🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người trên đảo vắng Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Lời tác giả Kí ức lương thiện Chương một Chương hai Chương ba Chương bốn Chương năm Chương sáu Chương bảy Chương tám Chương chín Vĩ thanh LỜI TÁC GIẢ C uộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân Việt Nam ta đã đi qua bốn mươi hai năm. Trang sử vàng của đất nước đang bước sang trang mới. Nhìn lại quá khứ, nhân dân Việt Nam không ít tự hào với những chiến công chói lọi đánh đổ những đế quốc to lớn đặc biệt là Pháp, Mỹ. Để có được những chiến công đó, không ít những chiến sĩ và nhân dân đã ngã xuống. Trong cuộc chiến đấu đó, có những người chiến sĩ được cận kề bên đồng đội, cùng chiến đấu oanh liệt. Nhưng cũng có những chiến sĩ lẻ loi đơn độc chiến đấu và cũng lẻ loi đơn độc hi sinh. Nhiều người được vinh danh, nhiều người âm thầm lặng lẽ đóng góp phần mình cho đất nước. Không thể bỏ quên lịch sử. Các thế hệ sau được quyền phải biết những gì các thế hệ cha anh đã đổ mồ hôi, xương máu như thế nào. Trong công cuộc kháng chiến cứu nước, mặt trận nào cũng ác liệt. Kẻ thù to lớn mọi mặt, súng đạn giết người vô cùng hiện đại. Máy bay, xe tăng thiết giáp, hạm đội tàu chiến đông như ong vỡ tổ, đông như cua rạm trên sông trên biển. Còn quân và dân Việt Nam ta tất cả đều nhỏ bé, kể cả vật chất súng đạn lẫn con người. Nhưng người Việt Nam ta có trái tim và cả một tấm lòng yêu nước thương dân vô cùng to lớn, hiện đại nhất mà cả thế giới không có được… Cuốn sách tuy chưa mô tả được hết hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam ta nhưng cũng góp phần nhỏ để độc giả có thể hình dung được điều gì đó đã làm nên những chiến công vĩ đại của người lính Cụ Hồ. Tác giả Dương Thiên Lý rất mong nhận được ý kiến đóng góp, phê bình của bạn đọc. Bình Phước năm 2017. DƯƠNG THIÊN LÝ KÍ ỨC LƯƠNG THIỆN Nhà văn BÙI VIỆT THẮNG T iếp theo Quảng Ninh đất mạ anh hùng (2016), gối vụ 2017, tác giả Dương Thiên Lý trình làng văn cuốn tiểu thuyết thứ năm của nghiệp viết: Người trên đảo vắng. Mới đọc nhan đề, ai đó có thể lầm tưởng đây là một cuốn tiểu thuyết viết về chuyện đường rừng, chuyện đảo hoang và biết đâu xuất hiện một Rôbinxơn thời hiện đại. Nhưng riêng tôi thì biết tác giả Dương Thiên Lý không ham viết chuyện trinh thám, chuyện phiêu lưu mạo hiểm. Chị chỉ chuyên chú viết về lịch sử, nếu không thì cũng chỉ quan tâm đến chuyện đời tư - thế sự đương đại. Người trên đảo vắng là cuốn tiểu thuyết lịch sử-tư liệu. Khẳng định như thế là bởi chất liệu để tác giả tạo nên tác phẩm chính là lịch sử dân tộc, đất nước, quê hương anh hùng. Là những con người có thật đã làm nên lịch sử: “Nước chúng ta Nước của những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về.” Đất nước - Nguyễn Đình Thi - 1955-1958. Vì thế mà đề từ của tác phẩm rất rõ ràng “Trân trọng viết tặng một người lính - người thương binh, quê tôi. Cảm ơn nguyên mẫu đã khơi nguồn, dẫn tới tiểu thuyết mang tên “Đắng đót một kiếp người”. Đó là nhan đề bản thảo tác phẩm. Một bản thảo kì khu, được sửa chữa tới mười hai lần. Riêng tôi, vì đã quen biết và hiểu rõ tác giả Dương Thiên Lý, nên đã đinh ninh như thế. Nhưng tác phẩm đến tay độc giả lại mang tên Người trên đảo vắng. Ở đây không còn là vấn đề chữ, mà là nghĩa. Ở đây vấn đề không chỉ là viết mà là lao động nghệ thuật. Vì thế muôn đời văn chương được coi là nghệ thuật ngôn từ. Nhan đề sau gợi hơn vì chủ đề được ẩn trong hình tượng nhân vật chính. Khi tiếp cận một tác phẩm văn chương, đặc biệt là tiểu thuyết - một thể loại vẫn được xem là “cỗ máy cái” trong hệ thống thể loại - độc giả (người đọc thưởng thức cũng như giới phê bình) thường chú ý trước tiên đến cảm hứng sáng tác. Cảm hứng nào thì thành quả ấy. Quan sát thực tiễn văn chương hiện đại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có nhiều kiểu cảm hứng. Những nhà hiện thực chủ nghĩa thì đề cao cảm hứng phơi bày sự thật. Những nhà lãng mạn chủ nghĩa thì thường “bay lên” khỏi hiện thực. Có một kiểu cảm hứng, chúng tôi gọi là “đại khí văn chương”. Nghĩa là ngòi bút của nhà văn hướng tới những sự tích kì vĩ, những con người phi thường, những sự kiện trọng đại có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của nhân dân. Nghĩa là tác phẩm cuối cùng hướng tới những số phận bi hùng. Chúng tôi gọi đó là cảm hứng bi kịch. Kiểu cảm hứng này có tác dụng tích cực thanh lọc tâm hồn con người theo nguyên tắc đã được Aristothe đề ra trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca. Chín chương và Vĩ thanh tạo nên nội dung của tiểu thuyết Người trên đảo vắng có ưu điểm nổi trội là lịch sử không trở nên khô khan bởi con số, sự kiện. Lịch sử ở đây được nhìn qua lịch sử tâm hồn con người. Tư liệu chan hòa với cảnh và tình của đời sống hiện thực sinh sắc. Điều đó tạo nên sức cuốn hút của một cuốn tiểu thuyết ngắn, có độ dồn nén, có sức công phá, để lại nhiều ấn tượng. Riêng tôi thích nhất Người trên đảo vắng, một trong số ba cuốn tiểu thuyết lịch sử-tư liệu của tác giả Dương Thiên Lý. Nhưng nói đến tiểu thuyết là nói đến nhân vật. Bởi vì nhân vật chuyên chở chủ đề-tư tưởng của tác phẩm. Bởi vì nhân vật thể hiện vốn sống của tác giả. Bởi vì nhân vật làm phát lộ cá tính và phong cách nghệ thuật của chủ thể sáng tác. Vì thế đừng nên so đo rằng trong số các nhân vật mà tác giả Dương Thiên Lý tạo nên trong tiểu thuyết Người trên đảo vắng ai thật hơn ai? Không nên đặt vấn đề như thế, vì tiểu thuyết luôn luôn là “một câu chuyện bịa y như thật”. Nghệ thuật viết tiểu thuyết có một yêu cầu hàng đầu là đặt các nhân vật vào những tình huống tiêu biểu, có ý nghĩa điển hình. Thì đây, mở đầu tiểu thuyết Người trên đảo vắng, Ngao - nhân vật chính - đã rơi vào một tình huống “tréo ngoe”, cười ra nước mắt, rồi vì thế mà mang nỗi “oan Thị Kính” cho đến gần hết tác phẩm, chỉ khi được thủ trưởng cũ tìm về quê minh oan. Tiểu thuyết hay phải mở đầu hấp dẫn như thế, vì trong khi đọc cũng như chạy maratông, độc giả phải được “giữ chân” ngay từ trang đầu. Cuộc đời của Ngao, cũng tựa câu thơ của Cụ Nguyễn Tiên Điền: “Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Không có một cuộc đời nào bằng phẳng, trơn tru mà lại gợi được cho nhà văn cảm hứng sáng tác. Không có con đường chiến thắng nào chỉ toàn trải hoa hồng chiến thắng. Không có một thành quả nào dễ dàng nhận được như thò tay vào túi lấy ra. Không có chân lí nào được mặc nhiên công nhận. Nó phải đi trên con đường chông gai. Đôi khi trả giá bằng máu. Không có người nào sinh ra đã mang danh hiệu anh hùng. Theo sát nhân vật Ngao trong tiểu thuyết Người trên đảo vắng của tác giả Dương Thiên Lý, tôi chợt nhớ tới câu thơ của thi sĩ Nga tài danh thế kỷ XIX, Lermantov: “Thuyền cầu bão táp mưa sa Dường như giông bão mới là bình yên”. Cái biện chứng của cách viết chính là đặt nhân vật Ngao như một người anh hùng trong quan hệ gắn bó, mật thiết với nhân dân. Nhân dân là số đông. Nhân dân là cội rễ. Có anh hùng cá nhân là vì có nhân dân anh hùng. Theo cách hiểu này thì cha, mẹ của Ngao, người vợ của Ngao, thủ trưởng cũ của Ngao, dân làng của Ngao, đồng đội của Ngao… đều là những người anh hùng trong nghĩa rộng của từ này. Người anh hùng theo cách quan niệm của chúng ta không bao giờ là những “siêu nhân”, là những “thánh thần”. Đọc Người trên đảo vắng của tác giả Dương Thiên Lý tôi chợt nhớ tới hình tượng văn chương kì vĩ thời kháng chiến chống Mỹ cũng trên quê hương Quảng Bình anh hùng - Mẹ Suốt, người đã hiện lên xương bằng thịt trong bài thơ nổi tiếng Mẹ Suốt của nhà thơ Tố Hữu: “Mẹ rằng cứu nước mình chờ chi ai Chẳng bằng con gái con trai Sáu mươi còn một chút tài đò đưa Tàu bay hắn bắn sớm trưa Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò”. Lại nhớ tới nhạc phẩm Quảng Bình quê ta ơi của nhạc sĩ Hoàng Vân sống mãi với thời gian. Chính nghệ thuật đã tôn vinh Đất và Người Quảng Bình anh hùng. Liệu cái chết của chiến sĩ Vũ Xuân Ngao ở đoạn kết tiểu thuyết có gây nên sự bi lụy trong cảm nhận của độc giả? Liệu nó có làm giảm cảm hứng “đại khí văn chương” của sự viết như đã nói ở trên? Hoàn toàn không, có thể khẳng định như thế. Vì sao? Vì bi kịch thường gắn với sự mất mát, hi sinh. Vì bi kịch là sự tuẫn tiết của những người anh hùng. Cuối cùng thì chiến sĩ Vũ Xuân Ngao được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Lại nhớ những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu viết về Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi: “Có cái chết hóa thành bất tử Có những lời hơn mọi bài ca Có con người như chân lí sinh ra” (Hãy nhớ lấy lời tôi). Liệu tiểu thuyết Người trên đảo vắng đã là hoàn hảo? Chưa hoàn hảo! Tất nhiên! Đôi khi cái Đẹp, sự hấp dẫn lại ở chính nơi còn khuyết một điều gì đó. Cái Đẹp, trong con mắt của con người hiện đại, không phải là sự cân đối, hoàn chỉnh tuyệt đối. Vì cái đang vận động, sinh thành mới nhiều hứa hẹn cảm xúc về cái Đẹp. Tôi nghĩ thế khi khép lại trang cuối cùng tiểu thuyết Người trên đảo vắng của tác giả Dương Thiên Lý. Một ngòi bút sung sức như Dương Thiên Lý, tôi nghĩ, sẽ chưa ngưng nghỉ sự viết sau cuốn tiểu thuyết thứ năm này. Không gì có thể thay thế được việc đọc trực tiếp tác phẩm văn chương. Xin mời Quý vị độc giả sống cùng câu chuyện và nhân vật tiểu thuyết, tôi tin là hấp dẫn./. CHƯƠNG MỘT N gao ngồi bệt xuống vệ cỏ nhìn mặt trời đang dần dần lặn xuống dãy núi phía Tây. Trên nền trời mênh mang, loang loãng, chỉ còn rớt lại chút nắng vàng nhợt nhạt. Đã cuối thu. Trời se lạnh, đâu đó, gió heo may đầu mùa thỉnh thoảng lạc về từng cơn đứt quãng. Mỗi lần gió ngừng thổi, Ngao lại lắng nghe tiếng ì ầm của biển dội vào đất liền như những tiếng than ngắn thở dài của người dân chài đi biển. Biển buồn rầu vì đã qua những ngày tháng mùa hè náo nhiệt và vui nhộn. Mới gần bảy giờ tối, vậy mà biển chỉ còn trơ ra một mình vẻ buồn, thinh lặng. Nơi cửa sông Kiến Giang phía kia cũng đơn côi, chìm nghỉm trong màn đêm tĩnh mịch. Mặt sông đặc quánh như chảo mực tàu. Trên bờ đê đắp cao, chắn không cho nước biển mặn tràn vào đồng ruộng dài như một vạch ngang làm ranh giới giữa trời và nước. Đã hàng tiếng đồng hồ, trên bờ đê, Ngao vẫn một mình một bóng lầm lũi, dật dờ cao lêu nghêu như một dấu hỏi nguệch ngoạc, bước thấp bước cao, chậm trễ, lê trên cái dòng kẻ vạch ngang ấy. “Mình đã hóa thành bóng ma trên bãi biển này rồi sao?” Ngao thở hắt ra, chống tay vào đùi mệt mỏi đứng lên rồi lại ngồi bệt xuống. “Thân phận người bãi biển này là vậy. Số kiếp Ngao là vậy ư? Mới hơn bốn chục tuổi đầu, Ngao biết, Ngao đã như một lão già. Chẳng những thế, Ngao đang mang trên mình một dáng thật kì hình, dị tướng.” Một người lính từ mặt trận mang bao nhiêu thương tích trở về. Sức lực còn gồng lên dầu dãi được với tháng ngày, biển cả. Nhưng cái quá khứ của cuộc chiến tranh khủng khiếp mà Ngao đã đi qua, còn ám ảnh, lẩn quất trong Ngao như bóng đêm, như những tia chớp thỉnh thoảng lại lóe lên ghê sợ. Ngao sống trong trạng thái lúc nhớ, lúc quên, lúc bơi trong màn sương lãng đãng. Mặc cảm, Ngao sống như người lẩn tránh. Tự Ngao văng mình ra khỏi cộng đồng. Tự Ngao chối bỏ, tự cắt đứt những gì thân thiện, kết dính xung quanh. Trời đã sang tháng Chín rồi. Có lẽ, ở mảnh đất này và ở cõi đời này, chỉ còn lại thiên nhiên, còn lại cái đất quê, thói quê níu chặt đời Ngao, buộc Ngao, vùi sâu Ngao vào kiếp phận làm người. Ngao đã trốn tránh cuộc đời. Đời cũng đã bỏ quên Ngao, bỏ quên người lính đã từng bị báo tử về quê, làm lễ truy điệu trước sân đình của ba làng đất biển. Ai biết Ngao vẫn còn sống, lang bạt về đây trong thân hình dị dạng? Mặt cháy. Cằm mất. Giọng nói không còn gẫy gọn. Đau hơn nữa, cái “của quý” tạo hóa ban cho người đàn ông của Ngao đã bị dính bom, phải cắt bỏ trong một trận chiến ác liệt. Dưới mái nhà như mô đất vắng tanh, heo hút, lọt thỏm nơi xa lắc ở một miền chân sóng, một bóng người dật dờ, câm lặng… ngoài vợ con, không ai biết Ngao. Mà Ngao cũng không cần ai biết đến mình. Ngao sợ, né tránh mọi tiếp xúc. Ngao sợ những ai đó ngắm nhìn, bình phẩm, hoặc đem lòng thương hại. Hoặc, người ta kinh sợ về bộ mặt khủng khiếp của mình. Vậy còn gì khác đâu. Ngao chỉ còn biển cả ầm ì, dữ dội kia mà mến thương. Ngao chỉ còn mùa thu. Còn tháng Chín này đã trở về như bao lần trong đời với bao nhiêu kỉ niệm, hồi ức. Tháng Chín năm nay, mùa cua rạm bắt đầu. Sau cơn bão số bốn khủng khiếp, có lẽ ông trời muốn đền bù cho những người dân khốn khó ở vùng biển này sau tai ách ông gây ra. Ơn trời, cua biển bỗng dạt về nhiều vô kể. Những con cua biển trưởng thành từ cửa sông trong mùa sinh sản đi theo triều con nước ròng ra biển. Trong bao la mênh mông của đại dương, những cuộc tình chớp nhoáng giữa những chàng cua biển lực lưỡng và những nàng cua cái đa tình diễn ra thật mặn nồng. Và kết quả là hàng triệu triệu những đàn cua con, nhỏ lăn tăn, li ti ra đời. Nhiệm vụ của cua mẹ sinh ra những đứa con duy trì nòi giống đã hoàn thành, chúng không còn bổn phận gì nữa với những đàn sinh linh ra đời nhỏ bé đó. Cua mẹ phó mặc đàn con cho đại dương sông nước. Đại dương là nơi những đàn cua con sinh ra và lớn lên đầy thử thách nghiệt ngã giữa cái nhỏ nhoi và cái vô tận của sóng biển. Sự sống còn của những lớp đàn với hàng ngàn vạn cua con phải chịu đựng biết bao nhiêu trở ngại khó khăn mà tạo hóa đã sinh ra. Khi bị hàng ngàn đợt sóng vỗ vào bờ cát, hàng vạn sinh linh bé nhỏ phải gồng mình chống trả và tìm cách sinh tồn. Vượt qua những kiếp nạn, một số sống sót được sóng xô bờ đưa ra đẩy ra vào chỗ toàn là nước. Sự may mắn ấy xảy ra ở các cửa sông. Những con cua con may mắn ấy quý lắm, đắt lắm. Người ta bắt nó bán cho những trang trại nuôi cua biển hàng hóa. Ở đây, chúng được nuôi dưỡng một cách cẩn thận để một