🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Thăng Long Ebooks Nhóm Zalo NGƯỜI THĂNG LONG Tác giả: Hà Ân Đánh máy: tieuboingoan Ebook: motsachgia 16-07-2015 Giới thiệu Người Thăng Long, bản trường ca hào hùng về các vị vương, tướng nhà Trần trong cuộc chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai. Với nhân vật trung tâm là Trần Nhật Duật, ông hoàng Sáu, một người Thăng Long thanh lịch, tài hoa, không chỉ thông minh trí lự chiến thắng giặc ngoại xâm mà còn thắng bản thân trong cuộc chiến với những oán cừu của cuộc đời. Người đọc như bị cuốn vào không khí náo nức sôi động của buổi Hội thề, vui vẻ lạ lẫm của lễ cướp dâu, không khí căng thẳng trang nghiêm của hội nghị Bình Than và trang trọng, hừng hực ý chí chiến đấu của hội nghị Diên Hồng… Và đó là khởi đầu của một khúc ca khải hoàn… Nhà văn HÀ ÂN (1928-2011) Tên thật là Hoàng Hiển Mô, quê ở Hà Nội. Ông gia nhập Trung đoàn thủ đô liên khu I năm 1947, rồi làm trưởng ty Hoa kiều vụ tỉnh Lào Cai năm 1948. Năm 1955, ông về làm giáo viên văn hóa ở Trường Quân y và Hậu cần. Từ năm 1964, ông làm biên tập viên tại Nhà xuất bản Hà Nội… Ông nổi tiếng với các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, truyện kể lịch sử, dã sử và được tặng các giải thưởng: Giải C Giải văn học thành phố Hà Nội cho tiểu thuyết lịch sử Ngàn năm Thăng Long; Giải bồ câu vàng kịch bản phim hoạt hình Ông Trạng thả diều; Nhiều lần giải A văn học thiếu nhi Trung ương Đoàn; Giải khuyến khích kịch bản hoạt hình Ngựa thần Tây Sơn. TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN: • Tướng quân Nguyễn Chích (truyện lịch sử, 1962) • Quận He khởi nghĩa (truyện lịch sử, 1963) • Nguyễn Trung Trực (truyện lịch sử, 1964) • Phú Riềng đỏ (ký lịch sử, 1965) • Bên bờ Thiên Mạc (truyện lịch sử, 1967) • Tổ quốc kêu gọi (tiểu thuyết lịch sử, 1973) • Trên sông truyền hịch (truyện lịch sử, 1973) • Trăng nước Chương Dương (truyện lịch sử, 1975) • Người Thăng Long (tiểu thuyết lịch sử, 1980) • Lưỡi gươm nhân ái (truyện lịch sử, 1981) • Ông Trạng thả diều (truyện lịch sử, 1982) • Cái chum vàng (truyện lịch sử, 1986) • Vụ án trầu cánh phượng (truyện lịch sử, 1990) • Kho báu dưới gốc hoàng đào (truyện lịch sử, 1993) • Mùa chim ngói (tập truyện, 1995) • Khúc khải hoàn dang dở (tiểu thuyết lịch sử, 2002) Chương 1 Trời đã về chiều. Rặng Yên Tử xa xa đã sẫm màu, một màu tím mơ màng, bí mật. Một người cưỡi ngựa phi nước kiệu trên con đê thấp viền dòng sông Lục Đầu, hai bên trồng một giống nhãn gốc to, thân vặn cong xuống, tán thật thấp, lá cành loà xoà cả ra giữa mặt đê. Những con chuồn chuồn “đi tu”, bay đứng im lìm trên không trung, chỉ có đôi cánh khẽ run rẩy. – Trời lại sắp trở gió. Không biết ta có về kịp Côn Sơn đêm nay không? Kị sĩ ngước lên nhìn trời dày đặc mây đen xám. Gió xuân đông bắc vẫn dìu dặt thổi về chợt lạnh, chợt ấm đưa hương nhãn sực nức không gian. Đến cái điếm hộ đê vắng teo, kị sĩ ghìm ngựa lại. Con ngựa đang mải nước phi, bực dọc gục gặc cổ hầm hừ. Kị sĩ cả cười, vỗ yêu lên cổ ngựa. Nó thật là một con tuấn mã. Màu lông đen nhưng nhức, chỉ có một vệt trắng từ khấu đuôi đến lưng chừng bộ lông đuôi cong lên đúng kiểu tướng ngựa tranh tiên nhưng cũng không muốn có con ngựa nào khác chạy liền kế ngay sau mình. Cái đầu con ngựa nhỏ, gầy, gân guốc, hai lỗ mũi nở rộng hếch lên như hất lửa. Ức nó rộng, mông tròn, bốn vó dài, nhỏ như chân hươu rê những chiếc móng tròn xoe dày lên, xéo lên những nụ hoa nhãn rụng đầy mặt đất. – Đừng nổi giận, đừng nổi giận, con trai yêu của ta. Rồi con sẽ được phi cho thoả bốn vó đuổi gió của con mà. Nào đứng cho yên đi con. Kị sĩ ngọt ngào dỗ con ngựa quý. Anh ta ăn mặc quá ư xuềnh xoàng, một bộ quần áo nâu đã bạc nhưng may chẽn. Đầu chít một chiếc khăn màu tam giang bằng là, chiếc khăn chít thật khéo, hai nếp đầu xếp chéo lên nhau thành một chữ nhân hơi lệch trên vầng trán rám phong sương nom thật duyên dáng giang hồ. Ngang lưng kị sĩ thắt một chiếc thắt lưng vải bình thường màu đen cài một thanh kiếm ngắn vỏ gỗ có ken những khuyên bằng mây chẻ nhỏ. Kị sĩ đi một đôi hia nhẹ bằng da dê núi, đế bằng nhưng mũi nhọn, chắc rằng dưới lần da dê phải có mũi bằng sắt. Kị sĩ buộc con ngựa vào gốc nhãn rồi đi sang mé đê bên kia. Từ đây có thể nhìn thấy dễ dàng phong cảnh chung quanh Kiếp Bạc. Một dãy núi đất năm ngọn không cao lắm chắn mặt sau thung lũng. Mé trước có hai mỏm núi chắn hai đầu, chân núi ăn liền ra tới bờ sông. Bên trong thung lũng, dựa lưng vào một quả đồi nhỏ, ẩn sau những vòm cây ăn quả, những mái nhà của trang trại Vạn Kiếp phô màu ngói đã cũ với thời gian. Từ đây về tới Côn Sơn, chỉ có nơi này tiện ngay bên đường có thể nghỉ chân một đêm được. Chủ nhân trang trại là đức ông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng nổi tiếng là người trọng hiền, hiếu khách... – Nhưng... - kị sĩ vụt cười lớn: - nhưng ta không bao giờ muốn để chân vào đất của các vương hầu, mặc dù trong thái ấp giàu sang kia ta có một người bạn tri kỉ. Lúc kị sĩ cười, người ta mới thấy tất cả vẻ đẹp phong trần của một chàng trai trẻ nhưng đã sớm phiêu lãng nhiều năm. Chính lúc cười kị sĩ mới tỏ ra mình chỉ mới hai mươi lăm tuổi là cùng. – Chẳng thà ta ngủ ngồi, dựa lưng vào một gốc cây. Kị sĩ lại cười lên ha hả. Bất chợt anh ta thôi cười. Anh ta vừa nhìn thấy một đám người đang làm lụng bên một dòng suối nhỏ. Nhìn họ làm, mặc dù công việc mới nửa chừng nhưng kị sĩ cũng hiểu rằng họ đang lắp một cái cọn nước để lấy nước tưới cho những thửa ruộng cao nằm sát chỏm núi ngoài cùng phía bắc. – Đáng ra phải làm cái cọn ở trên mấy chục trượng nữa thì mới dùng được cho cả những thửa ruộng kia... Hay là họ... họ còn định làm thêm cái cọn nữa. – Ô kìa! Một tiếng reo bên tai làm cho kị sĩ giật mình quay lại. Một người trẻ tuổi mặc áo lụa thâm lịch sự, vai đeo một chiếc hồ rượu, tay cầm một chiếc sáo trúc đang trịnh trọng và thân mật vái chào: – Trời ơi, đúng là hiền huynh rồi. Sáng nay tiểu đệ thấy cây lan tiêu nở bông hoa cực đẹp, tiểu đệ đoán ngay rằng sẽ có khách quý tới thăm. Nhưng tiểu đệ không ngờ rằng khách quý lại chính là hiền huynh. – Không đâu. Hiền đệ không lạ gì ta, chiếc thân phiêu bạt không quen nghi lễ phiền toái đài các ở các thái ấp. Ta định đi Côn Sơn rồi ta nhắn hiền đệ xuống đó cùng ta trèo núi Phượng Hoàng hái thuốc. Cữ này mưa xuân, nhiều giống thuốc đang nở hoa, chính là lúc phải hái để dùng dần. Rồi kị sĩ lùi lại mấy bước ngắm người bạn: – Trời ơi, ta thấy hiền đệ khác xa cái hôm hiền đệ cùng với ta xem chọi trâu ở Đồ Sơn. Bữa ấy, nom hiền đệ... còn... lãng tử hơn ta. Thế mà bây giờ thì... – Thì sao hiền huynh? – Thì đúng là khách công hầu rồi. Hiền đệ bây giờ thật đúng là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, vương tử thứ ba của đức ông chúa thái ấp Vạn Kiếp kia kìa. Lại còn văn hài vóc thâm nữa chứ. Đã hài vóc lại còn thêu bướm lượn bướm bay. Chết nỗi, ta đâm sợ cho thân ta đã từng dám suồng sã với hiền đệ như hai kẻ du đãng coi trời bằng vung. Trần Quốc Tảng - chính là đức ông vương tử thứ ba của thái ấp Vạn Kiếp - cũng cả cười: – Qua sông phải luỵ đò thôi. Hiền huynh ơi, mặc dù hiền huynh mắng mỏ thế nào tiểu đệ cũng phải chịu nhưng hôm nay thì hiền huynh phải lưu lại đây cho tiểu đệ được hầu rượu. – Rượu thì có bao giờ ta chê. Nhưng thôi, hiền đệ đừng bắt ta bỏ lời nguyền cũ. Ta rất hiểu hiền đệ cho nên ta mới kết bạn tri kỉ với hiền đệ. Hiền đệ có nhớ hôm gặp nhau lần đầu tiên không? – Tiểu đệ quên làm sao được... Trần Quốc Tảng vốn là một chàng trai quý tộc nhưng tính rất phóng khoáng, ưa thích cuộc đời lãng du đầy những bất ngờ ở bốn phương trời. Là một người văn võ toàn tài, Trần Quốc Tảng cứ một ngựa, một kiếm ngắn ăn mặc xuềnh xoàng đi lang thang khắp nơi. Xem hội, xem phong cảnh, vào núi sâu đàm đạo với các bậc cao tăng, ẩn sĩ hoặc uống rượu trong một cái quán giữa đường cùng với những kị sĩ du khách quen thói không nhà không cửa. Cách đây ba năm, Trần Quốc Tảng ra chơi đảo Vân Đồn. Đúng vào cữ trăng sáng. Trần Quốc Tảng lên dải đá lô xô ven đảo tìm ra một mỏm ở tít ngoài xa. Anh định thưởng trăng một mình ở đó. Nào ngờ, đêm ấy bọn buôn lậu Lôi Châu cũng hẹn gặp nhau để bàn bạc về chuyến hàng sắp tới. Thấy có người lạ mặt, chúng định giết đi để khỏi lộ chuyện. Trần Quốc Tảng là tay kiếm tuyệt luân nhưng bọn buôn lậu đông hơn mười đứa, chúng cũng là bọn giỏi võ. Trận đánh diễn ra trên những tảng đá bám đầy hà sắc như dao. Tiếng kiếm chạm nhau chan chát, lửa toé ra rợn người. Sức đôi bên chênh lệch nên Trần Quốc Tảng phải vừa đánh vừa lùi và lựa thế sao cho mình chỉ phải đối phó với một, hai tên trước mặt. Anh đã chém ngã ba tên nhưng không vì thế mà bớt phần nguy hiểm. Ngược lại, sức anh giảm sút và bọn gian toả rộng ra vây tròn anh lại. Chính lúc nguy cấp ấy có tiếng thét vang động: “Quân đạo tặc, sao dám lộng hành!”. Rồi một người từ ngoài vòng vây xông vào giúp cho Trần Quốc Tảng nhảy vọt khỏi vòng vây. Sau đó cả hai mau chóng chuyền nhảy trên những mỏm đá chạy vào bãi cát. Trần Quốc Tảng về ngay đồn binh của trấn quan Vân Đồn. Viên tướng trấn thủ lập tức đưa một số lính tuyển phong chia thành nhiều đường vây bắt quân gian. Tới mờ sáng bọn gian bị bắt giam hết. Trần Quốc Tảng tìm ân nhân để cảm tạ nhưng người ấy đã bỏ đi từ lâu. Anh hối hận mãi. May sao, chỉ ba hôm sau, trong phiên chợ ngọc trai bên Hòn Én, Trần Quốc Tảng nhận ra ân nhân của mình đang say mê nghe một người hát xẩm già chơi đàn bầu. Trần Quốc Tảng đã chân thành cảm tạ. Chính vì sự chân thành đó mà người kia bằng lòng kết bạn với Trần Quốc Tảng nhưng với một điều kiện: không người nào được làm phiền người nào. Người ấy, xưng tên là Đỗ Vỹ, không nói một li về gốc tích quê quán. Hai người mau chóng trở thành bạn thân. Có lẽ đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, Trần Quốc Tảng gặp một người mà đức ông trẻ tuổi kiêu hãnh ấy phải kính phục về tài năng, về tầm hiểu biết, về sự lịch lãm việc đời, về cả tâm hồn sâu xa mà không độc ác, ôn hoà chính đính mà không chấp nê. Hai người thân nhau tới mức mỗi khi có việc gì cần tới sự giúp đỡ của Đỗ Vỹ, Trần Quốc Tảng chỉ cần nhắn người báo tin là việc tất xong. Với con người hành tung kì bí như Đỗ Vỹ, việc gì anh cũng làm dễ như trở bàn tay. Hình như anh quen đủ mọi hạng người trong thiên hạ, kể cả những người ở bên kia biên giới nữa, mà mức độ thân quen đến không từ nan việc gì hết. – Sở dĩ ta xuống ngựa chỉ để ngắm xem thế đất nơi đây. Ta có nghe nhiều người tin ở phong thuỷ nói kiểu đất này đẹp lắm. – Thế hiền huynh cũng tin ở thuật phong thuỷ à? – Không đâu, ngay kiểu đất mộ tổ dòng họ nhà hiền đệ ta cũng đã ngó qua. Chẳng qua có những kẻ không vừa lòng với việc dòng họ Trần giữ ngôi nước này nên họ đặt điều bêu xấu chứ sự thật có như lời đồn đại đâu. Nhắc tới chuyện kiểu đất mộ tổ, chắc chắn rằng Đỗ Vỹ không có ý chế giễu, nhưng Trần Quốc Tảng dù là người khoáng đạt cũng phải ngượng ngùng. Ngôi mộ này nằm ở địa phận xã Thái Đường phủ Long Hưng. Mộ táng từ trước đây hàng bảy tám đời, từ cái thuở dòng họ Trần mới chỉ là một dòng họ chuyên làm nghề chài cá và buôn biển. Chắc chắn rằng khi đó táng ngôi mộ không ai nghĩ đến đất này phát đế vương. Nhưng khi họ Trần lên thay nhà Lý nắm giữ ngôi báu thì bỗng có tin đồn trong thiên hạ rằng sở dĩ như vậy là vì ngôi mộ này kết phát. Người ta truyền tụng nhau: “Phấn đại dương giao chiếu. Liên hoa đối diện sinh. Tha nhật dĩ sắc đắc thiên hạ”, có nghĩa là: Phấn son chiếu về. Hoa sen nở trước mặt, ngày sau nhờ sắc đẹp đàn bà mà lấy được thiên hạ. Chao ôi chỉ có những cái gò lổn nhổn bày biện chung quanh ngôi mộ mà người này đoán là hoa sen, là phấn son còn người khác thì lại đoán là thanh kiếm, cái ấn. Nhưng đoán là son phấn và hoa sen thì quả là có ác ý. Chắc rằng họ ám chỉ đến sự việc cuối đời Lý có loạn, thái tử Sảm phải bỏ kinh thành chạy về Long Hưng. Nhà dân chài họ Trần đón thái tử về nuôi và che chở. Khi ấy họ Trần đã giàu có lắm rồi. Trong họ lại nhiều người đi buôn biển nên lịch lãm giang hồ, giỏi võ, giao thiệp rộng, nhìn cũng xa, mưu cũng lớn. Họ tính chuyện buôn vua. Họ đem Trần Thị Dung, cô gái xinh nhất họ, gả cho cái anh con vua đang chạy loạn thất cơ lỡ vận. Rồi họ Trần xuất của nhà ra mộ lính hưng binh phò thái tử Sảm về kinh lên ngôi vua. Sảm thành vua thì Trần Thị Dung dĩ nhiên phải trở thành hoàng hậu. Giả sử không có chuyện hôn nhân trên thì làm sao họ Trần rời được cái vạn chài Cửa Bố về được kinh nắm giữ hầu hết những chức vụ quan trọng trong triều rồi thừa thời cơ mà nắm lấy ngôi vua được. Vì triều Trần lập nên không từ một võ công dựng nước như các dòng họ khác nên vẫn có nhiều người còn nhớ đến các vua Lý. Từ chỗ bất phục dẫn đến đặt chuyện để giễu cợt chơi. Không để ý đến vẻ mặt Trần Quốc Tảng, Đỗ Vỹ ngắm nghía chăm chú thế đất Vạn Kiếp: – Này hiền đệ xem, có đúng là: “Đầu gối ngũ nhạc chân đạp phượng hoàng, tả có Bắc Đẩu, hữu có Nam Tào” không? Ta thì không tin rằng thế đất này là thế đất làm tướng nhưng ta thấy đây quả là đất dụng võ. – Ấy thế mà thân phụ của tiểu đệ coi trọng việc trồng trọt trong thung lũng này hơn đấy. – Không phải là trọng hơn mà là tuỳ thời cơ đó thôi. Cái cọn nước kia sở dĩ có vì bây giờ cần nhiều thóc lúa nuôi tráng đinh trong thái ấp. Mà nếu phải dụng võ cũng phải nuôi quân no. Kìa, họ đã nghỉ tay rồi sao? – Không, đã xong thế nào được. Cọn dựng rồi còn phải buộc các ống múc nữa cơ mà. Kìa, cái người mặc áo dài nâu kia chính là thân phụ tiểu đệ. Đỗ Vỹ nghển cổ nhìn. Anh cũng không ngờ một bậc vương gia lừng lẫy như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng coi trọng nghề nông tới mức đích thân coi sóc việc đặt một cái cọn nước. Đàng xa, Trần Quốc Tuấn đang giơ tay giơ chân làm hiệu - chắc rằng ông đang chỉ dẫn cho những gia nô đứng chung quanh. Họ đang nghỉ tay nhưng quần áo xắn gọn vẫn để y nguyên, như vậy là họ còn làm nữa. Trần Quốc Tảng còn đang chăm chú nhìn bố thì Đỗ Vỹ chợt cười: – Ta nói đúng mà. Ta đâu có phải là khách của thái ấp Vạn Kiếp, khách quý của thái ấp ngày hôm nay đang đến kia kìa. Trần Quốc Tảng nhìn theo tay chỉ của Đỗ Vỹ. Trên sông, ba chiếc thuyền buồm đang rẽ sóng vào bến. Rõ ràng đây là những chiếc quan thuyền. Chiếc thuyền nào cũng cắm cờ đỏ khé và thuỷ thủ mặc nhung phục của lính trạo nhi. Trên mũi thuyền đi đầu có một văn quan mặc áo màu đại hồng. – Tại sao hiền huynh biết chắc rằng những người này đến thái ấp Vạn Kiếp? – Có gì là khó đoán đâu. Hiền đệ thử xem, trên mũi quan thuyền thứ hai kia có cái biển gì sơn son, đúng là cái biển “Khâm sai truyền chỉ” không? Rồi hiền đệ cố đoán xem quan khâm sai kia là ai? – Ờ... quan học sĩ Đinh Củng Viên. Thế thì quả là họ vào chỗ thân phụ của em rồi. – Chứ còn đi đâu nữa. Cả một dải đông bắc này có nhà ai mà hoàng thượng phải sai quan khâm sai đến truyền chỉ nào? Đoàn quan thuyền đã vào bến. Những người lính dẫn lộ biển “Khâm sai” đã lên bờ. Họ dàn những lá cờ đại đi trước rồi đến trống mở đường. Hai chiếc lọng vàng che chênh vênh bên trên cái biển sơn son chữ vàng. Quan khâm sai trịnh trọng đi ngay bên dưới biển, hai bên ngài có hai ngũ lính ngự lâm vác kiếm tuốt trần hộ vệ. – Kì này thì thân phụ của hiền đệ chắc chẳng còn thì giờ đâu mà lo những chiếc cọn nước nữa. – Tại sao vậy hiền huynh? – Tại vì có việc trọng yếu tới mức phải cần đến đức ông Hưng Đạo. Có thể một là phải tiếp sứ, hoặc hai là... – Hai là sao cơ hiền huynh? – Hai là sắp phải dụng binh. Mà ta nghĩ có lẽ vì cả hai lí do. Tháng trước khi chơi bên bán đảo Lôi Châu, ta đã được chứng kiến họ bắt lính dân chài và trưng dụng thuyền vận tải đường biển. Đỗ Vỹ nhìn chăm chăm người bạn không phân biệt vị thế rồi tiếp: – Có thể cả hiền đệ cũng sẽ không còn dịp đi chơi hội xuân này ở vùng biển nữa đâu. Nếu đúng như phán đoán, nếu đến mức phải triệu đến đức ông Hưng Đạo lên kinh cũng có nghĩa là phải cần đến tất cả các đức ông chi Vạn Kiếp đó. Bên dưới ruộng, những người làm cọn nước cũng được biết tin có khách đến. Họ tất tả kéo nhau tắt cánh đồng chạy về trang trại nằm dựa lưng vào núi Ngũ Nhạc. Đỗ Vỹ cả cười: – Nếu mai hiền đệ rảnh thì xuống Côn Sơn, còn nếu bận thì thôi. Bây giờ thì ta đi đây. Đỗ Vỹ cởi cương ngựa nhảy phắt lên yên. Con tuấn mã hí dài trước khi sải vó phi nhanh. Đỗ Vỹ giơ cao roi ngựa chào từ biệt... Chương 2 Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật mới từ lộ Đà Giang về kinh đêm hôm qua nhưng phủ Chiêu Văn đã nhộn nhạo quay cuồng như một đàn ong động tổ. Gia tướng, thư nhi, thị nữ, gia nô, người nào cũng tất bật để làm cho xong được quá nhiều mệnh lệnh của đức ông hoàng Sáu. Hàng loạt rèm lụa màu cốm non bị tháo xuống, thay vào đó là những tấm mành trúc nan vót cầu kì, sản phẩm tuyệt tác của các cô gái sơn cước. Những người thị nữ chầu hầu hối hả trải lên mặt những án thư, văn kỉ những tấm gấm thổ dệt cách ô đen đỏ. Những lưỡi giáo Chiêm Thành gác trên vách cho đẹp cũng được gỡ xuống. Người ta dùng lụa màu kết hoa mẫu đơn treo những chiếc khèn lau, những lưỡi dao Lão Qua vỏ tre, một cái tù và sừng trâu rừng bịt đồng thau thô sơ... Lính trạo nhi dùng xe trâu chở từ bến Đông về phủ đệ những chậu cây quý lấy giống từ rừng đại ngàn. Các thư nhi tất bật đo đạc ngoài vườn, trồng lại vườn theo ý của Trần Nhật Duật. Đức ông hoàng Sáu treo giải thưởng thật hậu cho những ai tìm được những tên đẹp, tên hay để đặt tên cho những giống cây lạ mới đem về hôm trước. Dưới bếp còn tíu tít hơn nữa. Ai cũng biết rằng khi Trần Nhật Duật có mặt ở phủ đệ kinh kì ngày nào là ngày ấy ông thết tiệc. Khách công hầu, khách văn chương, khách nước ngoài đang vì việc công hoặc việc riêng mà có mặt ở Thăng Long đều lui tới vương phủ Chiêu Văn. Trần Nhật Duật nổi tiếng hiếu khách. Ông tiếp họ rất niềm nở đậm đà, có khi hết sức chí tình nếu như người khách đó chỉ là một hàn sĩ. Sau những ngày vắng người chủ hào hoa, vương phủ Chiêu Văn bận rộn tíu tít... Nhưng trong lúc đó, Trần Nhật Duật đang mải mê xem ngựa ở tàu ngựa mé sau phủ đệ. Đức ông có một tàu ngựa riêng mấy chục con tuấn mã. Con ngựa này bền sức để đi đường xa, con này gân guốc linh hoạt chuyên dùng để cưỡi đi săn đuổi, con này ngoan dùng để đi chơi phố phường đông người, con này để cưỡi khi đánh phết, con này dạn khói lửa để cưỡi ra trận. Mỗi con một nết, mỗi con một sở trường, mỗi con một sắc lông mà con nào cũng đẹp như ngựa vẽ trong tranh. Ngay ông Tô Nghĩa Đông nổi tiếng là tay xem tướng ngựa sành nhất hai nước Tống- Việt cũng khó mà kiếm được một tật để chê ngựa của đức ông hoàng Sáu, Ấy thế mà hôm nay Trần Nhật Duật và bọn thị mã gia tướng phải ngắm không rời mắt một con ngựa mới. Con ngựa này do một người buôn biển, dân châu Ô cực nam, biếu Trần Nhật Duật làm lễ ra mắt khi đoàn thuyền buôn của ông ta cập bến Đông và được Trần Nhật Duật chỉ bảo cho cách thức trình báo với ty Đại an phủ sứ coi quản mọi công việc ở kinh thành. Con ngựa mới hai tuổi, gầy, bộ lông đen xù lên và xơ xác nhưng nó rất cao, mình trường, bốn vó dài mảnh và bộ lông đuôi cong ngay từ khấu nom như đuôi gà trống. Có lẽ người Thăng Long chưa từng nhìn thấy con ngựa nào cao và trường mình đến thế. Ngay cái vệt vá trắng dọc từ trán xuống đến mũi nó cũng rất lạ. Con ngựa bây giờ xấu mã nhưng chắc chắn chăm vỗ vài tháng sẽ thành một con vật mà tất cả khách phong lưu mã thượng kinh thành phải thèm thuồng tuyệt vọng. Trần Nhật Duật bẻ một nắm thân cây mía non dứ con ngựa: – Ăn đi! Ăn đi! Này bọn bay, đã có lần ta gặp một con ngựa cũng màu lông ô như thế này. Đó thật là một con tuấn mã. Chỉ khác là nó có một vệt trắng từ khấu đến lưng chừng đuôi. Con ngựa ấy tuyệt hảo nhưng nó còn không cao và không trường mình bằng con này. Một thị mã thường được tuỳ tùng Trần Nhật Duật trong những lần đi xa kinh thành hỏi: – Thưa đức ông, có phải con ngựa mà đức ông trả giá hai trăm quan tiền và các luôn cả thanh kiếm quý Bạch Lộ không ạ? – Ừ, đúng đó. Mà ta chưa hề thấy thằng cha nào cao ngạo như cái thằng chủ con ngựa ấy. Mi có nhớ hắn hỏi ta câu gì để thay câu trả lời không?... Hắn hỏi thế này chứ: “Nếu túc hạ có may mắn làm chủ một con ngựa như thế này thì túc hạ có đem bán nó đi không?” – Thế thì tôi nhớ ra rồi. Khi ấy đức ông hỏi vặn hắn rằng: “Thế thì tại sao túc hạ có nó được?”