỷ thứ chín, chúng ta thấy những tuệ giác mà Làng Mai đang có đã có sẵn trong giáo lý và trong sự thực tập của Tổ.
Tiểu sử của Tổ LâmTế cho biết khi còn nhỏ Tổ rất thông minh, có hiếu và học hỏi tinh chuyên. Cái hiểu về tamtạng kinh điển rất sâu sắc
của Tổ, cuối cùng Tổ cũng buông bỏ chỉ chuyên về thiền tập. Tổ thấy người ta học hỏi quá nhiều, nhưng những sự học hỏi đó không có ảnh hưởng gì tốt tớisự chuyển hóa của họ, cho nên Tổ chán. Tổ thấy rằng con đường học hỏisuông không đưa tới giải thoát, không đưa tới hạnh phúc cho mình và cho người, vì vậy Tổ đã bỏ tất cả những điều ấy và hướng về sự thực tập. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không cần học. Khi đọc lại ngữ lục - những lời dạy của Tổ - chúng ta thấy rằng Tổ có một kiến thức Phật học rất vững vàng. Cái học rất cần thiết, nhưng cái học hình thức không đưa tớisự chuyển hóa và giác ngộ. Cái học có thể giúp chúng ta chuyển hóa và giác ngộ, cái học đó là để soisáng cho sự thực tập của chúng ta.
Ví dụ như A muốn đạt tới thành công của sự tu học giác ngộ, thì A phải đi tới C. C là sự giác ngộ. Từ A tới C là con đường mà chúng ta phải đi; con đường AB là con đường học hỏi; con đường AD là con đường tu tập. Tu tập thì không thể thiếu sự học hỏi. Nếu chúng ta không trải qua sự học hỏi mà chỉ lo tu tập thôi, thì khó đạt tớisự giác ngộ, có phải vậy không? Nếu học để trở thành học giả, chúng ta chỉ tới B thôi. Ban đầu Tổ đã đi con đường AB, và hầu hết chúng ta đều đi con đường AB. Có những người tới B từ lâu, nhưng không bao giờ đi về hướng giác ngộ được cả. Họ trở thành những nhà học giả Phật học, trong khi đó tất cả những giận hờn, buồn tủi và thamđắm của họ vẫn còn y nguyên.
Khi nhìn vào những vị tu lâu năm, chúng ta thấy những vị thành công là những vị có khả năng thảnh thơi, nhẹ nhàng và buông xả; còn những vị tuy có cái học thâmuyên, nhưng vẫn còn ganh tị, giận hờn. Họ chỉ có thể trở thành những nhà học giả, nhưng họ không thành công trong quá trình giải thoát. Có rất nhiều người trước kia cũng đi con đường học hỏi như Tổ LâmTế. Nhưng đến một lúc nào đó, họ thấy rõ ràng rằng con đường này chỉ đưa tớisự thành công của một nhà học giả, cho nên họ bắt đầu thực tập, và cái học của họ mất đi tính cách từ chương và bắt đầu có tính thực dụng. Nếu có một người ngay từ giờ phút này đã biết sử dụng cái học vào cái tu, lấy cái tu soi chiếu cái học, thì càng tu học càng giỏi và càng học tu càng giỏi. Đó là con đường lý tưởng, con đường từ A tới C. Con đường từ A tới D là con đường không thể nào đi được; tu mà không học thì rất khó thành công. Đọc LâmTế Lục cho kỹ, chúng ta thấy dấu tích cái học của Ngài rất rõ.
