🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngữ pháp tiếng Việt: những vấn đề lí luận
Ebooks
Nhóm Zalo
lililí
C K . 0 0 0 0 0 4 5 2 6 5m O A HOC XA HÓI VIÉT NAM VIÉN NGÓN NGLTHOC
NGÜPHÁP TIÉNG VIÉT ríHÜTiQ V Á n D É LÍ L U Á n
IOHi V I NHÁ XUAT BÁN KHOA HOC XA H 0 I
NGỮ PH Á P T IẾ N G V IỆ T: NHŨNG VẤN Đ Ể L Í LUẬN
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGÔN NGỮ HỌC
NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT NHỮNG VÁN ĐỂ LÍ LUẬN
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
• Lời nói đầu 7 1 Diệp Quang Ban Lí thuyết khung cho một ngữ
pháp Việt Nam 9
2 Nguyễn Hồng cổn - Dạng bị động và vấn đề câu bị Bùi Thị Diên động trong tiếng Việt 55 3 Hoàng Cao Cươìig Nhập môn vào ngữ điệu tiếng Việt 97
4 Nguyễn Đức Dân Ngữ pháp logic trong tiếng Việt 147
5 Hoàng Dũng Danh từ và các tiểu loại danh Nguyễn Thị Ly Kha từ trong tiếng Việt 213 6 Đinh Văn Đức Đối lập Danh-Động tiếng Việt: Một vài nhận xét từ
phương diện chức năng 297
7 Cao Xuân Hạo Ngữ pháp chức năng và tính võ đoán trong các định danh
của tiếng Việt 328
8 Nguyễn Văn Hiệp Những cơ sở ngữ nghĩa cho việc miêu tả cấu trúc câu tiếng
Việt 400
9 Nguyễn Chí Hoà Vị ngữ trong tiếng Việt 436 10 Trần Đại Nghĩa Về hai cách phân tích cú pháp đối với các tổ hợp kiểu tất cả
những cái con người bạc ác ấy 487
11 Nguyễn Thị Quy Vị từ 497 5
12 Lý Toàn Thắng Thử áp dụng Ngữ pháp học tri nhận vào nghiên cứu một vài
hiện tượng ngữ pháp tiếng
Việt 536
13 Nguyễn Minh Thuyết Chủ ngũ tiếng Việt 574 14 Phạm Văn Tình Rút gọn và tỉnh lược: Phép tỉnh lược trên vãn bản 611
6
L Ờ I N Ó I Đ Ầ U
Ngay từ những năm 80 của th ế kì trước, dưới sự chì đạo cùa u ỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Viện Ngôn ngữ học đã tiến hành hàng loạt các hoạt động khoa học chuyên theo hướng chuẩn mực hoá tiếng Việt hiện đại.
Về phương diện ngữ pliáp, thời kì nảy được đánh dấu bằng cuốn N gữ pháp tiếng Việt, khi đó là một công trình trọng điểm của nhà nước, do một tập thể các chuyên gia ngữ pliáp hàng đẩu biên soạn, dưới sự chi đạo cùa một Hội đồng Quốc gia gồm những nhà văn hoá, khoa học rất có uy tín, đã được u ỳ ban Khoa học xã hội Việt Nam cho ấn hành lần đầu tiên năm 1983. Đây là công trinh ngữ pháp ở cấp quốc gia đầu tiên của nước ta, tổng kết lại những nhận thức và tri thức cùa giới ngữ pháp liọc nước nhà vẽ chuẩn mực hoá, về lí luận ngữ pháp và về các đặc điểm cùa ngữ pháp tiếng Việt vào thời điềm đó.
Cho đến nay, sau 23 năm, cuốn sách vẫn được dư luận chung - đặc biệt là giới ngôn ngữ học - đánh giá là cuốn ngữ pháp tiếng Việt phổ thông tốt nhất, xét từ nhiều phương diện.
Về mặt khoa liọc, các rác giả đã rất coi trọng việc xuất phát từ bản ngữ đ ể mô tả, phân tích một cách hệ thống các hiện tượng ngữ pháp tiếng Việt; đồng tliời có tiếp thu lí luận ngôn ngữ học th ế giới đương thời (nhất là những thành tựu của ngành Đông phương học Xô viết). Vê' mặt thực tiễn, các tác giả cuốn sách đã lựa chọn những giải pháp liợp lí, coi trọng sự đổng thuận về những vấn đê' đang còn tranh luận, với một cách trình bày rành mạch và khá đầy đủ về những đặc điểm cơ bản nhất cùa ngữ pháp tiếng Việt.
7
Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội, với sự phát triển mạnh m ẽ của tiếng Việt và đặt trong bối cảnh lí luận ngôn ngữ học hiện nay có nhiều thay đổi, đã đến lúc phải khẩn trương chuẩn bị một cuốn N gữ pháp tiếng Việt mới, đ ể đáp ứng sự mong mòi cùa đông đảo bạn đọc, nhất là của các giáo viên trong nhà trưởng, đang rất cần một cuốn ngữ pháp tiếng Việt như vậy.
Đ ể tiến tới biên soạn cuốn ngữ pháp tiếng Việt mới này trong vòng vài năm tói thì việc nhìn lại những kết quả đã làm được và suy ngẫm vê' nliững gì sắp làm - đặc biệt là những cơ sà lí luận - là một công việc hết sức cần thiết.
Với nhận thức trên, Viện Ngôn ngữ học đã tổ cliức một đề tài khoa học nhằm nghiên cứu, đê xuất những vấn để lí luận vê ngữ pháp tiếng Việt. Thực hiện nhiệm vụ này, Viện đã tô’ chức hai cuộc Hội thảo về ngữ pháp tiếng Việt, một ở Hà Nội (29 - 3010612002), một ở Tp. Hổ Chí Minh (26 — 27/08/2002). Sau dó trên cơ sở kết quả thu được từ hai cuộc Hội thảo này, Viện dã men các nhà nghiên cứu ngữ pháp viết chuyên dề về lĩnh vực chuyên sâu của mình và nhiêu vị đã hưởng ứng lời mời, viết bài clio tập sách (rất tiếc là một s ố vị vì những lí do riêng đã không tham gia được).