ngày nào đó được nằm chễm chệ trên cái đĩa của những bàn tiệc. Chúng làm cho bàn tiệc sang trọng hơn bởi màu đỏ rực của cua luộc, bởi cái ngậy cái bùi hương vị ngọt ngào mà chỉ có ở những cư dân biển cả. Để bắt được những con cua biển nhỏ li ti, dân chài phải đi từ khi trời vừa chạng vạng tối vào những ngày nước lên. Người bắt cua làm một dụng cụ mà người ta gọi là lưới kéo cua. Đó là một tấm lưới nhỏ và may dày như màn tuyn, nó được căng bởi hai cây tre to bằng cổ tay và dài hơn một mét. Gốc tre buộc vào nhau, ngọn xòe ra như cái quạt. Độ mở của lưới có thể thả chùng xuống hoặc co ngắn lại tùy theo mức nước sâu cạn. Vạt trên mép lưới được đính những viên chì nho nhỏ vào một thanh giằng ngang khoảng một mét ở phía gốc tre thành một cái túi dài gần ba mét. Dân chài gọi đó là cái đáy lưới. Khi triều dâng người ta dầm mình ngập đến tận cổ, dùng hết sức ghìm cái lưới và đẩy nó đi nghiêng nghiêng theo dòng nước biển đổ hất vào sông. Cái đáy lưới vật vờ trong nước như đuôi một con trăn khổng lồ kéo ngửa người đem lưới về phía sau. Những con cua bị lưới đón lấy rồi trôi vào túi đáy. Có đêm gặp luồng đi của cua, lưới kéo được vài trăm con. Cứ vài giờ người ta phải đổ đáy ra thu gom cua vào một vật dụng gọi là cái nò. Cuộc đời chài lưới vất vả vô cùng. Ở miền biển, đa số thanh niên, đàn ông thì mới làm cái nghề này. Ngao sinh ra lớn lên là chàng trai lực lưỡng, lao động chính của một gia đình ngư dân. Tháng tháng năm năm, biển cả và những kỉ niệm nước ròng nước rạc, mùa màng, thời vụ đã thấm vào máu thịt đời Ngao... Đang mải mê buông theo dòng suy nghĩ, bất giác Ngao nhìn xuống sông. “Kìa, mặt sông sao bỗng thẫm đen lại. Chuyện gì lạ nhỉ?” Ngao có cảm giác nước sông đặc quánh, tự nhiên anh thấy nó bí hiểm và ghê rợn vô cùng. Nhìn về đầu nguồn, nơi gần cửa biển Nhật Lệ cách chỗ Ngao không xa hình như có một chiếc thuyền đang trôi. Đúng là một chiếc thuyền đang trôi rồi... Ngao đứng cao người, dán mắt dõi nhìn vào khoảng tối. “Nhưng, là thuyền ai vậy? Thuyền ai bị tuột dây chăng?” Ngao chợt nghĩ rồi vội vàng chạy đón đầu con thuyền đang từ từ trôi ra cửa biển. Trong bóng đêm mập mờ, Ngao thấy rõ chiếc thuyền có mui, bơi chèo thả lỏng vật vờ đang dập dềnh trôi theo dòng nước. “Ồ. Thuyền ai đứt dây chăng? Thuyền ai? Mà, hình như thuyền không có người thì phải? Chắc chắn, thuyền của làng chài ta bị tuột dây buộc rồi...” Ngao cuống lên, tấp tểnh chạy xuôi theo bờ để đến ngang con thuyền. “Chắc chắn trên thuyền không có người. Mình phải bơi kéo nó vào. Việc làm hữu ích đây. Ngày mai, sẽ có người đến tìm chuộc lại...” Nghĩ vậy Ngao vội cởi hết quần áo, cuộn chúng lại với nhau bỏ lên nạng ba cây bần ở bờ sông sát bờ đê, rồi cởi hết quần áo chạy lêu nghêu lao xuống cửa sông. Vừa ùa xuống, Ngao chợt rùng mình vì nước lạnh. Trời cuối thu, chả mấy nữa đã mùa đông rồi mà. Mặc kệ! Ngao nghiến chặt răng, nhào người bơi thật nhanh về phía con thuyền. Dân sông nước, Ngao lao đi như kình ngư, phút chốc đã bám sát mạn thuyền. Đang định nhún người leo lên, bỗng Ngao khựng lại, buông tay cho người nhẹ chìm xuống nước. “Ồ. Trên thuyền có người. Chết thật, không khéo họ lại nghĩ xấu về mình. Ngỡ mình là kẻ trộm thì sao? Phải chuồn ngay, kẻo bị phát hiện thì khốn…” Ngao quơ vòng tay, định bụng chuồn đi. Nhưng anh thoáng định thần lại, nghĩ. “Có người thật. Không phải chỉ một… mà hai người. Họ đang làm cái trò gì vậy?” Vừa nghĩ, Ngao vừa quay lại, bơi rất nhẹ và bám lấy cọc chèo phía lái thuyền. Ngao cố nhô đầu lên, nhìn thật sâu vào khoang. “Ồ. Mắt mình có lẫn không? Không thể. Ngao nhìn lại lần nữa, lần nữa. Ôi. “Mục sở thị” rồi. Hai năm rõ mười nhé. Đúng là chuyện con “chuồn chuồn” mê li. Khủng khiếp...” Ngao dán mắt vào khoang thuyền, nơi có hai người trắng ngộn, cứ mờ mờ, ảo ảo trong tiếng thở, tiếng rên. Con thuyền mỗi lúc một tròng trành mạnh hơn. Ngao bám nhẹ vào cọc chèo lái thuyền nhìn hai thân hình trắng ngộn đang cuộn bện vào nhau như hai con thằn lằn. Rồi, tiếng thở hổn hển. Tiếng rít lên như con mèo động đực: “Ối trời ơi. Ối anh ơi. Em đã đến Thiên đàng... em lên đến Thiên đàng rồi anh ơi! Ối, anh ơi...” Nghe tiếng rên rỉ to quá, Ngao giấu mình chìm sâu dưới nước, nhưng mắt vẫn không rời nhìn người đàn bà nhoài lên, ngồi trên bụng người đàn ông. Cặp đào tiên thổn thển đổ ra, đung đưa như hai quả bòng. Mái tóc dài xõa xuống. Tóc bờm xờm cả sau lưng, trước mặt. Ngao cảm thấy mặt mũi mình nóng ran, máu chạy rần rần trong người. Ngao tì sát vào mạn thuyền, cả người anh bị rung lên từng nhịp, từng nhịp hưởng ứng dư ba của cuộc tình đang lên đỉnh điểm trong khoang thuyền. Người đàn bà trong cơn cuồng si, hai tay chống người lao đi lao lại như cưa gỗ. Khi mặt người đàn bà quay nghiêng, Ngao nhận ra, người đó rất quen: “Ồ. Tưởng ai, hóa ra mụ Hến “Phụ nữ”. Con mẹ Hến này ở đầu thôn một. Gớm nhỉ. Mụ Hến mắt lúc nào cũng ướt rượt, đen láy. Khuôn mặt lúc nào cũng rừng rực rừng rực, rửng mỡ. Đúng con mụ rửng mỡ. “Thèm đực” đây rồi. Tự dưng vợ chồng nhà nó giường chiếu đoàng hoàng mà lại kéo nhau ra thuyền đú đởn thế à? Nhưng, loại đĩ đực. Liệu có phải chồng? Không! Không phải chồng! Vợ chồng không thể có chuyện ấy. Thằng chồng con Hến nhỏ, hắt hiu, bệnh binh có chế độ mà bất mãn, suốt ngày say xỉn chửi vợ chửi con. Lại đen như củ thục củ tam thất kia mà. “Bồ bịch” nhố nhăng rồi. Nhưng, thằng cha này là ai? Da trắng nhởn. Người cao, to, mập nữa cơ... a, đúng con chuồn chuồn rồi, thằng cha này là Trưởng ban chính sách. Mấy lần lên xã, Ngao đã gặp, lẫn vào đâu được. Phó “phụ nữ” với trưởng “chính sách” mà cuộn nhau thì thuyền có trôi ra biển đông biển tây gì cũng bé như cái đinh nhá. Ngao nín thở hơi dài. Dường như không kìm được nữa, anh bỗng bật lên tiếng ho. “Bỏ mẹ rồi. Xử lí sao đây?” Lập tức, trong khoang cũng lặng đi. Rồi, thằng người đàn ông vùng dậy, lao về phía đuôi thuyền vồ lấy cây sào. - Thằng nào đấy? - Thằng nào? - Mày định giở trò gì hả? Ngao chuồn nhanh xuống nước lao đi. Không hiểu thằng đàn ông chủ định đánh, hay hắn vội bơi chèo chạy trốn mà làm dữ dằn thế. Ngao vừa bơi ra xa vừa nghĩ. Bỗng thằng người nhộng trên thuyền vồ lấy cây sào. Cây sào này ngày hôm trước đã được chủ nhân lên rừng đẵn một cây tre gai đực chắc như sắt. Cây tre gai được vót nhọn như cái lao để đâm con thú. Dân sông nước ở vùng quê này vẫn dùng cây sào để chống chèo vượt cạn khi sóng to gió lớn, thuyền mắc cạn cồn cát giữa sông. Ngã ba sông Trần Xá bắt nguồn từ thượng lưu trên rừng Trường Sơn đổ ra cửa sông giáp ranh với ngã tư cửa biển Nhật Lệ. Con sông Kiến Giang bắt ngang qua với con sông rào trú, Rào Đá, Long Đại rồi đổ về cửa biển. Ở ngã tư cửa sông đổ ra biển đó có một cồn cát, cồn cát tạo thành một xoáy nước. Thuyền nào đi qua xoáy nước mà không vững lái mạnh chèo thì dễ bị chìm. Gần xoáy nước, bên bờ sông có mấy cây bần bám gốc rễ từ thời nảo thời nào. Con thuyền không lái đó mới đâm thẳng vào đấy. Khi Ngao vừa ngoi lên khỏi mặt nước đến gốc cây bần to rồi như con nhái leo lên chạc ba cây bần chẳng khác nào con vượn. Thằng người nhộng trên thuyền chăm chăm nhìn xuống mặt nước. Ánh trăng vằng vặc soi rõ thằng người nhộng dưới nước nhẫy nhụa khi tụ khi tan. Thằng nhộng trên thuyền nhăm nhăm cây sào chỉ chực chờ đâm chí tử đối thủ. Mụ Hến không kịp mặc quần áo tóc tai xõa như bóng ma trắng lốp ra đứng mũi thuyền nhìn quanh nhìn quẩn. Trên cây bần, Ngao như người bị hớp hồn quên ngay cái sự nguy hiểm, bụng nghĩ “ôi nàng tiên cá của chàng”. Nhìn theo thằng người nhộng trên thuyền không thấy gì, Hến thông minh nhìn lên cây bần. Hến chỉ tay lên cây bần nói to: “Kìa, thằng quỷ đang ở trên cây kia kìa”, Hến thất vọng vì lúc này thằng người nhộng trên thuyền càng ra sức dùng sào đâm xuống hình bóng người nhộng trên cây soi xuống dòng sông. Bất ngờ, thằng người nhộng trên thuyền trở đầu cây sào, đâm chí mạng lên chạc ba cây bần nơi thằng người nhộng đang đu trên đó. Mất cảnh giác, không tránh kịp, cây sào nhọn sắc như lưỡi lê đâm rạch từ mé sườn bên phải trượt chéo xuống vùng háng. Cái “giống đực” giả của Ngao đứt phựt. Ngao như quả sung chín lựng rơi bùm xuống dòng sông. Khi thấy đối thủ rơi xuống nước, thằng người nhộng trên thuyền kéo mụ Hến vào khoang… một cảm giác tê lạnh, buốt nhói và choáng váng. Ngao cố lấy hết sức bơi về phía bờ. Khi hai chân vừa chạm lớp bùn, Ngao mới biết toàn thân mình đang run lên lẩy bẩy. Đầu như vỡ ra. Cơn đau ở chỗ bụng dưới nhói, xót buốt lên tận óc. Ngao đưa tay xuống háng, miệng suýt xoa kêu lên. “Thôi chết. Cái “của quý” đã bị chém rách, rơi mất rồi... trời đất ơi. Trời đất ơi...” Bây giờ thì mắt Ngao bỗng tối sầm. Sông nước quay cuồng một màu đen kịt. Cơn đau lan nhanh như một mũi xiên từ dưới xuyên qua ruột, qua gan, qua tim phổi rồi xuyên lên tận đỉnh đầu. Ngao vật mình nằm xuống. Anh đã ngất đi lúc nào không biết. *** “Thằng nào đấy anh?” “Thằng quỷ”. “Quỷ nào... thằng chồng mụ Hiền ngoài bãi sông hử?” “Không nó thì người nào giờ này còn mò mẫm ngoài này… nào, ta tiếp tục lên giời chứ…”. Nhìn bộ dạng người đàn ông vừa cho mình lên Thiên đàng, mụ Hến cười nhạt: “Phải gió phải nước đang rũ như rọc khoai thối thế kia liệu có còn đủ sức cho con này lắc dăm ba lắc nữa không…”. “Mụ cứ lắc thoải mái đi. Nhưng chuyện hôm nay của chúng ta, thằng quỷ đã biết, phải xử lí thế nào?” “Ô hay nhỉ, lần giao ban trước, anh đề nghị cắt tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ của nhà nó chưa được thông qua, nếu nó nói ra chuyện của ta, lần này anh cứ làm báo cáo lên trên đề nghị hiện tại “liệt sĩ” đã về nhà sinh sống với vợ con thì cắt tiêu chuẩn là đúng…”. “Ừ nhỉ, có thế mà mình không nghĩ ra...” “Thế ngộ nhỡ nó không nói chuyện chúng ta hôm nay thì sao…”. Cố tình kéo dài thời gian để “rọc khoai thối” hồi phục sau những cái vuốt cái lắc của đôi bàn tay cào don cào dắt bắt còng bắt cáy rất điệu nghệ những ngày còn chưa “làm công tác”, Hến tự thưởng cho mình hôn lên bầu ngực của người giúp mình lơ lửng trên giời. Gió Nam hây hẩy. Bờ sông vang vọng tiếng kêu bìm bịp. Triều dâng, con thuyền lững lờ trôi về bến cũ… CHƯƠNG HAI C ó tới nửa tháng rồi, làng ven biển sôi lên tin đồn. Ở chợ. Nơi cánh đồng chỗ tụ tập đông người, nhất là những nhóm ngư dân đi biển... ở đâu, họ cũng kháo nhau cái tin. - Này, bên ni đã biết chuyện chi chưa? Người nghe lắc lắc: - Chưa! Nhưng, chuyện gì vậy? - Mũ ni che tai thật à? Chuyện tày đình. - Con kiến trong lỗ cũng truyền nhau chuyện lạ kia mà. - Chuyện lạ? - Vâng. Chuyện người làng biển mình đấy. - Người làng biển mình? - Chớ sao nữa. - Thật chớ. Vậy, kể đi đầu cua tai nheo thế nào, mụ? Người kể vẻ quan trọng, giọng thầm thì: - Mụ không biết thực sao. Cái “người quỷ” ở cồn vắng bãi biển làng mình ấy. - Người quỷ. Tôi có nghe nhưng chưa tường mặt lần nào. Hắn làm sao. - Làm sao á? Gái gú. Đực cái. Bị nó xẻo mất cả “chim.” - Bị xẻo chim? - Vâng. Bị xẻo mất toi cái “củ lẳng.” Hắn khỏa thân, nằm chết bên cửa sông Kiến Giang. - Cửa biển làng mình? - Chớ sao nữa. May mà bộ đội biên phòng đồn “Cửa sóng” đi tuần tra, kịp phát hiện rồi đưa vào bệnh viện. - Cứu được chứ? - Cứu được. Nhưng mất cha nó cái “gậy thằng ăn mày” rồi. Hết chọc ngoáy lung tung nhé. - Cho chết. Loại “dê cụ”. Mà, sao bộ đội còn cứu hắn làm gì? Đấy. Câu chuyện về Ngao đang được đồn thổi sau cái đêm Ngao tự cởi quần áo lao xuống cửa biển, cứu chiếc thuyền bị nghi là tuột dây trôi mất. Câu chuyện thật thế nào, ai hiểu được tường tận, thanh minh với ai? Ai tin lời Ngao nói. Rồi, người này đưa tin. Người kia bịa đặt thêm cho hấp dẫn. Lời đồn luôn có cánh cùng câu chuyện cứ truyền nhau “thằng người quỷ” đi chim gái bị thiến mất “chim” cứ mặc nhiên lượn bay trong tô vẽ, diễu cợt. Ngao đành ngậm tăm. Đành lần nữa, cay đắng mà ngậm bồ hòn vào ruột. Bây giờ, trong mường tượng, thấp thoáng, khi tỉnh táo, Ngao chỉ nhớ, đêm ấy khi rời con thuyền có đôi cặp tình nhân đang làm trò con nhấm con nhí, bơi được vào bờ, thì trước mắt anh là trời đất quay cuồng, mắt đổ hoa vàng, cả bầu trời sẫm một màu đen đặc. Có một vạch lờ mờ của con đê giúp Ngao xác định được phương hướng. Nhưng, chịu. Ngao không thể nào đứng dậy được. Có cái gì buốt nhói móc vào bộ hạ, kéo Ngao, ghìm anh xuống mặt đất. Cố gắng chỉ có thể ngồi lên và bằng chút sức lực còn lại anh lết đi như trong bài tập “lăn lê bò toài” ngày còn ở trong quân ngũ. Ngao lết được mươi mét đã đau hết cả người, anh gục xuống. Bên tai, trong cái ong ong đó, hình như có tiếng gọi mơ hồ: “Ngao ơi cố lên, chẳng lẽ đời mày chết dí ở đây sao? Đời mày đã bao nhiêu lần cận kề bom đạn với cái chết tại chiến trường mà vẫn sống được kia mà. Ừ. Phải sống. Ngao còn con, còn vợ quý yêu, đang mong đợi anh nhiều...”