Đây là một đoạn trong kinh Pháp Bảo Đàn: ‘Thiện tri thức, sắc thân thị xá trạch bất khả ngôn quy, hướng giả TamThân Phật tại tự tính trung, thế nhân Tổng hữu, vị tự tâmmê, bất kiến nội tính, ngoại mịch TamThân Như Lai, bất kiến tự thân trung hữu TamThân Phật, nhữ đẳng thính thuyết, linh nhữ đẳng ư tự thân trung, kiến tự tính hữu TamThân Phật, thử TamThân Phật tùng tự tính sanh, bất tùng ngoại đắc’. Dịch là: ‘Này các vị thiện tri thức, hình hài là nhà cửa, không thể nói là chỗ để nương náu, ta nên hướng về ba thân của Phật có đầy đủ trong tự tính của mình, người đời ai cũng có, chỉ vì tâmmê nên không thấy Phật tính ở trong, lại đi tìmba thân Như Lai ở ngoài (mới) không thấy tự thân có đủ ba thân của Phật. Chư vị hãy nghe nói đây để thấy tự tính trong mình có ba thân Phật, ba thân Phật này từ tự tính sanh, không tìmkiếmđược từ bên ngoài’. Những câu ngữ lục trong LâmTế Lục có nguồn gốc trong kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ Huệ Năng. Có một dòng tuệ giác liên tục trôi chảy từ Tổ tới Tổ, và từ Tổ tới ta. Cái thấy của Tổ LâmTế cũng là cái thấy của Tổ Huệ Năng. Nghĩa là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân không phải là những đối tượng có thể tìmở ngoài, ta phải trở về với bản thân của mình, phải trở về trong giây phút hiện tại và dùng niệm, định và tuệ để tiếp xúc ba thân ấy.
Cái công dụng (mầu nhiệm) này chỉ có thể có được khi quý vị không hướng ngoại truy cầu. Nương tựa vào các nhà nghiên cứu và chú giải kinh luận người ta đi tìmba thân như những tiêu chuẩn tuyệt đối.
Điều kiện căn bản là đừng nghĩ ta không có cái đó cho nên ta phải đi tìmở nơi khác. Ba thân là sự tuyệt hảo, là toàn thiện, và ta đã sai lầm khi đi tìmcái tiêu chuẩn tuyệt đối đó ở ngoài ta. Trong khi đó cái tuyệt đối, cái toàn hảo ấy nằmngay ở trong ta. Ta có thể nương vào các nhà nghiên cứu chú giải kinh luận, nhưng không phải vì vậy mà đi tìmnhững tiêu chuẩn tuyệt đối đó ở ngoài ta. Trong bài hát TìmNhau có câu: ‘Bởi vì con đói lạnh, bởi vì con khát khao, bởi vì con muốn tìmđược cho ra bóng hình ai muôn đời tuyệt hảo’. Tuyệt hảo là cái tiêu chuẩn tuyệt đối. Ta thấy ở trong ta không có cái đẹp tuyệt đối, không có cái lành tuyệt đối, không có cái tốt tuyệt đối, cho nên ta mới đi tìm. ‘Bởi vì con đói lạnh, bởi vì con khát khao’, nghĩa là mình không có cái đó cho nên mình mới đi tìm. Tìmđược cho ra cái gì? ‘Tìmđược cho ra bóng hình ai muôn đời tuyệt hảo’.
Bắt đầu bằng tư duy: ‘Ta không có cái đó’, cho nên ta phải đi tìmở ngoài ta. Nhưng trong quá trình đi tìm, ta nhận ra rõ ràng đối tượng ta đi tìmkhông xa, nó nằmngay ở trong ta. ‘Khoảng cách giữa hai ta không thể dài hơn quá một nhịp tâmđầu’. Và khi tìmra được mình rồi thì tìmra được Bụt. ‘Con đã tìmra Thế Tôn, con đã tìmra co’. Tìmra Thế Tôn thì tìmra mình, tìmra mình tức là tìmra Thế Tôn. Đức Thế Tôn không phải là đối tượng tìmcầu bên ngoài. Người học Phật có khuynh hướng chạy theo kinh, chạy theo luận; họ tin vào những nhà học giả đã từng nghiên cứu và chú giải kinh luận để đi tìmba thân như là những tiêu chuẩn tuyệt đối, những hình ảnh tuyệt hảo.
Theo tôi thì không phải như thế. Ba thân ấy chỉ là danh ngôn, và cũng chỉ là ba cái nương tựa vào nhau mà có. Các vị cổ đức đã nói: ‘Thân là dựa vào ý nghĩa mà thành lập, độ là dựa vào bản thể mà luận’. Vậy thì thân của pháp tánh và độ của pháp tánh thật ra (rõ ràng) chỉ là quang ảnh.