. Hắn ta trả lời: “Tại vì người ta quý kẻ hèn này mà tặng thôi.” – Ừ đúng rồi, ta tức lắm nhưng ta phải nhận hắn nói đúng. Tuấn mã nhường ấy chỉ có tặng nhau chứ đâu có đem bán. Nhưng này, - đức ông hỏi các thị mã, - đặt tên cho con ngựa này là gì nào? Thị mã cận vệ Hoàng Mãnh, viên gia tướng trẻ thân cận tranh nói ngay: – Bẩm đức ông, em muốn gọi tên nó là Hắc Long Câu. – Hừ. Ngựa đen đuôi rồng! Thường quá! Con ngựa đánh phết của đức ông Chiêu Quốc cũng đã được đặt tên là Hồng Long Câu rồi mà. Hoàng Mãnh vốn cùng tuổi với Trần Nhật Duật, anh đã được Nội cung chọn theo hầu đức ông hoàng Sáu từ khi đức ông mới lẫm chẫm biết đi. Thực ra Mãnh là bạn chơi đùa, cùng học, cùng tập côn quyền, cùng ăn, cùng ngủ với Trần Nhật Duật. Khi Trần Nhật Duật lớn lên được phong vương, vua cha đưa ông ra khỏi hoàng thành mở phủ Chiêu Văn cho hoàng tử ở, Hoàng Mãnh cũng được đi theo. Nhưng vị thế hai người bây giờ khác nhau như nước với lửa. Tuy cả hai người đều phải giữ lễ nhưng thực ra Trần Nhật Duật vẫn coi Hoàng Mãnh như một người em đồng nhũ đồng tuế, một người bạn tâm phúc tương tri. Những lúc vắng người hai anh em vẫn thường suồng sã với nhau. Bây giờ cũng vậy, Hoàng Mãnh buột miệng: – Thế thì mình gọi quách... Bẩm đức ông, hay ta đặt cho nó một cái tên nôm. – Ừ, các ngươi cùng nghĩ thử xem. Các thị mã ồn lên tranh nhau nói. Người thì muốn ngựa mang tên là Ô Lĩnh, nhưng người khác thì chỉ muốn gọi là Ô không thôi. Người thì khen con ngựa có tầm cao như thế thì phải đặt tên nó là Nêu Tết. Có người thì bảo nó có cái vệt trắng ở mũi sao không đặt tên nó là con Vá làm cho tất cả cười ồ lên chế giễu anh ta lầm ngựa thành chó. Trần Nhật Duật vỗ lên ót ngựa và cảm thấy gân thịt nó rắn đanh. Ông hoàng trẻ thốt reo lên: – Phải rồi! Nó là con ngựa ta sẽ cưỡi đi trận. Ta sẽ gọi nó là con Bão Đêm. Mấy anh thị mã trong bụng có anh thích có anh không thích nhưng đều đồng thanh rú lên: – Bão Đêm! Hay quá, Bão Đêm, mạnh, dữ, ác liệt và bí mật như cơn Bão Đêm. Con mắt Hoàng Mãnh tinh nghịch loé sáng lên liếc ngang: – Bẩm đức ông! Ta thách đức ông Chiêu Quốc để trả nợ lần trước. Nghe đến thi ngựa, Trần Nhật Duật mặt sa sầm xuống. Ông hoàng trẻ nhớ lại lần thi ngựa mấy tháng trước đây ngoài bãi sông Cơ Xá với Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Trần Nhật Duật và Trần Ích Tắc là hai anh em cùng một mẹ sinh ra. Ích Tắc tuy chỉ hơn Nhật Duật một tuổi nhưng bao giờ cũng là người đầu têu các trò nghịch ngợm lúc nhỏ tuổi, khi lớn lên vẫn là người dẫn đầu việc học võ, học văn, việc chiêu nạp tân khách, thủ hạ, việc mở hội bình văn cho đến việc ăn mặc, việc bày biện trang trí trong phủ đệ. Có thể nói từ lễ nhạc, bắn cung, cưỡi ngựa, làm thơ, đến các món tạp kĩ như đánh cờ tướng, đá cầu, luyện ngựa, luyện chó săn, nuôi chim, vẽ tranh sơn thuỷ, nghề nào Ích Tắc cũng giỏi, cũng hay hoặc cũng có một chút gì dị biệt để chỉ dẫn cho Trần Nhật Duật, dù tí chút dị biệt ấy đôi khi chính Trần Ích Tắc cũng không cho là đúng. Ba tháng trước Trần Ích Tắc nhân một chuyến săn đuổi với Trần Nhật Duật ở rừng dâu da bờ trái con sông Thiên Đức có ngỏ ý khen các con ngựa của tàu ngựa phủ Chiêu Văn. Sau đó Trần Ích Tắc rủ Trần Nhật Duật thi ngựa ở bãi sông Cơ Xá. Cả ba lần thi (thi chạy nhanh, thi vượt rào, thi bền sức) con Hồng Long Câu đều thắng cuộc con ngựa nhất tàu ngựa phủ Chiêu Văn. Sau cuộc thi Trần Ích Tắc bảo Trần Nhật Duật: – Em luyện ngựa rất khá. Ngựa của tàu ngựa vương phủ Chiêu Văn vào loại nhất nước nhưng ngựa nước mình sánh thế nào được với con Hồng Long Câu. Đúng thế, con Hồng Long Câu là tặng vật của viên quan Đạt Lỗ Hoa Xích Buyan Têmua cho Trần Ích Tắc năm ngoái. Viên quan nhà Nguyên chịu trách nhiệm giám sát triều đình ta đã nói với Trần Ích Tắc buổi tặng ngựa: – Thế là Điện hạ có một con ngựa độc tôn ở nước này. Nó ra đời trên thảm cỏ thiêng bên bờ sông Ô Nôn nơi tiên đế Thiết Mộc Chân được chín tộc Mông Cổ suy tôn là Thành Cát Tư Hãn. Nó lại được chọn đưa về tàu ngựa ngự của Thánh Thiên Tử Hoàng đế nhà Đại Nguyên và của cả thiên hạ nữa. Đưa nó xuống nước Việt này mất biết bao công phu. Dọc đường đi, nó đã uống nước sông Hoài, sông Hán, sông Hoàng và sông Dương Tử. Nó đã ăn đậu Ngạc Châu, ăn kê Giang Lăng, ăn thóc Châu Ung, ăn cỏ Quế Châu. Thế cơ đấy! Ý của viên Đạt Lỗ Hoa Xích là muốn nhắc khéo cho Trần Ích Tắc biết rằng hoàng đế nhà Đại Nguyên có biệt nhãn với hoàng thân Chiêu Quốc nhưng ban ngựa quý khôn khéo như một tặng vật thông thường của Đạt Lỗ Hoa Xích cho những người của triều đình Đại Việt phụng mệnh tiếp sứ. Con ngựa quả là một con vật quý giá. Tuy nó còn non, chỉ mới hơn hai tuổi nhưng nó đã có đầy đủ đức tính của một con ngựa đáng giá ngàn vàng: chạy nhanh, bền sức, chân vững chãi, pháo nổ không giật mình. Chỉ phải mỗi cái tội là nó khảnh ăn và sợ voi. Vừa mới ngửi thấy hơi voi là nó đã rúm bốn vó lại, hai mắt trợn trừng trợn trạc. Còn cái tật khảnh ăn thì thật khó chịu: cỏ dày thì chê, cỏ mần chầu thì gặm uể oải vài ngọn, và cứ phải cỏ mật thật sạch thật non mới chịu ăn cho tử tế. Ấy thế mà nó đã thắng hết sức dễ dàng con ngựa đầu tàu của Trần Nhật Duật. Đức ông hoàng Sáu mỗi lần nhớ tới cuộc đua đó thì không phải ấm ức vì thua mà là cái gì đấy vướng víu trong lòng. Đúng, nó không phải cái buồn của người thua cuộc. Hình như nó là một chút giận tủi thiên nhiên không ưu đãi đất nước này, thiên nhiên đã không cho đất Việt một giống danh mã cho nên hồn. Ở khắp nước chỉ thấy một giống ngựa thấp nhỏ lách chách, lành như đất, ăn cả rơm cả rạ và không một con nào có lấy một cái rung bờm cho duyên dáng. Cho mãi đến bây giờ mới thấy con ngựa đen châu Ô này... – Hãy tập con Bão Đêm thêm ít tháng nữa xem sao. Ta muốn nó thắng con Hồng Long Câu nhưng phải biết chắc chắn sức nó thế nào đã rồi sẽ hay. Còn bây giờ... ta cấm các ngươi không được tiết lộ tung tích con Bão Đêm với bất kì ai. Nhớ cho kĩ đấy. Đứa nào sổng miệng là ta xẻo lưỡi. Trần Nhật Duật quắc mắt nhìn các thị mã. Những người này hiểu rằng Trần Nhật Duật không dọa họ mà ông sẽ làm thật nếu ai làm trái điều ông vừa căn dặn. Vừa lúc ấy một gia nô bước vào sân tập ngựa thưa với Chiêu Văn vương: – Bẩm đức ông, Trịnh công tử xin vào ra mắt! Nghe nói có Trịnh Mác xin vào yết kiến, Trần Nhật Duật tươi nét mặt. Đức ông ra lệnh đưa Trịnh Mác vào liên đình. Trước khi đi thay bỏ quần áo tập ngựa, Trần Nhật Duật còn dặn bọn thị mã lần nữa: – Nhớ đấy! Đứa nào sổng miệng ta xẻo lưỡi. Trần Nhật Duật đã thay xong quần áo. Đức ông mặc một chiếc quần lụa đỏ, gấu quần chùm lên mũi văn hài thêu ong bướm bằng chỉ bạc; một cái áo hàng vân tơ tằm chuội chanh óng nuột, đôi cửa tay may rộng đột chỉ trứng rận nom thật nho nhã. Vì Trịnh Mác là hàng con cháu nên Trần Nhật Duật không đội khăn. Ông búi tóc cho gọn, cài một cái trâm đồi mồi giữ tóc. Cái trâm này là đồ trang sức duy nhất trên mình ông. Tính không ưa dùng đồ trang sức của đức ông hoàng Sáu vốn là điều trái nết nhất và rõ rệt nhất với Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, anh ruột ông. Hai gia tướng và bốn cô thị nữ phò ông hoàng trẻ đến liên đình. Hoàng Mãnh dõng dạc xướng: – Đức ông đã đến. Thỉnh đức ông thượng đình. Những người hầu coi quản liên đình dẫn Trịnh Mác ra quỳ đón Chiêu Văn vương ở thềm đình. Trịnh Mác sụp lạy Chiêu Văn vương hai lạy, miệng nói to: – Chú đã về! Cháu chúc chú trường thọ. Trần Nhật Duật nhanh nhẹn bước lên chín bậc thềm đình, chìa hai tay đỡ người con trai đứng lên, giọng ông hồ hởi: – Ta miễn lễ cho cháu. - Trần Nhật Duật ngả người ngắm chàng trai: - Chà, cháu cao lớn quá, cao lớn quá rồi. Cháu đã thành một trang nam tử mà tất cả các bậc quốc sắc thiên hương đều mong mỏi được đem nụ cười nghìn vàng ra nài tặng đấy. Ông cười, mắt nheo lại, đuôi mắt rạn chân chim. Trịnh Mác cả thẹn, đỏ mặt lên, cúi đầu xuống giấu một nụ cười ngượng nghịu. Trịnh Mác quả thực đã trở thành một chàng trai khôi vĩ dị thường, cái mũi dọc dừa sống sắc như đá đẽo, đôi mắt tròn to, mi mắt dài cong rậm rạp nom thâm trầm và đa cảm đồng thời cũng huyền bí như rừng núi nhưng cái miệng cười rất tươi để lộ hàm răng đều đặn to khoẻ và bóng láng đem lại vẻ đẹp khoẻ mạnh, trong sáng, thiên thần của tuổi mười bảy. Vóc người Trịnh Mác cao lớn, cái cổ tròn mập mạp của một lực sĩ nhưng đôi bàn tay hết sức thon mảnh như tay một văn nhân. Anh ấp úng: – Chú cứ chòng cháu chứ cháu so thế nào được với các vương tôn công tử kinh kì. Trịnh Mác nói tiếng kinh kì đã sõi nhưng dù sao người ta dễ dàng nhận ra giọng sơn cước vùng sông Đà của anh. Trần Nhật Duật bật cười về cái e thẹn nhút nhát của Trịnh Mác. Ông cầm tay chàng trai trẻ dắt vào liên đình. Ngôi đình xinh nhỏ ba mặt bỏ trống chỉ có một mặt vách hậu ghép gỗ quý treo một bức tranh lụa cổ vẽ cảnh Lưu Linh say rượu ngủ lăn quay dưới một vòm đào thưa thớt. Đầu Lưu Linh gối trên cái bát, chân trái gác lên cái hồ rượu đổ nghiêng. Mà kì lạ làm sao đôi mắt bợm rượu Lưu Linh nhắm tít nhưng miệng ông vẫn nhoẻn cười nom vừa khoái chí vừa ngô nghê. Chính giữa liên đình kê một cái sập gỗ gụ chạm hoa lá cầu kì trên trải một chiếc chiếu cạp điều. Trần Nhật Duật dẫn Trịnh Mác đến bên sập, cho phép anh ngồi hầu chuyện. Đã quen lệ cũ, thị nữ dâng trà. Dâng trà xong, tất cả thị nữ, gia nô im lặng ra khỏi liên đình, trừ Hoàng Mãnh. Đây vốn là chỗ Chiêu Văn vương tiếp một vài khách thân tình nhất, thường là khách văn chương hoặc một tay đàn bậc thầy, một kì thủ cự phách. Liên đình nằm lọt giữa một cái hồ nhỏ thả một thứ sen trắng hương say sưa gọi là tuý liên. Trời đã sang đầu tháng tư, mùa hoa nở, những bông tuý liên, đoá hàm tiếu, đoá mãn khai toả mùi thơm du hồn khách liên đình lâng lâng thoát tục. Trần Nhật Duật trao tay cho Trịnh Mác một chén trà: – Cháu nhắp thử xem có nhận ra vị trà gì không? Trịnh Mác nhắp một ngụm nhỏ. Hương vị trà quen thuộc gợi man mác vị sầu xứ nhớ quê. Hương trà này sao mà quên được! – Thưa chú, trà cỗi vùng núi đá châu Mai. – Cháu ta sành lắm! Sành lắm! Bữa ta xuống thuyền xuôi sông Đà, bố cháu biếu ta một số quà quý trong đó có những cánh chè do các cô nàng quê cháu vừa hái và sao xong chiều hôm trước. - Trần Nhật Duật cười bảo Hoàng Mãnh: - Còn nhà ngươi chắc không thích cái hương vị quá tinh khiết này? – Bẩm đức ông, ở châu Mai tôi chỉ ưa có chất men nếp cẩm. Nói xong Hoàng Mãnh liếm mép. Qua vài câu đưa đẩy, Trần Nhật Duật nghiêm nét mặt im lặng nhìn Trịnh Mác. Trịnh Mác hiểu ý ông hoàng trẻ, anh tuần tự kể lại những gì anh được mắt thấy tai nghe trong triều. – Thưa chú, bữa đón tiếp sứ bộ của thằng Sài Thung chú còn ở nhà, cháu không kể lại nữa. Trần Nhật Duật gật đầu. Trịnh Mác kể tiếp. Đoàn sứ giả nhà Nguyên sang ta lần ấy rất đông. Riêng quân hộ tống có mấy ngàn tên. Cùng đi với đoàn này có quốc thúc Trần Di Ái. Ông này năm trước cầm đầu một sứ bộ của triều đình Đại Việt sang chúc thọ vua nhà Nguyên và dâng lễ cống. Vua nhà Nguyên bèn dọa ông quốc thúc này và buộc ông ta phải nhận một tước phong giả dối là An Nam quốc vương. Vua nhà Nguyên đã nhiều lần đòi vua nước ta sang ở làm con tin. Vua ta vẫn từ chối khéo không chịu sang. Lần ấy vua Nguyên kiếm cớ gây sự phong quốc vương cho Trần Di Ái nhằm đưa cái ông quốc thúc hèn nhát ấy về nước, ép triều đình ta phải nhận vua mới. Nhưng khi phái bộ Sài Thung đưa ông quốc thúc ấy tới biên giới thì ông ta biết tội trót nhận tước phong của giặc làm nhục đến quốc thể, nên ông ta bỏ trốn về trước mong vua ta mở lòng thương xót người biết hối lỗi và thể tình thân thích cùng họ cùng một máu mủ họ Trần. Cuộc bỏ trốn vào thời điểm chót làm Sài Thung chưng hửng. Nhưng gã sứ giả này vẫn hi vọng dùng uy thanh của những đội quân chinh phục Thát Đát dọa nạt được triều đình ta nên y cứ dẫn đầu phái bộ xuống Thăng Long. Gã đòi cống người, cống của. Gã đòi quan gia ta phải sang lạy mừng Nguyên chúa Hốt Tất Liệt. Nói chung là những yêu sách mà chúng vẫn đòi ngót mười năm nay. Nhưng lần này, chúng có thêm một yêu sách mới: chúng đòi cho mượn đường để chúng đem một đạo quân viễn chinh đi xuống phương nam đánh nước Chiêm Thành. Trong cuộc hành quân trên đất Đại Việt, việc cấp lương cho đạo quân viễn chinh này sẽ do nước Đại Việt cung đốn, kể cả việc cấp thịt cho lính, cấp cỏ ngựa, cung đốn rượu tăm Giao Chỉ cho tướng. Tất cả những yêu sách hỗn xược ấy đều bị khước từ một cách khéo léo. Một mặt quan gia ta cáo ốm, nói rằng sinh trưởng ở phương nam xứ nóng không quen chịu đựng cái rét xứ tuyết, rồi phân trần nước nghèo mấy năm liền mùa màng thất bát, trăm họ ăn bữa đói, bữa no, rồi than phiền đường sá hiểm trở chẳng tiện cho việc hành binh và cũng không thuận tiện cho việc tải lương. Nhưng mặt khác triều đình ta mở tiệc to tiệc nhỏ thết đãi từ tên chánh sứ ngông cuồng đến cả những tên lính Nguyên hung dữ. Cuối cùng đoàn sứ giả dọa không được, làm dữ thì không đủ sức, đành lên đường tiu nghỉu về nước. Buổi tiễn đưa sứ Nguyên, triều đình ta làm rất trọng thể. Đức ông hoàng Ba Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đích thân coi sóc mọi việc. Hoàng tộc còn cho mời thêm vị vương thứ nhất chi Vạn Kiếp là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn về làm nhiệm vụ bồi tiếp sứ Nguyên. Có tiệc trọng thể ở Thăng Long rồi mà còn mở tiệc biên đình, có chuốc vài chén quan hà tạ từ lưu luyến, làm thơ lưu giản tặng nhau. Chiêu Minh vương còn tiễn Sài Thung mấy vần thơ: Biết đến bao giờ vui gặp mặt. Ân cần, tay nắm chuyện hàn huyên. làm cho Sài Thung phải nghiến răng lại mà cười. Trong thời gian này, Trịnh Mác làm việc trong cung nên anh ta nắm được nhiều chuyện thật tỉ mỉ. Câu chuyện Mác kể vừa rõ ràng vừa nhiều tình tiết sống động. – Thưa chú nhưng sau chuyện tiếp sứ này việc bang giao giữa hai nước xem ra bế tắc. Thằng Đạt Lỗ Hoa Xích Buyan Têmua cả ngày dẫn tay chân lồng lộn khắp phố phường kinh thành kiếm cớ gây sự. Nó còn phái nanh vuốt trà trộn vào dân dò la xem ta giấu quốc thúc Trần Di Ái ở đâu. Trần Nhật Duật bật cười. Có tài thánh thằng Buyan Têmua cũng không tìm nổi tung tích Trần Di Ái. Ngay cái đêm sứ bộ của Sài Thung dự bữa tiệc triều đình ta tiếp đón thì cũng là lúc Thượng hoàng Trần Thánh Tông sai ông giải Ái lên lộ Đà Giang giao cho tù trưởng châu Mai Trịnh Giốc Mật giam giữ cẩn thận. Trịnh Giốc Mật là anh em kết nghĩa đã trích máu ăn thề với ông. Trịnh Giốc Mật là bố của Trịnh Mác, chàng trai khôi vĩ đang ngồi trước mặt ông. – Thưa chú, quân Nguyên đã xuất phát nhưng không phải chúng đánh ta. Tướng giặc Toa Đô đã dẫn quân đi bằng đường biển, chúng đã đổ bộ vào Chiêm Thành. Có lẽ chúng đã đặt chân lên đất liền gần một tháng nay. Trịnh Mác ngập ngừng. Trần Nhật Duật trầm ngâm. Ông hiểu cháu ông đang nghĩ gì. Quân giặc định gây hấn với nước nào? Với Đại Việt hoặc là với Chiêm Thành? Lũ giặc này cuồng ngông bạo ngược lắm. Chúng sai sứ giả sang ta mượn đường đánh Chiêm, nhưng trước đây bốn tháng chúng cũng đã sai một sứ bộ khác sang Chiêm thuyết phục vua Chiêm cùng đánh ta. Như vậy là chúng muốn chiếm cả hai nước này, lũ giặc kia có tham vọng quyền uy của thiên triều nhà Đại Nguyên vươn dài mãi xuống vùng biển phương nam nóng ấm, mỗi năm mấy mùa lúa bội thu, cây trái lúc nào cũng lúc lỉu quả ngọt, trên rừng thì sâm nam, nhung hươu sao, mật gấu, ngà voi... dưới biển thì san hô, mã não, đồi mồi, ngọc trai... Chỉ nói riêng thứ trầm hương ngào ngạt mà tất cả cái đám quan tướng hôi hám nhà Nguyên đều rất thèm thuồng đã là miếng mồi ngon mà chúng mong được độc chiếm. Sở dĩ nói độc chiếm vì từ trước đến nay, vua ta theo nghĩa “Lộc bất khả hưởng tận”, có bao giờ quên món trầm hương trong số lễ vật cứ ba năm một lần đi cống “Thiên triều” Cho nên thông minh nhất là hai nước phải nhìn thấy kẻ thù chung. Việt - Chiêm phải dựa lưng vào nhau mà chống cái thằng giặc đã hung bạo lại thâm hiểm luôn luôn tìm cách “đục nước béo cò”. – Này cháu! Thế còn cái đạo viện binh của ta ra sao? – Đến trước quân Toa Đô nửa tuần trăng ạ. – Khá lắm, như thế quân còn có thời giờ nghỉ ngơi khoẻ binh, lại có thời giờ dàn trận sẵn sàng. Chính chú cũng rất muốn làm tướng đạo quân ấy. – Thưa chú, cắt tiết gà đâu phải dùng đến dao mổ trâu. Cháu chắc Thượng hoàng và Quan gia đã có chủ định rồi. Trần Nhật Duật tủm tỉm cười. Ông không tiện nói cho Trịnh Mác biết triều đình hiện nay chưa hẳn đã nhất trí trong đối sách với Nguyên triều. Trước đây vài tháng đã cho triệu một số thân vương vào cung triều hội. Cuộc triều hội này rất ít người: Có Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang quen gọi là ông hoàng Cả hiện nay đang lĩnh chức trấn thủ châu Hoan, có ông hoàng Ba Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải hiện giữ chức Thượng tướng coi luôn việc Thái sư đứng đầu văn võ bá quan, có Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng coi việc nghi lễ, tế tự, quen gọi là ông hoàng Tư, có Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc quen gọi là ông hoàng Năm hiện đang lĩnh chức trấn thủ lộ Tam Đái Giang, có ông, người ta thường gọi là ông hoàng út hay hoàng Sáu; ngoài ra ngành trưởng cũng được mời một vị, đó là đức ông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn vừa là người có uy thế nhất của cả ngành trưởng vừa là trưởng tộc của cả họ Trần. Thượng hoàng cũng cho Quan gia Nhân Tông ngồi dự bàn với các bậc cha chú. Cuộc triều hội mở rất kín trong cung Thánh Từ, cung riêng của Thượng hoàng. Viên tướng giữ việc canh giữ cửa cung Thánh Từ hôm ấy là phò mã Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng, chồng của công chúa Thuỵ Bảo, tức là em rể của Trần Nhật Duật. Như vậy trừ đức ông Hưng Đạo là anh con nhà bác ra, Thượng hoàng chỉ cho gọi các anh và em ruột nhà mình và dùng luôn em rể làm tướng canh cửa. Thế mà toàn người thân cận nhất nhưng không phải ý kiến chung đã giống nhau, gần gũi nhau. Thượng hoàng hỏi: “Nguyên chúa xin mượn đường hành quân đánh Chiêm Thành. Vậy thâm tâm Hốt Tất Liệt muốn gì? Đối sách của ta nên thế nào?”