🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người hành khách bí ẩn Ebooks Nhóm Zalo GEORGES SIMENON NGƯỜI HÀNH KHÁCH BÍ ẨN Truyện trinh thám Người dịch: ĐẶNG PHÚ Thực hiện ebook: HOA QUÂN TỬ NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN I CÁI NHÌN XÚI QUẨY Đây là một căn bệnh tấn công những tàu thuyền trong tất cả các vùng biển trên thế giới mà nguyên nhân thuộc một lĩnh vực chưa ai biết, được gọi là ngẫu nhiên. Nếu những triệu chứng bước đầu của căn bệnh ấy rõ ràng thì chúng sẽ không thể thoát khỏi cặp mắt của những thuỷ thủ. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu bằng những điều hết sức vô cớ, chẳng hạn như: một dây néo đứt văng ra như dây vĩ cầm làm bứt đi cánh tay một thuỷ thủ. Hoặc giả một chàng thủy thủ trẻ xoè ngón tay cái trong lúc gọt vỏ khoai tây và ngày hôm sau "tai hoạ bất ngờ" làm anh ta thét lên. Nếu không do vận hành sai thì làm sao một chiếc ca-nô lại dại dột lao vào sống mũi tàu ? Nhưng đó vẫn chưa phải là "cái nhìn xúi quẩy". Cái nhìn xúi quẩy đòi hỏi hàng loạt những tai nạn. Khi cái loạt xúi quẩy ấy đeo đuổi, người ta dễ dàng nhận thấy những tổn hại mới vào ban đêm hoặc ngày hôm sau. Từ khi nó xuất hiện, mọi việc sẽ ngày càng xấu đi và những người đàn ông, chỉ còn biết nghiến răng mà đếm những trận đòn. Đó là lúc mà cỗ máy đã vận hành ba mươi năm không một lần hỏng hóc, bỗng dở chứng kẹt máy như chiếc cối xay cà phê cũ kỹ. Bất kể những dự báo được xác định là tốt nhất trên những bảng khí tượng và theo kinh nghiệm, nếu đúng, thì trong hai mươi ngày tới vào mùa này, gió không bao giờ xảy ra. Và con sóng đầu tiên ập đến sẽ không cuốn một người vào biển cả ! Sẽ có bệnh lỵ nếu không phải dịch hạch ! Còn may mắn nếu người ta sẽ không giạt vào mắc cạn ở một bãi cát hoặc khi đi vào cảng, người ta không va phải đê chắn sóng. *** Con tàu Polarlys, neo đậu ở cảng số mười bảy trong một vũng tàu xa xôi nhất và bẩn thỉu nhất ở Hambourg phải nhổ neo dời bến vào ba giờ chiều theo thông báo ở tấm biển móc vào thùng thư tại cầu tàu. Chưa đến hai giờ, thuyền trưởng Peterson đã mơ hồ cảm thấy "cái nhìn xúi quẩy" rình rập. Tuy nhiên đây là một người đàn ông cương nghị, béo lùn, mập mạp. Từ chín giờ sáng, ông bước từng bước dài trên boong giám sát việc bốc hàng lên tàu. Sương mù đặc biệt vàng và xám, chứa đầy bồ hóng, phả ra độ ẩm lạnh giá, đè nặng lên bến cảng và thành phố, người ta chỉ nhìn thấy những chiếc đèn của xe điện, những cửa sổ sáng đèn như giữa đêm. Lúc này là cuối tháng hai. Do lạnh và vì vật lộn trong những đám mây ấy, đã để lại trên mặt và những bàn tay một loại váng băng. Mọi hồi còi đồng loạt rít lên thành một tiếp âm chói tai lấn át tiếng kèn kẹt của những cần trục. Boong tàu Polarlys hầu như vắng vẻ: bốn người đàn ông ở trên khoang trước đang tháo dỡ những chiếc hòm và thùng. Con tàu không có gì nổi tiếng cả. Đây là con tàu chạy hơi nước trọng tải một nghìn tấn, có vẻ tàu đánh bắt cá thu, boong tàu luôn đầy ắp hàng hoá, tàu làm dịch vụ từ Hambourg đến Kirkenes bằng cách đi dọc bờ biển Na-uy để phục vụ giao thông cho những cảng nhỏ. Đây là con tàu hỗn hợp có chỗ cho năm mươi hành khách ghế hạng nhất và cũng ngần ấy hành khách hạng ba. Từ Na-uy, người ta đưa đến nơi nhận những máy móc, hoa quả và thịt muối. Người ta đưa về từ cực Bắc những thùng cá thu cũng như da gấu và dầu hải cẩu. Cho đến Lofoden, khí hậu bình thường. Rồi đột nhiên, người ta rơi vào những miền băng giá và trong đêm dài tới ba tháng. Những sĩ quan là người Na-uy. Những chàng trai tốt biết trước sẽ lấy bao nhiêu thùng ở Công ty Olsen tại Tromsoe và chuyên chở cho ai ở Hambourg những máy công cụ. Ngay buổi sáng ấy, Peterson dứt bỏ chiếc lon cuối cùng của mình chỉ được giữ bằng một sợi chỉ. Công ty bỗng cử ông đi với hàng tràng những lời dặn dò như với sĩ quan thứ ba, một chàng trai Hà lan mười chín tuổi gầy mảnh như mới mười sáu tuổi ! Phải chăng sự xuất hiện của Vriens lúc mười giờ làm cho Peterson đánh hơi thấy cái nhìn xúi quẩy ? Anh ta tốt nghiệp trường hàng hải Delfzijl ngay tuần ấy. Hôm qua, anh ta trình diện vẻ xanh xao, xúc động, trong bộ đồng phục đứng đắn làm ngơ ngác, đứng nghiêm. - Tuân lệnh, thưa thuyền trưởng ! - Này, anh Vriens - Peterson nói với anh ta - tôi không có lệnh cho anh trong lúc này. Anh có thể nghỉ ngơi cho tới ngày mai. Với tư cách là sĩ quan thứ ba, anh lo việc đưa hành khách lên tàu. Vriens đi, buổi tối không trở lại. Vào mười giờ sáng, thuyền trưởng trông thấy anh ta xuống xe tắc xi, lảo đảo, với nước da xanh xao, mi mắt sưng phồng, cái nhìn sợ sệt. Khi anh ta qua cầu tàu, đúng là anh ta loạng choạng. Peterson xoay lưng lại với anh ta, nghe thấy anh ta chạm gót chào trước khi đi về phía buồng mình. "Anh ta ốm yếu như một con chó !”- Một lúc sau người phục vụ nói - “Anh ta yêu câu tôi cà-phê rất đặc. Anh ta nằm duỗi dài, thẳng đơ trên giường hầu như không sao nói được. Người ta để que diêm cháy trước hơi thở của anh ta !...". Tất nhiên đó không phải là thảm hại ! Nhưng khi ta có thói quen sống chung với những sĩ quan của mình, ta không thích nảy sinh một gã trai thuộc loại này, nhất là có một lá thư của quan chức hành chính đến trước, gửi gắm tạo điều kiện dễ dàng cho những bước đầu của anh ta. Ở tuổi mười chín, Petersen chưa tốt nghiệp nhưng ông đã ba lần đi vòng quanh thế giới ! *** Ông có thể dự báo trước việc đó. Một loạt “tai họa” sẽ bắt đầu. Trong lúc đi vòng trên con tàu của mình, hai tay đút túi, chiếc tẩu thuốc ở miệng, ông nhìn thấy một gã cao lớn tóc hung đứng tựa lưng vào thành tàu, cuốn một điếu thuốc lá. Người đàn ông đành mập mờ cúi đầu chào ông, tìm diêm trong túi. Rõ ràng là một con chuột ở cảng ! Một trong số tên lang thang này ở miền Bắc không giống mệt tên lang thang nào trên trái đất. Một gã trai dưới bốn mươi tuổi cao lớn, khoẻ mạnh, vẻ đứng đắn mặc dầu bộ râu tám ngày không cạo và đôi má hơi lõm. Gã ở đây như ở nhà gã. Gã rít thuốc từng hơi ngắn, ưỡn ngực dưới chiếc áo hiệu Landwehr cũ mà gã đã thay cúc. "Anh làm gì ở đây ?". Gã hất cằm chỉ cơ trưởng rõ ràng đang qua cầu. Và người sau giải thích cho thuyền trưởng. "Thủy thủ tiế than vừa bị sốt rét. Tôi phải để lại hắn trên bờ. Thế là tôi nghĩ đến gã này trên bên cảng, và tôi tuyển dụng gã làm thủy thủ tiếp than vào lò. Gã khỏe mạnh... - Anh ta có giấy tờ không ? - Đúng thể thức ! Gã ra tù ở Cologne...- Và cơ trưởng cười trong lúc rời đi. "Vậy là hai !" - Petersen làu bàu. Có một kẻ tiếp than vào lò – dù là kẻ mới ra tù đối với ông thế nào cũng mặc vì ông đang cần. Nhưng ông cảm thấy chán ghét gã từ đầu đến chân. Trong lúc đi bách bộ, ông tiếp tục lén quan sát gã. Phần lớn những kẻ lang thang người Đức đều có cái vẻ tự tin này, việc không biết xấu hổ và ngay cả sự hèn mọn này. Thêm nữa, gã này còn có vẻ gì mỉa mai trong cái nhìn. Gã cảm thấy mình bị dò xét. Gã tiếp tục hút thuốc, thỉnh thoảng đá lưỡi thấm ướt giấy thuốc, rồi nhìn khói thuốc phả ra từ miệng gã hoà trộn với sương mù. - Anh tên là gì ? - Peter Krull... - Anh đã làm gì để phải vào tù ? - Lần cuối cùng tôi không làm gì hết ! Đó là sự sai lầm của tư pháp...- Gã nói từ tốn, giọng kéo dài và chính thuyền trưởng bỏ cuộc nói chuyện. Vả lại một dây cáp đứt đúng lúc đó làm cho một chiếc thùng cực lớn bọc kín chiếc máy kéo nông nghiệp lao vụt xuống từ độ cao sáu mét vào đáy khoang. Hành khách đầu tiên lên tàu, Petersen chỉ trông thấy chiếc hòm xanh và chiếc áo khoác màu xám. - Vriens đâu ? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ - Tôi mong rằng tôi sẽ không phải lo tới cả việc lên tàu ! - Anh ta ở phòng khách trước những cuốn sổ. Đúng thế. Chắc chắn anh ta đau quặn bụng, đầu óc đau đớn nhưng anh ta đang ở vị trí của mình. Anh ta tiếp khách, ghi lại những điều chỉ dẫn trong hộ chiếu của người ấy và chỉ cho người đó một phòng. Hai giờ cuối cùng luôn lộn xộn. Những chiếc xe tải đưa hàng hoá đến chậm. Những chiếc cần trục không thể vận hành nhanh hơn. "Mặc kệ ! Ta sẽ bỏ lại ai không lên tàu đúng giờ !". Một sự đe doạ theo truyền thống không làm ai sợ cả. Một nữ hành khách lên tàu, theo sau là một người khuân vác. Cảnh sát thảo luận với Vriens, anh này quên điền một phần vào những bản khai in sẵn. Khi tiếng chuông cảnh báo đầu tiên vang lên, con đường trước mặt con tàu Polarlys thông thoáng. Nhưng khi người ta thả dây chão năm phút sau thì chiếc tàu lớn chở dầu của Anh đang chắn ngang và nó phải thực hiện những thao tác phức tạp. Một chiếc xà-lan chạy máy dần dần vững bước tiến lên sát mặt nước chỉ với một thủy thủ tựa vào cần lái và hút tẩu thuốc. Tàu va vào sườn nó. Nửa boong của nó ngập trong nước và thật kỳ diệu là nó có thể tiếp tục chạy giữa những chiếc vỏ đen của các tàu chở hàng dựng lên quanh nó như những bức tường. Trên con sông Elbe là một đám rước. Ba hàng tàu thuỷ đi nối đuôi nhau thành chuỗi trong sương mù ngăn việc phân biệt cái bẫy của tàu trước và những hồi còi dữ dội thi nhau vang lên. Những con tàu chạy nhanh hơn mài miệt vượt lên những chiếc khác. Những thuyền buồm chen lấn nhau và đột nhiên người ta trông thấy cánh buồm mũi của chúng mọc lên cách sống mũi thuyền ít nhất là một sải cáp, khoảng hai trăm mét. "Từ từ... Dừng lại... Lùi lại... Dừng... Từ từ...Một nửa... Dừng...". Máy điện báo kêu lách cách và con tàu tiến sang phải sang trái từng đợt trong sương giá. *** Vào bảy giờ, con tàu vẫn ở trên sông và người ta chưa thấy ngọn đèn hiệu ở Cuxhaven báo cho biết đã đến biển. Thuyền trưởng bước xuống từ cầu tàu, để lại thuyền phó cùng với người hoa tiêu ở đó và chuẩn bị cho một việc khổ sai khác: chuẩn bị bữa ăn cho hành khách. Người phục vụ đem theo chiếc cồng đi trong những hành lang, với vẻ năn nỉ, theo kinh nghiệm biết rằng ngày đầu, những hành khách không bao giờ vội vã cả. - Năm suất hả ? Petersen nhận xét. - Một bà và ba ông... Bà đây... Cô ta tiến lên vẻ dễ dãi. Chiếc bót thuốc lá bằng ngọc ở trên môi. Cô ta trang điểm như để ăn tối trên con tàu sang trọng vượt Đại Tây Dương và hầu như khoả thân dưới chiếc áo dài lụa đen. Một con người nhỏ bé lạ lùng, mảnh mai, dễ bị kích động với những cử chỉ lả lơi, bằng những sự khéo léo của thời thượng, tự cho mình là con người nổi bật. Cô ta có mái tóc hoe vàng và cũng óng mượt như tóc một đứa trẻ. Mái tóc được tách ra bằng một đường ngôi giữa, rủ xuống đôi má chỉ với một làn sóng làm nổi bật khuôn mặt bầu dục. Hai đồng tử mắt sẫm màu và để tạo ra sự tương phản mạnh mẽ hơn, lông mi được tô thuốc đen. Miệng mỏng; đôi bầu vú nhô rất cao, rất nhỏ. - Thuyền trưởng ?... - Cô ta lẩm bẩm với giọng dò hỏi. - Thuyền trưởng Petersen... Ông hầu như không rửa mặt. Mái tóc dày rậm cần phải chải. "Mời bà vui lòng ngồi xuống...". Cô ta ngồi với vẻ thong dong, chọn chỗ dễ chịu bên phải thuyền trưởng. Một hành khách khác bước vào, bắt tay Petersen, máy móc thốt lên: "Thời tiết thật tồi tệ !". Đây là Bell Evjen, giám đốc mỏ Kirkenes, hằng năm có chuyến đi Luân Đôn và Bec-lanh và con tàu Polarlys đưa ông đi sớm hơn một tháng. Ông ta thích thú quan sát người phụ nữ trẻ. Một lát sau, một hành khách khác nghiêng mình trước mỗi người, không nói một lời; đây là một gã trai cao lớn đầu cạo trọc, không có lông mi cũng không có lông mày, đeo kính có mắt kính dây đến nỗi đôi mắt anh ta to quá mức. ”Hãy dọn ăn đi, anh phục vụ ! Sau đó anh gõ cửa hành khách thứ năm...”. Bởi vì còn một suất ăn chưa có người. Bữa ăn bắt đầu theo mốt Bắc Âu: canh súp nóng mở đầu, tiếp theo là những món nguội, thịt lợn ướp, thức ăn muối, cá hộp, mứt quả và pho mát. - Người ở phòng số mười tám không trả lời. - Hãy nói với sĩ quan thứ ba lo việc đó. Hai lần Petersen trèo lên boong, lo lắng thấy máy đột ngột chạy chậm, vẫn trong tình cảnh sương mù, những tàu chở hàng chạy theo hàng một, những hồi còi inh ỏi, kèn và còi hú. Tại bàn ăn, mọi người yên lặng. Giữa hai món ăn, người phụ nữ trẻ châm một điếu thuốc lá với chiếc bật lửa là một tác phẩm kim hoàn. Petersen cho rằng cô ta là người Đức, cũng như người hành khách đầu cạo trọc. "Chúng tôi sẽ phục vụ các vị cà phê tại phòng hút thuốc !" - Cuối cùng ông nói trong lúc đứng lên, theo một công thức mà ông thường nhắc lại từ mười hai năm nay trong mỗi chuyến đi. Ông đang nhồi tẩu thuốc trong hành lang trước buồng mình thì người nữ hành khách qua gần ông và đi vào trong cầu thang thẳng đứng dẫn tới phòng hút thuốc. Trong suốt thời gian cô ta trèo lên, ông nhìn đôi chân cô ta dưới làn lụa đen tạo cảm giác rất thú vị với đôi đầu gối nhỏ nhắn và cả chút ánh da thịt. "Này, ông Vriens hử ?". Chàng trai liền máy móc đứng theo tư thế của mình. Đôi môi anh ta run lên. Anh đờ người như thể đột nhiên anh rơi vào giữa một thảm kịch. - Không thấy người hành khách ấy. Tuy nhiên hành lý của ông ta còn ở trong buồng ông ta... - Ông ta là ai ? - Ernst Ericksen ở Copenhague... Tôi còn trông thấy ông ta lúc một giờ trước lúc tàu khởi hành !... - Người đàn ông mặc áo khoác màu xám với chiếc hòm màu xanh phải không ? - Đúng thế !... Tôi đã tìm khắp nơi... - Có lẽ ông ta quay lên bờ để mua báo nên lỡ tàu... Vriens và chàng trai đeo kính đã vào buồng họ. Còn lại một mình nữ hành khách ở phòng hút thuốc. Chiếc áo lụa đen xuất hiện trên đầu cầu thang. - Thuyền trưởng... Cô ta tỏ vẻ xúc động, nhưng gắng mỉm cười, hai bàn tay nén giữ nhịp đập của lồng ngực. - Có chuyện gì xảy ra thế ? - Tôi không biết... có lẽ tôi sợ... Tôi vừa vào phòng hút thuốc... Tôi thấy bình cà phê ở trên bàn cũng như những chiếc tách và tôi bắt đầu rót cho mình... Đúng lúc ấy, hình như tôi nghe thấy tiếng động đằng sau tôi... Tôi quay lại, trông thấy một người đàn ông mà tôi chưa nhận ra là ai... Tôi tin chắc người đó khiếp sợ bởi vì người đó đứng lên và chạy trốn... - Qua đâu ? - Qua cửa này... Cửa trông ra boong đi dạo, phải không ?.... - Ông ta mặc áo khoác màu xám phải không ? - Xám, vâng... Tôi kêu lên... Tại sao ông ta chạy trốn như vậy ?... Trong khi cô ta nói, Petersen có cảm giác cô ta nói với Vriens hơn là nói với ông. - Hãy đi xem ! - Ông ta ra lệnh cho viên sĩ quan. Người này ngập ngừng rõ rệt, nhất là vào lúc bước qua trước bà khách mà anh ta phải lướt qua để đi ra. - Xin bà hãy bình tâm, thưa bà... Tất cả chuyện này chắc chắn sẽ được lý giải... Cô ta hé cười, bĩu môi làm điệu và nói: - Tôi sẽ ở lại một mình ở phòng hút thuốc ư ? - Các bạn bà sẽ sớm lên đây... - Ông không uống cà phê ư, thưa thuyền trưởng ? Ông cảm thấy mùi nước hoa của cô ta rất nồng và ông còn cam đoan thấy cả mùi hương của da thịt cô ta toả ra. Một lúc sau trong khi cô ta rót cà phê, ông xoi mói những đường nét của cô ta và khi cô ta quay lại, cô ta thấy mặt ông đỏ lựng, giả vờ bận tâm lôi kéo chiếc cravát của mình. Evjen bước vào. *** Khi Petersen rời phòng hút thuốc rộng lớn chứa được khoảng năm mươi người, thoải mái nhưng tạo cảm giác hơi lạnh vì những đồ gỗ bằng gỗ sồi có màu rất sáng, thì Evjen ngồi ở một góc đang ghi chép những tài liệu buôn bán lấy từ cặp ra. Trong góc đối diện, gã trai đeo kính đọc cuốn Berliner Tagdblau. Ở giữa hai người ấy, người nữ hành khách đã trải lên mặt bàn những quân bài nhỏ và bắt đầu chơi trò phá trận. - Ông vui lòng cho tôi xin tí lửa, được chứ, thưa thuyền trưởng ? Ông phải bước lại. Cô ta đưa về phía ông chiếc bót thuốc lá dài, trong lúc cúi xuống không biết làmthế nào mà mắt Petersen nhìn sâu vào chiếc áo ngắn tới chỗ bắt đầu bầu vú. - Cám ơn... chúng ta tới biển chưa ?... - Chúng ta đang đến gần Cuxhaven, vâng ! Tôi phải lên cầu tàu đây. Nhìn gần, ông nhận thấy như Vriens, cô ta có đôi mi sụp xuống, những nét mệt mỏi của người qua một hay nhiều đêm mất ngủ. Cũng như Vriens, đôi môi cô ta đôi khi bất chợt run lên. Trên cầu tàu, ông gặp viên sĩ quan thứ ba đang tìm ông, nét mặt tiều tuỵ hầu như anh ta đã khóc. - Anh đã tìm thấy ông ta chưa ? - Không... Chắc chắn ông ta đang náu mình... Tuy nhiên tôi đã lấy ba người cùng tôi... Nhưng không phải thế... Petersen nhìn anh ta với vẻ hơi tò mò: - Thì sao ? - Tôi muốn nói với ông, thưa thuyền trưởng... rằng... rằng tôi hết sức tiếc về... Giọng nói anh ta vỡ ra. Nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh ta. - Tôi cam đoan với ông rằng đây là sự ngẫu nhiên.. Tôi chưa bao giờ uống... Đêm nay... tôi không thể giải thích cho ông... Nhưng điều đó làm tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng ông... - Hết chưa ? Mặt anh ta tái nhợt đến nỗi người nói chuyện với anh ta tỏ chút thương hại. - Anh đi ngủ đi ! Ngày mai sẽ sao ! - Ông nói thêm kém nhẹ nhàng. - Ông nghĩ tôi còn say ư ?... Tôi xin thề với ông... - Đi đi ! Và Petersen, khoác chiếc áo da dê cái, lại gần viên hoa tiêu, trong khi chiếc tàu chở hàng bật đèn xanh lướt theo chiều ngược lại cách có vài mét. "Chưa đến ư ?” Người đàn ông chỉ bàn tay trái vào màn đêm. "Cuxhaven !" - Ông ta làu bàu. Đây là người hoa tiêu ở Elbe mà, dưới đèn tín hiệu của bến này, ông ta phải xuống một chiếc tàu máy nhỏ đang đợi ông ta. Thuyền trưởng mời ông ta rượu trắng truyền thống trong buồng gác trong lúc trao đổi vài câu chuyện bình thường. Ông rót đầy cốc thứ hai thì máy chạy chậm lại, rồi hoàn toàn ngừng hẳn. Người ta sớm nhận ra ánh đèn đom đóm trong sương mù sát mặt nước. Nó hầu như ở xa nhưng chỉ một giây sau, nó chuyển thành chiếc đèn axêtylen phân biệt được mọi chi tiết. Lập tức người ta nghe thấy tiếng va chạm vào vỏ tàu, dưới chiếc thang ở cửa tàu. Một cái bắt tay. "Chúc ngủ ngon”. Người phục vụ đã thu dọn gọn gàng phòng ăn. Tại phòng hút thuốc, ba người ngồi cách nhau không quá tám mét, vẫn chưa quen biết nhau mặc dầu Evjen luôn nhìn người đàn bà trẻ. Người hoa tiêu vừa đặt chân xuống tàu đã gọi: - Này ! Thuyền trưởng... Có chuyện gì đó cho ông... Ngả người lên tay vịn, Petersen nhìn rõ trong chiếc ca nô bóng dáng một người đàn ông bất ngờ: một người đàn ông mặc áo choàng, tay cầm một chiếc va li rất to. - Ông muốn nói gì ? - Tôi sẽ giải thích cho ông... Người ta phải giúp người đàn ông trèo lên thang. Sau khi lên boong, người này lo lắng nhìn quanh mình. - Cố vấn cảnh sát Von Sternberg ! - Ông ta nói - Tôi không thể đi tàu thuỷ tới Hambourg nên tôi phải đi ô tô... Đây là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi có bộ râu nhọn và đôi lông mày rậm càng có vẻ lạ lùng với chiếc áo choàng màu mù mờ làm biến dạng bóng dáng ông ta. - Tôi sẽ ăn trong buồng tôi ! Ông ta nói thêm vì con tàu Polarlys lại bắt đầu chạy - Nếu những hành khách hỏi ông... - Tôi có ba hành khách tất cả ! - Nếu những hành khách hỏi ông, ông hãy trả lời rằng tôi bị ốm phải nằm tại giường... Ông hãy nói với họ một cái tên khác... Wolt chẳng hạn, Herbert Wolf, thương gia về áo da lông... Tôi sẽ trả tiền chuyến đi... - Ông có công vụ ư ? - Petersen hỏi với tâm trạng bực bội tăng lên - Có người nào trên tàu cần.. ?... - Tôi nói mình là cố vấn cảnh sát khi không phải là thanh tra... - Tuy nhiên... Thuyền trưởng hoàn toàn không phải không biết chức cố vấn cảnh sát ở Đức là một danh vị nổi tiếng mà chức năng không phải là truy đuổi những kẻ bất lương. Nhưng có vấn đề với cảnh sát đủ làm cho ông tỏ vẻ cà khịa. Ông là thuyền trưởng nên ông khẳng định mình là chủ con tàu của mình. - Dẫu sao, ông sẽ làm theo ý ông ! - Ông làu bàu - Nếu đó là Ernst Ericksen làm ông quan tâm thì tôi phải nói ngay với ông rằng không bắt được hắn đâu... Mất tích rồi !... Hắn ẩn náu có trời mới biết ở đâu, mặc dầu hắn đã mua vé cho chuyến đi và hành lý của hắn còn ở trong buồng hắn... Ông gọi: - Phục vụ viên đâu ! Anh hãy đưa ông đây tới một buồng còn trống... Anh sẽ phục vụ ông ấy tại chỗ... Ông Wolf. Rồi quay về phía người đàn ông mặc áo choàng: - Đúng thế, phải không ? Ông trực ban vào sáu giờ sáng và lẽ ra ông phải ngủ từ lâu. Ông trở về buồng mình, nằm vào giường, nhưng ông còn chú ý đến những người đi đi lại lại ở hành lang một cách vô ý thức. Vì vậy ông nghe thấy tiếng Evjen và người hành khách trọc đầu vào phòng họ. Qua nửa đêm mà cửa buồng người đàn bà trẻ chưa mở ra. Ông bấm chuông gọi người phục vụ. - Mọi người đã ngủ rồi ư ? - Không phải tất cả... Còn người đàn bà... - Cô ta vẫn chơi trò phá trận á ? - Xin lỗi ! Cô ta dạo chơi trên boong với... - Với ai ? - Với ông Vriens. - Anh ta dám cả gan bám riết cô ta ở phòng hút thuốc ư ? - Không ! Anh ta ở trong buồng mình... Chính cô ta yêu cầu tôi gọi anh ta... Thuyền trưởng nặng nề trở mình trên giường và càu nhàu điều gì đó khó hiểu đối với người phục vụ làm anh này đợi một lúc mới rút lui. II NGƯỜI HÀNH KHÁCH KỲ CỤC Chín giờ sáng hôm sau, thuyền trưởng trèo lên trực trên cầu tàu được một lúc thì người hành khách đầu tiên lộ mặt. Hôm ấy là chủ nhật. Theo nguyên tắc thì sinh hoạt trên tàu Polarlys vẫn như mọi ngày. Tuy nhiên không khí ngày hôm đó có điều gì đó khó xác định, khác với mọi ngày. Nhiệt kế vào cuối đêm tụt xuống số không và còn dưới một chút. Khi Petersen không cạo râu, không rửa mặt, khoác chiếc áo da dê để trực ban, trời vẫn còn mưa lây rây. Nước đã kết tinh nhưng vào ban ngày cùng với mặt trời sớm làm tan biến lớp hạt trắng nhỏ li ti đọng ở trên boong. Mặt trời kỳ lạ thật, không thể nhìn thẳng vào được thế nhưng không làm nóng, cũng không làm hoa mắt. Cơn gió nhẹ mát mẻ và nước lấp lánh có ánh phản chiếu như thép trắng. Tàu chạy lên miền Bắc Đan Mạch, khá xa ở ngoài khơi nên không trông thấy bờ biển. Người hành khách đầu tiên dậy là gã trai đeo kính, mặc quần "gôn", áo len, tay cầm áo vét tông. "Arnold Schuttringer, kỹ sư ở Mannheim” - Petersen đọc trong cuốn sổ đăng ký mang theo. Schuttringer, sau khi biết đường đi lối lại, chọn thượng tầng mũi tàu, đặt chiếc áo vét tông lên chiếc tời đứng và bắt đầu thực hiện một loạt động tác thể dục hợp lý không vội vàng, không buồn phiền, vầng trán bướng bỉnh. Anh ta bỏ kính ra nên đôi mắt có độ to bình thường. Vậy là mắt kính lồi làm mắt anh ta to hơn bình thường. Một mình thuyền trưởng ở trên cầu tàu. Trong lồng kính ở đằng sau ông, người lái ngồi bất động, hai bàn tay nắm lấy bánh lái bằng đồng, mắt dán vào chiếc la bàn. Gã trai làm bếp đội mũ trắng, đi qua boong để vứt rác xuống biển, trông thấy chàng trai người Đức đã thích thú dừng lại một lúc lâu, bởi vì người hành khách này nằm ngửa thật thẳng, vươn mình rồi lại đứng lên như người máy với nhịp độ đều đặn kèm theo những tiếng "hầy" hài lòng. Một người khác đưa mắt theo dõi việc tập luyện này và khi trông thấy người đó, Petersen nhăn mặt, vẻ phật ý. Đó là Peter Krull, thủy thủ tiếp than vào lò, ngồi gần cửa boong tàu của nhiệm sở đoàn thuỷ thủ, điếu thuốc lá dính ở môi dưới. Chỉ có hai giờ tự do. Thông thường vì quá ít thời gian, những thợ máy không cần tắm rửa, nhất là cũng không thay quần áo. Thế mà anh ta lại thay chiếc áo xanh để đốt lò bằng chiếc áo vét đồng phục cũ. Anh ta để ngực trần đầy lông hung và đầu đội chiếc mũ ca-lô vải. Không có quy tắc nào ngăn cấm anh ta ở đây hoặc đúng hơn vào mùa đông, hiếm có nhiều hành khách, đây là một sự châm chước. Còn hơn cả hôm trước, bộ mặt anh ta làm thuyền trưởng ngạc nhiên, nói đúng ra là bối rối. Một sự bối rối giống như sự bối rối làm chúng ta ngoảnh mặt đi khi chúng ta tưởng đọc được sự thông minh trong đôi mắt của con vật hạ đẳng. Có lẽ nào gã giữ được dáng bộ quá thư thái, tự tin lại còn thanh lịch trong sự bị mất phẩm giá của gã ? Gã không rời mắt nhìn Schuttringer. Người Đức nhìn gã vào lúc gã kết thúc bài tập luyện và mặc áo vét. Thuyền trưởng tin là phân biệt được sự khó chịu nào đó nhưng dẫu sao, gã trai bước dài đi xa không ngoảnh lại. Ít lâu sau, Evjen theo thói quen của ông ta khi ở trên tàu, trèo lên thang cầu tàu để bắt tay Petersen. - Ngủ ngon chứ ? - Không tồi... Hình như có một hành khách bị ốm hả ? - Một người bệnh, đúng ! - Thuyền trưởng rít răng càu nhàu - Có chuyện gì thế, ông Vriens ? Vì người sĩ quan thứ ba đến lượt xuất hiện, hầu như không mệt mỏi như đêm trước, nói rất nhanh: - Tối qua khoảng..., có một lúc, tôi nghe thấy tiếng động sau những hòm... Tôi thoáng nhìn thấy người hành khách... Có một lúc im lặng. Eyjen nhìn thuyền trưởng muốn biết ông phải nghĩ gì về chuyện này. - Nào, Vriens ! Người này rùng mình, còn giật mình như người cảm thấy nỗi nguy hiểm. - Đêm qua, anh ngủ vào mấy giờ ? - Tôi... tôi không biết. - Tôi đây, tôi sẽ cho anh biết ! Vào hai giờ, anh còn dạo chơi trên boong ! Vì đêm trước, anh đã không ngủ ! Và anh đã đi suốt đêm hôm trước... - Ông muốn nói gì ? - Rằng tôi bắt đầu e rằng anh có những ảo giác ! Hãy lấy những người mà anh muốn và hãy đặt vào tay tôi người hành khách ma ấy ! Hiểu chứ ? Việc đó đã lại bắt đầu. Trong những giờ đầu ca trực của mình, Petersen không thể ngăn nổi nghĩ tới những sự kiện hôm trước. Khó ngủ, một bát cà phê đen trong bụng, buồn âm u trong ban mai lạnh giá, ông đã có một cơn ác mộng, trong đó có người sĩ quan thứ ba của ông, người thủy thủ tiếp than vào lò, gã Ericksen ấy mà ông chỉ trông thấy chiếc áo khoác xám và người đàn bà trẻ lần lượt xuất hiện dưới dáng vẻ quái dị. Rõ ràng có điều gì đó không bình thường ở trên tàu. Nếu không, một viên chức cao cấp của cảnh sát đã không nhọc công chạy theo con tàu Polarlys tới tận Cuxhaven với biết bao sự thận trọng. Điều gì đó nghiêm trọng ! Như đích thân Sternberg đã nói với ông bằng giọng đanh thép rằng ông ta là cố vấn chứ không phải thanh tra. Phải chăng ông ta tìm Ericksen ? Ông ta đã không cau mày khi thuyền trưởng nói với ông về gã. Ông ta không hỏi một câu nào. Peter Krull thì sao ? Gà này đúng là đi bằng cách kéo lê chân để trở lại làm việc trong hầm tàu. Người phụ nữ trẻ cần gì mà cho gọi Vriens vào nửa đêm, để dạo chơi trên boong cùng hắn tới tận hai giờ sáng ? Evjen với vóc dáng cao lớn thanh nhã, đứng cạnh thuyền trưởng, đôi mắt xám nhìn chăm chăm về phía chân trời. - Ông có nghĩ rằng chúng ta sẽ có chuyến vượt biển tốt đẹp chứ ? - Ông đã ăn sáng chưa ? - Chưa... - Ông biết cô khách đang ở phòng ăn chứ ? - Khi tôi qua thì cô ta không ở đấy. Người Đức à ? - Người Đức, vâng ! Katia Storm... Nhưng theo giấy tờ của cô ta thì cô ta ở Paris, phố Vavin... - Cô ta đến Bergen à ? - Tất nhiên là không ! Tới Kirkenes ! Schuttringer cũng thế ! Lần này, mọi người xuống Rirkenes là nơi thông thường, chỉ có ông đến đấy ! - Tất nhiên là chuyến đi thú vị, phải không ?... Evjen quan tâm tới cô khách. Ông thú nhận đã nhìn vào phòng ăn khi đi qua. Cũng chắc chắn là ông ta để chậm bữa ăn sáng với hy vọng ăn cùng lúc với cô khách đi tàu. Họ nhìn thấy cô ta đến trên boong chỗ họ đang đứng. Cô ta dè dặt để hở mũi theo cách của người vừa ra khỏi nhà tắm và sợ bị cảm lạnh. Cô ta đã thay đổi y phục, mặc bộ quần áo nữ máu xám và hồng cũng như chiếc áo dài hôm trước là của một cửa hàng may đo lớn. Cô ta tươi tỉnh. Mái tóc còn giữ những dấu vết của lược chải. Ngẩng đầu lên, cô ta nhận thấy hai người đàn ông liền mỉm cười với họ. - Xin chào thuyền trưởng... Rồi, với Evjen, cô ta khẽ gật đầu chào vẻ ý tứ hơn - Hôm nay trời đẹp chứ ? - Tôi mong như vậy. Trong khuôn cửa hé mở, người phục vụ lộ bộ mặt thất vọng vì không ai quyết định ăn, như vậy anh ta mất toi một buổi sáng chờ đợi. Evjen đi xuống sau một câu nói tầm phào. Petersen nhìn ông ta đi bách bộ, cẩn thận từ từ lại gần Katia Storm đang theo dõi ông ta bằng cặp mắt của con chim mòng biến. Thuyền trưởng không thể nói vì sao không khí này làm cho ông có cảm giác lo lắng và sự trống trải. Trống trải vì bầu trời tuy không đầy mây nhưng là màu xám u ám. Trống trải vì con tàu trong đó những người đi đi lại lại không mục đích, không vui vẻ. Trống trải ngay bản thân ông. Hầu như ông đang chờ đợi điều gì đó mà không biết là chuyện gì. Ông thấy ba thủy thủ ra khỏi khoang trước cùng với Vriens liền kêu họ: - Không có gì chứ ? - Không có gì cả. Tất nhiên ! Có những núi hòm và kiện hàng đủ loại mà người ta không thể xáo trộn vì