Tổ LâmTế có sử dụng hình ảnh con cá đang bơi lội trong dòng suối. Khi con cá vùng vẫy muốn nhảy lên thì nó tạo ra những đợt sóng. Những đợt sóng đó là do cá tạo ra phản ứng lại những cử động của nó. Những đợt sóng đó không phải từ ngoài mà có, mà chính do cá tạo ra gọi là quang ảnh, tức là những cái phản ảnh (reflection) của chính bản thân mình. Nếu cá đứng yên thì không có những đợt sóng ấy, khi nó vùng vẫy thì tự nhiên tạo ra những đợt sóng. Tất cả đều do tâmcủa ta phản ảnh.
Trong đoạn này, Tổ muốn chúng ta bỏ ý niệmtìmcầu, bỏ hình ảnh TamThân như là những thực thể biệt lập. Hai chữ quan trọng trong đoạn này là chữ nghĩa và chữ thể. Nguyên văn chữ Hán: Cổ nhân vân: thân y nghĩa lập, độ cứ thể luận, pháp tánh thân, pháp tánh độ, minh tri thị quang ảnh. Đoạn ngữ lục này phản chiếu kiến thức của Tổ LâmTế về Duy Biểu học.
Để có thể hiểu được câu ‘thân y nghĩa lập, độ cứ thể luận’, ta nên đọc đoạn văn này ở trong sách Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương của thầy Khuy Cơ. Ngài Khuy Cơ là đệ tử rất giỏi của TamTạng Pháp Sư Huyền Trang, là một giáo thọ rất xuất sắc về Duy Thức học. Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa LâmChương có thể tìmthấy trong Đại Tạng Tân Tu, kinh thứ 1861. Nguyên Văn chữ Hán: ‘Tự tánh thân độ, tức chân như lý, tuy thử thân độ, thể vô sai biệt, nhi thuộc Phật pháp, tánh tướng dị cố, dĩ nghĩa tướng vi thân, dĩ thể tánh vi độ, dĩ giác tướng vi thân, dĩ pháp tánh vi độ.’
‘Tự tánh thân độ, tức chân như lý’. Có nghĩa là thân và độ trong tự tánh của nó, tức là chân như. Thân là ba thân của Bụt, độ là đất nước của Bụt. Khi nói về bản chất của ba thân và cõi nước của Bụt, tức là nói về bản thể chân như (ground of suchness).
‘Tuy thử thân độ, thể vô sai biệt’. Thể tánh (true nature) của ba thân và cõi nước không sai khác như sóng với nước; thân là sóng và độ là nước. Đứng về phương diện thể tánh, thân và độ là một, cũng như tất cả các sóng là do nước mà sanh ra. Vậy thì đứng về phương diện của thể, thân và độ là không sai biệt.
‘Nhi thuộc Phật pháp, tánh tướng dị cố’. Đứng về phương diện học Phật, ta phân biệt tánh và tướng khác nhau. Đứng trên phương diện tánh, sóng và nước có cùng một bản chất, nhưng đứng về phương diện tướng thìsóng và nước khác nhau. Tánh là bản thể (noumena) và tướng là hiện tượng (phenomena), ta không nên lầmlẫn tánh và tướng là một, tuy hai cái cùng một bản chất như nước và sóng. Khi nói về sóng phải dùng những danh từ lên xuống, cao thấp; khi nói về nước thì không thể nói lên xuống, cao thấp được. Đó là ‘tánh tướng biệt quán’. Tuy thể tánh của ba thân và cõi nước của Bụt là không khác, nhưng trong khi học Phật pháp thì phải phân biệt tánh và tướng khác nhau.
‘Dĩ nghĩa tướng vi thân’. Đứng về phương diện nghĩa tướng ta gọi là thân, đứng về phương diện thể tánh ta gọi là cõi Bụt. Ta phân biệt có Pháp thân, Báo thân và ứng thân, gọi là nghĩa tướng (sự phân biệt). Thành ra ba thân của Bụt được thiết lập ra là do nghĩa tướng (the meaning and the appearance).