. Thế là lần lượt mọi người nói ý kiến của mình ra và các đối sách tỏ ra không giống nhau. Tĩnh Quốc đại vương bảo giặc chưa phạm bờ cõi ta, hơi đâu mà gây sự với chúng. Chiêu Đạo vương nói Chiêm chúa là phên dậu thân thiết của nước Việt ta nay bị giặc dữ đến cướp, nếu ta bỏ qua không cứu thì không nỡ lòng nhưng nếu ta xuất viện binh thì có khi chiến chinh lan cả tới nước ta, vạ lây đến cả nhân dân trăm họ nước ta. Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc lại chêm thêm rằng nếu Nguyên chúa chỉ muốn mượn đường ta đánh Chiêm thì sao. Vì nếu họ có mưu mô đánh ta thì họ cứ việc im lặng đem quân đánh thẳng vào biên ải, hà cớ phải sai sứ giả sang mượn đường. Như thế đất ta ta giữ an toàn là hơn, can chi làm kẻ giữ nhà cho người khác. Nghe em nói thế đức ông Chiêu Minh nghiêm sắc mặt nói: “Xưa nay mượn đường vẫn là kế mở cửa quan dễ dàng nhất. Bao nhiêu gương mất nước cũng chỉ vì cho mượn đường đã chép trong sử sách rồi. Nguyên chúa muốn đánh ta lắm nhưng ngặt vì nước Đại Việt ta không phải là miếng mồi ngon dễ nuốt. Trước đây hai mươi nhăm năm, tiên đế Thái Tông đã cho tên tướng giặc kiệt hiệt Ngột Lương Hợp Thai nếm một trận thất bại nhục nhã. Cho nên bây giờ Nguyên chúa mới phải ném đi ném lại những hòn đá thăm đường chứ”. Đức ông Hưng Đạo hưởng ứng ngay lời Trần Quang Khải. Trần Quốc Tuấn xin Thượng hoàng phát quân giúp Chiêm Thành, mặt khác thêm quân thêm tướng canh giữ cẩn mật biên thuỳ phía bắc. Nhưng sửa soạn binh mã thì cứ sửa soạn còn nếu nhà Nguyên cho sứ giả sang nữa thì vẫn tiếp sứ hết sức nhún nhường, vẫn nộp cống thật đều đặn để yên lòng Nguyên triều trong trước mắt. Thượng hoàng đã tư lự trước khi hỏi lại hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo: – Như vậy hai khanh cho rằng việc binh đao sớm muộn sẽ xảy ra? Cả hai đức ông đồng thanh: – Giặc sẽ đánh ta. Mưu chúng tuy sâu kín nhưng cũng đã bộc lộ rõ ràng. Đánh Chiêm Thành chỉ là kế tạo một mũi nhọn xuyên vào lưng quân ta. Chừng nào đạo quân xâm lược Chiêm Thành đứng vững trên dải đất phía nam thì chừng ấy ta có thể tính ra ngày giờ nào giặc tấn công ta. Đức ông Chiêu Quốc vặn lại hai anh: – Biết chắc binh đao ắt sẽ xảy ra sao hai anh không hiến ngay kế “Tiên phát chế nhân” (1) lọ là phải vừa đánh vừa bàn, kín kín hở hở làm cho lòng người trong nước đâm ra li tán? Hưng Đạo vương ôn tồn: – Làm chậm cuộc binh đao ngày nào là có lợi cho ta ngày ấy. Việc chỉnh đốn binh mã rèn luyện sĩ tốt, tích cỏ chứa lương bề bộn ra có phải một sớm một chiều làm xong được đâu. Riêng Chiêu Văn vương im lặng trong cuộc triều hội ấy vì ông là người ít tuổi nhất, phận đàn em, em út. Nhưng khi Thượng hoàng nhắc ông, bảo ông nói sở kiến riêng của mình ra cho mọi người nghe thì Trần Nhật Duật đã xin cho mình được làm tướng đạo viện binh sang giúp Chiêm Thành. Câu nói của Trần Nhật Duật đã làm Chiêu Quốc vương sửng sốt rồi trừng trừng nhìn ông. Bây giờ thì đạo viện binh xuống Chiêm Thành đã đến nơi rồi, tuy Thượng hoàng không chọn ông làm tướng chỉ huy đạo quân ấy... Chương 3 Hai chiếc lọng vàng che chon von trên chiếc biển “Nhập nội”. Liền ngay sau chiếc biển là Chiêu Văn vương và toán dũng thủ hộ vệ cưỡi những con ngựa lực lưỡng. Một người lính cưỡi ngựa cầm loa đi trước đoàn người một quãng. Chốc chốc, anh ta lại hoa chiếc loa lên thét: – Bớ hàng xứ phố phường dẹp ra lấy đường để đức ông tiến cung. Bớ hàng xứ phố phường... Vài người lính khác cưỡi ngựa cầm roi song sơn đỏ thật dài vụt veo veo để dọa những người dân phố phường chậm chân. Đường từ phủ Chiêu Văn tiến cung phải qua sông Tô Lịch. Đây chính là khu phố đông đúc sầm uất nhất kinh thành. Hoàng Mãnh rất thích những cuộc diễu ngựa qua những phố đông người như thế này. Anh chọn con đường qua sông Tô bằng cầu Ngoạn Thiềm. Những con ngựa đóng yên cương nạm vàng bạc cực kì lịch sự phi nước kiệu nhỏ. Tiếng vó ngựa gõ mặt đường đều đặn, băm ròn chen với tiếng hàm thiếc, tiếng những quả nhạc đồng, tiếng vỏ kiếm đập vào hia. Đàn ngựa bị gò đi kiệu nhỏ, hậm hực, thỉnh thoảng một con lại hục hặc hí gằn trong sống mũi. Đoàn người ngựa rước Chiêu Văn vương đi qua những phường phố đông đúc. Các cổng phường ban ngày được mở thông nhưng ở mỗi cổng đều có vài người phường binh tuyển phong cắp tay thước đứng xét hỏi những kẻ lạ mặt lai vãng. Các cửa hàng đang lúc đông đúc người mua bán. Tiếng chào mời khách hàng lanh lảnh nổi lên trên mớ âm thanh trầm náo của kinh thành. Thỉnh thoảng lại gặp một quán hàng ăn uống trước cửa treo một lá phướn nhỏ hoặc một cờ bài gỗ chạm mấy chữ tên cửa hiệu: nào Thu Phong tửu quán, nào Bạch Vân tửu điếm, nào Tùng Trúc phạn điếm, những cái tên cửa hàng đặt rất hay, dịch nôm ra nghe thật quyến rũ khách qua đường. Ta thử nghe chơi: quán rượu Gió Thu, hàng rượu Mây Trắng, hàng ăn Thông Trúc... Kèm những lá phướn tên hiệu thường có những mảnh cót nhỏ dựng bên cạnh cửa ra vào, trên lá cót viết nguệch ngoạc bằng vôi trắng những món đặc biệt của cửa hàng, nào mắm rươi lộ Hồng, nào cá chiên sông Cơ Xá nướng chả, nào lươn Thiên Mạc om nghệ, nào gà thiến làng Hồ quay ròn bì, nào rượu cau, nào rượu đậu, nào rượu cốt kẻ Mơ, nào rượu cúc Tức Mạc. Nhưng thú vị nhất vẫn là một vài quán đơn sơ, biển đề tên hiệu bằng chữ nôm: quán rượu vườn Tỏi, quán rượu cụ Hai Còm, quán cô Tư yếm thắm... Có khi không có cả biển tên quán mà chỉ có một vài chữ nói các đặc sản của quán: rượu cốt đậu phụ nướng, rượu cúc chả cá, rượu cau gà đồng và ở một quán lại chỉ có hai chữ: thịt cầy. Hình như chủ ngôi quán này hiểu bụng dạ dân say là đã có thịt cầy thì phải có rượu, thứ rượu quê sủi tăm nổi tiếng đến nỗi các triều vua phương bắc cứ buộc trong lễ cống hàng năm phải có chục vò. Hoàng Mãnh rất thích những chuyến đi diễu như thế này qua những quán hàng quen thuộc. Không phải anh ta huênh hoang chuộng những vẻ bề ngoài mà chính vì khi có những đám rước diễu như thế, cảnh phố tự nhiên náo nhiệt hẳn lên, vẻ mặt những người đi xem thì vừa thích thú tò mò vừa vui vẻ sống động. Hàng quán hai bên tự dưng như náo nhiệt hơn lên. Nhưng hôm nay Hoàng Mãnh xốn xang nhất khi đoàn người ngựa qua cổng phường Cổ Vũ đến cái phố bán gương, mài gương. Những chiếc gương đồng xinh nhỏ, sáng đẹp, cái hình tròn, cái hình chữ nhật, có những chiếc gương lồng trong khung gỗ quý đánh bóng, có những đôi gương mang một tên thi vị: gương uyên ương. Hoàng Mãnh muốn mua một đôi gương uyên ương để gửi lên châu Mai làm quà tặng của kinh thành... Thình lình dòng suy tưởng của Hoàng Mãnh bị cắt ngang. Từ phía ngã ba đường, người lính thét loa đang tế ngựa về. Anh ta hấp tấp thưa với Chiêu Văn vương: – Bẩm đức ông đường nghẽn. – Nghẽn sao? – Bẩm đức ông, nghẽn vì đám rước ngài đại thần Đạt Lỗ Hoa Xích đi qua. Trần Nhật Duật tức giận nghiến răng không thốt một tiếng nào. Đàn ngựa đang cuồng chân nay bị kìm đứng hẳn, xoay sang hục hặc lẫn nhau. Con ngựa trắng của Chiêu Văn vương huých ức vào bả vai con ngựa của Hoàng Mãnh rồi nhe răng cắn luôn một miếng. Con ngựa của Hoàng Mãnh gầm lên xoay ngang rún mông chực đá. Những con ngựa khác hoảng sợ vội quay vòng tại chỗ. Một con ngựa rồi hai con quệt mình, quệt mông vào những chiếc cọc tre chống dại cửa che nắng của mấy ngôi cửa hàng mặt đường làm bật cọc đi, mấy tấm dại rơi lạch phạch xuống đất. Tiếng sành vỡ, tiếng bát vỡ, tiếng người phường phố kêu la, rủa sả náo loạn lên làm cho Chiêu Văn vương vừa ngượng vừa bực mình. Ông thúc ngựa phi về phía ngã ba đường. Con đường Chiêu Văn vương đang đi dẫn đến một con đường khác lớn hơn cắt ngang. Con đường lớn này từ cửa Nam Hoàng thành qua cầu Ngoạn Thiềm dọc theo phường Cổ Vũ dẫn thẳng tới quán sứ Đạt Lỗ Hoa Xích. Trên con đường ấy, một đám rước rất đông đang diễu dềnh dàng cả bề mặt con đường và kéo dài lê thê. Đi đầu đám rước là mười thằng dũng thủ Thát Đát mặc áo giáp da, đội mũ có tua đen viền lông cáo nâu. Những thằng dũng thủ Thát Đát cầm giáo sắt chín dóng chĩa chua chủa như lông nhím lù lù dàn hàng ngang đi dẹp đường. Hai bên đường, nhà phường phố đóng cửa rầm rập, tiếng đàn bà gọi con, gọi em í ới, tiếng trẻ con sợ khóc rú lên. Sau những thằng lính Thát Đát mở đường đến những dân phu người Việt cầm những lá cờ năm màu. Sau hàng cờ ngũ hành, một đám tàn vàng lọng tía xúm xít che cái biển “Phụng chỉ khâm sai”. Ngay cạnh cái biển khâm sai, một thằng dũng thủ Thát Đát thật lực lưỡng giương cao cây cờ tiết cán bằng đồng đen, ngọn kết chín cái tua bằng lông đuôi ngựa. Hai bên ngọn cờ tiết lại có hai thằng dũng thủ khác cầm hai ngọn phủ, việt. Ngọn cờ tiết và hai lưỡi búa này tiêu biểu cho quyền uy và sức mạnh của triều đình nhà Nguyên chế áp nước Đại Việt bằng viên giám sát quan Đạt Lỗ Hoa Xích. Sau hàng cờ búa, một đội trăm thằng dũng thủ vác giáo ngắn, khoác khiên đồng vàng. Loại vũ khí bọc đồng nặng nề này ngày xưa quân Thát Đát không ưa dùng. Chúng chỉ được du nhập vào quân đội Thát Đát từ sau cuộc Tây chinh mấy chục vạn dặm của thần tướng Xu Bu Tai. Bách đội giáo khiên hộ tống gã Đạt Lỗ Hoa Xích ngồi trên kiệu bát cống không mui, mâm kiệu có tựa lưng và bành đỡ tay. Gã to béo, mặt tròn xoe, màu đỏ nom như cái lệnh đồng điếu. Gã ngồi xếp chân bằng tròn, tay phải vân vê chót râu thưa hung hung nâu. Đám rước vẫn dềnh dàng đi rất chậm. Buyan Têmua sáng nay vào cung diện kiến với vua ta. Bây giờ hắn từ hoàng cung về quán sứ. Đám rước gã thì đến ai ở đất nước này cũng phải nhường đường. Ngoài những tên lính Thát Đát hộ tống Buyan Têmua ra, triều đình ta còn phải phái một đô lính Củng Thần để dẹp đường và để ngăn cản binh dân ta xô xát với lính Thát Đát. Những người lính Củng Thần mặc võ phục gấm, cầm thương đi hai bên đám rước. Họ chia nhau chặn các đầu ngõ đâm ngang ra con đường lớn. Viên tì tướng chỉ huy đô Củng Thần chạm trán với Trần Nhật Duật ở ngã ba đường. Anh đỏ mặt vì thẹn nhưng vẫn cứ kiên quyết ngả ngang ngọn giáo chặn ngang trước ức con ngựa của Trần Nhật Duật. Nhưng chính đức ông Chiêu Văn còn vừa tức vừa ngượng ngùng hơn anh ta. Đi sau kiệu bát cống của Buyan Têmua có một dàn nhạc Hồi Hột hơn chục thằng nhạc công. Những thằng này phồng mang trợn mép thổi những chiếc kèn vòi loe theo nhịp của một đôi trống tay. Điệu quân hành của chúng tấu lên man rợ, đinh tai nhức óc. Khép hậu đám rước lại có một trăm dũng thủ người Hán nữa - bọn này không mang khiên, chỉ đeo kiếm ngắn và khoác cung đơn. Trái với lệ thường, đám rước diễu qua rồi nhưng không thấy trẻ con phường phố ùa theo xem. Phố xá lặng ngắt, con đường nom rộng và trống trải một cách hoang vắng. Người hàng phố chỉ thập thò sau những cánh cửa khép hờ. Trần Nhật Duật mặt mày tái đi. Ông vẫy đoàn tuỳ tùng ruổi mau ngựa qua con đường lớn còn cửa đóng người thưa. Ông muốn đi mau cho khuất mắt dân hàng phố dường như đang từ sau những khe cửa nhìn như xoáy vào lưng ông... Theo lệ định trước, Trần Nhật Duật là thân vương được vào triều yết anh ruột Thượng hoàng Thánh Tông ở tận Nội cung Thánh Từ. Nhưng chỉ một người được theo hầu Chiêu Văn vương, đó là Hoàng Mãnh và anh ta cũng phải cởi kiếm để lại hành lang vũ khí của lính tứ sương. Thượng hoàng đang bàn việc với quan Hàn lâm phụng chỉ Nhập nội Hành khiển Đinh Củng Viên. Trần Nhật Duật sụp lạy. Thánh Tông đỡ em dậy, ôn tồn cho phép ngồi. Trần Nhật Duật nhận thấy vẻ mặt của anh ruột nhuốm màu tư lự. Ông đoán sắc mặt ấy có dính líu đến việc Buyan Têmua vào cung yết kiến. Quả như vậy. Thượng hoàng vỗ tay xuống long án nói một cách bực tức: – Thằng Đạt Lỗ Hoa Xích vừa đến đây xong. – Thưa hoàng huynh, em đã biết. Em bị nghẽn đường vì đám rước của nó cứ dềnh dàng trên đường lớn. Chắc nó vẫn đòi cái điều mà mấy năm nay chúng vẫn cố ép buộc ta phải làm theo chúng. Trần Nhật Duật muốn nói đến điều mà Nguyên chúa muốn vua nước Đại Việt phải theo: Đó là chính quốc vương Đại Việt phải sang chầu vua nhà Nguyên rồi sau đó vua nhà Nguyên sẽ giữ vua Đại Việt ở lại để làm con tin. Như vậy triều đình Đại Việt chỉ còn cách cung đốn bằng đủ mọi điều đòi hỏi của nhà Nguyên. Đòi cống vàng bạc châu báu thì có vàng bạc châu báu. Đòi cống trầm hương sừng tê thì có trầm hương sừng tê, đòi mĩ nữ có mĩ nữ, đòi quân lính dân phu có quân lính dân phu, đòi binh lương thuyền ngựa có binh lương thuyền ngựa... – Không. Lần này nó lại mềm mỏng lắm. Nó khuyên bảo ta nên rút cánh quân đi tuần phương nam về, đấy là nó nói tránh không gọi đích cái cánh quân phương nam ấy là viện binh của ta cho Chiêm Thành. Nó còn ỡm ờ nói rằng nó cũng không tâu lên Nguyên chúa rằng có một cánh quân Đại Việt hiện đang tuần phòng xuống vùng biển phương nam. – Thưa hoàng huynh, thế là nó đã biết có cánh quân ấy. – Tất nhiên. Hai vạn quân chứ có phải cái kiến đâu mà giữ kín mãi được. Có điều nó biết sớm thế này cho nên ta lo lắng... – Thưa, hoàng huynh lo lắng có gian tế? – Phải. Nhưng ta lo lắng vì kẻ gian có thể vào loại trọng thần vì thằng Buyan Têmua nói đúng cả ngày quân ta đến kinh đô Chiêm Thành. Nó còn nói rất khinh thường ta rằng không nên làm mệt quân vô ích. Nguyên chúa không đem quân tiễu phạt Chiêm Thành đâu mà lần này chỉ sai một đoàn sứ giả đến phủ dụ vua Chiêm mà thôi. – Thưa hoàng huynh, thế là thằng Buyan Têmua nói dối khéo đấy. – Không. Nó nói thật đấy. Đoàn hộ tống sứ giả nhà Nguyên chỉ gồm một nghìn quân và hơn hai trăm thuỷ thủ. Cánh quân của Toa Đô chưa lên đường. – Nhưng nó ngọng gì mà không đưa quân vào sau này. – Ấy thế. Cho nên ta đoán là chúng muốn ta rút quân tiếp viện về và khi quân ta vừa rút xong là chúng mở cuộc tấn công bất ngờ vào Chiêm Thành. Đến khi ta biết thì muốn cứu Chiêm Thành cũng không kịp nữa. – Mưu chúng tuy sâu hiểm nhưng giấu sao được ta. Thánh Tông bỗng dằn từng tiếng: – Chúng ta không nên quên rằng kẻ bày mưu này phải là đứa hiểu ta rất kĩ. Thượng hoàng phất tay làm hiệu. Đinh Củng Viên mở ra một bản tấu trải rộng trên long án. Thượng hoàng chỉ vào bản tấu: – Tấu của quan trấn thủ đạo Vân Đồn và chỉ huy thuỷ đạo biển Đông. Giặc đang luyện quân thuỷ ở đảo Quỳnh Châu và ở bán đảo Lôi Châu. Tập quân thuỷ để đánh ở chiến trường nào? Đánh Chiêm hay đánh ta. Lại thêm dạo này khách phương bắc, bọn lái buôn Hồi Hột, lái buôn Trảo Oa đến cảng Vân Đồn cũng nhiều. Đây chính là cửa ngõ cho quân gian tế thông tin cho nhau. Ông học sĩ nghĩ sao? Đinh Củng Viên kính cẩn: – Tâu bệ hạ, đề phòng gian tế thì tự bịt nguồn là thượng sách. Thánh Tông nghiêng mái đầu ngẫm nghĩ. Thượng hoàng hé môi định nói câu gì rồi lại thôi. Rõ ràng lời tâu của Đinh Củng Viên cuốn hút suy tư của Thượng hoàng. Thánh Tông giơ tay ra hiệu cho Đinh Củng Viên lui ra. Quan Học sĩ sụp lạy Thượng hoàng, quay sang vái dài Trần Nhật Duật rồi khom lưng đi giật lùi ra cửa cung. Trong hoàng cung rộng lớn rực rỡ vàng son chỉ còn lại hai anh em. Hoàng Mãnh cũng đã theo chân ông Học sĩ lui ra cung ngoài. Không khí gia đình thân thiết đầm ấm trở về. Hai anh em Thánh Tông chênh nhau mười lăm tuổi nhưng tiêu biểu cho hai thế hệ người họ Trần. Thánh Tông sinh ra và lớn lên khi triều Trần mới lập. Khắp nước cựu thần nhà Lý chui lủi trong chốn đồng nội, núi rừng, họ chưa chịu khuất phục triều đình mới. Nhất là những bậc sĩ nhân, sĩ đức lại càng chê người triều Trần thô lỗ, thất học, kém lịch thiệp, kém duyên dáng lịch sự. Ngay cả những người nông phu cũng không phải tuyệt đại đa số đã tin tưởng ở triều đình mới mặc dù chỉ tính công lao mang lại cho đất nước sự yên ổn làm ăn, nhà nào cũng no đủ đã là một triều đại xứng đáng với sự tin cậy của mọi người rồi. Ấy thế mà khi Thánh Tông mới sinh ra, cứ vài năm, đôi ba tháng lại có một vùng nổi dậy dựng cờ phục Lý. Năm Thượng hoàng còn chưa lên ngôi vua, vẫn còn là thái tử Hoảng, giặc Thát Đát từ hướng nước Đại Lý tiến quân sang nước ta. Lần đầu tiên, dân Việt biết thế nào là sức công phá hung dữ của kị binh Thát Đát. Giặc tràn đi như nước vỡ bờ, kinh thành Thăng Long thất thủ, thái tử Hoảng theo vua cha rút về phía nam. Tuổi trẻ của Thái tử được tôi luyện nước thép đầu tiên năm ấy. Ăn uống thất thường, hàng ngày di chuyển hàng trăm dặm bằng ngựa, bằng thuyền, bằng sức đôi chân của chính mình, đêm đến ngủ dưới một mái lều trận đơn sơ, có khi ngay cái mái lều đơn sơ ấy cũng không có nữa. Rồi tiếng thét chiến trường, lửa giặc đốt xóm làng, lửa ta đốt trại binh giặc, những cuộc truy đuổi mấy ngày không cần ăn và lễ hiến phù (1) sôi nổi, trang trọng ở nhà Thái miếu, nơi tôn nghiêm, thờ cúng tổ tông. Có thể nói Thánh Tông lớn lên khi họ Trần còn đang vất vả để gìn giữ ngai vàng, vừa phải lo phòng giặc ngoài vừa phải chống thù trong. Còn Chiêu Văn vương, ông hoàng trẻ lớn lên trong một đất nước đã yên ấm, trăm họ no đủ. Mà nói trăm họ no đủ là đúng như mong ước của cổ nhân: “Dân lấy ăn làm trọng, vua lấy dân làm trọng”. Trăm họ đã no ấm nên hoàng tộc đã giữ vững được ngai vàng. Ngôi báu đã vững nghĩa là họ Trần đã đứng trên thế mạnh. Đang thế mạnh làm việc gì dù khó cũng xong. Chỉ nói một lời cả nước theo răm rắp nhưng giàu sang như một cái bả ma quái đã bắt đầu mê hoặc con người. Tiệc nhỏ, yến lớn, gấm vóc ngọc ngà đã quyến rũ ngay chính một số người xưa nay quen quấn một chiếc chăn ngựa ngủ dưới một vòm trời lạnh làm màn. Cho nên cần kiệm và làm việc nghiêm ngặt là đức tính của Thánh Tông. Trần Nhật Duật không có những đức tính đó, ông còn nông nổi, lịch sự và đài các hơn nhưng ông thông minh, làm việc quả đoán và tự tin, gặp khó khăn đến mấy cũng dày đạp lên mà vượt qua. Sự hiểu biết cuộc