. Ngao tự nhủ tự đáy lòng mình như vậy. Ngao lê mãi, lê mãi bò lên được đến chân đê, cố trườn lên mặt đường, tay nắm lấy bờ cỏ sương đêm ướt đẫm, trơn tuột. Cổ họng khô đặc, người mệt lả đi, hai tai ù đặc. Người Ngao đẫm sương đêm hay là mồ hôi anh ướt vậy. Mệt quá, hai hàm răng Ngao nghiến vào nhau ken két, run cầm cập vì lạnh. Đêm vẫn đặc quánh, cái lạnh như sợi dây siết dần, siết dần vào người… bó chặt chân tay. Nó siết lên tận thái dương, bóp chặt lấy hai mắt, vật Ngao nằm xuống. Rồi, trong đau đớn tột cùng, Ngao mê sảng thấy chập chờn loáng thoáng bóng hình áo trắng, tiếng chân bước vội vàng gấp gáp. Có tiếng nói thì thào như người bị bịt miệng. “Nát bét hết rồi. Phải cắt đi thôi. Mà dương vật đã mất. Đã phẫu thuật. Cái “củ lẳng” giả đã được làm từ bao giờ...” Ngao nghe rõ tiếng dao kéo lách cách và đau nhói, có lúc lại rất buốt. Đau rợn và ớn lạnh. “Ôi. Ông trời còn bắt Ngao sống. Sao không để Ngao chết đi cho xong mọi chuyện đớn đau ở kiếp đời này…” Ngao nghĩ thế. Nhưng, khi được cứu sống, Ngao lại gồng mình, chịu “nhẫn.” Ngao nhẫn nhục trước điều ong, tiếng ve. Những xì xào đơm đặt ác ý và ghê tởm. Những cái cười khinh bỉ, dè bỉu nửa miệng của mọi người nhìn mình với sự lạnh lùng của bà con xóm biển: “Thằng người quỷ”. “Tên chó dái”. “Tên dê cụ”. Loại “đĩ đực”. Rồi, dậu đổ bìm leo, tất cả những chuyện trai gái của ai đó, từ tám hoánh nào, họ đem nhau ra bờ đê, chân sóng làm trò đú đởn, bây giờ dân làng đều chụp mũ, đều quy tội cho Ngao. Thôi, mặc đời. Ngao chỉ biết ơn trời. Biết ơn các chiến sĩ biên phòng và các bác sĩ bệnh viện đã cứu Ngao. Biết ơn người vợ của mình. Chỉ riêng vợ Ngao, người yêu thương, đáng nể luôn hiểu Ngao, tha thứ và đắp điếm cho Ngao. Thế là được… Ngao nói thế với vợ. Nhưng, vợ Ngao nổi đóa lên mắng té tát: “Sao cây ngay lại chịu chết đứng. Sao anh lại chịu nước mắm thối. Chịu để người ta chan tương đổ mẻ lên mình. Phải làm cho rõ chuyện này.” Làng biển này, ai lạ gì con mụ Hến lẳng lơ. Mụ đã có chồng với ba đứa con. Lão chồng bất mãn vì phải bỏ ra một mớ tiền mới chạy được suất “bệnh binh”. Phải mất tiền mới được là người có bệnh trong khi bệnh tật rề rề, tháng đôi lần đem sổ đi lĩnh thuốc. Bất mãn với chuyện xã hội thì còn có thể lí giải được chứ bất mãn với vợ với con mới khổ thân lão. Thế là lão vùi đầu vào hũ rượu, say xỉn suốt ngày để vợ theo trai đú đởn. Chồng thì tối ngày say mềm nằm bẹp, chó liếm miệng vệ sinh, vợ thì đóng bộ chải chuốt sáng chiều hai buổi cắp cặp lên trụ sở công tư công tác. Không thể để Ngao mang tiếng không tốt. Vợ Ngao nghĩ mãi, chị bảo phải quyết làm cho rõ trắng đen. Nhất là một sớm vừa ra khỏi nhà bước tới đầu làng, vợ Ngao đã gặp đám bốn, năm người chỉ trỏ, nói móc: “Mẹ kiếp, có con vợ nào mà ngu hơn tru (tiếng Nghệ giả cầy nói rất ác, ngu chi mà ngu hơn cả con tru). Chồng theo gái bị chồng người ta bắt cắt hết giống đực rồi mà vẫn cứ thương. Mày là con tru hả?” Tức quá, vợ Ngao nghĩ: “Không để thiện thua ác được. Không thể chánh nghĩa mà thua gian tà.” Nhưng, chưa nói, vợ Ngao đã bị chồng khóa miệng. “Thôi em, cho qua đi. Không chấp mà. Định bới thối lên mà ngửi nữa ư? Chuyện này vỡ ra, tan cửa nát nhà. Vợ chồng chúng nó bỏ nhau, làm khổ lũ trẻ lít nhít. Con mụ Hến cũng cảnh khổ như em thôi. Đây biết, anh chồng mụ ta từ ngày bị sốt rét ác tính, tiêm thuốc trụ sinh trụ đỡ gì gì đó cũng mất thiên chức đàn ông… rồi mụ vợ lão trưởng ban kia nữa, mưa rừng nắng núi những ngày ở Trường Sơn sốt rét trụi cả tóc trên đầu, bây giờ người như con cá mắm. Thằng chồng thì hùng hục như thế… rồi, lại khổ bố mẹ chúng. Các bậc phụ huynh hai nhà tám chín chục tuổi đầu. Thôi, để Ngao chịu. Đừng để gia đình họ tan đàn sẻ nghé. Tội nghiệp lắm. “Nhưng mà tui không chịu được. Anh không biết tui chịu nhẫn chịu nhục thế nào đâu. Đủ rồi, tui phải mần cho ra nhẽ…”. “Thôi, vợ ơi - Ngao nói như van vỉ - em hãy nghe anh. Em nghe anh đi nhé. Mình làm phước mà. Đừng đổ thêm dầu vào lửa, gây bi kịch thêm cho hai gia đình họ nữa. Thôi để riêng anh gánh chịu, em nghe...” Thấy vợ đã nguôi nguôi nhưng còn có vẻ chưa chịu bỏ qua, Ngao đổi giọng vuốt ve: “Mình ơi! Cả thế giới có lầm tưởng anh đi chim gái, bị họ thiến cống cồng đi chăng nữa cũng không sao! Anh chỉ cần em hiểu. Chỉ cần có em và con của chúng ta là đủ lắm rồi. Còn quả đất có sập đi chăng nữa cũng chẳng sao đâu em...” Ngao nói với vợ, để riêng mình nhận về tội lỗi cho Hến và xóm làng yên chuyện. Mà xóm làng yên chuyện thật. Bởi, người đời từng nói, ai cười mãi được ba năm. Đúng thế. Nhưng, riêng với Ngao, bão gió trong anh dường như vẫn dồn lên quặn thắt. Gió giật bão rung với Ngao thật từ khi Ngao được mời lên trụ sở Ủy ban. “Thay mặt lãnh đạo, tôi thông báo để công dân Vũ Xuân Ngao biết, kể từ nay gia đình anh không được hưởng chính sách gia đình liệt sĩ. Lẽ ra gia đình anh còn phải nộp lại số tiền trợ cấp thời gian qua đã lĩnh nhưng xét hoàn cảnh hiện tại và - ông trưởng ban hạ giọng - lãnh đạo cũng biết anh là người ngay thẳng, kín mồm kín miệng. Đặc biệt bên đoàn thể phụ nữ có ý kiến không truy thu tiền trợ cấp nữa…”. “Ô hay. Thế xương máu tôi đổ ra bây giờ thành con số không à?” “Công dân Vũ Xuân Ngao nghe đây… việc liệt sĩ trở về địa phương cũng có nhiều trường hợp rồi, nhưng ở hoàn cảnh anh thì lại khác. Anh còn sống, về nhà đoàn viên êm ấm với vợ với con thì dĩ nhiên không còn là liệt sĩ. Không phải liệt sĩ thì trên cắt tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ. Anh thỏa đáng chưa… còn việc anh về không có giấy tờ chứng thương, không có quyết định giám định thương tật thì dĩ nhiên không phải thương binh. Mà này, anh nghe rõ đây - ông trưởng ban lại hạ giọng. Lần hạ giọng này Ngao phải tập trung thính giác cao độ mới nghe thấy - cùng đàn ông đàn ang với nhau, cùng cảnh phụ nữ có chồng mà như không với nhau, chúng ta nên có cái nhìn thông thoáng một chút. Lãnh đạo công tác chính sách, công tác phụ nữ đã họp rồi thống nhất, sẽ lập cho anh một sổ trợ cấp thường xuyên với gia đình anh. Có điều tiền trợ cấp này không nhiều, so với tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ hoặc trợ cấp thương tật thì có thua thiệt. Những chuyện gì anh biết anh thấy tuy anh không nói ra nhưng cũng ít nhiều ảnh hưởng đến địa phương… từ nay anh nên biết mình biết ta mà an phận làm ăn. Nếu có gì còn lăn tăn anh nói vợ lên gặp tôi… tôi sẽ tìm cách tháo gỡ…”. *** Cuộc đời Ngao, theo lời kể của bố mẹ anh, từ thời còn mồ ma giặc Pháp đã khổ trần thân bông trái. Trong trận chống càn Cái Vịnh hòn đảo lớn nhất ở Vũng Chùa cạnh Đảo Yến, bố mẹ Ngao đã tình nguyện đi theo cách mạng. Ông bà cùng bốn gia đình nhận nhiệm vụ đi theo thuyền lái buôn, chở gạo và muối, tiếp tế cho Việt Minh. Buổi ấy, chẳng may bị lộ, tàu của Pháp truy đuổi. Đến ngã ba cửa biển Nhật Lệ, gió bất ngờ nổi lên, trời đùng đùng rung chuyển. Tiếng gió rít réo từng cơn như có hàng ngàn, hàng vạn mũi tên veo véo cùng lao đi. Sóng dềnh lên rung chuyển. Biển nghiêng ngả đảo điên như đang sắp bị lật úp ngược đến nơi rồi. Bầu trời sập xuống đặc quánh đen xì như mực bị những tia chớp loằng nhoằng, nhấp nhoáng xé toạc không trung ra từng mảng….“Giông! Giông ngông cuồng lạ nhỉ?… Trời, điên rồi. Nguy hiểm lắm đây…”. Ông Vũ Xuân Sao cùng vợ là Lê Thị Lược đang đi trên một chuyến thuyền. Hai vợ chồng cùng với ba gia đình nhận nhiệm vụ vận chuyển hàng trong vai lái buôn hàng chuyến. Vùng biển lúc ấy bỗng ập tới một cơn giông. Đất trời như chao đảo dữ quá. Ông Sao luôn miệng gào lên, đốc thúc mọi người sẵn sàng ứng phó với những đợt sóng, những luồng gió xoáy. Mưa to gió giật nguy nan trong cơn giông cơn bão thật kinh khủng. Nhưng, cũng nhờ trận bão mà thuyền của ông Sao và ba gia đình thoát khỏi cuộc truy đuổi của giặc Pháp. Hoàn thành nhiệm vụ, cả bốn gia đình đều được cách mạng ghi công… Trận bão ấy đi qua. Nhưng, đang mùa bão gió, liên tiếp, lại một trận bão khác tràn về. May mà, buổi ấy, đang định vượt khơi ra biển kiếm ăn, song thuyền ông Sao còn trì hoãn ven bờ, trông chờ thời tiết. Căn nhà tranh vách nứa của vợ chồng ông khi dựng đã cố ý cất tựa vào phía sâu hốc núi đá. Ngôi nhà lại được gông gõ buộc kĩ và ghì xuống đất bằng những cây mây cỡ to bằng cổ tay vắn thừng, vậy mà cơn mây đen bỗng ập về và bão gió giống như một mảng trời bỗng đổ ập xuống vẫn làm nó chao đảo. Gió giật, nước tạt điên cuồng ép ngôi nhà bẹp dí vào vách núi đá. Chưa nhổ phăng được căn nhà, những ngọn gió đảo điên tìm cách luồn lách đi vào mọi ngõ ngách của giàn gông buộc trên mái lợp để rút đi từng mảng tranh tre mà ném tung lên trời cho hả dạ cơn điên, cơn bấn loạn. Mặt biển dềnh lên, sóng tung bờ vọt lên đến đỉnh đảo, chưa mưa mà nước đã xối xả xuống ào ào như thác… Biết sức lực của con người lúc này trước biển cả điên cuồng chẳng còn nghĩa lí gì, ông Sao đành bất lực, phó mặc cho cơn giông thả sức tung hoành. Đứng ôm cây cột giữa nhà, tiếng ông Sao có lúc gào lên như ra lệnh cho con, nhưng đều bị cơn gió nuốt chửng. Mưa tầm tã như ném đá vào mặt. Tiếng gẫy răng rắc của cây, của một mảng mái nhà đang bị bão quăng quật, xé nát. Thấy một mái bỗng đổ rầm úp chặt lên người, Ông Sao hốt hoảng nhao tới, ôm chồm lấy Ngao, đứa con trai đang thét lên sợ hãi. Ông ấn Ngao chui vào gầm giường, rồi phủ phục ôm lấy Ngao, miệng liên hồi van lạy thần linh mang phước lành cho vợ con ông được tai qua, nạn khỏi. Chịu trận tới nửa tiếng đồng hồ, gia đình ông Sao đã gần như kiệt sức thì cơn giông mới chững lại. Ông Sao vội ngước lên ngơ ngác nhìn cánh rừng trước nhà thấy trống huơ trống hoác. Mấy ngàn cây xà cừ trồng bốn, năm tuổi giờ đổ gãy ngổn ngang. Một vài cây còn sót lại thì cũng bị gió vặn như xoắn dây thừng đến tướp toanh ra hết. Ông Sao đứng nhìn ngao ngán, tiếc của, thương mình mà suốt đêm ông không sao chợp mắt hết than ngắn thở dài. Thiên tai gieo tai vạ thật kinh khủng, con heo nái trong chuồng sắp đến ngày sinh bị trận gió bão hốt gọn tung lên trời rơi xuống đất chết tức tưởi. Thật kì lạ, heo nái tòi ra một đống chùm ruột thấy lúc nhúc lúc nhúc bầy tám con. Con trắng con đen lốm đốm cựa quậy rúc rúc tìm sữa mẹ bú trông chúng nó thật thê lương tội nghiệp. Giờ kiếm đâu ra sữa mà nuôi bầy heo con này? Nhìn cảnh tượng thấy chua chát trong lòng. Ông Sao hết đứng lại ngồi bối rối với cảnh ngộ của đàn heo như vậy cho tới lúc có tiếng gà rừng lẫn gà nhà cất tiếng gáy ran. Thằng Ngao đang mơ ngủ hai hàm răng nghiến nhau nghe như mọt đang đục khoét cột nhà sắp đổ rồi mà nó thì vẫn quơ quàng vươn tay tìm kiếm rồi rúc đầu vào nách bố. Ông Sao nâng nhẹ đầu con lên, luồn cánh tay chắc nịch vằn cuộn cơ bắp của mình vào làm gối cho con. Sao vuốt nhẹ mớ tóc xoăn xoăn tự nhiên của con và ghì đầu nó vào lòng. Mười hai năm trôi qua, đây là cái điệp khúc Sao lặp lại từng đêm niềm hạnh phúc nhỏ nhoi còn sót lại để nén sâu nỗi buồn vẫn âm ỉ như đống trấu ngún cháy trong lòng. Mắt Sao căng mọng, đăm đắm nhìn sâu vào màn đêm. Mỗi lần đi qua trận bão, trên đất biển này, nỗi đau của Sao lại tấy lên như vết thương không bao giờ lành được. Cũng như đêm nay, khi ôm thằng Ngao bò dưới gầm giường rồi biết mình còn sống sót qua cơn giông vỡ trời, vỡ đất, Sao lại không ngủ lọ mọ thắp nén hương trong đêm, khấn vái linh hồn vợ ông và nhớ mười hai năm về trước… Chiều ấy, những cơn gió mùa đông bắc còn rớt lại tạo nên vùng áp thấp bất đắc dĩ đột ngột giữa biển khơi. Rất nhanh, chớp nhoáng dữ dội, những cơn lốc xoáy, di chuyển không theo phương hướng nào khiến tàu thuyền trên biển không biết đường tránh nạn. Chính cơn lốc tố dữ dằn này đã dìm con thuyền của Sao, cướp đi người vợ trẻ đang mang thai rồi hất bố con Sao lên hoang đảo. Phút định mệnh diễn ra cuộc chia li đau xót ấy, bây giờ mỗi lần ngồi nhớ lại, Sao vẫn còn vảng vất cái bóng vật vờ với tiếng kêu đứt đoạn của vợ: “Mình ơi! cứu em với! Cứu em với! mình ơi!” Nhìn bóng vợ lúc nổi lúc chìm, đang xa dần mất hút, Sao xót xa, bất lực… không biết số phận Sao cũng sẽ tan vào mây nước phương nào. May mà, có một phao do ông trời đem lại, Sao ôm chặt con cùng khúc gỗ chống chọi với giông bão, mặc đất trời đưa đẩy dạt trôi. Sau này, dừng lại nơi hoang đảo, buộc chặt đời mình với một vùng chân sóng, chiều chiều Sao cứ ôm thằng Ngao ngơ ngác, lặng nhìn ra phía biển. Nơi ấy, sóng dềnh lên sùng sục như thể có hận thù gì với Sao. Sao chẳng nhớ, đã biết bao hoàng hôn, biết bao bình minh ôm con đứng như tạc vào chân đảo hoang vu này. Bao nhiêu đêm tiếng gọi của người vợ còn ai oán vọng về: “Mình ơi! Cứu em với! Cứu em với! Anh Sao ơi!” Bao nhiêu đêm, Sao đưa tay dụi mắt, tự hỏi mình đang thức hay ngủ? Tiếng gọi vọng từ đâu? Tiếng gọi xoáy vào tai mình, nghe rõ lắm. Những lúc ấy, Sao vội nhổm dậy bên giường, lấy chiếc gối đè ngang người con, nhẹ nhàng lách ra khỏi nhà, đi vội xuống bậc cửa ra biển. Sao nhìn biển. Nhìn về hướng đông. Đứng từ xa nhìn lại thấy đảo hoang này có hình thù tựa như một con thuyền đầu đối đầu với sóng gió, lại giống như bàn tay giơ ra đón mọi thứ vào lòng. Ngày bị đắm thuyền, bố con Sao chỉ bám nhờ được vào khúc gỗ mong manh mà dạt về mom đảo này, thoát chết… Nhớ lại phút biết mình sống sót, khi vừa tỉnh giấc giữa đầu mom, nhìn chân sóng bên mình, Sao lại bàng hoàng, thét lên kinh sợ. “Trời! Lược ơi! Lược ơi! Rõ ràng xác vợ Sao đây rồi. Xác vợ Sao đã theo Sao, tìm Sao về nằm bên lớp bọt rều, cỏ rả.” “Biển cả kinh sợ, hãi hùng ơi. Biển cả đã cướp đi người vợ thương yêu của Sao. Nhưng, biển cả lại dẫn linh hồn thể xác vợ Sao, tìm theo Sao về đến tận chốn này.” Sao gào lên như bị ai đâm, ai chém. Sao ôm chầm lấy xác vợ. Sao vuốt ve, sờ nắn lên đôi mí mắt, ngón tay, từng làn da đã bị cá cua, cắn gặm tả tơi, rách nát. Sao ôm vợ, một mình vừa khóc vừa lúi cúi đào cát vùi xác vợ mình xuống góc khuất của bãi vắng, giữa um tùm cỏ dại. Giọng Sao than vãn như đất vỡ trời tan: “Ới Lược ơi! Ới vợ ơi! Ới, em yêu thương của anh ơi! Ới trời cao đất dày ơi! Sao đời tôi khổ cực dường này. Ối Đức Phật, Thánh Thần, đức tối cao vô thượng kia, sao kiếp người thương đau là vậy. Ới Ngao ơi, đứa con trai bé bỏng của ta...” Sau đận bị bão giông cuốn xác Lược dạt về chân sóng, Sao đổ quỵ, ngỡ không đứng dậy được. Nhưng, không thể, Sao còn Ngao, đứa con trai bé bỏng, dại dột kia. Sao phải sống, phải cắn răng gồng sức mà đứng dậy. Chọn chỗ cồn cát cao, nhìn ra chân sóng, Sao dựng túp lều dưới một bóng cây và xung quanh um tùm là cỏ. Nhà Sao, giống như vùng biệt lập. Có lẽ, Sao là người xóm lẻ đầu tiên cắm đất làm ăn sinh sống ở đây. Xóm cồn hay còn gọi là trại lẻ nơi hoang đảo này, vắng vẻ, nằm cách xa làng biển hàng cây số đường mòn. Bố con Sao hàng ngày phơi mình trên bãi vắng kiếm ăn. Ở trại lẻ vừa qua giỗ đầu Lược người vợ xấu số mà Sao nghĩ chỉ vừa mới qua đời. *** Một việc lại xảy ra với Sao, câu chuyện như truyền kì, cổ tích. Một sớm, trời