‘Dĩ thể tánh vi độ’. Cõi nước được thành lập là do bản thể. Khi nói tới cõi nước của Bụt là nói tới thể tánh (thể tánh vi độ). Trong khi ấy Tổ LâmTế nói: ‘Thân y nghĩa lập, độ cứ thể luận.’Tổ đã học Duy Biểu rất đàng hoàng, một đoạn văn khá dài Tổ đã đúc kết lại thành tám chữ.
‘Dĩ giác tướng vi thân, dĩ pháp tánh vi độ.’Lấy tướng của sự giác ngộ để làmba thân, lấy pháp tánh làmquốc độ. Học như vậy là học theo kiểu tầmnguyên, tức là tìmvề nguồn gốc của những điều ta đang học, đang nói. Tầmnguyên là tìmvề nguồn.
Duy Biểu học được thành lập tại Trung Quốc vào thế kỷ thứ bảy, thứ tám. Sau khi thầy Huyền Trang đi Ấn Độ về, thầy sáng tác Thành Duy Thức luận. Thành Duy Thức Luận được xemnhư tác phẩmcăn bản cho Duy Thức Tông ở Trung Quốc. Trong tác phẩmĐại Thừa Pháp Uyển Châu Lâmcủa thầy Khuy Cơ - một nhà chú giải nổi tiếng Duy Biểu học - đoạn văn trên có thể coi là nguồn gốc tư liệu cho đoạn văn này trong ngữ lục.
Thân y nghĩa lập. Chữ thân có nghĩa là ba thân: Pháp thân, Báo thân và ứng thân. Ba thân này do trí tuệ, kiến giải của ta căn cứ trên nghĩa lý mà thành lập. Độ tức là quốc độ, là các cõi Bụt như Bụt A Súc ở phương Đông, Bụt A Di Đà ở phương Tây hay cõi Ta bà, tất cả đều căn cứ vào thể mà luận. Cũng giống như Đức Thích Ca Mâu Ni là thân, trái đất này là độ. Cũng như tất cả chúng ta đều là những người con của trái đất, chúng ta là thân y cứ, nương tựa vào độ mà biểu hiện. Sinh ra từ trái đất, chết đi cũng trở về với trái đất, để rồisinh ra nữa, đó là ý nghĩa của độ cứ. Thể là bản thể, là chân như, tức là chỗ nương tựa. Khi nói tới thân và độ, tức là nói về ba thân và quốc độ của Bụt.
Ta phải hiểu rằng thân là đứng về phương diện pháp tướng, độ là đứng về phương diện pháp tánh, không đứng về phương diện hiện tượng. Chúng ta biết rằng ba thân và các quốc độ của Bụt đều là những phản chiếu (quang ảnh) mà không phải là những thực thể vững chắc; nó không có tính cách ngoại tại, khách quan.
Này các vị đại đức, các vị nên biết rằng cái con người đang cầmnắmvà đùa giỡn được với quang ảnh đó là nguồn gốc của chư Bụt. Đối với kẻ ấy, chỗ nào cũng là nhà để trở về (nơi nào cũng là quê hương trở về của người tu tập).
Người đó có thể là ta nếu ta biết thao tác (manipulate), biết sử dụng những quang ảnh ấy thì ta là nguồn gốc của tất cả chư Bụt. Đối với kẻ ấy, chỗ nào cũng là nhà để trở về. Câu này rất quan trọng. Trong nguyên bản là ‘nhất thiết xứ thị đạo lưu quy xá xứ’, nó diễn tả được sự thực tập của Làng Mai.