đời và tình người cũng như sở học và kiến văn của hai người cũng khác nhau và chênh lệch nhiều, ấy thế mà trong mấy anh em ruột, Thánh Tông quý mến và hợp tính nhất với Trần Nhật Duật. Hình như Thượng hoàng nhận thấy Chiêu Văn vương có những đức tính mà mình không có hoặc nếu có cũng chỉ ít thôi, cái ít ấy lại là cái cũ thời trai trẻ mà bây giờ quá ư mờ nhạt hay không còn nữa. Năm mười tám tuổi Thánh Tông được tiên đế Thái Tông truyền cho ngôi báu. Vừa ngồi trên ngai vàng, Thánh Tông đã phải giải quyết một việc tày đình: đó là việc xét thưởng phạt các vương hầu và văn võ bá quan sau trận chiến thắng quân Thát Đát của Ngột Lương Hợp Thai. Có những lệnh khen, Thánh Tông biết rằng chưa thoả đáng nhưng hãy chỉ nên ban thưởng như vậy. Có những lệnh xử phạt có thể nặng hoặc nhẹ nhưng vẫn cần thiết phải làm ở mức đó. Chỉ một việc thưởng phạt này đã đủ làm cho Thánh Tông già người đi nhưng đồng thời cũng làm cho tính tình trầm tĩnh và kín đáo. Có thể nói khác đi là nhà vua sớm già dặn trước tuổi. Sau đó là mười mấy năm trường lo lắng sắp xếp việc nước việc dân, lo cho mùa màng bội thu để trăm họ no đủ, quân lính có lương ăn phòng khi phải dụng binh, lo cho việc học việc thi đều đặn để tuyển lựa nhân tài, lo sửa sang việc vũ bị để sẵn sàng yên thù ngoài giặc trong lo cho anh em hoà mục để họ hàng đại thống... trăm thứ việc to nhỏ đổ dồn vào một người mà mỗi lời phán truyền có thể làm cho lửa tắt đi hay đỏ vui trong bếp mỗi căn nhà. Cho nên Thánh Tông ưa nhất sự trẻ trung hồn nhiên của Trần Nhật Duật. Mà Chiêu Văn vương thì phục nhất sự sâu xa trầm tĩnh của Thượng hoàng. Có những việc quốc gia đại sự, sau khi nghiền ngẫm kĩ lưỡng rồi nhưng Thánh Tông vẫn hay hỏi lại Chiêu Văn vương. Thượng hoàng muốn kiểm tra lại xem có một cách nhìn nhận nào khác mình không, có một cách hành động nào khác cách mình dự định không? Đã nhiều lần Chiêu Văn vương xét đoán sự việc mà bàn những giải pháp kì lạ làm cho Thánh Tông phải sững sờ nhưng về sau cách xét đoán của Chiêu Văn vương tỏ ra nhanh nhạy vô cùng và cách hành động của ông hoàng trẻ mạnh gọn, mau mắn đưa đến những hiệu quả rõ rệt, đỡ tốn sức, đỡ tốn của. Cách suy xét và hành động của ông hoàng trẻ rõ ràng không bị những thiên kiến của quá vãng cản trở như Thượng hoàng. Thượng hoàng quý em nhất sau việc Chiêu Văn vương dẹp yên vùng sông Đà hai năm trước đây. Lộ Đà Giang vốn đất rộng sông hùng, núi non rừng rú cực kì hiểm trở. Các tù trưởng vùng sơn cước này có nhiều bậc hào kiệt chẳng chịu khuất phục ai, trai tráng sông Đà lại là những người vũ dũng, tinh thần thượng võ rất cao. Năm ấy, tù trưởng châu Mai là Trịnh Giốc Mật đã cùng một số tù trưởng khác họp quân sơn cước để chống lại triều đình. Họ kéo cờ “Thế thiên hành đạo”, cử quan, đặt tướng, đem quân đóng giữ tất cả các chỗ hiểm yếu. Triều đình hết sức lo lắng vì cuộc nổi dậy này lại nhằm vào lúc triều Nguyên đang bành trướng thế lực, chúng đang âm mưu qua nước ta tiến xuống vùng biển phía nam. Chúng đang liên tiếp đòi quân lương, đồ cống, chúng đang đòi nộp sổ bạ tịch của quân dân, chúng đang đòi quân trưởng nước ta và một số nước phía nam phải sang làm con tin bên triều Nguyên. Như thế chính là lúc ta đang cần sự cả nước đấu sức lại. Khi cuộc nổi dậy của Trinh Giốc Mật bùng ra, Thượng hoàng phát quân, sai Chiêu Văn vương làm tướng đi tiễu phạt. Kế sách đã bàn kĩ ở Nội cung nhưng khi xuất quân, Thượng hoàng vẫn nhủ em: “Lúc này phải hết sức tránh dụng binh. Em lưu ý cho ta điều đó”. Chiêu Văn vương dẫn quân lên đến vùng giáp giới thì hạ trại đóng lại. Ông viết một lá thư cho một tì tướng cầm vào quân doanh của Trịnh Giốc Mật. Lá thư ông viết rất tha thiết. Ông nói về nạn nước đang bị đe dọa xâm lăng nghiêm trọng, giặc đang tập trung quân ở ngoài biển, như vậy ở trong nước từ bậc hào kiệt đến kẻ thất phu đều phải nghĩ đến bổn phận của mình đối với giang sơn xã tắc. Giặc mạnh là quốc nạn, trăm họ phải đấu sức lại mới mong giữ gìn được đất nước tổ tông để lại, ai xưng hùng xưng bá một phương là mưu lợi riêng, làm yếu quân, làm yếu nước là có tội với tổ tông, với đất nước và trăm họ. Đất nước và trăm họ sẽ không cho họ làm thế. Nhưng đối với con em thân thuộc, ruột thịt thì trước là răn dạy bằng lời, cùng bất đắc dĩ mới phải dùng đến roi vọt, có nghĩa là động binh tiễu phạt. Ông khuyên Trinh Giốc Mật dẹp quân. Cách viết thư thẳng thắn ấy hẳn đã làm Trịnh Giốc Mật phải suy nghĩ. Trịnh cũng là một con người nghĩa khí. Khi đã nhận ra điều gì, Trịnh có gan làm theo. Trịnh sai sứ giả ra diện kiến Chiêu Văn vương mang theo một lá thư lời lẽ cũng tâm huyết. Trịnh nhận rằng mình chưa nghĩ hết lẽ, chưa xét đến mặt quốc nạn ngoài biên và bằng lòng dẹp quân nếu như đức ông cùng bày tỏ tâm thành bằng cách tay không vào quân doanh ăn thề với Trịnh trước sự chứng kiến của ba quân. Chiêu Văn vương bằng lòng, cho sứ giả của Trịnh về trước hẹn ngày ông sẽ vào ăn thề. Sứ giả của Trịnh Giốc Mật đi rồi, quân tướng tả hữu của Chiêu Văn vương mới ồn lên, nhiều người can ông đừng vào quân doanh của Trịnh hoặc chỉ nên cử một tướng thay mặt cho đức ông mà thôi. Họ lo lắng vì đi hội ăn thề như thế thì lành ít dữ nhiều. Nếu Trịnh giở mặt hoặc Trịnh không giữ nổi quân tướng của y giở mặt thì sao? Trần Nhật Duật ngẫm nghĩ rồi giảng giải cho các tướng: – Người sơn cước coi lễ ăn thề rất trọng. Mỗi lần thề họ đều đem nhau đến trước bàn thờ tổ tông cho nên họ Trịnh mới phải mời ta vào. Hơn nữa lần này thề chung cho cả vùng Đà Giang cần phải có sự chứng kiến của các bậc cao tuổi. Còn như ta đề phòng thì họ cũng đề phòng, đó là lẽ tự nhiên. Mà ta tính rằng chính chúng ta ở thế thuận chiều gió, chỉ chúng ta có giở mặt mới có lợi. Vậy thì muốn tỏ ra thực bụng, ta phải vào. Trịnh Giốc Mật là bậc hào kiệt lộ Đà Giang, quân sơn cước vùng sông Đà đều là những dũng thủ có khí phách. Họ có thể cũng muốn thề với những người tương xứng. Ấy thế mà Hoàng Mãnh vẫn hỏi gặng: – Nhưng nếu họ cứ giở mặt thì sao? – Nếu vậy chỉ là điều không may cho riêng ta, còn triều đình sẽ cử một vị vương khác lên làm tướng! ... Trịnh Giốc Mật sai quân đón Chiêu Văn vương từ cổng trại ngoài. Chiêu Văn vương mặc áo xuyến hoa, tay cầm một cái quạt nan ngà phất lụa bạch. Theo hầu Chiêu Văn vương có bốn người đeo kiếm ngắn. Ngoài ra Hoàng Mãnh còn dẫn theo mười người lính đội những quả sơn đựng tặng phẩm như cau, rượu, lụa, chè. Quân Đà Giang vừa trông thấy đoàn người tiến về phía trại của họ là họ đã hò hét náo động. Một viên tướng rất trẻ dẫn một toán dũng thủ vác mác sáng loáng xông ra vây Chiêu Văn vương và đoàn tuỳ tùng. Chiêu Văn vương thản nhiên, đường bệ chỉ quạt bảo viên tướng trẻ sông Đà: – Đưa ta vào chỗ chúa trại! Câu nói đầy quyền uy và tự tin của Trần Nhật Duật làm cho viên tướng trẻ sững sờ. Hai mắt anh ta mở tròn xoe nhìn trừng trừng con người phong nhã, bình lặng và đường hoàng đi lại giữa đám quân sĩ giáo mác hung dữ. Chiêu Văn vương cũng nhìn viên tướng trẻ. Anh ta trẻ quá, hầu như vừa tới tuổi dậy thì nhưng vóc dáng thật là cao lớn vũ dũng. Đôi mắt trong to của anh ta mau chóng chuyển từ hung dữ sang kính phục. Anh ta hầu như mất tự chủ, ngọn mác vẫn chĩa nhăm nhăm bên sườn Trần Nhật Duật nhưng sau câu nói của ông, anh ta bất giác bước giật lùi, mở đường và cũng là dẫn đường cho Chiêu Văn vương; ông hoàng trẻ cứ bình thản tiến bước. Chỗ ở của chúa trại Trịnh Giốc Mật giống như ngôi nhà làng của bộ lạc Hươu trong lúc chiến tranh với bộ lạc Cò vào thời các vua Hùng dựng nước. Chỉ thấy chông chà, giáo mác, chỉ thấy người đông nghìn nghịt đi đi lại lại vướng cả vào nhau. Ngoài sân, ngoài vườn, bếp núc bắc khắp nơi, khói bốc lên nghi ngút, chỗ này thui trâu, chỗ kia làm lợn. Trịnh Giốc Mật ngồi xếp bằng tròn trên chiếc chiếu giải giữa căn nhà sàn rộng thênh thang như sân đánh phết. Bên phải tù trưởng là bàn thờ tổ tiên, sau lưng ông là các cụ già cao tuổi. Trần Nhật Duật bước lên nhà sàn bằng chiếc thang gỗ ngắn. Ông đứng giữa cửa nhìn chằm chằm vào Trịnh Giốc Mật. Sau lưng Trần Nhật Duật, những dũng thủ Đà Giang vẫn chĩa mác vào ông, Trần Nhật Duật cười nói bằng tiếng Man Lão: – Ta đã đến! Tù trưởng Trinh Giốc Mật phải đứng bật lên, dẫn các bô lão ra đón Chiêu Văn vương. Ngay hôm ấy một buổi lễ ăn thề trang nghiêm đã diễn ra. Một bên Trịnh Giốc Mật, một số tù trưởng khác, các bô lão và con trai Trịnh; một bên, Chiêu Văn vương và các tướng tuỳ tùng, tất cả cùng trích máu bắp tay cho nhỏ vào một bình rượu lớn. Hai bên cùng đọc lời thề đời đời hoà hiếu, coi nhau như anh em ruột thịt. Mỗi người uống một hớp rượu có giọt máu của mọi người trong đó. Trịnh Giốc Mật hơn Trần Nhật Duật ngót hai mươi tuổi, làm anh. Nhưng đôi anh em kết nghĩa ấy, ở một mặt nào đó lại là một đôi bạn quên tuổi, tin cậy nhau, kính phục nhau. Con trai Trịnh Giốc Mật quý ông chú nuôi vô cùng, coi ông chú nuôi như ông thần ông thánh, mặt trời mặt trăng của anh ta. Anh ta chính là viên tướng trẻ đã chĩa giáo vào Trần Nhật Duật khi ông vào chỗ đóng quân của Trịnh Giốc Mật, anh ta chính là Trịnh Mác, Thượng phẩm Phụng ngự chuyên coi các ao cá trong hoàng cung. Chuyện ăn thề năm xưa của Trịnh Giốc Mật và Trần Nhật Duật mấy hôm nay ám ảnh tâm trí của Thượng hoàng Thánh Tông. Bởi vì chỉ còn vài hôm nữa đã đến hội thề long trọng của toàn thể hoàng tộc và văn võ trăm quan ở đền Đồng Cổ. Thánh Tông sau một lúc tư lự, đột nhiên bảo: – Ta muốn hỏi em một điều này. Em nghe rồi có thể vài hôm nữa hãy trả lời ta. Thượng hoàng ngước nhìn ra ngoài hiên như lơ đãng hỏi tiếp: – Giả sử nếu ta phải động binh lớn thì quyền Tiết chế thống lĩnh tất cả quân đội trong cả nước nên giao vào tay ai? Đó là một câu hỏi mà muốn trả lời được phải tính đếm đến tất cả mọi lực lượng trong nước. Bởi vì người cầm quyền Tiết chế phải là người được cả người dân đồng bằng cũng như dân sơn cước tin phục và nhất là phải được tất cả các vương hầu của ba chi trong họ Trần tin phục. Ba chi đó là: Chi trưởng gồm các vương hầu vùng Đông Bắc đất nước quen gọi là chi Vạn Kiếp thuộc dòng dõi của đức ông Trần Liễu. Chi thứ là chi Tức Mạc, hiện đang nắm giữ quyền chính và ngai vàng, chính là chi có Trần Nhật Duật, thuộc dòng dõi của tiên đế Trần Cảnh, em ruột của đức ông Trần Liễu. Chi út là chi hiện nay vẫn còn ở lại phần lớn ở đất quê Long Hưng, Thiên Trường. Chi này thực sự cũng có nhiều người làm quan làm tướng trong triều, nói một cách khác cũng chỉ là phụ thuộc vào chi thứ mà thôi. Thượng hoàng giơ tay ngăn không cho Trần Nhật Duật trả lời ngay. – Em đừng trả lời vội. Em cứ nghĩ cho kĩ vài ngày nữa hãy trả lời ta. Nhưng điều ta vừa hỏi em thì em hãy giữ riêng cho em mà thôi. Thế nhé. Bây giờ là lúc càng phải nghĩ đến những mối dây liên hệ máu mủ ruột thịt, phải nhớ tới những tình nghĩa đá vàng. Cũng gần như do một sợi dây vô hình, kì diệu dẫn dắt, Trần Nhật Duật cũng đang băn khoăn đến một nghĩa anh em: – Tâu hoàng huynh, em cũng đang định tâu bày một việc có liên quan đến người anh em kết nghĩa của em ở Đà Giang. – Em cứ nói. Lại đến lượt Trần Nhật Duật tư lự: – Thưa anh, chiến chinh có thể xảy ra. Trên khắp nước phải có đủ những đội quân thiện chiến. Lộ Đà Giang là một nơi phên giậu phía Tây Bắc. Trên ấy, các nghĩa sĩ lộ Đà Giang sẽ là những người lính can đảm nhưng hiện nay họ không có tướng giỏi luyện tập cho họ. Xin hoàng huynh hạ chỉ cho Trịnh Mác trở về châu Mai để cầm đầu cánh quân ấy. Thánh Tông ngần ngừ. Thượng hoàng chú ý tới Mác và biết anh ta có tài cho nên rất quý anh ta. Thượng hoàng không muốn xa anh ta, nhưng còn một lẽ nữa tuy mơ hồ nhưng cũng có ma lực rất lớn: Trịnh Mác còn ở kinh kì ngày nào thì lộ Đà Giang chắc chắn yên tĩnh ngày ấy. Anh ta chính là con tin mà Trịnh Giốc Mật đã gửi triều đình để triều đình yên tâm. Xin cho Trịnh Mác về châu Mai phải chăng chỉ là một ý xốc nổi của tuổi trẻ? Hay đây là một cách dùng người bằng tâm phục. Quả thật không gì bằng những người đã thực bụng theo. Chuốc được những con người như thế phải bằng đức nhân rộng như trời biển. Cổ nhân có câu: “Ràng buộc người bằng đức còn chặt chẽ hơn bất kì thứ gông cùm, tù ngục nào”. – Thưa anh, Trịnh Mác đã được đào luyện hai năm nay ở Giảng Vũ đường. Đó là một tướng trẻ tuy chưa thao lược nhưng hào khí lắm. – Nhưng mà ta muốn mối giao tình giữa hai miền Đà Giang và kinh sư thắm thiết hơn nữa. Có thể... Trần Nhật Duật tươi nét mặt: – Em định tâu với hoàng huynh hai việc nữa nhưng còn đang phân vân. Muôn tâu, toàn là việc vui mừng ạ. – Em nói đi. – Hiện nay Thượng phẩm Phụng ngự Trịnh Mác là cháu nuôi của em. Nó đã đến tuổi lấy vợ. Em định tâu hoàng huynh đứng ra xin cô quận chúa út nhà Nhân Thành hầu cho nó. – A, quận thượng chúa Bích Vân. Còn việc nữa? – Thưa anh, việc nữa là việc vui mừng của người em đồng nhũ của em. – Của Hoàng Mãnh, dũng thủ vô địch kinh thành à? – Bẩm vâng, Mai Sơn hầu Trịnh Giốc Mật có hai người con gái. Nàng cả đã gả cho công tử con chúa trại Thu Vật. Còn nàng hai chưa có nơi nào ưng ý. Mối lái thì nhiều đám đấy. – Thật là hai đám đẹp đôi. Em còn hỏi gì ta nữa cơ chứ? – Thưa anh em e nhà Nhân Thành hầu chê Trịnh Mác chưa môn đăng hộ đối, còn đám kia thì Hoàng Mãnh chưa có danh vị gì cả. Thượng hoàng Thánh Tông ngẫm nghĩ. Về việc Hoàng Mãnh chưa có danh vị gì thì cũng dễ xử thôi. Bây giờ Hoàng Mãnh đang là đệ nhất dũng thủ kinh thành cũng xứng đáng với một chức Điện tiền tướng quân. Chỉ duy đám nhà Nhân Thành hầu cần làm cẩn thận hơn. Phó tướng quân Nhân Thành hầu thất lộc đã lâu rồi, để lại hai người con trai. Người cả là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Thái Tông khi chưa nhường ngôi lui về làm Thượng hoàng đã nhận Nhân Huệ vương làm con nuôi. Do là Thiên tử nghĩa nam nên Nhân Huệ vương được phong chức Phiêu Kỵ Đại tướng quân. Nhưng về sau Nhân Huệ vương phạm lỗi đã bị Thánh Tông sai đánh trượng rồi cách tuột quan chức đuổi về làm dân. Người em của Trần Khánh Dư vì thế cũng bị thất sủng theo. Hoài Thượng hầu Trần Văn Lộng cũng là người có tài kiêm văn võ nhưng không được dùng cho xứng với tài đó. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư thì về Chi Linh, ở trong đất phong cũ của Nhân Thành hầu. Nghe nói anh ta đóng cửa thái ấp, không giao du với giới vương hầu quý tộc, mà chỉ mở lò hầm than buôn bán với các lái buôn chuyến về vùng gốm Bát Tràng, Thổ Hà hoặc về vùng đảo nơi có nghề sấy hải sản quý như bào ngư, hải sâm. Hoài Thượng hầu ở lại kinh thành cũng tránh chỗ đông người, trừ những buổi triều hội lớn buộc ai nấy phải có mặt. – Thôi được. Bây giờ vương đệ cho Hoàng Mãnh tiến triều. Ta sẽ phong cho y chức Điện tiền tướng quân, cho y coi quản một vệ Cẩm y Thánh Dực. Khi hôn lễ cử hành, y thành con rể Trịnh hầu, ta sẽ cho Hoàng Mãnh được tiến tước Minh tự. Tốt nhất là sai y lấy chức Điện tiền tướng quân lên Đà Giang cùng với Trịnh Mác luyện quân Man Lão sơn cước. Tại sao ta cứ bắt họ để con tin mà chính ta lại không gửi con tin cho các chúa trại... Tại sao... tại sao trong việc cởi bỏ oan khiên, hờn giận ta cứ đòi cả đôi bên cùng làm một lúc? Mà bên nào ở thế ngọn thác phải động thủ trước có phải không em? Đột nhiên Thánh Tông cả cười nói tiếp: – Còn việc vui mừng nhà Nhân Thành hầu thì em nói thuận tiện hơn ta. Mồng bốn này hội thề đền Đồng Cổ. Thề xong, em mời Hoài Thượng hầu về vương phủ chơi, em ướm thử trước đi. Nếu hai việc này tốt đẹp cả thì lộ Đà Giang vững như bàn thạch. Hoài Thượng hầu nếu có ý ngần ngại chê Trịnh Mác là người sơn cước thì ta sẽ phong cho y tước bá trước khi y được tập tước hầu châu Mai. Hôn lễ Trịnh Mác sẽ do ta làm chủ hôn. – Được như vậy thì thật là vui mừng cho bọn trẻ. Quan học sĩ coi quản việc từ hàn cung Thánh Từ là Đinh Củng Viên được gọi vào giao cho thảo chế ban phong. Ông học sĩ thấy hai anh em Thượng hoàng vui mừng hớn hở. Ông cũng mừng thay cho Hoàng Mãnh và Trịnh Mác là hai chàng trai mà ông yêu về tính, trọng về tài. Trên đường về vương phủ, Chiêu Văn vương rẽ vào thăm Nhân Túc vương Trần Toàn, người đứng đầu phủ Tông Chính chuyên coi sóc mọi việc của hoàng tộc. Trần Toàn so về thế thứ là hàng chú của Trần Nhật Duật. Ông ta thuộc chi út, vẫn sinh sống bằng nghề làm ruộng và đánh cá ở phủ Long Hưng. Khi tiên đế Trần Cảnh tức Trần Thái Tông lập phủ Tông Chính, Trần Toàn được chọn làm Phán thủ Đại tông chính, và được tiến phong vương. Thiên hạ thường nghĩ ông ta được vua chọn vào chức vụ trọng yếu này vì đức độ và tuổi tác, thực ra không phải thế mà nó có những uẩn khúc không ai nói ra. Chi Vạn Kiếp chi trưởng họ Trần và chi thứ Tức Mạc hiện đang giữ ngôi vua vốn có hiềm khích với nhau kể từ đời hai anh em Trần Liễu, Trần Cảnh là hai người mở đầu hai chi đó. Phủ Tông Chính coi sóc việc hoàng tộc phải lo cho cả họ đại thống, anh em hoà mục, cho nên chọn người chi trưởng hay người của chi thứ làm Đại Tông chính đều không tiện bằng dùng người của chi út Long Hưng. Năm nay Nhân Túc vương Trần Toàn đã trên sáu mươi tuổi, được cả họ trọng vọng về sự hiền lành. Công việc phủ Tông Chính không bận rộn và phiền toái như việc cai trị dân nhưng lại rất long trọng. Phủ Tông Chính chăm lo ngày kị các bậc tiên đế tiên hậu, ngày sinh nhật của Thượng hoàng và đương kim hoàng đế, ngày sinh nhật của hoàng thái tử, việc dựng vợ gả chồng cho các vương hầu, công chúa, quận chúa, công tử, công tôn, việc chọn mĩ tự để phong tước cho các tôn thất đến tuổi được tập ấm... Tất cả những công việc ấy đã có lề thói, khuôn phép đặt sẵn của họ mạc, phủ Tông Chính chỉ đứng ra đảm đương việc thi hành. Công việc nhàn nhã nhưng trọng thể xứng với một vị tản quan đã già và thích hội hè, đình đám, chè rượu như Trần Toàn. Nhưng công việc đó đòi hỏi mọi nghi thức phải thật đúng với tôn ti trật tự, thành thử lúc nào cũng thấy Nhân Túc vương đăm chiêu dường như ông ta đang đau khổ dằn vặt, lo lắng vì công việc. Kì thực vẻ mặt ấy quả là thích hợp với một ông Đại Tông chính chuyên việc hoà giải các chi trong họ và chia thưởng, tiến tước cho cả họ, thành thử Nhân Túc vương tình cờ luyện được bộ mặt đó là cứ khư khư giữ lấy nó. Nhưng lần này đến thăm Nhân Túc vương, Trần Nhật Duật thấy ông Đại Tông chính cuống thật sự. Vừa nghe thấy gia tướng xướng tính danh Chiêu Văn vương đến thăm, Trần Toàn đã mừng quớ lên. Ông ta không kịp xỏ dép cứ xéo lấm ra đón tận thềm chính đường. Nhân Túc vương xưa nay vẫn coi Chiêu Văn vương là người hết sức thông minh, hành động lại quả đoán, việc gì đến tay cũng làm băng băng mà Nhân Túc vương lại sẽ phải thi hành một lệnh vua nan giải. – Trời ơi! Vương điệt, ta đang ao ước gặp