chúng được xếp theo trật tự những cảng mà chúng được gửi tới. Một người đàn ông ở trong đó có thể thoát khỏi những cuộc tìm kiếm trong nhiều ngày. Đột nhiên ông không trông thấy ai cả. Evjen và Katia hẳn đang ăn. Vriens đi về phía phòng ăn của sĩ quan, chỉ có gã trai làm bếp thỉnh thoảng đến ném thứ gì đó xuống biển. Hai giờ trôi qua như vậy để nhìn chân trời, rồi chiếc địa bàn, rồi lại chân trời, cùng lúc tâm trí Petersen dựng lên những giả thiết về nhiệm vụ của Sternberg. Tiếng chuông báo giờ trực ban. Đã đến ca trực của sĩ quan thứ ba giữ vị trí ở cầu tàu là nơi anh ta đứng thẳng đơ trong bộ quần áo quá mỏng nhưng có gắn phù hiệu, chiếc mũ cát két được trang trí một phù hiệu lớn. Thuyền trưởng nhìn anh ta từ đầu đến chân, định lại mở đầu cuộc tranh luận nhưng đành lòng làu bàu, vẻ mệt mỏi: - Hãy canh gác hướng mũi tàu... Bắc - Tây Bắc... Ông để một giờ tắm rửa và mặc quần áo. Khi đi qua ô hành khách ở phòng hút thuốc ông trông thấy Bell Evjen và Katia Storm ngồi cùng bàn, Schuttringer trong một góc khác đang xem một tập tranh ảnh mà ông ta thấy ở lò sưởi. Khi đã xong, ông lang thang một lúc trong hành lang ở mạn trái. Đó là việc quan tâm duy nhất. Buồng thứ nhất là của ông lớn hơn những buồng khác với một góc là bàn giấy. Rồi đến buồng của Evjen, tiếp đó là một buồng trống. Tiếp đó là buồng số mười tám nổi tiếng mà Ericksen đã bỏ trống để ẩn náu trong khoang hầm. Sau cùng là những buồng số hai mươi, hai mươi hai và hai mươi bốn, được sử dụng lần lượt bởi Katia Storm, Arnold Schuttringer và viên cố vấn cảnh sát. Phần còn lại trống và tận cùng hành lang có một tấm biển nhỏ chỉ dẫn những chỗ rửa mặt, nhà vệ sinh và phòng tắm. Người phục vụ dựng bàn, đi qua đi lại, hai cánh tay chất những chồng đĩa, trước thuyền trưởng. - Ông Von Stern... tôi muốn nói phòng số hai mươi bốn... Ông Wolf... Ông ta chưa ấn chuông gọi ông ư ? - Chưa. - Bữa ăn sáng đã xong chưa ? - Một lát nữa... Quả nhiên, sau khi đặt những khăn ăn vào chỗ của họ, người phục vụ cầm lấy chiếc cồng đem treo lắc lư ở cửa phòng hút thuốc. Tia nắng mặt trời lọt qua những cửa sổ làm sáng loáng những lá cờ hiệu nhỏ của công ty đặt trên những chiếc bàn. Mới cạo râu, còn cảm thấy mùi xà phòng, Petersen mặc bộ com-plê dạ làm cho ông to béo hơn và hơi vụng về. Bàn tay đặt lên lưng ghế tựa của mình, ông đợi mọi người ngồi vào bàn. Evjen và người phụ nữ trẻ cùng đến, kết thúc cuộc nói chuyện về những môn thể thao mùa đông ở Chamonix và ở Tyrol. Schuttringer vẫn giữ nguyên bộ mặt của buổi sáng khi ông ta hoàn thành những động tác tập thể dục. Trước khi ngồi xuống, thuyền trưởng ngoảnh mặt về phía hành lang với cảm giác thiếu cái gì đó và sau đó hẳn ông nhớ tới nỗi lo lắng không rõ ràng ấy. Bởi vì, đúng lúc đó, mọi người nghe thấy một tiếng kêu lạ lùng bắt đầu nghèn nghẹn rồi cuối cùng là dữ dội. Người ta cam đoan đó là tiếng kêu hấp hối ! Katia quay ngoắt về phía thuyền trưởng. Evjen đang nói chuyện gì đó với cô bạn liền ngưng giữa câu. Schuttringer vừa cầm lấy khăn ăn đã đặt xuống, hỏi: - Có chuyện gì xảy ra thế ? Petersen đi vài bước về phía cửa, nhận rõ người phục vụ mặc áo vét trắng đứng sát vách trong hành lang, trước chiếc cửa mở của viên cố vấn cảnh sát. Người phục vụ gập cánh tay che kín mặt, nhún mình xuống như gắng sức đẩy lui bức tường. Chính anh ta là người kêu lên. Nhưng anh ta không thể kêu thành tiếng. Đôi chân anh ta lả đi. Thuyền trưởng chạy vượt phần đường còn lại. Đến cửa, ông dừng phắt lại, hai tay nắm chặt, hàm cứng lại. Phải chăng ông đã không chờ đợi điều gì đó tương tự ? Chiếc chăn từ giường trôi xuống đất. Chiếc đệm xiêu vẹo, những tấm khăn trải giường cuộn lại thành búi, vấy máu. Trên mặt của Sternberg cũng có một chiếc khăn trải giường như thể người ta muốn bắt ông phải im lặng. Và giữa ngực hở ra do không cài khuy áo ngủ có hai ba vết chém, những vết máu, những vệt ngón tay dầm máu. Một bàn chân trần thò ra khỏi giường, trong veo, mà Patersen chỉ cần sờ lướt để tin chắc là đã chết. *** Người phục vụ không nhúc nhích. Người ta nghe thấy tiếng răng anh ta đánh lập cập và anh ta vẫn khăng khăng gập cánh tay che lấy mặt. Ba hành khách tiến lên, ngập ngừng. Evjen đi đầu. - Thế này là sao ? - Ông ta hỏi. Vào lúc ấy, thuyền trưởng nhận thấy người phụ nữ trẻ chưa nhìn thấy xác chết nhưng hẳn đã trông thấy những vết máu nên bấu những ngón bàn tay phải vào cánh tay Bell Evjen. Cũng đúng lúc ấy ông có cảm giác Schuttringer dù đeo kính cũng không thấy rõ lắm. Người Đức vẫn tiến lên. Anh ta đứng một lúc lâu ở ngưỡng cửa, đôi lông mày nhíu lại, sau đó thốt lên: - Ai đấy ? - Cô hãy bình tĩnh - Evjen vừa nói vừa vỗ vào bàn tay Katia - Cô đừng ở lại đây... Bởi vì dần dần cô ta buông thả cho niềm xúc động của mình mà người ta có thể dự kiến cái lúc mà cơn kích động bùng nổ. - Hãy đưa cô ấy đi ! - Thuyền trưởng giận dữ thét lên. Ông đẩy lui Schuttringer. Cánh cửa cuối thông với bếp đã mở ra và ta thấy những bóng dáng lạ lùng còn ngập ngừng. - Vào đi - Petersen ra lệnh cho người phục vụ. - Không !... Không phải thế !...- Người này rên rỉ. Một lúc sau, thuyền trưởng không lý giải được thế nào mà ông nắm lấy cánh tay kẻ đối thoại làm gã xoay tròn trong buồng số hai mươi bốn mà ông đá chân để đóng cửa lại. - Ông ta có bấm chuông gọi không ? - Không !... Nhưng... khi... khi ông nói với tôi về ông ta, tôi nghĩ nên đến gõ cửa... Muộn rồi... Tôi không nghe thấy tiếng động... Ông ta không trả lời... Tôi từ từ mở cửa... Hãy để tôi đi... Anh ta lại thốt lên tiếng kêu sợ hãi bởi vì trong lúc cử động anh ta đã lướt nhẹ bàn tay vào bàn chân trần của người chết. - Ừ, đi đi !... Bảo lại đây... - Ai ạ ? - Không ai cả!... Tôi không biết... Ông có thể nói với ai ? Ông là thuyền trưởng. Không ai có quyền gì trên tàu ngoài ông. - Đi đi ! Đóng cửa lại... Cái xác không làm ông sợ và ngay cả bàn chân ấy thò ra làm rối những cử động của ông, ông vẫn đặt nó lên giường ở phía bên kia. Thật ngẫu nhiên, ông sờ ngực người chết. Thì hài đã cứng, lạnh giá. Hẳn tội ác đã diễn ra trong đêm. Không, máu chưa hoàn toàn đông lại. Chiếc vali của Sternberg đã được kéo ra khỏi lưới để hàng và được đặt ở sàn ngay giữa buồng. Người ta đã mở vali. Đồ đạc trong đó vứt bừa bãi trên thảm. Đó là quần áo, một bộ com-plê để thay đổi, những chiếc cổ hồ bột và những chiếc cra-vat. Còn có đôi giày bằng da dê đánh bóng. Petersen hết sức tránh đụng vào đồ vật. Nhưng ông không quyết định đi ra, tin chắc căn buồng chứa đựng chỉ dẫn nào đó về kẻ sát nhân. Ông không thấy một thứ vũ khí nào. Trái lại, khi đụng đến chiếc gối dù rất nhẹ, ông thấy những tờ báo bằng tiếng Pháp và Đức lộ ra. Hẳn có cuộc vật lộn. Nếu không, không cần vo viên chiếc khăn trải giường trùm lên đầu Sternberg. Những vết máu trên ngực do tự ông ta gây ra trong cơn hấp hối bằng những ngón tay còn nhầy máu. Từ vẻ ngoài căn buồng và thi hài toát lên một cảm giác đột ngột về tính cô độc, đồng thời là thiếu kinh nghiệm và vụng về. Cảnh xảy ra hẳn ghê gớm. Bị bất ngờ ở trên giường, ông ta đã vật lộn. Còn kẻ kia tiếp tục đánh hú họa, cố bằng mọi cách buộc nạn nhân của y câm miệng. Mọi người không nghe thấy gì hết. Những hành khách ở những buồng gần kề khẳng định đã ngủ ngon. Chiếc vét-tông treo ở mắc áo. Petersen lục các túi, chúng đều trống rỗng, nhưng trong chiếc áo choàng, ông tìm được cái ví trong đựng năm mươi nghìn Mac, những tấm danh thiếp mang tên Sternberg, những lá thư và một phiếu đi tàu hoả ở Đức miễn phí. Xong rồi, thuyền trưởng mới lấy từ túi nhỏ bức ảnh chân dung một thiếu nữ trạc mười lăm tuổi có đôi mắt to đen, mái tóc hầu như xoăn. Ông không nghĩ tới chuyện vuốt mắt cho người chết. Ông dè dặt phủ chiếc khăn trải giường lên người ông ta. Khi ông đi ra, ông thấy Evjen và Schuttringer đang bước những bước dài ở hành lang và cùng lúc ngẩng đầu về phía ông. - Tôi không có gì để nói cả ! - Ông trả lời câu hỏi thầm lặng của họ - Nửa đêm chúng ta sẽ tới Stavanger. Cảnh sát sẽ quan tâm tới vụ này. Cô Storm đâu ? - Trong buồng cô ấy ! Cô ấy yêu cầu mọi người để cô ta ở một mình... Ông cũng định trở về buồng mình, nhưng đổi ý, ném những tờ báo và chiếc ví lên ghế nằm của mình khi đi qua và đến ngồi vào bàn. Một lúc sau, hai người đàn ông quyết định làm theo ông. Người phục vụ, đảo lộn, còn xốn xang, phục vụ họ mà không biết mình làm gì. Họ ăn, nhưng để tỏ ra không lúng túng, Petersen đứng lên trước khi kết thúc bữa ăn vì đột nhiên ông nghĩ là mình quên rửa tay. III NGƯỜI PHỤ NỮ CHẾT Ở PHỐ DELAMBRE Petersen dễ dàng đọc tiếng Anh và tiếng Đức, nhưng ông phải sử dụng từ điển để tra không ít từ trong bài báo ở tờ báo tiếng Pháp là tờ duy nhất có thể có quan hệ tới sự có mặt của Sternberg trên tàu. Tờ báo ra ngày mười bảy tháng hai. Con tàu Polarlys nhổ neo dời bến ngày mười chín vào ba giờ chiều, có nghĩa là gần lúc mà những tờ báo hàng ngày ra ngày mười bảy được phát hành ở Hambourg. "Một tội ác ở Montparnasse” là đầu đề bài báo. Phụ đề nói rõ: "Lại ma tuý !". Cửa sổ buồng màu xanh lục. Thuyền trưởng áp mặt vào đó một lúc, nhận thấy trước buổi tối sương mù vẫn sẽ dày đặc như hôm trước, ông dỏng tai nghe tiếng động của máy và cuối cùng ngồi trước bàn giấy của ông. Trên vách có một bức chân dung phóng to vợ ông, tươi tỉnh và khoẻ mạnh, không thiếu vẻ xinh đẹp. Thấp hơn, một bức ảnh chụp nghiệp dư được ghim lại: Petersen mặc sơ mi trần, chơi với hai đứa con trong vườn một ngôi nhà một tầng trên những ngọn đồi ở Bergen. Trong lúc lật giở từ điển, ông nhắc lại với cách phát âm biến dạng những từ tiếng Pháp mà ông tra. Ông đại khái khôi phục ý nghĩa của bài báo: "Một vụ đặc biệt đau buồn lại vừa trắng trợn gieo rắc vào cuộc sống của người tứ xứ ở Montparnasse mà những tập quán càng ngày càng ít có quan hệ với những tập quán đích thực của Paris. "Tại nhà 19 bis, phố Delambre, chỉ cách nhau vài bước chân là ba hoặc bốn quán bia vang lên từ sáng đến tối những cuộc bàn cãi dài dòng bằng đủ mọi ngôn ngữ trên thế giới, hoạ sĩ người Muy-nie Max Feinstein (từ nhiều năm đã sở hữu một xưởng ở tầng trệt, có lối đi riêng ra phố Max Feinstein) có được sự nổi tiếng nhất định, đi nhiều và giữa những chuyến đi khác thì mỗi mùa đông đều qua hai hoặc ba tháng trên sông Riviera và trên những bãi biển vùng Địa Trung Hải. "Trong những chuyến đi ấy, ông ta có thói quen để lại chìa khoá cho vài người bạn sử dụng căn nhà trống. "Năm nay ông ta đi vào mùng một tháng giêng và báo cho bà gác cổng rằng các bạn ông thỉnh thoảng đến nhà ông và yêu cầu bà nếu có dịp thì quét dọn hộ. "Chúng tôi đã nói là xưởng vẽ có lối vào riêng. Chúng tôi nói thêm rằng ở cuối căn nhà nhỏ hẹp, nhà họa sĩ đã biến đổi thành buồng tắm, một cái cửa trước kia thông với nơi ở của bà gác cổng đã bị bít lại. "Chỉ nhờ cái cửa đó cho phép nghe được những tiếng động ở xưởng vẽ thì nay người ta có ý nghĩ mơ hồ về những gì đã xảy ra. "Bà gác cổng đã rất vui lòng nhắc lại với chúng tôi những điều bà đã khai với cảnh sát. Chúng tôi đăng nguyên văn lời khai nhân chứng của bà: "Về ông Max, tôi không có gì để nói cả. Đây là một người thuê nhà tốt, khá nghiêm chỉnh đối với một người trẻ tuổi, nhưng quá tốt bụng. Hằng trăm lần ông ấy dẫn về đây những đồng hương đang trong cơn bĩ cực. Đôi khi, ông ta giữ họ ở lại trong nhiều tuần lễ và cho họ ngủ trên đi-văng của xưởng vẽ. "Đó là ngày chủ nhật sau khi ông ra đi và đây là lần đầu tiên, tôi nghe thấy tiếng động. Tôi không lo lắng, xét vì mình đã được báo trước. Tôi chỉ chú ý là họ có ít nhất sáu người, trong đó có hai hoặc ba phụ nữ và tất cả đều nói tiếng Đức và họ mở những chai sâm-banh. "Ngày hôm sau, tôi đến dọn dẹp và tôi định viết cho ông Max, vì các bạn ông đã thật sự biến xưởng vẽ của ông ta thành cái chuồng ngựa. Có những chiếc cốc vỡ và chai lọ vương vãi khắp xó xỉnh. Bồn tắmđầy nước bẩn; người ta lau tay vào những tấm rèm cửa. Thế nhưng, tôi không viết !... 'Tóm lại, họ ở lại một thời gian rồi không đến nữa. Rồi tôi nhớ ngày thứ tư, tôi nghe thấy những tiếng nói. Nhưng chỉ có hai người, một đàn ông và một phụ nữ, ở qua đêm trong xưởng vẽ. Vào buổi sáng, mùi ête nồng nặc xộc vào mũi tôi qua khe cửa “Tôi muốn tống họ đi. Nhưng điều đó không liên quan đến tôi, không đúng chứ ? “Họ hẳn ra đi rất muộn. Ngày hôm sau, những người thợ bắt đầu trát lại sân và tôi không có thì giờ để mắt tới xưởng vẽ. Thứ ba là ngày tôi ra khỏi nhà. "Nói đúng ra, tôi đã chán ngấy từ đầu khi nghĩ tới sự bẩn thỉu mà tôi sẽ gặp và chỉ tới thứ năm tôi mới quyết định. "Cảnh sát đã nói với các ông phần còn lại. Còn tôi, tôi chạy trốn và túm lấy cánh tay người qua đường đầu tiên, tôi thật sự khiếp sợ. "Một phụ nữ nằm trên giường không một mảnh vải ! Một cô gái rất trẻ, hẳn rất xinh đẹp, nhưng có những vết bầm tím trên mặt và trên thân thể. "Rượu sâm-banh và Uytx-ki vương vãi khắp nơi. Tôi giẫm lên một ống tiêm bằng thuỷ tinh do vô ý nhưng những chuyên gia vẫn có thể phân tích được. "Những kẻ hèn nhát, phải không ? Khi họ thấy cô ta đã chết, họ trốn biệt ! Và họ để mình cô ta ở lại ! Petersen nhìn hình ảnh ngôi nhà Na-uy của mình bằng gỗ sơn, cũng xinh xắn như một thứ đồ chơi và ông cảm thấy bực bội như một người lần đầu tiên phát hiện một số bệnh đặc biệt ghê tởm. Bài báo viết tiếp: "Những lời cuối cùng của bà gác cổng thâu tóm khá rõ tình hình. Cảnh sát tư pháp đã mở cuộc điều tra, nhưng nếu cuộc điều tra này đã cho những kết quả về nạn nhân thì nó lại không cho biết gì về những thủ phạm. "Việc khám nghiệm tử thi cho thấy trước hết là cô gái này trạc hai mươi tuổi, lành mạnh, không có những tật xấu, trong tối chủ nhật đã dùng một lượng lớn rượu và ma tuý. "Nhưng cái chết là do một mũi tiêm moóc-phin mà người ta tìm thấy dấu vết ở đùi trái. "Bức ảnh được đăng tải hôm qua trong những tờ báo buổi chiều cho phép nhận diện cô ta. Đây là một cô gái có tên là Marie Baron, sinh ở Amboise, bán hàng trong một cửa hàng ở phố Clichy và sống độc thân trong một căn hộ thuê có đồ đạc ở đại lộ Batignolles. "Gia đình cô ta ở Indre-et-Lore và chính một người bạn gái đã đến xác nhận thi hài tại Viện Pháp y. "Ngoài ra cô bạn này đã khai rằng chủ nhật trước, như những chủ nhật khác, họ phải cùng đi Luna Park. Nhưng tối thứ bảy, Marie Baron nói với cô rằng cô ta đã gặp những người trẻ tuổi "rất kỳ cục" và cô ta thích theo họ đến Montparnasse. "Thật quá dễ dàng tái dựng những sự việc. Một nhóm nghiện ma tuý, như thường xảy ra, đã tìm cách lôi cuốn thêm một cô gái chưa bao giờ sử dụng ma tuý. "Thêm sự có mặt của Marie Baron, cuộc chè chén trác táng đã bắt đầu với rất nhiều rượu sâm-banh, rượu mạnh và hê-rô-in. "Liệu cô gái còn biểu lộ nhiều khả năng chịu đựng chăng ? Dẫu sao, xét vì cô ta thiếu kinh nghiệm, chắc chắn cô ta không thể tự tiêm vào đùi mình. Vậy một bạn cô hẳn làm việc này, có thể do bất ngờ. "Bác sĩ Paul khẳng định rằng cái chết hầu như tức thì do bị ức chế. "Khiếp sợ, nhóm này bỏ trốn tuy nhiên đã cẩn thận không để lại chút gì tại hiện trường có thể cho phép nhận dạng nhũng người có mặt. Đó là nét đặc trưng đáng lưu ý, bởi vì nó để lộ rằng sự hốt hoảng, chí ít đối với một số người, chỉ là tương đối. "Một cuộc điều tra trong những giới người tứ xứ ở Montparnasse không đem lại kết quả nào. Chỉ có hoạ sĩ Max Feinstein mới có thể nói khi đi đã trao chìa khoá cho ai. "Than ôi ! Người ta đã gửi điện đến Nice và Cannes nhưng vô ích. Theo những tin tức mới nhất, ông lên tàu thuỷ đã tám ngày để đến một bãi biển ở vùng Địa Trung Hải, nhưng người ta không biết bãi biển nào. "Không một chi tiết nào trong vụ này lại không đặc biệt ghê tởm. "Về bố mẹ già của Marie Baron, người ta hình dung trạng thái sững sờ, sự hoài nghi, cuối cùng là nỗi thất vọng của họ trước việc tiết lộ những sự việc như vậy. Cảnh sát làm việc chăm chỉ. Với lý do đúng đắn, họ không ít lo sợ rằng những thủ phạm đã ở xa khi cuối cùng họ đạt tới việc xác lập căn cước của chúng". Petersen đưa mắt nhìn khắp những đầu đề ở tờ báo Đức nhưng không tìm được gì có thể có liên quan tới vụ án. Ông tái mặt và cảm thấy khó chịu cả về thể chất lẫn tinh thần. Từ tuổi mười ba, ông đã sống ở biển, ông đã chứng kiến những vụ đánh nhau trong những căn nhà lụp xụp ở cảng. Một lần, một thủy thủ say rượu đã kể cho ông về những tội ác của y. Trong khi ông là thuyền trưởng, cảnh sát đã tiến hành nhiều vụ bắt giữ tội phạm trên tàu của ông. Lần đầu là một tên lừa bịp quốc tế, lần thứ ba là một gã Ba Lan trong cơn ghen tuông đã bóp cổ vợ và hai đứa con mình. Tất cả điều đó hầu như để lại cho ông vẻ lạnh lùng. Là một tín đồ Tin lành ngoan đạo, ông để ý đến những bản năng tốt và xấu giành giật nhau trong tâm hồn con người. Thế mà lúc này, đúng là một sự tủi hổ làm ông xúc động đến tắc thở. Ông chưa bao giờ được thấy Paris. Ông thử hình dung cái khu phố Montparnasse ấy mà báo chí nói tới, rồi xưởng vẽ của nhà hoạ sĩ, không khí cuộc chè chén trác táng, cái xác trần truồng trên đi-văng... Thật lâu ông không tự hỏi có phải vụ này có quan hệ nào đó với vụ giết viên cố vấn cảnh sát Von Sternberg, tuy nhiên, từ đó, hầu như ông không hay biết, ông vẫn tin chắc là có. Dẫu không muốn, ông vẫn điểm lại những bộ mặt, những hình bóng: Ericksen mặc áo khoác xám mà ông chỉ nhìn thấy sau lưng và đang lẩn trốn trong khoang hầm, gã thủy thủ tiếp than Peter Krull và nụ cười đáng lo ngại của gã; Vriens với đôi mi mắt đỏ, trạng thái bị kích thích bệnh hoạn; Schuttringer và đôi mắt tròn xoe, không lông mi cũng không lông mày... Ông bối rối nhớ tới máu nóng bốc lên mặt khi nhìn đôi chân của Katia và ông tự thú ít nhất là hai lần, ông cố ý chạm nhẹ vào cô ta khi ông đi qua gần cô ta. Điều nổi bật trong tư tưởng của ông là cảm giác có điều gì đó rối loạn trong thế giới của ông. Và điều đó làm ông hoang mang đến mức ông lấy hai tay ôm lấy đầu, rất lâu sau, ông giật mình khi nghe thấy tiếng chuông báo sáu giờ. Đến mức con tàu của ông không còn là nó nữa ! Sau khi ra khỏi buồng mình, ông nghi ngờ nhìn dọc hành lang, nhận thấy người phục vụ đứng rất gần cửa buồng ông. - Họ đang ở đâu ? - Ông hỏi, giọng nghi ngờ. - Ai ạ ? - Những hành khách... Evjen... Schuttringer... - Ở trên kia... Trong phòng hút thuốc... - Còn người phụ nữ trẻ ? - Cô ta đi gặp họ... Ông nặng nề trèo lên cầu thang, mở cửa phòng hút thuốc lá và đứng ở ngưỡng cửa, nét mặt rắn đanh. Những hành khách vẫn ngồi ở chỗ như buổi sáng: Bell Evjen và Katia ngồi cùng bàn trước chai nước khoáng; trong góc đối diện, Schuttringer đang chơi cờ một mình. Đèn vừa bật sáng. Ba bộ mặt quay về phía thuyền trưởng. Evjen suồng sã hơn những người kia, mở miệng định nói. Nhưng Petersen đột ngột đóng cửa lại và tiếp tục trèo lên đến cầu tàu. Ông nhận rõ bóng dáng nhỏ bé của Vriens vừa chuyển phiên trực cho sĩ quan thứ hai. Ông đi đến đằng sau anh ta không gây tiếng động nào, ông đặt bàn tay lên vai anh ta. Gã trai run cả tứ chi, lộ rõ bộ mặt biến sắc. - Thuyền... thuyền trưởng ! Anh ta ấp úng trong lúc cố lấy lại bình tĩnh. - Anh sao thế ? Anh đang run... - Không có gì... tôi... tôi không chờ đợi... - Nào ! - Hình như có một... người chết phải không thuyền trưởng ? - Một người chết, đúng ! Cần gì ! Nào !... Giọng nói của ông khô khan đến nỗi viên sĩ quan thứ hai đã biết ông từ nhiều năm, ngạc nhiên về ông. Đây là một gã trai ba mươi tuổi, không có bằng cấp nên kiên trì theo đuổi trình tự cấp bậc, tin chắc mình sẽ là thuyền trưởng vào quãng bốn mươi lăm tuổi. Anh ta sống với mẹ ở Trondhiem. "Một vụ xấu xa !” - Ông nói khi Vriens đã đi xa - Phải tóm cổ kẻ phạm tội đang lẩn trổn trên tàu... - Chúng ta đang ở đâu ? Họ cúi xuống bản đồ. Petersen làu bàu: - Với sương mù thế này, chúng ta sẽ không đến Stavanger trước một giờ sáng. Và chúng ta lại phải đi tiếp vào hai giờ rưỡi ! Nếu ít ra chúng ta có điện báo vô tuyến, như người ta hứa với chúng ta từ hai nămnay... Ông thật sự không ở nơi nào cả và đây là lần đầu tiên điều đó xảy đến với ông ở mạn tàu của ông. Để trở lại buồng mình ông phải qua boong dạo chơi trong đó có một dãy cửa sổ của phòng hút thuốc lá. Ông liếc mắt vào đó và nhận thấy không có Katia Storm. Tại bữa ăn tối, ông không nói một lời. Rõ ràng ông bận tâm về chỗ trống của người phụ nữ trẻ. - Cô ta ăn ở buồng mình ư ? - Ông hỏi người phục vụ. - Không ! Cô ta không có ở đó... Trán ông hằn sâu một nếp nhăn và đột nhiên ông đứng lên, bước về phía trước con tàu là nơi có phòng ăn của sĩ quan. Ông sắp đến buồng của Vriens thì cửa mở và Katia vội bước ra, đứng phắt lại khi trong thấy thuyền trưởng cách cô ta dưới hai bước chân. Một lúc, cô thở đứt quãng. Rồi cô lấy lại bình tĩnh, nói: - Mọi người chưa ăn, phải không ?... Không phải ông tìm tôi đấy chứ ? - Không... Mọi người đợi cô ở phòng ăn... - Ông vờ có việc làm trong buồng thuyền phó lúc này trống không. Nhưng, ngay khi Katia đi khỏi, ông mở cửa buồng Vriens và thấy anh ta nằm dài ở ghế nằm, đầu đặt trên hai cánh tay khoanh lại. Gã trai chồm dậy vụng về, không sao xoá sạch những vệt dài ẩm ướt bóng nhẫy trên đôi má anh ta. - Thuyền trưởng... - Không có gì ! Cứ nằm đi !... Petersen đi ra, rầu rĩ hơn bao giờ hết, bản thân ông cũng không biết mình đang nghĩ gì. Tại bàn, ông thấy cô gái trẻ Đức nói nhiều, giọng the thé và thường ngoảnh mặt về phía ông. Nhưng vì ông vờ không nghe những gì cô ta nói với ông và Schuttringer cũng ngồi lơ đễnh theo thói quen của ông ta buộc Katia phải nói với Evjen. Cô ta lo lắng về việc tàu đỗ lại ở Stavanger. - Ông có nghĩ rằng cảnh sát sẽ làm chúng ta bị chậm không ?... Riêng tôi, tôi nghĩ rằng nếu người ta lục soát con tàu chỉ một lần thôi, cuối cùng người ta sẽ bắt được người đàn ông ấy... Gã tên là gì nhỉ ?... Ericksen hả ?. .. Có lẽ là một cái tên giả... Thuyền trưởng cảm thấy Evjen hơi bối rối, nhất là trước mặt ông là người khách đều đặn của vợ ông ta ở Kirkenes, muốn câu chuyện trở thành chung cho mọi người. *** Cách bốn năm dặm, người ta cho một hoa tiêu xuống chiếc thuyền một buồm để ghé vào bờ. Sương mù dày đặc trong những vùng biển rải rác đá ngầm, nên mọi người cần đứng gác. Họ túm tụm trên boong mũi, kêu về phía cầu tàu những lời chỉ dẫn hăng hái. Trong bóng tối, con tàu Polarlys như một đám mây phát lân quang. Nhưng từ cầu tàu người ta vẫn không nhìn rõ phía sau ! Còi rú lên không ngừng và người ta thử nhận ra hướng một hồi còi khác mà từng đợt, người ta nghe thấy tiếng la ó như tiếng rên xa xăm. Mặt những hành khách áp sát những ô kính ở phòng hút thuốc. Họ trông thấy những chiếc đĩa trắng nhợt vây quanh con tàu. Rồi người ta nghe thấy những tiếng nói rõ ràng gây ảo giác ở rất gần. Người ta có thể nghĩ mình ở cách bến nhiều dặm. Người ta còn không nhận ra ánh sáng ngọn hải đăng. Thế mà người ta chỉ còn cách bến cảng có mười mét ! Những thủy thủ đã ném những dây chão xuống ! Trời mưa. Mặt đất giữ trong những chỗ trũng những vệt tuyết lớn mềm. Khi cầu tàu hạ xuống, hai mươi người vội lao tới những khoang đã được mở ra để tiến hành bốc dỡ hàng. Một viên chức cảnh sát mặc cảnh phục đứng nghiêm chào Petersen và hỏi: - Nhiều hành khách chứ ? Từ thành phố, đứng ở sườn núi, người ta chỉ trông thấy đoạn đầu một phố dốc thoai thoải trong đó những cây đèn soi sáng vài mặt tiền những ngôi nhà sơn màu lục hoặc son đậm. - Cần đi gặp ngay thủ trưởng của ông ! - Thuyền trưởng nói- Một tội ác đã xảy ra trên tàu... Lúc này đã hơn một giờ. Những quy định ở Na- uy nghiêm ngặt: không một quán cà phê mở cửa. Cũng không có lấy một người qua đường ! Không một bóng người nếu không phải là những người bốc dỡ hàng vận hành những chiếc pa-lăng và dỡ những thùng hàng ở hai khoang hầm ra. Sau một lúc phân vân, sững sờ. Cuối cùng viên cảnh sát quyết định gõ cửa một khách sạn gần đó để gọi điện thoại. Bên bến cảng, sương mù như bị xé rách bởi những người đi đi lại lại và người ta gần như phân biệt được những người và vật. Nhưng về phía vũng biển là một đám mây trắng nhợt dày đặc không xuyên qua được, những luồng hơi giá lạnh đến từ đó. Người ta còn không trông thấy nước dưới sườn tàu đem ngòm. Đột nhiên có chuyện gì đó xảy ra. Dẫu có những tiếng nghiến ken két của những chiếc ròng rọc và tiếng va chạm của những chiếc thùng vào nền đá lát ở cảng, người ta vẫn nghe thấy tiếng động của một vật thể khá nặng làm nổ bục mặt nước. Petersen đuổi kịp viên chức cảnh sát, bước qua những chiếc thùng tròn để đến lối đi từ mũi tàu đến lái ở mạn phải. Khi ông đến nơi, ông xô đẩy Vriens đang thở hổn hển: - Kia !... Nhanh lên !... Tôi trông thấy y nhảy... -Ai ?. - Người đàn ông mặc áo xám... Ericksen... Viên cảnh sát không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Thuyền trưởng nhoài người trên lan can nhưng không trông thấy gì hết, không nghe thấy gì. - Ông tin chắc chứ ? - Có vật gì đó rơi xuống. - Một người bốc dỡ hàng đang làm việc cách đó sáu mét đến khẳng định - Nhưng gì thế ?... - Tôi chỉ trông thấy màu xám... - Sĩ quan thứ ba nhắc lại. - Một xuồng máy !... Nhanh lên !... Ngừời ta không có thì giờ hạ thuỷ một chiếc. Petersen chạy về phía cảng, thả một chiếc thuyền neo buộc ở chân một cầu thang đá. Viên chức cảnh sát đi theo ông. Những người đàn ông ở trên những khoang ngừng công việc và ta thấy chiếc áo trắng của người phục vụ nghiêng người trên bờ thành tàu. Những mái chèo vỗ bập bềnh. Thuyền trưởng kêu lên: - Đèn hiệu !... Một người nào đó thả xuống một chiếc dọc mạn tàu ở đầu một dây chão. Nhưng tất cả những gì mà người ta có thể trông thấy lúc đó là mặt nước đen ngòm đang loang ra một cách yếu ớt qua những mảng sương mù. Liệu người đàn ông có đủ thì giờ bơi ra xa hoặc đến được một chiếc thang ở cảng ? Thuyền trưởng điều khiển những tay chèo bằng những tiếng gõ giận dữ. Viên cảnh sát đội mũ xa-cô, có gắn phù hiệu ở áo, nhoài người cẩn thận, đưa mắt nhìn sục sạo bóng tối. Những dây thừng của con tàu Polarlys nổi bật như trong một khung cảnh thần tiên, với những chỗ nhô ra sáng rỡ và những vạt tối lớn. Trong một vòng sáng, Petersen nhận rõ đôi vai của Vriens, cái đầu nghiêng nghiêng và đằng sau anh ta là hình bóng sáng của Katia Storm đặt bàn tay lên vai gã trai. - Nào ! - Ông làu bàu. - Ta không nghe thấy gì hết, phải không ? Chắc chắn y trôi thẳng tuột. - Chắc chắn như ông nói ! Viên cảnh sát sững sờ nhìn thuyền trưởng mà ông ta không hiểu nổi tâm trạng dữ tợn, những quyết định quá mau lẹ, trái ngược nhau, những cử chỉ giật giật. *** Đồn trưởng cảnh sát đến bằng ô tô, chỉ kịp mặc chiếc quần đen và khoác chiếc áo da ra ngoài áo ngủ. Đây là một người đàn ông gầy có vẻ quý phái hầu như luôn vận động trong phòng khách, nói với mọi người. - Người ta cho tôi biết có một tội ác... Petersen đưa ông ta vào buồng mình sau khi nói với viên cảnh sát mặc cảnh phục: - Tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là ông đừng để ai ra khỏi. Ông nói dứt khoát tỏ vẻ là người chủ đích thực. - Mời ông ngồi... Tôi sẽ cố cho ông biết bằng ít lời... Giờ tàu nhổ neo dời bến dự kiến vào hai giờ rưỡi... Lúc đó đã hơn hai giờ... Trong số hai mươi lăm bến cảng ở Na-uy, tất cả dân chúng đợi chúng tôi vào một lúc nhất định... Trên tàu tôi có bưu phẩm, đồ tiếp tế, máy móc, báo chí... nhưng tôi cũng có một người đàn ông bị giết... Ông nói sôi nổi đồng thời dáng vẻ của ông trở nên bình thản hơn. Ông không nhúc nhích, không hoa chân múa tay, nhưng sự mãnh liệt ngấm ngầm khẳng định trong giọng nói của ông Trong lúc bước những bước dài trong buồng mình có đồn trưởng ngồi trong đó, ông kể những sự kiện từ lúc khởi hành từ Hambourg, không quên tóm tắt bài báo ở tờ báo Pháp luôn ở trên chiếc bàn nhỏ. Hai lần ông ngừng lại để trèo lên boong, giám sát việc bốc dỡ hàng, dặn dò mọi người làm gấp. - Ông tính sẽ làm gì ? - Cuối cùng ông hỏi trong lúc buồng mình ngồi vào mép ghế nằm và lấy tay đỡ cằm. Bờ biển Na-uy được tạo dựng bởi một dãy núi mà chỉ có