Sau một thời gian thu thập và biên tập đ ể đưa xuất bản, cuốn sách mả quỷ bạn dọc đang cám trên tay chính là “tập đại tlĩành " các bài viết nói trẽn, ghi nhận những tliành quà nghiên cứu của đông đào giới nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt trong những năm qua.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Hà Nội, tháng 12 năm 2006
TM. Ban Chủ Iilìiệm Đẽ tài
GS TSKH LÝ TOÀN THẮNG
8
LÍ THUYẾT KHUNG
CHO MỘT NGỮ PHÁP VIỆT NAM1
DIỆP QUANG BAN
1. Câu và đơn vị bên trong câu
1.1. Về tên gọi "câu" và "cú"
Trong ngữ pháp truyển thống, thuật ngữ "câu" được dùng để chỉ cái đơn vị ngữ pháp lớn nhất là đối tượng nghiên cứu của ngữ pháp. Câu vốn được hiểu là đơn vị được làm thành từ một mệnh đề, câu ghép thì được làm thành từ hơn một mệnh đề. Nhưng "mệnh đề" lại là thuật ngữ của lôgic, vì vậy có sự cô' gắng tách "mệnh đề của ngôn ngữ" ra khỏi "mệnh đề của lôgic". Những cố gắng này đi theo hai hướng:
- Vẫn tiếp tục dùng "mệnh đề" với sự ngẫm định rằng đó là mệnh đề dùng trong ngôn ngữ (giải pháp này vẫn được duy trì trong ngôn ngữ học Pháp cho đến ngày nay). Theo đó, thuật ngữ "câu" vẫn được dùng với cơ sở vẫn là mệnh đề hiểu theo ngôn ngữ học.
- Đưa vào ngôn ngữ học một tên gọi mới là "cú" vốn có trong tiếng Anh như là một tên gọi của mệnh đề ngôn ngữ, để phân biệt với tên gọi "mệnh đề" của lôgic. Có thể nhận ra điểu này một cách dẻ dàng trong sự phân biệt câu đơn vói câu ghép (câu đơn là câu chứa một cú, câu ghép là câu chứa hơn một cú).
1 Trên cơ sờ lí thuyết khung này, một Ngừ pháp tiêng Việt (bộ mới) đã được hoàn thành và đã được Nxb Giáo dục công bố tháng 8-2005.
9
Trong ngữ pháp Viyi Nam, ý tưởng dùng "cú" thay cho "mệnh đề ngôn ngữ" bắt đầu từ hai nhà ngữ pháp Trương Vãn Chình và Nguyễn Hiến Lê'.
Tuy nhiên trong ngữ pháp tiếng Anh gần đây, thuật ngữ "cú" được một số nhà nghiên cứu dùng phân biệt với "câu" theo hướng cho rằng "câu" vốn gắn với chữ viết như là một đơn vị chính tả có dấu chấm câu ở hai đầu, còn "cú" không bị ràng buộc vào chữ viết.
Vậy, nhìn chung, "cú" tương đương vói cái được gọi là "câu đơn" của ngữ pháp truyền thống, và không ít nển ngữ pháp vẫn tồn tại mà không dùng thuật ngữ "cú". Việc dùng tiếng "cú” thay vì tiếng "câu" trong ngữ pháp học ngày nay nhằm vào hai việc sau đây:
(i) dùng "cú" thay cho tên gọi "mệnh đề" thuộc ngôn ngữ, để phân biệt vói thuật ngữ "mệnh đề" của lôgic;
(ii) dùng "cú" thay cho tên gọi "câu", vì "câu" được coi như gắn với ngôn ngữ viết.
Hiện nay, theo cách hiểu chung nhất, câu (sentence) là đơn vị lớn nhất vê' mặt cấu trúc trong tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ'. Còn cú (clause) được làm thành từ một khúc đoạn ngôn ngữ tập trung chung quanh một vị tố, và được dùng đ ể diễn tả một sự thể ị sự việc)'''. Định nghĩa về cú như vậy là một cách
hiểu sâu hơn so với định nghĩa về câu: nêu thêm mặt tổ chức ngữ pháp cụ thể và mật nghĩa thường có (nghĩa sự thể) của đơn vị đó. Định nghĩa câu như vậy cũng chỉ mới tính đến được phần nghĩa biểu hiện (chỉ sự thể), chưa bao quát được các chức năng khác mà câu đảm nhiệm trong từng trường hợp sử dụng cụ thể.
Trong việc sử dụng ngôn ngữ, câu được dùng với ba chức năng sau đây: chức năng biểu hiện (diễn đạt kinh nghiệm), chức
10
năng lời trao đổi (tác động đến người nghe), chức năng (tạo) văn bản (đưa câu vào văn bản hoặc vào tình huống). Ngoài ra, câu còn có thêm chức năng lôgic, tức là diễn đạt các quan hệ trong tư duy, nhưng chức năng này thể hiện trong cấu trúc giữa các bộ phận chỉ sự việc trong câu và trong mối quan hệ giữa các câu với nhau, nên không được tách riêng ra.
Mặt khác, dù cho có thể dùng tên gọi cú thay cho tên gọi câu đơn, thì vẫn không thể tránh được tên gọi câu. Vì nếu không có cái gọi là "câu" thì khó lòng xác định được ranh giới của một hợp thể gồm nhiều câu. Việc xác định ranh giới các bộ phận có nghĩa do một số cú tạo thành trong một văn bản lớn gồm hàng trãm, hàng ngàn câu sẽ cực kì phức tạp nếu không có cái gọi là câu. Cho nên thuật ngữ "câu" cũng được sử dụng khi bàn về những hợp thể gồm hơn một câu và khi xem xét câu trong chức năng văn bản.