‘Nhất thiết xứ thị đạo lưu quy xá xứ’. Quy xá là về nhà. I have arrived, I amhome. Chỗ nào ta đi và vào lúc nào cũng là chỗ và giờ phút ta trở về nhà. Do đó sự thực tập của Làng Mai có gốc rễ ở nơi giáo lý của Tổ. Đối với những người có khả năng đùa giỡn được với những quang ảnh kia thì đâu cũng là nhà để cho họ trở về. Đối với kẻ ấy, chỗ nào cũng là nhà để trở về. Ta có thể sửa lại là Nơi nào cũng là quê hương trở về của người tu tập. Đạo lưu tức là những người tu tập, các bậc tu hành. Nhất thiết xứ là bất cứ chỗ nào; quy xá xứ cũng là chỗ trở về nhà. Bài thi kệ tôi viết bằng tiếng Việt chỉ có hai chữ Đã về, Đã tới, nhưng bản tiếng Anh là I have arrived (tôi đã tới), I amhome (tôi đã về tới nhà). Chữ ‘nhà’ cũng quan trọng lắm. Dịch sang chữ Hoa là (*) (ngã dĩ đáo gia, dĩ đáo gia liễu). Bài thi kệ này có nguồn gốc của sự thực tập, nghĩa là ta đã về đã tới trong từng giây phút của đờisống hằng ngày. Người tu hành thành công thì thấy không cần đi đâu nữa, vì chỗ nào cũng là nhà của mình. Mỗi bước chân đều đưa mình trở về nhà. Khi nào không còn đi tìmcầu (longing), không còn lang thang (wandering) về một phương trời nào khác, không còn lo nghĩ về tương lai nào nữa và cảmthấy thoải mái trong giây phút hiện tại ngay ở đây, lúc đó ta đã thành công. Này các vị đại đức, các vị nên biết rằng cái con người đang cầmnắmvà đùa giỡn được với quang ảnh đó là nguồn gốc của chư Bụt. Đối với kẻ ấy, chỗ nào cũng là nhà để trở về (nơi nào cũng là quê hương trở về của người tu tập).
Sắc thân tứ đại của quý vị không biết nói pháp nghe pháp, tỳ vị gan mật không biết nói pháp nghe pháp, hư không không biết nói pháp nghe pháp... vậy thì cái gì biết nói pháp nghe pháp? Đó là cáisáng rỡ rõ ràng không chút mảy may hình tướng trước mặt quý vị đấy. Chính cái đó biết nói pháp nghe pháp. Nếu thấy được như thế thì quý vịsẽ không khác gì với Tổ với Bụt. Chỉ có một điều là giữ nó cho miên mật, đừng để cho nó bị gián đoạn, mắt chạmđến đâu là thấy được đến đấy.
Chúng ta đang thực tập theo Tổ LâmTế. Tổ LâmTế đang sống trong giây phút hiện tại, đang có mặt trong mỗi chúng ta. Có những người không hiểu, cho rằng Tổ LâmTế có sự phân biệt giữa thân và tâm: hình hài này không phải là cái nghe pháp, chính cái tâmnghe pháp. Đây là một cách nói để giúp chúng ta đừng bị kẹt vào tứ đại và cho tứ đại đó là chính mình, có vậy thôi. Trong giáo lý của Đức Thế Tôn, ta thấy các pháp nương nhau mà thành lập. Nếu không có thân thì tâmkhông biểu hiện được, nếu không có tâmthì thân không biểu hiện được, thân và tâmnương nhau mà biểu hiện như tay mặt với tay trái. Cũng như nămuẩn là sắc, thọ, tưởng, hành và thức nương nhau mà biểu hiện, một uẩn tự nó không thể biểu hiện được. Không những tứ đại (sắc thân) không phải là chính mình, thọ, tưởng, hành, và thức cũng không phải là chính mình. Tất cả đều là những điều kiện nương nhau mà phát hiện ra, ta gọi là tâmsáng chói. Tâmsáng chói
biến hiện ra sáu đạo hào quang gọi là lục đạo thần quang.
Trong kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), Bụt có dạy tâmlà một cái gìsáng chói. Sở dĩ nó không sáng chói được là do những ô nhiễm bên ngoài đi tới, nếu lấy ra khỏi những ô nhiễmđó thì tâmsáng chói trở lại. Câu nói đó nằmngay phần đầu của kinh Tăng Chi Bộ: ‘Này các vị khất sĩ, tâmnày là sáng chói, nhưng tâmnày có thể bị ô nhiễmbởi các cấu uế từ bên ngoài đi vào và ta có thể gột sạch những cấu uế đó để cho nó sáng chói ra’. Chính trên cái thấy đó mà Tổ có danh từ tinh minh, tức là sáng chói. Trong LâmTế Lục, Tổ nói đến cái tinh minh tỏa chiếu ra sáu đạo thần quang. Chính tâmsáng chói là cái biết nói pháp nghe pháp chứ không phải là nămuẩn. Nămuẩn là những điều kiện cần có để cho cái tinh minh biểu hiện. Sắc thân tứ đại của quý vị không biết nói pháp nghe pháp, tỳ vị gan mật không biết nói pháp nghe pháp, hư không không biết nói pháp nghe pháp... vậy thì cái gì biết nói pháp nghe pháp? Đó là cáisáng rỡ rõ ràng không chút mảy may hình tướng trước mặt quý vị đấy. ‘Không chút mảy may hình tướng’tức là cái tinh minh không kẹt vào sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nhưng sắc, thọ, tưởng, hành và thức giúp để biểu hiện cái tinh minh.