hai con đường chạy qua trong miền Nam. Kể từ Trondhjem, những con đường này không còn nữa và cũng không có đường sắt. Đó là những con tàu chạy bằng hơi nước dọc ven biển thuộc loại Polarlys, phải đảm nhiệm mọi việc giao thông, liên lạc thư tín và vận chuyển lương thực thực phẩm. Ở miền Bắc này, sản phẩm tự nhiên chỉ duy nhất là cá thu, hải cẩu và tùng lộc. Những con tàu mà mất đi thì dân chúng sẽ bị tách khỏi thế giới với chướng ngại sau lưng là núi không có lối vào và trước mặt là sóng lừng ở Địa Trung Hải. Chính vì thế mà những Công ty hàng hải được Nhà nước trợ cấp và đảm nhiệm dịch vụ chính thức. Đồn trưởng cảnh sát lo lắng. - Ông nói với tôi rằng gã Ericksen ấy vừa gieo mình xuống nước phải không ? - Tôi nói có cái gì đó rơi xuống nước và viên sĩ quan thứ ba của tôi đã trông thấy một hình bóng màu xám ! - Thuyền trưởng nói rõ. - Thật chẳng khác nào như... - Nếu ông muốn... - Những hành khách khác có giấy tờ hợp pháp chứ ? - Những hộ chiếu đã được cảnh sát Đức kiểm tra ở Hambourg như thường lệ. - Tôi sẽ cho kiểm tra lại. Tôi chỉ thấy một giải pháp: gọi điện thoại cho Oslo. Tôi sẽ có liên lạc hai mươi phút nữa. Trong thời gian này, một bác sĩ sẽ tới khám xét thi hài và một nhà chuyên môn tới chụp ảnh căn buồng, cố lấy những dấu vân tay. Các hộ chiếu sẽ được kiểm tra lại cẩn thận. Cuối cùng con tàu sẽ được khám xét toàn bộ. Việc đó sẽ làm ông chậm mất khoảng một giờ, ông sẽ không khó gì lấy lại thời gian... Như tôi nghĩ, nếu mọi việc cho thấy gã Ericksen ấy là kẻ sát nhân, nếu không có lời buộc tội nào được nêu lên đối với những hành khách khác, tôi không có quyền giữ họ. Đồn trưởng đứng dậy và thốt lên một tiếng thở dài cho thấy rõ những quyết định ấy bề ngoài thật giản đơn nhưng khó thực thi. Khi ông rời tàu, ông nhắc lại với viên cảnh sát: - Mong rằng không một ai được đi ra ! Những người lao động bốc dỡ những kiện hàng cuối cùng bị người phục vụ theo dõi bằng mắt, anh này không biết mình nên ở đâu vì anh thà hứng gió lạnh bên ngoài hơn là lang thang một mình trong con tàu vắng vẻ. Chiếc ôtô rời đi trong tiếng ù ù leo lên bờ biển. Chưa đến mười lăm phút sau, sáu người đàn ông mặc cảnh phục chiếm lấy con tàu Polarlys, những người này vào qua khoang trước, những người khác qua khoang sau, lia đèn pin soi khắp nơi. Schuttringer đội chiếc mũ cát-két nhỏ của kỵ mã, mặc áo vét-tông, bước những bước dài trên boong với bước chân thể dục của con người lo lắng cho vệ sinh thể chất của mình. Bell Evjen, vẻ buồn phiền, tìm cách lại gần thuyền trưởng để hỏi ông. Trong khi Petersen đến phía sau là nơi bóng tối dịu hơn tất cả những nơi khác, từ chỗ khuất hình thành do bánh lái dự phòng, phát ra tiếng thì thào, một cái hôn rì rầm. Thuyền trưởng còn bước vài bước lặng lẽ, thấy hai bóng người ôm chặt lấy nhau, phân biệt được trong đêm tối, vết trắng như sữa của hai bộ mặt gắn chặt môi vào nhau. Ông không cần phân biệt những đường nét cũng nhận ra tấm phù hiệu mới của Vriens lấp lánh. Và ngang tầm hai vai, trên nền chiếc áo tối màu, là cánh tay trần của Katia. IV HAI TẤM PHIẾU Khi những hành khách và các sĩ quan tập họp tại phòng hút thuốc, đồn trưởng cảnh sát hết sức niềmnở phát biểu ngắn gọn với họ: - Thưa bà, thưa các ông, các vị đã biết sự kiện bi thảm giải thích sự có mặt của tôi trên con tàu này. Cho đến nay tất cả làm chúng tôi cho rằng thủ phạm không ở trong số các vị và y đã nhảy qua mạn tàu khi đến Stavanger. Thế nhưng có một số thủ tục cần phải hoàn tất và các vị hãy tin rằng tôi cố gắng làm cho những thủ tục ấy đối với các vị thật hết sức nhẹ nhàng. Xin các vị đừng thấy ở đây một dấu hiệu nghi ngờ nào mà nỗi lo lắng duy nhất là cho phép con tàu Polarlys tiếp tục cuộc hành trình của mình. Mong rằng mỗi vị vui lòng trở lại buồng mình để chứng kiến việc khám xét sẽ diễn ra... Cảnh sát trưởng cũng nói những câu ngắn gọn với các thành viên đoàn thủy thủ và đã lục soát những giường treo, những túi của thủy thủ và những chiếc vali. Những tấm pa-lăng đã đứng im. Con tàu chỉ còn đợi cảnh sát cho phép nhổ neo dời bến. Trong buồng số hai mươi bốn, hai chuyên gia đã xác định tư thế của thi hài và chụp một số ảnh. Rồi cái xác được đặt nằm trên chiếc cáng và được chuyển đi chìm trong sương mù. Thật khó xử sự tế nhị hơn và làm cho không khí bớt nặng nề. Tuy nhiên, ngay sau những lời nói của đồn trưởng cảnh sát, nhất là sau những lời nói ấy, vẫn có vẻ biểu hiện giả tạo trên những bộ mặt, cả trên nét mặt của Evjen cũng như của viên sĩ quan thứ hai. Tóm lại, vì người ta không giữ một ai, mỗi người đều có khả năng phạm tội ác. Và mỗi người giữ gìn ý tứ, cố tỏ vẻ hết sức tự nhiên. Petersen có lẽ là người bối rối nhất vì viên cảnh sát yêu cầu ông đi cùng ông ta vào các buồng. Ông ta đòi hỏi bắt đầu từ buồng ông nhằm để làmgương, mở hòm, mở những ngăn kéo bàn giấy nhỏ, cả lật nệm giường của ông. - Xin cứ tự nhiên - Đồn trưởng cam kết. Buồng tiếp theo là của Evjen đang đứng đợi ở chân ghế nằm của mình. Tất cả những cử chỉ của ông như của một hành khách trong lúc khám xét của nhân viên hải quan. Ông ta đã lấy những chiếc va li ở lưới đựng hành lý ra và mở khoá. Hai hoặc ba lần, ông gắng cười khi ông chỉ một loạt những vật nhỏ bé bất ngờ. - Một chiếc kèn cla-ri-net... Cho con trai đầu của tôi mười hai tuổi... Hộp đồ khâu này cho con gái tôi sắp bảy tuổi... Đây là những đĩa hát mới phát hành... Hàng năm tôi đều mua sắm... Những cuốn sách... Cái này ư ?... Một việc nhỏ mà vợ tôi trao trách nhiệm cho tôi: tấm vải dầu lót giường cho đứa bé nhất... - Cho qua... Xin cứ tự nhiên ! - Đồn trưởng cảnh sát nói. Nhưng Evjen trải ra ba bộ com-plê, một áo xi-mô-kinh, quần áo mỏng, có dấu số và những hoá đơn của hiệu Savoy ở Luân Đôn và của hiệu Majestic ở Béc Lanh. - Xin cảm ơn ông ! Xin ông vui lòng trao tấm hộ chiếu của ông cho thanh tra ở trên kia... Một thủ tục bình thường, phải không ?... Tất nhiên, ông không lo lắng gì chứ ? - Không chút nào ! - Evjen trả lời khô khan. Buồng tiếp theo trống không. Rồi đến buồng còn để lại những hành lý của Ernest Ericksen, người hành khách mất tích. - Tôi giữ những thứ này ! - Viên cảnh sát nói - Hãy cho đưa những thứ đó lên bờ... Nào hãy xem... Một chiếc túi duy nhất... Một bộ com-plê cũ... Hai chiếc sơ-mi. Thật nghèo nàn. Những quần áo cắt rất khéo nhưng đã dùng nhiều. Không có cả giày để thay đổi. - Chúng ta chuyển qua buồng tiếp theo... Katia Storm bắt chước Bell Evjen. Quần áo của cô ta được trải ra trên chiếc ghế nằm và vì đồn trưởng cảnh sát do dự lục soát trong số áo dài và quần áo của cô ta, cô ta tự mình làm lấy, hai bàn tay run rẩy. Petersen đứng lại ở cửa. Ông cảm thấy bị sỉ nhục đồng thời với một chút lo lắng khó tả. Thế nhưng chính ông lại nhặt lấy chiếc quạt giấy nhỏ màu hoa cà và khẽ đọc: "Kristall-Palace. Hambourg". - Đêm cuối cùng của tôi ở trên bờ ! - Katia cười và nói – Tối qua một giờ ở Kristall vì tôi muốn khiêu vũ - Một mình ư ? - Viên cảnh sát hỏi. - Một mình, vâng ! Cô ta có ít nhất mười lăm bộ quần áo, tất cả đều có chất lượng cao và thị hiếu tinh tế. Quần áo của cô ta rất đẹp. Hộp dụng cụ bằng bạc chạm trổ. Và vật nhỏ nhất, đồ mỹ nghệ nhỏ xíu cũng cùng loại. Người ta ghi lại tên những nhà ở đại lộ Opera, phố Hoà Bình, cũng như những nhà buôn bán ở Luân Đôn và Béc Lanh. Chỉ một chi tiết thấy chướng: chiếc ô nhỏ phụ nữ cán rất ngắn mua ở Bruxelles hẳn không đáng giá một trăm frăng. Cô ta vẫn cười, vui vẻ giải thích: - Tôi ngạc nhiên về cái ô ở Bỉ, và tôi vào nhà người bán hàng gặp đầu tiên... - Cô thường sống ở Paris chứ ? - Ở Paris, ở Bec Lanh, ở Nice... - Cô có quen biết hoạ sĩ Max Feinstein không ? - Không ! Đó là một người đồng hương, phải không ? Hẳn là một người Do Thái, phải không ?... - Cô đến Hambourg khi nào ? - Chiều thứ năm... Tôi tin có chiếc tàu thuỷ đi Na-uy, thứ sáu... - Cô đến từ Paris phải không ? - Không đi thẳng... Tôi qua tám ngày ở Bruxelles và hai ngày ở Amsterdam... Cô cố giữ vẻ thung dung và nhìn thẳng vào mắt người đối thoại. Nhưng trong trường hợp như thế này, thật nguy hiểm phán xét về những thái độ tự nhiên, bởi vì người vô tội tự cho mình bị nghi ngờ đôi khi lại rối loạn hơn kẻ thủ phạm. Căn buồng sực nức mùi nước hoa, chiếc thảm rải rác những đầu mẩu thuốc lá. Trên chiếc bàn nhỏ có một chai rượu mùi đã vơi một nửa. - Xin cảm ơn bà, thưa bà... - Cô ! - Cô ta cải chính. - Cô tính ở lại Na-uy lâu chứ ? - Vài tuần thôi. Thời gian đi thăm Laponie... Petersen đến mức định xen vào hỏi. "Cô có bao nhiêu tiền đem theo mình ?". Nhưng ông đỏ mặt về ý nghĩ này. Cuộc khám xét cuối cùng với Arnold Schuttringer rắt ngắn gọn, ít hành lý. Những bộ quần áo đủ dùng, không xa hoa. Những đồ dùng vệ sinh như người ta thường bán ở các cửa hàng bách hoá, gần như mới. Tóm lại ông ta trang bị cho chuyến đi này. Bình thản và nặng nề, hơi cau có, ông chứng kiến đồn trưởng cảnh sát đi đi lại lại và không can thiệp, không đặt ra những câu hỏi. Ông chỉ trả lời những lời lẽ thật cần thiết thôi. *** "Tóm lại, tất cả hành khách đều có giấy tờ hợp lệ. Không có chút nghi ngờ nào với một ai. Viên thanh tra của tôi khẳng định kẻ sát nhân đeo găng không để lại dấu vân tay nào. "Những người lục soát khoang hầm không thấy gì hết, có khả năng gã Ericksen này đã gieo mình xuống biển, có lẽ với hy vọng bơi được vào cảng. "Ông tin tưởng viên sĩ quan thứ ba của ông chứ ? Vì chính anh ta trông thấy người hành khách nhảy xuống biển, phải không ?”. Petersen tránh trả lời. Lúc này hơn ba giờ. Nhũng thủ tục đã làm xong; nhưng họ không thu được một kết quả nào. "Tôi sẽ liên lạc với cảnh sát Đức, ra lệnh tìm kiếm trong vũng tàu và trong thành phố". Đồn trưởng giấu nỗi lo lắng mà vụ án này đem lại cho ông dưới niềm tin giả dối. "Một lần nữa, tôi không thể bắt tàu dừng lại cho tới khi kết thúc cuộc điều tra. Nếu tôi phải giữ người nào đó theo sự đòi hỏi của luật pháp, không có lý do nào là người này hơn là người khác... Tôi sẽ phải giữ lại đoàn thủy thủ và hành khách...”. Thuyền trưởng không nói gì. Ông chờ đợi với vẻ rầu rĩ, khép kín, thỉnh thoảng do tôn kính, khẽ gật đầu xác nhận. Trong sương mù, những bông tuyết nhỏ bắt đầu lượn lờ. Những luồng gió lạnh thổi qua con tàu làmcho những cánh cửa không ngừng mở ra, đóng lại. "Tôi sẽ để lại cho ông một thanh tra trên tàu, để phòng mọi sự bất trắc nhằm giữ trách nhiệm của tôi và của ông...”, Vào ba giờ rưỡi, thuyền trưởng và đồn trưởng cảnh sát đi bách bộ dọc lối đi từ mũi đến lái, trong khi đoàn thủy thủ chuẩn bị nhổ neo dời bên. Hai hoa tiêu thay phiên nhau trên cầu tàu dọc bờ biển Na-uy đã lên tàu, đi ủng đế gỗ, mặc áo da lông, vác hòm gỗ đen trên vai. Trên cảng còn vài hình bóng lì lợm. Một viên thanh tra lấy ô tô của đồn trưởng để đi lấy quần áo thay đổi. Mọi người chờ đợi ông ta. Vì hai người đàn ông không có gì để nói với nhau nữa nên họ thốt lên nhũng câu mà họ không tin chắc. "Người nữ hành khách của ông hẳn có cá tính, một mình giữa đám đàn ông nhiều đến thế ! Nhất là cô ta, nói thế nào nhỉ ? ... Lôi cuốn !... Một con người nhỏ bé kỳ cục...”. Sĩ quan thứ nhất cũng sầu thảm như thuyền trưởng của mình, đã ở vị trí trên cầu tàu, tựa lưng vào lan can, mắt nhìn chìm đắm trong sương mù. Bell Evjen sau cuộc khám xét của cảnh sát, ở lại trong buồng mình như Schuttringer. Nhưng người ta nhìn thấy Katia qua cửa sổ phòng hút thuốc lá. Cô ta trải những quân bài lên bàn trong lúc vân vê chiếc bót thuốc lá dài bằng ngọc của cô ta. Cuối cùng, người ta nghe thấy tiếng động cơ. Chiếc xe ôtô đỗ để lại hai vệt đen trong tuyết bắt đầu hình thành một lớp đều đặn. Trong khi viên thanh tra lên tàu, Petersen và đồn trưởng bắt tay nhau. "Chúc thượng lộ bình an !..." Người sau nói, trong khi nét mặt thuyền trưởng rắn đanh lại. Ba hồi còi vang lên. Vài lời dặn dò. Những bước chân giậm. Chiếc dây chão thả rơi xuống nước trong vết rẽ nước của con tàu Polarlys. - Ông hãy bảo người phục vụ chỉ cho ông một buồng ! - Petersen nói với viên thanh tra, một người đàn ông trạc ba mươi tuổi, lễ độ, mờ nhạt làm ta nghĩ đó là một nhân viên văn phòng hơn là một thám tử. Rồi ông sải bước trên boong, không biết mình cần phải làm gì. Hai lần ông đặt tay vào nắm đấm cửa phòng hút thuốc. Rồi ông định đi về phía nhiệm sở của các sĩ quan, với ẩn ý tin chắc rằng Vriens đã đi nằm. Nhưng đột nhiên gã trai qua cách ông hai mét mà không nhìn ông, áp mặt vào cửa sổ phòng hút thuốc và bước vào. Thuyền trưởng không bao giờ dò xét một ai. Tuy nhiên ông không ngần ngại đến lượt mình lại gần cửa sổ. Ông thấy Katia ngẩng đầu, nói với bạn cô ta. Ông thấy rõ đôi môi mấp máy nhưng không nghe thấy một tiếng nào do tiếng ì ầm của biển. Vriens ngồi gần cô ta, rất gần, nói rất sôi nổi như thể năn nỉ cô ta. Sự xúc động của ông phát ra liên tục biến thành sự bực bội, cuối cùng còn làm cho khó coi, bởi vì người ta tự hỏi thế nào mà ông có thể chịu đựng thật lâu một sự căng thẳng thần kinh như vậy. Những nét mặt của ông biểu hiện sự bồn chồn. Và toàn thân ông sôi sục. Từng lúc ông đổi chân đứng, khoa chân múa tay và mặt ông không nhìn cắm vào nơi nào cả. Khổ thân anh ta hẳn bị sổ mũi bởi vì trong lúc nói chuyện chừng mười hai phút, anh ta hỉ mũi dữ dội bốn hoặc năm lần. Tất nhiên Katia Storm không nhìn anh ta cùng cặp mắt như thuyền trưởng. Trong khi anh ta nói, đột nhiên cô ta đặt bàn tay mình lên miệng anh ta và với một cử chỉ biểu lộ một sự mủi lòng của đàn chị, nghiêng người để hôn vào mắt anh ta. Cô ta cười, cái cười làm hoang mang, đầy những điều tò mò, mỉa mai, ham muốn, âu yếm, có thể một cái gì đó khiếp sợ ? Khi cô ta đứng lên, Vriens đi theo cô ta và Petersen trong thấy họ cùng đi về phía hành lang các buồng. Không đi xuống, ông nghe thấy tiếng một cánh cửa đóng lại. Sau đó không còn tiếng bước chân nữa. Gã trai đã vào cùng với cô ta. *** Người phục vụ rất mệt mỏi, anh ta vừa liếc mắt lần cuối vào phòng hút thuốc, sắp xếp những chiếc ghế bành và tắt đèn. Anh thấy thuyền trưởng cúi xuống đất gần chỗ của Katia và nhặt hai mẩu bìa các-tông màu hồng rơi ra từ túi Vriens khi anh ta rút khăn tay ra. "Ông biết không, thuyền trưởng, tôi hài lòng thấy người ta đem ông ấy đi ! Tôi tin mình sẽ ốm mất, chỉ biết rằng ông ấy ở đó thôi... Ông có nhận thấy miệng ông ấy mở ra không ?...”. Petersen không nghe, vân vê hai mảnh bìa hồng là những chiếc phiếu của phòng gửi áo tại Kristall. Cuối cùng ông nhét hai chiếc phiếu vào ví của mình trong lúc thở dài. - Ông ở lại đây ư ? - Bạn ông ngạc nhiên hỏi. - Không ! Anh có thể tắt đèn và đi ngủ... - Ông có tin rằng gã Ericksen ấy đã thực sự nhảy xuống biển chứ ? Ông nói đi ! Nếu gã còn lẩn trốn trên tàu... Nhưng không có câu trả lời cho anh ta. Thuyền trưởng bỏ đi, nhún vai, từ boong dạo chơi đưa mắt về phía cầu tàu, ông thấy rõ điếu thuốc lá của sĩ quan thứ nhất và đôi vai rộng của viên hoa tiêu mà chiếc mũ bằng da rái cá hầu như trùm kín mặt anh ta. Có ánh đèn trắng vừa đủ nhìn thấy ở nơi nào đó trong sương mù: chắc chắn là một thuyền đánh cá. Họ qua thật gần nên nghe được tiếng nói chuyện thanh bình của hai người đàn ông ngồi ở ghế trực ban. Chưa bao giờ Petersen không hài lòng về mình như thế, hoang mang như thế, tuy nhiên ông không thể nói vì sao. Điều đó giống như những cơn ác mộng không rõ ràng ở một số đêm do khó tiêu. Không có gì xảy ra đáng khiếp sợ cả. Người ta không bị một mối nguy hiểm nào. Nhưng những đối tượng được gợi nên qua giấc mộng có bộ mặt quàu quạu. Chiếc chăn lông kinh khủng, nặng nề. Người ta đi đi lại lại qua một thế giới thù nghịch, không hiểu nổi, và người ta lờ mờ muốn trỗi dậy mà không đạt được. Con tàu Polaiiys dường như đã thay đổi. Không phải vì sự có mặt viên cảnh sát trên tàu vì anh này thật nhã nhặn tử tế và thật mờ nhạt, không ảnh hưởng mạnh tới thuyền trưởng. Những con sóng lừng rất mạnh nâng sống mũi tàu lên. Con tàu ra khỏi lạch, lấy lại tốc độ bình thường và theo nguyên tắc, mỗi phút rúc lên hai hồi còi báo hiệu. Thỉnh thoảng cái cánh trắng của một con chim mòng biển vẽ một nét di động trong sương mù. Petersen đột nhiên quay ngoắt lại, khom mình để bước qua chiếc cổng sắt đi vào buồng máy. Dưới chân thang, trong ánh sáng sượng của những ngọn đèn không có chụp, ông trông thấy cơ trưởng đang điều chỉnh áp lực dầu trong khi một người thiu thiu ngủ gần mặt đồng hồ của máy điện báo. Ông bước xuống. Cơ trưởng làu bàu chào ông. - Những chuyện ấy chấm dứt rồi chứ ? Trên kia lại trở lại yên tĩnh chứ ? - Chấm dứt rồi, đúng... Và thuyền trưởng đi len lỏi dọc những cây truyền động làm bắn vào ông những giọt dầu li ti, qua một cái cửa rất nhỏ ánh sáng đỏ rực của buồng đốt hắt vào mặt ông. Người đàn ông mình trần đang xúc than vẫn không ngoảnh lại, đành lòng đưa bàn tay đen xì lên bộ mặt đen nhẻm của mình. Petersen tiếp tục bước. Giờ đây ông phải gập người làm đôi để bước đi. Than trôi dưới đế giày ông. Mồ hôi bắt đầu túa ra từ mọi lỗ chân lông ở mặt ông. Cuối cùng gã ở trong hầm tàu, mặt lem luốc, ngồi trong đống than đá đang ăn lát bánh mì phết bơ, nhìn ông đi tới. Đó là Peter Krull. Những sợi râu vàng ở bộ râu của gã xuyên qua lớp bồ hóng phủ lên đó. Đôi mắt trắng của gã có ánh mỉa mai hơn bao giờ hết. Gã không đứng lên, không chào. Gã tiếp tục ăn và miệng đầy bánh nên gã nói hầu như không nghe thấy: - Thế nào, ta đã tìm được hắn chưa, cái gã Ericksen nổi tiếng ấy ? Gã lặng lẽ cười một mình. Gã cúi mình về phía lò đốt nhằm tin chắc người ta không đòi tiếp than. - Anh biết hắn ư ? - Tất nhiên !... - Anh muốn nói gì ? - Rằng nếu ông muốn, tôi sẽ làm ngay cho ông một tên ! Và rất giống, hả ! Gã đã ăn xong lát bánh mì mà miếng cuối cùng cũng đen như hai bàn tay gã. Gã từ từ đứng lên, nhặt chiếc túi không trong một góc phòng, bỏ vào đó mười viên than bánh. - Thế đó ! - Gã nói. - Anh hãy giải thích đi ! - Đó là Ericksen. Cuối cùng vẫn là kẻ ban nãy gieo mình xuống nước... Trên đường đi tôi nhận thấy một cái túi đã bị mất... Khi ta đến Stavanger, đến lượt tôi nghỉ và tôi hóng mát trên boong... Tôi trông thấy cái túi của tôi trong lối đi từ mũi đến lái, sẵn sàng để ném qua mạn tàu... - Ai đã đẩy hắn ?... Nhưng gã một lần nữa ngoảnh về phía buồng đốt. - Chú ý !... Người lái yêu cầu tiếp than, kìa... vả lại, tôi không biết gì hơn... Và khom mình về đằng trước, gã sục xẻng vào đống than đá, bắt đầu công việc của gã với nhịp điệu mạnh mẽ và đều dặn. Thuyền trưởng quan sát gã một lúc, mở miệng định nói nhưng rồi lại bỏ đi, cau có, không nói gì cả, đi ngược trở lại suốt con đường đã đi qua trước khi hít thở không khí lạnh giá của ngoài khơi. Trên đầu ông, viên hoa tiêu và sĩ quan thứ nhất đứng im lìm trong bóng tối, chuyển cho nhau túi thuốc và hộp diêm. V CORNELIUS VRIENS - Đi gọi Vriens cho tôi ! - Ông ta đang trực ban... - Cần gì ! Lúc này người hoa tiêu đang ở trên đó... Petersen, nét mặt lo âu, giam mình trong buồng ngay sau khi tàu nhổ neo khởi hành từ Bergen, ba giờ đỗ lại đây đầy ắp những người đi đi lại lại, nhiều mối lo lắng, những cái bắt tay, những thủ tục phải hoàn thành. Tại trụ sở của Công ty B.D.S mà con tàu Polarlys là của Công ty ấy, người ta nói với thuyền trưởng: - Chà ! Ông không liên quan gì tới chuyện này phải không ? Từ nay có một cảnh sát trên tàu... Nhưng người nói với ông như vậy là một viên quản lý chứ không phải một thuyền trưởng. Vẫn viên quản lý này đã ký lá thư giới thiệu Vriens và cho Petersen những chỉ dẫn bổ sung. "Cá nhân tôi không quen biết anh ta nhưng một người bạn lãnh đạo trường hàng hải Delfzijl đã viết cho tôi sáu trang về vấn đề này. Ông ấy giới thiệu anh ta với tôi như một gã trai lao động, tính thẳng thắn đặc biệt. Anh ta làm gì đó đại loại như phó giám đốc cơ quan khí tượng ở Java. Ngay ở tuổi lên mười, Vriens đã phải rời Ấn Độ do thể trạng yếu đuối, đến mức anh ta đã qua tuổi thanh xuân trong nhà ký túc của người Hà Lan... "Anh ta không hề biết cuộc sống gia đình. Lên chín tuổi, hai lần anh ta trở về nhà những người thân của anh ta trong dịp nghỉ hè. Đã hai năm nay, mẹ anh ta mất ở Java, tất nhiên anh ta không thể gặp mẹ mình lúc lâm chung. "Từ lúc đó, anh ta mài miệt làm việc nhiều hơn và ngày chủ nhật, ở Delfzijl, anh ta phải dùng mưu mẹo hoặc uy tín để làm mình ra khỏi tàu - lớp học...”. Con tàu Polarlys bắt đầu phần hành trình thứ hai. Từ Hambourg đến Bergen còn ở miền Nam, rải rác những thành phố lớn. Nhưng từ nay, nhất là khi, ngày hôm sau, người ta buộc đỗ lại ở Trondhjem, con tàu hơi nước sẽ không dừng lại vì hầu như chỉ có dọc nhà sàn, bên rìa những thị trấn nhỏ gồm vài căn nhà bằng gỗ. Bên phải con tàu là bờ sườn vịnh hoàn toàn trắng. Những con vịt biển Bắc Âu bay là là sát mặt biển, thỉnh thoảng lại có những con nhạn biển bay bổ nhào xuống mặt nước. Thuyền trưởng đã bắt đầu những ghi chép hàng ngày vào nhật ký hàng hải. Rồi chống hai khuỷu tay lên mặt sàn gỗ đào hoa tâm, ông để ngòi bút lướt trên tờ giấy trắng. Dần dần, những mối quan tâm được ông chuyển thành một biểu đồ; đầu tiên là một chấm to, rồi một gạch nhỏ, một vệt mực đơn giản, một chấm khác, lại môt gạch, một chấm, một chấm... một gạch. Toàn bộ là một hình hình học không đều, một đường gãy với một chấm đen ở mỗi góc. Chấm đầu tiên biểu hiện viên cố vấn cảnh sát bị giết trong buồng mình. Tiếp đó đến Ernst Ericksen còn tồn tại hoàn toàn bằng xương thịt ở tận cùng bên Stavanger hoặc trong xó xỉnh nào trên con tàu Pblarlys. Rồi Peter Krull... Cái gạch trở nên dài hơn, kéo dài hơn và đến Katia Storm. Petersen đặt tên Vriens gần tên cô ta. Liệu hết chưa ? Ông do dự, để bàn tay lướt đi và đầu ngọn bút tạo thành chiếc đĩa đen thứ sáu: Arnold Schuttringer Tại sao không ? Viên thuyền trưởng vô tình tạo thành một hình đa giác nhưng thiếu một đường để khép kín. Ông cáu kỉnh gạch xoá, đứng lên, châm tẩu thuốc và ông ấn chuông gọi người phục vụ bảo anh ta đi gọi viên sĩ quan thứ ba. Điều làm ông bối rối hơn cả, có lẽ là cảm giác giữa sáu điểm này, sau nhân vật này có những điểm tương tự. Những điểm tiếp xúc, lại còn những sự tiếp tay hòng qua mặt ông. Do phải làm những thủ tục ở Bergen, ông không có thì giờ đi ôm hôn bà vợ và những đứa con, tâmtrạng của ông ngày càng buồn thảm hơn. - Vào đi ! - ông làu bàu trong lúc lại ngồi xuống. Đó là Vriens, mặc quần áo trực từ câu tàu đi tới, sương giá đọng trên vai. - Anh tính mặc bộ quần áo này trong mọi ca trực ư ? Và ông sờ một chiếc khuy vàng óng của chiếc áo ca-pốt xanh, gắn phù hiệu như ở chiếc áo, quá mỏng đối với thời tiết này. - Thưa thuyền trưởng, tôi... Không ! Hơi thở anh ta đứt quãng ! Vả lại anh ta không tìm được lời để nói. Anh ta chỉ có một bộ quần áo này ! Mười lăm ngày trước, anh ta chỉ là một học sinh và mặc đồng phục của nhà trường. Anh ta chỉ có đủ thời gian đi Groningue đặt may có một bộ quần áo mà giờ đây, người ta phàn nàn với anh ta. - Mời anh ngồi, anh Vriens ! Petersen càng cục cằn hơn vì đúng ra ông không biết vì sao ông lại cho gọi chàng trai này tới. Ông nhìn vào tờ giấy trong đó có hai trong sáu chấm ở gần nhau, nhưng những lời mà ông thốt lên không có liên quan gì tới hình ảnh này. - Anh hãy vui lòng mượn áo khoác của một đồng sự hoặc của hoa tiêu khi anh trực ban ! Hiểu chứ ? - Vâng, thưa thuyền trưởng. - Nói gọn thôi thuyền trưởng, tôi đã nói với anh rồi ! Tôi cũng mời anh ngồi xuống... Tại sao ông rất muốn nắm lấy hai vai anh ta mà lắc ? Dầu không muốn, ông vẫn như bị điên người lên trước bóng dáng đứng đắn với đôi vai gầy, nhất là bộ mặt nhợt nhạt này, cặp măt bồn chồn này, đôi cánh mũi nhíu lại này có lẽ làm ông xúc động hơn cái xác của Sternberg. - Trước hết tôi phải trả cho anh cái này... Ông giơ những chiếc phiếu màu hồng của nhà hàng Kristall trong khi Vriens không thể kiềm chế được thần kinh của mình và anh ta giật mình. - Tất nhiên, khi ở trên đất liền, anh vui chơi như anh muốn. Thế nhưng tôi muốn rằng không phải là với những nữ hành khách của chúng ta. Petersen cảm thấy mình lầm lẫn. Không bao giờ nên có một nhận xét thuộc loại này đối với một người của mình ! Trái lại ! Vào mùa hè, khi con tàu Polarlys vận chuyển tới hàng trăm khách du lịch, mỗi chuyến đi biển đều có những cuộc dan díu tình ái mà những sĩ quan vui cười kể cho nhau nghe trong những giờ canh gác... - Ai đã nói với ông ? - Rằng anh ở Kristall với cô Storm. Anh chối chứ ? Vriens đứng lên. Anh ta trở nên tái nhợt hơn, nếu có thể... Đôi môi anh ta khô đi, nhợt nhạt. Đúng như thế, anh ta đứng, cứng đơ, phẫn nộ, với sự nỗ lực đau đớn để giữ bình tĩnh. - Tôi chờ đợi việc tiếp theo - Anh ta nén giọng, nói. - Anh quen biết người này trước khi đuổi kịp tàu ở Hambourg phải không ? Anh ta vừa mười chín tuổi. Petersen to ngang và khỏe hơn anh ta gấp hai lần. Tuy căng thẳng như con gà trống choai, anh ta nói trong lúc nhìn nơi khác: - Có những câu hỏi mà một người hào hoa phong nhã không trả lời. Mặt thuyền trưởng trở nên đỏ bừng, đến lượt ông đứng lên xoay ngược hai ngón tay tát vào mặt gã trai. - Và từ khi nào một người hào hoa phong nhã nói dối hử ? - Ông độp lại một cách gay gắt - Từ khi nào một người hào hoa phong nhã cam đoan với cảnh sát rằng y dã nhìn thấy một người đàn ông gieo mình xuống nước trong khi y chỉ nhìn thấy một túi than ném qua mạn tàu ? Hầu như ông tiếc cho thái độ của mình làm cho bộ mặt của Vriens trong lúc này khó coi. Gã trai mở miệng mà không nói, không thể thở được. Đôi mắt anh ta nhìn cắm vào Petersen với vẻ lo lắng khủng khiếp. Và những ngón tay tái xanh của anh ta ngọ ngoạy trong không khí. - Tôi...tôi... - Gì ?... anh có thật sự trông thấy Ericksen nhảy xuống nước không ? Những giọt mồ hôi đầm đìa trên trán viên sĩ quan thứ ba. Cục hầu của anh ta dâng lên, hạ xuống với nhịp độ nhanh dọc theo cổ anh ta. - Tôi không có gì để nói. Tự nhiên anh ta bật khóc nức nở ! Thuyền trưởng tin chắc chuyện này. Tin chắc đến mức ông suýt đánh vào vai bạn mình và kêu lên với anh ta: "Anh đừng để mình trong tình trạng này, đồ ngu ! Anh tưởng rằng một phụ nữ, một Katia Storm đáng nhọc công đến thế ư ?”. Ông không nói điều này và sau đó ông hối không kịp. Ông nhìn các hình đa giác chưa hoàn thành của mình, trong tâm trí còn gắn lại hai dấu chấm thể hiện đôi tình nhân. Ông quá giận nên kém hứng thú. - Tại trường Delfzijl người ta gọi điều này là thẳng thắn đặc biệt sao !... - Ông càu nhàu khá to nghe khó lọt tai được. Lúc này, Vriens thét lên, giọng vỡ ra, những giọt nước mắt đọng trên đầu hàng lông mi: - Phải chăng ở Na-uy lòng thẳng thắn là phản bội một phụ nữ ? Anh ta không thể chịu nổi nữa. Anh ta sẵn sàng làm bất cứ điều gì. Người ta nghe tiếng thở mạnh của anh ta. Thuyền trưởng nói sau một lúc, sửng sốt: - Nếu người phụ nữ ấy tầm thường... - Ông im đi ! Tôi cấm ông... Đúng là Petersen im bặt ! Thế là hết ! Đột nhiên lòng hăng hái của ông tan biến, ông hiểu sự kỳ cục của cảnh này, nhất là cuộc đối thoại ghê tởm như thế này. Liệu ông sẽ không kết thúc bằng cách đi đến chỗ đánh nhau với gã trai bồn chồn này mà môi đang run lên giật giật ? Ghê tởm ! Thường trong trường hợp như thế này, với những vấn đề về quốc tịch, người ta lao đầu vào nhau. Sự im lặng bao trùm. Thuyền trưởng liền đi đi lại lại dọc chiều dài ba mét của căn buồng. - Ông không có lệnh nào khác chứ ? - Vriens ấp úng một cách nặng nhọc. Petersen không trả lời, tiếp tục đi dạo, cầm lấy tờ giấy có hình đa giác và xé đi. - Có một người chết - Ông khẽ thốt lên. Đó là một cách tạ lỗi mà không nói lời xin lỗi. Vriens lại hiểu khác đi. - Chính anh buộc tội tôi ư ? Anh có đọc được tiếng Pháp không ? - Một chút... - Thế thì xem đi... Ông đưa cho anh ta tờ báo tìm được dưới gối của Sternberg rồi ngồi xuống trước bàn giấy của mình và, trong khi Vriens giở tờ báo ra đọc thì ông vờ chăm chú xem cuốn sổ hàng hải của mình. Ông không vừa lòng về mình. Tất cả chuyện này khởi đầu thật tệ hại. Thứ nhất, tại sao lại là Vriens trước tất cả những người khác, mà ông đổ trách nhiệm cho anh ta ? Chắc hẳn có hai chiếc phiếu ấy của nhà Kristall và chiếc quạt của Katia Storm. Có chuyện gã trai này đến tàu Polarlys vào mười giờ sáng với bộ mặt xanh xao ốm yếu. Còn có... sự việc là tối đầu tiên, cô gái Đức cho gọi anh ta, đi chơi cùng anh ta suốt hai giờ trên boong... Và đêm ấy ở Stavanger, cuối cùng là đôi tình nhân trong một buồng ! Nhưng sau đó ? Liệu Katia Storm đã để lộ cử chỉ nhỏ nhặt nào cho phép nghi ngờ cô ta ? Tờ báo Pháp không nói tới cô ta, đặc biệt cũng không cả nói đến một người đàn bà. Và một người đàn bà không có khả năng giết Sternberg với sức mạnh và sự man rợ đến thế. Petersen đỏ mặt nhớ lại khi cô ta trèo lên cầu thang dẫn tới phòng hút thuốc, ông đã cố nhìn đôi chân, nhất là ánh da thịt cô ta. Phải chăng ông đã thật sự ghen với viên sĩ quan thứ ba ? Giận dữ thấy kẻ này không khó khăn gì làmông sửng sốt về cuộc dan díu chăng ? "Không đúng !” - Ông tự khẳng định - ‘Ta cảm thấy có chuyện gì đó...”