Như vậy, với cách quy ước cho rằng "cú" sẽ được gọi là "câu" ("câu đơn"), " hợp thể cú" gọi là "câu ghép”, thì vẫn có thể dùng thuật ngữ "câu" để miêu tả ngữ pháp, như trong ngữ pháp của nhiều ngôn ngữ. Và câu hay cú đều có thể được định nghĩa gồm ba yếu tố trên như sau: câu (hay cú) là đom vị lớn nhất về mặt cấu trúc trong tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ, được làm thành từ một khúc đoạn ngôn ngữ tập trung chung quanh một vị tố, và được dùng để diễn đạt một sự thể (hay một sự việc). Định nghĩa này không tính đến đặc thù của ngôn ngữ cụ thể, không gắn vói dạng nói hay dạng viết của ngôn ngữ, và cũng chưa tính đến các chức năng khác, ngoài chức năng nghĩa biểu hiện.
1.2. Đơn vị và bậc bèn trong câu
Câu là đơn vị nằm ở bậc cao nhất của tổ chức ngữ pháp và 11
được làm thành từ các đơn vị nhỏ hơn chính nó. Đom vị ngữ pháp được hiểu là một khúc đoạn ngôn ngữ tạo nên được một chỉnh thể nghĩa và có một khuôn hình lặp lại đều đặn trong lời miệng cũng như lời viết. Câu cùng các đơn vị bên trong câu làm thành các bậc khác nhau như sau:
- Câu
- Cụm từ (hiểu là cụm từ chính phụ)
-Từ
- Từ tố (hay hình vị)
Xem ví dụ và cách phân tích nó trong Hình 1. Ở bậc câu, ví dụ nêu trong hình là 1 câu. Ở bậc cụm từ, trong câu này có 1 cụm từ (cụm động từ). Ở bậc từ, câu này gồm có 4 từ. Ở bậc từ tố, câu này có 5 từ tố, trong số đó 3 từ tố đầu hoạt động ở bậc từ như 3 từ, 2 từ tô' cuối làm thành 1 từ (hay 1 tổ hợp định danh).
Câu Giáp tặng Tị quyển sách.
Cụm từ Giáp tặng Tị quyen sách
Từ Giáp tặng Tị quyen sách
Từ tố Giáp tặng Tị quy en sách
Hình 1 Bậc và đơn vị bên trong bậc của một câu
2. Các chức năng của câu
2Ễ1. Các phương diện sử dụng câu
Trong việc sử dụng ngôn ngữ, câu được dùng với những chức năng sau đây:
- Câu dùng vào việc biểu hiện những kinh nghiệm mà con người trải qua về các sự thể được nói đến hoặc nghĩ đến, tức là tạo nghĩa kinh nghiệm, nghĩa biểu hiện cho câu; chức năng này của câu là chức năng diễn đạt nghĩa biểu hiện. Xem xét câu
12
trong chức năng này là xem xét câu với tư cách sự biểu hiện. - Câu dùng diễn đạt mối quan hệ giữa những người tham gia giao tiếp, trong đó người nói thể hiện thái độ của mình đối với người nghe, tác động đến người nghe, và thể hiện cách nhìn đối với sự thể được nói đến; chức năng này của câu là chức năng tương tác hay là chức năng liên nhân. Xem xét câu trong chức năng này là xem xét câu với tư cách lời trao đổi.
- Câu cũng được dùng với tư cách phương tiện tổ chức mặt nghĩa của văn bản, tức là gắn nghĩa của câu đang xét với nghĩa của những câu đứng trước hoặc đứng sau, cũng như gắn câu đang xét với ngữ cảnh, vói tình huống bên ngoài lời nói; đó là chức năng (tạo) vãn bản của câu. Câu với chức năng văn bản là phương tiện làm cho chức năng biểu hiện và chức nãng liên nhân được thực hiện. Xem xét câu trong chức năng này là xem xét câu vói tư cách thông điệp'v.
Ngoài ra, câu cũng được dùng để phản ánh các mối quan hệ lôgic trong việc diễn đạt nghĩa, nên câu cũng có thêm chức năng lôgic. Tuy nhiên chức năng này được tích hợp trong các cách tổ chức kiểu nghĩa biểu hiện của câu (chức năng biểu hiện) và trong cách tổ chức nghĩa của văn bản (liên kết trong văn bản), vì vậy không cần phải tách riêng ra và cũng không thể tách ra thành một đối tượng nghiên cứu riêng.
Các chức năng kể trên là thuộc về việc sử dụng câu, chứ không phải là các chức năng bên trong hệ thống ngôn ngữ, nên chúng có tên gọi là các siêu chức năng. Ba siêu chức năng này được diễn đạt bằng những cấu hình (configurations) khác nhau trong câu, hình thành nên ba tuyến nghĩa trong câu (three lines of meaning in the clause) có phân biệt với nhau, bên trong cái ý nghĩa tổng thể của câu.
13
2.2. Chức năng biểu hiện: diễn đạt kinh nghiệm
Trong giao tiếp bàng ngôn ngữ, người ta thường đề cập đến một hoặc những sự thể nào đó trong kinh nghiệm của mình. Việc này thực hiện được là nhờ ngôn ngữ có phương tiện tương thích với nó, đó chính là câu trong chức năng biểu hiện. Các sự việc trong kinh nghiệm không có khuôn hình định sẵn, chúng được diễn đạt thông qua cách nhìn được xây dựng nên bởi con người, và được mã hoá trong ngữ pháp của một ngôn ngữ cụ thể. Vì vậy cùng một sự việc có thể được nhìn nhận và diễn đạt theo những cách khác nhau: khác nhau giữa những người nói khác nhau, đối với các ngôn ngữ khác nhau; và cũng khác nhau ngay cả đối với cùng một người trong những lần nhìn nhận khác nhau, khác nhau trong cùng một ngôn ngữ bởi những phương tiện diễn đạt khác nhau mà ngôn ngữ đó cho phép. Nói cách khác, sự phản ánh nghĩa biểu hiện không giống việc phản ánh sự việc qua gương soi. Nghĩa biểu hiện của các yếu tô' trong câu được tổ chức thành cấu trúc nghĩa biểu hiện. Cấu trúc nghĩa biểu hiện có quan hệ gần gũi với cấu trúc cú pháp của câu, nhưng đây vẫn là hai cấu trúc khác.