bỗng xanh lên cao vợi. Sau trận bão kéo dài tới hai ngày ba đêm, mặt biển bỗng bình yên đến lạ. Khi mặt trời vừa nhô khỏi mặt sóng nửa quả cầu đỏ khổng lồ, Sao cùng Ngao, hai bố con vùng dậy, lao ra bờ biển. Đang ngắm nhìn dấu vết tàn phá ghê gớm của trận bão vừa qua, Sao vỗ vai con ra lệnh im lặng: - Có tiếng người con ạ. Hình như, ai đó đang kêu khóc, phải không? - Vâng. Có tiếng khóc… - Nghe kĩ xem. - Đúng. Có tiếng người đang khóc. - Hình như, là trẻ con thì phải. - Vâng. Đúng rồi. Tiếng trẻ con, tiếng một cô bé gái... “Đúng. Tiếng trẻ con. Tiếng một cô bé” - nghe và phán đoán vậy, Sao để mặc con trai đứng trên bãi biển một mình, anh co chân chạy một mạch về phía tiếng khóc. Khi bước chân đột ngột dừng lại, Sao ngẩng lên nhìn. Kìa, trong hốc đá một cô bé chừng mười tuổi, tóc rũ rượi, da tím tái, môi thâm nhợt, miệng liên tục kêu lên câu gì không rõ. Sao vội lao đến ôm chầm lấy bé gái, dỗ dành: - Kìa, cháu. Cháu làm sao? Đừng lo, cháu ơi. Có chú đây rồi mà. Ồ. Mà cháu làm sao? Làm sao cơ chứ. Sao hỏi dồn dập, cô bé chưa hết cơn sợ hãi và chưa nói được gì. Phải ôm chặt bé, định thần cho bé qua cơn chấn động lớn, Sao mới nghe được điều bé kể. “Tên bé là Hiền. Hiền gái đầu, con một, quê vùng biển, cách cồn cát này hơn bốn mươi cây số. Bố mẹ Hiền làm nghề chài lưới. Chuyến ra khơi cách đây mấy ngày, cơn giông bất ngờ đã vùi xác bố mẹ Hiền vào lòng biển cả. Không hiểu bằng cách nào bé Hiền lại sống sót, được sóng biển đưa vào hốc đá này. Cơ sự diễn ra không còn phương sách nào khác, Sao đưa bé Hiền về túp lều cùng chung sống với mình. Những ngày sau đấy, Sao đã bỏ công tìm về tận vùng quê Hiền sinh ra để lo liệu cho Hiền về đoàn tụ gia đình. Nhưng, quê biển, nơi Hiền sinh ra không còn ai khác. Ông bà chú bác đều đã khuất núi. Anh em thân thích cũng chẳng còn ai. Hiền bơ vơ, xin được Sao chở che, cho sống chung trong gia đình như những người ruột thịt. “Có lẽ, đây là cơ duyên trời đất - Sao ôm bé Hiền tự nhủ - ông trời đã bắt Hiền trôi dạt về hốc đá này, để Sao cứu Hiền. Để Hiền buộc vào gia đình Sao một nút buộc của những người cùng chung số kiếp. Hiền là con, là cái của Sao. Là chị em với thằng Ngao, đứa con trai cút côi, không mẹ. Sao bỗng trở thành người bố góa bụa, cảnh gà trống lụi cụi nuôi con. Dưới túp lều nhìn xa giống như một gò nổi, hiện lờ mờ dưới bạt ngàn lau cỏ, Sao và hai đứa trẻ như ba con còng một to hai bé trên bờ biển vắng. Hàng ngày, ba cái bóng nhỏ li ti như ba cái chấm đen chạy lang thang trên bãi. Khi thì họ kéo lưới, đuổi còng, khi thì họ ngụp mình dưới chân sóng mò tìm cuộc đời mình trong săn tìm, đánh bắt, những mong có được cái gì để kiếm kế sinh nhai. Sống với cảnh nghèo, vật vờ cho qua ngày đoạn tháng, chỉ biết bốn bức tường chật hẹp của túp lều với trước mặt là mênh mông sóng biển. Khi bất chợt ngước nhìn quanh mình, nhìn mùa cây thay lá, một buổi, Sao bỗng nhận ra: “Trời, mới đó mà Hiền đã tuổi trăng tròn. Đã bước vào cái tuổi mười sáu, tươi non phơi phới sức xuân.” Một lần tắm, khi thay quần áo, Sao lén nhìn và chợt dừng lại trong cảm giác lạ lùng ở sự đổi thay của Hiền, của người con gái từ lúc nào đã bước vào tuổi dậy thì, đổi khác. Hai vồng ngực Hiền căng phồng. Đôi núm vú đỏ rựng. Mắt long lanh như chứa chan biển nước. Là người bố nuôi Hiền, nhưng không phải ruột rà, máu mủ, có cái gì đó vô hình trong rung cảm của giới tính, của hai phía âm dương mang thuộc tính như ông trời vốn sinh ra nó. Có lúc, Sao bỗng thấy một tình cảm lạ lùng, không rõ rệt cứ âm ỉ cháy lên trong thẳm sâu va đập, trong cái “dục”, cái vẩn vơ suy nghĩ của mình. Đã sáu, bảy năm trời mất vợ, Sao đã không còn và cũng đã quên đi cái mùi vị ái ân, mùi vị đàn bà. “Sao bỗng dưng hôm nay, khi bất chợt nhìn thấy Hiền, thấy sự khác biệt chỗ nhạy cảm nhất của người con gái kia, Sao lại đổ đốn ra cái trạng thái, với cái gì thật lạ kì đang trỗi lên như vậy? Không. Nhất định không...”. Sao vội vàng gạt đi cái ý nghĩ vu vơ vừa tràn tới đầu mình. Không thể như thế. Hiền là con, Hiền phải có một cuộc đời phía trước riêng nó, trong khát mong và hẹn đợi của nó. Sao đã nghĩ chín như vậy và luôn gạt đi những gì thường mơ hồ lạc tới. Nhưng, một đêm, trên biển vắng, Sao giật mình khi Hiền, đứa con nuôi bỗng cầm chặt tay Sao, nước mắt chảy tràn, giọng run run. Hiền nói với Sao dưới một đêm trăng, ánh vàng miên man trôi trong lặng lẽ. - Bố ơi. Con muốn... con muốn... muốn thay mẹ, muốn bù đắp và trả nợ cho bố… - Con nợ gì? - Một món nợ nghĩa tình… - Nợ nghĩa tình? - … - Con nghĩ thế sao? - Con... con... Hiền gục vào lòng Sao. Sao nắm chặt tay Hiền. Còn Hiền run run không cất được nên lời. Mãi lúc lâu, khi đã ôm chặt lấy Sao, đầu tựa vào vồng ngực người bố đang dồn lên tiếng đập, Hiền mới ấp a, ấp úng: - Trước hết, bố tha thứ cho con. Bố tha thứ cho con chứ? - Ờ, con cứ nói. - Con thương bố mất vợ. Thương bố côi cút một mình. Thương bố thủy chung, sống nặng tình nặng nghĩa. Đời con là của bố. Bố đã vớt con, cải tử hoàn sinh cho con từ cái chết kinh hoàng nơi biển cả. Bây giờ, con còn được sống. Con còn có mặt ở cuộc đời này là nhờ có bố. Vì có bố, bố ạ... - Vậy là thế nào Hiền… Sao hỏi câu ấy với Hiền. Mắt Sao sáng lên lạ lùng. Hiền như người đang bơi trong cơn say, cũng bỗng nhiên tỉnh táo, giọng nghe sáng trong, gẫy gọn hơn. Hiền bảo: - Con xin thay mẹ Lược. Con xin làm vợ bố, được không? Con xin mang đời mình đền bù ơn nghĩa... Là người lớn hơn Hiền tới mười lăm, mười sáu tuổi, nhưng Sao thực sự bị “sốc.” “Trời. Cái ý nghĩ gì vậy. Một cái nghĩ của Hiền, của đứa con nuôi. Của người con gái giữa bao nhiêu ràng rịt của nỗi niềm, của tình đời nặng sâu ân nghĩa”. Phải tới hàng tháng, hàng năm trời, câu nói của Hiền cứ làm Sao như người bị vùi vào xoáy biển. Sao choáng váng. Có lúc, Sao lại lặng đi như người mất hồn. Nghĩ đến nát ngày đêm, nát cả cái đầu cứ âm âm, u u như có ong bay, gió vọng. Một buổi, trong đêm, cũng dưới bóng trăng vàng. Trăng giống như quả chín treo trước hiên nhà, Sao gọi Ngao, đứa con trai duy nhất của mình và Hiền, đứa con gái nuôi ngồi quây quần dưới manh chiếu trải trên bãi cát. Vẻ hệ trọng, giọng Sao chậm thầm thì giống như gieo từng câu, từng chữ: - Này, Ngao. Này Hiền, này… - Dạ, thưa bố - Ngao và Hiền cùng ngước lên nhìn như uống thấm từng lời. - Các con... các con nghe bố nói nhé. - Bố nói chi ạ? - Nhưng bọn mi phải nghe... - Thì bố cứ nói đi. - Nhưng, bọn mi phải nghe bố. Không được chống lại. Không được chối từ. Bọn mi phải làm theo thì bố mới vui, mới yên lòng, mới thỏa nỗi niềm bố hằng mong đợi... - Sao dừng lại rồi hất hàm hỏi - hai con có nghe không? - Dạ. Có. Chúng con nghe bố chứ. Nhưng điều gì khó nói mà bố phải úp mở đến vậy? Rào đón, che chắn mãi, khi đẩy được Ngao và Hiền vào tới điểm nút cần buộc, Sao mới thủng thẳng nói: - Bố muốn Ngao và Hiền, hai đứa chúng mày sẽ thành vợ thành chồng. Hai đứa sẽ ở với nhau, lấy nhau. Sẽ thương nhau, sẽ vì nhau mà sống cho trọn cuộc đời này. Hiền hơn Ngao bốn tuổi. Gái hơn trai đôi ba cái lá vàng, không sao cả. Ngao chân thành, chịu thương, chịu khó. Hiền yêu thương, quán xuyến, đảm đang. Hai đứa thương lấy nhau. Ông trời buộc rồi. Bố nghĩ, ông trời đã run rủi, chắp se từ buổi cho con Hiền sống sót, cho bố gặp con, đưa con từ hốc đá về sống dưới mái nhà này. Đã hơn bảy năm trời, bây giờ, ông trời đã dẫn các con đi về bờ bến đó... Sao nói khá dài. Nói vòng vo xuôi ngược đủ điều về lẽ đời, về mối quan hệ khá riêng, có khi là dị biệt ở làng biển này giữa mối tình của Sao, của bố con nuôi, của hai anh em Hiền Ngao, người sống trong ngôi nhà nhưng không cùng ruột rà, máu mủ. Buổi ấy, trong căn nhà với câu chuyện hệ trọng được người bố đặt ra, Sao phải trả lời Ngao và Hiền bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu kẽ hở của cái nghĩ còn thiếu trống, hoặc khó gỡ hoặc còn nhiều đắn đo, trăn trở, cả nhìn ra miệng luỡi người đời. Cuối cùng, khi Ngao và Hiền đã ngồi sát vào nhau, ôm chặt lấy nhau, thề thốt cùng nhau, theo lời nguyện của người bố, ông Sao mới yên lòng. Ông ùa tới, ôm lấy hai đứa. Ông khóc, nước mắt trào ra đầy mặt: - Là người bố, trước linh hồn mẹ Lược. Trước linh hồn hai ngôi “mộ gió” ngoài biển cả xa kia, người sinh thành ra Hiền, bố xin cầu nguyện và chắp se cho hai con thành vợ, thành chồng, nghĩa trăm năm phu phụ… Nói với Ngao và Hiền chừng đã đến điều. Đêm ấy, Sao dẫn Hiền và Ngao ra ngôi mộ người vợ, ông thắp nén hương rồi bảo Hiền và Ngao quỳ xuống. Ông cũng quỳ hai đầu gối và gục đầu xuống cát, kêu trời : - Con lạy uy linh thiên địa. Lạy tả Nam Tào, hữu Bắc đẩu. Ngọc hoàng vị chủ, tứ phủ công đồng. Lạy biển cả vô lượng, uy linh. Tấu lạy linh hồn mẹ Lược sống khôn, chết thiêng... con mong các chư vị phù hộ, độ trì cho hai đứa Ngao Hiền, vốn nặng sâu tấm tình huynh đệ. Từ nay nên gia thất, vợ chồng. Từ nay trọn nghĩa phu thê bách niên giai lão... Khấn xong đôi dòng trước mộ, ông Sao khóc. Hiền và Ngao cũng sụt sịt khóc theo. Quá khuya, ba người mới lặng lẽ quay về. Trước khi bước vào nhà, ông Sao kéo Hiền đứng lại, giọng thật trầm và nhỏ: - Bố cảm ơn Hiền, Hiền nhé. Bố cũng là đàn ông. Bố quý Hiền, yêu Hiền nhiều lắm. Nhưng, con yêu thương lấy Ngao, Hiền ạ. Con yêu Ngao, lấy Ngao bố mới vui, mới thực sự yên lòng. Bố đã nguyện thề với Lược, đã thầm hứa và làm được điều này trước linh hồn một người vợ đã khuất... non tháng sau, kể từ buổi tự làm lễ “ông Tơ bà Nguyệt” cho hai đứa Hiền Ngao, một chiều, ông Sao gọi hai con về thông báo: - Ngày kia, bố lên huyện tập trung rồi. Bố đi đâu hở bố? Sao đột ngột vậy. - Đi bộ đội. Bố tình nguyện gia nhập đội quân thường trực mà. - Bố đi lính. Bố bỏ chúng con ở lại một mình ư? - Không lo. Bố đi đánh giặc cứu nước mà. Với lại, bố vui đấy. Bố yên lòng vì các con đã trưởng thành, khôn lớn... Buổi ấy, tiễn đưa người bố lên đường, Ngao và Hiền đi bộ cùng ông Sao lên tận dốc đê. Khi bóng người bố lẫn nhòa vào khoảng không xa lắc, khuất dần giữa bạt ngàn cây cỏ, hai đứa mới quay gót trở về túp lều tít tận vùng chân sóng. Bóng Hiền và Ngao in tròn vo theo từng bước lặng trầm. CHƯƠNG BA K huya. Đêm. Biển lặng. Những con sóng ngủ im trên bờ cát chạy dài. Ánh trăng suông ảo mờ một màu vàng đục. Ngao bật dậy, khêu to ngọn đèn nhìn mặt Hiền vẻ tươi trẻ, mơ mộng. Cơn ái ân thỏa thuê của đôi vợ chồng mới đã đưa Hiền vào giấc ngủ mê say. Ông Sao, người bố đã đi xa để lại ngôi nhà chỉ còn đôi trẻ. Cuộc đời của Ngao và Hiền đã bước vào lối rẽ khác rồi. “Hiền ơi. Chúng mình sao, em nhỉ? - Ngao nhìn Hiền, thầm gọi - Hiền này. Ta có tội gì không? Ta là vợ chồng. Ta từng là anh em. Hiền về đây, làm thành viên của cái gia đình nghèo khổ và nhỏ bé này Ngao đã coi Hiền là ruột rà máu mủ. Chúng mình cùng gọi ông Sao là bố. Cùng ăn chung một mâm, cùng tắm chung một bến, cùng ngủ chung một giường... ta là người dưng. Lại là nghĩa tình đã từng có với nhau như thế. Ta là của nhau hôm qua và mãi mãi, phải không?... Ừ. Mà bố Sao đã từng mong mỏi, dựng xây. Ông đã ngầm kết nối nên hai chúng ta và đã tin yêu giao cho hai đứa chúng ta nút buộc đời này...” Ngao nhớ. Mới hôm nào, Hiền và Ngao còn ngây thơ. Hiền đòi so vai Ngao, xem ai cao, ai thấp. Hai đứa tranh giành nhau tiếng gọi, ai là chị? Ai là anh. Những ngày đầu về sống với ông Sao. Hiền nhớ, có đêm tỉnh giấc, ông Sao quờ tay ra tận mép giường mà chẳng thấy Hiền đâu. Ông lao ra ngoài trời, căng mắt nhìn từng hòn đá mà chẳng thấy bóng Hiền. Mãi khi hốt hoảng lao ra biển, bước đến bên ngôi mộ mẹ Lược, khi thấy Hiền đang rũ người đập đầu xuống đất, ông Sao mới lặng người, sợ hãi. Ông ngồi xuống, ôm lấy vai Hiền, nghe Hiền khóc gọi bà Lược, khóc gọi bố mẹ mình. Ông Sao ngồi lặng im hồi lâu. Ông dùng vạt áo lau khô lớp sương phủ bê bết trên mái tóc rối của Hiền. Đọc được tâm trạng của ông cái ngày bố con ông bị hất lên hòn đảo hoang vu này. Rồi, khi dựng tạm một túp lều che cho đỡ nắng mưa để nằm lại, để tang bà Lược, vợ ông. Nhớ kỉ niệm hãi hùng khi vừa qua một đêm chôn vợ, sáng hôm sau ra thăm thì ngôi mộ đã bị sóng cuốn đi. Xác vợ ông, lần nữa bị thú rừng ủi tan hoang. Thương xót vợ quá, đêm đêm ông Sao lại ngồi bên ngôi mộ để đốt lửa canh chừng. Đến khi nấm mồ của vợ ông đã mọc lên màu cỏ xanh dày rậm rịt. Từ phút này, ông Sao thấy một định mệnh đã rõ ràng, cuộc đời bố con ông đã thuộc về hoang đảo. Hiền còn nhớ như in. Nhiều đêm lạnh, Hiền cùng Ngao, mỗi đứa rúc vào một bên nách ông Sao để tìm hơi ấm. Ông Sao thường vươn tay kéo cả hai đứa vào lòng. Hiền cảm nhận được, có Hiền, có thêm đứa con gái nữa, ông Sao như tìm được cảm giác của mình có một gia đình ấm áp. Một gia đình dẫu chưa trọn vẹn nhưng cũng đủ làm cho cuộc đời sống trên đảo hoang vắng lặng của ông bình yên thêm chút nào đấy. Ông Sao đặt tên cho Hiền thay cái tên “Côi” cũ, với nỗi mong, Hiền sẽ được đổi đời. Sống trong một mái nhà, Hiền và Ngao quấn quýt bên nhau. Nhưng còn nhỏ dại, hai đứa thường so đo, tranh cãi, không đứa nào chịu nhường nhịn đứa nào? Có hôm, Ngao kéo Hiền vào góc tường, đưa ra một cách chọn. Hai đứa so đầu. Thật buồn cười, so vào thì hai đứa đứng bằng nhau chằn chặn. Hiền bèn đưa ra ý kiến: - Ngao ít tuổi hơn, lại còn rất “tồ” nên phải chịu làm em, rồi chẳng cần Ngao có đồng ý hay không, Hiền cứ ngang nhiên xưng chị. Hiền thường xuyên lên giọng kẻ cả để quán xuyến công việc và quát nạt Ngao. Lúc thì Hiền ra oai gọi dọc, gọi đáo “Ngao, sáng bảnh mắt ra rồi còn chưa dậy hả cậu chàng?” Hoặc, “Ngao, cởi quần ra “người ta” giặt cho. Mà, mặc đến hôm nay là mấy ngày rồi mà còn tiếc rẻ, để làm mắm à?” Ngao cởi cái áo, ném vào chậu, còn cái quần thì vẻ bộ ngần ngại.” Được thể, Hiền quát lớn: “Ngao, cởi quần ra.” Hiền chu cái mỏ lên thấu trời. Mắt Hiền nguýt cái rõ dài: “Gớm quay mặt đi mờ cởi. Bằng cái con sâu đo thôi mà