. Nhưng ông không thể nói là chuyện gì ! Và ông bồn chồn ! Ông bị sỉ nhục, không vững chắc. - Anh nói gì về chuyện này, Vriens ? Lần này ông không dùng từ mỉa mai Vriens. Gã trai đã đọc xong bài báo, tiếp tục đọc một cách máy móc tờ báo cầm ở tay. Mặt anh ta mờ đi. Bóng dáng anh ta mất vẻ cứng đơ. Anh ta lo lắng hỏi: - Vì sao ông bảo tôi đọc bài báo này ?... Có quan hệ gì ?... - Tôi sẽ nói cho ông biết ! Trong chừng mực mà ta có thể xét đoán qua vẻ ngoài thì viên cố vấn cảnh sát Von Sternberg ở trên tàu để theo dõi kẻ giết Mane Baron và có thể cả những kẻ tòng phạm với y... Đừng quên rằng có những người đàn bà, phố Delambre... Vriens rõ ràng là người đàn ông của những sự tương phản. Một lần nữa, thái độ của anh ta hoàn toàn thay đổi. Anh ta trở nên bình thản giá lạnh. Anh ta hỏi: - Hết chứ ? Tuy nhiên, liệu anh ta không có sự lầm lạc trong cái nhìn của mình ? - Điều đó không đủ cho anh à ? Người đàn ông đã giết cô gái ấy... ở trên tàu... - Và ông cho rằng đó là tôi hử ? Anh ta nói câu này với nụ cười nhợt nhạt, còn đau đớn hơn là cơn nức nở. Petersen hết kiên nhẫn. - Đi đi ! - Ông gầm lên - Đi trực ca tiếp đi ! Tôi mong rằng không khí ngoài trời làm anh khoẻ khoắn... Ông muốn Vriens không bằng lòng đi như vậy. Ông đưa mắt dõi theo anh ta. Nhưng gã trai quay ngoắt, đi ra. Còn lại một mình, thuyền trưởng thu lấy tờ giấy mà ông đã vạch những chấm và gạch nối, một lần nữa mở ra rồi vo viên ném nó vào sọt rác. *** Tại bàn ăn tối hôm ấy, Katia Storm hai lần xin lửa Petersen, không ngừng nói với ông về những kỳ quan thiên nhiên mà người ta mải ngắm trong chuyến du hành bằng đường biển. Viên cảnh sát ở Stavanger tên là Jennings, đích thân đề nghị được ăn tách riêng, thu mình ở đầu bàn với chiếc áo vét trắng, mái tóc hoe vàng và nụ cười dè dặt của người phục vụ ở đằng sau họ. Thuyền trưởng chủ trì, Katia ở bên phải ông, có Evjen ngồi bên, Schuttringer ngồi đối diện. Nếu người phụ nữ trẻ không nói thì cả bữa ăn hoàn toàn im lặng. Sau đó chỉ còn việc kéo nhau đến phòng hút thuốc là nơi cô gái Đức có thói quen tự rót cà phê, bởi vì người phục vụ bằng lòng đặt ấm pha cà phê và những chiếc tách lên bàn. - Khi nào thì trời sẽ rất lạnh ? Evjen trả lời: - Vào mùa này, cô chỉ thấy lạnh vừa phải: mười hai độ dưới không ở Lofoten; mười bảy hoặc mười tám độ trong Bắc băng dương... Petersen buồn bã nhận thấy cả Evjen cũng bối rối bởi cô gái ngồi cạnh. Càng có ý nghĩa hơn là ông làm một chuyến vượt biển trọn vẹn mà không nói với những người đồng loại, họ tò mò nhìn người đàn ông lạnh lùng như băng, có những cử chỉ mực thước, hai đồng tử xám như nước biển, có thể ngồi nhiều giờ không nhúc nhích ở trên boong hoặc ở phòng hút thuốc, nhìn đăm đăm một điểm trong không trung. "Phải chăng mọi người sẽ xoay quanh cô ta ?" - Thuyền trưởng nghĩ trong lúc quan sát Schuttringer. Nhưng người Đức trọc đầu, từ hai ngày nay ngồi ở bàn ăn mặc áo len, bằng lòng ăn với cái cách gần sát với thói háu ăn. Trong số những món thịt dọn cho mỗi tối, có món lưỡi hẳn là món ưa thích của ông bởi vì đều đặn, ông cắt đến mười lát, phết bơ trước khi nuốt. Ông lại cắt thật dầy đến nỗi người phục vụ luôn đưa mắt lo ngại nhìn thuyền trưởng ý nói: "Chúng ta sẽ không bao giờ có đủ món này cho cả chuyến đi đâu !”. Vào lúc Petersen đứng lên, Katia gọi ông: - Người ta đã có tin tức về người hành khách gieo mình xuống nước chưa ? Cảnh sát ở Bergen hẳn đã biết... Thuyền trưởng nhìn vào mắt cô ta rất lâu, bởi vì ông nhận thấy Evjen đoán được sự nghi ngờ trong cái nhìn ấy và ngoảnh mặt đi. Katia không dao động. Chiếc bót thuốc lá trên miệng cô ta dài không dưới ba mươi xăng-ti-mét. Cô ta thật kỳ lạ ! Giải thích thế nào sự thu hút cánh đàn ông vây quanh cô ta, toát lên từ cô ta ? Làm thế nào dung hoà cô ta nhất là với nét mặt có vẻ trẻ con của cô ta ? Bởi vì cô ta cho cảm giác của một đứa bé gái. Nhưng là một đứa bé gái tai ác ! Chính xác hơn là còn tai ác với vẻ ngây thơ ! Thế nhưng hai từ mâu thuẫn thích hợp với cô ta, không phải lần lượt mà cùng một lúc. Khi người ta nhìn cô ta, không bao giờ cô ta quay mặt đi. Cũng không bao giờ ta có thể đọc trong đôi mắt cô ta một sự khiêu khích. Thế nhưng... Ngay cả Evjen ? người đàn ông của cực Bắc, giám đốc những mỏ ở Kirkenes do mài miệt sống trong ánh sáng lạnh lẽo mà nước da mặt không rõ nét, cũng có những lúc thực sự bối rối mà ông ta cố giấu mặt mình trước thuyền trưởng. Dù cô ta mặc đồ đen hay hồng, mặc quần áo vải hay lụa, người ta vẫn đoán ra những hình dáng của cô và người ta tin vẫn nhận thấy sự nồng ấm và mùi hương da thịt của cô ta. Nếu cô ta cúi xuống, cái nhìn sẽ máy móc đi tới chỗ bắt đầu bầu vú của cô ta. Khi cô ta bước đi. Người ta dõi mắt theo chân của cô ta với dáng trọn vẹn. Với đôi mắt cá chân vừa nhỏ vừa đầy đặn. Petersen ghét cô ta và chịu đựng vẻ duyên dáng của cô ta. - Cô sợ người hành khách ấy ư ? - Ông hỏi. - Đó là kẻ sát nhân, phải không ? Vậy thì … - Cô sẽ sung sướng nếu hắn bị chết đuối phải không ? - Mong rằng y không ở trên tàu nữa, chí ít... Ngay nỗi sợ hãi ở cô ta cũng trở thành thú vị bởi vì cô ta làm da thịt ở vai cô ta run lên. - Này !... Ông do dự. Ông nhìn Sehutiringer hầu như lên án cuộc nói chuyện này làm chậm giờ uống cà phê, rồi Evjen, rồi Katia hiến cho ông ta đôi mắt ướt át của cô ta. - ... Không có gì chứng tỏ không có kẻ giết người trên tàu cả ! - Ông muốn làm tôi khiếp sợ phải không ? - Có lẽ... - Xin ông hãy giải thích, thuyền trưởng... Vì người ta đã trông thấy y gieo mình xuống nước. Petersen cảm thấy hơi điên lên với cô ta, bởi vì đột nhiên ông nhớ lại cảnh cô ta cùng với Vriens vào buồng cô ta. Và trong lúc nhìn đôi vai cô ta, ông không thể xua đuổi hình ảnh viên sĩ quan thứ ba, trong bóng tối ở thượng tầng đuôi tàu, ở Stavanger, đã đặt đầu hắn vào hõm vai cô. - Đừng sợ gì hết !... Chắc chắn hắn sẽ bị bắt giữ trước khi có thể lại giết... Evjen tỏ vẻ sốt ruột. Schuttringer, để giết thời gian lại lấy mứt mơ ăn với vẻ chuyên chú trong mỗi động tác. - Hầu như ông làm tôi sợ, thuyền trưởng !... - Cô trả lời với cơn run nhẹ dọc theo gáy - Ông độc ác, tối nay... Ông đứng lên, để những hành khách đi qua trước mặt ông, như thường lệ, kề cà trong hành lang và ông nhồi tẩu thuốc. Ông thấy người phục vụ lại gần, ngập ngừng hỏi ông: - Những điều ông vừa nói đúng chứ ? - Không đâu ! Không ! - Đúng như tôi nghĩ ! Nếu không... - Nếu không thì sao ? - Thì tôi sẽ xuống tàu ở Trondhjen... Chỉ nghĩ tới... Petersen vào buồng mình, lại trở ra, nhận thấy viên cảnh sát đến lượt anh ta vừa ăn tối xong và từ xa anh ta nhã nhặn và tôn kính chào ông. Gió nổi lên. Người ta cảm thấy gió qua sự chuyển động của con tàu, Những con sóng vỗ vào sống mũi tàu, một chút ở mạn trái với nhịp độ tăng dần. Liệu ông sẽ trèo lên phòng hút thuốc, hoặc liếc mắt vào căn buồng của Vriens vì anh ta đã hết ca trực, hoặc còn hớp vài ngụm không khí trên cầu tàu ? Cố sức nhăn trán và bồn chồn như ông vẫn thế từ ba ngày nay, ông cảm thấy thái dương đau âm ỉ và dai dẳng. Ông có thể gặp thanh tra Jennings là người trong lúc ăn lướt mắt qua những tờ báo ảnh mua ở Bergen. Ông bất giác ghi nối tiếp ở chỗ những chấm mực những cái tên: "Vriens... Katia... Schuttringer... Peter Krull...Bell Evjen...". Phải ! Lúc này ông còn ghi thêm cả Bell Evjen mà ông quen biết từ tám năm nay ! Ông nghe thấy một hồi chuông reo. Người phục vụ nói khi đi qua: - Người ta gọi tôi ở phòng hút thuốc... Khi anh ta đi xuống, anh ta bảo với vẻ ngạc nhiên xen lẫn vẻ kính trọng: - Sáu chai sâm banh !... Chính là cô gái. Cô ta xuất hiện ở đầu cầu thang, kêu lên: - Hãy lên đây một lúc, thuyền trưởng. Tôi vừa nhớ hôm nay là sinh nhật của tôi... Tôi muốn ăn mừng ngày này vì tôi rất mê tín ! Một lần nữa, từ dưới nhìn lên, ông thấy đôi chân và đầu gối cô ta. Liệu cô có cố ý cúi xuống để lộ ra nhiều hơn chăng ? - Mọi người cần có mặt trong buổi ăn mừng này.. Cả các sĩ quan của ông. .. Petersen liền từ từ trèo lên cầu thang. Và ông vẫn gợi nhớ những chấm đen, sáp lại hoặc tách những chấm này với những chấm kia tuỳ từng lúc. Trong phòng hút thuốc, lần đầu tiên Bell Evjen và Schuttringer ngồi cùng bàn, trao đổi những câu bình thường để làm quen. - Tôi luôn tin chắc - Katia Storm sôi nổi và vui vẻ nói - rằng nếu tôi không vui chơi trong ngày sinh nhật của tôi thì một năm buồn bã sẽ diễn ra... Cho tôi xin tí lửa, thuyền trưởng. Không !... Bằng cái tẩu thuốc của ông... Chúng ta sẽ vui chơi, phải không ? ... Đêm nay sẽ không có quá nhiều gió chứ, ông nói xem? - Hãy đi gọi hai sĩ quan không trực ban ! - Petersen ra lệnh cho người phục vụ đang đi tới với sáu chai sâm banh và những chiếc cốc. Còn lại một mình trong phòng ăn, viên cảnh sát không có ai phục vụ, thỉnh thoảng đứng lên để đi lấy một món ăn ở quá xa. Như Schuttringer, anh bắt đầu tỏ vẻ nghiêng về món lưỡi màu hồng điều, nhưng cầu kỳ hơn, anh phết mứt mận lên mỗi lát thịt. Khi người phục vụ trở lại xin lỗi, anh nở nụ cười dễ thương, miệng đang nhai: - Tốt thôi... Tôi tự phục vụ... Tại sao họ làm ồn ở trên ấy thế ? VI KỶ NIỆM NGÀY SINH CỦA KATIA Viên sĩ quan thứ hai không biết vì sao người ta gọi mình, đến trong bộ quần áo mặc hằng ngày bằng dạ đã cũ sờn, vào lúc Katia Storm đang đưa những chiếc cốc theo vòng. Anh nhận một cốc, ngoảnh về phía thuyền trưởng như hỏi ông lời khuyên, nhận thấy Petersen có vẻ cũng hơi bối rối như mình. Anh suýt uống quá sớm để tỏ vẻ không lúng túng. May thay, cô gái trẻ ngoảnh về phía cửa, nói: - Còn thiếu một người... Cuối cùng Vriens đến, dừng một lát ở ngưỡng cửa, bối rối vì mọi cái nhìn đều hướng về anh ta. Không khí thiếu nồng nhiệt và sự vui vẻ chưa nảy sinh. Chỉ có cô gái Đức sôi sục, nói, cười và thật lạ lùng là cô ta không thất vọng khi thấy sự vui vẻ của cô không có tiếng vang đáp lại. - Theo kiểu Nga ! - Cô ta kêu lên trong lúc nâng cốc ngang tầm môi cô - Một hơi... Cô ta hơi ngả đầu ra đằng sau, uống cạn đến giọt vang sủi tăm cuối cùng, hỏi Evjen: - Xin ông vui lòng mở một chai chứ ?... Và nói với Vriens: - Hãy đi lấy máy hát và vài cái đĩa trong buồng tôi, thân... Thuyền trưởng ngồi như Schuttringer, nhưng những người khác đứng và viên sĩ quan thứ hai có vẻ chờ đợi cơ hội để đi ra. Evjen vồn vã kèm một chút bối rối, giúp cô gái theo lời yêu cầu của cô ta, mở nút cái chai bằng bàn tay khéo léo, rót đầy các cốc. - Ở đây rất lạnh thưa thuyền trưởng ! Bộ tản nhiệt không chạy à ? Petersen cúi xuống chiếc máy giấu sau chiếc tủ giả, mở vòi hết cỡ làm phun ra một tia nhỏ hơi nước. Từ lúc đó, người ta không ngừng phải nghe tiếng rít thường chìm trong những tiếng động khác. - Cốc của ông, thuyền trưởng !... Không phải cà phê ! Vậy, ông có thể uống, phải không ?... Vriens trở lại với chiếc máy hát xách tay và hai hộp đĩa hát và anh ta đặt lên một chiếc bàn. - Rất tốt ! Ông là người có tình... Giờ đây hãy chơi bản tăng-gô... Ông nhảy được tăng-gô chứ, thuyền trưởng ? - Tôi không nhảy... - Không bao giờ ư ? - Không bao giờ... Thứ lỗi cho tôi... - Còn ông, ông Evjen ? - Tôi nhảy rất kém... - Không sao hết... chúng ta nhảy đi !... Không !... Trước hết uống đã... Ông thân mến, ông rót đầy các cốc trong khi chúng tôi nhảy nhé... Những lời sau là nói với Vriens đang cho máy hát quay. Không khí trở nên ít lạnh lẽo hơn. Những tiết tấu của bản nhạc tăng-gô kéo dài mềm mại, được nhấn mạnh bằng một giọng nam cao Đức. - Ông nhảy rất giỏi... Tại sao ông nói... Phần cuối câu nói biến mất. Katia giản dị và lả lơi, nép mình vào ngực Evjen cao lớn hơn cô ta và cứng đơ, hơi trịnh trọng, nghiêng mình một cách gò bó. Vriens phải qua trước mặt thuyền trưởng để đến gần bàn có những chiếc cốc. "Xin lỗi...” Anh ta ấp úng trong lúc nhìn chỗ khác. Trên chiếc ghế dài nhỏ, Schuttringer ngồi bất động, nhìn thẳng trước mặt, qua đôi mắt kính làm mắt ông ta biến dạng. Katia cười sau khi bạn nhảy của cô thì thầm một câu. Cô ta hết sức bị kích động. Nhưng Petersen không ngừng quan sát cô ta, cam đoan rằng việc kích động ấy là giả tạo. - Thế nào, không ai uống ư ? Cô nói khi kết thúc nhảy. Và không phải không có chút sốt ruột, cô lấy một chai từ tay Vriens do anh này không sao mở được, giật dây bật nút, trong khi gã trai đỏ mặt. - Hãy thay đĩa khác... Ông làm gì thế ? Trong những hoàn cảnh khác, Petersen sẽ không thể ngăn nổi bật cười. Từ lúc ông đặt chân vào phòng hút thuốc, Vriens bị đẩy từ chỗ này đến chỗ khác. Anh ta nghe lời nhưng rõ ràng có ý bực bội. - Không ! Không phải cái dĩa hát nhàm tai cũ rích ấy. Có một đĩa "blu” rất hay trong cái hộp màu hồng... Và cô ta lại gần viên sĩ quan thứ hai không biết phải có thái độ thế nào, nói với anh ta vẻ mơn trớn: - Chúng ta nhảy nào... *** Như thế nào và lúc nào tia lửa loé sáng ? Dù sao cũng vẫn cứ kéo dài. Người phục vụ được Katia ấn chuông gọi, lần thứ hai đem những chai rượu tới. "Tại sao ông không uống ? - Cô ta than phiền - Đây là kỷ niệm ngày sinh của tôi. Tôi muốn mọi người đều vui vẻ !..." Schuttringer là người hưởng ứng cuộc vận động này vẫn với sự kiên nhẫn như những động tác rèn luyện vệ sinh buổi sáng và kiên trì nín lặng. Vào một lúc, cô để rơi chiếc giày sa-tanh. "Đưa cho tôi, làm ơn...” - Cô nói với Vriens và anh này phải quỳ xuống. Cô ta cười, có thể với ước muốn âm thầm được khóc lên. Cô uống nhiều hơn những người khác vì từng lúc, cô lại gần một người với hai cốc trên tay. "Xin chúc... cùng một lúc.... Và rượu trong cốc đã cạn, da mặt cô trở nên hồng hơn, đôi mắt long lanh. "Tôi có thể đi ngủ lúc này chứ ?” - Viên sĩ quan thứ hai khẽ hỏi sau một giờ. Thuyền trưởng ra hiệu cho anh ta ở lại. Bộ tản nhiệt bắt đầu cung cấp nhiệt quá mức. Không khí dày đặc bởi khói thuốc. Vì cô gái mở túi thuốc rỗng. Evjen đưa cho cô túi thuốc của mình nhưng cô ta từ chối. - Thuốc quá nặng... Vriens sẽ đi lấy hộp thuốc trong buồng tôi... Phải không, làm ơn ? Đó là loại thuốc lá rất xa xỉ và cô để giữa những chai và cốc. Chiếc máy hát vẫn chạy. Bell Evjen hai, ba lần liên tiếp gợi chuyện với Schuttringer, nhưng ông này trả lời hết sức ngắn gọn nên cuối cùng từ bỏ cuộc nói chuyện. Việc duy nhất mà gã trai Đức trọc đầu làm là uống. Anh ta uống hết cốc này đến cốc khác như ở bàn ăn, anh ta ngốn những lát thịt lợn ướp. Mặt anh ta bóng nhẫy biểu lộ vẻ hài lòng khoan khoái. Petersen cũng uống bởi vì ông không có cách làm nào khác và vì Katia không ngừng đưa cho ông một cốc mới. Ông đã uống bạo nhiêu cốc ? Ông không thể nói được. Thông thường ông uống điều độ. Vào mùa hè khi những người du lịch tổ chức những cuộc chơi thuộc loại này, ông lấy cớ nguyên tắc trên tàu cấm đoàn thủy thủ và ban tham mưu uống rượu. Thế nhưng lần này ông thích thú uống. Có lẽ bởi vì, được rượu trợ lực, ông cảm thấy cái không khí lạ lùng, âm thầm, lạc điệu này có độ mạnh hơn. Thường người ta mở máy hát vẫn trong phòng hút thuốc này trong khi cái khối đen của con tàu Polarlys tiến lên với chong chóng chân vịt quay mạnh, qua những con sóng lừng và người hoa tiêu ở trên cao, lắc lư từ chân này đến chân kia trong cơn gió lốc. Cái trái ngược làm những người du lịch vui vẻ. Những phụ nữ mê say khi nghe tiếng kêu gọi khàn khàn của con chim mòng biển và câu cuối lặp đi lặp lại của bản nhạc jazz. Hôm nay cũng không có sự trái ngược. Thế giới bên ngoài không tồn tại. Không ai quan tâm tới bên ngoài. Không có bộ mặt nào áp vào những cửa sổ để nhận thấy hàng rào tuyết ở những vịnh nhỏ. Tất cả diễn ra trong phòng hút thuốc mà thôi. Và người ta còn không thể nói có những gì đang xảy ra ở đây. Một phụ nữ trẻ đẹp, gây khoái cảm, cười vang trong lúc ngửa đầu ra đằng sau, mỗi lúc một say hơn, cô lôi kéo những bạn mình theo mình. Và Petersen tìm mối liên hệ !... Sáu chấm đen trên tờ giấy với những nét gạch không rõ ràng nối điểm này với điểm kia. Mối quan hệ với Schuttringer đã chết, với thi hài nhỏ bé trần truồng của Marie Baron tìm thấy trong xưởng vẽ ở phố Delambre, mối quan hệ với kẻ sát nhân... Không phải một lần ông bắt gặp cái nhìn khó chịu của Vriens trong vai trò mà người ta bắt anh ta đóng. "Ông còn đợi gì mà không mở một chai khác ?". Lại một kẻ muốn khóc ! Cô ta hẳn nhận ra người đó ! Và vì cô ta đã uống quá nhiều, đột nhiên cô ta hôn vào góc miệng anh ta và thì thầm: - Anh là một đứa bé thân yêu kỳ cục... Hai chúng ta nhảy nhé !... Em muốn... Petersen đếm những chai không. Có tám chai, như vậy còn sáu chai để uống ! Không ai không say. Nhưng Evjen đã theo dõi những bước đi lại của Katia bằng cái nhìn quá truyền cảm. Schuttringer thiu thiu ngủ, nếu ông ta uống thêm hai hoặc ba cốc chắc chắn sẽ ngáy ầm lên. Chỉ có Katia chịu nổi sự ồn ào, giữ được một chút thần kinh. Cô ta cảm thấy điều đó. Từng phút cô ta tìm được cách tung ra một trò vui. Hoặc giả cô ta cười phá lên. Hoặc nữa cô ta lộ ra một bước nhảy kỳ quặc. - Ông không vui chơi à ! - Tuy nhiên cô ta thở dài - Còn tôi, tôi rất muốn mọi người vui chơi !... Thật không dễ thương, thuyền trưởng ạ !... hãy nhảy với tôi, nào !... Cô ta hầu như làm người ta thương hại, chính vì giọng van nài của cô ta. Phải chăng trong đôi mắt cô ta, từng lúc trống rỗng thêm, nỗi sợ sự im lặng ụp xuống ngay khi cô ta ngừng khấy đảo ? Ông nhảy một cách vụng về làm cho Vriens đứng một mình trong một góc đưa mắt dõi theo ông. - Tại sao ông nghiêm chỉnh đến thế ? - Nhưng... - Mọi người đều nghiêm chỉnh cả ! Còn tôi, tôi không thể sống như thế này... Lại đây uống đi !... Có chứ ! Tôi muốn !... Cô kéo ông về phía bàn dùng làm tủ buýp-phê. - Anh cũng lại đây, anh thân yêu... Cô nói với Vriens - Cứ đến đây đi !. .. Tôi không muốn tất cả các ông như thế này... Không thể thế được... Lần này cô hành động quá đáng... Cô uống ba lần, từng hớp một cạn cốc rượu, xoa tay lên trán. - Cho tôi xin một điếu thuốc lá... Không ! Không phải thứ đó... Thuốc lá của tôi ở chỗ nào đó... Này ! Vriens ! Và cô sốt ruột giậm chân xuống đất. - Không có ai lên dây cót máy hát à ? Lần đầu tiên kể từ khi mọi người ở phòng hút thuốc, cô ngồi xuống, nhún vai nhìn Schuttringer sống mà như thể một khối đá. - Ông đến ngồi đây, thuyền trưởng... Anh ở đây, anh thân yêu... Cô ta muốn Petersen ngồi bên phải, Vriens bên trái cô ta. Gã trai ngập ngừng tiến lên. Thế là cô ta cười phá lên. - Nhưng tất cả các ông sao thế ?... Có thể nói chúng ta đang ở đám tang... hãy cho tôi uống... Có chứ !... Tôi muốn!....Tôi sẽ uống một mình... Mặc kệ... - Cô hãy bình tĩnh lại... - Thuyền trưởng can thiệp vụng về. - Tại sao ông muốn tôi bình tĩnh lại chứ ? Phải chăng con tàu của ông là nhà thờ ?... Mong người ta nổi nhạc lên... Không còn là người đàn bà ấy nữa. Trạng thái bị kích thích tiềm ẩn mà người ta thường đoán ra ở cô ta đã thắng thế. Và đây là một con người hỗn loạn, không thể kìm nén, lấy lại được sự bình tĩnh. - Ai uống với tôi nào ? Không ai ư ?... Vriens nghiêng người, lẩm bẩm vài lời chỉ cô ta mới có thể nghe thấy và rõ ràng là lời kêu gọi nên khôn khéo. - Anh, để em... Nếu em muốn uống, điều dở chỉ liên quan tới em, phải không ? Cơn khủng hoảng thần kinh không xa - Thuyền trưởng cảm thấy điều này sắp xảy ra. Ông vừa lo ngại đồng thời vui vì chuyện đó. Liệu cuối cùng ông sẽ phát hiện điều gì đó nhờ ở cái không khí hầm hập nóng trong mạn tàu này ? Có lẽ ông đã hiểu rõ hơn câu chuyện kể của bà gác cổng ở phố Delambre, trong tư tưởng, tại xưởng vẽ có những người phụ nữ ở đó giống nhu Katia. - Cho tôi xin tí lửa.. Cô ta nhìn ba cai chai còn đầy, Schuttrmger vừa châm một điếu xì gà nâu to toả hương vị đắng ngắt, Evjen lấy vẻ cố hết sức thong dong. Đột nhiên, cô ta đứng lên, hất lăn những cái chai xuống đất bằng một cử chỉ dữ dằn rồi chạy ra cửa. Đến đó, cô dừng lại, ngoảnh mặt nhận thấy Vriens bước sau cô ta. - Không ! Không cần... Cô ta ấp úng, giọng dứt quãng. Rồi cô xuống thang nhanh đến nỗi cô giữ thăng bằng được là do điều kỳ diệu Gã trai do dự một lâu, cuối cùng đến lúc anh ta ra khỏi phòng. Petersen nhìn các bạn mình. Người này cũng như người kia đều bối rối. Viên sĩ quan thư hai lẩmbẩm: - Tôi có thể đi ngủ được chứ ? Về phía Evjen, ông ta liền bước từng bước dài trong phòng hút thuốc vẻ rầu rĩ. Thuyền trưởng bước tới tận cửa, tại đây ông suýt va phải người phục vụ. Ông kéo anh ta lên boong dạo chơi, tại đây cả hai người bị những bông tuyết do cơn lốc làm quay cuồng, trùm kín họ. - Cô ta hiện ở đâu ? - Trong buồng cô ta... Đã có chuyện gì xảy ra ?... Khi cô ta qua gần tôi, má cô ta đầy nước mắt. - Còn Vriens đâu ? - Cô ta đóng cửa lại trước mũi ông ta... Ông ta nói với cô ta qua cửa... Tôi không nghe được ông ta nói gì... Cô ta say phải không ?... Xin hỏi thuyền trưởng một câu: Có phải do yêu cầu của cô ta mà tôi phải đưa các chai rượu tới chứ ?... - Tất nhiên rồi... Đi đi... Petersen vừa nhận thấy một hình người trong bóng tối. Nói chính xác hơn, trước hết ông chỉ nhìn thấy quầng đỏ nhỏ của điếu thuốc lá. Ông tiến nhanh, phải ghé sát mặt mình vào mặt người kia mới nhận ra Peter Krull. - Anh làm gì ở đây ? Người tiếp than vào lò từ tốn lấy điếu thuốc cuốn ở miệng ra. - Ông thấy đấy ! Tôi dạo mát... - Đây là giờ nghỉ của anh ư ? - Không ! Nhưng tôi cho bạn tôi một cua-ron để thay thế tôi... Đó là quyền của tôi !... Vì người đốt lò hẳn đã có than. Anh ta không nói gì hết để giải thích sự có mặt của anh ta ở nơi này, cùng không muốn tỏ vẻ tự nhiên. Trái lại ! Đôi mắt nhỏ của anh ta nhấp nháy một cách ranh mãnh hơn bao giờ hết. - Cô gái ấy bị kích động ! - Anh ta nói thêm vì thuyền trưởng tự hỏi ông phải làm gì. - Anh có nhìn qua cửa sổ không ? - Luôn luôn, vâng ! Và Peter nhổ nước bọt qua lan can, và dẫu có gió vẫn cố cuốn điếu thuốc lá mới. - Anh đã gặp cô ta ở nơi khác ngoài nơi đây phải không ? - Không nhất thiết là cô ta ! Nhưng là những đàn bà cùng cỡ. Tôi cũng có một cô theo yêu cầu của tôi... - Trong những căn nhà tồi tàn ở Hambourg hả ? Petersen đập lại để đặt lại gã thủy thủ tiếp than vào vị trí của gã. - Ở Béc Lin.. Ông có biết khu Tây không ? ... Phố Jacobstrasse ấy ? Một phố yên tĩnh với những biệt thự lớn hiện đại có vườn bao quanh... Gã lục túi để tìm diêm. - Không có gì tốt,.. Tôi đã ghi tên vào Đoàn luật sư như tập sự, nhưng tôi không đặt chân vào Toà án. Tôi có một chiếc xe lớn... Này ! Một trong những chiếc ô tô đầu tiên không có van su-páp... Và vẫn cái nhìn mỉa mai, sự điềm tĩnh cố ý ấy làm Petersen lạc hướng. - Còn người đàn bà ? - Đó là vợ tôi... Một người đã ly hôn... Đầu tiên cô ấy là vợ Beckmann, một nhà kim khí lớn ở vùng Ruhr... Giờ đây, hình như cô ấy sống ở Ai-cập, tại đây, cô ấy lấy một lãnh sự hoặc đại sứ Anh... Thuyền trưởng nhìn qua cửa sổ gần nhất thấy Evjen rời phòng hút thuốc và Schuttringer luôn thiu thiu ngủ, uống cạn hai cốc rượu còn đầy. Chuyện Krull vừa nói với ông làm ông bối rối ngay với điều bất lịch sự. Là người Na-uy tốt tầng lớp trung bình, anh ta thích không biết những hoàn cảnh đáng ngờ tồn tại không tránh khỏi trên thế giới. "Cái gì chứng tỏ hắn không nói đến mình ?" - Ông tự nhủ để an tâm. Nhưng đồng thời, ông nhìn xéo gã thủy thủ tiếp than vào lò, nhớ lại những cảm giác đầu tiên khi gặp mặt gã, hiểu rằng dẫu sao người đàn ông này luôn luôn không phải là chuột ở bến cảng. Theo bản năng, ông không nói “anh - tôi” nữa. - Tại sao ông lên cầu tàu này ? - Để xem... - Xem gì ? - Họ. Họ quan sát một quả núi trắng, tại đây có ngọn đèn đỏ đánh dấu vị trí một bãi đá ngầm. Ở dưới bờ biển, có một căn nhà gỗ nhỏ đơn độc mà người ta chỉ thoáng thấy quãng vài giây. Những người sống ở đó cách làng tới chục cây số ! Không có cả đường ! Chỉ có một chút đất ở chân vách đá thẳng đứng, chỉ đủ để nuôi vài con dê cái hoặc vài con cừu. Trong phòng hút thuốc, Schuttringer đã đứng lên, vươn vai như một người mệt lử, nhìn thấy cốc của Petersen còn chút nước vàng óng và uống luôn. "Cái này chẳng có vị gì hết...”. Thuyền trưởng suýt giật mình khi nghe thấy tiếng nói của Krull đột nhiên nổi lên. Bởi vì tiếng nói này êm dịu và não nùng. - Cái gì không có vị gì hết ? - Đó là sâm-banh. Không quá ngon nhưng là sâm-banh. Ông không thể hiểu... Nào !... Đã tới lúc tôi phải thay thế người bạn, nếu không hắn lại đòi tôi cua-ron thứ hai... Một lời khuyên hay, thuyền trưởng ạ, hãy để tất cả chuyện đó yên lặng... Gã đi xa. Cần phải nhắc nhở gã về Petersen xét rằng đó là trái với phẩm cách của ông. Ông muốn chờ cho gã thủy thủ tiếp than vào lò biến mất. Khi đi qua phòng hút thuốc, ông nhận thấy phòng trống không. Ở dưới, hành lang cũng trống trải ngoại trừ người phục vụ ngồi ở chỗ mà anh ta canh gác tới nửa đêm. - Vriens đâu ? - Ông ấy đã đi khi thấy cô ta không mở cửa cho ông ấy... - Những người khác ? - Trong buồng họ... Ông Vriens yêu cầu tôi một chai nước khoáng... Petersen đứng im một lúc. Đúng lúc ấy ông bực bội nhận thấy nếu ông không say, đôi chân ông vẫn vững chắc như thường ngày. - Gã thủy thủ tiếp than vào lò không bao giờ đến lảng vảng ở đây chứ? - Thủy thủ tiếp than nào ? - Không có gì !... Được rồi !... Cà phê cho tôi vào năm giờ rưỡi, như thường lệ... Ông thấy hình như có tiếng động vọng đến từ căn buồng của Katia Storm. Nhưng với sự có mặt của người phục vụ, ông không dám đến nghe ở cửa. Một lúc sau, ông cởi quần áo và bất giác càu nhàu: "Hắn muốn nói gì ?”. Đó là câu của Peter Krull mà ông không chịu được. "Một lời khuyên hay, thuyền trưởng ạ: hãy để tất cả chuyện đó yên lặng...". Đêm nay, ông mơ thấy Katia là vợ một lãnh sự Anh, mời ông nhảy trong phòng khách hạng nhất trên con tàu có ba ống khói. Cô ta có cái cách kỳ lạ là áp sát đôi chân mình vào chân bạn nhảy và đột nhiên trước mọi người cười, cô ta hôn vào miệng ông trong khi gã đầu bếp giống Peter Krull như hai giọt nước, đi đi lại lại theo cách của người bán lạc rang và rao: "Ai muốn ăn lạc nào ?.. Ai hỏi lạc đây ?... Đây là sâm-banh phải không ?...”