Việc nghiên cứu câu trong chức năng biểu hiện có hai bộ phận:
a. Xét xem sự thể đuợc nói đến trong câu là thuộc về lĩnh vực nào: thuộc vật chất, hay thuộc tinh thần, hay thuộc các mối quan hệ trừu tượng, và giữa chúng là những miền trung gian khác nhau. Các sự thể này đều có thể là động hoặc tĩnh. Chẳng hạn ba câu sau đây diễn đạt những sự thể thuộc về ba lĩnh vực khác nhau:
- Con mèo vó con chuột. (Thuộc về vật chất, động)
14
- G iá p buồn về việc lúc nãy. (Thuộc vể tinh thần, tĩnh) - Giáp là người tốt. (Thuộc về quan hệ, tĩnh)
Để giảm bớt độ phức tạp, các sự thể trong sách này chủ yếu được xem xét ở phương diện tính động và tính tĩnh. b. Xét xem trong sự thể đó có những yếu tô' nghĩa nào tham gia, và mỗi yếu tố tham gia với vai nghĩa gì (hay chức năng nghĩa gì, với tư cách gì về mặt nghĩa). Chẳng hạn hai câu sau đây được dùng để nói vẻ cùng một sự thể do kinh nghiệm đưa lại, đó là việc "Giáp tặng Tị quyển sách" và việc này diễn ra ngày "hôm qua". Hai câu này cùng diễn đạt một sự thể, nhưng cấu trúc nghĩa biểu hiện của chúng lại khác nhau. (A) Hôm qua Giáp tặng Tị quyển sách rồi.
(B) Hôm qua Tị được Giáp tặng quyển sách rồi.
2.3. Chức năng lời trao đổi: diễn đạt quan hệ liên nhân Trong hội thoại, con người dùng câu để trao lời và đáp lời cho nhau. Trong những lời trao đổi như vậy, người nói bao giờ cũng có thái độ đối với người nghe, cụ thể là có ý định thực hiện một hành động nào đó khi nói nhằm tác động đến người nghe, chẳng hạn như nói để thông báo vể một việc gì, nói để hỏi, nói để nhờ người nghe làm một việc gì, nói để bộc lộ một tâm trạng với người nghe, nói để thiết lập quan hệ giao tiếp như "bắt chuyện",... và trong khi nói cũng tỏ thái độ tôn trọng hoặc thân hữu đối với người nghe. Những hành động được thực hiện trong việc nói như vậy, được gọi là hành động nói.
Ngoài ra, trong lời nói, người nói còn bày tỏ sự đánh giá của mình đối với sự thể được nói đến trong lời. Thái độ của người nói đối với người nghe và cách đánh giá của người nói đối với sự thể được nói đến trong lời như vậy được gọi là quan hệ liên nhân (interpersonal).
15
2.4. Chức năng văn bản: diễn đạt cách tổ chức thông điệp Trong một tình huống cụ thể, câu phải được tổ chúc phù hợp hoặc với những cái đi trước và những cái đi sau trong văn bản (các yếu tố đồng văn bản - co-text), hoặc phù hợp với tình huống bên ngoài lời (ngữ cảnh tình huống - context of situation). Trong trường hợp này, câu được coi như một thông điệp. Thông điệp được hiểu là tin được mã hoá thành lời nói hoặc lời viết và được truyền đi từ người phát đến người nhận (không tính đến thái độ của người nói như khi xét câu làm lòi trao đổi, làm thông báo). Cách tổ chức câu như một thông điệp giúp cho chức năng biểu hiện và chức năng lời trao đổi của câu được thực hiện trong từng tình huống cụ thể. Cách tổ chức câu như một thông điộp, một mặt, không phá vỡ các quy tắc cú pháp của một ngôn ngữ cụ thể, mặt khác nó không bị ràng buộc quá chặt vào những khuôn hình cú pháp cứng nhắc của một ngôn ngữ. Do đó, cách tổ chức câu như một thông điệp có tính chất rất khái quát và rất linh hoạt.
Việc tổ chức câu theo cách khái quát của thông điệp đòi hỏi trước hết phải chọn từ ngữ làm xuất phát điểm của câu. Yếu tố được chọn làm xuất phát điểm cho câu được gọi là phần khởi đề (Theme), phần còn lại là phần trần thuyết (Rheme), tức là phần diễn giải có liên quan đến phần đề. Hai phần này được gọi gọn là phần đề và phần thuyết. Quan hệ giữa hai phần này là cấu trúc đề-thuyết. Cấu trúc đề-thuyết là cấu trúc của cách tổ chức câu trong tình huống dùng cụ thể, cho nên yếu tô' làm đề và yếu tô' làm thuyết có thể không đồng loại xét về mặt nội dung, chúng chỉ cần thoả mãn yêu cầu về mối quan hệ giữa cái có thể làm xuất phát điểm của câu với cái được coi là phần thuyết giải
16
về cái làm xuất phát điểm đó.
Ngoài ra cũng phải tính đến phần nội dung nào trong câu là phần "cho sẵn", phần nào là "mới", hai phần này làm thành cấu trúc tin của cảu. Và muốn đánh dấu phần tin quan trọng trong câu thì phải tính đến tiêu điểm (điểm nhấn).
3. Cấu trúc thực hiện chức năng
Ngữ pháp truyền thống trước đây chủ yếu quan tâm đếnpấu trúc cú pháp của câu với các tên gọi các yếu tô' cú pháp như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ,...và phần nào chú ý đến nghĩa như các tên gọi thời gian, địa điểm, cách thức,... kèm theo các yếu tô cú pháp. Ngữ pháp chức nãng cho rằng câu được dùng vói ba chức năng khác nhau, và mỗi chức năng có một cách tổ chức đặc thù trong câu. Mỗi cách tổ chức đặc thù đó làm thành kiểu cấu trúc dành riêng cho việc thực hiện một chức năng nhất định, không trùng lặp với cấu trúc của chức năng khác. Theo đó, chức năng biểu hiện có cấu trúc nghĩa biểu hiện (hay cấu trúc chuyển tác), chức năng liên nhân có cấu trúc thức, chức nãng văn bản có cấu trúc đề.