vương điệt thì may sao cháu lại tới. – Lạy chú! Cháu mới ở Đà Giang về hôm qua. Hôm nay cháu tiến cung mừng thọ Thượng hoàng xong là rẽ vào để vấn an chú. Vừa nói, Trần Nhật Duật vừa ngắm ông chú. Nhân Túc vương lên kinh đã ngót mười năm nay nhưng ông vẫn còn hầu như nguyên vẹn cốt cách mộc mạc thôn dã của một ông già phú ông thú quê. Ông mặc áo vóc tía đã chững chạc nhưng mấy nếp khăn là quấn không khéo và ngắm cho kĩ thì ông vẫn “người đi đằng người, áo đi đằng áo”. Nhân Túc vương vồn vã: – Chú vẫn mạnh, vẫn rượu. Nhờ trời ăn ngon ngủ kĩ. Ông mời Trần Nhật Duật vào chính đường, quát gia nô pha trà, quát thị nữ bày bánh trái, quát người quạt mát, quát kẻ đốt trầm om sòm. Hình như ông nghĩ có quát tháo om sòm như thế mới ra phong cách nhà quyền quý. Trong khi đó các viên lệnh thư gia, xá nhân thuộc quan của phủ Tông Chính cũng hớn hở như Nhân Túc vương. Những người này phần lớn đều nhiều hơn Chiêu Văn vương gần hai chục tuổi, có người còn gấp đôi tuổi ông. Nhưng họ kì vọng ở ông một kiến giải hồn nhiên nhờ vậy mà trở thành đúng cách. Với dòng họ Trần, thuộc quan phủ Tông Chính đều là tôn thất thuộc những chi, những nhánh rất xa phần lớn rơi rớt từ những nàng hầu, thứ thiếp, con hoang, nhưng ở trong cái phủ Tông Chính này quan chức ít được kể đến, trái lại thế thứ, tuổi tác là những cái luôn luôn được nại ra để sắp xếp trên dưới và để chia phần lộc nước vua ban vào những dịp có việc vui mừng ân tứ. Họ nhớ kĩ những tiểu tiết đến một mức độ vô lí: – Bẩm đức ông, tước Minh Tự Trần Hữu Pháp thuộc chi út, thế thứ bảy, tính từ đức cố tổ. Đức cố tổ đến lập nghiệp ở hương Tức Mặc, lấy ba vợ. Bà thứ ba đẻ hai con trai. Người con trai thứ hai thiên sang lập nghiệp ở cái gò bãi nổi cuối làng Tức Mặc lập thành chi út. Bẩm chi này không phấn phát nhưng các ngày kị, ngày huý giữ rất đủ lễ, nói về nghề nghiệp nhà thì con cháu chi này vẫn giữ được nghề đánh cá. – Bẩm đức ông, Tước liệt hầu Trần Đức sở dĩ đầu hói là thừa hưởng vẻ người của ngoại tổ Tô Trung Tự. Cho nên dịp ân tứ này không nên ban trâm cài tóc mà nên ban mũ phốc đầu. – Bẩm đức ông, ngày mười sáu tháng ba này là kị nhật của bà nhũ mẫu đã có công bú mớm cho đức Thái Tổ. Họ của bà bị phạt tự, hết con trai. Thượng hoàng thương tình cho thờ phụ bà ở bên ngoài cửa tả của Chiêu lăng. Xin cho lập một cái miếu riêng cho bà để khỏi phải thờ chung trong miếu thờ thổ địa. – Bẩm đức ông, đức Thái Tổ ta khi còn hàn vi có đi lại với một bà ở thôn Bà Liệt, sinh được đức ông Hoài Đức vương. Theo lễ thì con đã được phong thì mẹ phải được tặng. Xin làm sớ tâu phong cho bà làm thứ phi, và lấy tên huyện quê quán của bà làm hiệu. Bẩm thế là Tây Chân thái phi. Bẩm bài vị để thờ xin lập dưới chân bài vị của Thái hoàng thái hậu Hiển Từ. Và cứ như thế, thuộc quan phủ Tông Chính cứ bẩm báo luôn mồm nhắc Nhân Túc về thế thứ, về chi ngành, về dòng dõi, sở đắc, sở trường, hình dáng, tính nết cho chí những chi tiết lắt léo nhất trong đời tư của tất cả tôn thất họ Trần để Trần Toàn khu xử sao cho ơn mưa móc đã mưa thì mưa cho khắp, cho hợp lễ, cho đủ tình. Ấy thế mà cái việc nan giải lần này của Nhân Túc vương thì bọn thuộc quan cũng bó tay không biết nên làm thế nào. Họ càng hiểu kĩ mọi tình tiết mắc mớ trong dòng giống bao nhiêu thì họ càng tắc tị bấy nhiêu. Mấy hôm trước đây, đương kim hoàng đế Nhân Tông cho gọi Nhân Túc vương vào cung và phán: – Lần này, lễ thề ở đền Đồng Cổ có cả các đức ông ở chi Vạn Kiếp cũng về dự. Hoàng thái thúc cử người làm chủ tế đọc thệ thư hôm đó. Chỉ có một lời phán truyền ngắn ngủi như vậy mà phủ Tông Chính mất ngay không khí nhung lụa êm đềm đài các và chỉ còn trơ trỏng một thứ quyền rơm vạ đá. Bởi vì cả họ Trần đều biết mối thù giữa chi trưởng và chi thứ. Mối thù này có từ thuở họ Trần mới khai lập vương nghiệp. Bấy giờ Thái Tổ Trần Thừa và Trung Vũ vương Trần Thủ Độ đang làm quan tể dưới triều vua Lý Huệ Tông. Lý Huệ Tông không có con trai, sau lấy thêm bà Trần Thị Dung cũng chỉ sinh được hai người con gái. Nàng công chúa cả là Thuận Thiên, nàng công chúa út là Chiêu Thánh. Trần Thủ Độ bày mưu cho hai con trai của Trần Thừa vào hầu trong cung. Người anh là Trần Liễu lấy nàng Thuận Thiên làm vợ. Người em là Trần Cảnh lấy nàng Chiêu Thánh mặc dù cả hai lúc đó mới lên tám tuổi. Sau đó Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái thứ hai. Vua con gái xưng vương hiệu là Lý Chiêu Hoàng và lẽ tất nhiên vua vợ nhường ngôi cho chồng. Cướp ngọt ngôi vua về cho họ Trần rồi, Trần Thủ Độ lập mẹo chôn sống tất cả tôn thất nhà Lý, và bày trăm phương nghìn kế để giữ ngai vàng. Khi ấy lòng người tao loạn, trăm họ chán ghét nhà Lý không giữ được kỉ cương trật tự trong nước để ai nấy yên ổn làm ăn. Nay họ Trần lên làm cho nước an dân no nhưng không phải vì thế mà người ta nhận chân giá trị công lao của họ Trần ngay. Lúc đó kẻ sĩ đọc sách cố tình lảng tránh việc giúp triều đình mới. Tôn thất nhà Lý chốn quê Đông Ngàn thì bỏ lên rừng núi, ẩn thân cũng có, mộ quân trả thù cũng có. Lo lắng vì vua Trần Cảnh còn ít tuổi quá, Trần Thủ Độ tôn Trần Thừa làm Thượng hoàng nhiếp chính việc nước. Nhưng chẳng may Thượng hoàng Trần Thừa lâm bệnh băng hà. Việc nước ngổn ngang, vua Trần Thái Tông lại chưa có con trai, mà nói cho đúng thì bấy nhiêu tuổi sao mà có con được. Trần Thủ Độ cực chẳng đã phải thi hành một độc kế: Nhân biết bà Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu đang có mang, Trần Thủ Độ bắt Trần Liễu phải nhường vợ cho Trần Cảnh để mong bà Thuận Thiên sinh lấy một hoàng tử phòng hờ trước một sự bất trắc xảy ra. Còn đứa con ấy vẫn chỉ là giọt máu của họ Trần, “lọt sàng xuống nia đi đâu mà thiệt.” Việc bị ép nhường vợ làm cho Trần Liễu uất hận bèn đem thủ hạ nổi loạn. Về sau cô thế, Trần Liễu phải đầu hàng và Trần Thủ Độ cho cắt đất An Sinh, An Bang, An Phụ cho Trần Liễu lập làm thái ấp nhưng kì thực là giam lỏng Trần Liễu ở đó. Chẳng có thế mà hiệu của Trần Liễu từ Phụng Càn vương lại đổi là An Sinh vương. An Sinh vương là vị vương sống yên. An Sinh vương ở đất phong lập ra chi Vạn Kiếp mà nay người con cầm đầu chi Vạn Kiếp chính là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Đứa con có mang sẵn của bà Thuận Thiên bây giờ chính là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Thái Tông Trần Cảnh không truyền ngôi cho Quốc Khang vì biết rằng không phải con mình. Thái Tông chờ bà Thuận Thiên đẻ đứa con sau mới lập làm Thái tử và truyền ngôi cho. Vị vua nối ngôi ấy nay là Thượng hoàng Thánh Tông, anh em cùng mẹ khác cha với Trần Quốc Tuấn và cũng là anh em con chú con bác với nhau. Chi Vạn Kiếp ít khi về kinh, trừ khi có chỉ vua triệu. Những năm trước đây, hội thề đền Đồng Cổ là hội thề của triều thần, cung Quan Triều của đương kim hoàng đế cử chủ tế. Lễ thề của triều thần thì quan tướng quốc làm chủ tế là phải. Vì thế trong nhiều năm nay vẫn do Thượng tướng quân Thái sư Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải đọc thệ thư trong hội thề. Nhưng năm nay, đột nhiên Thượng hoàng Thánh Tông triệu cả các đức ông chi Vạn Kiếp về kinh bàn việc nước. Lần này hội thề không chỉ là hội thề của triều thần mà là hội thề của toàn bộ tôn thất, cung Quan Triều không đủ quyền cử chủ tế, đương kim hoàng đế Nhân Tông giao việc đó cho Đại Tông chính Nhân Túc vương Trần Toàn. Lệnh chỉ nay chẳng khác một tảng đá gieo vào đàn cá đang tung tăng nhởn nhơ kiếm ăn trong bể cảnh. Phủ Tông chính lo cuồng lên. Ai không biết tính kiên nghị sắt đá của đức ông Chiêu Minh? Đức ông Chiêu Minh xưa nay giữ quyền chính rất chặt chẽ không để lọt một mảy may vào tay chi trưởng. Mà ai không biết lời trăng trối của đức ông An Sinh cho con trai: “Ta kén người tài dạy con thành người văn võ song toàn là để con đòi cho được ngai vàng thì ta mới yên lòng nhắm mắt nơi chín suối”. Đức ông Hưng Đạo là người thâm trầm, lúc nào cũng cười nói như không nhưng ở đáy lòng kia ai là người dò được mớ suy tư mấy chục năm dằn vặt nó ra thế nào? Thế mà cả hai đức ông Hưng Đạo, Chiêu Minh đều đủ quyền uy để giữa triều đình chỉ mặt bất kì ai, hặc tội, trị tội. ... Nhân Túc vương Trần Toàn rất mừng vì sự có mặt của Chiêu Văn vương. Cả phủ Tông Chính cũng mừng như ông Đại Tông Chính. Phải nói là cả phủ Tông Chính kì vọng ở đức ông Chiêu Văn một ngõ thoát. Họ cũng ham nghe chuyện Trần Nhật Duật kể, chuyện săn bắn, chuyện văn chương, chuyện cầm quân tiễu phạt ở những nơi biên viễn... Những chuyện ấy từ cửa miệng của Trần Nhật Duật kể ra thật thú vị và vô cùng cuốn hút con người. Ngay cả những chuyện tưởng như bình thường khó làm cho người nghe thích thú như chuyện chăn tằm trồng dâu, chuyện trồng thuốc, trồng ngô, trồng khoai, trồng sắn mà Trần Nhật Duật kể lại cũng làm cho người ta thấy cả cái mát của gió đồng nội, thấy cả cái ngọt thơm của bát chè nấu bằng bột ngô nếp non nấu với đường cát hoa mai. Bởi vậy trong lúc Nhân Túc vương muốn đem cái việc nan giải ra hỏi thì bọn thuộc quan cứ quen cái thói thân mật họ mạc ra, vừa thân thiết vừa kính cẩn mà gợi chuyện, hóng chuyện Trần Nhật Duật. Nhân Túc vương phát cáu. Ông ta cắt ngang: – Bây giờ các ngươi muốn đi đâu thì đi, để ta bàn chút việc riêng với đức ông Chiêu Văn. Trần Nhật Duật mỉm cười ngắm cái mũi giống như quả quýt hôi của ông chú họ thích và cần rượu hơn cần cơm tẻ. Ông không tin rằng ông già này có việc gì phải lưu tâm ngoài những lạc thú thông thường nhất ở ngoài đời. Nhân Túc vương gấp gay cặp mắt nghĩ cách gợi làm sao cho câu hỏi chính xác nhưng vẫn kín đáo. – Ờ!... Vương điệt này, năm nay hội thề long trọng lắm đấy! – Thưa chú, mười mấy năm nay mới có một ngày họ ta về kinh đông đủ thế đấy. – Cũng chỉ thiếu đôi ba người đang có đại tang phải ở nhà cư tang và đôi ba người ốm nặng. Cả họ đi thề,... cháu có thấy lễ thề khác với mọi năm không? – Thưa chú mọi năm chỉ có văn võ bá quan, còn năm nay thêm các vị ở Vạn Kiếp về. Nhân Túc vương kéo dài giọng: – Đấ... ấy. Quan gia giao cho chú cử đức ông chủ tế mà chú khó nghĩ quá. – Thưa chú làm sao mà chú khó nghĩ ạ? Trần Toàn lúng túng đâm liều: – Thế cháu bảo nên cử ai? Trần Nhật Duật trong lòng sửng sốt. Trong một ngày có hai người hỏi ông hai điều vừa giống nhau vừa khác nhau. Giống là việc cử người, khác là cử chức vụ. Nhưng rõ ràng cả hai câu hỏi chỉ nhằm vào việc cân nhắc giữa hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo. – Thưa chú chắc chú muốn cân nhắc xem nên chọn ai giữa đức ông hoàng Ba và đức ông trưởng họ? – Đúng đấy. Không biết ta nên cử đức ông Chiêu Minh hay đức ông Hưng Đạo? Cháu bảo thế nào? – Thưa chú việc này Quan gia đã giao cho phủ Tông Chính, cháu không dám dự bàn. Cháu vừa ít tuổi vừa là phận con cháu. – Nhưng chú nghĩ khác. Cháu là người đã tình đã thân lại thạo xử thế. Chú hỏi thật cháu nếu cháu chọn thì cháu chọn ai? – Mọi năm thì cháu cử anh hoàng Ba còn năm nay cháu cử đức ông Hưng Đạo. Nhân Túc vương hỏi gặng: – Như thế ổn chưa?... Chú sợ chưa ổn! – Hay là... Nhân Túc vương hỏi cướp lời: – Hay là sao cơ? – Hay là chú hỏi thẳng anh hoàng Ba hay đức ông Hưng Đạo xem sao. Trần Toàn thuỗn mặt ra. Quả thật lần này sự hồn nhiên của Trần Nhật Duật không giúp được gì cho Trần Toàn. Chỉ nghĩ đến tính kiêu hãnh của Chiêu Minh vương, Trần Toàn đã lạnh gáy. Còn nhớ việc tiếp thằng Sài Thung sang sứ lần thứ nhất, vua Nhân Tông và Chiêu Minh vương đang đem quân tuần thú phương nam, Thượng hoàng phải cho triệu Trần Quốc Tuấn về kinh đối phó với thằng Sài Thung. Thượng hoàng đã định phong chức Đại Tư đồ cho Hưng Đạo vương để danh chính ngôn thuận có vị thế chức tước tiếp sứ. Hưng Đạo vương biết tính Chiêu Minh vương, đã từ chối nói rằng ông xin nhận việc tiếp sứ còn phong chức thì hãy hoãn lại chờ Quan gia và Thái sư về sẽ hay. Việc tiếp sứ làm rất hoàn hảo, thế mà khi Quan gia và Chiêu Minh vương về kinh, việc phong tước bị dẹp đi không kèn không trống. Bây giờ đem việc cử chủ tế ra hỏi thẳng đức ông Chiêu Minh, có khi đức ông cho là hỏi móc hỏi máy hoặc là nịnh thối rồi đức ông hặc tội cho. Rồi thì nghĩ cho kĩ được hặc tội ngay còn là khá chứ đức ông cứ im ỉm trong bụng thì chửa biết mắc vạ tày đình vào thân lúc nào? Trần Toàn ngẩn mặt ra khi Chiêu Văn vương vái chào xin lui: – Việc tế tự, chú cứ phép công chú làm. Lễ thề của cả họ, ông trưởng họ làm chủ tế là đúng nhất. Nhân Túc vương giữ chặt hai tay cháu hỏi cố thêm: – Cháu chắc không bận gì chứ? Cháu không bận gì thì cháu tạt vào phủ Chiêu Minh hỏi hộ cháu hoàng Ba cho chú một câu thì hay quá? Trần Nhật Duật cười, hứa sẽ làm theo lời ông chú. Trên đường về, Chiêu Văn vương rẽ vào phủ đệ Chiêu Minh thật nhưng gia nô thưa với đức ông rằng Chiêu Minh vương đi săn bên rừng Sặt đã hai ngày nay chưa về. Chiêu Văn vương hỏi anh mình đi săn với ai thì người gia nô thưa một câu làm cho đức ông hoàng Sáu phải sửng sốt rồi mau chóng chuyển sang trầm tư: – Thưa đức ông, vương gia con đi săn với đức ông Hưng Đạo. ......... Chú thích: (1) Lễ giải tù binh vào đền thờ các vua trước để tấu cáo chiến thắng. Chương 4 Mùa xuân đi săn! Không ai làm như vậy bởi vì mùa xuân là mùa thú sinh đẻ. Vì thế Trần Quang Khải tổ chức cuộc đi săn này chỉ bằng bẫy lưới nhằm bắt trọn từng bầy dê núi, kể cả các con mới đẻ để đem thả vào những cánh rừng trong châu Ái. Giống thú quý này vì sống trong cánh rừng gần kinh thành nhiều người săn bắt quá, nhất là săn bắn bằng lưới dồn lưới đuổi cho nên chúng đã ít đi rất nhiều. Trần Quang Khải muốn đem thả chúng vào vùng núi đá giáp giới giữa châu Ái, châu Hoan để lưu lại cho đất nước sau này một giống thú quý. Đi từ trên mỏm núi cao Chiêu Minh vương Trần Quang Khải nhìn sang phía bên kia con sông. Ông trông thấy đoàn thợ săn vùng sông Cà Lồ dắt theo những đàn chó săn nổi tiếng dữ tợn và can đảm. Cho đến lúc cuối cùng của cuộc săn, người ta mới nghĩ rằng mặc dù lần này chỉ nhằm bắt sơn dương nhưng những thú dữ khác vẫn cứ có. Muốn tránh nguy hiểm cho thợ săn tốt nhất là cho gọi phường đem thêm chó tới. Đằng sau mấy phường săn, Trần Quang Khải nhìn thấy một đoàn người ngựa di chuyển lên thượng lưu sông. Rõ ràng là những người này đang khép một mắt của vòng vây mà từ ba ngày nay đã bủa chung quanh khu rừng búng báng rất rộng ở mé sông Cà Lồ. Trần Quang Khải nhìn thấy người cưỡi con ngựa dẫn đầu đoàn người giơ tù và lên thổi một hồi dài. Đó là hiệu lệnh cho cả đoàn mau chóng vượt qua con sông mùa này cạn nước để chiếm lĩnh điểm hợp vây. Người thổi tù và đó là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Trần Quang Khải gọi tả hữu đem ngựa đến. Ông ra lệnh cho một gia tướng: – Nhà ngươi thay ta chỉ huy cuộc săn. Ta lại chỗ đức ông Hưng Đạo. Ngươi không cho bất kì ai biết ta ở đâu. Trần Quang Khải lên ngựa, ông chỉ mang theo một vệ sĩ thân tín. Hai con ngựa phi dọc theo bờ sông tiến về phía trước nơi có một ngọn miếu cổ bỏ hoang. Khi ông tới nơi đã thấy Trần Quốc Tuấn ngồi nghỉ ở cái sập lễ xây bằng gạch phía trước bàn thờ. Chính Trần Quốc Tuấn đã giao việc chỉ huy toán thợ săn cho gia tướng của mình còn ông đến miếu này rõ ràng là có hẹn trước với đức ông hoàng Ba. Hai người vái chào nhau vừa kín vừa thân. Trần Quang Khải nói: – Đệ thấy anh trưởng phóng ngựa như bay xem ra phong độ vẫn như xưa. Trần Quốc Tuấn cười. Ông đã ngoài năm mươi tuổi nhưng thực ra với một người sống ở thôn quê không khí trong lành, ăn ngủ điều độ lại luyện tập võ nghệ đều đặn thì năm mươi tuổi chưa phải là tuổi già. Có chăng tuổi này là tuổi thực chín để làm những công việc lớn. Đó là ông già quắc thước, gân guốc, râu ba chòm dài rậm, đôi mắt sáng lấp lánh dưới đôi lông mày to dài hình nét mác. Ông mặc một chiếc áo dài thâm may chẽn chân xỏ đôi hia kị sĩ cùng màu thâm, ngang sườn thắt dải lưng màu vỏ dà bình thường. Nếu chỉ bằng vào quần áo thì không ai có thể ngờ được ông già này lại là Trần Quốc Tuấn, vị vương trưởng tộc họ Trần, vị vương quyền uy như một người chủ nợ chưa hé răng đòi chi thứ một chiếc ngai vàng. Trần Quang Khải còn trẻ. Ông mới bốn mươi tuổi, cái tuổi phương cường vừa có sức khoẻ để xông xáo, vừa có kinh nghiệm của một người trí lự. Ngược lại với Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải mặc áo vóc tía thêu rồng bốn móng may chẽn như kiểu áo chiến. Ông thắt lưng xanh. Bên sườn trái một thanh bảo kiếm vỏ thau cẩn chỉ bạc, thanh kiếm có cái chuôi ngà nạm hai con thuồng luồng bằng vàng. So với anh, Trần Quang Khải không cao lớn bằng, nhưng ông có dáng người cực kì linh hoạt và sắc sảo. Hai người mời nhau ngồi xuống cái sập lễ xây bằng gạch. Trần Quốc Tuấn mở một cuộn giấy màu vàng ra: Đó là một tấm bản đồ vùng Đông Bắc. – Theo như thư trước chú viết về cho anh, anh đã cho thư nhi vẽ lại tấm bản đồ này. Chú hỏi về thế đất vùng này thì tốt nhất là vẽ ngay nó ra. Rõ ràng hai người đều muốn làm việc thật nhanh gọn, Trần Quang Khải cúi xem bản đồ. Ông nói: – Chỗ này vẫn là nơi chúng qua. Ông chỉ tay xuống một hẻm núi ở phía bắc lộ Lạng Giang. Từ hẻm này một đường son nâu tượng trưng cho con đường cái quan ngoằn ngoèo chỉ xuống kinh thành Thăng Long. – Trước đây quân Tống đã có một cánh quân xuyên cánh rừng phía tây nhưng vẫn chỉ là cánh quân phụ. Vả chăng hành quân đường này không sao biện nổi lương. Trần Quang Khải cuộn tấm bản đồ lại, ông bồi hồi nhìn Trần Quốc Tuấn. Trước đây ít hôm ông chỉ muốn nhờ Trần Quốc Tuấn chỉ dùm cho địa thế vùng đông bắc vì Hưng Đạo vương là người rất thông thạo vùng này. Mà thực ra, Chiêu Minh vương cũng chỉ mượn cớ để cho tình anh em giữa ông và Trần Quốc Tuấn thêm thân. Những gì cha ông để lại, cả những hiềm khích đều dai đều bền. Giữa hai người đó là tình anh em con chú con bác mà cũng là anh em cùng mẹ khác cha. Ấy thế mà trong nhiều năm hai người nhìn nhau ngượng ngùng. Thiên hạ đa sự thì cho là hai vị huynh trưởng trọng yếu nhất của chi trưởng và chi thứ bị mối hiềm truyền kiếp du vào thế đối nghịch. Thực ra không phải như thế. Mỗi thế hệ trưởng thành phải gánh trên đôi vai mình những trách nhiệm mà trăm họ và đất nước giao cho. Thời cuộc bây giờ đang đòi hỏi họ phải sát cánh với nhau. Đó là khía cạnh dịu đi của mối hiềm xưa. Nhưng cũng có những khía cạnh trầm trọng hơn xưa. Nếu như trước đây là mối oán thù giữa hai người Trần Liễu và Trần Cảnh thì bây giờ người ta đã có thời gian sàng lọc để nhận chân nguyên nhân gây ra không phải là Trần Cảnh mà là Trần Thủ Độ. Gia dĩ Trần Thủ Độ làm như vậy cũng vì lợi ích của toàn họ Trần. Công lao của Trung Vũ vương càng ngày càng rõ rệt có ích cho xã tắc. Có thể nói tình hình hỗn loạn cuối đời Lý đã chấm dứt. Một