Chính cái đó biết nói pháp nghe pháp. Nếu thấy được như thế thì quý vịsẽ không khác gì với Tổ với Bụt. Chỉ có một điều là giữ nó cho miên mật, đừng để cho nó bị gián đoạn, mắt chạmđến đâu là thấy được đến đấy.
Trong đoạn này ta thấy hai chữ miên mật là quan trọng, nghĩa là công phu phải cho liên tục. Câu này một lần nữa xác nhận rằng, sự thực tập chánh niệmmiên mật đừng để cho gián đoạn là bí quyết của sự thành công. Chúng ta có cái tinh minh chia thành sáu hòa hợp, và chúng ta sử dụng nó như một người hát xiệc sử dụng những dụng cụ trên tay, nếu chúng ta hoàn toàn làmchủ cái tinh minh ấy thì thành công. Sáu đạo thần quang đó nếu để cho đammê, giận hờn, ganh tị đi vào, thì cáisáng chói kia không có cơ hội chiếu sáng ra được. Vì vậy những cấu uế cần được lấy ra để cho cái tinh minh tiếp tục sáng chói, miên mật không bị gián đoạn, lúc đó giữa ta và Bụt, ta và Tổ không có gì khác biệt, và chúng ta không cần đi tìmcầu ở ngoài.
Chỉ vì tình thức phát sinh nên trí tuệ ngăn cách, cũng vì tri giác biến đổi cho nên chân thể bị biến hình, vì thế mới có luân hồi trong ba cõi, chịu đựng mọi thứ khổ đau. Theo cái thấy của tôi, thì không có gì là không thâmdiệu, không có gì là không giải thoát.
Tình thức dịch tiếng Phạn là klésa (affliction), nghĩa là sự vướng mắc, sân hận, hiểu lầm, si mê..., gọi là những phiền não. Ba phiền não căn bản là tham(thèmkhát), sân (giận hờn) và si (hiểu lầm). Cũng vì tri giác biến đổi cho nên chân thể bị biến hình. Tri giác biến đổi, tức là tri giác sai lầm.
Này các bạn tu, tâmpháp không hình tướng, thông suốt mười phương, nơi mắt gọi là cái thấy, nơi tai gọi là cái nghe, nơi mũi gọi là cái ngửi, nơi miệng gọi là đàmluận, nơi tay gọi là cầmnắm, nơi chân gọi là cái chạy nhảy, tất cả chỉ từ một cái tinh minh (shining) chia ra thành sáu hòa hợp.
Từ một cái tâmsáng chói (tinh minh) thể hiện thành sáu hòa hợp hay sáu đạo hào quang (lục đạo thần quang) - sáu thức - vi diệu mầu nhiệm. Tổ dạy người nào sử dụng được sáu đạo thần quang một cách khôn khéo, một cách miên mật thì người đó là Bụt, là Tổ; nếu để
cho tình thức (tham, sân và si) che lấp thì là chúng sanh. Chúng ta có thể là chúng sanh, chúng ta có thể là Bụt. Ta là chúng sanh khi tình thức chiếmthượng phong, khi ta đùa giỡn được vớisáu đạo thần quang, thì ta chiếmthượng phong, ta thành Bụt và có được ba thân.