3.1. Chức năng biểu hiện: cấu trúc nghĩa biểu hiện 3.1Ế1. Cấu trúc nghĩa biểu hiện
Câu trong chức năng biểu hiện là câu diễn đạt nghĩa biểu hiện, còn gọi là nghĩa kinh nghiệm, được hiểu là trình bày những sự việc (sự thể), trong các lĩnh vực mà con người nhận biết được qua kinh nghiệm của mình. Các sự thể có thể có tính chất động hoặc tĩnh (không động), và có thể thuộc về các lĩnh vực khác nhau: lĩnh vực vật chất, lĩnh vực tinh thần, lĩnh vực các quan hệ trừu tượng. Nghĩa kinh nghiệm được thực hiện thông qua cấu trúc nghĩa biểu hiện. Cấu trúc nghĩa biểu hiện
DẠI HỌC THÁI NGUYỀN TRUNG TÂM HỌC LIẸU
17
có cơ sở là các cấu trúc chuyên tác (transitivity structures), và cấu trúc chuyển tác được hiểu là mối quan hệ giữa động từ với những yếu tố định danh bất kì lệ thuộc vào động từ đó và cùng xuất hiện với động từ đó (chuyển tác, ngoại động là hai cách dịch của một từ Anh transitivity, nếu động từ không đòi hỏi yếu tố định danh lệ thuộc thì gọi là động từ không chuyển tác, hay nội động). Tác động của hành động nêu ở động từ chuyển tiếp đến các đối tượng được định danh đó có thể làm biến đổi đối tượng (như đào đất), hoặc hình thành đối tượng (như đ à o mương), hoặc phá huỷ đối tượng (như phá mương), hoặc đạt đến đối tượng (như đào khoai), hoặc di chuyển đối tượng (như đẩy xe). Hệ thống chuyển tác gồm có "chuyển tác" và "không chuyển tác" (nội động). Cấu trúc chuyển tác là cơ sở hình thành cấu trúc nghĩa biểu hiện. Cấu trúc nghĩa biểu hiện gồm có phần nêu đặc trưng hay quan h ệ\ gọi gọn là sự thể, và các vai nghla, chúng hợp lại tạo nên sự thể của câu (sự việc được phản ánh), v ề cú pháp, sự thể do vị tố diên đạt, các vai nghĩa do các bổ ngữ (hiểu rộng) đảm nhiệm. Cấu trúc nghĩa biểu hiện của các ví dụ (A, B, C) được phân tích như trong các Hình 2 - 4 .
Giáp tặng TỊ quyển sách ấy. Động thể (Sự thể:) Động Tiếp thể Đích thể
Hình 2 Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu (A)
Quyển sách ấy Giáp tặng Tị.
Đề tài
(Đích thể)*
Động thể (Sự thể:) Động
Tiếp thể
Hình 3 Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu (B) 18
* Vai nghĩa chung của đề ngữ là đề tài (matter), thể hiện ở chỗ nó dễ dàng nhận các tiếng vê hoặc đối với vào trước nó, tuy nhiên trong những trường hợp cụ thể có thể xếp nó tương đương với một vai nghĩa nào đó. Trong trường hợp này, nó tương đương với đích thể.
Tị được Giáp tặng quyển sách ấy.
Tiếp thể
Trợ động từ bị động
Động thể
(Sự thể:) Động
Đích thể
Hình 4 Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu bị động (C) 3.1.2. Các kiểu sự thể
Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu gồm có phẩn chỉ sự thể (nêu đặc trưng hay quan hệ) và các vai nghĩa nằm trong phạm vi bao quát của sự thể ấy. Phần sự thể thường do vị tố thực hiện và diễn đạt đặc trưng hoặc quan hệ. Con người sống trong thế giới vật lí, thế giới của ý thức và thế giới của các mối quan hệ trừu tượng. Các thế giới này không gián đoạn mà làm thành một thể liên tục, các điểm phân biệt được rạch ròi chỉ là những điểm nằm ở trung tâm. Ngôn ngữ phản ánh các thế giới này vào trong câu bằng các sự thể động hay tĩnh, thuộc vật chất, hay thuộc tinh thần, hay thuộc các quan hệ. Các sự thể này cũng không tách biệt rạch ròi được, mà nối tiếp nhau bằng những dạng chuyển tiếp phức tạp. Với cách hiểu như vậy, có thể nêu các sụ thể thành các kiểu từ khái quát nhất đến cụ thể hơn, và cả các sự thể chuyển tiếp giữa chúng.
Các kiểu sự thể khái quát nhất gồm có:
- Các sự thể vật chất (material), phản ánh thế giới vật lí. - Các sự thể tinh thần (mental), phản ánh thế giới ý thức. - Các sụ thể quan hệ (relational), phản ánh các mối quan hệ trừu tượng.
19
Giữa các sự thể vừa nêu là những kiểu sự thể chuyển tiếp: - Các £ự thể hành vi (behavioural), chuyển tiếp giữa các sự thể vật chất và các sự thể tinh thần.
- Các sự thể ngôn từ (verbal - tức sử dụng ngôn từ, bao gồm nói năng và cảm nghĩ), chuyển tiếp giữa các sự thể tinh thần và các sự thể quan hệ.
- Các sự thể tồn tại (existential - gồm sự tồn tại, sự xuất hiện, sự tiêu biến), chuyển tiếp giữa các sự thể vật chất và các sự thể quan hệ.
Sau đây là những ví dụ tiêu biểu về các kiểu sự thể vừa nêu, tiêu biểu trong ý nghĩa là chúng thuộc về miền trung tâm của từng kiểu sự thể khái quát cũng như sự thể trung gian. (A) Thợ đang xây nhà. (Sự thể vật chất: Tạo vật)
(B) Hôm nay nó rất vui. (Sự thể tinh thần: cảm nhận) (C) Nó đối xử tốt với mọi người. (Sự thể hành vi: ứng xử) (D) Nó nói về việc xảy ra hôm qua. (Sự thể ngôn từ: Nói) (E) Trong tủ có chuột. (Sự thể tồn tại: Sự tồn tại)
(F) Anh này là thợ mộc giỏi ở đáy. (Sự thể quan hệ: Đồng nhất)
Sự thể chuyển tiếp là những sự thể nằm trên đường ranh giới của các sự thể lân cận.