cũng làm bộ làm tịch dữ nghe!” Dần dần, hình như Ngao cũng nhận ra một điều: “Ngao thấy sướng vì được sự chăm sóc rất tự nhiên và chân tình của Hiền. Bao năm nay, Ngao chỉ biết một thứ tình cảm của người bố góa bụa, giờ được làm em Hiền, chẳng thiệt thòi thứ gì mà chỉ thấy còn được lợi là đằng khác. Từ miếng ăn Ngao cũng được Hiền luôn nhường nhịn, san sẻ. Còn những việc vặt, tuy luôn bị Hiền sai vặt, nhưng sai để mà sai thôi chứ Hiền cũng chẳng phải ghen tức, tị nạnh gì với Ngao. Miệng Hiền sai, tay Hiền làm lấy hết cơ mà. Hiền từng làm mọi việc cho bố mẹ quần quật lo vá lưới, cặm cụi tu sửa đồ nghề cho buổi đi biển ngày mai. Hiền vốn chịu nhiều cuộc tối mắt tối mũi với một khối công việc không tên. Cuộc sống vất vả đã rèn cho Hiền, giờ được ở với người bố nuôi nâng đỡ, săn sóc dạy bảo ân cần xem như con ruột của mình. Hiền nhớ. Ông Sao ngày ấy thường đứng quan sát nhìn Hiền mà mủi lòng, ông hiểu cả hai đứa đều đang khao khát tình yêu thương. Ngao đã đón nhận tình cảm của Hiền như một nhu cầu, còn Hiền đang cố dồn hết niềm thương vào người ruột thịt của mình là Ngao. Có lẽ, Hiền chưa cảm nhận rõ. Nhưng từ cử chỉ thầm lặng như thế, từ lâu ông Sao đã tin rằng, đấy là những tín hiệu mừng. Ngao và Hiền, chúng nó sẽ gắn bó với nhau suốt đời. Với bổn phận làm bố, ông Sao đã hướng dần những nghĩ suy, ông vén vun bao bọc cho hai đứa, theo cái nghĩ đang ủ kín và đặc biệt trong ông. Tám năm trôi qua thật nhanh và thời gian đã để lại bao sự nuối tiếc đau thương. Nhưng, với biển, bố con ông Sao trúng liền mấy vụ tôm cua. Cuộc sống trở lên khấm khá hơn chút ít. Có tiền, bố con ông Sao đầu tư vào đánh bắt. Có sản vật kiếm được từ biển, thu hút được khách mua. Khách ghé vào đảo hoang này không những chỉ để bán mua tôm ghẹ, ngao sò, mà còn chú ý đến gia đình với sự có mặt của đôi trai gái khỏe đẹp ở một vùng biển vắng… Thời gian trôi đi chóng vánh, chẳng khác nào như đôi đũa thiên thần gõ vào đầu hai đứa trẻ. Một lúc nào đó, chợt nhìn, ông Sao thấy thằng Ngao ngờ nghệch lêu nghêu, đã trở thành một chàng trai lực lưỡng, mái tóc xoăn, đẹp tự nhiên. Khuôn mặt vuông chữ điền góc cạnh với đôi lông mày lưỡi mác, đôi mắt sắc như dao, hơi giống mắt một loài chim biển. Ngao bước đi những bước đi chắc nịch, ngỡ làm lún cả những tảng đá san hô bên cạnh mép đảo. Còn Hiền, con bé lem luốc, khẳng khiu vụt một ngày lột xác, trở thành thiếu nữ với dáng vóc khỏe mạnh và làn da nâu mịn, rực màu nắng gió. Đôi mắt Hiền có cái nhìn thăm thẳm, sâu, như đong đầy cả một khoảng trời sông nước vùng Nhật Lệ. Từ bên trong những va đập, đổi thay đời thường của cái gia đình ghép này đã đến lúc không còn bình thường nữa. Bắt đầu từ Ngao. Ngao bỗng sinh ra cái tật hay nhìn trộm Hiền, rồi tự nhiên mặt đỏ lên như gấc. Có lúc, mắt Ngao ngời lên như thiêu cháy thân hình bé nhỏ của Hiền. Buổi tối Ngao thường hay bỏ ra bờ biển ngồi ném hết từng viên đá cuội trên bờ cát, ngắm xem những gã còng biển xanh, đỏ, tím, vàng đang giương lên đôi càng dũng mãnh. Những chú còng đực, vồ vập, xấn xổ lao đến những con còng cái... hoặc, những tên cá lóc đực bặm trợn dựng đứng hàng vây lưng như phất cao ngọn cờ ngũ sắc, phăm phăm lao vào đánh nhau, giành giật bạn tình. Mỗi lần như thế mặt mũi Ngao đờ ra, gò má đỏ au nóng như có lửa. Rồi, mỗi lần, thấy Hiền ngồi chải tóc, Ngao cứ ngây mặt nhìn. Ngao kiếm cớ lân la: - Tóc Hiền đẹp thế nhỉ… bao giờ “người ta” đi lấy chồng đây? - Vớ vẩn - Hiền nguýt lườm Ngao - còn lâu nhá. Đằng này chẳng lấy ai cả. Bị nuốt chửng vào ánh mắt Hiền, Ngao lại kiếm cớ mon men: - Hiền để tớ bện tóc cho nhé. Đẹp như Thúy Kiều, như tranh vẽ cho coi… Hiền giằng lấy mớ tóc ra khỏi tay Ngao, giọng gắt yêu - lớn rồi! Không ngượng à? Đằng này không mượn cậu nữa… Có bận, Ngao vô tình bước vào căn buồng dành riêng cho Hiền. Gặp đúng lúc Hiền đang ướm thử cặp áo ngực lên hai bầu vú nom mâng mâng như hai trái bưởi. Ngao sững người lại, chết lặng. Hiền vội vàng vơ áo che ngực mắng té tát: - Dơ thế! Này. Đồ tồi, đồ nhìn trộm của người khác thay đồ… Ngao cãi: - Nhìn trộm bao giờ, chẳng may gặp chứ bộ… - Từ mai cấm cửa không được vào phòng con gái, nghe chưa. - Tớ cứ vào,“đằng ấy” định làm gì “người ta”?... - Làm gì à? - Ngao ôm choàng lấy Hiền nghe rõ tiếng phập phồng trở mình của biển lẫn tiếng con tim mình thập thình đập nhịp… Mấy ngày sau, khi theo thuyền bạn đi bán cá về, Ngao thản nhiên móc một món quà từ trong túi ra hăm hở: - Hiền nhắm mắt lại đi. Hiền hờ hững. - Vòng tay chứ gì. Hiền có rồi. Ngao cất đi. - Không. Nhìn này. Vàng thiệt đấy. Ngao dành tặng Hiền mà. Ngao xăm xăm xán lại gần, định cầm lấy tay Hiền đeo vào, nào ngờ bị Hiền gắt ầm lên: - Đã bảo cất đi! Ngao chưng hửng, xịu mặt ra một lúc rồi tìm cách gỡ lại: - Hiền ơi! Con nước này lắm ốc nhảy lắm, chúng mình đi bắt chị nhé! Ốc nhảy là loại hải sản quý của vùng biển Nhật Lệ đấy. Nó thường xuất hiện vào mùa gió nồm. Thịt ốc nhảy vừa thơm vừa ngậy, vừa dai vừa ngọt. Nó hiếm hoi lắm nên chỉ dùng khi có khách quý, sang trọng mới có thứ này chiêu đãi. Được Hiền đồng tình. Chiều ấy, Ngao đánh độc một mảnh quần cộc, nắm tay Hiền, nhảy òa vào biển xanh. Ngao và Hiền cùng quờ tay theo ngọn sóng để vồ ốc. Hễ chộp được một con là Ngao lại reo lên thích thú rồi trườn đến vứt vào cái chậu Hiền đang ôm trong lòng. Như hai đứa trẻ, Hiền và Ngao mải mê đuổi theo những con ốc nhảy, quên là đêm đã buông xuống mặt vịnh lúc nào. Đêm trăng. Trăng lại tròn vành vạnh, chẳng biết trăng lên theo nước hay nước lên theo trăng mà khi bước vào đến gần bờ thì vầng trăng đã treo lơ lửng trên cành cây bần. Trăng tan chảy theo vào từng ngọn sóng trườn đến liếm lên người Hiền. Sóng gỡ bung mớ tóc dài đen óng ánh của Hiền xõa chảy vào nước thành một con sông tóc đen mượt mà cùng với gợn nước chập chờn. Ngao cũng nhảy đến quơ lại mớ tóc mà đùa mà giỡn. Ngao tự nghĩ rằng chỉ mớ tóc ấy là nhất nhất trên đời, không ai có được mái tóc đen nhánh như Hiền đang có. Và, chỉ có Ngao mới được phép đụng vào mớ tóc của Hiền mà thôi. Trăng vẫn cứ vằng vặc soi rọi vào thân hình thanh xuân của Hiền. Ngao cứ đơm mắt nhìn vào rồi lại giả tảng quay đi. Nhưng cố giả lờ mà không kìm được. Ngao đã được tận mắt thấy một lần rồi nên giờ đây Ngao cứ bị thôi thúc bởi khuôn ngực đầy đặn của Hiền bỗng nhô cao, phập phồng nâng nhịp qua làn áo mỏng tanh, ướt sũng. Ngao bị mụ mị đi, như bị điều khiển bằng thứ ma lực quỷ quái, Ngao nhào tới vồ lấy Hiền. Ngao rúc mặt vào ngực căng tròn của Hiền mà vồ vập, hít hà như một kẻ cuồng điên. Miệng hổn hển như sắp đứt hết hơi, nói không ra lời… - Hiền ơi! Hiền đẹp quá. Ngao thích Hiền… Hiền đừng lấy ai Hiền nhé. Mất Hiền, Ngao sẽ buộc đá vào người nhảy xuống biển mà chết đấy! Bị bất ngờ, Hiền không kịp phản ứng gì cả, nhưng rồi chỉ lúng túng đôi chút, Hiền chủ động được mình, Hiền quát lên: - Ngao! Hãy buông Hiền ra. Là anh chị em trong gia đình, Ngao không được làm vậy. Mà, nghe này, Ngao đẹp trai, ít tuổi. Nhiều đứa con gái đảo sẽ thương Ngao. Hiền sẽ… Ngao gào lên: - Không! Ngao không thích ai cả. Ngao chỉ thích riêng Hiền. Hiền đứng cắn chặt môi đến bật cả máu rồi nghẹn giọng nói qua nước mắt: - Ngao chẳng hiểu gì cả! Ngao chẳng hiểu gì hết. Không… không được, Ngao ạ. Ngao đâu biết, Hiền đang nghĩ nhiều về ông Sao, bố Ngao. Hiền đang muốn trả nợ cuộc đời Hiền bằng cách, Hiền sẽ gánh nhận tất cả những gì mà mẹ Lược, một người vợ của ông Sao đã bỏ lại những dở dang còn lại... Vậy là, Hiền quay ngoắt người bỏ chạy, mặc Ngao đứng ngây người giữa những con sóng trôi duềnh doàng. Biển chồng chềnh nghiêng ngả như đưa võng trong mắt Ngao. Thủy triều đã dâng đầy. Trăng đã xóa nhòa ranh giới giữa biển với bầu trời, vừa hờn tủi, vừa ân hận. Ngao rã rời tay chân. Ngao xụm xuống mặc cho những ngọn sóng ùa vào miệng mình, cảm nhận mặn chát. Những biểu hiện của Hiền và Ngao đều không qua mắt, không ngoài dự cảm của Sao, một người bố vẫn ngầm mong hai đứa sẽ diễn ra chuyện ấy. “Hiền ơi. - Ông Sao thường nói thầm, nói như chỉ riêng mình biết. Hiền thương Sao. Muốn bù đắp, thay thế và trả ơn nghĩa người cứu Hiền. Một người đàn ông nhiều khổ đau, góa bụa. Nhưng không. Hiền không thể thay thế Lược, làm vợ, hiến dâng đời người con gái non trẻ cho Sao. Hiền dành cho con trai ta, Hiền sẽ gắn bó với Ngao, Hiền nhé”... Những ngày để ý và bắt gặp chuyện tình tứ của hai “đứa trẻ” đang vào tuổi dậy thì, ông Sao vui vui vì những gì đang giống như dòng nước, nó sẽ trôi theo nguồn mở và dẫn về bến bờ neo đậu. Ông Sao vui hơn nữa, bởi hoàn cảnh đã sớm tạo cho Hiền một đức tính lo toan, đảm đang sớm hơn lứa tuổi. Hiền biết cần mẫn nhặt nhạnh để vun vén cho cuộc sống của gia đình. Hiền gợi cho Sao bâng khuâng, luôn nhớ về cái tổ ấm ngày xưa… cái gia đình nhỏ có Lược, người vợ trẻ đẹp như nàng tiên cá cùng đứa con trai trên thuyền bồng bềnh giữa trời mây nước. Những đêm trăng rọi vàng xuống mặt biển. Con thuyền buông neo. Lược thường khỏa thân đứng chờ từng gáo nước sóng sánh ánh trăng từ tay Sao dội xuống bờ vai. Làn da trắng mịn màng lóng lánh như dát bạc giữa trần gian. Những đường cong trên cơ thể trắng nõn nom lúng liếng, long lanh, tung tẩy theo từng cử động… mớ tóc huyền quyện ánh sao bất chợt xổ ra, đổ xuống tận eo lưng, mái tóc dài như mây. Hương tóc quyện mùi hương bồ kết tỏa ngát, ngây ngất làm trái tim Sao muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bừng bừng phát lửa… Nhiều năm sau mùi da thịt và hương tóc của Lược vẫn còn phảng phất theo Sao vào giấc ngủ. Rất nhiều đêm, Sao gặp lại mùi hương còn thoang thoảng ấy để rồi thấy mình được bế thốc vợ vào khoang thuyền, được đổ ập lên người nàng mơn man vuốt ve chiều chuộng. Để rồi cuối cùng Sao bải hoải bước ra khỏi giấc mơ đẫm hơi luyến ái… Từ ngày nhìn Hiền càng phổng phao, rực rỡ, thực tình là đàn ông, là người, mang phần con như “cái có” trong mình,“lòng vả cũng như lòng sung” vậy. Sao nhớ mong, thèm khát lắm chứ. Nhưng, trăm ngàn lần, Sao đã tự bắt mình phải dựng lên một bức tường luân lí để trấn áp nguồn cảm hứng bất chợt, tầm thường của một gã đàn ông góa vợ. Dẫu những lần, vô tình nhìn Hiền từ nhà tắm hớ hênh bước ra, Sao vẫn không khỏi sững người để rồi liên tưởng về hình ảnh của Lược, vợ ông… Những mảng ngầm hoang hoải bỗng cồn cào sôi réo. Rất nhiều đêm Sao gồng mình chịu đựng. Anh ép mặt xuống giường, hết xoay ngang lại xoay ngửa. Cố quên mà không thể quên, mùi hương tóc và mùi da thịt của Lược ngan ngát ám ảnh trong tâm thức của Sao. Cơ bắp Sao cương lên như con cá lóc bị day trên cát. Cá lóc nước lợ có khả năng tự vệ bằng cách tự hít không khí cho căng mọng cơ thể của mình... Trong quan sát đời sống hằng ngày, những bộc lộ những biến đổi trên kia ở một gia đình, của Ngao, của ông Sao (bố Ngao). Và, của Hiền... dẫu lặng thầm sâu kín. Nhưng bằng cảm nhận của cái tuổi đang lớn lên và vỡ ra bao nhiêu điều có thể chưa thật rõ rệt. Nhưng láng máng, Ngao biết, ông Sao, người bố đẻ của mình phải chịu đựng, hi sinh vì những đứa con là Hiền và Ngao, những dằn vặt, những dày vò sâu kín. Tóm lại, Ngao chỉ biết, trong tận cõi lòng, ông Sao mang rất nhiều nỗi ngậm ngùi, thương cảm. Ông Sao với Hiền có gì như khác thường trong cái mặt nước vẫn lặng lẽ ngàn năm, bỗng lăn tăn những gợn sóng xa xa, thấy đấy mà không thấy... Rồi, đột ngột, một hôm, ông Sao gọi Ngao và Hiền, nói với hai đứa con rằng: “Ông lên đường, tình nguyện làm người lính đi giết giặc, cứu nước. Ông đã gây dựng, vun vén và kết nối cho hai đứa kể từ nay sẽ thành vợ, thành chồng.” Thì ra, ông Sao đã chuẩn bị cho kết cấu một “mô hình” gia đình của ông như thế này từ bao giờ chẳng biết. Ông Sao đã ra đi làm người lính Cụ Hồ. Tin ông đã nhập vào đội ngũ điệp trùng, đang hăm hở theo đoàn quân trên đường Nam tiến. Dưới túp lều khuất sâu giữa bãi vắng của một vùng hoang đảo. Ngao ở bên Hiền, người vợ cùng nhau đi trên đường thật riêng của đường tơ chắp nối. Chưa trọn năm rưỡi trời, Hiền và Ngao đang quấn quýt trong yêu thương, ân ái. Bỗng một chiều, tin buồn xé ruột mang đến căn nhà: “Ông Sao. Liệt sĩ Vũ Xuân Sao. Người bố Hiền và Ngao đã anh dũng hi sinh trên đường vào trận.” Tin chính thức: “Ông Sao theo đội quân tiên phong lên đường, đi thẳng một lèo vào đến Sài Gòn. Khi tổ chức bị lộ, ông phải chạy ra hang núi Trường Sơn, bổ sung vào đơn vị 304, tham gia đánh trận Nam Lào vô cùng ác liệt, và anh dũng hi sinh ở đó...” Ôi! Đau xót quá. Lại bi kịch nữa đến với một gia đình vốn chịu nhiều đắng cay, giông bão. Có tới mấy ngày liền, Hiền cứ gào lên. Hiền ôm chặt lấy Ngao khóc như mưa như gió. Dưới túp lều, nhìn từ xa giống như chiếc gò ẩn hiện, hay đấy, ngỡ là nấm mộ xanh nào đó, chỉ ngọn sóng biển ngoài kia với bóng trăng bên thềm mới biết, Hiền và Ngao đã đau buồn khóc lóc và héo đi như cành lá đổi mùa. CHƯƠNG BỐN T hế là, Ngao đã theo bước người bố trở thành một chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Ngao xung phong đi bộ đội để đánh giặc, trả thù cho bố, trả thù cho quê hương, đất nước. Ngao lên đường, mặc bộ quân phục màu xanh, đeo ngôi sao năm cánh trên chiếc mũ đội đầu. Ngao xa Hiền, xa biển, xa tấm lưới, con thuyền với túp lều bên bờ biển vắng. Khi giặc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại, đem đạn bom bắn phá dữ dội miền Bắc. Lúc ấy, cả miền Trung, rồi đất Quảng Bình, quê Ngao, đâu đâu cũng biến thành chảo lửa. Không ngày nào, Quảng Bình quê hương Ngao không diễn ra cảnh bom rơi, đạn nổ. Xóm làng bị lửa bom thiêu đốt, cháy trụi. Chia lửa cùng đồng bào miền Nam ruột thịt, một nửa nước đang đứng đầu chiến tuyến. Ngày ấy, Ngư Thủy, Quảng Ninh (lúc đó gọi là huyện Lê Ninh), khối đoàn thể phụ nữ Ngư Thủy đã phối hợp cùng các lực lượng phòng không, chiến đấu, bắn rơi chiếc máy bay thứ một trăm của Mỹ. Chiến công rộn