Tư tưởng và ngôn từ này là lấy trực tiếp từ kinh Thủ Lăng Nghiêm(Shurangāma sutra), tên đầy đủ là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng NghiêmTu Chứng Liễu Nghĩa. Kinh Thủ Lăng Nghiêmcó câu ‘Đại hùng đại lực đại từ bi, hy cánh thẩmtrừ vi tế hoặc, linh ngã tảo đăng vô thượng giác, ư thập phương giới tọa đạo tràng...’Kinh này rất được Phật tử ở Trung Quốc và Việt Namưa chuộng. Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêmđược chế tác tại Trung Quốc đầu đời nhà Đường, không có nguyên bản bằng tiếng Phạn. Bây giờ các nhà khoa học đã chứng minh được điều đó. Tổ LâmTế đã được đọc và đã trích dẫn kinh. Có hai loại kinh Lăng Nghiêm: Lăng NghiêmTamMuội và Thủ Lăng Nghiêm. Kinh Lăng NghiêmTamMuội (Shurangāma samādhi) được gọi là Kiện Hành, tức là bước đi dũng mãnh, có nguyên bản ở tiếng Phạn.
Chỗ nào tâmý không còn phát sinh thì chỗ ấy cũng là giải thoát.
Tâmý ở đây tức là những tà kiến phân biệt: đây là tôi, đây không phải là tôi; cái này là trong, cái này là ngoài; tôi không có cái này, anh có cái này... Duy Thức học gọi đó là biến kế sở chấp (Parakalpita), nghĩa là kỳ thị, phân biệt, không thấy được sự thật.
Tôi nói như thế nghĩa là sao? Chỉ vì mọi thứ tìmcầu của quý vị chưa chấmdứt cho nên quý vị mới bị lọt vào những cái bẫy của cổ nhân bày ra.
Trong nguyên văn: ‘Kỳ vi đạo lưu nhất thiết trì cầu tâmbất năng hiết, thượng tha cổ nhân nhàn cơ cảnh’. Cơ là máy, là cơ quan. Cơ cảnh ở đây được dịch là những cái bẫy. Cổ nhân không muốn gài bẫy để ta lọt vào, cổ nhân vì muốn độ người cho nên mới đưa ra những phương tiện, nhưng ta thường có khuynh hướng nắmbắt rồi bị kẹt vào những phương tiện đó. Ví dụ như cổ nhân muốn chúng ta có cơ hội để tu tập nên tạc tượng Bụt, xây chùa. Chúng ta vào chùa lạy Bụt rồi dính vào tượng luôn. Chúng ta nghĩ rằng Bụt chỉ có ở trong chùa chứ không có ở những chỗ khác. Những điều cổ nhân thiết lập ra là để cho chúng ta tu học, nhưng vì chúng ta không đủ thông minh nên bị kẹt vào đó. Nếu nghĩ rằng tượng Bụt là Bụt thì chúng ta mắc bẫy rồi. Người xưa đặt ra tượng Bụt cho chúng ta có khả năng tiếp xúc với Bụt tự thân, nhưng nếu chúng ta nghĩ tượng Bụt là Bụt, phần của mình là đứng dưới lạy lên, thì chúng ta không tiếp xúc được với Bụt tự thân. Cho Bụt là cái tượng bằng gỗ, bằng đồng, đó là rơi vào cái bẫy cổ nhân.
Giáo lý cũng vậy. Những cái như Pháp thân, Báo thân, ứng thân, cõi Cực lạc, Đâu xuất đà thiên..., đều là những phương tiện của Bụt và Bồ-tát đưa ra để cho chúng ta tu tập. Nhưng nếu kẹt vào đó là rơi vào bẫy của cổ nhân. Cổ nhân không phải là gài bẫy chúng ta, cổ nhân chỉ muốn đưa ra những phương tiện quyền xảo, chúng ta lại kẹt vào những phương tiện đó cho là cứu cánh, thì chúng ta đánh mất cơ hội thành công. Ví dụ ta nói nên đi thiền hành, đi thiền hành sẽ khỏe. Có những người đi thiền hành không thấy an lạc, hạnh phúc trong khi đi. Họ làmdáng làmđiệu. Những cái bẫy của cổ nhân là như vậy.
Này các bạn tu, hãy thử sử dụng cái thấy của tôi xem. Hãy chặt đứt hết những cái đầu của mọi Báo thân và Hóa thân của Bụt.