Sự thể hành vi liên quan đến các đặc điểm của sự thể vật chất và sự thể tinh thần, như các sự thể sinh lí: thở, ho; sự thể tâm sinh lí: cười; sự thể tâm lí: mơ uớc, lườm .
Sự thể ngôn từ liên quan đến các đặc điểm của sự thể tinh thần và sự thể quan hệ, như các sự thể nói, thông báo, nhận định, xác nhận,...
Sự thể tồn tại liên quan đến các đặc điểm của sự thể quan hệ và sự thể vật chất, như có mặt (với từ có và những từ tương
20
đương trong ngữ cảnh cụ thể), lưu lại (còn...); xuất hiện (xuất hiện, /ớ,...); tiêu biến (mất, hết,...).
Sự phân biệt các kiểu sự thể như trên có nhiều tính khoa học, nhưng trên thực tế cũng rất phức tạp. Để cho giản đon hơn, việc phân tích nghĩa biểu hiện sẽ tập trung vào tính động và tĩnh chung cho các sự thể vật chất và tinh thần, còn một sô' trong sự thể quan hệ được quan tâm riêng do đặc thù về cách diễn đạt bằng tiếng Việt của chúng.
3.1.3. Tham thê
Tham thể là những thực thể tham gia vào sự thể (sự việc) như là bộ phận cần thiết của sự thể, bộ phận nằm trong sự thể. Tham thể có quan hệ với sự thể theo kiểu do sự thể ấn định, tức là một sự thể cụ thể chỉ có thể diễn ra nhờ sự có mặt của một hoặc một sô' tham thể nào đó, một sự thể khác có thể diễn ra không cần đến sự có mặt của tham thể nào cả. Chẳng hạn sự đánh nhau nhất thiết phải có hai bên tham gia.
Một số tham thể thường gặp là:
(a) Động thể (hay thể động - (0 Tiếp thể (thực thể nhận vật Actor) trao - Recipient) (b) Đương thể (hay thể mang (g) Đắc lợi thể (thực thể được trạng thái - Carrier) lợi - Beneficiary), hoặc là Bị (c) Cảm thể (thể cảm nghĩ - hại thể(thực thể chịu sự thiệt hại Sensor) - Maleficiary)
(d) Phát ngôn thể (thể nói (h) Bị đồng nhất thể (Identified) năng - Sayer) / Đồng nhất thể (Identifier) (e) Đích thể (mục tiêu - Goal; (i) Thuộc tính thể (Attributor) trước đây gọi là đối tượng)
Ví dụ (tham thể được in đậm và nêu tên gọi trong ngoặc đơn kèm theo cuối câu):
21
(A) Cậu bé đang viết thư. (Động thể)
(B) Cậu bé ốm nặng. (Đương thể)
(C) Nó suy nghĩ nhiều lắm. (Cảm thể)
(D) Họ đang bàn về một dự án mới. (Ngôn thể)
(E) Cậu bé đang viết thư. (Đích thể)
(F) Cậu bé gửi thưẹho bạn. (Tiếp thể)
(G) Bà mẹ rủa chân çho con. (Lợi thể)
(H) Anh này (BỊ đồng nhất thể) là thợ mộc giỏi nhất vùng này. (Đồng nhất thể)
(I) Anh này là thợ mộc. (Thuộc tính thể)
3.1.4. Cảnh huống
Cảnh huống là yếu tô' nghĩa chỉ phương tiện, cách thức, hoàn cảnh không gian, thời gian và các kiểu quan hệ trong tình huống, đi kèm với sự thể (sự việc). Cảnh huống có thể được diễn đạt bằng từ, cụm từ, hoặc bằng một câu (trường hợp này có thể làm thành một câu phức hoặc một hợp thể câu). Sau đây là các nhóm cảnh huống thường gặp:
(a) Phương tiện, Cách thức.
(b) Không gian: Vị trí, Hướng, Điểm đến, Hướng (có) điểm đến, Đường đi.
(c) Thời gian: Thời điểm, Thời hạn, Tần sô' (số lần). (d) Nguyên nhân, Hệ quả, Điều kiện, Mục đích, Nghịch đối Ví dụ:
(Aj) Họ làm việc rất vui vẻ. (Cách thức)
(A2) Giáp mỏ cửa bằne chìa khóa riêng. (Phương tiện) (B,) Con mèo ngủ ở thềm nhà. (Vị trí)
(B2) Cậu bé mở nắp hộp ra. (Hướng)
(B3) Con mèo tha con chuột vào bếp. (Hướng-điểm đến) 22
(B4) Bọn trẻ chạy trên cầu thang. (Đường đi)
(Cị) Họ đến đây lúc 5 giờ chiều. (Thời điểm)
(C2) Họ học ở đại học bốn năm. (Thời hạn)
(C3) Nghỉ hè, Giáp đi bơi thường xuyên. (Tần số)
(D,) Con gà chết đói. (Nguyền nhân)
(D2) Giáp vừa thông minh vừa châm chỉ học tập nên đã đố cao. (Hệ quả)
(D3) Tôi đến sau nêu hôm nay vê muộn. (Điều kiện)
(D4) Giáp ra sân bay đ ể đón bạn. (Mục đích)
(D5) Cậu bé này tuy nghèo, nhưne tốt bụng. (Nghịch đối) 3.1.5ế Cấu trúc nghĩa biểu hiện và cấu trúc cú pháp Khi một sự việc được phản ánh vào trong một câu, sự thể (đặc
trưng hay quan hệ) và các vai nghĩa (tham thể và cảnh huống) kết hợp với nhau làm thành cấu trúc nghĩa biểu hiện. Sự thể và các vai nghĩa được diễn đạt bằng các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ, các yếu tố này trong một câu kết hợp với nhau làm thành cấu trúc cú pháp của câu. Vị trí cú pháp trong câu quy định các chức nãng cú pháp cụ thể, đó là vị tố, chủ ngữ, tân ngữ, bổ ngữ, Ì đề ngữ, gia ngữ.