xã hội mới hình thành dần dần. Trăm họ no đủ, mùa màng trúng liên tiếp, đêm đêm cổng ngõ không phải đóng chốt, của rơi ngoài đường không ai nhặt. Chi Vạn Kiếp chẳng còn lí do gì để trách cứ Trần Cảnh, cũng chẳng còn lí do gì để trách cứ Trung Vũ vương Trần Thủ Độ. Nhưng ở trong lòng những người chi trưởng, người ta lại thấy nảy sinh một mối băn khoăn mới, nhất là những người có đọc sách: Đó là chính kiến “ngôi vua phải nằm trong tay ngành trưởng”. Hiện nay chi thứ Tức Mặc giữ ngôi báu, Trần Quang Khải là người chủ chốt nắm giữ binh quyền, chính quyền. Còn người đại diện cho chi trưởng Vạn Kiếp là Đức ông Hưng Đạo. Cho nên hai người này thân mật hay lạnh nhạt với mức độ nào đó đều được triều thần, hoàng tộc và cả kẻ địch chú ý tới. Trần Quốc Tuấn ngắm đăm đăm Trần Quang Khải: – So với hồi tháng trước chú Ba nom gầy yếu hơn. Nhất là chỗ ấn đường có gân xanh nổi lên. Chú Ba nên bớt rượu đi. Ta nghe tả hữu nói chú Ba uống rượu nhiều lắm đó. Nam vô tửu như kì vô phong. Trai không rượu như cờ thiếu gió. Cổ nhân đã nói như thế. Trần Quang Khải cả cười. Ông không biết trả lời anh như thế nào cả. Thực ra ông vẫn có uống rượu nhưng uống cũng ít thôi, ông có sút người đi là vì ngót một năm nay ông làm việc quá sức. Nào việc triều chính, nào việc quân cơ mật, nào việc duyệt xét bạ tịch các lộ xa xôi ở ven biển và vùng rừng núi tây bắc, nào việc tế lễ của quốc gia và dòng họ... có thể nói việc to việc nhỏ ông đều để mắt đến hết. Không phải Trần Quang Khải không hiểu rằng người làm việc giỏi là người biết xếp việc và chọn người giúp việc sao cho mình vẫn thư nhàn mà mọi việc đều chạy băng băng. Cũng không phải ông không chọn được người tin cẩn hoặc không biết chọn người. Lại càng không phải ông tham quyền cố vị. Việc của triều Trần, việc của quốc gia sơn hà xã tắc do hoàn cảnh lịch sử dun dủi đã rơi trọn vẹn vào tay ông. Lúc bình thì quyền thế danh lợi chen trộn vào nhau nhưng đến khi quốc gia có chuyện tày đình thì người ta mới thấy gánh nặng trĩu trên vai những người có trách nhiệm. Đúng, lúc ấy chỉ trách nhiệm mới nổi rõ lên trên mọi sự. Trần Quang Khải muốn thử xem mình làm việc được đến mức nào và khả năng của ông bao quát được đến đâu? Bây giờ thì ông khẳng định được rằng ông có sức làm việc rất lớn, ông có khả năng bao quát một khối lượng công việc phức tạp, có nhiều mặt, nhiều loại, có tỉ mỉ cụ thể, có việc đòi hỏi một sự tổng định đại cương hết sức trừu tượng mà kết quả của loại công việc này cũng không thể tính đếm cụ thể được nhưng đó cũng là những công việc vô cùng quan trọng mà lịch sử đã minh chứng bằng gương thành bại của biết bao bậc tiền bối. Tuy thế qua lần thử thách này một ý nghĩ đến với ông. Nếu ông có khả năng lớn như thế thì những người khác cũng có. Cần phải huy động được tiềm lực của tất cả mọi người vào sự nghiệp chiến đấu của đất nước. Chỉ cần người cầm quyền nhìn rõ và bạo dạn giao việc. Và thế là một mối lo lắng mơ hồ nảy ra trong ông: Người cầm quyền ấy là ông hay là ông và vài người khác? Trả lời được câu tự hỏi đó không phải là dễ dàng. Ông đã trằn trọc nhiều đêm. Ông đủ tài, đủ sức đảm đương trọng quyền. Ông cũng nhận rằng nhiều người trong anh em cùng họ cũng đủ tài đủ sức như ông hoặc hơn một chút, kém một chút. Ví như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, như Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, Hưng Ninh vương Trần Tung, Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang... Đem so sánh đến cùng, xứng đáng giữ trọng quyền có hai người là ông và đức ông Hưng Đạo. Tài sức ngang nhau, kiến văn quảng bác, đọc thông kim cổ bốn phương, hào khí hiên ngang, trí lực sâu sắc. Đó là hai người có tài nguyên thủ và có đức thu phục được trăm họ. Có thể ông, Chiêu Minh vương trẻ trung hơn, xông xáo sát phạt hơn một chút còn đức ông Hưng Đạo già dặn hơn, điềm đạm quyền biến hơn. Nhưng chỗ hơn kém ấy cũng chỉ chút xíu có thể nói hầu như không đáng kể. Chỉ mới so sánh thầm thôi ông đã băn khoăn, Chiêu Minh vương đã phải triệu phó quan của ông đến vấn kế. Đó là quan đại học sĩ Lê Văn Hưu. Ông này năm xưa đỗ bảng nhãn, đã từng làm việc trong Viện Hàn lâm trong nhiều năm sau đổi sang làm việc của quan chép sử trong Thái viện sử. Khi hoàng tử Quang Khải lớn lên, để trong hoàng cung không tiện, vua cha bèn phong tước vương Chiêu Minh và đưa ra ngoài hoàng cung, mở vương phủ cho ở, cử quan giỏi làm phó để giúp việc trong mạc phủ nhưng kì thực là làm hai việc: một là dạy dỗ ông hoàng tử mới được phong vương thành người có tài đắc dụng với quốc gia và hoàng tộc, hai là giám sát vị vương ấy và chịu trách nhiệm với nhà vua về đức trung quân của người học trò vương giả. Có nghĩa là phải dạy và kèm chặt hoàng tử trẻ, dẫn ông ta đi đúng đường là giữ vững phận thần tử khi vua cha truyền ngôi cho thái tử. Hoàng tử trẻ phải biết trung thành với vị vua mới anh mình, người được vua cha đã chọn để nối ngôi. Nếu ông ta trung thành, ông phó quan sẽ được khen thưởng trọng hậu, nếu ông ta nổi loạn tranh ngôi thì triều đình sẽ phát quân trừng trị cả hai thầy trò. Lê Văn Hưu được cử làm phó quan của đức ông Chiêu Minh cũng với trọng trách như thế. Khi Thánh Tông lên ngôi, Trần Quang Khải được anh trọng vọng. Ông từ những chức trấn thủ nhiều lộ quan trọng như lộ Hồng, Khoái, Hoàng Giang, Thanh Hoá... và mau chóng được giao quyền Tể tướng Thái sư, nắm trong tay cả chính quyền lẫn binh quyền. Trải qua các chức, Trần Quang Khải đi đến đâu cũng mang theo Lê Văn Hưu, ông bảng nhãn này trở thành người tả hữu không thể thiếu được của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Mãi cho đến khi Trần Quang Khải về kinh nhận chức Tể tướng, Lê Văn Hưu mới thôi chức phó quan để nhận quan chức của triều đình. Ông chuyên tâm vào việc chép sử và soạn bộ sử của nước ta từ thời các vua Hùng lập quốc cho tới bây giờ. Tuy vậy, đôi khi gặp việc khó khăn, éo le, trọng đại, đức ông Chiêu Minh thường tìm đến bậc thầy mình để vấn kế. Việc chọn nguyên thủ lần này đúng là một việc trọng đại. Trần Quang Khải mời Lê Văn Hưu đến phủ Thái sư vào một buổi tối, đối ẩm song bôi, đánh với nhau một ván cờ tướng. Lê Văn Hưu không còn lạ gì tính người học trò trẻ của mình, ông cứ uống rượu, cứ đánh cờ thản nhiên và điềm đạm. Đầu canh hai, thình lình Chiêu Minh vương dẹp bàn cờ, giơ tay đuổi tả hữu ra hết và ngồi trân trân suy nghĩ. Lê Văn Hưu cũng không hỏi. Ông quan chép sử thu tay trong lòng và cũng im lặng nhìn người học trò của mình. Ông thừa hiểu người học trò của mình lúc chưa muốn nói thì có cậy răng cũng không nói mà lúc muốn nói rồi thì cũng không gì ngăn cản nổi. Lê Văn Hưu ngồi lặng thinh nhìn Trần Quang Khải. Ông già chép sử biết tỏng cơn phong ba trong lòng người học trò mình. Vốn là kẻ chép sử, quen với việc phải nghiền ngẫm biết bao chuyện cổ kim cân nhắc và đánh giá chúng để chép lấy đôi hàng chữ, Lê Văn Hưu như người sống ngoài thời gian. Việc một nghìn năm trước với ông cũng có khi như việc mới xảy ra và việc hôm nay tưởng như chỉ là việc quá ư xưa cũ. Mọi người, mọi việc trong tâm trí ông như đông cứng lại theo mẫu sử bút cổ: Viết sử là để khuyên can thiên tử, răn đe chư hầu, trấn áp các đại phu. Cho nên giới vương giả quyền quý đối với ông vốn cực kì quen thuộc, họ cũng chỉ là những con người có thể thành hay bại, có thể vinh hay nhục, có thể được sử sách nêu tên bằng chữ vàng chói lọi hay bôi nhọ bằng giấy trắng mực đen. Công việc của ông từ mười năm nay được hoàng đế sủng ái giao cho đã làm cho vô khối công hầu khanh tướng hoảng sợ ngầm. Mỗi bận gặp gỡ ông họ cứ lấm lét thăm dò bằng những lời ngọt ngào mong được ông lộ cho đôi điều về cái đức cái nhân cái trí cái dũng của họ dù chỉ tí chút để họ mừng còn ngược lại nếu ông nghiêm mặt không nói (vì tính Lê Văn Hưu lầm lì) hoặc ông đang bận nghĩ một chuyện gì khác mà không trả lời là họ băn khoăn lo lắng. Trần Quang Khải vốn là người có đức lớn, ông không ham danh vọng, không ham giàu sang mặc dầu ông sống trong khung cảnh giàu sang danh vọng từ tấm bé. Những điều Lê Văn Hưu đã rèn dạy ông từ thơ ấu có điều ông theo, có điều ông không chịu nhưng chỉ duy một chữ “Hành” là ông tâm đắc nhất. Ông không thể có một ngày một khắc ngồi không. Con người không làm việc đối với ông không khác gì thú vật. Lê Văn Hưu thừa hiểu tâm tính đó của Trần Quang Khải. Vậy thì học trò của ông có băn khoăn thì chỉ vì công việc mà là những việc quân quốc trọng sự. Chả phải suy nghĩ sâu xa ông cũng đoán ra đó là việc gì. Và ông cứ ngồi nhìn... Trần Quang Khải đột nhiên hỏi: – Lão ân sư, nhà Nguyên có dị chí, ai là người đảm đương được trách nhiệm cự địch? Đúng rồi, ông đoán đúng rồi, học trò của ông băn khoăn về vị thế của nguyên thủ trọng thần. Lê Văn Hưu điềm đạm mỉm cười hỏi lại: – Hay lắm, vương gia hỏi câu ấy cho ai vậy đó? Câu hỏi của Lê Văn Hưu làm cho Trần Quang Khải sửng sốt. Chiêu Minh vương nhíu cặp mày lưỡi mác suy nghĩ trầm ngâm. Như thế là Lê Văn Hưu có thể có nhiều cách trả lời khác nhau tuỳ theo phía người cầu nghe. – Xin lão ân sư nói rõ thêm. – Được lắm, tôi là người được vương gia coi như sư phó, tình thân, tâm phúc, tri ngộ đã lâu dài. Đây này, vương điệt nhi, ta nói rõ ý ta. Việc chọn người có thể vì hoàng gia, có thể vì hoàng thượng, có thể vì ngành trưởng hay ngành thứ và cũng có thể vì giang sơn trăm họ. Vương điệt nhi chỉ cần nghĩ một tí thôi là cũng thấy câu trả lời nên như thế nào. Trần Quang Khải suy nghĩ rất lung. Câu nói của Lê Văn Hưu rõ ràng giúp cho ông xếp sắp lại bao mối lo âu lộn xộn trong đầu. Chợt Lê Văn Hưu lại tiếp: – Nên trả lời như thế nào ư? Đâu chỉ nên dừng lại ở đó mà nên vì ai để lựa chọn cách nên theo. Như thế lại càng rõ, mặc dù sự thật quả có tàn nhẫn, Trần Quang Khải hiểu rằng thầy mình đã khéo vạch ra chỗ khiếm khuyết trong cách suy nghĩ của ông. Lê Văn Hưu lại cười, ông già đã từng danh đứng tam khôi thừa hiểu ý nghĩ của Trần Quang Khải. Nhìn học trò, Lê Văn Hưu mừng thầm và thấy lúc này thiện lương đang đột khởi thì dấn luôn tí nữa cũng hay. –Vương gia nên nhớ cổ nhân đã có câu: “Tự tri giả anh, tự thắng giả hùng”. Biết được mình là anh, thắng được mình là hùng. Bậc anh hùng chỉ có vậy đó thôi. Trong việc chọn nguyên thủ trọng thần lần này, người quyết là vương gia. Chẳng những cần người có tài mà cái chính là phải quy tụ được hoàng gia, chư tướng, anh hùng nghĩa sĩ và trăm họ. Lê Văn Hưu chỉ nói có vậy nhưng dư thừa sức thuyết phục với Trần Quang Khải và Chiêu Minh vương quả quyết vào cung bàn riêng với Thượng hoàng Thánh Tông một buổi tối. Sau đó người ta thấy có chiếu chỉ triệu đức ông Hưng Đạo tiến kinh bàn việc quân quốc trọng sự. Hưng Đạo vương không bao giờ ngờ tới việc tiến kinh của ông nảy ra từ bữa rượu giữa thầy trò ông già chép sử. Ông lên kinh và mơ hồ nhận thấy đức ông Chiêu Minh hết sức chăm chút ông một cách kín đáo. Trong sự chăm chút đó, đức ông Chiêu Minh còn tỏ ra kính trọng và tin cẩn Hưng Đạo vương bội phần. Từ việc to việc nhỏ, Chiêu Minh vương đều khéo léo hỏi ý ông, lắng nghe và thân mật bàn bạc. Ngay việc tìm hiểu địa thế vùng đông bắc này chả hạn, tuy nó là việc quan trọng đó nhưng đâu đã phải đến hai đức ông lo lắng nhiều. Nó chỉ là một trong những cái cớ để hai người mỗi lúc mỗi thân thiết gần gũi nhau thêm, và mỗi lúc mỗi quen có nhau. Trên bờ sông Cà Lồ hôm đó cuộc săn thật mĩ mãn. Người ta bắt được hơn mười đôi sơn dương trong đó có ba đôi mới được ba năm tuổi, đúng vào thời sinh sản thuận lợi. Trần Quang Khải sai đóng cũi bầy dê. Đàn dê được đưa qua Thăng Long một cách ồn ào và lộ liễu, chúng được thuyền quân chở thẳng xuống phía nam để thả vào những cánh rừng đại ngàn giáp ranh hai châu Hoan, Ái. Nhưng rất ít người lưu ý và cũng ít người được biết có cuộc gặp gỡ giữa hai đức ông. Chương 5 Theo tập tục của dân ta, người ta coi anh em đồng nhũ như một đôi bạn chung thân gắn bó với nhau vì đã lớn lên và được nuôi nấng bằng cùng một dòng sữa mẹ. Trần Nhật Duật và Hoàng Mãnh lại còn là anh em đồng tuế: anh em cùng tuổi là một cặp mà hình như thiên nhiên đã ràng buộc họ, khiến họ phải luôn luôn sống bên nhau, cùng sống cùng chết, cùng vinh cùng nhục, cùng sướng cùng khổ với nhau. Xưa kia, khi cả hai người còn niên thiếu, họ được nuôi chung với nhau trong một cung riêng. Họ cùng được ăn một mâm, nằm trên cùng một chiếc giường, chung một lá màn che muỗi. Tuy vậy thể chất hai người vẫn khác nhau rất nhiều. Trần Nhật Duật thuộc dòng giống một họ mà ngay khi chưa cướp được ngai vàng đã giàu có bề thế. Thế mà tính từ khi họ đã cướp được ngai vàng cho tới giờ cũng đã ba đời. Cho nên ông, hoàng tử Chiêu Văn, là một cậu bé quý tộc đã lọc giống, duyên dáng, thanh tú, lịch sự từ cách ăn mặc, cách nói năng, cách chơi bời cho chí thể chất hình hài. Cổ tay ông thon nhỏ, những ngón tay tháp bút, một mái tóc tơ đen láng. Trần Nhật Duật đẹp một vẻ thư sinh mặc dù theo lề thói tộc họ, người ta đã buộc hoàng tử Chiêu Văn luyện tập võ nghệ thật giỏi ngay từ khi còn nhỏ. Hoàng Mãnh cũng được nuôi trong gấm vóc cung đình từ năm lên một nhưng anh vẫn giữ cái thô mạnh hoang sơ của thôn dã, cái bình dị của suối sông, cái cao rậm của rừng núi. Hai con người khác nhau như nước với lửa ấy đã quấn quýt lấy nhau từ thuở nhỏ rất thắm thiết. Hình như thiên nhiên đã tạo ra hai thế đối lập đó để cho chúng hài hoà vẻ đẹp của trời đất. Hoàng Mãnh là một đứa trẻ hiếu động, nghịch ngợm. Trong lúc chơi đùa, nó được người ta dạy là phải nhường hoàng tử Chiêu Văn, nó cũng làm theo trừ khi có cái gì làm cho nó quá say mê đến quên cả thân phận. Trong những lúc hiếm hoi đó, nếu là một thứ đồ chơi thì Hoàng Mãnh cướp nghiến còn nếu là một chuyện cãi cọ thì Hoàng Mãnh cũng đoạt lời bằng được. Năm Trần Nhật Duật mười lăm tuổi, người ta xây phủ đệ Chiêu Văn bên ngoài hoàng thành. Người ta đưa cả hai cậu bé ra ở ngoài đó, triều đình cử hai quan Hàn lâm dạy Trần Nhật Duật và Hoàng Mãnh học kinh sử. Những lúc máu Đông A bốc lên, Trần Nhật Duật hay rủ người em khác mẹ là Bảo Uy vương Trần Duy đi chơi ngoài phố, hễ thấy đám vật, đám võ nào cũng sà vào thử chơi vài keo. Có bận đến nỗi xảy ra gây gổ đánh lộn với thiếu niên phường phố. Những bận ấy, chính Hoàng Mãnh là đứa đứng ra đánh mở đường cho hai tiểu vương tháo chạy. Có bận đã bị no đòn mà lúc về phủ Hoàng Mãnh còn bị quan Hàn lâm quở trách là con nhà bách tính kém lễ. Hoàng Mãnh phải cắn răng chịu nỗi bất công, nhục mạ đó để giấu tội cho Chiêu Văn vương rồi sau đó mới lựa lời khuyên nhủ người anh em học hành cho tử tế, tu thân trui rèn bản lĩnh sao cho sau này đủ vững vàng bước vào đời... Thực ra Trần Nhật Duật tuy ham chơi nhưng việc luyện võ học văn vẫn tấn tới. Đúng là một con người thông minh bẩm sinh, chẳng những lầu thông kinh sử, đọc khắp bách gia chư tử, đọc rất kĩ những bộ sách của các tác gia triều Lý, tay ghi miệng đọc mà hễ còn hoài nghi điều gì thì dù canh đã khuya vẫn không chịu tắt đèn đi ngủ. Ông lại có biệt tài về học tiếng nước ngoài, tiếng Man Lão nữa. Thời gian trôi qua, Chiêu Văn vương đã hai lần được cử giữ chức trấn thủ những lộ đất rộng dân đông như Thanh Hoá, Đà Giang, ở nơi nào ông cũng làm tốt mọi việc quân dân. Ông đi đâu, Hoàng Mãnh cũng đi theo. Triều đình đã chọn anh chính là để anh chia sẻ mọi ngọt bùi với Chiêu Văn vương. Bữa nay, ngồi một mình trong thư phòng, Trần Nhật Duật nghĩ về người em đồng nhũ của mình. Xưa nay chưa hề xa nhau lâu, Trần Nhật Duật không có dịp để hiểu mức độ keo sơn trong tình anh em ấy. Đã sắp đến ngày hội thề, Trần Nhật Duật mong muốn đến ngày ấy, em mình đã có một chút công danh sự nghiệp trong triều đình. Ông cũng biết Hoàng Mãnh không quan tâm một chút nào nhưng từ đáy lòng, ông vẫn thấy mình phải thực hiện được điều tâm nguyện kể trên. Và phải nhận rằng mỗi khi nhớ đến chen vào đó vẫn có đôi chút bâng khuâng trước sự chia li cần thiết. Trần Nhật Duật đã ra lệnh may sắm quần áo tiến triều cho Hoàng Mãnh: áo chiến vóc hồng, hia nỉ đen. Ông lại dành cho người em một thanh kiếm tốt trong bộ sưu tập binh khí rất quý của ông. Trần Nhật Duật đã đến Môn hạ sảnh để đốc viên lệnh thư gia thảo chiếu cho kịp ngày. Ông đã sai người đi đón mẹ Hoàng Mãnh về kinh để kịp dự tiệc mừng con bà nhậm chức vụ của triều đình. Trần Nhật Duật vốn là người sống với hiện tại và tương lai, chỉ những dịp ít ỏi này, ông mới trở về với những chuyện đã qua. Những chuyện ấy thường dính líu tới một trong ba người. Người thứ nhất là Hoàng Mãnh. Người thứ hai là mẹ Hoàng Mãnh. Bà họ Trương, vốn là người Thanh Hoá, lấy chồng họ Đỗ quê ở làng Xuân Lôi huyện Đông Ngàn. Ông Đỗ làm chức Bạ đầu, coi việc giấy tờ ở một vệ quân đi thú châu Ô. Khi Trần Nhật Duật được tiến tước vương, bà Trương cũng được triều đình ban cho tước tòng tứ phẩm nghi nhân. Ông Đỗ nhờ vợ cũng đâm ra sang, từ chức Bạ đầu, ông được phong chức Đại tư xã ở ngay quê nhà. Chính cũng vì bà nhũ mẫu quê Thanh Hoá mà Trần Nhật Duật đã hạnh ngộ một người... Năm ông mười tám tuổi, Trần Nhật Duật được cử đi tuần thú châu Ái. Ông mang nhũ mẫu đi theo để đưa bà về quê thăm nơi chôn rau cắt rốn. Nơi ấy là một làng nhỏ xanh rờn bóng dừa nằm kề biển Đông mênh mông. Anh trai bà Trương làm chức câu đương trong hương coi việc sổ sách bạ tịch. Ông ta có một cô con gái út. Cô gái ấy không có vẻ e lệ của tiểu thư khuê các, không có vẻ đài đệ của loại con chúa con vua, không có cái dáng mảnh mai lả lướt yếu mềm của dòng quý tộc. Nước da cô hồng hào căng nhựa sống, đôi mắt của cô láng ướt tình tứ, một nốt ruồi ngộ nghĩnh ở khoé miệng và cách nói năng của cô rất mộc mạc giản dị và chân thành, người con gái ấy tràn trề vẻ đẹp trẻ trung khoẻ mạnh của đồng ruộng bình dị, bình dị ngay từ cái tên bình dị đi: cô Mơ. Mơ hầu như ngược hẳn với con người Trần Nhật Duật và thật ra chính ông đang thiếu một cái gì ngược hẳn với ông như thế. Một duyên, hai nợ, ba tình..... Cuộc hạnh ngộ này có cả ba cách đó. Ai cho phép một thân vương lấy một người con gái bách tính lê dân làm vợ. Nhất là họ Trần đã có một lời nguyền độc địa: Trai họ Trần chỉ được lấy gái họ Trần. Đừng ngu xuẩn như họ Lý mà để cho ngai vàng lọt sang tay họ khác. Trần Ích Tắc biết mối tình éo le ấy đã xui em: nạp Mơ làm thiếp! Không được ! Đã vui duyên phận thì phải đứng ngôi chính phi chứ nạp thiếp thì chẳng những xúc phạm đến tâm hồn phong nhã của Trần Nhật Duật mà còn làm vẩn đục đến cái duyên nợ thiêng liêng của mối tình đầu. Cho nên cái việc ấy đành cứ treo lại và bây giờ Trần Nhật Duật chưa lập chính phi mà người con gái vùng biển kia cũng chưa thành gia thất. Không