vang nổi như cồn. Hậu phương thi đua với tiền phương. Ngao xung phong vào mặt trận phía Nam trong bối cảnh cả đất nước đang sục sôi những ngày đánh giặc. Ngao nhanh chóng trở thành Đảng viên cộng sản do anh đã dũng cảm chiến đấu. Hai lần, đơn vị đã làm lễ “truy điệu” sống Vũ Xuân Ngao. Lần thứ nhất, bên dốc núi nằm sát cung đường mới mở, Ngao xung phong một mình đi tháo bom nổ chậm để phục vụ chiến dịch đường 9 Nam Lào đang gấp gáp mở ra. Một mình Ngao phá nổ sáu quả bom từ trường nằm rải rác bên bìa rừng. Lần đầu thoát chết. Ngao bị sức bom văng ra, tung lên trời rồi nằm chết dưới gốc cây cháy trụi. Lần thứ hai, với kinh nghiệm đã được trải nghiệm và thử thách, Ngao lại giơ tay xung phong, xin đi đầu, nguyện một lời “quyết tử.” Lần này, Ngao lãnh trọn quả bom nổ chậm, hất Ngao xuống khe núi. Buổi ấy, cả đơn vị vọng lên tiếng thét: - Ngao chết rồi. - Ngao chết rồi. - Đồng chí Ngao đã anh dũng hi sinh, các đồng chí ơi... Giữa tiếng kêu thảm thiết, khi tiếng đạn bom vừa ngớt, cả đơn vị nhanh chóng xông lên. Khi đồng đội chạy đến bên Ngao, thì “Ngao chết thật rồi.” - Ngao chết thật rồi ư? - Thưa, Ngao chết thật rồi. Có tiếng khóc nghẹn ngào và tiếng kêu yếu ớt: - Ngao chết thật rồi. Nhưng. Mà... thủ trưởng ơi. Ngao còn sống. Ngao vẫn còn sống. Ngao vẫn còn tiếng thở đây nè... Một người ghé sát tai vào mũi, nghe tiếng thở của Ngao đang hắt ra rất mỏng. “Ôi. Ngao vẫn còn sống thật. Nhưng, lửa đã cháy xém, gương mặt Ngao mang vết bỏng, nom sợ hãi vô cùng...” ngay sau trận đánh này, Ngao nhanh chóng được đưa về bệnh viện tiền phương rồi chuyển ra Trạm điều dưỡng ở tuyến sau, hậu phương. Ngao được phép tranh thủ về thăm nhà sau khi bệnh khỏi, và rời Trạm điều dưỡng Sư đoàn. Lần ấy, chỉ hai ngày tranh thủ được phép về nhà thăm vợ. Gặp Hiền. Ở túp lều biển vắng. Thương nhau quá, khát nhau quá. Nỗi khát giống như hạn hán đã trải qua nghìn ngày khô nỏ, Ngao chỉ quẩn quanh nằm ôm Hiền, thơm Hiền rồi vội vã trở về đơn vị. Ai dè, phút “mây mưa” chớp nhoáng, lần ấy, Hiền mang bầu đẻ ra cô con gái. Đất biển, nghề chài lưới Hiền đặt tên cho cô con gái thật nôm na. Hàu. Cô gái Vũ Thị Xuân Hàu. Hiền sinh Hàu trong cái vịnh khi Hiền đang đi bắt hàu và ghẹ cùng với bốn người ở xóm chài. Hiền đau bụng và rất nhanh, Hàu được đẻ rơi ngay trong vòm vịnh Trần Xá trong lúc máy bay Mỹ đang trút xuống từng trận bom ác liệt. Hiền nuôi con, ẩn nấp trong hang đến một tháng trời. Khi mẹ tròn con vuông, Hiền mới chuyển về khu sơ tán an toàn hơn. Ở Quảng Bình, ngày tháng đạn bom trên một vùng tuyến lửa vẫn như một chảo rang. Ngày Hiền và Ngao gặp nhau và đoàn tụ bất ngờ chỉ có một lần ấy, Ngao không ngờ, Ngao, chàng “lính chiến” giỏi thật, một lần “khai hỏa” mà đã có ngay “thị mẹt” đẹp gái, xinh xắn ra đời. Thế nhưng cuộc đời quá trớ trêu, đã mấy lần tử thần “tính sổ” nhưng Ngao vẫn chưa đến ngày tận số. Ngao vẫn không chết được. Là người lính đi giữa cuộc chiến tranh. Ngao và trăm nghìn đồng đội khác, có ai kịp nghĩ cho mình, dù chỉ chút riêng tư. Phía trước là trận đánh. Phía sau là con đường vừa thoát ra “cửa tử.” Cái chết luôn rập rình trước mặt. Sống và chết chỉ cách nhau sợi chỉ vô hình. Ra viện, về đơn vị. Ngao lại tiếp tục theo trung đoàn vào Nam, vùi mình vào những cuộc chiến mới. Rồi, trận thử thách thứ hai, thứ ba, thứ bao nhiêu, không biết nữa. Tại trận đánh Quảng Ngãi, khi ngồi vào mâm pháo, làm một pháo thủ giáp mặt với những cuộc đánh trả. Lần này, Ngao bị thương nặng quá. Ngao lại được chuyển ra tuyến ngoài giải phẫu do bộ hạ đã mất. Khổ nỗi, trận đánh ấy, cả đội pháo của Ngao toàn thương binh, bệnh binh an dưỡng vừa mới điều trị trở về. Nhưng, tất cả đều nguyện thề, còn một hơi thở cuối cùng cũng chiến đấu. Trận đánh ấy, đơn vị của Ngao hạ được chiếc máy bay M79. Pháo đánh phục kích, bắn cháy sáu xe tăng của địch. Vũ Xuân Ngao được phong tặng Dũng sĩ diệt Mỹ. Cả đơn vị hoan nghênh Ngao chiến đấu dũng cảm và mưu lược. Nhưng cũng trận ấy, đến những trận cuối, đơn vị pháo của Ngao bị máy bay địch oanh tạc mạnh quá, lực lượng ta ít, một chiến sĩ ngắm máy bay bị hỏng mắt. Đồng chí chỉ huy bị cụt một tay. Đồng chí ngồi cầm đòn quay cụt mất một chân. Các đồng chí của Ngao hi sinh gần hết, chỉ còn lại Vũ Xuân Ngao bị mất “bộ hạ”, mất thiên chức của người đàn ông. Ngao bị bom vùi, hất xuống thác nước không ai tìm thấy. Phải tới ba bốn ngày, sau khi đoàn thanh niên xung phong chi viện chiến trường mới tìm thấy Ngao. Buổi ấy nghe họ kể lại mọi người vẫn còn hú vía. Bắt đầu là tiếng kêu của cô gái thanh niên xung phong: - Chúng bay ơi. Gì thế kia? Nom kìa, khủng khiếp chưa? - Ôi. Trời. Gì vậy nhỉ? - Tiếng quạ kêu ghê quá mày ạ. - Ờ, tiếng quạ. - Có xác người chết chăng? Trải nghiệm nhiều ở chiến trường, các cô gái thanh niên xung phong nhận biết, ở đâu có quạ, cú mèo kêu là ở đó có xác chết hay người bị thương. Biết vậy, một cô gái cứ soi nhìn ngược xuôi rồi hét lên: - Ruồi xanh... - Trời. Ruồi xanh chúng bay ơi... - Ruồi xanh giống như đám mây đen đặc vậy. Cô gái chạy đến gần, rồi tiếng cô lại thét lên lần nữa: - Xác chết chúng bay ơi. Có một xác người chết. - Trời. Một anh lính. Anh này còn sống. Vẫn thở khò khè đây này… - Một người lính trẻ quá. - Mau cứu người ta đi. - Mau lại cứu anh bộ đội, bay ơi. - Nhưng, làm thế nào bây giờ? Nhiều tiếng xì xào. Có một lời phán quyết đanh thép: - Còn làm thế nào nữa. Đứng ngây như phỗng ỉa cả à? Mau bẻ cành cây, đốt lửa xung quanh. Chúng bay tập trung hết lại đây. Tất cả cùng xua đuổi bọn ruồi xanh, cho chúng bay đi hết… Đám ruồi như chiếc nong sơn thẫm một màu xanh óng ánh bị đốt nóng và xua đuổi. Người ta cứu được anh lính, đó là Ngao. Bấy giờ, thân xác Ngao có chỗ đã nát tươm. Nhiều chỗ mưng mủ, thối. Ngao được đưa về một trạm cấp cứu. Không một mẩu giấy tờ. Không biết cả tên Ngao. Không biết cả đơn vị người lính vừa bị thương. Chỉ còn một cái xác đang thoi thóp là Ngao vừa chuyển gấp về trạm cấp cứu. Ngao mang trên mình khá nhiều thương tích. Một bên mặt bị vạc chéo một mảng. Da cháy sạm. Dương vật bị cắt bỏ. Từ chàng trai đẹp có tiếng ở một vùng quê biển, bây giờ nom Ngao như một “con ngáo” kinh sợ. Ngao đã đi qua bao nhiêu trạm cấp cứu, phẫu thuật không rõ. Các bệnh viện, y bác sĩ đã chữa lành, thực ra là chữa ổn định cho Ngao các di chứng của vết thương. Người ta đã lắp cho Ngao một “khí cụ giả”. Có điều, từ trạm cấp cứu này, đến viện quân y điều trị kia, Ngao chỉ còn trong mình cái giấy xuất viện. Giấy của đơn vị nào gửi tới, không! Giấy chứng nhận thương tật, không! Từ bệnh viện đến bệnh viện rồi tìm về đơn vị nào, Ngao cũng không biết nữa. Thậm chí, có lần từ bệnh viện được giới thiệu về đơn vị thu nạp quân nhân, giữa đường, cơn đau thần kinh tái phát, Ngao không biết ai đó đã đưa Ngao từ cơn bất ngờ mê sảng, trở lại một trạm cấp cứu nào đó. Cơ thể bị suy nhược. Tâm trí bất an. Đầu óc buốt nhức. Trí nhớ không còn. Lúc nào Ngao cũng như người mộng du. Khi tỉnh, khi bơi trong mây mờ lãng đãng. Với thực trạng của Ngao, lẽ ra Ngao phải được đưa về trại thương binh, hay trại nuôi dưỡng tập trung nào đó. Ngao đủ tiêu chuẩn được hưởng chế độ đãi ngộ của người thương binh có công với đất nước. Song, từ mặt trận trở về, không ít những người lính cũng rơi vào hoàn cảnh như Ngao, họ phải gánh chịu nhiều bi kịch. Ngao cũng vậy. Giấy tờ thất lạc. Đơn vị cũ mất tin. Ngay chính Ngao cũng không biết rằng, ở làng quê, đã hai ba lần nhận giấy báo tử gửi về, hai ba lần họ làm lễ truy điệu cho Ngao, người chiến sĩ đã anh dũng hi sinh vẻ vang cho sự nghiệp dành lại nền độc lập, tự do cho Tổ quốc. Không hiểu đơn vị nào đã đưa xe chở Ngao về tập kết ở đâu? Ai giúp đỡ Ngao dọc đường lang thang, bệnh tình, cơ nhỡ? Trong trạng thái lúc nhớ lúc quên Ngao đã lần mò thế nào đó để đôi chân cuốc bộ dẫn Ngao về được căn lều có người vợ thương yêu “ngự” trên bờ biển vắng?... Có tới ba bốn tháng trời, Ngao nằm liệt ở nhà. “Tủi mừng quá đỗi” Hiền vợ Ngao đã khóc lên trong niềm vui đoàn tụ. Hiền thắp hương, vái bốn phương trời, “Trời ơi. Ngao ơi. Anh vẫn còn sống thật ư? Thật là Ngao hay ma quỷ nào về đày đọa Hiền thêm nữa. Ngao đã hi sinh ở mặt trận rồi mà. Người ta đã ba lần báo tử, ba lần làm lễ truy điệu Ngao rồi...” “Trời đất ơi. Quỷ thần hai vai ơi. Con đội ơn Người. Con ngàn lần cắn cơm cắn cỏ ơn Người. Vũ Xuân Ngao đã về đây. Chồng con đã về đây. Bố của bé Hàu yêu thương đã về đây. Người “là của” mà. Nhà con có phúc. Nhà con khổ đau cay đắng nhiều rồi. Ngao không chết. Con ơn trời. Ngao không chết. Người đã trả về cho chúng con người chồng, người bố yêu dấu một đời”... Từ cõi chết còn đem xác về được đến nhà mình, dần dần, hình như Ngao được lành lại từ vết thương trong cõi hồn đến da thịt bên ngoài. Được Hiền suốt ngày lo thuốc thang chạy chữa Ngao đã khỏe lại, trí nhớ được hồi phục dần. Khi thấy Ngao đã khỏe, vui tươi rồi đòi ra biển, nối lại cái nghề xưa cũ, giúp vợ con kiếm kế sinh nhai, Hiền xua tay, sẽ sàng ngăn lại. Hiền thủ thỉ với chồng: - Anh khỏe rồi. Anh phải quay về đơn vị chứ. Anh chịu trắng tay ư? Hoàn cảnh anh sẽ có đủ chế độ chính sách dành cho người thương tật. Người có công với nước... Hiền nói câu ấy và bàn tính với Ngao không phải một lần. Nhưng, lạ chưa. Lần nào Ngao cũng chối từ, vẻ ngại ngần, e dè nữa. Ngao buồn, thở dài, ngao ngán. Anh bảo vợ. “Ngao sợ lắm rồi. Ngao còn vác được cái xác kì hình, dị tướng trở về xó xỉnh này là bảy mươi đời “nhà Ngao” còn phúc đức nhiều đấy. Ngao không dám “trương” cái mặt ma quỷ này đi đâu nữa, dù là ngã ba làng. Dù là gặp lại một người bạn bè, xưa cũ. Ngao làm sao dám xông vào các cửa? Mà đến cơ quan nào? Về đơn vị nào? Biết những ai còn sống? Ai có thể chứng nhận cho mình. Giấy tờ không, một căn cứ xác minh không có. Ngao biết, Ngao là đối tượng, có thể được hưởng chế độ cả người nuôi dưỡng mình là đằng khác. Nhưng, đi làm giấy tờ thủ tục để có được chính sách kia Ngao thấy mình giống như người làm cái việc giơ hai tay lên trời, mà kéo trời rơi xuống. Ngao còn mang chuyện nghe được từ một buổi phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam về bài Bút kí mang tên “Thủ tục để làm người còn sống” của nhà văn Minh Chuyên. Ngao bảo, đấy, chứng cứ rành rành đấy. Người lính mang tên Trần Quyết Định, ở Thái Bình, quê lúa! Định đã có giấy báo tử rồi, nhưng bỗng dưng trở về. Mấy năm trời lang thang khi nhảy tàu, khi ngủ giữa đường, ăn vạ nằm vật. Trong tay mang giấy tờ có hàng trăm con dấu chứng nhận đỏ chót, gõ cửa các nơi, nhưng không ai công nhận cho Định để làm được thủ tục rằng, Định vẫn là người còn sống...” Thế là chịu. Ngao đành với thân phận mất mát, thiệt thòi. Hiền vợ Ngao phận đàn bà con gái biết đi đâu, cầm theo bằng chứng gì mà kêu cho chồng. Hai lí do chứa cả hai yếu tố hệ trọng đều bị đóng cửa, cản đường... người lính, người thương binh hạng nặng Vũ Xuân Ngao đành như người chết dí, nằm ẩn mình nơi túp lều vắng vẻ. Ngao không giao du, không xuất hiện với xóm làng. Hàng ngày, lúc nào ra khơi bám biển, Ngao đóng vai một bóng hình khác. Ngao luôn có một tấm khăn màu quấn che nửa mặt. Dáng to con, nhanh nhẹn Ngao đã trở lại cái khỏe khoắn của con người vùng biển trước sóng gió, đãi đằng. Hoặc chỉ đêm về hay chỉ khi nào đã chui mình vào túp lều riêng rẽ, chỉ riêng Hiền, riêng vợ con mới biết được gương mặt thật của Ngao. Ngao sống như lẩn tránh, như trốn chạy đất trời này. Đã ba lần Hiền ngọt nhạt với Ngao: - Anh này - Hiền bảo - anh phải đến Ủy ban báo cáo chứ. Họ nghi anh đào ngũ thì sao. Anh mang thương tích, khác xưa rồi, họ có nghi vấn gì thì chứng cứ đang sờ sờ trên da thịt anh đây. Với lại, anh còn sống với em, với con, sống trên đất này cơ mà. Đất có Thổ công, sông có Hà bá. Anh về quê rồi anh phải đến địa phương trình diện họ... Ngao nghe lời Hiền. Nghe mãi. Ngao thấy đúng. Nhưng, không hiểu sao, Ngao ngại ngần, không muốn phải đi làm một điều gì không thích, nó nặng nề như đeo đá vào người. Song, cuối cùng một chiều Ngao đã một mình lẽo đẽo cuốc bộ đến văn phòng Ủy ban nhân dân xã. Trước khi ra khỏi nhà, Ngao lẳng lặng gắt lên vô cớ. “Vớ vẩn. Thật lắm trò. Rách việc! Mà sao cái kiếp phận đời tôi nó khổ đau đến vậy…” CHƯƠNG NĂM P hía làng xa, lác đác tiếng gà đã gáy trống canh ba. Ngao vẫn không ngủ được. Ngao nhẹ nhàng gỡ cánh tay Hiền đang ôm chặt ngang bụng, lẻn dậy, ra ngồi trước thềm nhà nhìn về phía biển đang trải miên man một màu hư ảo. Từ buổi tới văn phòng Ủy ban xã trình diện, Lòng Ngao lại dâng lên nỗi buồn, nỗi day dứt khó tả. Bao nhiêu câu hỏi, “cánh” cán bộ địa phương đặt ra, Ngao không trả lời được. Đấy là,“đã ba lần được chính quyền nhận được giấy báo tử về Ngao. Ngao đã chết. Bây giờ, Ngao còn sống trở về. Vậy Ngao lạc từ đơn vị nào về cơ chứ? Giấy tờ tùy thân được đem về, có gì khai báo? Ngao trắng tay, không giấy tờ gì, biết giải thích với bàn dân thiên hạ sao đây? Người ta dễ nghi ngờ Ngao đào ngũ, bỏ trốn đơn vị chứ. Rồi, thương tật trên người thế này, Ngao phải được hưởng chế độ thương tật, thương binh hay đãi ngộ nào đó. Ồ! Mà còn nhiều thứ nữa. Nhưng phải có căn cứ. Phải có giấy tờ khai báo và chứng nhận anh Ngao ạ...” “Ừ. Ngao nghĩ. Thực trạng đang xảy ra, trong tình huống của Ngao, lỗi ở đâu? Lỗi ở đơn vị quân đội hay lỗi ở Ngao? Đơn vị thì đã bị xóa sổ. Ai còn, ai mất? Ai biết ai mà quy tụ, gọi về? Còn Vũ Xuân Ngao bơ vơ giữa đất trời. Trên mình thương tật, tâm thần hoảng loạn hoặc có lúc là khoảng trống, sương mù. Vậy, về đến nhà rồi, nhưng tất cả mọi yêu cầu để chứng minh để đem ra trình diện, Ngao có gì? Ngoài hai bàn tay trắng với cái lắc đầu và câu trả lời là im lặng,“là không!” Thực tình, hai ba lần người cán bộ làm công tác thương binh xã hội của xã biển quê hương đã lần đến tận túp lều của Ngao để xem xét, giúp Ngao chuyện