Cách phân tích tách biệt cấu trúc cú pháp (CT CP) và cấu trúc nghĩa biểu hiện (CT NBH) được thực hiện với các ví dụ (A, B, C) cho trong các Hình 5 - 7 .
(A) Giáp tặng Tị quyển sách ấy. CTCP Chủ ngữ Vị tố Tân ngữ g. tiếp Tân ngữ
CTNBH Động thể
Động Tiếp thể Đích thể
Hình 5 Cấu trúc cú pháp và nghĩa biểu hiện của câu (A) 23
(B) Quyển sách ấy Giáp tặng Tị.
CTCP Đề ngữ Chủ ngữ
Vị tố Tân ngữ gt
CT NBH Đề tài (Đích thể)
Động thể
Động Tiếp thể
Hình 6 Cấu trúc cú pháp và nghĩa biểu hiện của câu (B) (C) Tị được Giáp tặng quyển ấy.
CTCP
Chủ ngữ.
Trợ đt bị động
Chu'7' ngữ2 Vị tố Ị
VỊ tố 2 Tán ngữ
CTNBH Tiếp thể Tác tố Động thể
Động Đích thể
H ìn h 7 Cấu trúc cú pháp và nghĩa biểu hiện của câu (C) 3.2. Chức năng lời trao đổi: câu trúc thức
3.2.1. Thức của câu tiếng Việt
Câu bao giờ cũng tồn tại dưới một thức nhất định, không có câu nằm ngoài thức. Trong các ngôn ngữ biến hình từ, cấu trúc thức thể hiện trước hết ở sự biến hình của động từ theo thức, như thức chỉ định, thức mệnh lệnh,... Thức của động từ có quan hệ với chủ ngữ (chủ ngữ tham gia như một bộ phận trong phần thức). Vì vậy, thức của động từ là hiện tượng thuộc phạm trù cú pháp-hình thái học. Trong các ngôn ngữ như tiếng Việt, động từ không biến hình, người ta phải nói đến thức của câu (sentence mood), và chủ ngữ không làm thành một bộ phận của phẩn thức. Thức của câu là giá trị tình thái của các kiểu câu trong sử dụng. Thức của câu là cơ sở để xác lập các kiểu câu (Sentence Types’ tức là các kiểu câu phân loại theo mục đích nói như thường gọi ờ Việt Nam, để phân biệt với các kiểu câu xét theo cấu trúc cú
24
pháp). Thức của câu tiếng Việt được diễn đạt bằng những dấu hiệu hình thức (những yếu tô' ngôn ngữ) ít nhiều có tính chất chuyên dụng trong việc tạo thức, với tên gọi chung là biểu thức thức (Mood Expressions). Phần còn lại trong câu có quan hệ với biểu thức thức được gọi là phần dư (Residue). Quan hệ của biểu thức thức (và các yếu tố tình thái khác) với phần dư làm thành cấu trúc thức của câu.
Biểu thức có thể khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau, nên cách xác định các thức cũng khác nhau. Biểu thức thức của tiếng Việt diễn đạt thái độ (attitude) của nguời nói và được làm thành từ một sô' hư từ, một số phó từ và một sô' bán thực từ. Phần dư là phần mang nghĩa chỉ sự thể có quan hệ với thức. Cấu trúc thức của câu là cấu trúc thực hiện chức năng liên nhân, nên biểu thức thức và phần dư không bắt buộc phải cùng mang nghĩa từ vựng cả. Đây là chỗ cấu trúc thức khác với cấu trúc cú pháp trong nghĩa hẹp thường dùng: các yếu tố trong cấu trúc cú pháp phải mang nghĩa từ vựng để cùng nhau diễn đạt nghĩa sự thể của câuvi.
Phân tích cấu trúc của thức là chỉ ra phần thức và phần dư như trong Hình 8. Phần thức gồm biểu thức thức (chỉ thái độ của người nói đối với người nghe) và các yếu tố tình thái khác (chỉ cách nhìn của người nói đối với sự việc được nói đến).
Phần thức
(Biểu thức thức + Tinh thái tố) Diễn đạt thái độ, cách nhìn của người nói
Hình 8 Cấu trúc thức của câu
Phần dư
Nêu sự việc được nói đến
Các thức của câu có mặt trong tiếng Việt là:
25
- Thức trình bày (declarative)
- Thúc nghi vấn (interrogative)
- Thức cầu khiến (imperative)
- Thức cảm thán (exclamative)
Tên gọi các thức đồng thời cũng là tên gọi các kiểu câu tương ứng. Các kiểu câu xét theo thức được dùng với chức năng liên nhân, tức là người nói (người viết) dùng chúng để tác động đến người nghe (người đọc). Chức nâng của kiểu câu, trong dụng học, còn được gọi là đích, mục đích của hành động nói. Tên gọi các chức năng có phần khác với tên gọi của kiểu câu. Tên gọi các kiểu chức năng có tính chất chung nhiều hơn, vì trên thực tế có trường hợp kiểu câu này lại được dùng với chức nãng khác (trường hợp dùng kiểu câu theo lối gián tiếp). Mật khác, sô' lượng các hành động nói khá lớn và đến nay vẫn chưa xác định cụ thể được, còn kiểu câu xét theo thức (theo mục đích nói) thì rất hữu hạn, kể cả đối với các ngôn ngữ động từ có biến hình (thức của động từ) và các ngôn ngữ động từ không biến hình (thức của câu).
3.2.2. Biểu thức thức
Tiếng Việt không có hình thái biến hình động từ theo thức. Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt có một số phương tiện hình thức dùng diễn đạt những thức khác nhau (chưa tính đến ngữ điệu), và ngay trong một thức cũng có thể có những dấu hiệu hình thức khác nhau. Các dấu hiệu hình thức có tính chất chuyên dụng cho việc tạo thức được gọi là các biểu thức thức. Biểu thức thức tiếng Việt gồm các lớp từ ngữ sau đây:
- Các tiểu từ (particles, hay các hư từ), cụ thể là:
+ Một số ngữ thái từ đứng cuối câu như à, ư, nhỉ, nhé ... đi thôi nào, lắm, quá, thật,... và ngữ thái từ thay (trong câu cảm thán).