một người con trai làng nào dám dạm hỏi cô Mơ cả. Người ta sợ oai sợ vía một đức ông và người ta sợ cả cái phận trời huyền bí của một người đàn bà cao số. Cho đến bây giờ, Trần Nhật Duật vẫn còn gìn giữ một kỉ vật của Mơ. Kỉ vật ấy là một bộ xà tích bằng bạc chạm trổ rất thô. Trần Nhật Duật cầm bộ xà tích ấy trong tay, mắt mơ màng nhìn vào khoảng không vô định. Ông chợt thương chợt nhớ người con gái năm xưa. Ông còn bộ xà tích này làm kỉ vật chứ nàng Mơ chẳng có tí gì để mà ngắm mà tìm về với bến vắng người xưa... Trần Nhật Duật đằm trong mớ hồi niệm miên man không biết bao nhiêu lâu nữa rồi bất chợt ông cảm thấy trong thư phòng có người lạ. Trần Nhật Duật nắm gọn bộ xà tích để giấu nó đi rồi trừng mắt nhìn: Hoàng Mãnh khoanh tay đứng bên cửa từ lúc nào không rõ nữa. Trần Nhật Duật gượng cười: – Nhà ngươi đến đã lâu chưa? – Thưa đức ông, tiểu tướng đến đã lâu rồi ạ. Hoàng Mãnh trả lời rất cung kính nhưng trả lời xong thì anh ta lại toét miệng ra cười. Trần Nhật Duật lườm Hoàng Mãnh một cái tưởng đổ đình rồi bảo: – Quần áo tiến triều của nhà ngươi đã may xong rồi đấy. Thật là cờ kiếm vào tay rồi lại “rượu cần ai uống cho say, cuối mắt đầu mày kiệu võng sánh đôi”. Hoàng Mãnh cả cười, một vẻ ta đây thoáng hiện ra trong cái cười đó: – Thưa đức ông, việc nước vua giao thì phải nhận chứ còn việc vợ con thì... – Thì sao? – Thưa đức ông điện hạ, đã làm trai thì phải bốn biển tung hoành, sông hồ rừng núi là nhà, hễ vợ con vào chỉ tổ vướng víu cuộc đời thanh gươm yên ngựa giang hồ đó thôi. Trần Nhật Duật cười chế giễu: – Nhà ngươi nói du dương như thơ mã thượng. Có thể đem miệng lưỡi so sánh với miệng lưỡi của ông Tô Nghĩa Đông khi ông ta lem lém bàn về thơ sơn thuỷ kia đấy. Nghe Trần Nhật Duật ví mình với phái thơ sơn thuỷ và phái thơ mã thượng mà Tô Nghĩa Đông vác tự bên Tàu sang huênh hoang, Hoàng Mãnh ức quá nhưng anh ta sợ Chiêu Văn vương nên không dám cãi lại. Tô Nghĩa Đông là một văn thần nhà Tống lúc mạt triều. Khi nhà Tống bị quân Mông Cổ tiến quân tiêu diệt, Tô Nghĩa Đông lúc ấy giữ chức thị lang đã ra hàng quân Mông Cổ để cầu sống cũng như nhiều văn thần võ tướng khác của nhà Tống. Nào ngờ tướng Mông Cổ A Ta Khai rất ghét những thằng hèn nhát, phản chủ nên định đem Tô Nghĩa Đông đóng cọc nêu bêu ở chợ Dương Châu. Hình phạt đóng cọc nêu thường chỉ áp dụng để trừng trị bọn đạo tặc ở các nước dưới quyền thống trị của Mông Cổ. Đao phủ dùng một cây gỗ bằng bắp đùi dài và thẳng, thường là làm bằng gỗ liễu, một đầu đẽo nhọn. Chúng vật ngửa người bị hình phạt ra đất, trói thẳng dăng ra, dùng bò kéo để tống cái đầu cọc nhọn vào hậu môn kẻ bị tội rồi dựng đứng lên thành cây nêu ở những chỗ đông người như chợ búa phố phường để ra oai. Có những cọc nêu cao lắm. Người ta đi xa mấy chục dặm còn nhìn thấy xác người bêu co quắp trên ngọn cột nom như con khỉ ngủ. Tô Nghĩa Đông biết mình sắp bị hành tội, y liều mạng bỏ trốn. May mắn làm sao y trốn thoát khỏi ngục, chui vào được đoàn thuyền buôn từ bán đảo Lôi Châu ra đảo Quỳnh Châu. Từ Quỳnh Châu, y theo thuyền đánh cá lọt vào được vào Vân Đồn, cửa khẩu rất lớn ở biển Đông nước ta. Y vào trình quan ta trấn thủ Vân Đồn, xưng là vong thần nhà Tống. Bấy giờ các quan ta trấn thủ các quan ải biên thuỳ đã được lệnh cứu giúp kín đáo các vong thần nhà Tống. Vì thế quan trấn thủ Vân Đồn tiếp đón Tô Nghĩa Đông rất trọng vọng, mở tiệc áp kinh thết đãi cho y bớt sợ, tặng vàng bạc, tặng quần áo cho y mặc xênh xang rồi cấp thuyền, cấp ngựa đưa Tô Nghĩa Đông về Thăng Long. Tô Nghĩa Đông là kẻ có ngòi bút rất hoạt. Thoạt đầu khoác cái vỏ vong thần nhà Tống, đi đến đâu Tô Nghĩa Đông cũng múa bút làm thơ. Những bài thơ mã thượng của y đọc lên nghe như chuông, hơi thơ hào sảng có tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Các vương hầu kinh thành đua nhau mời Tô Nghĩa Đông đến dự tiệc hoặc dự các buổi bàn luận văn chương, các buổi bình thơ. Y trở thành một nhân vật huyền thoại như trong các thiên anh hùng ca thời cổ. Thơ y được truyền tụng, người ta chép cho nhau nào tuyển tập nào toàn tập Tô thi. Người ta kể truyền miệng cho nhau những chiến công của văn tướng Tô Nghĩa Đông ở hồ Phiên Dương, ở cửa quan Hàm Cốc, ở Kinh Châu, ở Giang Lăng, ở Điền Đông, ở Dương Châu, ở Quế Bắc... Những chiến công thần kì của Tô Nghĩa Đông mà, ôi kì lạ, chính y cũng chưa hề biết. Nhưng y cứ im lặng nhận tất. Mãi sau vong thần nhà Tống đào tẩu sang ta nhiều, nào Trần Trọng Vi, nào Tăng Uyên Tử, nào Mã Vượng, Tô Cảnh Do, nào Triệu Trung... Đột nhiên người ta thấy biến mặt Tô Nghĩa Đông một thời gian khá dài ở các đám tiệc tùng kinh thành. Rồi lại thấy y xuất hiện, lần này với điệu thơ cao đạo thoát tục toàn vịnh mây gió, trăng sao, sương mù, lừa ngựa. Nhiều người không cắt nghĩa nổi sự thoắt biến thoắt hiện của Tô Nghĩa Đông. Chỉ biết Triệu Trung thì không bao giờ chịu dự một bữa tiệc hoặc một cuộc luận bàn văn chương hay binh pháp nào có Tô Nghĩa Đông. Triệu Trung chính là viên tướng đã quần nhau với dũng tướng Thát Đát Ô Mã Nhi suốt một mùa đông tuyết lạnh lùng chung quanh cái biển hồ Phiên Dương và hiện nay là chỗ đi lại thân thiết với Hoàng Mãnh. Triệu Trung là người ít nói, cả ngày có khi không thốt một câu nên cũng chưa lộ chuyện gì với Hoàng Mãnh nhưng anh chàng tinh quái này cũng đã đoán ra uẩn khúc trong các mối rối như tơ vò đó. Thành thử bị ví với cái nhà anh Tô Nghĩa Đông, Hoàng Mãnh ức lắm. Mặt Hoàng Mãnh lầm lầm, tái đi rồi lại đỏ bừng lên, rồi lại tái đi. Anh cố gắng thưa bằng một giọng kính cẩn lạnh lẽo: – Kính thưa đức ông điện hạ, kẻ hèn mọn này vốn dòng ti tiện, đâu dám sánh với quan thị lang họ Tô. Trần Nhật Duật đâm ra thương Hoàng Mãnh, ông làm lành: – Nói chơi thế thôi. Em với ta cùng uống chung một bầu sữa mẹ. Em nghĩ thế nào thì cứ nói thẳng ra để ta khỏi bận lòng. Ta muốn em yên bề gia thất cho mẹ được vui lúc tuổi già. Em biết đấy, đích mẫu của ta là đức thái hoàng Thái hậu Hiển Từ vốn là người khoảnh nết không hay gần gụi các con. Sinh mẫu của ta là đức Thái hoàng thái phi lại là người thể chất yếu đuối, ốm đau quanh năm có trông nom chăm sóc gì được cho ta đâu. Chính mẹ của em mới vừa là nhũ mẫu vừa là dưỡng mẫu của ta. Mẹ cho ta bú, mẹ ủ ấm cho ta, mẹ che chở ta lúc ta còn nhỏ nhoi, mẹ chăm ta lúc ta ươn người hờn quấy. Ơn cúc dục của mẹ dẫu ta đền đáp đến bao nhiêu chăng nữa cũng không xứng. Trần Nhật Duật ngừng nói. Không khí thư phòng trầm hẳn xuống. Biết bao kỉ niệm hồi thơ trẻ trở về trong tâm trí dũng sĩ Hoàng Mãnh. Cái thuở chưa biết phân biệt tôn ti trật tự, bé Hoàng Mãnh thường bắt nạt bé Duật, nào cướp bánh trái, cướp đồ chơi, cướp quần áo, nào có bận còn đấm đá anh. Bà Trương bênh Trần Nhật Duật, bà đét cho bé Mãnh những trận rất đau. Mẹ đánh rồi mẹ lại thương Mãnh. Mẹ tắm cho Mãnh, mẹ ru Mãnh ngủ, âu yếm rung rinh Mãnh trong đôi tay ấm áp làm cho trí óc thơ ngây của Mãnh không sao hiểu nổi tính nết thất thường kì lạ đó. Rồi đến những năm tháng trai trẻ trưởng thành ở các trấn, Hoàng Mãnh càng ngày càng tài giỏi, càng khôi ngô, đẹp hùng tráng như một thần tướng nhà trời, mắt long lanh sáng như mắt quỷ, gờ mũi, đường viền quai hàm như đá tạc, một vành râu rậm đen lánh chạy từ mang tai bên này sang mang tai bên kia. Hoàng Mãnh đã làm thổn thức biết bao tấc lòng của các công nương ở các lộ anh theo Chiêu Văn vương đến trấn nhậm. Nhưng Chiêu Văn vương chưa nạp chính phi nên Hoàng Mãnh cũng dẹp chuyện vợ con sang một bên. Việc nàng Hai đang dày vò lòng anh. Bây giờ bỏ đi hỏi vợ trên lộ Đà Giang, Hoàng Mãnh cảm thấy như mình làm điều chi bạc nghĩa với Chiêu Văn vương. Ngay việc anh tiến triều nhận chức tướng quân Trấn điện, Mãnh cũng cho là nó na ná như một việc bỏ đi mà thôi. Hoàng Mãnh tự hào rằng không một ai hiểu nổi những khúc mắc sâu kín nhất trong lòng Trần Nhật Duật, cũng như không một ai có thể hộ vệ Chiêu Văn vương chu đáo bằng anh. Cũng có lúc trong cuộc đời phải có chia li; thật là một điều dĩ nhiên nhưng phi lí biết bao. Bây giờ nữa, nếu Hoàng Mãnh rời Thăng Long, ai sẽ là người an ủi đức ông Chiêu Văn trong những giờ khắc cô đơn làm man mác thêm nỗi buồn sẵn có. – Mẹ đã lên! - Hoàng Mãnh cúi đầu nói nhỏ. Hoàng Mãnh mừng rỡ, Trần Nhật Duật càng mừng rỡ hơn, ông đứng bật dậy: – Sao bây giờ mới nói? Mẹ ở đâu? – Mẹ ở ngoài tiền sảnh chờ anh cho vào. – Ô hay, cả khu phủ đệ này mẹ muốn vào chỗ nào không được. Thôi, ta ra tiền sảnh đón mẹ vậy. Trần Nhật Duật đi mau ra khỏi thư phòng. Ra đến cửa, ông chợt nhớ ra cái vật còn cầm trong tay. Ông liếc vội Hoàng Mãnh và giấu vật đó vào trong bọc. Hoàng Mãnh thoáng mỉm cười rồi lờ đi làm như không trông thấy gì hết. Trần Nhật Duật thấy bà nhũ mẫu họ Trương đỏ da thắm thịt hơn hồi bà ở trong cung nhưng vẻ mặt hơi tư lự. Trần Nhật Duật đoán rằng bà Trương chê nàng Hai là người Man Lão. Ông định bụng sẽ nói khéo cho Hoàng Mãnh và nàng Hai bởi vì thực ra cũng chẳng có đám nào hơn thế. Ông mời bà nhũ mẫu vào hậu đường để cho cuộc gặp mặt thêm ấm cúng gia đình. Bà Trương đã trên sáu mươi tuổi nhưng vẫn còn tráng kiện lắm. Bà có một chiếc gậy lụi hun đen cầm trong tay nhưng chỉ là để cho đẹp lão, đó chính là làm dáng chứ không phải để chống cho gân cốt của tuổi già. Bà Trương đem theo một người đàn bà. Người này ôm khư khư trong lòng một chiếc đãy vải cứ như sợ mất cắp. Bà Trương thấy vậy bật cười bảo: – Bà đưa cho tôi cái đãy. Bà Trương cầm cái đãy, cởi cái lạt buộc miệng đãy ra, bà nói xởi lởi: – Thím Tư em dâu ông Đỗ đó. Cô ấy ao ước được lên kinh chơi một lần dối già nhưng tôi đưa cô ấy vào đây thì cô ấy lại sợ quá. Tôi đã bảo là đức ông rộng lượng lắm nhưng cô ấy vẫn chín vía còn ba. Trần Nhật Duật nhìn người đàn bà quê mùa mộc mạc mặc bộ quần áo may đã lâu, chắc chắn là thế nhưng chỉ mới xỏ tay đôi lần hiếm hoi trong đời người. Ông bảo bà ta: – Thôi cho phép bà lui. Người đàn bà vái lia vái lịa và theo người thị nữ đi về phía dãy nhà dành cho những người hầu gái. Bà Trương mỉm cười theo và khi người em dâu đi khuất mới ngoảnh lại lấy các vật trong chiếc đãy vải bày lên mặt sập: – Đây là quà quê, anh chị lòng thành mang ra. Bà Trương vẫn giữ lối xưng hô chị dưỡng - cậu hoàng với Trần Nhật Duật trong những lúc vắng vẻ thân tình như thế này. Chính Trần Nhật Duật cũng thích như vậy. – Sâu dâu để ngâm rượu này. Mật ong hoa trám này. Anh bảo thứ mật hoa trám này để người uống rượu nhiều dùng thì tốt lắm đấy. Trần Nhật Duật bật cười: – Vừa có thứ để ngâm rượu uống thích miệng vừa có thứ dùng cho giã rượu và hạ hoả. Quà của chị dưỡng sao mà khéo thế. Bà Trương hờn mát: – Chị ở chốn quê mùa làm sao mà có được quà quý. Vì thế cho nên cứ bảo tại sao chị chả dám lên kinh. Biết tính bà Trương, khi nào bà còn mở miệng là bà vẫn vui, Trần Nhật Duật đùa: – Lần này chị dưỡng không muốn lên kinh cũng phải lên. Bà Trương nghiêm ngay nét mặt lại. Bà nói giọng bồi hồi: – Cậu hoàng cho gọi chị lên kinh chắc vì việc thằng cả phải không? Thế việc đã đến đâu rồi? – Việc cũng mới bày ra nhưng em chắc phải xong. Chị cho em thay mặt họ nhà giai lo liệu việc này nhé. Bà Trương lo lắng: – Thì nó là em cậu hoàng. Chị chỉ lo họ người ta là thế gia phiên trấn... Trần Nhật Duật sửng sốt kiêu hãnh: – Em lại cứ tưởng chị lo chuyện gì kia chứ. Người nhà ta uy danh lừng lẫy ở bất kì đất nào trên nước Việt ta. Bà Trương ngắt lời. – Không phải chị so đo chuyện đó đâu. Ở cửa cậu hoàng, em nó là khách khanh đứng đầu hàng trăm tân khách, gia tướng, gia nô. Nó kém gì các bậc công hầu. Trần Nhật Duật bật cười vì ít khi ông nghe thấy bà Trương dùng lời lẽ kiểu cách chữ nghĩa hệt như một quan viên hàn lâm đến thế. Cái đó chứng tỏ bà Trương đã đem chuyện riêng hỏi ý những bậc túc nho rồi lời lẽ của họ nhập tâm bà. – Thế chị dưỡng ngại chuyện gì? – Ôi dào, nhà người ta tù trưởng cầm đầu một lộ. Lấy con cái nhà người ta thì phải ở rể trên ấy. Tôi sợ là tôi sợ chuyện ấy thôi. Trần Nhật Duật hỏi vặn bà Trương: – Thế thì mười mấy năm nay mỗi năm thằng Mãnh cũng chỉ về thăm chị được có mấy ngày thôi chứ gì. Có phải gửi rể châu Mai thì nó cũng mỗi năm về thăm cha mẹ đôi lần cơ mà. Có khác gì trước đâu nào? Bà Trương đột nhiên nói to lên, thật to: – Có khác, mà khác nhiều cơ. Khác là trước kia nó hầu hạ cậu hoàng quanh năm, bây giờ thì nó đi vui thú chỗ khác một mình nó. Trần Nhật Duật và bà Trương cùng im lặng. Trần Nhật Duật xúc động về tình nghĩa của mẹ con bà Trương đối với mình. Hoàng Mãnh đã chẳng gạt bỏ bao nhiêu mối lương duyên chỉ vì anh ta không muốn xa người anh em đồng nhũ đấy ư? Bây giờ bà Trương cũng vậy. Bà cũng không muốn Hoàng Mãnh xa Trần Nhật Duật. Vậy mà người mẹ nào chả mong mỏi con trai của mình sớm thành gia thất, để rồi sớm có cháu đích tôn nối dõi tông đường. Nhưng không phải bà Trương chỉ e ngại về mặt tình nghĩa mà thôi đâu. Có một mối lo lắng mơ hồ mà bà chưa từng suy nghĩ tìm hiểu nhưng sự mẫn cảm của một bà mẹ đã hướng bà về điều đó. Sức mạnh kín đáo và huyền bí của sự mẫn cảm ấy đã làm cho bà Trương lo lắng cho sự lẻ loi của Trần Nhật Duật. Xưa nay Chiêu Văn vương đã đảm nhiệm nhiều trọng trách của triều đình kể cả việc quân việc nước. Nào là chức trấn thủ những lộ quan trọng như lộ Thanh Hoá, lộ Đà Giang, nào là đem quân giữ yên bờ cõi, giữ yên từng vùng có kẻ phản loạn, nào là thay mặt triều đình làm giám sát các khoa thi Thái học sinh... Việc nào ông cũng làm tròn một cách xuất sắc. Tất nhiên sau một công lao xuất sắc ông lại được Quan gia trao những chức vụ trọng yếu hơn để rồi lại khen thưởng khi ông làm tròn một cách xuất sắc hơn nữa. Nhưng bấy nhiêu công việc, Trần Nhật Duật đều làm trong trường hợp có tả hữu giúp đỡ, nói cho đúng hơn là có người tâm phúc ở bên mà người tâm phúc ấy chính là Hoàng Mãnh. Bà Trương cảm thấy hình như phải có sự cặp đôi ấy, của hai tâm hồn, hai khối óc ấy để chúng bù trì cho nhau. Bà Trương mơ hồ cảm thấy những người thuộc dòng hoàng tộc như Trần Nhật Duật quen sống trong điều kiện có tả hữu đông đúc vây quanh, không quen chen vai thích cánh để mở lấy một hướng đi, không quen hay nói cho đúng hơn chưa được tôi luyện để một mình quả quyết và xông xáo vượt băng mọi ách tắc chướng ngại gay cấn trên đường đời. Bà lo cho Trần Nhật Duật chứ bà không lo cho Hoàng Mãnh trong cuộc chia lẻ này. Bà nói nhỏ: – Giá cậu hoàng cũng lập vương phi mà thằng cả nó cũng lấy vợ quanh đây thì chị cũng yên lòng hơn. Trần Nhật Duật vốn bắt gặp rất nhạy những uẩn khúc sâu kín trong đáy lòng những người ông gần gũi quen thuộc. Ông an ủi bà Trương: – Trước hay sau thì cũng phải lấy vợ cả thôi mà em Mãnh thì khó mà kiếm được một đám nào hơn đám này. Chị dưỡng cứ ừ đi một tiếng để em vui vẻ mà lo việc cho nó. Bà Trương cười, thoạt đầu nụ cười còn hơi gượng gạo rồi dần dần cũng tự nhiên. Trần Nhật Duật kể để bà Trương nghe qua những lễ vật sẽ đưa nhà gái hôm vấn danh. Ngoài cau, rượu, chè, trâu, lợn; Trần Nhật Duật còn cho dẫn cưới mười tấm đoạn đại hồng, mười hai đôi xuyến vàng, một bộ trâm, lược đồi mồi, một đôi hài thêu vóc tía. Chắc chắn theo phong tục châu Mai, nhà gái sẽ thách dẫn thêm hai mươi bốn bộ chăn gối bằng thổ cẩm, một trăm quan tiền. Tiền để phân phát cho bọn trẻ con trong vùng còn hai mươi bộ chăn gối để chia cho những người con gái họ Trịnh đã đi lấy chồng họ ngoài. Trần Nhật Duật đã sai gia nô đặt thợ thêu ở phường Tàng Kiếm dùng chỉ bạc cải những ô chữ Song Hỉ lên mặt chăn mặt gối. Những lễ vật này đúng là đồ dẫn cưới của nhà quyền quý! Hoàng Mãnh chẳng muốn lễ vật sang trọng thế. Anh muốn hôn lễ cử hành vui vẻ, thắm thiết, tưng bừng nhưng không vượt khỏi vị thế của những người dân thường trong làng quê của anh. Trần Nhật Duật can em, ông bảo hôn lễ này không phải riêng của cô dâu chú rể và hai họ, hôn lễ này còn biểu hiện sự gắn bó của triều đình với phiên trấn miền núi nữa. Chẳng những thế, Trần Nhật Duật cũng dè chừng miệng tiếng người đời chê ông nhẹ tình, không rộng rãi với người em đồng nhũ. Cái gương anh em đồng nhũ giữa thái tử Sảm nhà Lý với Đoàn Thượng cho đến bây giờ vẫn được người ta nhắc đến, kể cả những người trong họ Trần là những kẻ tử thù với họ. Trần Nhật Duật kiên quyết làm hôn lễ cho em theo ý mình. Hoàng Mãnh đành nghe lời anh nhưng Hoàng Mãnh dứt khoát đòi bỏ tiền riêng chi hết các khoản hôn lễ của mình. Anh nói: – Thưa đức ông điện hạ, đức ông ban thứ gì em cũng quý nhưng những khoản này phải để em chi kẻo người ta lại bảo thế nọ thế kia. Chỉ xin đến lúc cướp dâu, đức ông đi cho có một tay kiếm sắc. Bà Trương nghe con nói khảng khái cũng ưng ý nhưng bà sửng sốt ngẩn người ra mà hỏi: – Cướp dâu à? Thế là thế nào? Trần Nhật Duật cười và giảng giải cho bà nhũ mẫu hiểu tục cướp dâu ở châu Mai làm cho bà tái mặt đi: – Thế thì còn giời đất nào nữa! Đã gọi là thuận đôi vừa lứa thì mới cho làm lễ cưới chứ. Bây giờ lại còn bày ra cái trò cướp bóc phá phách này nữa. Mũi tên ngọn giáo lỡ ra mất mạng như chơi. Thôi mày về quê nội quê ngoại kiếm một cô gái quê làm vợ. Thiếu gì người đẹp đảm đang ngay các bậc vương công cũng phải thèm nhớ... Bà Trương vẫn há mồm mà không nói tiếp được nữa. Hoàng Mãnh liếc thấy Trần Nhật Duật bần thần cúi mặt xuống nên vội nói chữa: – Ôi dào ôi! Mẹ cứ lo phỗng lo loan. Đánh cướp một cô dâu thì nào có khó khăn gì. Con đưa đội dũng thủ của con lên thì hiểm trở như cửa ải Lê Hoa chúng con cũng chiếm phăng. Còn phong tục người ta trên ấy nó như vậy. Người ta giữ tiếng họ nhà người ta là họ to; người ta lại không muốn kén phải rể hèn. Mà việc này, đức Thượng hoàng đứng làm chủ hôn. Ai trái vương mệnh là mắc tội khi quân tru di ba họ. Mẹ cứ yên lòng. Việc khó nhưng đã có anh con đây. Bà Trương quát con: –Việc của mày mà mày cứ kéo anh mày vào. Cái trò đánh cướp ấy có khác gì đi trận đi mạc không nào. Mày muốn cướp gì thì mặc mày. Mày muốn cướp cả giời cũng được chứ tao là không bằng lòng để cậu hoàng cũng bôi mặt cầm tay thước đi cướp vợ cho mày. Trần Nhật Duật cười dàn hoà: – Cướp dâu mà chị dưỡng lại ví với bọn giặc cỏ bôi nhọ nồi lên mặt. Thôi... từ nay đến tháng một còn hơn bảy tháng nữa cơ mà. Đến lúc đó sẽ liệu sau. Bà Trương cũng cười. Đến lúc này cả ba người mới thực sự cùng một lòng bàn về lễ cưới, trước mắt là lễ vấn danh sắp tới. Bố mẹ chú rể và Chiêu Văn vương không phải đi châu Mai. Hoàng Mãnh cũng vậy. Trần Nhật Duật sẽ nhờ một ông học sĩ viện Hàn lâm thay mặt nhà trai dẫn một đoàn người ngựa mang lễ vật lên nhà họ Trịnh. Đám cưới của một tướng quân Trấn điện, sủng thần của nhà vua ắt phải vui vẻ, náo động - nhất là viên tướng đó đã từng là khách khanh