ấy. Nhưng, buổi thì Ngao mải đi biển. Buổi thì Ngao thấy mình đã nghĩ khác rồi, Ngao tránh mặt, không gặp. Vậy là, thời gian cứ trôi đi trong quên lãng. Phần nữa, quyền lợi sát sườn, thiết thực đến miếng cơm manh áo của Ngao, Ngao cũng lạnh nhạt đến bất cần, nói gì đến người dưng, đến mấy ông bà cán bộ xã, dù đó là “công cán” của họ với “việc làng, việc nước”. Không phải một lần, Ngao thường nhiều lần chẹp miệng. “Ngao cần qué gì nữa. Bây giờ thân tàn ma dại rồi. Sống được ngày nào biết ngày ấy. Ngao sống cho vợ, cho con. Những như bản thân mình thì Ngao coi như đã hết.” Ngao sống trong trạng thái chỉ úp mặt nhìn xuống mỗi ngày. Ngao nhìn xuống biển. Nhìn xuống hai bàn tay. Nhìn gương mặt vợ con, và nhìn xuống niêu cơm. Ngao làm quần quật đêm ngày đến tối tăm mặt mũi. Nào, thả đáy thỏi nỏ, cắm câu, đơm lờ, đãi hến rang, kiếm tiền nuôi mấy miệng ăn. Những nỗi niềm than thở kêu rên trong Ngao là làm sao lo cho một gia đình. Chẳng lẽ lại lao đầu xuống sông mà chết. Nhưng, Ngao chết thì lũ mẹ con Hiền phải ra đứng đường ư? Nỗi lo cơm áo gạo tiền đã đi một nhẽ. Trong Ngao, còn luôn đeo đẳng một nỗi lo bị trời đất đọa đày. Vợ đã biết Ngao, hiểu Ngao, một con người cơ thể không được hoàn thiện. Thương tật chiến tranh. “Khí cụ” bị đạn bom thiến mất. Chức năng của một gã đàn ông không còn nữa. Bề ngoài, Ngao chẳng khác một con quái vật. Mặt méo mó, da cháy, tiếng nói ngọng. Ngao nói gì thì chỉ người quen thân mới hiểu. Nhưng khổ nhất đấy là chuyện sinh lí con người. Vợ Ngao còn trẻ. Vòng ái ân làm sao tránh khỏi chuyện ham muốn của cô gái mới ngoài tuổi ba mươi. Đã mất “dụng cụ” Ngao lại còn phải đeo một “con chim” lúc nào cũng như một củ khoai lồ lộ. Mỗi tối Ngao nằm bên vợ Hiền lại sờ nắn suýt xoa. Nhiều lúc, không kìm được, Hiền ngồi bật dậy, nhảy lên người Ngao và nồng nhiệt thơm lên khắp người chồng, thơm lên cái “của quý” vô tri, vô giác. Lâu ngày, quen nín chịu đi rồi. Buổi đầu, Hiền thường vô tình làm Ngao kinh sợ. Mỗi lúc nhà vắng vẻ Hiền liền kéo Ngao vào phòng và cởi quần áo chồng ra. Chợt thấy mình lên cơn điên đã quá đáng Hiền chữa thẹn: - Em thương anh. Anh khổ quá. Em làm cho anh thích nhá... mặt Hiền rực đỏ. Hai mắt sáng long lanh. Là đàn bà, Hiền vẫn còn rừng rực như hầu hết những người phụ nữ khác ở vùng chài này mang trong mình cái ào ạt đầy bản năng đến vô tận của biển cả. Từ khi rời trạm an dưỡng về, Ngao đã quên bẵng, coi như không còn cuộc sống riêng “vợ chồng”. Thấy Hiền vẫn cháy bỏng Ngao than vãn, bất lực: - Khổ thân Hiền quá, Hiền ơi. Vợ hiền ơi, Anh thương em. Thương vợ. Nhưng, anh bất lực rồi. Anh là thằng đàn ông vứt đi. Ôi, đau quá. Anh làm khổ em. Anh thương em. Anh là thằng đàn ông đáng ném vào sọt rác... Nỗi thương vợ lúc này càng làm Ngao hoảng loạn. Để chiều người vợ trong “loan phòng” trong tình cảm ái ân đôi lứa, Ngao mê man hôn lên mái tóc, làn môi, hôn lên khắp người Hiền... Ngao hôn như gió mưa trên thân hình người vợ đang phơi lên cái cái cơ thể ngồn ngộn, gọi mời... “Mà. Trời ơi - Ngao nghĩ - làm sao Ngao đáp ứng được cái bản năng tự nhiên của Hiền? Hiền có tội gì đâu. Ngao biết, con người sinh ra trên đời là thế. Phải thế. Đói ăn, khát uống, rồi cái thiếu cũng tự đi tìm lấy cái thừa mà tạo nên sự hoàn chỉnh. Nghĩ vậy, Ngao nhìn thẳng vào đôi mắt vợ và thầm thì - này Hiền - giọng Ngao dịu dàng thương cảm - anh thương em. Anh thông cảm cho em. Em cứ đi với những người đàn ông khác đi. Ở biển. Những người đi biển kia kìa. Anh không ghen. Anh cho phép em mà. Em đi đi. Em đừng quên anh là được. Em đã thiệt thòi, đã vì anh quá nhiều. Đừng để họ xem thường anh thôi, em nhé.” Nghe Ngao than vãn, Hiền chợt buông Ngao ra, ngồi bật dậy và cảm thấy chính mình đang có tội. Tại sao Hiền lại chọc vào nỗi đau của Ngao. Hiền đòi hỏi “cái có” ở cái “người không có” như Ngao. Hiền ôm chặt ngang lưng chồng, nước mắt chảy đầm đìa khuôn mặt. - Không. Không phải thế đâu anh. Anh coi thường em vậy. Anh nghĩ em là loại máu me, lẳng lơ lắm à? Anh đừng nói nữa. Hiền gọi - mình ơi! Em mắc tội rồi. Em thật vô dụng không giúp gì cho anh. Em xấu quá. Em xin anh. Em lạy anh. Em nhục lắm rồi mà. Không để Hiền phải nói những lời kiểu “rửa tội”, sám hối nhiều nữa, Ngao cười nhạt nói lảng sang chuyện khác: - Thôi, vợ hiền này… - Dạ. Sao kia a a a ạ. Hiền lau nước mắt. Mãi thật lâu, Hiền mới hỏi Ngao: - Dạ. Anh nói chi? Anh Ngao? Ngao cười, vẻ cợt nhả: - Thế mà anh đang mang tiếng “dê cụ.” Đấy. Làng biển còn rêu rao cái tin anh là thằng đi chim gái bị nó xẻo mất của quý em biết không? - Mặc miệng lưỡi thế gian. Nhưng. Sao anh không tố chuyện “đực cái” của mụ Hến? - Anh nói rồi. Anh nhận tội để các nhà kia không bị vỡ mà. - Chim gái bị xẻo “của quý”. Nhục nhỉ! - Thanh minh thế nào được, giở ra cho họ xem à? - Nhưng... - Nhưng... sao? Ngao hỏi. Hiền hất hàm hỏi lại: - Hôm bộ đội biên phòng cứu anh. Bệnh viện đã lộ ra cái tin là anh không còn lành lặn nữa mà. - Em nghe ngóng miệng lưỡi thiên hạ thế nào? - Họ cũng nói, anh đã bị mảnh đạn chiến trường cưa mất “cái đó”. Nhưng, nhiều người thích diễu. Họ không muốn tin như thế, anh ạ. - Nghĩa là, cái án,“Ngao dê cụ” vẫn còn treo nhục nhỉ. - Chả nhục gì. Chỉ cần có em. Em tin anh là được. Ngao lại cười nhạt và tự bình: - Thế đấy. Cả đời lính, Ngao đánh đông dẹp bắc, thương tật đầy mình, chả một ai thèm biết. Thế mà chuyện thằng Ngao “chơi gái, mất chim” thì ai ai cũng biết. Đời trớ trêu thật... Hiền nhìn Ngao đầy thông cảm. Hiền tự vuốt ve chồng: - Thôi. Em thương. Em thương anh. Em sẽ đền bù anh. Em sẽ nguyện làm người vợ hiền của anh... anh tin em đi. Anh tin em đi, anh nhé... Hiền ôm chặt lấy Ngao. Nước mắt Hiền chảy ướt khuôn mặt Ngao nom thật khổ đau, nhăn nhúm. CHƯƠNG SÁU C hiều trở gió. Biển cồn lên những lớp sóng vỗ ào ạt xô vào bờ cát. Ngao ngồi bên gò đất ngắm nhìn bóng nắng đang lơ lửng trôi theo bóng lá lay lay. Có tiếng gọi vu vơ: - Ông bạn ơi! Này, ông bạn ơi! Nghe tiếng gọi, Ngao ngước nhìn, không nói. Tiếng gọi lại vọng lên lần nữa. Ngao vẫn không đáp lời. Ngao lạ lẫm nhìn người mặc bộ quân phục, dáng cao to, đi sau là một thanh niên dắt chiếc xe máy bị lún chìm đôi bánh xuống một lớp cát dày. “Ai nhỉ?” - Ngao đứng lên ngờ ngợ. Khi người mặc quân phục đã tiến sát lại gần, Ngao vẫn không nhận ra ai. Người đó lên tiếng: - Ngao hả? Có phải Vũ Xuân Ngao đó không? Nghe gọi đúng tên mình, khi tay đã nắm chặt trong tay, Ngao ngước lên nhìn người lính già, một lúc lâu, anh mới reo lên: - Ôi! Thủ trưởng Nghĩa! Thủ trưởng Trương Văn Nghĩa, phải không? Ngao ôm chặt lấy ngang lưng người lính già như không muốn rời xa. Ngao không nói được gì, nhưng đôi mắt đã trào ra giọt nước. Ngao khóc, khóc thật to đến lạc giọng. Ngao kể lể miên man trong run rẩy, ấp úng… Ông Nghĩa trông có vẻ bình tĩnh, vẻ kiên nghị chai lì của người lính từng trải từng đi qua nhiều đau thương thử thách. Thấy Ngao đang bị chấn động mạnh, ông nghiến chặt hàm răng chừng như cũng đang cùng chịu đựng, sẻ chia với người lính thân yêu thuở nào từng gánh nhiều đạn bom, mất mát. Ông cứ đứng lặng như cây trồng, nghe Ngao phân trần, giãi bày cho vơi đi nỗi niềm từ lâu, ứ đọng. Khi thấy Ngao đã dứt tiếng khóc, ông mới gọi Ngao, giọng vô cùng thân thiết: - Ngao ơi! Này Ngao, thôi, nín đi em! Thiệt thòi quá. Hi sinh, mất mát nhiều quá, phải không em? Nhưng, phúc đời đấy, em ạ. Anh và em còn sống còn vác được cái xác mà về đến đất này... - Vâng. Nhưng, thủ trưởng ơi... anh Nghĩa của em không chết. Anh cũng vẫn còn sống thật ư? - Sống chứ. Anh vẫn còn sống mà em. Hai tay Ngao bấm chặt má mình xem đang tỉnh hay mê. Một lúc, Ngao nói như reo: - Anh Nghĩa thật rồi. Em ngỡ buổi ấy, nó xóa sổ đơn vị ta hết rồi. Họ bảo, anh Nghĩa cũng chết trong trận đánh ấy mà… Ngao lại khóc òa lên lần nữa. Ông Nghĩa lại kéo Ngao, ôm chặt lấy người lính thân thiết thuở nào, giọng ông cứng cỏi lên, kiêu hãnh: - Chết sao được “thằng Nghĩa,” Trương Văn Nghĩa. Cũng như chú em đây, Vũ Xuân Ngao của anh đây... đạn bom ư? Chúng giết ta sao nổi? Chúng ta còn lọt sàng, còn sống... - Nhưng, thủ trưởng ơi! Thủ trưởng vẫn còn nhớ tới Ngao, nhớ tới thằng em khốn khổ, khốn nạn này à? Làm thế nào thủ trưởng tìm được về tới xó xỉnh này cơ chứ? Ngao luôn mồm hỏi và nói như chưa bao giờ được bày tỏ với ai. Anh vẫn đứng, dang hai vòng tay khóa chặt như không muốn buông người “thủ trưởng” xa cũ của mình, sau gần hai chục năm mới có lần gặp lại. Hàn huyên khá lâu trên bãi biển, mãi đến khi Hiền biết tin chạy tới, cô mừng mừng tủi tủi, dắt tay, mời ông Nghĩa vào túp lều, cùng vợ chồng cô trò chuyện. Thì ra,“quả đất tròn” là thế. Ông Nghĩa bảo vậy. “Vì sao, ông tìm được đến đây ư? Gian nan, chìm nổi đấy”. Ông vốn là tiểu đoàn trưởng, cũng xuất thân ngư dân bám biển, đầu tỉnh nọ cuối tỉnh kia. Ông và Ngao ở cách xa nhau khoảng vài ba chục cây số đường chim bay. Ngao biết ông Nghĩa từ khi anh trở thành người lính, gắn bó và chịu lửa với ông qua nhiều trận đánh trên chiến trường Quảng Trị. Nhờ những chiến công anh dũng của Ngao, ba lần, tận tay ông Nghĩa kiêu hãnh trao cho người lính trẻ Vũ Xuân Ngao tấm bằng “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Cũng kể từ buổi ấy, ông thêm yêu Ngao, thêm kính nể và biết được Ngao là người lính trưởng thành từ anh ngư dân trên đất biển như ông. Ngao thật xứng với khí phách anh hùng của quê hương Quảng Bình, đất lửa. Ông Nghĩa kể, sau trận B52 xóa sổ gần như cả một đơn vị pháo của mình thì ông được tin là anh em chết gần hết, chỉ còn đôi ba người may mắn được cứu sống. Nhưng ai sống? Đơn vị nào hoặc ai đã cứu sống ai? Rồi sau đấy tản mát về đâu? Ông Nghĩa không biết thêm gì. Ông cũng bị thương nặng, và đơn vị thì nhận tin là ông đã hi sinh, nằm lại ở đất lửa kể từ buổi ấy. Ngày đó, ông Nghĩa nghĩ rằng, Vũ Xuân Ngao cũng đã chịu chung số phận bi kịch ở trận đánh này rồi. Rất may, sau khi bị thương ông Nghĩa được chuyển về hậu cứ. Qua nhiều bệnh viện điều trị khi vết thương lành ông được đưa về Bộ Tư Lệnh Quân khu công tác. Khi mang quân hàm Trung tá, giữ vai trò Phó Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tư lệnh Quân khu, trong công việc rối bời, ông Nghĩa vẫn nhớ tới người lính quả cảm Vũ Xuân Ngao. Ông đã một lần xin nghỉ phép đi đến quê Ngao hỏi thăm tin tức người chiến sĩ thân yêu. Nhưng, thật oái oăm ông chỉ nhận được những câu trả lời ỡm ờ của rất nhiều người… “Không biết “Ngao” với “sò” gì…” có lần, trong một hội nghị quân sự khu vực miền Trung, chắc mẩm rằng các cán bộ của quê hương Ngao cũng đến, ông Nghĩa lại trực tiếp gặp, hỏi thăm nhưng họ đều trả lời: “Ngao đã hi sinh. Đã ba lần có giấy báo tử về làng...” - Vâng, thưa bác... Hiền ngồi im lặng nghe ông Nghĩa trò chuyện, đến đây, Hiền bỗng cắt ngang lời ông: - Vâng. Thưa bác. - Bác gì? Cứ gọi Trương Văn Nghĩa là anh, em ạ. - Dạ. Em không dám. - Sao không dám? Anh cho phép rồi mà - ông Nghĩa phân trần với vợ chồng Ngao. Ông bảo: “Tuy anh quen ông Sao, bố Ngao, nhưng anh vẫn coi các em là em. Anh chiến đấu với ông Sao trong cùng một đơn vị. Lúc ấy, anh kém ông Sao mười tuổi nên mới gọi ông Sao bằng chú, nhưng ông Sao không chịu. Giờ bọn em cứ coi anh như “người anh cả” thôi mà. - Vâng ạ. Vậy xin anh cho phép. Hiền trở về chuyện cũ. Hiền kể với ông Nghĩa: - Thưa anh, nhà em đã ba lần nhận được “giấy báo tử” anh Ngao rồi mà. - Vậy ư? Ngao... đã ba lần báo tử? Ông Nghĩa chậm rãi hỏi lại, vẻ lạ lùng, rồi kể tiếp. “Vậy đấy. Chính vì tin, Ngao đã chết đã không thể thoát khỏi trận “xóa sổ” đau thương ấy, cộng với lời cán bộ của làng xã, quê hương Ngao trực tiếp nói lời khẳng định, nên... anh - (ông Nghĩa vẻ thân thiết, xưng anh với vợ chồng Ngao như vậy) - nên anh mới tự an ủi mình, tự vùi sâu nỗi buồn trong lòng mình mà quên đi. Anh nghĩ, trường hợp của Ngao cũng xảy ra với hàng ngàn người lính trong cuộc chiến vệ quốc vĩ đại ở trên đất nước này...” - Thưa vâng. Thưa bác. Em biết vậy. Ngao ngồi sụp xuống đất, ôm lấy một bên đùi của ông Nghĩa thân thương như những người lính thuở nào từng cùng nhau ăn gió nằm sương, gánh chung làn mưa đạn. Còn ông Nghĩa, hai bàn tay run run, nhẹ nhàng lật mảnh khăn đang che trên mặt Ngao. Nhìn mảng cằm đã bị phạt mất, nhìn nước da cháy sạm thẫm đen của Ngao, ông Nghĩa khóc nức lên giọng nghẹn tắc nơi cổ họng: - Khổ em quá. Xót đau cho em tôi quá. Nhưng, còn một hi sinh ghê gớm nữa là... Ông Nghĩa muốn nói đến trận chiến đấu, Ngao bị thương và đã bị mất “khí cụ” của đàn ông. Song lỡ chạm đến, chuyện này lại gợi cho vợ chồng Ngao nỗi đau sâu hơn nên ông Nghĩa vội dừng lại. Nhạy cảm và hiểu được điều này, Hiền không che giấu. Hiền vội kể lể với “người anh”, người thủ trưởng của Ngao. Hiền nói như báo cáo sự việc: - Thưa, thủ trưởng. Đau đời quá. Anh Ngao nhà em mất khoản ấy lâu rồi. Vậy mà anh ấy vẫn đang mang một cái án lớn. - Án gì? Ông Nghĩa hỏi, vợ Ngao đáp: - Mọi người đồn “Ngao là tên dê cụ. Đi chim gái bị nó xẻo mất”... - Ai tung lên tin này? Ông Nghĩa bỗng bật lên tiếng cười. Hiền kể lại câu chuyện Ngao đi biển gặp con thuyền có đôi tình nhân đang say sưa “tâm sự”. Nghi thuyền ai đứt dây bị trôi, Ngao xuống cứu và xảy ra chuyện ấy. Ông Nghĩa trầm ngâm, rồi vặn hỏi: - Sao không thanh minh. Không cãi. - Đấy. Thưa thủ trưởng. Nó khổ vậy, là thế - vẫn tiếng Hiền - tại anh Ngao nhà em không chấp, không muốn khui lên, sợ mụ Hến, sợ ảnh hưởng đến danh dự cán bộ địa phương, sợ gia đình họ sẽ tan cửa nát nhà. - Thế là tại mình - ông Nghĩa bình luận rồi nói với Hiền - thằng Ngao là thế. Nó cao cả. Nó chịu đựng, hi sinh cho người khác. Anh yêu quý nó... Ngao lặng im nghe vợ mình và ông Nghĩa nói chuyện. Muốn dẹp đi cái chuyện đang nhôi nhai, Ngao ngước nhìn, lay vai người “thủ trưởng cũ” gạn hỏi: - Anh Nghĩa ơi... sao hôm nay...? - Hôm nay