. VII NGÀY CỦA NHỮNG CHIẾC VÍ Ngày thứ tư bắt đầu bằng việc tàu đỗ lại hai giờ tại Trondhjem, là một ngày yên tĩnh tuyệt đối đến nỗi có vẻ không tự nhiên. Từ khi khởi hành ở Hambourg, Petersen quá ít ngủ và vì rượu sâm-banh, ông cảm thấy mềm yếu cả thể chất lẫn tinh thần. Khi người phục vụ đến nói với ông trên cầu tàu rằng Katia Storm bị ốm, không muốn rời khỏi buồng mình, ông nhún vai và hút tẩu thuốc từng hơi ngắn rất nhanh. Suốt buổi sáng, ông không nhìn thấy Vriens... Đúng là boong tàu bị cơn bão tuyết mịn như cát quét qua hầu như muốn thấm sâu vào da thịt, hiện vắng vẻ. Họ đang đến gần vòng Bắc cực. Những ngôi nhà ở sườn núi càng lúc càng hiếm hoi. Ngày hôm ấy, con tàu Polarlys ba lần phục vụ vận chuyển cho những thị trấn nhỏ chỉ có chục ngôi nhà, tại đây những người đàn ông đội mũ da lông chất những hòm và thùng tròn lên những chiếc xe quệt. Trong bến thứ ba, lớp tuyết dầy gần tới sáu mươi xăng-ti-mét và những đứa trẻ đi lại bàng ván trượt hoặc pa-tanh. Bầu trời xám xịt. Biển cũng xám. Đến nỗi ánh sáng hầu như toả ra từ màu trắng sượng của những núi non mà con tàu đi theo tất cả những chỗ lồi lõm ở ven biển. Bữa ăn trưa, ngồi ở bàn chỉ có thuyền trưởng, Evjen và Schuttringer. Evjen nói vài ba câu cho khỏi áy náy rồi câu chuyện xẹp đi. Khi đi ra, Petersen bắt tay viên cảnh sát thận trọng chỉ dạo chơi rất ít. "Nếu cứ tiếp tục thế này, sẽ không xảy ra chuyện gì và chuyến đi sẽ tuyệt vời ! - Jennings mừng rỡ nói - Tôi tin chắc rằng kẻ sát nhân đang lang thang qua vài chỗ sâu trong vũng tàu Stavanger...". Thuyền trưởng không muốn làm anh ta mất hứng. - Cô ta làm gì ? - Ông hỏi người phục vụ từ buồng Katia đi ra với những đĩa thức ăn. - Cô ta nằm dài trên giường, mặt quay vào vách. Hầu như cô ta không ăn, không nói... Quãng ba giờ, sau khi ngủ khoảng một giờ, Petersen trèo lên cầu tàu nơi Vriens đang trực. Trong khi gã trai dập gót, ông đành giơ tay chào anh ta, nói với người hoa tiêu đã từng cùng ông đi trên một trămchuyến trên biển. - Ông có nghĩ cần che đậy những tấm biển không ? Cho đến lúc này họ đã cho tàu chạy tránh con đường hầu như liên tục có những hòn đảo và bãi đá ngầm. Con đường này trở lại những vùng lân cận Lofoten nhưng vào buổi tối, chắc chắn họ sẽ lộ ra trước cơn gió khá mạnh.. "Đó là thận trọng...” - Người khổng lồ rụt cổ trong những bộ áo da lông và đứng trên đôi ủng to đế gỗ, trả lời. Theo lệ thường, Vriens đứng trong một góc cầu tàu, trong khi người hoa tiêu ở giữa, thỉnh thoảng chỉ cho người lái hướng tàu phải đi bằng bàn tay phồng lên bởi chiếc găng tay hở ngón bằng da tùng lộc. Thuyền trưởng trong một lúc lại nhún vai so sánh họ. Ông cảm thấy người này bối rối hầu như không dám nhìn về phía ông. Thế nhưng đột nhiên Vriens tiến lên lẩm bẩm: - Tôi muốn nói với ông, thuyền trưởng... Petersen chờ đợi, nhìn qua vai mình. - ... Tất nhiên, khi trở về, tôi sẽ đệ đơn từ chức với ông... Anh ta chỉ nhận được tiếng càu nhàu thay cho trả lời và thuyền trưởng xuống thang, liếc nhìn phòng hút thuốc trong đó Evjen đã trải ra mặt bàn những giấy tờ buôn bán của ông ta. Buổi chiều thật buồn tẻ. Bữa ăn tối giống với bữa ăn trưa, ngoài sự khác nhau về thời gian, họ đi vào vùng trống và tàu tròng trành làm cốc và đĩa trượt đi. Evjen không nao núng tuy rằng nụ cười của ông hơi gượng. Nhưng đột nhiên người ta thấy Arnold Schuttringer từ nãy giờ vẫn nghiến chặt hàm, bỗng đứng lên và đi ra cửa với những sải bước vụng về. - Cô ấy thật sự ốm à ? Evjen hỏi. Petersen phác một cử chỉ lập lờ. - Con người kỳ cục !... Tối hôm qua tôi đã tin chắc chuyện đó sẽ kết thúc tồi tệ... Thuyền trưởng lắng tai chăm chú nghe những làn sóng vỗ vào vỏ tàu. Ông nghe thấy tiếng một khối nước vỡ ra trên boong trước và đặt khăn xuống, ông đến cầu tàu sau khi cởi ngay áo da dê cái của mình. Ông thấy hai bóng người tựa vào lan can. Qua đám mây tuyết mịn, người ta phân biệt được những đèn tín hiệu của một bến nhỏ mà họ phải đỗ lại. Petersen quan sát bộ mặt nhìn nghiêng nhợt nhạt của Vriens một lúc và nhận thấy hai hàm của anh ta cũng nghiến chặt như hàm của Schuttringer. - Ốm hả ? - Ông hỏi bằng một giọng cục cằn. - Không ạ ! Gã trai kêu lên tiếng đó trong lúc đứng thẳng đơ và người ta cảm thấy anh ta run từ chân đến đầu trong bộ quần áo quá mỏng. - Khoác cái này vào ! Ông ném cho anh ta cái áo khoác và sau vài câu trao đổi với người hoa tiêu, ông xuống đi ngủ. Ông không thấy Peter Krull trong ngày dù chỉ một lần. Về phía Katia, ông hình dung cô ta nằm co quắp trên ghế nằm của mình, chắc chắn còn bị giày vò bởi cơn say sóng, nhưng khăng khăng không gọi ai cả. *** Những lúc tốt nhất trong ngày thứ năm đối với Petersen là những giờ buổi sáng, trong khi ông trèo lên trực bên cạnh người hoa tiêu. Họ đã qua Bodve. Con tàu Polarlys len lỏi giữa những eo Lofoten, từng giờ, chúi mũi xuống trong cơn bão tuyết. Trong vài phút, người ta không trông thấy gì hết, không thể mở mắt mãi. Bụi tuyết thấm vào những đường chỉ khâu nhỏ nhất của quần áo và giày. Hai người đàn ông nện đế giày, thỉnh thoảng lại gần nhau đưa cho nhau túi thuốc hoặc bật lửa. Nhiệt kế chỉ mười hai độ dưới không và trong những khung trời quang mây trong, khi mặt trời nhợt nhạt loé sáng cho phép nhận thấy hai hoặc ba cơn gió bất chợt ở chân trời những quả núi trắng nổi lên, không môt vết, không một căn nhà, không một ngọn cờ, không một sinh vật sống. Thật mênh mông, người ta nhận ra những đường viền của một số đỉnh núi xa hơn ba mươi dặm. Và đột nhiên, hầu như qua sát thân tàu là một chiếc thuyền đánh cá dài tám đến mười mét, những dây néo to ra vì tuyết bám. Boong thuyền nặng những tuyết, với hai người đàn ông biến dạng bởi bốn hoặc nămlớp quần áo, nghiêng người qua lan can để câu cá thu. Không khí làm buồng phổi lạnh giá. Nhưng Petersen vẫn khao khát hít thở như thể ôxy tinh khiết làmông phấn chấn, sẽ xua đi cơn ác mộng về cô gái trần truồng trên giường ở phố Delambre, về Stemberg với bộ ngực bị xé rách và tấm khăn trải giường vo tròn úp lên mặt. Ông hết sức thờ ơ nhìn viên cảnh sát Stavanger, anh này không biết làm gì, đứng áp vào vách tránh gió và ngắm cảnh. Chỉ tới khi nghe thấy tiếng ho đằng sau mình làm ông run lên, cau mày và hỏi Schuttringer vừa xuất hiện: - Ông muốn gì ? Một biển báo ở chân cầu thang cấm đi lên cầu tàu là nơi hành khách không có việc gì để làm cả. - Tôi muốn kín đáo nói với ông, thuyền trưởng ạ ! Chưa bao giờ anh ta nói nhiều cùng một lúc, anh ta tỏ ra kiểu cách và do dự. Anh ta bỏ chiếc mũ cát két du lịch ra nên cái đầu trần của anh ta tạo hiệu quả bất ngờ trong không khí lạnh giá. - Ông đội mũ vào ! Đó là gì ?... Người Đức chỉ viên hoa tiêu. - Ông có thể nói trước mặt ông ấy. - Tôi vừa là nạn nhân của một vụ mất cắp... - Ông nói sao ? - Một kẻ nào đó đột nhập vào buồng tôi tối qua hoặc sáng nay và lấy đi hai nghìn mác và vài trămcua-ron ở trong va li của tôi... Tôi rất tiếc đã làm ông thêm lo lắng... Nhưng tôi dứt khoát cần lấy lại số tiền ấy, bởi vì đó là tất cả số tiền tôi đem theo cho chuyến đi của tôi... Viên hoa tiêu quay lại và tò mò nhìn người hành khách. - Ông tin chắc rằng số tiền ấy bị mất chứ ? - Petersen hỏi, nét mặt rắn đanh. - Chắc chắn !... Do thận trọng, tôi không để tiền trong ví mà trong một phong bì giấy xanh đơn giản luồn dưới quần áo của tôi... - Sáng nay ông làm gì ? - Tôi tắm rửa vào tám giờ. Vậy là buồng tôi trống không. Rồi tôi đến phòng ăn và dạo chơi trên boong sau... Chính vào lúc đó mà... Thuyền trưởng ngoảnh mặt về phía người hoa tiêu: - Ông sẽ làm tốt mà không có tôi một lúc được chứ ? Và ông là người đầu tiên xuống thang. Khi ông qua trước phòng ăn, ông vấp phải người phục vụ. - Ông không trông thấy ai vào buồng số hai mươi bốn sáng nay chứ ? Người phục vụ giật mình như con rối có lò-xo, ấp úng: Cả hai mươi hai ư ?... Ông Evjen đúng là vừa hỏi tôi có phải có người đã đột nhập vào buồng ông ấy... Evjen qua cửa đã mở, ló mặt. Ông ta đã nghe thấy. - Thuyền trưởng !... Ông vui lòng đến đây một lát được chứ ?... Ông ta bị kích động nhưng biết tự chủ. Chỉ có hai bàn tay dài và rất chăm chút ngọ nguậy. - Người ta đã ăn cắp của ông cái gì ?... Nhưng Evjen nhìn Schuttringer với vẻ nghi ngờ. - Ông vui lòng vào một chút chứ ? Ông ta đóng cửa lại. - Ông biết rằng tôi chỉ xuống miền Nam mỗi năm có một lần... Chính vào lúc đó tôi lấy những số tiền cần thiết cho việc kinh doanh ít nhất trong sáu tháng của năm... Chúng tôi không có ngân hàng ở Kirkenes... Trong cái hòm bằng da lợn ấy, tối hôm qua còn năm mươi nghìn cua-ron tiền mặt và vài đồng tiền vàng mà tôi có thói quen đem về cho vợ tôi. - Mất rồi ư ? - Cái hòm rỗng không... Tôi biết được việc này vào lúc... Tôi làm việc ở phòng hút thuốc và khi tôi cần một tài liệu để ở đó, nó cũng ở trong cái hòm ấy... Người ta đã cậy khoá hòm được giấu dưới quần áo của tôi... Schuttringer sốt ruột đi bách bộ trong hành lang. - Ông muốn không nói tới chuyện ấy trong lúc này ư ?... - Ông sẽ làm gì ? Ông nghĩ rằng... Petersen đi ra không nghe thêm nữa, khuyên cũng nên im lặng với người Đức, ông này nhắc lại: - Cần dứt khoát... ông hiểu chứ ?... Tôi không có gì nữa và... Thuyền trưởng gặp lại Jennings vẫn ở chỗ cũ trên boong và viên cảnh sát chuẩn bị cười nhã nhặn khi nhận ra ông. - Xin chào thuyền trưởng !... Cảnh vật đẹp xiết bao !... Những người miền Nam không ngờ rằng... - Ông hãy lại đây với tôi... Ông kéo anh ta vào buồng mình, sập mạnh cửa lại. - Vừa xảy ra hai vụ mất cắp trên tàu, một trong buồng mười bốn, cạnh buồng này, tại đấy người ta đã lấy năm mươi nghìn cua-ron, vụ kia ở buồng số hai mươi hai, tại đấy, khoảng hai nghìn mac đã bị mất. - Không thể thế được ! - Thanh tra cảnh sát hết sức ngạc nhiên kêu lên - Tại đây, trên tàu !... - Phải, đêm qua hoặc sáng nay ! Có ba phương pháp tiến hành mà tôi muốn ông hoàn thành không để mất thời gian: khám soát cặn kẽ buồng của Katia Storm, trước hết... - Ông nghĩ ?... -... Và, nếu cần cho người phục vụ lục soát căn buồng... Sau đó, khám xét buồng viên sĩ quan thứ ba của tôi... Cuối cùng, nếu việc đó không đem lại kết quả gì, hãy để mắt tới phía Peter Krull làm việc trong hầm tàu... - Thực tế, tôi nghĩ rằng theo hướng đó mà... - Nếu ông không thấy có gì trở ngại, tôi muốn ông bắt đầu với cô gái người Đức... Cô ta đang ở trong buồng mình... - Tôi phải nói với cô ta sao ? - Rằng có cái bị mất và bốn phận của ông là phải lục soát cả con tàu... - Ông đi cùng tôi chứ ? Petersen do dự, đột nhiên quyết định với vẻ hăng hái được kìm nén tồi: - Tôi đi cùng ông, vâng ! Ông gặp Evjen trong cầu thang: - Xin ông vui lòng đến đợi tin tức phòng hút thuốc cùng với ông Schuttringer nhé ? Ông ra lệnh với người phục vụ: - Hãy ngăn mọi người qua lại trong hành lang cho tới khi có lệnh mới... Vẻ ngoài, ông rất bình thản. Nhưng thực ra, ông sôi sục. Chính ông gõ cửa buồng của Katia và một lúc trôi qua trước khi họ nhận được câu trả lời: - Ai đó ? - Thuyền trưởng đây... Thật cần... - Tôi không muốn dậy ngày hôm nay... - Tôi buộc phải vào, thưa cô ! Xin cô thứ lỗi cho chúng tôi... Như trong phần lớn những con tàu, những buồng của con tàu Polarlys không khoá trong. Ông xoay nắm đấm cửa và ra hiệu cho thanh tra cảnh sát vào. Mùi thuốc lá vàng và mùi nước hoa nồng nặc xộc vào mũi và khói thuốc dầy đặc đến nỗi phải mất một lúc mới nhận ra người phụ nữ trẻ mặc quần áo ngủ nằm dài trên chiếc ghế nằm. Tóc cô ta rối bù, áo chẽn hé mở, nhưng nhất là làn da xâm xấp mồ hôi, bộ mặt mệt mỏi. Cô ta lùi lại theo bản năng, lấy chiếc khăn trải giường để che mình nhưng vì cô ta nằm đè lên trên nên cô ta không thể kéo khăn về mình. - Một vụ mất cắp quan trọng vừa xảy ra trên tàu và... - Và các ông đã nghi ngờ tôi hả ? - Tôi không nghi ngờ ai cả. Tuy nhiên bổn phận của thanh tra cảnh sát là lục soát cả con tàu... Cô ta cười the thé, vẻ độc ác, nhảy xuống giường không lo ngại về cách ăn mặc của mình. - Này, tìm đi.. Tôi không nghĩ rằng tập quán ở Na-uy... Đây là lần thứ hai vấn đề quốc tịch được đưa vào. Phải chăng Vriens đã không thốt lên một câu tương tự với vẫn những ý nghĩ lăng nhục này ? - Tôi không phải ra ngoài chứ ?... Phải chăng các ông muốn lục soát giường tôi ? Với những cử chỉ hung hăng, cô ta lôi những tấm khăn trải giường, chăn, làm rơi một cuốn tiểu thuyết Đức hẳn cô ta mới bắt đầu đọc. Petersen ngạc nhiên về sự khác nhau giữa thái độ của cô ta lúc này với thái độ những ngày trước. Cho tới lúc này, ngoại trừ cảnh say rượu, cô ta đã tự chủ, không bao giờ bối rối, không để bị nghi ngờ. Và đây là sự phẫn nộ vụng về của cô ta che giấu tồi sự hoảng loạn thật sự. Cô ta cười khẩy, sôi sục, muốn lăng mạ. Cô ta làm rơi chiếc vali ở túi đựng đồ làm tung toé đồ đựng bên trong ngay giữa buồng. - Quần áo của tôi !... Tôi cho rằng các ông quan tâm tới thứ đó phải không ? Sự thực là cô ta không trang điểm và lộ mặt không phấn son với làn da xâm xấp mồ hôi, chắc chắn góp phần nhấn mạnh sự rối loạn của mình. - Ông còn muốn xem gì nữa ? Về việc này, có lẽ tiền được cất giấu trong bộ quần áo ngủ của tôi... Liệu tôi có phải cởi ra không ? Và cô cởi khuy áo vét. - Giờ đây ông tin chắc rồi chứ, thuyền trưởng ? Hoặc giả có thể ông chỉ muốn bắt quả tang người phụ nữ ở trên giường ?... Hãy chú ý ! Ông đã quên hộp mũ của tôi... Thanh tra cảnh sát đỏ mặt đến tận tai, phác những cử chỉ vụng về. Nhưng Peterson vẫn đứng trước cửa rầu rĩ, bình tĩnh và nhớ tới những câu của gã thủy thủ tiếp than: "ông hãy để tất cả yên lặng...". Phải chăng ông bắt đầu không hiểu ý nghĩa những lời nói ấy ? Cô Katia Storm này với ông phải chăng còn xa lạ, bí mật hơn một phụ nữ Lapon ở Finnmark cõng những đứa con trên lưng qua lãnh nguyên ? Bà Petersen là con gái đầu lòng của một linh mục Tin Lành. Trong một năm, ông đã theo tán tỉnh bà, trong vườn ngôi đền bằng gỗ sơn màu lục nhạt, tại đó đôi tình nhân luôn bị những đứa con trai vây quanh, trong đó đứa trẻ nhất có sáu tuổi. Bà chơi đàn ống. Ông hoà đàn với bà bằng vĩ cầm. Không thể còn gì đọng lại ở ông về tất cả những bến cảng đã qua, những cảnh tàn nhẫn mà ông đã chứng kiến mà cũng không tìm hiểu ý nghĩ. Viên phó thuyền trưởng của ông là chồng chưa cưới. Cơ trưởng có tám con. Mùa hè, khi con tàu đầy khách du lịch, người ta mở máy hát và những chuyện ve vãn tán tỉnh lờ mờ hiện ra ở mọi xó xỉnh, ông phải ngủ qua đêm một buồng khác buồng của mình. Nhưng hôm sau là quên hết. Ông cố xóa kỷ niệm một bộ mặt. Và từ Tromsoe, ông mang về cho các con ông vài thứ đồ chơi do những người Lapon làm. Thật đúng nếu ông biết như thế là có những người đàn bà có trạng thái bị kích thích quá mức, còn khiếp sợ, không thể trải qua cuộc sống của họ trong một căn nhà một tầng xinh xắn và đủ tiện nghi. Một số phụ nữ phải chăng không làm ông bối rối bởi sự rung cảm của họ đến mức ông chỉ có sự hối hả là thoát ra khỏi sự xâm xấp mồ hôi của những cái ôm ghì và đứng vững chắc trên cầu tàu ! Katia hẳn thuộc loại này. Petersen lì lợm nhìn cô ta, tin chắc rằng cuối cùng ông sẽ hiểu được. Mùi của căn buồng làm ông khó chịu, như cái áo ngủ mở trên đôi vai hầu như không căng phồng. Ông nhận biết bao chi tiết khác: chai rượu xac-trơ màu xanh lục, những bao thuốc lá kiểu cách, quần áo mà ngay cả vợ ông cũng còn xa lạ. Một lúc, ông thử hình dung Vriens trong căn buồng này vào ban đêm mà đôi lứa giam mình trong đó "Không có gì cả !" Viên cảnh sảt lẩm bẩm bằng giọng nói tủi hổ. - Hết à ? Đúng chứ ? Tôi không phải là kẻ cắp chứ ? Ông không nghĩ rằng sẽ phải thận trọng tháo đường khâu đệm chứ ? Họng cô ta thắt nghẹn đến nỗi người ta chờ đợi nghe bật ra tiếng nức nở hơn là những tiếng nói. Cô ta đứng đó thật thẳng, hai tay chống nạnh cho tới khi hai người đàn ông đã đi xa. Chỉ đến khi cửa buồng đóng sập thật mạnh, Petersen mới nhận ra mình quên xin lỗi. - Buồng Vriens. - Ông nghi ngờ ư ? - Thanh tra hỏi. Với sự lúng túng, đôi tai đỏ lựng, cái nhìn khó hiểu nói rõ rằng cả anh ta cũng bối rối, bị lôi cuốn, có thể nói qua cuộc khám xét này nằm ngoài quỹ đạo thông thường của cuộc sống của anh ta. Thật như một khoảnh khắc ở một thế giới khác, ở lĩnh vực xúc động và cảm giác mới. Một thủy thủ đánh bóng đồ đồng ở phòng ăn của sĩ quan. - Sĩ quan thứ ba đang ở buồng ông ta chứ ? - Không ! Tôi không trông thấy ông ấy. Petersen đẩy cửa. Vật đầu tiên ông nhận thấy ở trên giườngg là bức ảnh lớn chụp lớp học trên tàu ở Delfzijl, màu đen trắng, với đám đông học sinh mặc lễ phục, đeo găng tay màu sáng, ở trên boong khoang thượng đuôi tàu và còn cả những học sinh trẻ hơn đứng ở trên trục căng buồm. Trên bàn, cuốn hướng dẫn hàng hải Na-uy còn mở ở chương các cọc tiêu và tín hiệu. - Tôi phải lục soát chứ ? - Viên cảnh sát thở dài. Người đối thoại với anh ta nhún vai vẻ chán nản. - Ông tiến hành đi !... Trong va li còn quần áo mang theo của trường với những nhãn hiệu vải thô đỏ. Còn có chiếc ảnh khác chụp trong buổi khiêu vũ của khoá học: những tràng hoa giấy, những đồ dùng trong hội nhảy có trò chơi, những người trẻ tuổi Hà Lan rất khoẻ mạnh giữa những bộ đồng phục. Vriens đội chiếc mũ gấp bằng giấy đứng ô một góc, vẻ xấu hổ về quần áo lố lăng của mình và do ánh đèn chụp loé sáng làm anh ta nhắm mắt lại. Jennings đổi vị trí ba cuốn từ điển ở đáy túi xách du lịch, phát hiện một chiếc khăn tay mỏng của phụ nữ toả ra vẫn mùi nước hoa của Katia, rồi dưới một quyển vở là một bó tiền ngân hàng. Petersen cũng nhìn thấy cùng lúc. Hai người nhìn nhau. - Ông đếm đi ! - Thuyền trưởng nói bằng một giọng không phải tiếng nói quen thuộc của ông. Trong hai phút người ta chỉ nghe thấy tiếng sột soạt của những tờ giấy bạc hầu như xếp từng cọc một nghìn cua-ron. - Bốn mươi... - Ông chắc chứ ? - Tôi đã đếm hai lần. Những bước chân vang lên. Bóng dáng Vriens hiện ra trong khung cửa. Anh ta có vẻ buồn phiền như ở trong buổi khiêu vũ. Anh ta nhìn thuyền trưởng cùng Jennings và chỉ lúc ấy mới nhận ra những tờ giấy bạc. Sự biển đổi diễn ra nhanh chóng bất ngờ. Nét mặt anh ta vốn mệt mỏi chỉ trong vài giây hằn những vết nhăn sâu, trong khi đôi vai thõng xuống như của người ốm. Anh ta không nói gì. Hai canh tay đung đưa. Cái nhìn dán vào bốn mươi nghìn cua-ron, anh ta chờ đợi, ngạc nhiên đến ngây dại. VIII TÀI SẢN CỦA KATIA Vriens không chờ được hỏi đã ngồi phịch xuống mép giường vì chiếc va li mở ra đã chiếm mất giường. - Ông vui lòng nói cho chúng tôi biết số tiền này ở đâu ra ? - Thuyền trưởng nói với giọng hầu như trìu mến mà ông cũng không biết. Đôi vai của người trẻ tuổi cử động dồn dập. Anh ta nhìn chòng chọc chiếc thảm bằng đôi mắt vô hồn. - Tôi không ăn cắp. - Có nghĩa là có kẻ nào đó yêu cầu ông cất giấu tiền ở chỗ ông chứ gì ? - Tôi cũng không biết tiền ở đó... Sáng nay, vào bảy giờ, tiền không có ở đấy... Anh ta nói giọng rầu rĩ, không cố thuyết phục những người đối thoại. Và từ đây người ta không rút được ở anh ta lời nói nào khác, nếu không phải là: - Tôi không lấy cắp... Tôi không biết gì hết... Jennings và thuyền trưởng vừa ra khỏi thì họ nghe thấy đằng sau cánh cửa những tiếng nức nở xé lòng, những tiếng gào thật sự tuyệt vọng và thanh tra bối rối, xúc động, nhìn Petersen. - Ông nghĩ rằng... - Tôi không nghĩ gì hết ! - Bạn ông trả lời với vẻ sốt ruột bất ngờ. - Còn thiếu mười nghìn cua-ron... - Và hai nghìn mac của Schuttringer, vâng ! Thuyền trưởng rảo bước. Tiếng cồng còn vang lên trong hành lang và Bell Evjen vừa vào phòng ăn. Schuttringer đến, là người đầu tiên nhận ra bó tiền trong tay Petersen. - Tiền của tôi !... - Ông ta nói trong lúc bước vội vài bước. - Tôi không có số tiền ấy. Cho đến nay, chúng tôi chỉ mới tìm thấy bốn mươi nghìn cua-ron thuộc về ông Evjen... - Bốn mươi ư ? - Ông này nhắc lại trong lúc đếm tiền một cách thích thú. - Tôi mong rằng thanh tra Jennings sẽ tìm ra được số còn lại. - Ai có thể có ý nghĩ rằng... - Xin ông vui lòng đừng đòi hỏi tôi nhiều hơn về việc này chứ ? - Xin lỗi ! - Schuttringer nói xen vào với vẻ bướng bỉnh - Tên kẻ cắp của ông chắc chắn cũng là của tôi. Do đó, tôi có quyền biết... - Hãy phục vụ đi, anh phục vụ ! Cô Storm không ra khỏi buồng chứ ? - Tôi không trông thấy cô ta. - Cô ấy không ấn chuông gọi à ? - Không, thưa thuyền trưởng... - Ông vui lòng cất số tiền này vào hòm của ông cho tới khi kết thúc chuyến vượt biển, được chứ ? Bell Evjen hỏi, bối rối về bó tiền dầy cộp. Người Đức đeo kính lẩm bẩm: - Lẽ ra tôi phải lấy ngay chừng ấy. Sẽ vui ở Kirkenes nếu... Petersen không nghe tiếp. Ông vừa vào buồng mình vặn khoá một két sắt xách tay thì hai hồi còi vang lên. Ông cầm lấy chiếc áo da dê cái nói với người phục vụ khi đi qua: - Lát nữa anh cho tôi ăn trưa nhé. Đây là Svolvaer với ba hoặc bốn nghìn thuyền đánh cá bằng gỗ lãnh sam màu sáng từ mọi nơi ở Na uy đã kéo đến đây đông nghịt vào mỗi tháng hai để tham gia vào mùa đánh bắt cá thu. Một đám hỗn độn những cột buồm. Mùi nhựa nồng nặc. Trong thành phố thường ngày chỉ cỡ hai nghìn dân, lúc này lúc nhúc những xe quệt, người mặc áo da lông hoặc áo da. Những đống cá thu đã ướp muối sắp sụp đổ, được xúc bằng xẻng. Một chiếc tàu thủy nhỏ chạy hơi nước sơn đen ở giữa bến cảng bị một đoàn thuyền náo nhiệt vây quanh. Người ta mua cá ở đây, như vậy không cần lên bờ và ngay buổi tối đi luôn đến Aalesund. Petersen phải bắt tay, nghe những câu chuyện và những con số, trong khi thanh tra cảnh sát đứng gác vẻ thật kín đáo ở đầu cầu tàu. Ba chiếc thuyền mất tích hôm trước, bị cuốn đi về phía dòng xoáy của cơn lốc. Nhưng với chỉ dưới một tháng, người ta đã đánh bắt được bốn mươi lăm triệu con cá thu. Ông nghe, giải trí, ông nhìn lướt khung cảnh và những bộ mặt quen thuộc. Những ngôi nhà bằng gỗ, phần lớn sơn màu nhạt, những phố dốc, luôn luôn phủ đầy tuyết và những đứa trẻ trượt ván lao đi, len lỏi giữa những chiếc xe quệt, những hòm, thùng. Vài con tàu chạy hơi nước trọng tải năm mươi đến một trăm tấn neo đậu cùng cảng với con tàu Polarlys và ghi trên tấm bảng đá đen tên những hòn đảo mà chúng bảo đảm vận chuyển tới. Khắp nơi, những lời nói chuyển tới Petersen, ông cố giữ trên môi nụ cười nhợt nhạt. Ông trông thấy Evjen và người Đức ngồi đối diện trong phòng ăn. Một người Lapon mặc quần áo sọc, đội mũ có bốn chỏm nhọn, đứng ở góc cảng xây trên bộ cọc sàn và hầu như mắt nhìn thu hút cảnh tượng luôn thay đổi, trong khi xa xa, qua eo biển, người ta đoán ra những quả núi trắng xoá mà eo biển đổ xuống từ đó. Thật đủ màu sắc, nhộn nhịp, không bị kích thích. Thật vui, tuy nhiên, với bản chất nghiêm trang của người Bắc Âu, theo thói quen, đã làm cho tâm hồn thuyền trưởng thích thú. Trong lúc ông thử hoà hợp với khung cảnh, thì đột nhiên ông mất vui bởi vì ông nhớ tới Katia, xâmxấp mồ hôi vì hơi nóng của chiếc giường, đứng trong căn buồng lộn xộn của cô ta với không khí thật nặng mùi. Một chiếc thuyền lướt bên sườn con tàu Polarlys, trong đó hai người đàn ông với những hành động chính xác, chất đầy cá thu tới tận đầu gối họ, chặt đầu những con cá, bóc mang rồi ném vào chậu gỗ, lóc thịt cá theo chiều dọc và để rơi hai miếng phi-lê cá đều nhau, trong khi vây và ruột được ném qua mạn thuyền. Petersen nhìn theo họ mà không thấy gì hơn cảnh nền, trái lại gợi cho ông những chi tiết nhỏ nhặt của bóng dáng người phụ nữ trẻ. "Không có tiền trong buồng cô ta !” - Ông nhớ lại mọi hành động của Jennings. Ông như lại thấy đồ quần áo trong của nữ mịn mỏng và giữa những thứ khác là những chiếc sơ mi lụa đen làm ông ngạc nhiên. Nhưng không có tiền ! Không có ví ! Ông thử tái hiện cảnh lục soát đầu tiên trong làn sương mù ở Stavanger và trí nhớ của ông không giữ lại một dấu vết nào về những tờ bạc ngân hàng nhìn thấy. Thanh tra đứng tựa vào đầu cầu tàu mà những người bốc dỡ hàng đi qua theo hàng dọc. Petersen trông thấy Krull ở xa hơn, luôn không cạo râu và mái tóc hung rối bù phủ lên bộ mặt. Hầu như thuyền trưởng có cảm giác người thủy thủ tiếp than quan sát mình nên ngoảnh mặt đi. - Hãy gióng hồi chuông chứ nhất - Ông ra lệnh cho viên sĩ quan thứ hai mười phút trước giờ ấn định. - Ông nói đi, thuyền trưởng! Có đúng như người ta kể không ?... Vriens ư ? ... - Tôi không biết gì hết. - Ông ấy sẽ trực à ? - Nếu ông ấy không trực, ông sẽ trực thay ông ấy. Những đám mây bụi nắng mặt trời trôi qua một lúc, bầu trời soi sáng một nhóm buồm, một mũi tàu láng bóng, một gác chuông nhỏ mái đá đen nhưng lập tức bị màu xám và tuyết thay thế. Một người Lapon, sau khi do dự, trèo lên tàu và mua vé hạng ba đi Hammerfest. Nhưng người này từ chối xuống ở các buồng mà ngồi trên chiếc tời đứng; ba giờ sau Petersen gặp lại người này vẫn ở chỗ cũ. - Hồi còi thứ hai !... Những chiếc pa-lăng được rút vào, những tấm biển dược kéo lên, những khoang hầm bắt đầu trống rỗng, Mặc dầu mùi cá nồng nặc tràn ngập bến cảng và trong thành phố, thuyền trưởng vẫn giữ trên lưỡi cái vị của căn buồng của Katia. - Vriens ở trên kia à ? Bởi vì đến phiên trực của viên sĩ quan thứ ba. Ngẩng đầu lên, người ta có thể trông thấy anh ta lạ lùng, vô tình, cứng đơ như một vị thần da đen trong một góc cầu tàu. Mọi vật hẳn quay cuồng trước mắt anh ta, những thứ tiếng hoà trộn thành một hợp âm chói tai. Tuy nhiên, khi người hoa tiêu vẫy anh ta, anh ta lại gần ống khói, ba lần giật cán kéo còi làm rúc lên hồi còi xé không khí. Nước sôi sục ở đằng sau. Những chiếc thuyền chạy trốn như những con cừu hoảng loạn. Một đámmây chim mòng biển vây quanh mũi tàu: - Ông ăn trưa chứ, thuyền trưởng ? Đó là người phục vụ với mái tóc hoe vàng, bộ mặt sáng lên vì nụ cười dè dặt luôn nở trên môi và chiếc áo vét trắng. - Chưa... Petersen gắn bó với quang cảnh ở bến cảng. Họ qua trước một xí nghiệp mười năm trước còn sản xuất thịt cá voi nhưng nay chỉ sản xuất dầu gan cá thu. Rồi đột nhiên, tàu đổi hướng, chỉ còn biển với một màu xanh nhợt, những núi tuyết tràn trề ánh mặt trời. Cần phải nhanh chóng đạt được tốc độ nhanh nhất bởi vì ánh sáng vàng óng đang giảm đi và một tấmmàn xám tro trải dài trên mặt nước như một bức rèm. Ba phút sau, những trái núi chỉ là những núi băng trong suốt. *** Petersen đi qua trước viên cảnh sát mà không nói gì với anh ta và vì Evjen sau bữa ăn trưa kề cà trong hành lang, ông vờ có việc làm trong buồng mình. Lối đi lập tức không có ai nên ông đi ra khỏi buồng, dừng lại một giây trước cửa buồng Katia Stormvà sau cái bật các ngón tay bực dọc, ông mở cửa và không gõ. Không có gì thay đổi trong buồng từ cuộc khám soát buổi sáng. Không khí vẫn dịu và sực nức mùi nước hoa. Một tấm khăn trải giường rủ xuống đất và một đầu mẩu thuốc lá đã in dấu ở đó một vòng tròn nhỏ màu nâu. Ông không nói một lời, không một cử động. Cô gái Đức mặc quần áo ngủ, chân trần, tóc xổ ra, ngồi trên giường tựa lưng vào tường và nhìn người không mời mà đến bằng cặp mắt hoà với phấn đánh lông mày cho những ánh phản chiếu rối loạn hơn bao giờ hết. Thuyền trưởng khép cửa lại, phải bước qua chiếc va li suýt làm nó đổ. - Tôi đến hỏi cô một câu - Ông nói. Cô ta hờ hững nghe ông nói. Sự hăng say ban sáng của cô đã tan biến. Cô ta không còn khí lực, không trang điểm với một nét nản lòng ở khoé môi. Ông muốn nói dịu dàng. Ông còn muốn làm cho cô hiểu rằng cuộc thăm này không có mặt thanh tra cảnh sát, không có tính cách tấn công. Trong ông diễn ra hiện tượng trái ngược với ban nãy. Trong buồng, đó là sự qua lại của tư thế bámriết vào võng mạc của ông và người phụ nữ trẻ nổi lên như hình in chồng. - Cô hãy vui lòng nói cho tôi biết cô có bao nhiêu tiền đem theo mình khi rời Hambourg ? Cô cười, nụ cười vừa chua chát vừa mỉa mai. Nhưng sự mỉa mai không phải dành cho người đối thoại với mình, mà chính là cho riêng cô, hoặc cho số phận - Số tiền ấy - ông vội nói thêm - Cô hẳn còn vì cô không thể tiêu gì ở trên tàu, việc trả tiền sẽ được tính toán vào cuối chuyến vượt biển... - Thế thì, số tiền tôi phải trả sẽ không được thanh toán.. Không thay đổi vị trí cô bằng lòng giơ một cánh tay. Chiếc túi xách bằng da cá sấu của cô có dấu của một cửa hàng bán đồ da nổi tiếng ở Luân Đôn để ở trong lưới để đồ ở trên đầu cô. Cô ta một tay nắm và chiếc túi rơi xuống - Ông cầm lấy .. Ông đếm đi... Trước hết cho tôi xin những bao thuốc lá của tôi.. Vì ông không cầm lấy túi. Cô liền mở ra đẩy nó về phía ông làm phụt ra ngọn lửa từ chiếc bật lửa bằng vàng chạm trổ. - Đó là tất cả những gì mà tôi có... Ông không dám ư ? Cô ta khép hờ đôi mắt vì khói thuốc làm mờ mắt cô. Cô ta lấy ở túi ra chiếc khăn tay giống hệt chiếc khăn tay đã tìm thấy trong va li của Vriens, rồi một hộp kim lại gia công đựng son phấn và thuốc đen bôi mắt. Cuối cùng cô rải lên giường một nhúm giấy bạc. - Ông đếm đi. Đây là mười mac.. Năm mươi frăng Bỉ. Mười frăng Pháp gồm bốn tờ bạc lẻ . A ! Một đồng hai florinh rưỡi… Cô ta ném xuống đất chiếc túi rỗng, tựa vào tường ngồi vững chãi hơn, nhắc lại: "Chỉ có