trong mạc phủ của Chiêu Văn vương. Trần Nhật Duật sẽ đích thân viết lên lá thiếp hồng tên, họ, ngày sinh tháng đẻ của Hoàng Mãnh để ông học sĩ mang đi châu Mai trao cho nhà gái để so đôi tuổi hai trẻ. Cả ba người đều thấy trước lễ sẽ trọng thể nhưng họ đều không ngờ việc này đã được Thượng hoàng, Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải lưu tâm bàn bạc. Ngay khi được biết Hoàng Mãnh và nàng Hai nhà họ Trịnh có mối lương duyên, Thượng hoàng đã cho gọi hai đức ông vào cung Thánh Từ. Xét mối duyên này có khả năng thắt chặt thêm tình nghĩa giữa tù trưởng thượng du và triều đình, Thượng hoàng có ý sẽ giao cho ông Chính khanh Quang Lộc Tự mang biển Khâm sai đi dẫn lễ. Trần Quốc Tuấn tâu Thượng hoàng xin một ngũ lính hổ bôn hộ tống biển khâm sai. Trần Quang Khải nhấn mạnh hôn lễ này phải làm sao để các lộ thượng đạo thấy rõ triều đình rất quý các phiên trấn và cũng tôn trọng những dũng thủ có tài. Và cả ba người đều khen Trần Nhật Duật là người thông minh và tình nghĩa. Cung cách tiến hành lễ vấn danh tỏ rõ là họ Trần đã quyền quý ba đời, khác với cái thuở nửa dân chài nửa buôn biển, cướp biển vác đòng đi mở nước tìm một ngai vàng. Ngày xưa, họ Trần lênh đênh trên các triền sông Bạch Đằng, sông Luộc, sông Hoàng, sông Hoá, nghênh ngang biên hải; họ đặt tên con cái là những giống cá sông, cá biển. Ông tổ là Kình, chữ kình có bộ ngư là cá ở bên. Ông Kình sinh con đặt tên là Hấp chính là con trắm trong chữ nôm, thứ nữa là Lý, tên chữ của con cá chép, rồi đến thế hệ nữa: Khánh là con cá ngạch, Thừa là con cá dưa, Liễu là con cá nheo, Cảnh là con cá lành canh, tất cả đều có bộ ngư bên cạnh. Khi đã cướp được ngai vàng rồi, họ Trần sai bọn biết chữ soạn sách vàng dòng họ, bao nhiêu bộ ngư bỏ hết. Qua hai thế hệ bây giờ họ Trần đã là họ tôn quý, tên tuổi các con đều lấy điển trong kinh sách thật hay. Họ sang rồi thì lễ lạt cưới xin phải sang. Chương 6 Từ giữa giờ đầu, các vương hầu và các quan văn võ đã đốt đuốc đến tề tựu ở cửa hoàng thành. Hai đô Long Dực, Hổ Dực dàn rộng ra vừa để giữ trật tự vừa để tăng phần long trọng cho ngày lễ thề trong đền Đồng Cổ. Tất cả vương hầu và các quan văn võ đều mặc triều phục. Lính cận vệ cũng mặc áo chiến may bằng gấm thật đẹp. Những lá cờ đại đã được cắm sẵn trên mặt thành, những lá phướn mang quân hiệu từng đô bay phần phật trong bóng đêm. Bấy nhiêu con người đứng im lặng chăm chú. Họ đã tắm gội sạch sẽ bằng nước nấu với rễ hương bài và ăn chay ba ngày nay để tỏ lòng thành và ý niệm thanh khiết. Bây giờ họ chờ hai vua ngự ra ngoài cung để phò lên đền Đồng Cổ cử hành lễ thề. Đức ông Nhân Túc vương Trần Toàn đã dẫn đức ông Chiêu Minh vương Thái sư Trần Quang Khải và đức ông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn vào cung để rước hai vua xuất cung. Lần thề năm nay sẽ do đức ông Hưng Đạo vương làm Điển nghi Kiểm chính tức là chức vụ chủ tế. Nhân Túc vương Trần Toàn không ngờ việc chọn chủ tế lại dễ dàng đến thế. Mấy hôm trước, Nhân Túc vương có việc phải vào cung Thánh Từ tâu việc. Khi vào đến nơi, Trần Toàn thấy cả hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo đang ngồi hầu vua. Trần Toàn tâu việc xong, Thượng hoàng phán: – Được, việc đó cứ thế mà làm. Còn văn thề thì chú đưa ngay cho chủ tế đi. Nhân Túc vương Trần Toàn cuống lên chỉ biết vâng dạ vì đức ông Nhân Túc không biết ai được chọn làm chủ tế cả. Bỗng thấy đức ông Chiêu Minh như hiểu chuyện và muốn gỡ bí cho Nhân Túc vương, cười bảo: – Đức ông chủ tế Hưng Đạo muốn xem trước văn thề để khi tuyên đọc cho dõng dạc đó chú Nhân Túc ạ. Trần Toàn sướng muốn múa tay trong bị. Ông không ngờ cách chọn của Chiêu Văn vương lại đúng cách như thế. Giá mình biết thế này thì mình tâu trước có khi Thượng hoàng và cả hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo cũng phải phục mình là công minh. Ánh đuốc và lửa của hàng trăm cây đèn lồng soi rõ cánh cửa hoàng thành cực kì trang nghiêm. Lính tứ sương chịu trách nhiệm giữ trật tự dọc con đường ven hồ Dâm Đàm đã chia từng ngũ cưỡi ngựa mở đường bởi vì nhân dân kinh thành đã tề tựu rất đông chờ xem đám rước vua. Họ chờ từ ngoài xa, mặc dầu lệnh cấm rất nghiêm ngặt nhưng họ vẫn bàn tán xôn xao. Mặc cho những ngọn roi đe nẹt, mặc cho những tiếng quát mắng cáu giận, mặc cho những giáp binh nai nịt gọn ghẽ khí giới sáng loè, đám dân đầu đen chỉ im được một tí rồi lại hỏi nhau, cãi nhau, bàn tán râm ran về lễ thề. Hình như họ biết rằng trong ngày lễ thề sẽ không bắt bớ trừng trị ai cả, nói tóm lại là không dám làm mất lòng dân trong ngày thiêng liêng đó. Rõ ràng thệ hội là một lễ long trọng của vương hầu và các quan văn võ. Bách tính lê dân nhìn vào đó có thể hiểu phần nào cái lễ nghĩa kỉ cương biểu hiện ở các đồ nghi trượng sơn son vẽ phượng hào nhoáng che giữa hai chi trưởng và chi thứ của họ Trần. Đám dân đen lo lắng hai chi đánh lộn nhau như cuối triều Lý gây thành hoạ loạn cho trăm họ bàn dân thiên hạ. Họ cố rình xem để đoán, qua nét mặt của các đức ông hai chi, mối đại thống họ Trần nó ra sao để còn liệu mà chôn giấu của nả, đem con cái đi ẩn náu ở chốn sơn thôn. Hai vua chưa ra khỏi cung, hai đức ông Chiêu Minh và Hưng Đạo cũng không có mặt trong đám vương hầu và văn võ bá quan nhưng bách tính lê dân vẫn nhận ra chưa có sự hể hả thực sự giữa hai chi Tức Mạc và Vạn Kiếp. Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai trưởng của Trần Quốc Tuấn, là người sẽ thay Trần Quốc Tuấn làm trưởng họ Trần sau này. Quốc Nghiễn là người giữ trách nhiệm Đông Xướng trong lễ thề hôm nay, đứng riêng ra một mé bên dưới một chiếc biển sơn son thếp vàng hai chữ Khâm sai viết chân phương. Vẻ mặt Quốc Nghiễn trang trọng nhưng đôi mắt Quốc Nghiễn luôn kín đáo liếc về cửa hoàng thành và liếc luôn cả viên Tây Xướng đứng đối diện. Viên Tây Xướng là Tả Thiên vương Trần Đức Việp, em ruột và kế cận ngay sau vua Nhân Tông. Đức Việp chính là người sẽ cầm đầu chi thứ tiếp theo Trần Quang Khải. Tả Thiên vương cũng không lơi con mắt tò mò ngắm lại Quốc Nghiễn. Nhưng cả hai người từ nhỏ chưa hề có va chạm gì với nhau, hơn thế nữa họ đã từng đôi lần dự những cuộc săn, những dạ hội cùng với nhau một cách thích thú. Hai con trai khác của Trần Quốc Tuấn là Hưng Trí vương Trần Quốc Hiệu và Hưng Hiếu vương Trần Quốc Uất cùng mấy gia tướng đứng phòng hờ phía sau lưng anh cả. Hình như mấy người này vẫn lo lắng một sự giở mặt có thể xảy ra phía chi thứ. Nhưng thực ra thì không phải thế, Quốc Hiếu, Quốc Uất đã lâu chưa lên kinh. Họ như những người thôn phu bình thường choáng mắt trước cảnh đông đúc lộng lẫy và kinh ngạc rằng tại sao người ta lại có thể ung dung chịu được cung cách sống phiền toái ấy. Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng vốn là người ba phải. Đức ông Chiêu Đạo là em kế cận cùng mẹ của Thượng hoàng Thánh Tông và đức ông Chiêu Minh. Đức ông rõ là người cũng quyền uy của chi thứ nhưng Chiêu Đạo mặt mũi hể hả đứng chung với đám vương hầu thuộc chi út Long Hưng. Đám này chuyện trò vui vẻ thoải mái nhất. Rõ ràng thệ hội này ngoài tính chất trang nghiêm trọng thể còn là cuộc vui hội hè thực sự với họ. Và họ náo nức bàn tán về cuộc rượu đêm nay trong điện Tập Hiền. Hai tốp riêng rẽ nhất là tốp Chiêu Quốc - Chiêu Văn và tốp Hưng Nhượng - Chương Hiến. Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, con trai út của Trần Quốc Tuấn và Chương Hiến hầu Trần Kiện, con trai của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang vốn là hai người cùng tuổi, học cùng khoá trong Quốc Tử Giám, học vấn uyên bác nức tiếng cả trong kinh ngoài trấn. Tước hầu của Trần Kiện là hầu thượng vị, được mặc áo tía hệt như các vương. Người ta thường cho rằng hai người là bạn chi lan chi huệ với nhau. Họ đều là những bậc túc nho thâm thuý, gần đây nghe đâu lại cùng nhau nghiền ngẫm lẽ huyền diệu của Đạo Đức kinh và Đại Tạng kinh nữa. Ngay đến bậc lão học thông quán cổ kim là Hưng Ninh vương Trần Tung khi nhắc tới họ cũng không dám coi thường. Họ đứng cạnh nhau như một cặp bài trùng nhưng thực ra khi nhìn kĩ, họ vẫn khác nhau lắm. Hai vẻ mặt cùng bình lặng của triết gia nhưng đôi mắt Trần Quốc Tảng lim dim buông thả, còn Trần Kiện có một nụ cười mơ hồ giễu cợt. Đứng đối diện với tốp ấy là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, anh em cùng mẹ cùng cha. Chiêu Quốc vương có một dáng người và một vẻ mặt tuyệt đẹp. Mái đầu có một góc nghiêng kiêu sa khinh thị, một nụ cười nửa miệng dường như gạt bỏ tất cả các thứ lễ nghi đang bày ra và sẽ diễn ra hôm nay. Da mặt Chiêu Quốc vương trắng xanh càng làm cho đôi mắt có quầng thâm sâu thăm thẳm. Tay phải Chiêu Quốc vương cầm một lá quạt trầm xinh nhỏ, tay trái lơ đãng đếm những hạt ngọc nạm trên chuôi cây kiếm ngắn đeo bên sườn trái. Chiêu Quốc vương nói không động môi: – Kìa, nhìn mà xem đám khỉ tu tiên. Chiêu Văn vương ngơ ngác nhìn để tìm cái đám “khỉ tu tiên” mà anh mình nói tới. Thốt nhiên đức ông Chiêu Văn cảm thấy xưa nay mình vẫn chưa nghiền ngẫm đầy đủ về các mối quan hệ trong dòng họ cũng như chưa tìm hiểu đến nơi đến chốn về vị trí của mình trong mối quan hệ rối rắm ấy. Xưa nay đức ông quen sống hồn nhiên, quen đằm mình vào những hoạt động sôi nổi trước mắt theo một thiên hướng công bằng đầy thiện chí của tuổi trẻ. Trong cuộc đời sôi nổi ấy, đức ông Chiêu Văn thu nhận một cách vô tình những tác động tự nhiều nguồn ảnh hưởng khác nhau. Ông phục sự trí lự dày dạn của Hưng Đạo vương, ông chiêm ngưỡng sự uyên bác thâm trầm của Hưng Ninh vương, ông thích thú cái duyên dáng lịch sự của Chiêu Quốc vương, ông công nhận cách làm việc quả đoán sát phạt của Chiêu Minh vương, ông quý cái ham suy tư tìm hiểu lí lẽ huyền diệu đất trời của Hưng Nhượng vương... Hầu như với tất cả những người ông gặp gỡ trong việc nước cũng như trong giao tiếp bình thường, Chiêu Văn vương đều lọc ra được những điều đáng lưu giữ. Trong số những người gần gụi ông, Chiêu Văn vương xưa nay vẫn thân thiết nhất với Chiêu Quốc vương. Đó cũng là lẽ tự nhiên vì cùng mẹ, tuổi tác cũng không chênh nhau bao nhiêu. Chiêu Quốc vương lại là người thật tài giỏi, kể từ sở học đến tạp kĩ đức ông Chiêu Quốc có một sức hấp dẫn hết sức kì lạ với những người chung quanh. Tuy thế câu nói khinh thị về cái “đám khỉ tu tiên” hôm nay không được Chiêu Văn vương tán thưởng. Đức ông Chiêu Văn chỉ gượng cười. Đức ông định nói với anh rằng Trần Quốc Tảng và Trần Kiện là hàng cháu, tranh chấp làm gì với bọn họ nhưng rồi lại thôi vì sợ mếch lòng Chiêu Quốc vương. Đầu canh năm, đài đồng hồ nước thỉnh ba hồi khánh. Thế rồi tiếng trống, tiếng chiêng nổi lên. Cửa hoàng thành mở toang. Quan Trấn điện Phạm Ngũ Lão dẫn quân Thánh Dực ra khỏi hoàng thành bằng hai cửa nách. Các đồ nghi trượng được dàn ra trên bãi rộng trước cửa hoàng thành. Một viên Nội giám Trung quan đứng trên vòm cổng hoa cái loa bầu thét: – Thánh giá xuất cung. Nghe hiệu xướng vua ra khỏi cung, vương hầu và các quan cùng lạy rạp xuống đất. Một đám tàn vàng tán tía xúm xít che hai cỗ kiệu nối nhau ra cửa thành. Kiệu đi trước rước đương kim hoàng đế Nhân Tông, kiệu thứ hai rước vua cha Thượng hoàng Thánh Tông. Kế sau hai cái kiệu, người ta thấy Nhân Túc vương Trần Toàn, cái mũi càng sần đỏ hơn bao giờ hết; rồi đến Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đi bộ ra từ hai cửa tả, hữu. Theo sau các đức ông phò giá là toán dũng thủ áo gấm kén chọn trong các vệ thân quân. Viên tướng chỉ huy toán dũng thủ này là Trung phẩm Phụng ngự Điện tiền tướng quân Hoàng Mãnh hiên ngang trong bộ áo chiến bằng vóc đại hồng mới tinh khôi. Thế rồi chiêng trống và đồ nghi trượng dàn bày lên trước. Những lá cờ thêu mặt trời, mặt trăng, thêu rồng mây, cờ năm màu, may bằng lụa và vải bay phần phật trong gió sớm. Cả một đô Hổ Dực cầm côn sơn đỏ đi đầu vút roi để mở đường. Tất cả vương hầu và các quan văn quan võ nối nhau thành hàng dài đi bộ theo hai cỗ kiệu vàng rước vua. Bây giờ trời đã rạng. Nhân dân kinh thành đã dậy và bày hương án ở hai bên vệ đường để tỏ lòng tôn kính nhà vua và cũng xem rõ mặt rồng bởi vì dù họ là dân kinh thành nhưng hai vua xuất cung vẫn là dịp hiếm hoi, có khi chỉ một đôi lần trong một năm. Sau đoàn vương hầu đến các phi tần và nữ quan hai cung. Chung quanh những người đàn bà yếm áo lượt là này là nội giám mặc áo tía trơn. Kế sau đoàn nữ quan là đoàn các đạo sĩ cung Cảnh Linh mặc áo chéo vạt bằng lụa huyền nền mờ hoa bóng tay cầm phất trần bằng lông đuôi ngựa trắng. Ông đạo thống đã già lắm, vẻ mặt bí hiểm, tay cầm sợi xích thau treo lủng lẳng một cái lư trầm toả khói mù mịt. Kề sau đoàn đạo sĩ là đoàn các tăng ni chùa Chân Phúc mặc áo cà sa lụa nâu, lụa vàng, tay cầm những chuỗi hạt bồ đề vừa đi vừa đếm hạt và niệm Phật hiệu. Vị tăng thống cầm cây thiền trượng, đầu trượng rủ xuống nhiều dải lụa màu rực rỡ. Sau đám tăng đạo mới đến các quan văn quan võ từ tòng tứ phẩm trở xuống. Dẫn đầu đoàn các quan là viên Đại An Phủ sứ kinh thành và quan Học sĩ Lê Văn Hưu hiện giữ việc phó quan trong phủ Tể tướng Thái sư của Chiêu Minh vương. Khi các quan đã đi qua, các gia tướng, thư nhi, gia nô và quân tuỳ thân của các vương hầu mới chụm lại thành cái đuôi dài lê thê của đám rước. Chủ xích mích với nhau một thì tớ gầm ghè với nhau mười. Gia nô của các vương phủ chi Tức Mạc mặc đẹp hơn, ăn nói hoạt bát hơn bọn ở Vạn Kiếp về. Những gia tướng Vạn Kiếp thì vũ dũng hơn, họ cao lớn, hơi cục mịch đôi chút, quần áo kém phần xát xóng và một đôi người có cái dáng giang hồ ngang ngửa. Họ nín nhịn trước những lời châm chọc khá nanh nọc: – Chắc cái áo này ông anh may phòng nhớn? – Tại sao chú em cứ ru rú mãi ở rừng Yên Tử? Chú em sợ lên kinh không có ăn à? Có lời khiêu khích rõ rệt hơn: – Này mấy chú em, có nhớ trận đòn năm Mão không? Trận đòn năm Mão cách đây đã trên mười năm. Lần ấy vua Thánh Tông chưa nhường ngôi cho con. Nhân một dịp mừng chiến thắng quân phiến loạn ở vùng núi phía tây, triều đình làm lễ hiến phù dâng tù binh ở nhà Thái Miếu. Buổi tối vua ban tiệc khao thưởng tướng sĩ tòng chinh. Tiệc đến khuya mới tan, các vương hầu về phủ đệ, chẳng biết nguyên cớ làm sao nhiều đám đánh lộn đã xảy ra ở nhiều nơi trong kinh thành. Quân tứ sương phải đánh trống ngũ liên, huy động mấy đô, mấy vệ ra phường phố giữ trật tự. Không bắt được một hung thủ nào, lính tứ sương chỉ thấy nằm ngả ngốn những gia nô, gia tướng tuỳ thân của các đức ông chi Vạn Kiếp. Người kinh thành đoán những kẻ hành hung là những dũng thủ của các đức ông chi Tức Mạc nhưng đoán thì đoán thế thôi chứ nào ai dám hé răng. Trận đòn năm Mão là một nghi án nhưng chẳng ai nghi cả. Ai cũng hiểu hung thủ là loại người gì cũng như ai cũng hiểu trận gọt gáy năm Ngọ (sau trận năm Mão đúng ba năm) là do ai gây ra vào dịp các đức ông chi Tức Mạc đi vãn cảnh chùa Yên Tử sau khi chùa chính ở núi này trùng tu xong. Trận gọt gáy năm Ngọ cũng không tìm ra hung thủ, chỉ mấy người bị đánh nằm ngổn ngang ở sườn núi bờ khe mà toàn là tướng, lính tuỳ thân của các đức ông chi Tức Mạc. Anh nào cũng bị đòn đau, tóc bị gọt một mảng nơi gáy và bôi vôi vào. Nghe nói gọt gáy bôi vôi là hình phạt thường chỉ dùng với loại đàn bà lẳng lơ quá mức lừa chồng đi ngoại tình, nó đã xót mà mấy tháng sau tóc mọc lại cũng lởm chởm khó coi. Trong cái đuôi lê thê của đám rước, người ta nhận ra vóc dáng cao lớn của hai gia tướng thân cận của Trần Quốc Tuấn là Yết Kiêu và Dã Tượng. Phía người của chi Tức Mạc cũng có một dũng thủ to lớn cầm đầu. Anh ta mang một cái biệt hiệu là Đô Trâu, nghe đâu xưa kia đã từng giải chiếu cạp điều xơi liền mười một giải cạn của hội vật hàng năm của vùng hai bờ sông Đà. Con người thô lỗ hung dữ ấy mà lại có cái lưỡi rất sắc. Những câu châm chọc đau nhất của anh ta và thường nhằm vào Yết Kiêu. Điều đó có một nguyên nhân xa xưa mà Đô Trâu không bao giờ thổ lộ. Đó là giải cạn lần cuối của Đô Trâu. Năm ấy theo phong tục vùng sông Đà, hội vật mùa xuân mở ngay sau ngày tết Nguyên đán. Khi ấy Chiêu Quốc vương đang làm trấn thủ lộ Đà Giang. Các bô lão trong vùng mời đức ông làm chúa hội vật. Bộ hạ của đức ông Chiêu Quốc có một đô vật tài nghệ rất cao mà tầm vóc cũng thật dềnh dàng. Hắn ta chính là Đô Trâu, cái biệt hiệu thực xứng đáng với vóc người nhưng thực ra không đúng với tính nết của y. Con trâu vốn là bạn nhà nông, đã hay làm lại chỉ ăn cỏ, hiền dịu và có nghĩa còn Đô Trâu tính độc ác, vô học và nham hiểm. Hắn lại được Chiêu Quốc vương hết sức nuông chiều nên thả sức lộng hành trong lộ, áp bức dân lành, ăn của đút, chiếm đoạt tài sản của những người thân cô thế cô, dân sự ta oán mà không ai dám nói. Bởi vì Đô Trâu là công cụ của Chiêu Quốc vương dùng để chế ngự hào kiệt trong vùng. Hễ ai không chịu theo Chiêu Quốc vương là Đô Trâu được lệnh dùng độc thủ hạ sát ngay trong các sới vật mở hai mùa xuân thu ở lộ Đà Giang hoặc bằng cách gây sự lúc thời bình. Các huyện quan không dám hé răng, thậm chí trong những lá sớ dâng về triều đình cũng không một dòng đả động đến những cuộc sát hại đê nhục ấy nữa. Hàng năm cứ đến mùa hội vật là Đô Trâu lại giải chiếu cạp điều trước sới, y vào vuốt lên giải nhất nói với các cụ bô lão: “Thưa, các cụ cho con xin cái giải nhất”. Thế rồi y ngồi xếp chân chữ ngũ trên chiếc chiếu cạp điều chờ tan giải lĩnh cạn giải nhất. Lần ấy, Hưng Đạo vương đi tuần thú theo lệnh của triều đình vùng thượng lộ sông Đà. Chiêu Quốc vương mời ông cùng ngồi cầm trịch. Có một thiếu niên to lớn nằng nặc đòi được đấu với Đô Trâu. Sự kiện quái dị ấy làm cho các bô lão kinh ngạc phải xin ý kiến của hai đức ông. Hưng Đạo vương sau khi suy nghĩ thấy cậu bé tuy tuổi chưa phải đã lớn nhưng cốt cách người đã chẳng kém chi Đô Trâu. Ông thấy sự quả quyết của cậu bé thật đáng tin cậy nên đã bằng lòng cho cậu tranh giải nhất với gã đô vật hung ác. Trận đấu diễn ra rất quyết liệt. Cậu bé có lối vật rất riết róng làm cho Đô Trâu mất cả tự tin và bình tĩnh. Sau mười một nhịp, Đô Trâu bị cậu bé vật ngửa tênh hênh tấm lưng bằng một đòn cao, chính là đòn sở trường của Đô Trâu. Thế mới cay cho hắn. Cậu bé nẫng cái giải nhất năm ấy chính là Yết Kiêu. Sau trận thắng Đô Trâu, Yết Kiêu được đức ông Hưng Đạo vương thu nhận làm gia tướng trong đội quân gia đồng hương Vạn Kiếp. Bây giờ oan gia lại gặp nhau sau hơn mười năm cách biệt, Đô Trâu gây sự với Yết Kiêu cũng chẳng có gì là lạ. Gia nô hai chi cũng ùa vào khích bác nhau. Con người ta nhẫn nhục cũng có hạn. Đã thấy những cặp mắt vằn đỏ lên và những hơi thở dài rất mạnh. May thay chính vào lúc đó, hình như đấng chí tôn nhớ ra cái nết hết lòng