thế nào, Ngao? - Hôm nay, bác lại nhớ và tìm được thằng em, như vậy? - Đấy. Quả đất tròn là thế. Cơ duyên đời người ta là thế, em ạ. Ông Nghĩa nói như người đang suy ngẫm một điều gì. Chợt ông quay sang hỏi vợ chồng Ngao: - Cháu Hương là con gái hai em, phải không? - Vâng - cả hai vợ chồng Ngao reo lên - vâng. Cháu Hương. Tên cúng cơm của cháu là Hàu, con gái duy nhất của hai chúng em đó. Bác biết cháu Hàu ạ? - Biết. Biết. Đấy... đầu mối là ở chỗ đấy, Ngao ạ. Ông Nghĩa kể lể khúc nhôi, giọng bỗng vui, sôi nổi hẳn lên: - Ai dè thế này này. Cái Hương đang học năm đầu, cùng trường Y trên thành phố với cái Tình, cháu nội của anh. Hai đứa thân nhau, kết nghĩa chị em. Chủ nhật, mới đây hai ngày thôi Hương theo Tình về nhà bác chơi. - Cháu đã được về tận nhà, thăm bác rồi ạ. - Ừ. Tình, cháu nội anh rủ nó về mà. - Ôi. Vui quá. - Ơn bác nhiều quá đấy. - Ừ. Thật vui, mà may nữa. Dây cà ra dây muống, qua chuyện kể, bác hỏi thăm cặn kẽ. Thì ra, cháu Hương nói, nó chính là con gái bố Ngao. Và, anh biết “thằng Ngao còn sống, Vũ Xuân Ngao còn sống”. Thế là vui như trời đất vừa sống lại. Anh bám lấy cái Hương mà hỏi dồn hỏi dập như tra khảo nó. Đến nỗi, cái Hương phải nói ra cả cái tên cúng cơm của nó là Hàu, bố Ngao con Hàu đều sống chết với biển cả mà. Nó bảo “Thưa ông. Bố cháu vẫn còn sống, ông ạ. Bố cháu còn sống, nhưng chỉ còn như cái bóng tối vật vờ thôi - Hàu than vãn - bố cháu vì nước, vì dân, hi sinh tất cả máu xương mà bây giờ chẳng được hưởng chút gì. Lại chịu bao nhiêu nỗi cực khổ nữa. Thân hình thì tàn phế xấu xí...” - Không, không mà - nghe Hàu kể đến đây, ông Nghĩa cắt ngang lời bảo nó: - Bố cháu đẹp trai lắm. Khi xưa bố cháu nổi tiếng khỏe mạnh và điển trai nhất tiểu đoàn bác đấy... - Vâng. Nhưng bây giờ, vết thương nặng, bố cháu phải che mặt. Bố cháu mặc cảm, buồn, không bao giờ đi đâu, quanh năm chỉ từ nhà xuống biển. Tiếng đồn truyền nhau, ở làng, họ gọi bố cháu là “bóng ma”,“bóng quỷ” kia đấy... - Vậy ư? - Ông sẽ đến tìm bố… Ông Nghĩa hứa với Hàu, hứa với đứa cháu gái như thế. Đã hai đêm liền mất ngủ. Ông Nghĩa thao thức, mong thu xếp công việc rồi nhờ cậu cháu trai “làm chân xe ôm” lên đường tìm Ngao, một người lính cũ yêu quý của ông. Trong túp lều nhìn ra chân sóng, buổi ấy, ông Nghĩa đã nằm lại nhà Ngao qua đêm rồi một ngày dài nữa. Chỉ có tình cảm người lính từng đi qua chiến tranh, đi qua cõi chết mới đặc biệt là vậy. Ông Nghĩa ghi ghi, chép chép, chữ nghĩa dày đặc cả một trang giấy. Ông bảo: “Là thủ trưởng cũ. Nhân chứng còn sống, còn tươi rói một thời. Đây là bằng chứng. Đây là tất cả những điều cần đi tìm, cần minh oan, cần phục hồi và trả lại cho Ngao. Ngao mất hết. Ngao thiệt thòi nhiều quá. Là thương binh nặng. Ngao xứng đáng là anh hùng, dũng sĩ. Nhưng, gần hai mươi năm trời rồi... ừ. Gần hai mươi năm trời với cả một đời tuổi xuân của người lính trên chiến trường đánh giặc... Ngao yên tâm. Ông Nghĩa hứa. Dẫu đã về hưu, dẫu tuổi đã cao rồi, nhưng đích thân ông sẽ đi các nơi gõ cửa và giành lại cho Ngao.” Ngao vui vui. Cái vui hiếm hoi, dè dặt của người nếm trải nhiều thương đau, chừng có chút nghi ngờ, lạ lẫm. Ngao cười như gió nhạt thoảng qua làn môi khô khốc. Anh để yên bàn tay trong đôi tay nắm chặt của ông Nghĩa. Chiều biển. Một ngày sau nữa, hôm ấy, khi đã vàng mặt trời, lúc thằng cháu “đóng chân” xe ôm đến tận túp lều đón người ông đã hẹn, ông Nghĩa mới đứng dậy, chia tay vợ chồng Ngao, ra về. Ông bảo: - Ngao yên tâm nhé. Anh em mình gặp nhau rồi. Vợ chồng em gắng đợi chờ. Anh sẽ đòi lại quyền lợi cho em. Ngao sẽ được đắp đền, em ạ... Ông Nghĩa ngồi lên phía sau một chiếc xe Honda. Chiếc xe nổ máy rồi rú ga chạy vù vù, cuốn theo làn cát bụi, khoảng không che khuất bóng hai người ở tít tận dốc xa. Ngao và Hiền, hai cánh tay vẫn còn vẫy theo như mãi còn tiếc nuối. CHƯƠNG BẢY T rong văn phòng Ủy ban nhân dân xã tại làng biển. Vào một sớm đầu hạ, khi mặt trời vừa nhô lên mặt sóng, Ngao đã choàng thức dậy. Nhưng, do dự mãi Ngao vẫn còn ngần ngại điều gì. Ngao không muốn đi đâu. Ngao muốn lánh mặt mọi người. Bởi, từ ngày rời quân ngũ về làng đã quá lâu Ngao không bao giờ đi đâu nữa. Ngao chỉ ở dấu mình trong bốn bức tường căn lều, rồi ra biển. Rồi lại trở về túp lều nhỏ bé của mình. “Hôm nay có việc gì? Ủy ban xã có giấy mời Ngao - Ngao hỏi vậy, nhưng anh mẩm đoán, chắc là việc “lính trận,” việc một “quân nhân thương tích về làng” của Ngao được ông Nghĩa khui lên. Ông Nghĩa thật ân nghĩa. Ông Nghĩa, thủ trưởng cũ của Ngao. Thủ trưởng cũ của cơ quan quân sự cấp tỉnh đã can thiệp vào các cơ quan, trong đó địa phương Ngao đang sống là mối tháo cởi quan trọng ban đầu”. Ngao uể oải bước đi. Tới Văn phòng Ủy ban, chừng mọi người đang chờ. Có tiếng mách nhau, từ xa nghe rộ lên ríu rít: - Kìa. Ngao. Đúng là Ngao rồi. - Anh Ngao đến kia rồi, các ông ạ. - Ôi. Anh Ngao. - Anh Ngao. - Xin chào anh. - Mọi người đang đợi anh mà... Ngao chắp hai tay lên ngực gật đầu đáp lễ. Ngao vẫn quấn chặt mảnh khăn che khuất nửa mặt, nhưng vẫn nhìn rõ từng người. Chợt nhận ra Trương Văn Nghĩa, người thủ trưởng của Ngao cũng có mặt ở đây, Ngao vội chạy lại, reo lên: - Ôi. Bác Nghĩa. Em chào thủ trưởng ạ. - Ừ. Ngao! Em đấy ư... mà này đúng ba tháng rưỡi tròn rồi phải không? - Vâng. Em nhớ. Em gặp thủ trưởng vào đúng ngày Rằm mà. - Ừ. Thôi, ta vào Văn phòng Ủy ban nhé. Họ đang chờ. Hôm nay chúng mình sẽ nói chuyện... Ngao bước theo ông Nghĩa. Mấy người vây quanh dắt tay Ngao qua cầu thang bước lên tầng hai. “Thì ra hôm nay, Ngao được Ủy ban nhân dân xã mời ra văn phòng dự buổi gặp mặt là do ông Nghĩa đã đề nghị tổ chức. Từ buổi tìm đến nhà Ngao, đã trên ba tháng trời ông Nghĩa đã điện thoại, dò la tin tức, cạy cục nhờ người này người nọ. Ông đích thân trực tiếp chạy ngược, chạy xuôi lần đến các đơn vị. Ông lục tìm và làm lại cho Ngao các giấy tờ, chứng cứ của người lính, người thương binh, người một thời đã lập nhiều chiến công vang dội của tiểu đoàn ông ở mặt trận phía Nam. Sớm ấy, ngồi trên chiếc ghế được trân trọng xếp ở hàng đầu. Ngao luôn ngước mắt nhìn chăm chú và đắm đuối ông Nghĩa, người thủ trưởng thật yêu thương, chu đáo của mình. Có lúc Ngao bật khóc vì không kìm nổi những cơn xúc động. Ông Nghĩa, với tư cách người chỉ huy người lãnh đạo một thời của Bộ Tư lệnh Quân Khu, đề nghị Ngao đứng lên bậc cao của sân khấu hội trường cho mọi người nhìn rõ. Ông giới thiệu Ngao. Ông kể về cuộc chiến dài dặc, hiểm nguy mà Ngao từng nếm trải. Ông vạch các vết thương trên người Ngao. Ông nói về cuộc đạn bom làm đơn vị chết vùi, rồi tản mát, lạc đường. Ông kể về những dích dắc khó lường, khó tưởng tượng nổi của những tình huống, những người lính bị thương, bị tâm thần, bị mất hết giấy tờ, bị lang thang không biết được đường về đâu nữa... ông nói như tâm tình, như khẩn cầu, như giao phó cho các cấp cán bộ địa phương. Rằng, vì những người có công với nước, vì đạo lí “uống nước nhớ nguồn,” ông và mọi người phải có trách nhiệm minh oan cho Ngao. Phải trả lại tất cả những gì gọi là ưu đãi cho một số phận con người như Ngao đang bị khuất lấp, lãng quên và gánh chịu quá nhiều nỗi đắng đót, thiệt thòi...” Gần hai tiếng đồng hồ, trong căn phòng họp của Ủy ban nhân dân xã vùng biển, buổi ấy, ai nấy đều lặng phắc. Mọi người như nuốt, như uống thấm từng lời, từng câu trong nỗi niềm từ ông Nghĩa đang giãi lòng bày tỏ. Giọng ông Nghĩa, lúc như gào to lên, lúc thầm thì cảm động, lúc lặng dần. Rồi đôi lúc người ta thấy ông Nghĩa giống như “một viên tướng đang đứng giữa trận tiền”, lúc lại hiện nguyên hình một người lính già, tay run run rút chiếc khăn “mùi soa” chấm từng dòng nước mắt với tiếng nấc đang chìm sâu trong họng... điều đặc biệt, khi ông Nghĩa nói ra cái điều thật khó chia sẻ với mọi người, về mất mát mà Ngao phải gánh chịu trên đường khi đơn vị vừa đi qua Quảng Bình, tiến sâu vào mặt trận phía Nam. Đáng lẽ Ngao đã được quân đội cho phép về nhà hưởng chế độ thương tật vĩnh viễn. Nhưng lòng căm thù giặc Ngao một lòng “quyết tử” xin nguyện thề xả thân vào trận đánh cuối cùng... - Trời ơi. - Vũ Xuân Ngao ơi. - Anh Ngao thân phận quá! Khổ đau quá! - May mà, trước đó Ngao cũng đã có được một người con. - Mà, Ngao ơi, sao anh lại chịu nhẫn nhục đến vậy? Ông Nghĩa đang nói phải dừng lại vì tất cả hội trường bỗng dội lên những lời bàn tán, xôn xao. - Vậy, ai đã đổ tội cho anh Ngao là “dê cụ”? - Ai, đã vu khống tội xấu xa, bỉ ổi cho người lính sáng trong, cao đẹp này? - Nhưng, cũng tại Ngao nữa. Có nhiều tiếng đay lại: - Sao anh Ngao không cãi? Người ta bắt được xác anh nằm không quần áo trên bờ biển đó thôi. - Chuyện thế nào nhỉ? - Thật khổ đau! - Thật oan uổng cho cuộc đời bất hạnh...! Tiếng bàn tán dần lắng xuống. Đang đứng trên bục “diễn thuyết”, ông Nghĩa nghe rõ những lời bàn tán về Ngao cứ rộ lên, lan rộng khắp hội trường mà xốn xang bao nỗi buồn vui. Chờ mọi người đã lặng im trở lại, ông mới hắng giọng, tiếp tục bắt vào chuyện kể: - Vâng. Thưa tất cả bà con. Thưa đồng bào, anh em làng biển chúng ta… Ông Nghĩa tiếp tục nói về Ngao, giống như những lần cả làng biển này từng tập trung nghe “kể chuyện anh hùng quê ta” thời chiến tranh, giặc dã. Ông Nghĩa nói: “Vũ Xuân Ngao là người lính. Là bạn chiến đấu gắn bó, thân thiết với bảy, tám năm ròng trên chiến trường trận mạc vô cùng cam go và khắc nghiệt của tôi. Ngao xứng đáng với danh hiệu anh hùng. Một người lính từng cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”. *** Cuộc trường chinh của ông Nghĩa và Ngao cùng bao nhiêu đồng đội bắt đầu từ buổi vượt Trường Sơn. Ngày ấy, ngày đi, đêm nghỉ. Hay, ngày nghỉ, đêm lại mải miết lên đường... vượt dốc, trèo đèo. Thử thách ban đầu của Ngao gắn với kỉ niệm đáng nhớ với Binh trạm 40. Trước đó, do mang vác nặng, hành quân đường trường, lại dốc cao vực thẳm. Ngao bị bong gân bàn chân phải. Mọi người biết Ngao đau đớn vô cùng. Anh nhăn mặt, cắn răng, nhưng không một tiếng kêu, vẫn vác trên vai bàn đế cối 82 ly, ba lô, bao gạo… anh cố lê từng bước. Chợt Ngao ngã chúi, nước mắt trào ra. Ông Nghĩa rụng rời nhìn thấy gót chân Ngao một mảng gân trắng hếu lòi ra. Tiếp theo là máu! Ôi nhiều máu quá! Nhìn Ngao đau điếng, ngã nhào, cái nòng cối 82 đè lên cổ Ngao, còn chiếc bàn đế lăn xuống vực thẳm, Nghĩa hốt hoảng chợt nghĩ, hình dung ngay đến mức kỉ luật dành cho mình sẽ như thế nào, nếu chiếc bàn đế nằm mãi dưới vực sâu không lấy được. Ông Nghĩa lệnh cho đơn vị tạm dừng để băng bó cho Ngao, xong mới tiếp tục nghĩ cách làm thế nào để lặn mò xuống vực, lấy cho được cái bàn đế cối 82, không thì nguy. Nghĩa bế tắc nhìn sang cậu lính đang ngồi tựa lưng vào gốc cây săng lẻ. Cậu có đôi mắt lé, răng lại hô. Cậu đang bị con bọ cạp rừng cắn ngay sau mông. Cậu đứng dậy, nhảy như “nhảy van” miệng hét lên như khóc.“Cứu tôi với. Bọ cạp cắn mông đau quá, trời ơi!” Ra vậy. Mọi người cười, bảo cậu này là “thằng đại tiếu lâm.” Lúc này mà còn đùa giỡn được. Trong khi mọi người đang vang lên tiếng cười rũ rượi thì bỗng như có phép lạ. Ngao đau vậy mà đã đứng dậy được rồi sao? Ngao đi về phía thủ trưởng Nghĩa, đề nghị: “Xin cho vài đồng chí theo tôi đến vị trí rơi bàn đế 82”. Tôi xung phong lặn xuống tìm bằng được bàn đế mang lên. Chân tôi đang đau lắm, nhưng tôi sẽ làm được”. Ông Nghĩa thủ trưởng của đơn vị, chưa kịp quyết định thì Ngao đã một mình lao xuống vực. Cả đại đội hồi hộp ngồi chờ, cầu nguyện cho anh tìm thấy bàn đế súng cối đã mất. Phải tới hai mươi phút ngụp lặn, Ngao mới nhoi lên báo cáo là đã tìm thấy bàn đế, nhưng rất nặng. Anh mở ba lô lấy tấm ni lông cột vào người rồi lại lặn xuống lần thứ hai, gói bàn đế buộc vào dây. Ngao nối dây võng lại, bơi lên. Đồng đội hỗ trợ, kéo Ngao đẩy hờ theo. Sau hai tiếng đồng hồ vất vả, chân anh đau nhức mà Ngao vẫn cố gượng để đưa được bàn đế súng lên bờ. Anh ngất lả đi không còn biết gì nữa. Đồng đội hô hấp nhân tạo mãi anh mới tỉnh lại. Phải mất hai tuần sau Ngao mới cà nhắc lết đi và vác được nòng pháo đi theo đơn vị. Tối tối, sau mỗi ngày hành quân trèo đèo vượt dốc, trong đau đớn, Ngao phải luôn ngâm chân bằng nước nóng cho đỡ đau để ngày hôm sau tiếp tục đi theo mọi người. Đau mấy cũng phải cố. Ngao bước đi và phải giấu dòng nước mắt chảy tràn trên má. Ngao sợ một biểu hiện nhỏ về sự nhụt chí của mình sẽ ảnh hưởng lớn đến sức chiến đấu của anh em trong đơn vị. Nhớ buổi vượt sông Kiến Giang mọi người phải đi qua được bốn tuyến sông là bốn tuyến lửa. Giặc Mỹ đánh phá Quảng Bình để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc. Còn tuyến sông nửa cuối cũng rất ác liệt, chẳng khác nào như một dòng sông lửa. Ở đây, có xóm chài của làng Quảng Xá, xã Tân Ninh. Vượt qua bến sông này, là có thể đi bộ theo đường 15 vào Quảng Trị dài tới bốn mươi lăm cây số. Nếu đi bằng sông, vượt ngầm Cam Lộ, Do Linh, Bến Quan thọc sâu vào phía đường 9 Nam Lào, thì cũng phải mất ba mươi sáu ki-lô-mét đường sông. Đi bằng tuyến sông thì bộ đội được dưỡng sức vì du kích của hợp tác xã Quảng Xá chèo thuyền chở. Mỗi lần đưa quân đi bằng đường sông họ dùng ba thuyền, chở được ba mươi người, gồm cả quân dụng lương thực. Nhưng nếu bị B52 phát hiện thì rất nguy hiểm. Do đó thuyền chỉ sử dụng để chở lương thực vào và chở thương binh ra. Có lần, một gia đình chỉ có ba người mà hai vợ chồng là người lớn tuổi nhận chèo thuyền. Lúc đó cụ ông khoảng sáu mươi sáu tuổi, cụ bà trên năm mươi tuổi, đặc biệt có một cháu gái mười ba đến mười bốn tuổi chèo đò rất giỏi. Cháu gái cầm lái. Cụ ông cầm lái thứ hai, còn cụ bà chèo đầu mũi. Trời rét đậm, cụ ông phong phanh một cái áo lá tơi cụt che ngang mông, còn cụ bà cũng vậy, nhưng dài xuống đầu gối. Khi máy bay trực thăng bay rà sát ngọn cây bần, cây đước, bé gái cắt một mớ bông lác cói cao dài, cột túm lại và đội lên đầu. Cây lác