thế thôi...” Có lẽ còn có chút hung hăng trong giọng nói của cô ta. Nhưng là sự hung hăng nghèn nghẹn. Cả bộ mặt cô có tính người hơn thường lệ, gần gũi những bộ mặt mà Petersen quen biết. Một hôm, một cô láng giềng mười sáu tuổi mà ông chơi với cô trong núi bị bong gân một chân khi vấp phải một gốc lãnh sam. Cô làm duyên. Một lúc trước đó, cô còn giễu ông. Cô không muốn khóc mà cười. Nhưng cô lộ bộ mặt bối rối khốn khổ, với nước da không đều, đỏ từng mảng trong đó đôi môi không biết gọi là nếp gì. Vào lúc đó, Katia hơi giống cô gái Na-uy và về phía cô, hẳn cô cảm thấy người đánh bạn với cô nhìn cô một cách mới lạ, bởi vì bằng một cử chỉ bất ngờ, lén lút, cô kéo áo ngực lên cổ. - Thế đấy !... Tôi sẽ còn không thể trả tiền sâm- banh mà tôi đã mời các ông uống... Đúng là tôi chỉ có đủ tiền mua vé... Sáu trăm mác, tôi nghĩ... Và số tiền tôi còn lại, tôi đã tiêu trong đêm cuối cùng ở Hambourg... - Với Vriens, tại Kristall... Ông đã rất muốn ngồi, nhưng ông không thể ngồi ở mép ghế nằm, có nghĩa là rất gần cô. Vì vậy ông phải đứng dạng hai chân, do đồ đạc để đầy dưới đất. - Cô tính làm gì ở Kirkenes ? Cô không nói gì, cái nhìn hầu như có vẻ đáng thương hại trong lúc nhún vai. - Hãy để tôi ! Vì cái gì tất cả thứ đó thúc đẩy chúng ta ?... Ông vui lòng đưa túi xách của tôi cho tôi chứ ? Cô lấy ở đó ra chiếc gương nhỏ và soi với vẻ mỉa mai. Những ngón tay cô cầm lấy thỏi son môi rồi buông rơi. - Cô có bố mẹ chứ ? - Cần gì, phải không ? Đến Kirkenee, ông chỉ việc trao tôi vào tay cảnh sát vì đã không trả tiền sâm banh và rượu vang mà tôi uống trong những bữa ăn... Người phục vụ sẽ không nhận được tiền trà thuốc đâu... Cô kêu lên, vẻ cuồng loạn làm cho Petersen chắc chắn không cảm nhận được ấn tượng thất vọng của cô đến thế, một sự suy sút tinh thần không thể cứu vãn. Ông hỏi cho có chuyện: - Cô đã ăn trưa rồi chứ ? - Không... Những móng chân cô chạm nhẹ vào thuyền trưởng cũng hồng và bóng như móng tay. - Cô có biết người ta đã tìm lại được một phần tiền bị mất cắp trong buồng viên sĩ quan thứ ba không ? - Vriens ư ? Rốt cuộc cô giật mình. Cô ném điếu thuốc lá mà không lo ngại nó rơi vào đâu. - Ông nói gì ? Không thể thế được !... Ông tìm để biết và... - Bốn mươi nghìn cua-ron được lấy trong vali của ông ta... - Nhưng không thể thế được !... Vậy ông không hiểu việc đó là không thể có chứ ? Cô nhổm dậy nhưng vì không thể đứng trong căn buồng quá hẹp, lúc này cô quỳ lên ghế nằm. - Hãy nghe tôi, thuyền trưởng !... Tôi cam đoan với ông rằng... Nhưng cô buông thõng hai tay xuống. Cô nín lặng, vẻ mệt mỏi. Vì cô cúi đầu, Petersen nhận thấy ở chân tóc một cái mụn nhỏ làm căng da. - Ông đi đi... Ông cũng không tin tôi... Nhưng tất cả chuyện đó cần được kiểm tra... - Cô ở Paris, phố Delambre phải không ? Cô không run như ông chờ đợi. Một lần nữa, cô nhún vai và nhắc lại: - Ông đi đi... Rồi đột nhiên hỏi: - Vriens ở đâu ? - Ông ấy đang trực ban trên cầu tàu... - Để tôi ! Cần phải... Cô đứng lên, bất kể việc giẫm phải những thứ khi bước qua. Cô lấy chiếc áo dài ở mắc áo. - Ông vui lòng ở lại đây chứ ? Người ta cảm thấy cô có một quyết định. Đột nhiên cô với chiếc áo ngủ ngắn, khoác ngay vào người. Peterseh rút lui, không biết nói gì để cáo lui. Người phục vụ đợi ông ở cửa phòng ăn vẫn đế suất ăn của ông ở đó. - Ông ăn chứ, thưa thuyền trưởng ? Nhưng ông trèo lên tới phòng hút thuốc, tại đây Evjen đang đi bách bộ, trong khi Schuttringer cắmcúi vào ván cờ mới nhưng không ngăn nổi ông ngẩng đầu và hỏi: - Hai nghìn mác của tôi sao rồi ? - Chưa.. - Điều làm tôi không hiểu - Bell Evjen suy nghĩ khá lâu về câu hỏi, bắt đầu nói - đó là thiếu mười nghìn cua-ron và những đồng tiền vàng. Tên trộm không có lý do gì để chia số tiền thành hai phần không đều nhau như vậy... Nếu chúng ta cho tàu đỗ lại ở nơi nào đó thì ta có thể tin được. - Hắn đã hết sức thận trọng ! - Schuttringer lẩm bẩm trong lúc đưa một quân ở bên đen tiến lên và xem xét thế cờ, tay chống cằm. Đến nỗi giờ này hắn không thiếu.... Petersen trông thấy một bóng người qua trước những cửa sổ, tuy không nhận ra dáng hình, nhưng có cảm giác rất rõ ràng đó là Peter Krull. - Ý kiến của thanh tra cảnh sát thế nào ? - Evjen nói tiếp - Ông, thuyền trưởng, ông có tin rằng đó là một viên cảnh sát thông minh không ? Ông ta làm cho tôi có ấn tượng... Nói thế nào nhỉ ! - Như mọi thanh tra mà thôi ! - Một lần nữa người Đức đeo kính nói chen vào. Và đưa lưỡi qua giữa đôi môi chính vì ông ta tập trung sự chú ý, ông ta đưa quân cờ tiến lên ba ô, nói với chính mình: - Thua và nước chiếu tướng bí. Trời bắt đầu tối. Chỉ còn tuyết trên những quả núi còn giữ thứ ánh sáng vẻ giả tạo. Những con sóng đà là một màu đen mực và hòa trộn với bầu trời ở chân trời nhờ vào sự chuyển tiếp của những màu xámmờ dần. Vào lúc thuyền trưởng ra để đi vào dọc cầu thang dẫn tới cầu tàu, người thủy thủ đi xuống; mẩu thuốc lá đã tắt vẫn dính ở môi. Gã tỏ vẻ phật ý trước cái nhìn của thuyền trưởng. - Anh lên đó làm gì ? - Đây là giờ làm việc của tôi. - Anh không biết đọc ư ? Và ông chỉ cho anh ta bản thông cáo cấm lên cầu tàu chỉ huy. - Đây đúng là con tàu đầu tiên mà… - Anh nói với ai thế ? - Không với ai cả. Họ câm như những con cá thu. Thuyền trưởng có cảm giác khó chịu khi thấy kẻ đối thoại với ông đọc được suy nghĩ của ông. Và điều đó càng nặng nề hơn vào lúc mà ý nghĩ của ông còn rất mơ hồ. - Đi đi, ông nói trong lúc bước vào cầu thang. Đứng trước chiếc la bàn, người hoa tiêu đón ông trong lúc đưa tay chỉ hướng mặt trời lặn và nói: - Đêm nay hẳn lạnh. Nếu cứ tiếp tục thế này, cần phá vỡ băng trong vịnh Kirkenes như giữa mùa đông… Vriens có bộ mặt bị gió bấc cắt da. Ở mỗi góc cầu tàu lộng gió có một chỗ trú ẩn là hai tấm kính mà sĩ quan trực có thể đứng đó. Nhưng người đàn ông trẻ tuổi, tuy chỉ có chiếc áo khoác dạ mỏng trên vai vẫn đứng lồ lộ ở ngoài trời. Anh ta không ngoảnh đầu khi nghe thấy tiếng nói của viên hoa tiêu. Đôi môi anh ta tái xanh và đôi bàn tay không đeo găng bám chặt vào lan can. - Tôi đã ra lệnh gì ? - Petersen hỏi anh ta. Vriens khiếp sợ nhìn ông, lục tìm trong trí nhớ. - Mượn chiếc áo ca-pôt của một đồng sự để trực ban, và những găng tay hở ngón ! - Vâng, thưa thuyền trưởng... Anh ta không nhúc nhích. - Máy chạy bao nhiêu vòng ? - Một trăm mười... - Chỗ sâu nhất bao nhiêu sải ? - Tám mươi... Anh ta bị nhục - hoặc bị tước mất mứt kẹo ! - Chính là vì anh ta có vẻ trẻ con trong bộ quần áo rất mới, với phù hiệu vàng choé chưa bị hoen gỉ, bộ ngực lõm của anh ta mà người ta thấy dâng lên theo nhịp thở và đôi mắt có quầng, đôi hàm cố hết sức nghiến chặt để có vẻ hiên ngang. IX CHÁU TRAI CỦA STERNBERG Đêm xuống nhanh hơn thường lệ. Mới chỉ ba giờ đã phải thắp sáng đèn. Thuyền trưởng ra lệnh: "Hãy bắt đầu che đậy những tấm biển... Thật thận trọng đấy...”. Ông kề cà ở trên boong trong lúc lén quan sát Vriens khi ông trông thấy thanh tra Jennings đi tới, tay cầm một tờ giấy. Viên cảnh sát tỏ vẻ sôi sục. "Ông đọc đi !... Chúng ta cần phải nói chuyện với nhau nhưng ở chỗ khác, không ở đây... Nhân viên bưu điện trên tàu ban nãy vừa trao cho tôi bức điện tín này, trong lúc anh ta đã có bức điện trong văn phòng của anh ta từ một giờ nay”. Vriens tất nhiên đã nghe được, không quay lại, không run người. Thuyền trưởng đẩy cửa buồng canh gác ban đêm và đọc: "Cảnh sát Stavanger gửi thanh tra Jennings ở tàu Polarlys. An ninh Paris báo cho chúng tôi rằng kẻ giết Marie Baron được nhận dạng: Rudolph Silberman ở Dusseldorf, kỹ sư, cháu trai của cố vấn Sternberg. Stop. Rõ ràng liên quan giữa hai vụ án. Stop. Có khả năng Silberma lên tàu Polarlys ở Hambourg dưới tên giả. Stop. Mò vét các vũng Stavanger không kết quả. Stop. Siết chặt giám sát tàu vì vụ án gây tiếng vang ở Đức”. - Ông nói gì về bức điện này ? Jennings hoàn toàn bối rối về bức điện này. - Liệu ông có tin rằng người đàn ông còn có thể ẩn náu trong những khoang hầm không ? Petersen đọc lại bức điện, bước tới cửa, bởi vì tàu tròng trành làm ông lo ngại. - Không ! Không còn Ericksen ở đây nữa. Thứ nhất, tàu đã được lục soát hai lần, mà một lần đã được cảnh sát ở Bergen làm hết sức thận trọng. Thứ hai, hầu như toàn bộ hàng hoá đã được bốc dỡ lên bờ và những khoang hầm không cho chỗ trú ẩn nữa... Thứ ba, gã Ericksen ấy chưa bao giờ được nhìn thấy ở trên tàu, trừ Katia Storm và Vriens. - Còn ông ? - Hai giờ trước lúc nhổ neo dời bến, tôi nhận thấy lưng một người đàn ông mặc áo khoác xám... Viên sĩ quan thứ ba nói với tôi rằng đó là Ericksen... Nhưng kể từ lúc đó, hắn đã có đủ thời gian rời khỏi tàu Polarlys... - Vì sao ? Chuyến đi của hắn đã được trả tiền, hành lý của hắn vẫn ở trên tàu... - Vâng, vì sao ư ?... Có biết bao câu vì sao khác trong vụ này... - Vé của hắn đi bến cảng nào ? - Stavanger. Một lần nữa, thuyền trưởng bước tới cầu tàu, trán nhăn lại, hỏi viên hoa tiêu: - Những tấm biển đã được che đậy rồi chứ ? Người đàn ông chỉ cho ông một điểm sáng màu xám xanh khó chịu trên biển, ở chân trời. - Tuy nhiên ông đã kiểm tra tất cả các hộ chiếu mà ! - Petersen nói tiếp trong lúc quay trở lại. Viên cảnh sát bắt đầu lộ vẻ lo lắng, cả anh nữa, không phải vì cảm thấy như sắp xảy ra cơn bão mà vì tàu tròng trành mạnh hơn làm nảy sinh trong lòng anh mối lo lắng mơ hồ. - Chúng ta không nên dừng lại ở vấn đề những tấm hộ chiếu ! - Ông đáp lại - Hầu như không thể phân biệt tấm hộ chiếu giả với tấm thật... Trong tất cả những thành phố lớn, nhất là trong những bến cảng như Hambourg, có những cửa hiệu bán giấy căn cước. Những giấy tờ giả đôi khi là thật, hoặc chúng được lấy cắp của chủ chúng, hoặc được tiếp tay từ những văn phòng chính thức. - Như vậy Silberma ... - Có thể bất kỳ ai: Ericksen, Vriens, Evjen, Schuttringer, Peter Krull. - Hãy gạt Evjen ra ngoài diện nghi vấn. Tôi quen biết ông ta từ tám năm nay... - Còn lại bốn... - Trừ Ericksen mà tôi cam đoan không bao giờ tồn tại... - Vậy thì vì sao Katia Storm và viên sĩ quan thứ ba của ông khăng khăng làm ta tin sự có mặt của hắn ở trên tàu ? - Và vì sao có túi than ? Petersen nói vẫn giọng ấy - Vì sao có vụ mất cắp ấy ? Tại sao ta chỉ tìm lại được có bốn mươi tờ bạc một nghìn cua-ron trong va li của Vriens là người có hàng trăm chỗ cất giấu chắc chắn trong tàu ? Con sóng đầu tiên qua trên sống mũi tàu và vỡ ra trên boong trước, trong khi thanh tra cảnh sát gắng cười. - Không phải là cơn bão chứ ? - Chưa ! - Ông tin rằng ? - Nếu ông đi để mắt tới quần áo của Krull xem sao ? - Ở dưới kia ư ? - Vâng. Ghế nằm của y ở bên trái buồng máy. Cơ trưởng sẽ hướng dẫn ông... Trời trở lạnh nhanh đến mức khi ra ngoài, thuyền trưởng phải quấn khăn quàng hai vòng quanh cổ. Cúi mình trên lan can, ông thấy bốn người đàn ông bận bịu căng những tấm vải dây lên những tấmpa-nô. Nhưng đã quá muộn. Họ lẩn tránh một hòn đảo và nhận được cơn gió ngang phía trước. Con tàu Polarlys chệch hướng đột ngột và chiếc tủ nặng ướp lạnh chưa được xếp hàng làm gãy những chiếc móc cột từ trên boong làm nó trượt sang mạn trái. Một người đàn ông suýt bị đè nát. Có một cơn hoảng loạn ngắn, bởi vì ngay sau lúc con tàu nghiêng về mạn phải thì cái tủ cao hai mét, rộng cũng ngần ấy, bằng gỗ sồi dây có bọc chì, lại bắt đầu trượt theo uy hiếp. Petersen chạy xuống nắm lấy đầu một chiếc thừng, bốn người đàn ông đuổi theo cái tủ ướp lạnh. Cuối cùng họ sắp buộc nó đứng im thì nó tuột ra lần cuối và sau khi vấp phải một dây néo đằng lái, lao qua mạn, mất hút trong những dòng xoáy nước. Người ta chỉ nhận ra tai nạn khi nghe thấy những tiếng la hét ngay trước con tàu chạy hơi nước. Dây néo, dưới sức va đập đã đứt rời. Trở thành ngọn roi, nó quất người Lapon luôn ngồi ở trên cái tời đứng làm người này gãy xương bả vai. Bản thân con người khốn khổ không trông thấy gì và càng kinh hoảng vì không hiểu điều gì đã xảy đến với ông ta. - Khiêng ông ta vào một buồng ! Nhanh lên... Hãy báo cho Evjen. Bởi vì ở Kirkenes không có bác sĩ, thường Bill Evjen phải chăm sóc ban đầu những công nhân bị thương. Tàu chạy trong hành lang hẹp giữa hai hòn đảo, giữa những con sóng ngắn, nhưng chỉ vài sải cáp, (chừng sáu, tám trăm mét) đã là biển cả với độ sâu quá mức, không nơi trú ẩn. Petersen gặp viên sĩ quan thứ nhất bị những cơn va đập bứt ra khỏi giấc ngủ, chạy tới. - Ông vui lòng chăm sóc người bị thương nhé ?... Tôi lên trên kia... Vriens không động đậy. Lưng tựa sát vào vách sơn ở buồng canh gác ban đêm, anh nhìn thẳng trước mặt. Chiếc mũ lưỡi trai của anh bay mất và gió bắc kéo mái tóc hoe vàng của anh xuống trán. Anh phải khép hờ đôi mi để ngăn gió cuốn bụi tuyết làm mờ mắt mình. - Có chuyện gì đang xảy ra thế ? thuyền trưởng lẩm bẩm trong lúc quan sát la bàn. Một lần nữa, như ở Hambourg, đây là một chuỗi sự việc. Trước hết là cái tủ ướp lạnh. Sau đó là người Lapon bị thương ! Kia là bóng đèn điện nhỏ soi sáng màu hồng của chiếc la bàn mờ xỉn. Dần dần những dây tóc xuất hiện đỏ quạch rồi nâu. Cuối cùng người ta không nhìn thấy gì nữa ! Ông cúi xuống để tin chắc tất cả những ngọn đèn đều như vậy. Quầng sáng thông thường bao quanh con tàu đột nhiên biến mất. - Cho máy chạy chậm lại... Sáu mươi vòng. Chừng nào mà ta biết.... Người ta sớm được biết tin. Sĩ quan thứ nhất chạy tới báo tin: - Đó là vì chiếc ăc-quy đã hết điện tức thì. Nó bị đoản mạch ở nơi nào đó... - Còn những máy phát điện thì sao ? - Cơ trưởng đang làm việc ở đó, nhưng ông ta cho rằng chúng không ở trạng thái vận hành bình thường. Petersen xuống phòng hút thuốc, tại đây người phục vụ thắp hai ngọn đèn dầu dựng trên khớp cac đăng. Katia ngồi một mình trong một góc tối. Cô ta úp mặt vào hai bàn tay nên không thể hiểu được cái nhìn của cô ta. - Người Lapon đâu ? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ. - Trong buồng đầu ở mạn phải, ông Evjen ở bên ông ta. Ông đến đấy, nghe thấy những tiếng la hét ngoài hai mươi mét. Evjen, tay áo xắn lên, sờ nắn vai người bị thương bằng đôi tay dài trắng có những cử chỉ khéo léo của nhà phẫu thuật. - Nghiêm trọng không ?... - Xương bả vai bị vỡ hẳn... Tôi không thể làm gì hơn là cố định lưng bằng một tấm ván... cần phải đưa ông ta vào bệnh viện ở Tromsoe. Khi nào chúng ta đến đấy ? - Quãng nửa đêm... - Ông không có mooc-phin chứ ? Petersen rùng mình, không biết ngay lý do về sự khó chịu của mình, nhìn Evjen với vẻ nghi ngờ, hối hận về việc máy móc gắn với kẻ giết Marie Baron. Chưa bao giờ tình hình trên tàu lại rối loạn đến thế. Những chiếc đèn dầu hoả chỉ đủ soi sáng những hành lang. Trong những buồng, chỉ thắp nến. Người Lapon kêu gào thảm thiết, lưng để trần, quần áo sọc của ông ta rớt xuống đất tạo thành một cảnh càng nặng nề hơn ở mỗi lần tàu tròng trành lại hất ông ta vào vách và mặt của ông ta co rúm lại vì đau đớn. Để chu đáo, thuyền trưởng còn phải đến tận chỗ máy móc nhằm tin chắc rằng những máy phát điện không sử dụng được nữa. Nhưng ông không yên tâm về ý nghĩ Vriens ở lại có một mình với người hoa tiêu ở cầu tàu. Đồng thời tinh thần của ông để đâu đâu. "Miễn là Jennings không lao xuống chân thang và bị thương ở trục truyền động !...”. Còn Schuttringer ? Ông không trông thấy ông ta. Liệu Krull có ở vị trí của hắn không ? Tất cả điều đó vào lúc cụ thể, sự thật đến mức lộ ra, vào lúc mà dẫu sao người ta cuối cùng có được vài dữ liệu tích cực. Viên sĩ quan thứ hai gọi ông ở trên boong. - Chúng ta không thể tiếp tục cho máy chạy sáu mươi vòng... Biển tạt vào chúng ta... - Tôi lên đây... Ông còn chưa có ánh sáng. Khi qua buồng mình, ông lấy đôi ủng đế gỗ vì ông cảm thấy có điều gì sắp xảy ra mà chưa chấm dứt. Ông hỏi người phục vụ đi qua: - Schuttringer đâu ? - Ban nãy tôi trông thấy ông ta ở trên boong với một người... - Với ai ?. thủy thủ tiếp than phải không ? - Có thể... Tôi không để ý... Mặc kệ ! Petersen không thể cùng lúc quan tâm đến con tàu của mình và kẻ sát nhân. - Tám mươi vòng... Một trăm... - Ông ra lệnh khi đến gần máy điện báo - Đúng ra chúng ta đang ở đâu ? - Ta phải trông thấy xuất hiện đèn tín hiệu ở Loedingen... Những cơn gió lốc thổi dồn dập làm cho Petersen phải bắt chước Vriens và người hoa tiêu ép sát mình vào vách. Mỗi lúc tàu tròng trành, ba cái lưng cùng rời ra, lắc lư một lúc rồi va vào tấm tôn sơn. "Rudolph Silberma... Kẻ giết Marie Baron... Người cháu trai và kẻ giết cố vấn Von Sternberg.. Có lẽ đến hai mươi lần thuyền trưởng lén nhìn Vriens. Bởi vì anh ta có thể là Silberma ! Trước đây ở Hambourg không có người nào trông thấy anh ta. Một con người trai trẻ đến từ Delfzijl để nhận chức trách sĩ quan thứ ba trên tàu Polarlys. Người ta không để anh ta đến đúng địa chỉ. Qua cách này hay cách khác, Silberma nhận và trình diện thay thế anh ta... "Không !” - Thuyền trưởng khẽ lẩm bẩm trong lúc nhớ tới bức ảnh lớp học trên tàu. Tuy nhiên, về tất cả những kẻ có thể là Silberma, Vriens không phải là kẻ có hạnh kiểm lạ lùng nhất ư ? Trước hết, hắn là tình nhân của Katia. Và Katia cũng vậy, có thể bị nghi ngờ vì đã tham gia vào cuộc chè chén trác táng ở phố Delambre. Phải chăng hắn mới trở thành người tình của cô ta ở trên tàu ? Hay đã là người tình từ trước ? Tại sao cả hai người lại nghĩ ra con ma Ericksen ấy, trước hết cho y đi đi lại lại trên con tàu Polarlys để rồi sau đó loại y dưới dạng một túi than ở Stavanger ? Katia không có lấy một xu và một vụ mất cắp đã xảy ra trên tàu ! Và phần lớn số tiền mất cắp lại được tìm thấy tại buồng tình nhân của cô ta ! "Một ngọn đèn, thuyền trưởng... - Một ca trực ở mạn phải... Tốt hơn cả là ra khơi qua Mũi Cá Voi... Ông cố lấy lại dòng suy nghĩ của mình, bứt rứt cảm thấy không thể có lập luận chặt chẽ. Đôi mắt ông như mắt các bạn ông, dò xét bóng tối để phát hiện những cọc tiêu. Bởi vì họ cho tàu chạy theo phỏng tính. Suốt dọc bờ biển, họ cho tàu chạy ở ngoài khơi cách bờ hai dặm, có những hòn đảo và những bãi đá ngầm chỉ chừa những lạch hẹp, tại đó sôi sục những dòng đối lưu. Vấn đề là phát hiện kịp thời những đèn tín hiệu xanh lục, đỏ hoặc trắng nhấp nháy trên đỉnh những cọc tiêu. Ba người đàn ông đứng lại mười lăm phút, nửa giờ không hé răng. Rồi một người chỉ một điểm trong khoảng không và những người kia sớm nhận ra ở đó một ánh loé sáng. Thế là một cái tên được thốt lên: "Stokmarknes... Scortland...". "Nếu Vriens là Silberman...", thuyền trưởng lại nghĩ. Lông mày cau lại, trán hằn những vết nhăn sâu, ông thử tổng hợp những sự kiện và lý giải chúng dưới ánh sáng của giả thiết này. Mặc dầu những mối bận tâm ấy, ông vẫn không cảm thấy khó chịu về sự chung chạ bừa bãi của gã trai mà đôi khi tàu tròng trành lại xô anh ta vào vai ông. "Nếu Krull..? Nhưng vì sao Krull lại tiết lộ việc quăng túi than bánh ? Phải chăng do ngẫu nhiên y nói dối ? Phải chăng Ericksen ấy hoặc gọi là thế đã thực sự nhảy xuống nước ở Stavanger ? Người ta không vớt được xác y, nhưng trong những bến cảng đó là việc luôn xảy ra. Những xác người bám vào những thừng chão kéo xuống đáy nước, bám vào mỏ neo hoặc bị những dòng nước thuỷ triều lôi ra ngoài khơi. - Thuyền trưởng... Bị bứt ra khỏi dòng suy tưởng của mình, Petersen rùng mình, nhận thấy người phục vụ thận trọng tiến lên, khiếp sợ bởi con tàu cứ giật nẩy lên, nhất là cảnh nước chảy dọc các mạn tàu, trắng xoá, náo động với tốc độ cuồng loạn. - Đó là thanh tra... - Ông ta ở đâu ? - Trong buồng ông ta... Ông ấy ốm... Ông ấy yêu cầu nói chuyện ngay với ông... Thuyền trưởng tin chắc vào hướng mũi tàu, nhìn viên hoa tiêu và Vriens rồi người đàn ông ở buồng lái chỉ còn là cái bóng nhợt nhạt trong bóng tối của buồng kính của mình. Ông xuống thang, nhận ra Katia vẫn ở chỗ cũ trong góc phòng hút thuốc trong đó bóng đèn của ngọn đèn dầu đã đen khói. Thật bực ! Cái không khí không thực này ! Tất cả những cái bóng không bình thường này đầy bí mật... Cô ta có thể làm gì ở đó ? Phải chăng cô ta đang khóc ? Phải chăng cô ta đang giễu cợt mọi người ? Phải chăng cả cô ta cũng say sóng ? Chưa bao giờ con tàu Polarlys buồn tẻ, đáng lo ngại như thế này. Cho tới khi cái tủ ướp lạnh ấy có hành động nguy hiểm thật sự trong những sự bộc phát của nó chăng ? Chín mươi chín phần trăm cái dây néo đằng lái đứt không quất vào ai cả ! Đúng là có một người Lapon mặc giá lạnh, gió bắc và bụi nước do sóng tung lên đóng băng khi chúng rơi trên boong, đến ngồi trên trục tời đứng ! Ông ta không hiểu một tiếng Na-uy ! Người ta không thể nói gì với ông ta ! Ông nhìn quanh mình bằng cặp mắt gây gổ như thể cả đoàn thủy thủ coi ông ta là kẻ lừa lọc ! Phải chăng điều đó đã không bắt đầu ngay từ Hambourg, với cả chiếc dây cáp ấy bị đứt, làn sương mù nhơ bẩn ấy, sự trở về của gã Vriens say như chết và chiếc xà lan mà họ suýt nhận chìm xuống đáy biển ? "Giờ đây, buồng khác !". Và Petersen mở cửa buồng của thanh tra, thấy ông này cúi xuống cái chậu bằng cac-tông dành cho hành khách bị say sóng. Nến chỉ còn có ba xăng-ti-mét. Cây nến soi sáng bộ mặt tiều tuỵ, nước mắt giàn giụa, cái miệng đau khổ. - Ít ra tôi có thể nôn !... Bão khủng khiếp phải không ? - Cho đến lúc này, không có gì... - Ông tin rằng ?... - Ông cho gọi tôi hả? - Vâng... Hãy khoan... Tôi không biết mình nên thế nào. Khi tôi nằm, hầu như còn tồi tệ hơn... Thực sự không có phương thuốc ư ?... Khoan đã, thuyền trưởng !... Tôi xuống dưới... Tôi tưởng rằng tôi suýt tự giết mình, với những cái thang sắt ấy... tôi lục soát chiếc túi của Krull... Tôi đã tìm thấy cái này trong đó... Ông ta chỉ vài đồng tiền vàng ở trên chiếc bàn con, gần chiếc khăn ướt. - Ông Evjen đã nhận ra chúng... Đúng là của ông ấy... - Krull có trông thấy ông không ? - Anh ta không có mặt ở đó... Hình như anh ta đi hít thở ở trên boong... Đến Tromsoe, cần phải ngăn anh ta bỏ trốn... Tôi không biết có thật tôi sẽ ở tình trạng... Ông xem này ! Ông ta dừng một lúc bất động ở trên cái chậu. Ngực ông ta bị co thắt hai, ba lần trong khi ông ta há miệng ra. - Thế đó !... Không thể được !... Đầu óc tôi quay cuồng... Thế là thế nào nhỉ ?... Ông ta giật mình, tai căng ra. Người ta nghe thấy tiếng ồn ào liên tục trên boong. "Một đợt sóng...”. Cả Petersen cùng lo lắng bởi vì ông biết đợt sóng này đã tới cầu tàu. - Ông đừng cựa quậy... - Không... Tôi... Ông do dự trèo lên trên đó, nhanh chóng đến buồng máy mà cơ trưởng luôn làm việc với các máy phát điện. - Sửa à ? - Không có gì để làm cả chừng nào chúng ta không ở bến cảng... - Krull ở vị trí của anh ta chứ ? Cơ trưởng ngoảnh về phía buồng đốt, truyền câu hỏi. Người lái thò đầu đen nhẻm ra một lúc trong cánh cửa sắt mở hé và không tiếc lời thoá mạ. Krull đã biến mất hơn hai giờ trong lúc người ta cần áp suất hơn bao giờ hết. Người thủy thủ tiếp than thứ hai không thể làm xuể. Người lái đòi hỏi một người, bất kỳ ai để tiếp than vào lò. - Anh ta không ở trong buồng của anh ta ư ? - Hắn không có ở nơi nào hết... - Tôi sẽ gửi đến cho ông một thủy thủ ở boong. Buồng máy không phải là nơi ít thê thảm, chỉ được thắp sáng bằng đèn dầu hoả, với những người đàn ông phải giữ thăng bằng phi thường để không bị sự truyền động của máy ngoạm phải. Vào lúc lại đặt chân lên boong, Petersen nguyền rủa bực dọc như thể một tràng những lời thô tục có thể làm ông khuây khoả. Ông túm lấy một người bất chợt đi qua. - Hãy giúp một tay trong hầm tàu ! - Tôi ư ?... Nhưng tôi phải... - Đi đi ! Đây không phải là lúc bàn cãi. Trong lúc cúi xuống, ông nhìn thấy chiếc cọc tiêu đỏ báo hiệu có những bãi đá ngầm ở Risotyhamm. Bell Evjen tìm ông. Cả ông ta nữa cũng không vững vàng. Hai lỗ mũi ông ta có quầng vàng và bóng cho thấy ông ta bị say sóng. - Nói chuyện một lát, thuyền trưởng... Vừa xảy ra một tình huống nhỏ... như tôi đã báo cho ông, tôi đã tiêm cho người bị thương một mũi vì ông ta không chịu nổi đau đớn... Người phục vụ đã mang đến cho tôi hộp dược phẩm mà tôi để trong buồng... - Anh ta bị trúng độc à ? Petersen chờ đợi hết thảy, những bất hạnh phi lý nhất. Vào lúc mà chuỗi sự việc đã thật khỏi sự !... - Không... Có một hộp sáu ống mooc-phin... Nó đã biến mất... Tôi cũng không tìm thấy ống tiêmnữa... - Ai đã vào trong buồng ? - Chỉ có người Lapon mới cho chúng ta biết... Ông ta không hiểu người ta đã nói gì với ông ta... Ông ta tin chắc rằng người ta muốn giết ông ta và chỉ lại gần ông ta một chút là ông ta nép mình sâu vào ghế nằm... - Người phục vụ không trông thấy gì ư ? - Anh ta nói anh ta ở trên cầu tàu. - Được ! Petersen nặng nề trèo lên thang, mình đẫm nước đến gần người hoa tiêu và Vriens bởi vì một con sóng đã vỗ vào toàn bộ lưng ông ở giữa đường đi. Không nói một lời, ông đứng giữa hai người, áp vào vách, mắt dõi theo một cách mỉa mai lạ lùng con sóng từ ngang tàu ập đến thật cao làm đứt một trong hai dây buộc chiếc ca-nô treo dưới ống khói, giữa những mắc áo. Vào nửa đêm ông vẫn đứng ở chỗ cũ, rét cóng, miệng cau có, rình những cọc tiêu. Đã ba giờ ông không hút thuốc bởi vì như thế ông phải rút tay ra khỏi túi, mở chiếc áo khoác và vào buồng lái để bật diêm. Những nhũ băng treo bám vào những dây néo và cột buồm đằng mũi và trên boong trước, những con sóng vỗ liên tiếp đã để lại một tảng băng bóng loáng, màu xanh nhạt, tròn như một con sứa quái gở. X TROMSOE - Vriens. Chàng trai từ từ quay lại, dù rằng lời gọi ấy sau nhiều giờ im lặng thật bất ngờ. - Không thấy Peter Krull đâu cả... Có lẽ y đã bỏ trốn ở Svolvach... Chính Petersen là người xấu hổ về cái nhìn dò xét của mình trước mặt gã trai hằn sâu nét mệt mỏi, buồn rầu hơn là lo lắng, có lẽ với điều gì đó mạnh mẽ mà người ta mới cảm thấy lần đầu. Thuyền trưởng có ý định moi ở anh ta ra một lời thú nhận nào đó, một câu tiết lộ. Nhưng ông hiểu rằng không phải bây giờ, cũng không phải ở nơi này. Bên phải ông, người hoa tiêu che kín mình trong bộ quần áo da lông vươn cổ về phía bóng tối là nơi ông ta cố mong muốn thấy ánh sáng mà trong trí tưởng tượng ông không trông thấy. Trong buồng mình, người lái mệt lử, bám vào bánh xe bằng đồng, không rời mắt khỏi chiếc la bàn. Cứ mười giây một, luôn là những cú va đập mạnh làm con tàu Polarlys chao đảo đến làm gãy chân tay nên mỗi người phải cố giữ thăng bằng. Ba con sóng liên tục trùm tới đỉnh ống khói có những dải băng đỏ và trắng mà con sóng thứ ba giật chiếc ca nô cứu hộ chỉ còn được giữ bởi một chiếc pa-lăng và cuốn nó đi trong sự sôi sục của nước. - Thuyền trưởng ! Viên hoa tiêu rõ ràng tập trung sự chú ý. - Ông có hiểu họ nói gì ở đằng kia không ? Và ông ta chỉ những đèn tín hiệu di động mà ông phải mất một lúc mới nhận rõ. - Đã đến Tromsoe rồi ư ? - Petersen ngạc nhiên. - Tromsoe vâng ! Nhưng tôi cam đoan rằng họ ra lệnh cho chúng ta cho tàu chạy ở ngoài khơi... Ông không trông thấy ư ?... Hãy khoan !... Họ lại bắt đầu... Ba trắng... Một đỏ... Một trắng... - Hai trắng ! - Vriens cải chính bằng một giọng trầm đục. - Nhưng sau đó ?... Ông có trông thấy không ?... Thuyền trưởng tiến lên tận lan can mà ông nắm chặt hai tay nhưng ông không ngăn nổi bị lắc lư trong lúc nhận một đám bụi nước bắn tung toé vào mặt. - Dừng máy lại !... - Ông ra lệnh - Tôi chưa dám chắc, nhưng... Cột tín hiệu ở đằng kia, trong đêm, liên tục nhắc lại tín hiệu nhờ những ánh sáng chập chờn. - Cần trả lời họ... Tôi cho rằng đèn tín hiệu của chúng ta không sẵn sàng... Ông hối tiếc về những lời nói này, vì Vriens tự mình đã ở trong buồng chỉ huy đang thắp những ngọn đèn. - Hãy gửi tín hiệu cho họ: hiểu rồi ! Và nói với viên hoa tiêu đến gặp ông. - Họ bảo chúng ta đỗ ở vũng tàu. Lối đi bị tắc nghẽn bởi một tàu kéo lưới rê bị đắm tối nay ngay ở ngang chiều sóng... Ông cầm lấy cần gạt máy điện báo, truyền lệnh cho bộ phận máy: - Tiến lên... Một nửa... Người ta lại không trông thấy gì nữa. Rồi ông nhận rõ một quầng sáng lờ mờ và con tàu Polarlys rúc lên ba hồi còi dài. Tromsoe đã ở bên trái, sau một vành đai những tảng đá, giữa chúng là con lạch khá rộng cho một con tàu chạy hơi nước trọng tải trung bình. Họ phải hối hả cho tàu dựa vào cái đê chắn sóng, quanh xác tàu đắm bị trôi giạt. Người ta nghe thấy tiếng rít của cần trục. Và dòng chảy từ từ đánh tạt con tàu về phía những bãi đá ngầm, cần lại phải cho tàu chạy, dừng lại, lùi lại dừng, điều đó không ngăn con tàu bị tạt ngang và phải hết sức vất vả mới đưa tàu lại đi thẳng được. Viên sĩ quan thứ hai chạy tới. - Họ sẽ đưa đến cho chúng ta một chiếc thuyền máy với những túi bưu kiện ! - Petersen nói với ông ta - Chuẩn bị sẵn thang cửa tàu... Cho người Lapon xuống tàu hết sức nhẹ nhàng... Hầu như ông hài lòng về tình huống mới này bởi vì, ở Tromsoe là nơi ông quen biết mọi người và nhân viên thường trú của B.D.S là một người bạn vui vẻ, ông cần nói chuyện với ông ta, bắt tay trong khi ông không muốn chút nào. Người ta nghe thấy tiếng vù vù của động cơ chiếc thuyền máy chạy bằng dầu hoả trước khi trông thấy ngọn đèn trắng của nó lướt từ đằng sau ra đằng trước. Và đó là cả một chuỗi những thao tác chán ngắt: Tiến lên ! Dừng ! Lùi lại ! Từ từ ! Tiến lên... Mười lần chiếc thuyền máy chỉ cách thang cửa có vài xăng-ti-mét thì mười lần sóng lại đẩy nó ra. Cuối cùng họ đã có thể buộc được nó. Hai người đàn ông mặc áo da nhảy lên boong và Petersen bước tới gặp, bắt tay họ. - Chuyện xảy ra thế nào? - Một tàu đánh lướt rê hoàn toàn mới với cỗ máy Diesel tuyệt vời, lần đầu tiên đi đánh bắt cá thu ở miền Nam Spitzberg... Tất nhiên không có hoa tiêu trên tàu !... Không có người thông thạo những vùng biển lân cận !... Những người Đức chỉ tin vào những bản đồ của họ... Điều đó không ngăn nổi họ mắc cạn trong lạch... - Có người chết không ? - Một thủy thủ trẻ mười lăm tuổi lao xuống nước vào lúc tàu va đập... Ở đằng ấy, người ta đang bàn xem có phải sẽ dùng thuốc nổ phá con tàu không... Nhân viên bưu điện vác những túi bưu kiện. Ba người đàn ông thận trọng khiêng người Lapon. Nhưng người ta không thể làm sao nói cho người đàn ông hiểu người ta làm gì với ông ta nên ông ta hết sức vùng vẫy và la hét ghê gớm. - Chuyển đến bệnh viện !... Ngay tức thì... Đó là những khó khăn khác để đưa ông ta xuống chiếc thuyền máy. Rốt cuộc chính vì ông ta giãy giụa nên bị rơi từ trên cao hai mét xuống, đầu va vào lan can mạn tàu và ngất xỉu. - Ông có biết rằng người ta không nhận rõ được những đèn tín hiệu ở cách một sải cáp không ? - Tôi biết ! - Petersen lẩm bẩm. - Hãy cẩn thận ! Có hai chiếc tàu chở than của Anh từ Kirkenes xuống và được báo vào đêm nay... - Vâng... Ông vội chấm dứt câu chuyện. Con tàu Polarlys sáp gần một cách mạo hiểm với thành phố mà người ta trông thấy những ánh sáng qua làn sương mù băng giá. Một cơn bão tuyết mịn lại bắt đầu rơi, xuyên vào da như những mũi tên nhỏ, thấm vào những đôi ủng và quần áo. Thuyền trưởng không ngừng quan sát những sự đi lại quanh chiếc thuyền máy. Vào lúc nó thả những dây neo buộc, ông đếm những bóng người ở trong thuyền, cho tín hiệu khởi hành. Chính Vriens điều khiển việc vận hành trên cầu tàu và Petersen căng tai nghe ngóng với vẻ lo ngại. Nhưng chân vịt bắt đầu đập nước đúng đắn. Vừa rời xa con thuyền máy nhỏ, con tàu bố trí hai trực ban ở mạn phải, rồi máy điện báo ra lệnh cho máy chạy tám mươi rồi một trăm hai mươi vòng. Ở trên cao, mặt ông tái nhợt, tay nắm lấy cần gạt, mắt nhìn cắm vào bóng tối mà người ta chỉ nhận rõ những đỉnh sóng màu sữa ở gần nhất ! Đáng lẽ trèo lên ngay thì Petersen vào phòng ăn, thấy người phục vụ nằm dài trên chiếc ghế dài nhỏ, mặt trong vắt. - Không được khoẻ ư ?... - Ông biết đấy, tôi luôn vẫn thế... Tôi chịu được một chút tàu tròng trành... nhưng thế này ! - Anh không trông thấy ai chứ? - Ông Evjen đã gọi tôi để đem cho ông nước khoáng... - Ốm ư ? - Hơi thôi !... Ông ấy vẫn vững... Ông ấy đi ngủ... - Những người khác ? - Tôi không biết... Ban nãy, thanh tra cảnh sát đã thử ra ngoài nhưng lập tức phải vào ngay. Ông ấy còn ốm yếu hơn tôi... Bóng đèn dầu bị vỡ, ngọn lửa bị giảm ánh sáng. Thuyền trưởng nhìn hành lang chỉ vừa đủ sáng và đột nhiên đi về phía buồng Arnold Schuttringer. Ông định gõ cửa nhưng nhún vai, mở ra. Người Đức đã bỏ kính nên nhìn mắt anh ta to bình thường, đang ngồi ở mép ghế nằm, trán đổ mồ hôi. Một cái nhìn đủ cho thuyền trưởng tin chắc rằng anh ta cần đến cái chậu bằng các-tông sơn dầu còn lăn lóc ở giữa đường. - Chúng ta đến Tromsoe vào mấy giờ ?... Người ta vừa vận hành gì thế ? - Đã qua Tromsoe rồi. - Ông nói sao? Ông ta trở nên căng thẳng, nét mặt hầu như càng đe doạ thì càng tỏ vẻ cà khịa. - Ta đã qua Tromsoe rồi ư ?... Không cho tàu đỗ lại ư ?.. Nến soi sáng yếu ớt. Tuy nhiên người ta có thể trông thấy từng giọt mồ hôi tứa ra từ những lỗ chân lông ở da, trên cái trán không bình thường của Schuttringer. - Một tàu đánh lưới rê đã bị đắm trong lạch tối nay... - Nhưng sao thế ? - Thư tín đã được đưa lên tàu... hàng hoá sẽ được bốc dỡ khỏi tàu khi trở về... Đây đúng là lần đầu tiên ông mất bình tĩnh, biểu lộ sự sôi sục khá mãnh liệt. Anh ta càu nhàu: - Tôi tò mò muốn biết Công ty có quyền đến mức nào ... - Ông muốn xuống Tromsoe à ? - Đánh điện tín... - Nếu ông nói trước, nhân viên bưu điện đã lên tàu. Có lẽ để yêu cầu vốn ở Đức chăng ? Người đàn ông trẻ tuổi không trả lời. - Trong trường hợp này, tôi nghĩ có thể khẳng định với ông rằng số tiền của ông sẽ sớm được tìmthấy... Chúng tôi đã thu được những đồng tiền vàng trong nệm rơm của Krull, gã thủy thủ tiếp than vào lò... Bản thân y lẩn trốn ở xó xỉnh nào trong tàu... - Cảm ơn ! - Schuttringer nói khô khan trong lúc giơ tay để nắm lấy tay nắm cửa và đóng lại. Petersen bỏ đi, đầu cúi xuống với cơn rùng mình mỗi khi tàu bị va đập mạnh mẽ. Nếu ông có những người dưới quyền mình, ông sẽ ra lệnh tìm bắt Krull bằng bất cứ giá nào, bởi vì ông tin chắc y còn ở trên tàu vào lúc tàu khởi hành ở Svolvaer. Ông từ từ trèo lên cầu thang dẫn tới cửa phòng hút thuốc nhận rõ trong bóng tối có một bộ mặt ngoảnh về phía ông. - Thuyền trưởng... Đó là tiếng nói của Katia còn ngập ngừng. Ông không trả lời, đứng ở chỗ cửa mở hé. - Xin ông hãy nghe tôi... Tôi cần phải nói chuyện với Vriens, chỉ một lát thôi... Anh ấy ở trên kia phải không ?... Vì ông vẫn không nói gì, cô nói tiếp: - Tôi van ông... Anh ấy không ăn cắp, tôi xin thề !... Tất cả chuyện đó cần được giải thích... Ta đã rời Tromsoe rồi ư ?... - Đã qua rồi, mà không đỗ lại... Thế rồi cô ta đứng lên, bước nhanh về phía ông. Cô ta xúc động ghê gớm, trong bộ áo dài đen hoà lẫn với bóng tối, bộ mặt biến dạng bởi thứ ánh sáng kỳ lạ. Petersen nhận thấy cái mụn trên trán cô ta đã tím đen. Đôi môi khô, nứt nẻ, để lộ sự sôi sục. - Không thể thế được !... Ông nói đi !... Vì sao ?... Khi nào ta dừng lại ?... - Tối mai, ở Hammerfest... Cô ta bám lấy ông và ông cảm thấy cô ta run lên. - Nhưng sao...? Cô xoa tay lên trán. Nét mặt đau đớn, cô rên rỉ van nài: - Những ai còn ở trên tàu ? - Tất cả mọi người... Hoặc đúng hơn chỉ có một người bị mất tích... Peter Krull. Ông không rời mắt khỏi cô ta. Và ông cảm thấy bứt rứt ở đôi chân với ý nghĩ chỉ giây này hay giây khác ông có thể bị gọi ra ngoài. Vị trí của ông là ở trên cầu tàu. Liệu Vriens và viên hoa tiêu có nhìn thấy đèn tín hiệu ở Skjaerevoy không, một trong những ngọn đèn rất khó nhận ra ? Đồng thời, ông cảm thấy đây là giây phút duy nhất. Cô gái đối thoại với ông đã kiệt sức. Nỗi lo lắng, cơn bão đã tàn phá những sức lực chịu đựng cuối cùng của cô ta. Nhưng không nên nói ra một câu vụng về. Cô ta còn có thể đứng vững, lấy lại được sự nhanh trí. Nước nhỏ giọt gây vướng víu trong chiếc áo da dê cái ướt đẫm và đôi ủng to của ông làm đôi chân ông như hai cái cột. - Tôi có thể nhận sự uỷ thác của cô đối với Vriens... Do việc tìm được những tờ giấy bạc ở buồng ông ta, ông ta có thể tình trạng bị bắt giữ... Đến Hammerfest, ông ta sẽ được chuyến tới... - Không ! Không ! Cô sốt ruột - Ông im đi... Hãy để tôi nói chuyện với anh ấy, tôi... hoặc đúng hơn... Cô nhìn quanh như muốn bám lấy cái gì đó. - Ông ta sẽ bị truy tố trước hết là lấy cắp. Sau đó ông ta phải chứng minh mình không có gì trùng với gã Rudolph Silberman nào đó... Cô ta lùi lại một bước, gay gắt nhìn vào mắt ông. - Ông nói gì ? - Tôi nói về kẻ giết Marie Baron, về kẻ giết người và về người cháu trai của cố vấn Von Sternberg... Rudolph Silberman, kỹ sư ở Dusseldorf, lên tàu Polarlys dưới một cái tên giả. Cô ta ngồi xuống. Kỳ lạ thay là đột nhiên cô ta tỏ vẻ bình thản đến mức làm thuyền trưởng khiếp sợ. Cô ta ngồi cách ông hai mét, chống một khuỷu tay lên bàn, ở đây còn có một cái chai không, và tay chống cằm, cô nhìn đăm đăm xuống sàn. - Ông còn biết gì nữa ?... Cô ta hất mái tóc ra đằng sau và nó rũ xuống mặt cô rồi máy móc tìm chiếc túi đế lấy thuốc lá. Nhưng hẳn cô đã để túi trong buồng mình. Đúng lúc ấy tàu tròng trành mạnh làm cô hẳn ngã xuống cùng chiếc ghế nếu cô không được chiếc bàn giữ lại và ngay Petersen cũng phải nắm lấy tay vịn của cánh cửa. Hồi còi lại rúc lên. Thuyền trưởng muốn ở trên cao. Ông giữ lại trong mắt sự ám ảnh của đại dương đen ngòm mà ông muốn tìm đèn tín hiệu ở Skjaerevoy. "Một lát nữa...", ông tự dành cho mình. Rồi cao giọng nói: - Silberman đi cùng một người đàn bà, đã trốn từ Paris đến Hambourg, đã vượt biên trên tàu Polarlys và cố hết sức để làm rối đường đi của y và còn bịa ra một hành khách... Cô ta cười bồn chồn: - Rồi sao nữa ?... - Từ Hambourg, y dùng mưu cố sức làm sai lệch những dữ liệu của bài toán... Và người bạn gái của y không ngừng giúp y... Y đã giết Sternberg... Có lẽ giờ đây y cảm thấy bị vây dồn, liệu y còn thử để... - Ông im đi... Thế là cô ta đã hết bình tĩnh. Cô lấy đầu những móng tay xé rách chiếc khăn tay màu xanh. - Hãy để tôi nói chuyện với Vriens, thuyền trưởng ! Hoặc đúng hơn... Không !... Thật vô ích !... Tất cả là vô ích, giờ đây... - Silberman là người tình của cô, phải không ? - Ông im đi !... Ông đi đi !... - Hãy trả lời... - Không !... Ông không hiểu gì hết... Đi đi... - Y là ai ? Cô ta bị kích động đến mức chỉ đụng tới là cô nhảy dựng lên. Đôi môi khô nhám của cô động đậy... - Có ích gì chứ ?... Đã quá muộn... - Có phải cô tránh một tội ác mới chứ ?... - Hãy để mặc tôi, tôi van ông đấy !... Xin làm ơn cho !... Tôi thề với ông rằng tôi không thể... Ông hãy nói với Vriens... Anh ấy vô tội, ngay cả vụ trộm, ông phải tin anh ấy... Hãy nói với anh ấy rằng... Cô ta tìm lời trong lúc nhìn quanh mình với vẻ kinh hoảng: -... Rằng thế là hết... rằng anh ấy có thể... - Có thể gì ?... - Không gì hết ! Tôi không biết nữa ! Vậy ông không thấy tôi kiệt sức ư, không thấy tôi đau khắp người ư... Ông đi đi !... Mặc kệ !... Và thật bất ngờ, cô ta nằm duỗi dài trên chiếc ghế dài nhỏ, đầu gối lên hai tay khoanh lại và co thắt khóc nức nở. Còi tàu vẫn rúc lên, dai dẳng khó hiểu, Petersen nhìn mái tóc hoe vàng của Katia, hình bóng đen của cô ta, lại do dự. Nhưng ông không thể ở lại đó nữa. Chí ít phải chăng ông muốn để lại một người nào đó, chẳng hạn Evjen, ở gần cô ta vì cô ta e ngại ông. Ông không còn thời gian xuống hành lang của các buồng nữa. Ông đến cầu tàu và khi đi qua nhận hai còn sóng tràn lên boong. Ông vừa đến gần đài chỉ huy thì Vriens không cần để hỏi, hổn hển nói: - Ông hãy nghe!...! Đằng kia... Anh chỉ khoảng không. - Có tiếng máy.. Chắc chắn là một tàu chở than... Họ đã hai lần trả lời... Chúng ta không nghe thấy gì nữa... Những ngón tay anh ta còn bám chặt lấy tay nắm kéo còi. Hai con tàu bị bao phủ bởi một đám mây tuyết đến mức nhận ra đèn tín hiệu riêng của mỗi tàu thì đã quá muộn để tránh. "Sáu mươi vòng... Bốn mươi !...”. Petersen ra lệnh. Ngay viên hoa tiêu đi biển từ ba mươi năm cũng để lộ vẻ lo lắng. - Những người Anh này coi thường những quy tắc !... Họ có thể ở đâu ?... Không có bão, những người Anh đã nghe thấy còi, bởi vì cùng lúc đó một ngọn đèn đỏ lướt cách con tàu Polarlys dưới ba mươi mét. Người ta thấy rõ một hình At Pic trên một ống khói trắng, một khoang thượng đuôi tàu sáng loáng. Thờ ơ với nước chảy ròng ròng trên quần áo và cho dù kém chịu đựng mồ hôi hơn những bụi nước, Vriens vẫn lấy khăn tay ướt sũng thấm mồ hôi, trong lúc hé nụ cười tội nghiệp. Petersen đứng rất gần anh ta, đoán ra một tiếng thổn thức nghẹn ngào và ông hiểu, bị lay động trong những nơi dễ xúc cảm hơn cả của bản thân mình, cũng như của người thuỷ thủ. Đây là chuyến vượt biển đầu tiên của anh ta ! Và anh ta ở lại có một mình, trong hơn mười lăm phút, thần kinh căng thẳng, rình chiếc tàu chở than quỷ quái chạy hai mươi hải lý một giờ ở nơi nào đó trong bóng tối. Ngọn đèn đỏ trôi qua như một sao băng. Còn giờ đây, đôi chân Vriens hẳn đã mềm yếu. Qua một hiện tượng mà Petersen hiểu rõ, anh ta bị một nỗi sợ nhìn về dĩ vãng. Một tiếng thổn thức nhỏ... Anh ta nhét chiếc khăn tay vào túi, tựa lưng vào vách buồng trực gác đêm, lại tìm những đèn tín hiệu trong đêm. - Vriens... Petersen hối tiếc đã gọi bởi vì ông đoán ra bộ mặt tái nhợt, bị kích động, mệt mỏi, ngoảnh mặt về phía ông với vẻ nghi ngờ. Và ông muốn tìm một lời nói tử tế ! Không, một lời làm yên lòng... Ông còn chưa hiểu hết. Nhưng ông lờ mờ cảm thấy gì đó ở vai trò người sĩ quan thứ ba. - Thuyền trưởng ?... Giọng nói khàn khàn. Thế là Petersen nói tiếp vẻ mệt mỏi: - Rúc còi !... Cứ ba mươi giây một lần... Có hai tàu chở than được báo trước... Vậy là còn một chiếc ! Ở tình thế này, ông quá vụng về và sự vụng về của ông sỉ nhục anh ta. Nhưng cũng thật rất khó nói sỗ sàng với một cậu bé nhất là trong những hoàn cảnh thế này: - Ông biết không... Tôi tin tưởng ở ông... Nhất là ông đã có thể nói thêm. - Hãy tha lỗi cho tôi đã thật khắc nghiệt, nhưng... Không, trên biển, chiếc áo ca-pốt rỏ nước ròng ròng, đôi chân tê cóng, người ta nói dễ dàng hơn: - Kéo còi !... Cứ ba mươi giây một hồi... Tiếng còi rít lên đến xé màng nhĩ. XI ĐÊM HAMBOURG Lúc này là tám giờ và một ngày đáng ngờ vẽ lên những đường viền của những quả núi một màu trắng trên nền xám thì sự thư giãn diễn ra. Từ một lúc rồi, những cơn gió lốc đã bớt dữ dội. Nhưng Đại Tây Dương vẫn nổi sóng lừng, phủ những vệt dài trắng xoá. Con tàu Polarlys cuối cùng đổi hướng đi sâu vào trong một hành lang khuất. Mặc dầu gió vẫn thổi vào những dây neo đằng lái nhưng người ta có cảm giác hoàn toàn bình thản. Thần kinh cơ bắp, khớp xương đã mỏi nhừ. Ba người đàn ông trên cầu tàu đã cay mắt và bị đau âm ỉ ở gáy và vùng thắt lưng. Việc chăm lo đầu tiên của thuyền trưởng là nhồi tẩu thuốc ở trong túi ông đã bám đầy những hạt tuyết kết tinh. - Sĩ quan thứ hai đã ngủ. Ông ấy sẽ thay phiên chúng ta ! - Ông nói với Vriens lúc này đã kiệt sức, đã phải huy động toàn bộ ý chí nghị lực của anh để không ngã quỵ. - Tốt, thuyền trưởng... Petersen liếc mắt nhìn chiếc la bàn, chiếc đồng hồ đếm vòng quay của máy, cả con tàu nổi lên trong đêm, phủ tuyết trên khắp các bề mặt. Rồi ông bước vài bước theo sau là chàng trai, ông dừng lại để anh ta đi trước. - Thuyền trưởng... - Vriens ngoảnh đầu bắt đầu nói. Rõ ràng anh cảm thấy cái nhìn của thuyền trưởng có vẻ thân mật, khích lệ và điều đó hầu như làmanh khó chịu. - Có đúng là Krull đã xuống tàu ở Svolvaer, phải không ? - Tôi không nghĩ thế ! Y lẩn trốn ở trên tàu... Ban nãy, tôi đã cho người đi tìm y... Đột nhiên ông đặt tay lên vai bạn: - Đó là người tình của cô ta ư ?... Chồng cô ta ư ?... Vriens cúi đầu rồi lại ngẩng đầu nhìn thuyền trưởng với vẻ lo lắng. - Anh cô ấy... - Cuối cùng anh khẽ nói - Cô ấy vô tội. - Lại đây !... Petersen bảo anh xuống thang, mở cửa phòng hút thuốc. Và cả người này lẫn người kia đều xấu hổ trước cảnh tượng bày ra trước mắt họ. Một trong hai ngọn đèn dầu vẫn cháy và vẽ một vệt vòng trong cảnh âm u của rạng đông. Chai nước khoáng đã rơi xuống sàn và vỡ tan. Trên chiếc ghế dài nhỏ, cuối cùng Katia đã ngủ. Nếu ta không nghe thấy hơi thở nhè nhẹ của cô ta, ta, có thể tưởng cô ta đã chết. Những đường nét chai cứng do mệt mỏi đã làm cho vẻ đẹp của cô ta biến mất. Những sợi tóc bết vào hai thái dương xâm xấp hồ môi. Bàn tay phải của cô ta thõng xuống đất. Ngay trong giấc ngủ cô vẫn lộ vẻ đau đớn, lo lắng. Cơn say sóng đã làm đôi môi cô có nếp nhăn chua chát. Vriens ngoảnh mặt đi. Petersen kéo anh vào buồng riêng của ông, tại đây cơn bão đã gây nên vài thiệt hại, làm đổ giữa những vật khác là lọ mực làm vấy bấn lên chiếc thảm trải sàn. Thuyền trưởng ấn chuông. - Ông hãy ngồi xuống... Ông còn cảm thấy ở bạn mình lộ vẻ cưỡng lại nhưng mỗi lúc một yếu đi và sau khi ngồi xuống, Vriens thở dài vẻ mệt mỏi. Người phục vụ gõ cửa, đã chưng diện chiếc áo vét sạch sẽ. Tóc anh ta còn giữ những đường lược chải ướt. - Hãy nói với viên sĩ quan thứ nhất đi bắt Krull bằng bất cứ giá nào... Và nói với chàng trai sau khi cửa khép lại: - Thế là hết, phải không ? ... Bản thân y cũng đã cảm thấy mình bị vây dồn... Tôi nghĩ rằng y muốn rời tàu Polarlys ở Tromsoe là nơi mà do may mắn lớn, chúng ta cho tàu đỗ lại... Em gái y đã hiểu việc này... Ông đưa cho anh ta túi thuốc và Vriens trả lời một cách máy móc: - Tôi không có tẩu... Tôi chỉ hút thuốc lá... Ánh sáng lờ mờ từ cửa sổ lọt vào nhấn mạnh thêm sự suy sụp trên những nét mặt. - Giờ đây, ông có thể nói, Vriens. Tôi biết rằng ông không giết người, ông không lấy cắp tiền của Evjen, cũng không lấy tiền của Schuttringer... Tuy nhiên khi chúng ta tới bến cảng, nếu những sự việc dừng lại đây, tôi buộc trao ông vào tay cảnh sát... Kẻ sát nhân vật lộn đến cùng... Vào giờ đã định, y đã mất... người ta sẽ đưa y đến chúng ta lúc này hay lúc khác... Ông ngồi xuống trước mặt chàng trai và một làn khói mỏng từ tẩu thuốc của ông dâng lên. - Ông gặp cô ta ở Hambourg phải không ?... Ông không quen biết cô ta trước đây phải không ?... - Liệu người ta sẽ bắt giữ cả cô ấy chứ ? Ông nói đi ! Phải chăng ý muốn cứu anh trai mình là một tội ác ?... Người này lẫn người kia bị ám ảnh bởi kỷ niệm về người đàn bà trẻ mà họ vừa trông thấy, đã khước từ mọi sự điểm trang và ngay cả mọi nữ tính, hoàn toàn bị đè nát bởi những sự kiện. - Tôi yêu cô ấy ! - Vriens nói, trong khi mi mắt anh chớp liên hồi. - Chính là ở Kristall phải không ? - Không ! Tôi vừa xuống tàu hoả. Lúc ấy đã khuya. Không biết bến cảng, tôi đi về phía một khách sạn... Tôi không nhận ngay ra nó... Người gác cổng ban đêm là một người Hà Lan hỏi tôi để điền vào phiếu của tôi, rồi không tò mò... Chúng tôi nói chuyện với nhau... Tôi nói với anh ta rằng tôi phải đến một con tàu mà tôi sẽ phải đảm đương chức trách của sĩ quan thứ ba... Chỉ đến phút cuối tôi trong thấy cô ấy ngồi ở phòng lớn và lắng nghe... Cô ấy xin tôi lửa... Vriens ngừng nói, phác một cử chỉ mơ hồ. - Ông không thể hiểu... Lần này, nụ cười của thuyền trưởng trìu mến và chân thành. - Ông đã làm quen... Ông và cô ta, cả hai người đã đi. - Đây không phải một phụ nữ như những người khác... Tôi không biết nói thế nào với ông... Petersen hình dung anh ta thật rõ, vừa ra khỏi trường, đột nhiên bị lôi kéo theo bước chân một phụ nữ như Katia ! Làm thế nào mà anh ta lại tỉnh táo được chứ ! - Cô ấy yêu cầu ông những gì ? - Đầu tiên là nhường vị trí của tôi cho anh trai cô ấy. Anh ta sẽ lên tàu mang tên tôi... Cô ấy thú nhận với tôi rằng anh ta có nỗi bất hạnh ở Paris... Anh ta mải mê với ma tuý... Ông biết phần còn lại... Một cô gái chết trong một buổi họp. Thế là, anh ta trốn... Trước hết ở Bruyxelles là nơi một người bạn trai cho họ tiền... Rồi Hambourg... Nhưng tôi không thế, phải không ?... Tôi nói rằng không thể được... Hầu như tôi bỏ trốn... Tôi không muốn gặp lại cô ấy nữa, để khỏi phải bị cám dỗ... - Và cô ấy đã lên tàu như hành khách phải không ? - Vâng... Tôi đã không trông thấy anh cô ấy... Tôi nghĩ rằng cả anh cô ấy cũng ở trên tàu... Khi Ericksen mất tích, tôi tin chắc rằng đó là anh ta... - Katia đã làm ông tỉnh ngộ... - Cô ấy thú nhận đó là một mưu mô do anh cô ấy nghĩ ra bằng cách, nếu một sự tố giác đến từ Paris vào phút chót, thì dồn những mối nghi ngờ rơi vào một hành khách không có thực... Đó là một người đến vào buổi sáng mặc áo khoác màu xám, lấy vé đi Stavanger dưới cái tên là Ericksen và để vài hành lý ở trong buồng... Sau đó, hắn ta chuồn đi... - Còn Sternberg ? Lúc này Vriens úp mặt vào hai bàn tay. - Tôi không biết... Bản thân cô ấy không muốn tin rằng chính anh cô ấy đã giết ông ta... Cô ấy cầu khẩn tôi làm thế nào để người ta nghi ngờ Ericksen đã gieo mình xuống biển... Ông hiểu chứ ?... Để cuộc điều tra không tiếp tục ở trên tàu... Chính tôi đã cho đầy than vào túi... Tôi muốn trốn cùng cô ấy... Phải chăng tôi đã nói với ông rằng họ đi Kirkenes chỉ để qua Nga ư ?... cả hai người họ nói được tiếng Nga vì mẹ họ là người Léningrát. Biên giới ở đó được canh gác không nghiêm ngặt như ở nơi khác... Sự dẫn độ không có với những người Nga... Không cần phải hỏi anh ta thêm nữa. Giờ đây chính anh ta thấy cần phải nói.. - Cũng vào lúc ấy, tôi không biết mình có thể làm gì... Tôi xin thề với ông, thưa thuyền trưởng, rằng ông không thể hiểu tôi... Có những lúc mà tôi nghĩ tôi có thể giết ông, bởi vì tôi cảm thấy rốt cuộc ông sẽ đoán ra... - Cô ta chưa bao giờ nói với ông anh cô ta là ai ư ? - Không ! Nhưng không phải do nghi ngờ ! Đúng hơn đó là sự tế nhị của cô ấy... Tôi liền dò xét mọi người... Evjen, Schuttringer, nhất là Peter Krull mà tôi thường thấy hắn lảng vảng trên boong... Tôi biết rằng cả hai anh em cô ấy đều không còn tiền nữa... Khi xảy ra vụ mất cắp, tôi đã hiểu... - Tôi thấy trước chuyện đó sẽ không đi tới Kirkenes... Họ cùng có một ý nghĩ... Katia đã thú nhận với tôi rằng anh cô ấy sẽ một mình cố trốn chạy ở Solvaer hoặc ở Tromsoe... - Vì như thế, người ta hẳn nghi ngờ người nào khác... Tôi... Anh ta đứng lên, bị kích động hơn. - Tôi cần đi gặp cô ấy, thuyền trưởng ! Tôi xin thề với ông trước linh hồn mẹ tôi rằng cô ấy vô tội, cô ấy !... Cô ấy tính cứu anh trai mình phải không ?... Này ! Khi cô ấy nói tới kỷ niệm ngày sinh của cô ấy... Không đúng đâu... Cô ấy lo lắng, bởi vì cô ấy vừa biết rằng người ta không tin Ericksen tự tử, có thể cũng không tin vào sự tồn tại của người này... Cô ấy muốn đánh lạc mục tiêu... Và mọi người giữ thái độ lanh lùng !... Thật kinh khủng... - Bà mẹ ông đã mất phải không, Vriens ? - Vâng... ở Java... - Và ông là con duy nhất ! Bố ông chỉ có mình ông... Tôi nhìn thấy ảnh ông trong hành lý của ông... Ông không kết luận, kéo anh về phía cửa. - Có lẽ tốt hơn là anh đi ngủ trong lúc chúng ta kết thúc chuyện này. - Không ! Tôi không muốn... - Vậy thì, hãy hứa với tôi xứng đáng là một người đàn ông ! Anh mặc bộ đồng phục. Đêm nay... - Đêm nay sao ? - Này ! Tôi hài lòng về anh... Anh làm vinh dự cho trường mình... Vriens miễn cưỡng hé nụ cười nhợt nhạt mà anh cố giấu khi ngoảnh mặt đi. - Giờ đây việc đó cần tiếp tục... Lại đây ! Một lát, Petersen cảm thấy có người nghe ở cửa. Nhưng khi ông mở cửa thì chỉ trông thấy Schuttringer đi bách bộ ở cuối hành lang, chỉ nhìn rõ lưng anh ta, vì anh ta mải miết nhìn hướng khác. Thuyền trưởng và Vriens vừa lên đến boong thì có tiếng kêu: - Chiếc ca nô... kia... Nó ở kia !... Và sĩ quan thứ nhất chạy qua. Mọi người nhìn theo. Họ trông thấy ông ta trèo lên cầu tàu, đi vòng quanh ống khói. Trong số bốn chiếc ca nô cứu hộ chỉ còn lại có ba chiếc. Vào lúc viên sĩ quan dừng lại, tấm vải che một chiếc được kéo ra và gã thủy thủ tiếp than vào lò đứng lên. - Tốt rồi !... - Gã nói. Petersen nhìn Vriens, hai cánh mũi nhíu lại. Viên sĩ quan hơi bối rối, ra lệnh: - Xuống đi !... Rút hai tay ra khỏi túi !... Và từ dưới nhìn lên, người ta có cảm giác rằng Krull khẽ cười, một nụ cười lặng lẽ. - Chưa đến Hammerfest ư ? - Gã hỏi. Không ai trả lời gã. Người phục vụ dè dặt thò đầu qua cửa. - Thanh tra chưa dậy ư ? - Ông ấy vừa ra khỏi buồng mình. Ông ấy yêu cầu tôi cho uống... Quả nhiên, người ta sớm thấy Jennings xuất hiện, lời đầu tiên thốt lên với giọng đắc thắng: - Tôi đã nôn rồi, thuyền trưởng !... Mặt ông rạng rỡ nhưng còn hơi mệt. Ông ta nhận ra Krull đang xuống thang, theo sau là sĩ quan thứ hai và một thuỷ thủ. - Người đã tìm được hắn ư ?... Liệu chúng ta sẽ... Ông không dám nói: “Liệu chúng ta sẽ làm gì hắn ?...”. Nhưng ông ta nhìn Petersen với vẻ bổi rối. *** Chỉ có gã thủy thủ tiếp than cười. Cảm giác nổi bật ở tất cả những người có mặt là sự mệt mỏi bị đẩy tới mức đau đớn. Mi mắt đỏ ngầu, môi nhợt nhạt. Không ai đã cạo râu. Vào lúc Krull qua trước cửa phòng hút thuốc, cửa mở ra và người ta thấy hình bóng rúm ró của Katia xuất hiện. Ánh sáng đến không phải từ mặt trời mà do phản xạ của một ngọn núi tuyết mà tàu lướt qua. Đây là một ngày tím nhợt, gây thất vọng. Katia nhìn Kruil trong trạng thái ngây độn rồi đưa mắt tìm Vriens, nhận ra anh liền ngoảnh mặt đi. "Vào phòng hút thuốc !”. - Petersen lẩm bẩm sau một lát ngập ngừng. Và gã thủy thủ tiếp than tự mình bước vào mà không cần ai đẩy, lùa bàn tay vào mái tóc rối bù, xoa bộ râu đã mọc dài tới bốn xăng-ti-mét. - Ông vui lòng lên trực ban nhé ? Sĩ quan thứ nhất gật đầu và biến mất về hướng cầu tàu, trong khi thuyền trưởng kéo Vriens cùng thanh tra cảnh sát vào phòng hút thuốc và ông khép chặt cửa lại. Sau một lúc do dự phân vân, Petersen và Jennings nhìn nhau. Ai trong hai người sẽ nói đây ? Katia lùi đến tận cùng căn phòng. Rồi đột nhiên cô áp sát mặt mình vào một cửa sổ. - Rudolph Silberman, tôi bắt anh... - Viên cảnh sát nói càng kiên quyết hơn vì nụ cười vẫn nở trên môi người bị bắt. Cùng lúc ấy, người phụ nữ trẻ thốt lên tiếng kêu nghẹn ngào. Vriens vội nhào về phía cửa sổ bên kia, gọi: - Thuyền trưởng !... Người ta nghe thấy tiếng những bước chân của một thủy thủ chạy trên boong dạo chơi. Petersen hầu như không trông thấy gì. Đúng hơn là ông đoán ra mình đã thấy rõ một hình người bước qua lan can và biến mất. Ông mở cửa, cúi xuống, ba lần thoáng thấy cái đầu cạo trọc nổi trên bọt nước và lần thứ ba đã ở đằng sau con tàu. - Dừng lại !... Ông kêu lên về phía cầu tàu – Lùi lại !... Nhưng viên sĩ quan thứ hai không hiểu, hai bàn tay khum lại trước miệng, ra hiệu nhắc lại. Ở nơi nào đó, tiếng nói của Peter Krull khuyên: - Bỏ mặc hắn !... - Dừng lại!... Con tàu chồm lên thật dữ dội. Nhưng khi người ta dùng ống nhòm soi sục sạo vết rẽ nước của con tàu Polarlys, người ta chỉ còn nhận ra những xoáy nước như kem. Tất cả việc đó xảy ra nhanh đến nỗi mỗi người chỉ chứng kiến một phần thật nhỏ sự kiện. Giờ đây họ nhìn nhau với trạng thái sững sờ nặng nề. Evjen đến, cạo mặt nhẵn nhụi với chiếc quần màu xám thẳng nếp và đôi giày đánh xi bóng lộn. - Có chuyện gì xảy ra thế ?... Tại sao ta dừng lại ?... Cúi mình trên tay vịn cầu thang, viên sĩ quan trực ban chờ lệnh. - Tiến lên !... - Cuối cùng Petersen kêu lên với ông ta - Tiến thẳng !... Katia không ngất xỉu nhưng đôi mắt điên dại của cô ta nhìn cắm xuống mặt biển sóng vỗ bập bềnh lại bắt đầu trườn dọc mạn tàu. - Đưa cô ta tới, Vriens... Nhưng đừng làm những chuyện ngu ngốc, phải không ? Kèm theo những lời nói ấy là cái nhìn đến mức làm cho chàng trai cố tìm lời cảm ơn mà không tìmra, đành phải dồn hết lòng biết ơn vào đôi mắt. Thuyền trưởng cởi, đúng hơn là giật chiếc áo da dê cái của mình ra. Mặc dầu tới mười bảy độ dưới không, ông vẫn nhễ nhại mồ hôi. - Vào đi, Evjen... Đóng cửa lại... Họ chỉ có bốn người trong phòng hút thuốc, tại đây ngọn đèn vẫn cháy. Người nói đầu tiên là Krull. - Các ông có hiểu không ? - Anh ta hỏi với giọng nói cau có. - Silberman ư ?... - Jennings ngây thơ hỏi. - Các ông không trông thấy hắn nhảy xuống biển ư ?... Tôi chán ngấy rồi ! Đó là sự thật... - Im lặng ! - Petersen ngắt lời. Và với giọng nói rõ ràng, vẻ quyết định: - Ông đã nói với tôi ông là luật sư... - Trước đây, vâng ! vả lại, ông chỉ cần xem lý lịch tư pháp của tôi... Tôi đã làm những chuyện ngu ngốc... Ông hãy thú nhận rằng tôi đã không thử coi mình là một vị thánh nhỏ... Một chuyện lừa đảo và ma tuý... Rồi sự suy sụp kết thúc là lao xuống... Từ nhà tù ở Cologne đến Mannheim... Khi người ta đến một độ sâu nào đó, không cần phải thử trèo lên... Như các ông không cần phải cố hiểu... Nói tóm lại, tôi không phải là Silberman mà là Krull... Tôi được tuyển dụng lên tàu Polarlys vì tôi không có lấy một xu... “Không có bí mật nào ở đây cả... Chỉ sau khi ở trên tàu, tôi mới hiểu rằng đang xảy ra điều gì đó thú vị... "Tôi đọc một tờ báo tiếng Pháp bỏ vương vãi nói về một vụ ma tuý... "Trong khi các ông bị vố gậy ông đập lưng ông, tôi hiểu ngay, bởi vì, khi người ta tự xử thì không thể sai lầm... "Vậy là các ông chưa bao giờ nhìn trước mặt cái đầu của Schuttringer phải không ?... Chỉ có một chút bực bội nhỏ ở đây, này... Y đã cạo đầu, tạo cho mình cái đầu, đeo kính nhưng với cái kính ấy, y không nhìn thấy...”. Và anh ta chỉ hàm mình, làm nó giật giật thật sinh động. "Sự giật giật nhỏ này không thể nào lầm được ! Vì đúng ba tuần tôi không trông thấy màu sắc cô-ca in, tôi liền tự giới thiệu một cách tử tế khiến y lo sợ... "Y chỉ còn mười hai gói loại một gam... Tôi để lại cho y hai gói... "Các ông chưa có vẻ hiểu ! Cũng như các ông không biết hỏi mọi người ! Tất nhiên phải nói với họ bằng ngôn ngữ của họ... "Với một người nghiện ma tuý, ta nói về ma tuý... Và tôi xin thề với các ông rằng khi tôi nói với y vài lời về Marie Baron, y đã hiểu... "Các ông đã chứng kiến những bài tập thể dục của y, và tất cả... Này, chỉ có việc đó đủ chứng tỏ cho tôi rằng gã trai lẩn trốn... Bởi vì một kẻ dùng cô-ca-in không có dáng vẻ như thế... Y gắng gượng... - Y làm ra vẻ trái ngược với con người thực của y, điều mà mọi người làm thì y nguỵ trang. Tôi đã đoán ra hết, từng tí một... Trước hết y là anh trai của cô gái... Không nghiện ma tuý như y... Nhưng cuối cùng... "Rồi y hốt hoảng đã giết chú mình... Nhưng đó ! Hốt hoảng !... Khiếp sợ !... Có khả năng bằng bất cứ điều gì để thoát khỏi cảnh khó khăn...". Không ai nghĩ tới ngắt lời gã. Người ta nhìn gã với vẻ bối rối. Nhất là Evjen mà hình bóng thanh tao tương phản lạ lùng với sự suy sụp lúc trước. "Họ sử dụng viên sĩ quan trẻ tuổi để đánh lạc hướng những sự nghi ngờ... Như cú cái túi than... "Bởi vì Silberman là một gã trai thông minh, tôi mong các ông hãy tin như thế... Một thiếu sót duy nhất là y còn quá ham muốn hoàn cảnh xã hội của y... y sẽ lên tàu đi Nam Mỹ với tư cách là lái tàu hoặc người di cư vì đã bàn rồi... "Nhưng muốn thế cần phải học nghề, một bước trượt chậm... Chỉ có để làm quen với việc ra phố không có cổ áo giả, này... "Câu chuyện người bạn đến mua vé và lập tức biến mất... Một sự khám phá ! Các ông cho rằng người chú Sternberg không bị nghi ngờ gì hết và đã không lên tàu... Các ông cũng cho rằng ở Stavanger hoặc ở Bergen, người ta cho biết có một gã Silberman ẩn náu ở tàu... "Lập tức người ta nghĩ tới Ericksen và người ta để yên mọi hành khách khác... "Một gã trai có khả năng thấy điều đó và, thế nhưng... tất nhiên là thần kinh!... Một sự xáo trộn kỳ cục giữa sự bình tĩnh và sự sợ sệt... "Như vậy, ở Paris, khi y trông thấy cô bé chết, y không để lại một dấu vết nào phía sau... Y đã tính rằng cảnh sát phải mất vài ngày mới sờ tới được Femstein, bạn y... "Hình như y dừng lại ở Bruxelles vì y thiếu tiền... Y đã tìm được tiền để đến Hambourg, tại đây y phải đập chết chú y... Nhưng tất cả điều đó kéo dài thời gian... Chỉ có việc kiếm được hộ chiếu, chẳng hạn, khi người ta không thông thạo... "Lúc này hoặc lúc khác, một bức điện tín có thể đến từ Paris... Trọn một tuần lễ ! - Điều đó hẳn làmy rối loạn và khi y trông thấy chú y lên tàu, y đã làm điều ngu xuẩn... Bởi vì theo ý tôi, Sternberg vừa đọc báo và đoán ra, ở đó để gỡ cho y việc khó khăn và tránh không để cho chuyện này gây thiệt hại cho chính mình... "Thần kinh. !... Cũng có thể là ma tuý... Trong những trường hợp này, người ta sử dụng những liều lớn. "Tôi moi ma tuý của y một cách tử tế... Tôi thấy y bực dọc... "Nhất là y sợ khi y biết rằng chuyện cái túi than bị khám phá trong ngày... "Y còn cần tiền... Y đã lấy cắp tiền và y có được sự khéo léo để lấy cắp, y không có lấy một đồng cua-ron. "Ý nghĩ của y là bằng bất cứ giá nào phải tới được Kirkenes và bằng mọi cách đánh lạc hướng những sự nghi ngờ cho tới lúc đó... Nhất là y tính tới chàng trai đã say mê em gái y... "Ở Svolvaer, y thấy bức điện tín gửi cho thanh tra cảnh sát... Thế là sự sợ hãi của y trở thành sự hoảng loạn... Y đến tìm gặp tôi... Y muốn xuống Tromsoe và bỏ mặc Katia tự xoay xở lấy... Nhưng muốn thế, y cần được người ta để cho y lên bờ... Ông có vẻ không tin lắm vào việc phạm tội của viên sĩ quan... Chỉ còn lại Schuttringer hoặc tôi có thể là Silberman... "Y đã cho tôi một nghìn cua-ron để tôi bị nghi ngờ trong hai mươi bốn giờ... Tiền đây... "Tôi có nguy cơ gì ? Vài ngày trong tù ư ? Tôi đã được giải thoát khỏi nhà tù hai mươi tháng và nhà tù không hề kém hơn ở hầm tàu... "Tôi đã đồng ý... Tôi nhét những đồng tiền vàng trong ghế nằm của tôi và tôi đi nằm dài trong một chiếc ca-nô cứu hộ... "Nếu con tàu đỗ lại ở Tromsoe thì thế là hết ! Các ông sẽ bắt giữ tôi nhưng cuối cùng các ông tin chắc rằng tôi không phải là Silberman... về phần y, với tiền bạc mà y giữ cẩn thận, y rất có thể tìm được cách đến lục địa, rồi một xó xỉnh nào đó yên tĩnh. Hằng ngày, những con tàu đi từ Narvik... "Khi tôi biết được rằng người ta không cho tàu đỗ lại, tôi muốn lộ mặt... Rồi tôi để y chơi trò may rủi của y tới cùng...”. - Lạ lùng ! - Evjen nghiến rằng càu nhàu, quan sát với vẻ vô cùng tò mò cái mẫu người quái đản ở trước mặt ông ta. - Không có gì là lạ lùng hết... - Krull đáp lại - Hoặc đúng hơn, chỉ lạ lùng đối với những người như ông, có một người vợ, những đứa con và không có tội lỗi... Hãy chỉ cho tôi hai tháng thôi, tôi làm cho ông chạy đứt hơi để tìm một nhúm ma tuý... Y không may... Y đã hành động quá đáng... Mooc-phin không phải sản xuất cho những cô gái... sau đó theo tôi, chính là sự sợ sệt đã thúc đẩy y... Và sự sợ sệt có khả năng thúc đẩy các ông làm bất cứ điều gì... Gã nhún vai quay mặt về phía cửa sổ. - Giờ đây, y yên ổn ! - Gã kết luận - Liệu tôi có phải đi xúc than không ? XII ELSE SILBERMAN Một ngày trôi đi trong bầu không khí ngột ngạt. Chỉ riêng quang cảnh đã đủ làm nảy sinh chứng suy nhược thần kinh. Họ cho tàu đi theo những con lạch hẹp lồng vào nhau như những đường vào hang chuột chũi. Bầu trời thấp đến nỗi người ta có cảm giác là một cái vung đậy kín mít chụp lên đầu họ. Những quả núi trắng xoá. Tuỳ theo ánh sáng phản xạ mà nước có màu xẩm hoặc đen. Đôi khi từ rất xa có một căn nhà sàn hẻo lánh và một con tàu nhỏ bằng gỗ lãnh sam thả neo trong một cái vũng. Peter Krull trở lại vị trí của gã sau khi chào những người nghe gã một cách mỉa mai. Quãng mười giờ, ba người đàn ông gồm Petersen, Jennings và Evjen đã ngồi vào chỗ trong phòng ăn, dưới cái nhìn lo lắng của người phục vụ. Thanh tra ngẫu nhiên ngồi vào chỗ của Schuttringer và nhiều lần, hai người kia ngoảnh mặt đi. - Một thằng điên ! - Evjen đột nhiên làu bàu - Tôi tự hỏi thế nào mà y chịu nổi một liều lượng như vậy... Bởi vì năm ống mooc-phin bị lấy cắp trong buồng người Lapon đã được tìm thấy đã rỗng không tại buồng Schuttringer. Trước khi nhảy qua mạn tàu, hắn y đã nuốt hết thuốc ở trong ống, vì người ta không thấy ống tiêm. Rồi ông ta nói với thanh tra cảnh sát: - Ông sẽ làm gì với em gái y ? - Tôi không biết.. Tôi phải gửi điện cho những sếp của tôi... Tóm lại có hai tội ác: một ở phố Delambre do cảnh sát Pháp quan tâm và vụ giết Sternberg phạm tội trên một con tàu Na-uy trong hải phận quốc tế, chỉ liên quan tới chúng tôi... Sự đồng loã của Katia trong tội ác này hoặc tội ác kia không hề được xác lập... Petersen không nói gì, ăn ngon lành làm cho người phục vụ ngạc nhiên. Phần còn lại trong ngày diễn ra không có sự việc rắc rối. Evjen lại ngồi vào chỗ quen thuộc của mình tại phòng hút thuốc, trải lên bàn những tài liệu và ghi chép. Vì ông ta gặp thuyền trưởng nên nói với ông này: - Tất nhiên ở Kirkenes, ông ăn tối ở nhà như thường lệ... Vợ tôi sẽ rất vui... Ông có biết rằng thanh tra cảnh sát khôn khéo hơn tôi tưởng đấy... Ông ấy còn tìm thấy bốn nghìn cua-ron trong một chiếc giày của Krull mà y chỉ thú nhận với chúng ta có một phần năm số tiền mà y thực tế đã cuỗm được... Tuy nhiên có vài sự đi đi lại lại nhất là giữa ba giờ chiều đến bảy giờ trong khi Jennings ngủ, cuối cùng khỏi say sóng. Nhiều lần, Vriens rời khỏi buồng của Katia mà trước đó anh ta không hề đi ra rồi đến gõ cửa buồng thuyền trưởng.. Lần thứ ba, Petersen nói với anh ta: - Tất nhiên anh không giữ ý định xin từ chức nữa chứ ?... Chàng trai chỉ trả lời bằng cái lắc đầu. - Trong trường hợp này tôi có thể ứng trước cho anh tiền lương ba tháng đầu của anh... Với bốn trămcua-ron một tháng, tức là một nghìn hai trăm cua- ron... - Nhưng... đó là tổng số của... - Anh đi đi !... Vào sáu giờ, Petersen gọi người phục vụ: - Thanh tra đâu ? - Ông ấy vẫn ngủ... Ông ấy yêu cầu tôi đánh thức ông ấy khi chúng ta tới Hammerfest... Tôi tin đã đến lúc... - Trước hết anh cho tôi ăn tối tại buồng tôi... vẫn không có gì làm trước khi chúng ta đến cảng... Tàu lại chạy trong đêm. Biển hầu như không có sóng lừng, việc cập bến không vấp váp gì với sự nhẹ nhàng bất thường. Những thừng chão vừa được buộc vào những cột cáp thì Petersen, sau khi nhìn hành lang, vào buồng mình và bắt đầu ăn, không những ngốn ngấu ngon lành mà còn với cách ăn không bình thường. Ông còn gọi rượu vang, điều chưa từng thấy ở ông, buộc người phục vụ mất gần mười lăm phút để tìm chìa khoá tủ là nơi cất kỹ những loại rượu mạnh. Rốt cuộc, chiếc chìa khoá này được tìm thấy ngay trong túi thuyền trưởng nên ông phải xin lỗi. - Ông không có những thứ quả chứ ? Những người lao động bốc dỡ hàng ở tàu lên bờ và bốc vác những hàng hoá khác lên tàu. Cuối cùng Petersen lấy ở trong túi ra chiếc đồng hồ. - Phải chăng Jennings không yêu cầu ông đánh thức ông ấy ? - Có chứ ạ... Tôi phải đi... Từ thành phố, người ta chỉ trông thấy vài ngôi nhà gỗ ngập chìm trong tuyết tới nửa chiều cao cửa sổ. Thuyền trưởng vẫn ăn. Qua cửa hé mở, ông trông thấy Vriens từ ngoài vào đi qua mang theo chút không khí lạnh giá. Cùng lúc đó, Jennings hiện ra còn ngái ngủ, miệng lúng búng ? - Tôi mệt quá rồi ! - Ông ta thở dài - Tôi tưởng mình có thể ngủ bốn mươi tám giờ... Chúng ta đang ở đâu ?... - Hammerfest... - Từ lâu chưa ? - Hai mươi phút rồi... - Không ai xuống ư ? - Tôi không biết... Tôi đói ghê gớm nên tôi phải tự phục vụ bữa tối của mình... Thanh tra đi ra. Người ta nghe thấy tiếng chân ông đi lại. Một lúc sau ông ta trở lại. - Ông biết không... Tôi không thấy cô gái... Katia Storm... - Đúng thế ư ?... - Tôi lo ngại... Cô ta có khả năng lao mình qua mạn tàu, cả cô ta... Tốt hơn cả là tôi gửi một bức điện đến Stavanger... *** Mười giờ ?... Mười một giờ ?... Khi người ta ở trên cao, tại cầu tàu với mười tám đến hai mươi độ lạnh dưới không thì không đo được thời gian. Họ là ba người đứng tựa lưng vào vách buồng gác đêm. Petersen đứng giữa. Bên phải ông là viên hoa tiêu, người to xù bởi bộ quần áo da lông. Bên trái ông, Vriens đứng bất động, hơi quá cứng nhắc. Liệu có phải là sự ngẫu nhiên ? Phải chăng vẫn là bàn tay của sĩ quan thứ ba đụng vào bàn tay thuyền trưởng, do dự rồi nắm chặt lấy, trong khi con tàu Polarlys nặng nề trườn từ bờ này sang bờ kia. - Đi rồi ư ?... - Petersen nói qua chiếc mũ trùm đầu chỉ hở mắt. - Cô ấy tìm được một chiếc xe quệt... Một người Lapon và hai con tuần lộc... Nhưng có rất nhiều những trái núi phải vượt qua... - Cô ấy đã thử...? - Bạn anh ta bắt đầu nói. - Cô ấy cấm tôi đi theo cô ấy... Sau đó mười lăm phút hoặc một giờ im lắng. Những con mắt nhìn những đèn tín hiệu của những cọc tiêu. Một tiếng nói cất lên: "Honnings way... cảng đầu tiên của Bắc Băng Dương”... Trong khi viên hoa tiêu vào đài chỉ huy để châm tẩu thuốc ở nơi khuất gió thì Vriens nói rất nhanh: - Ông biết không... Cô ấy nói hết với tôi... Họ không còn tiền nữa... Họ không dám gửi điện tín cho bố họ đang ở Berlin... Họ đã phải dừng lại ở Bruxelles là nơi họ có một người bạn... ở Hambourg, họ đã gõ đến mười cửa... Rồi trong nỗi tuyệt vọng, Silberman đến nhà chú mình là Sternberg, anh ta kể cho ông nghe một câu chuyện... Đó là người đã làm anh ta hư hỏng... Người chú sau đó hẳn nhận được những tờ báo ở Paris... Ông ta có một con gái mười lăm tuổi như Katia... hoặc đúng hơn Else là tên họ anh ta, yêu tha thiết ! Những ngọn đèn tín hiệu vị trí soi sáng họ bằng những tia xanh và đỏ vì những máy phát điện đã được sửa chữa. Người ta nhìn thấy ngọn lửa của que diêm của viên hoa tiêu, chiếc mũ da lông, mặt cúi xuống. - Else Silberman.., - Vriens nhắc lại, và khẽ nói thêm: - Ông bà ngoại anh ta ở gần Arkhangelsk... Bà mẹ anh ta thử... Anh ta lấy một điếu thuốc lá ở chiếc hộp bằng vàng và Petersen nhận ra. - Với chín trăm cua-ron... Ông hiểu chứ ?... Nếu họ còn sống, họ không biết cuộc sống của họ... Bố anh ta đã tái hôn với một diễn viên... Họ tựa vai vào nhau, dựa vào vách nhẵn và lạnh. Viên hoa tiêu bước nặng nề trở lại, làu bàu: - Kéo còi !... Chính thuyền trưởng giơ cánh tay ba lần kéo tay nắm của còi để báo hiệu con tàu Polarlys đã đến Honningsvaag, tại đây người ta đã đẩy về phía những cọc sàn những chiếc xe quệt chất đầy cá thu. Bộ mặt nhìn nghiêng của Vriens nổi bật trong làn ánh sáng xanh. Môi dưới anh ta cong lên. Lúc này Petersen tập hợp nhiều hình ảnh thành một cụm duy nhất: đôi chân cứng cáp đi tất lụa căng mà một tối ông đã ngắm nhìn; chiếc chân dung phóng to của vợ ông ở trên tường buồng ông, và những đứa trẻ mặc đồ trắng trong một bức ảnh rất nhỏ... Khoá học trên tàu ở Delfzijl, cuối cùng đeo găng tay màu sáng, với những học-sinh, trẻ nhất đứng trên những trục căng buồm... Và ông Vriens bố, mặc bộ quần áo thuộc địa, trước chiếc bàn kiểu vua Louis thứ mười sáu... - Không phải cho chúng ta, ông bạn ạ !... – Ông nói. Nhưng ông uổng công tìm cách diễn tả những hình ảnh dồn dập khác: Schuttringer tập thể dục trên boong tàu... Sự sát hại ghê tởm trong buồng của Sternberg... Vẫn con người ấy ăn cắp vài ống mooc-phin, nuốt mooc-phin, đôi mắt nhớn nhác, lo lắng tới việc đi lại nhỏ nhặt nhất, nhảy qua lan cạn tàu... Hoặc giả Peter Krull đã có một căn nhà trong phố Jacobsstrasse và từng giờ một trong tám giờ, hất vào cái hố đen những xẻng than đá đen... - Nào !... Anh đã là một người đàn ông... Ông không muốn nhìn nụ cười của Vriens, hơi buồn, hơi gắng gượng, kể cả cái nhìn của anh ta lang thang về hướng những dãy núi một màu trắng xoá, tại đó một chiếc xe quệt hẳn đang phải tiến lên một cách vất vả từng cây số, hướng tới Phần Lan hoặc nước Nga. THANH TRA MEGRÊ VÀ NGÀI BỘ TRƯỞNG Người dịch: LÊ VIỆT DŨNG I BẢN PHÚC TRÌNH CỦA NGƯỜI ĐÃ CHẾT Như mọi lần về nhà vào buổi tối, cứ đến cùng một chỗ ở vỉa hè, quá ngọn đèn đường một chút, Megrê lại ngước nhìn lên phía mấy ô cửa sổ sáng đèn căn hộ của mình. Ông cứ nhìn lên theo thói quen thôi. Nếu ngay lúc đó có ai đột nhiên hỏi đèn còn sáng hay đã tắt, có lẽ Megrê cũng ngần ngại khó trả lời. Khi từ tầng hai lên tầng ba cũng vậy, cứ theo thói quen, ông bắt đầu mở nút áo khoác để lấy chìa khoá trong túi quần thì y như mọi lần, cửa mở đúng ngay khi ông vừa đặt chân lên thảm cửa. Những việc ấy qua bao năm đã thành lệ, thành thói quen và Megrê đã gắn bó với những thói quen nhiều hơn là ông nghĩ. Hôm nay lại có khác vì trời không mưa, giá như mọi bữa thì vợ ông đã bằng một điệu bộ đặc biệt riêng của bà, đó lấy chiếc dù ướt trong tay ông và cùng lúc nghiêng đầu hôn lên má ông. Ông buông ra câu nói như mọi lần: - Không có ai gọi điện thoại chứ ? Bà vừa đóng cửa vừa trả lời: - Có đấy ! Em e rằng anh khỏi phải mất công cởi áo khoác đấy ! Cả ngày hôm nay trời xám xịt. Không nóng cũng không lạnh và có dăm ba hạt mưa lúc hai giờ chiều. Ở cơ quan Megrê chỉ giải quyết mấy việc sự vụ thường ngày. - Anh ăn tối ở cơ quan có ngon miệng không ? Ánh đèn làm cho căn phòng ấm áp, thân thiết hơn ở cơ quan. Cạnh chiếc ghế bành, Megrê nhìn thấy đôi dép và mấy tờ báo xếp sẵn. - Anh ăn tối với thủ trưởng, Luy Ka và Giăngviê ở quán Đôphin. Ăn xong cả bốn người đã đến dự buổi họp của Hội ái hữu cảnh sát. Từ ba năm nay, Megrê được bầu làm phó chủ tịch hội, mặc dù điều đó ông không muốn tý nào. - Anh vẫn còn thì giờ uống một tách cà phê đấy. Dù sao anh cũng nên cởi áo khoác đi chứ, em đã bảo là anh không về trước mười một giờ - Bà Megrê khẽ nhắc ông. Bây giờ đã là mười giờ rưỡi. Buổi họp cũng nhanh, một vài người trong bọn họ còn có thời gian ghé quán và làm một ly, rồi Megrê đi tàu điện ngầm trở về nhà. - Em có biết ai gọi điện không? - Một ông bộ trưởng. Đang đứng giữa phòng khách Megrê nhíu lông mày nhìn vợ. - Bộ trưởng nào ? - Bộ trưởng Bộ Công chính. Nếu em nhớ không lầm thì ông ta tên Poăng. - Ôguytxtơ Poăng - Đúng đấy ! Đích thân ông ta gọi đến à ? - Vâng ! - Thế sao em không bảo ông ta gọi thẳng đến cơ quan. - Ông ta muốn nói chuyện với chính anh thôi. Ông ta cần gặp anh ngay. Khi em bảo anh đi vắng rồi ông ta lại hỏi em có phải là người giúp việc không ? Ông ta có vẻ đang lo ngại việc gì đó. Em bảo em là vợ anh thì ông ta bèn xin lỗi, hỏi thăm anh ở đâu và khi nào thì anh về. Ông ta làm em có cảm giác ông ta là một người rụt rè. - Theo như người ta biết, tính ông ấy có phải vậy đâu ? - Ông ta yêu cầu em cũng phải nói thật là có phải em đang ở một mình khi nói chuyện với ông ấy hay không ? Rồi ông ta giải thích rằng cú điện thoại này cần phải được giữ kín, ông ta không phải gọi từ cơ quan Bộ mà từ một buồng điện thoại công cộng. Ông ta cũng nói rằng việc tiếp xúc ngay với anh rất hệ trọng đối với ông ta. Trong khi vợ đang nói, Megrê nhìn bà với vẻ ngờ vực. Trong đời làm việc của Megrê có nhiều lúc một dân biểu, một nghị sĩ hoặc một chính khách có tên tuổi nào đó nhờ đến ông, nhưng luôn luôn thông qua cơ quan. Mỗi lần như thế thủ trưởng của ông gọi đến và lại mở đầu câu chuyện như thế này: “Anh Megrê thân mến, tôi xin lỗi buộc phải giao cho anh một công việc mà anh chẳng ưa thích gì”. Thật thế, đó toàn là những việc ông không ưa thích. Ông không quen biết riêng với bộ trưởng Ôguytxtơ Poăng và cũng chưa bao giờ trông thấy ông ta bằng xương bằng thịt. Ông ta cũng không phải loại người thường được báo chí nhắc tên. - Sao ông ấy không gọi điện đến cơ quan nhỉ ? - Megrê thốt ra câu ấy như để nói riêng với ông vậy nhưng vợ ông cũng trả lời: - Em không biết. Em chỉ nhắc lại những gì ông ta nói thôi. Trước hết là ông ta gọi từ một buồng điện thoại công cộng... Đối với bà thì chuyện ấy gây ấn tượng mạnh lắm. Bà khó hình dung một nhân vật có cỡ như ông Bộ trưởng mà lại lẻn vào một buồng điện thoại công cộng ở một góc phố nào đó để gọi điện. - Có lẽ anh không nên đến cơ quan Bộ mà đến nhà riêng của ông ta thì hơn. Bà lúi húi đọc một mảnh giấy ghi mấy chữ. - Số 27, đại lộ Paxtơ, anh cũng khỏi cần phải gọi người gác cổng. Ông Bộ trưởng ở tầng năm phía bên trái. - Ông ta đợi anh ở trên đó à ? - Ông ta buộc phải đợi thôi. Nhưng để cho được việc, ông ta phải về lại Bộ trước nửa đêm. Rồi bà lại hỏi ông bằng một giọng khác: - Anh có nghĩ rằng đó là một trò đùa không ? Megrê lắc đầu. Việc này rõ là lạ đời. Nhưng dứt khoát không phải là chuyện đùa. - Anh uống càphê đi chứ ! - Cảm ơn em. Anh vừa uống bia xong. Sau khi uống một chút nước mơ. Megrê cầm lấy tẩu thuốc để trên bệ lò sưởi và đi ra cửa. - Anh phải đi ! Em ạ. Khi xuống đến đại lộ Risa Lơnoa, không khí ẩm ướt ban ngày bắt đầu đọng lại thành một đám sương mù mịt quanh ánh đèn, Megrê không gọi tắc xi. Ông đi bằng tàu điện ngầm để đến đại lộ Paxtơ. Có lẽ khi đi như vậy ông giữ được cảm giác rằng ông đang đi lo việc riêng của mình. Suốt quãng đường đi, ông cứ nhìn đăm đăm mà chẳng mảy may lưu ý đến một người có bộ râu mép đang đọc báo ngồi trước mặt. Ông tự hỏi không biết Ôguytxtơ Poăng mong muốn điều gì nơi ông, và nhất là tại sao ông ta lại hẹn ông thật khẩn cấp và bí ẩn như thế này. Poăng là luật sư quê ở Văngđê thị xã La Rốt. Nếu Megrê không lầm thì Poăng đến với chính trị cũng khá muộn. Ông thuộc nhóm những dân biểu được bầu sau chiến tranh nhờ giữ được tư cách đạo đức trong thời gian đất nước bị tạm chiếm. Toàn bộ những gì Megrê biết về ông Bộ trưởng là như thế. Ôguytxtơ Poăng đã làm gì, Megrê không hề hay biết. Trong khi nhiều vị dân biểu khác ra khỏi Quốc hội không lưu lại tiếng tăm gì thì Poăng lại được tái cử liền và cách đây ba tháng, khi Chính phủ mới được thành lập thì Poăng đã được giao phụ trách Bộ Công chính. Poăng không giống như nhiều chính khách khác. Megrê không nghe thấy lời đồn đại nào về ông ta. Vợ ông ta cũng chẳng làm gì để người ta đả động đến. Nếu ông ta có con cái thì chắc chúng cũng đều thế cả. Khi Megrê ra khỏi tàu điện ngầm ở ga Paxtơ sương mù màu vàng nhạt dày đặc thêm và Megrê cảmthấy như có bụi bặm trên môi. Ông không trông thấy ai trên đường mà chỉ nghe tiếng bước chân từ xa phía đường Mongtơ Pacnatsơ và cũng cùng hướng đó có con tàu nào đang kéo còi ra khỏi ga. Một vài cửa sổ còn sáng đèn. Trong sương đêm, cảnh ấy trông thật bình yên. Trong những ngôi nhà không sang, mà cũng không tồi, không cũ, mà cũng chẳng mới này, hầu hết là những người có đời sống trung lưu: giáo sư, công chức và nhân viên cứ mỗi sáng vào cùng một giờ dùng xe buýt hay tàu điện ngầm đi làm việc. Megrê đẩy chốt cửa. Khi cửa mở, ông lẩm bẩm tiếng gì đó không rõ và tiến về phía thang máy. Chiếc thang máy nhỏ, chỉ dùng được cho hai người, bắt đầu nhích lên chầm chậm rất êm trong khoảng sáng mờ mờ. Ở các tầng lầu, cửa đều cùng một màu nâu sẫm, mấy tấm thảm trước cửa giống nhau y hệt. Ông bấm chuông ở cửa phía bên trái, cửa mở ra ngay như có ai để sẵn tay trên chốt chờ đợi. Poăng bước ra mấy bước để đưa thang máy trở xuống trong khi Megrê lại quên nghĩ đến việc ấy. Poăng lẩm bẩm: - Xin lỗi là đã làm phiền ông khuya khoắt thế này. Mời ông đi lối này. Bà Megrê chắc sẽ thất vọng vì Poăng trông chẳng giống mấy với hình ảnh tưởng tượng của bà về một vị Bộ trưởng, về vóc dáng bề ngoài, ông ta cũng hao hao như Megrê, mà có phần to hơn, cứng cỏi hơn và có lẽ trông có vẻ nông dân hơn. Poăng có chiếc mũi lớn, nét mặt như tạc, trông mạnh và thô. Bộ trưởng Poăng mặc bộ comlê thường màu xám thắt cà vạt may sẵn. Người ông ta, có hai điểm làmMegrê chú ý ngay là cặp lông mày rậm, to và dày như sâu róm và lông tay cũng dài gần như thế phủ tận hai bàn tay. Về phần Poăng, ông ta cũng nhìn chăm chú, không che giấu gì và cũng không cười xã giao nữa. - Xin mời ông ngồi ! Căn hộ của Poăng nhỏ hơn căn hộ của ông, chắc chỉ có hai hoặc ba phòng và căn bếp nhỏ. Hai người đi qua phòng trước có treo áo quần, đến phòng làm việc, phòng này trông như phòng của một anh chàng độc thân. Trên chiếc giá gắn vào tường có một dãy tẩu thuốc chừng mười, mười hai cái. Nhiều cái bằng sứ và có đầy ngăn hộc giống hệt chiếc bàn của bố Megrê ngày xưa phủ đầy giấy tờ và tàn thuốc. Megrê không dám nhìn ngay vào hai bức hình khung vàng và đen treo trên tường. Đấy là hình của bố mẹ Poăng, những bức hình này đáng ra phải treo ở một chỗ khác, như trang trại ở quê Poăng. Ngồi trong chiếc ghế bành xoay giống hệt chiếc ghế của bố Megrê, Poăng làm ra vẻ không mấy chủ tâm chạm tay vào hộp xì gà: - Tôi đoán là... - Poăng bắt đầu nói. Megrê mỉm cười, nói nhẹ nhàng: - Tôi thích dùng tẩu của tôi hơn. - Ông dùng thuốc đen chứ ? Ông Bộ trưởng đưa cho viên thanh tra một hộp thuốc đen vừa mới bóc và ông cũng châm lại tẩu thuốc đã tắt. - Hẳn ông cũng ngạc nhiên lắm khi nghe bà nhà nói lại... Poăng tìm cách mở đầu câu chuyện và cảm thấy không mấy hài lòng với lời nói của mình. Chuyện đang xảy ra giữa hai người kể cũng lạ kỳ. Trong căn phòng làm việc, cả hai cùng một khổ người, cũng gần cùng một tuổi, chăm chú nhìn nhau mà không hề muốn giấu giếm ý định. Hẳn người ta sẽ bảo hai người đang tìm kiếm những nét giống nhau, cùng cảm thấy bối rối và đang ngập ngừng nhận nhau là anh em. - Ông Megrê này. Giữa hai ta với nhau, nhiều lời cũng chẳng ích gì. Tôi chỉ biết ông qua báo chí và qua những gì thiên hạ nói. - Tôi cũng thế. Thưa ngài Bộ trưởng. Poăng khoát tay như có vẻ muốn nói rằng ở đây, giữa hai người với nhau, nêu chức danh như vậy là không nên. - Tôi đang gặp một điều nguy hiểm, cho đến bây giờ, chẳng ai biết chuyện ấy, chẳng ai nghe như vậy cả. Kể cả ngài Thủ tướng và ngay cả vợ tôi, người thường biết rõ công việc tôi làm mà cũng không hề hay biết và tôi lại phải nhờ đến ông. Ông ngước mắt nhìn ra chỗ khác một lát hít một hơi thuốc và dường như có phần ngại vì câu nói sau cùng của mình. Biết đâu Megrê coi đó là một lời xu nịnh tầm thường hay nghĩ ông âm mưu gì đây. - Tôi không muốn theo con đường hành chính nhờ đến ông giám đốc cảnh sát hình sự. Việc tôi nhờ ông đây không giống như mấy vụ việc khác. Không ai buộc ông phải đến đây và cũng không ai buộc ông phải giúp tôi cả. Ông thở dài đứng dậy. - Ông uống một ly chứ ? Rồi dường như mỉm cười, ông nói tiếp: - Xin ông đừng ngại. Không phải tôi cố mua chuộc ông đâu. Chỉ có điều là tối nay thực tình tôi muốn uống một li. Poăng qua phòng bên rồi trở lại cầm một chai rượu mới mở và hai cái ly, loại ly xoàng người ta thường dùng trong những quán rượu ở nông thôn. - Rượu quê tôi đấy ông ạ. Mùa thu nào ông bố tôi cũng cất rượu cả. Loại này cũng đã được hai mươi năm rồi. Cầm ly trong tay, hai người lại nhìn nhau. - Chúc sức khoẻ ông. - Chúc sức khoẻ ngài Bộ trưởng. Lần này, Poăng dường như không nghe thấy những chữ cuối. - Ông Megrê này, nếu như tôi không biết bắt đầu kể chuyện này từ đâu, điều đó không phải vì tôi thấy bối rối trước mặt ông, mà chỉ vì chuyện này cũng khó mà kể cho rõ ràng. Ông cũng thường đọc báo chứ ? - Vâng. Vào những tối tôi được nghỉ ngơi. - Ông có theo dõi tình hình chính trị không ? - Ít lắm. - Chắc ông cũng biết tôi không phải thuộc loại mà người ta gọi là chính khách chứ ? Megrê gật đầu xác nhận. - Và dĩ nhiên ông cũng biết về thảm hoạ Klephông rồi...? Lần này, Megrê không thể không rùng mình và trên mặt ông lộ vẻ bực mình, nghi ngại, vì trông thấy ông Bộ trưởng cúi đầu nói, giọng nhỏ hẳn lại: - Thật là bất hạnh ông ạ, nhưng đấy chính là việc tôi muốn nhờ ông. Vừa mới đây thôi, khi ở trên tàu điện ngầm, Megrê đã cố đoán thử xem ngài Bộ trưởng muốn bí mật bàn với ông việc gì. Ông không nghĩ đến vụ này, vụ Klephông mà tin tức đăng đầy các mặt báo cả tháng nay. Nhà an dưỡng Klephông được xây dựng ở vùng Thượng Savoa (Một tỉnh cùa Pháp - sát biên giới nước Ý (ND), giữa Uydrinơ và Mêgievơ, độ cao trên bốn nghìn mét. Đây là một trong những công trình đẹp nhất xây dựng sau chiến tranh. Cũng đã mấy năm qua rồi nên Megrê không còn nhớ rõ ai đã tung ra ý kiến xây dựng cho những trẻ em bất hạnh một công trình không thua kém gì các nhà an dưỡng hiện đại của tư nhân. Thời đó, người ta nói đến việc này khá nhiều. Một số người cho rằng việc này chỉ là một mưu đồ chính trị và Quốc hội đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. Một ủy ban đã được thành lập để nghiên cứu bản đề án lâu nay bị khước từ để cuối cùng được đem ra thực hiện. Trước đây một tháng, thảm hoạ khủng khiếp nhất trong lịch sử đã xảy ra. Tuyết tan vào lúc không ai ngờ đến. Nước ở các dòng suối dâng lên rất nhanh. Một con sông nhỏ chảy ngầm dưới đất cũng dâng nước. Con sông này nhỏ đến độ chẳng ai ghi lên bản đồ nhưng đã phá tung nền của một dãy nhà an dưỡng Klephông. Ngay ngày hôm sau người ta bắt đầu điều tra nhưng chưa kết luận được gì. Các nhà giám định chuyên môn bất đồng ý kiến. Báo chí cũng vậy, tùy theo khuynh hướng chính trị của báo mà họ bảo vệ