26
+ Một sô' phó từ (hay điều biến tô' - modifier) tình thái đi kèm động từ, tính từ như hãy, đừng, chớ, (có)... không, (đả)... chưa..., lắm, quá,...
+ Quan hệ từ bình đẳng hay.
- Các biểu thức bán thực từ (semi-lexical expressions), ở đây là các đại từ nghi vấn, như ai, gì, sao, thế não, đâu, bao giờ; bao nhiêu,... - Các thán từ, quán ngữ cảm thán, nhu ô, ôi, úi chà, trời đất ơi,... Trong cấu trúc thức, các yếu tô' trên là các biểu thức thức, còn chức năng cú pháp trong câu của chúng nhìn chung là như sau: - Các ngữ thái từ à, ư,... và thay giữ vai trò phần biệt lập (làm biệt tô' tạo thức).
- Các phó từ tình thái đi kèm động từ, tính từ giữ chức năng đánh dấu thức trong cấu trúc thức của câu.
- Quan hệ từ bình đẳng hay dùng trong câu nghi vấn lựa chọn. - Các bán thực từ, cụ thể là các đại từ nghi vấn, giữ vai trò cú pháp thích hợp trong câu tương đương với các từ mà chúng thay thế, và giữ vị trí trật tự từ trong câu cũng như các từ tương ứng đó (tiếng Việt không có hiện tượng chuyển đại từ nghi vấn lên đầu câu trong câu nghi vấn).
- Thán từ và biểu thức cảm thán có thể đứng một mình làm thành câu cảm thán, hoặc đứng đầu câu với tư cách vế câu cảm thán trong câu ghép.
Cần chú ý rằng nhiều ngữ thái từ tạo thức trong tiếng Việt, ngoài nhiệm vụ diên đạt thức, cũng đồng thời diễn đạt mối quan hệ giữa người nói với người nghe xét từ phía tính lịch sự: tỏ thái độ tôn trọng hoặc thân hữu.
3.2.3. Cảu trúc thức của câu tiếng Việt
Câu nào cũng mang một thức nhất định, cũng tức là câu nào 27
cũng có cấu trúc thức. Cấu trúc thức của câu là sự kết hợp của hai bộ phận: biểu thức thức và phần dư (residue). Cấu trúc thức không dựa trên cơ sở của cùng một kiểu nghĩa, mà dựa ưên quan hệ của các yếu tố ngôn ngữ và cách người nói dùng các yếu tố đó để bày tỏ thái độ của mình. Biểu thức thức là phần đánh dấu thái độ của người nói, còn phần dư là phần nêu sự việc được diễn đạt bằng ngôn ngữ có liên quan đến thái độ đó.
Ví dụ (biểu thức thức được in đậm, phần dư không in đậm): (A) Anh tìm cái gì? (Nghi vấn)
(B) Họ về rồi à? (Nghi vấn)
(C) Hãy đi tìm Giáp đi! (Cầu khiến)
(D) Ta đi thôi! (Cầu khiến)
(E) Lão già tệ lắm! (Cảm thán - Bộc lộ)
(F) Thương thay cũng một kiếp người. (Nguyễn Du) (Cảm thán, Bộc lộ)
Cấu trúc thức của các câu (A - F) được phân tích trong các Hình 9 -1 4 .
Anh tìm cái gi?
Phần dư Biểu thức thức nghi vấn
Hình 9 Cấu trúc thức nghi vấn của câu (A)
Họ về rồi à?
Phần dư Biểu thức thức nghi vấn
H ìn h 10 Cấu trúc thức nghi vấn của càu (B)
Hãy đi tìm G iáp đi!
Phần dư
Biểu thức thức cầu khiến
Hình 11 Cấu trúc thức cầu khiến cùa câu (C)
28
Ta đi thôi!
Phần dư Biểu thức thức cầu khiến
Hình 12 Cấu trúc thức cẩu khiến của câu (D)
Lão già tệ lắm!
Phần dư Biểu thức thức cảm thán
Hình 13 Cấu trúc thức cảm thán của câu (E)
Thương thay cũng một kiếp người. Biểu thức thức cảm thán
Phần dư
Hình 14 Cấu trúc thức cảm thán của câu (F)
Về mặt cú pháp, trong câu (A), cái gì là tân ngữ (với gì là ại từ nghi vấn vể từ loại). Trong câu (B), à là biệt tô' tạo câu ghi vấn. Trong câu (C), hãy là yếu tố tạo thức, cả cụm từ đi fm giữ chức vụ cú pháp vị tô' trong câu; đi (cuối câu) là biệt 5 tạo thức. Về mật từ loại, hãy là phụ tô' tình thái, đi (cuối âu) là ngữ thái từ; hai yếu tố này hợp lại, hoặc một trong hai ếu tố này, là yếu tố đánh dấu thức cầu khiến. Trong câu D), thôi có cương vị như đi (cuối câu), nhưng thường được ùng nhiều hơn trong câu cầu khiến có ngôi thứ nhất bao gộp kiểu chúng ta). Trong câu (E), lắm là phụ tố được dùng làm ếu tố tạo thức cảm thán; các từ lão già tệ là phần dư diễn ạt nghĩa sự việc là nguyên nhân của sự cảm thán. Trong câu F), thay là biệt tô' (ngữ thái từ về từ loại); thay là yếu tố ánh dấu thức, cùng đi với kiểu cấu trúc "động từ/tính từ + anh từ".
Trong tiếng Việt, các kiểu câu nghi vấn, cầu khiến, cảm thán 29
đều có những dấu hiệu hình thức khá rõ. Riêng câu trình bày không có những dấu hiệu hình thức có tính chất chuyên dạng để xác định thức, vì động từ tiếng Việt không biến hình theo thức. Do đó có thể nói thức trình bày của câu tiếng Việt xét về hình
thức là kiểu thức không đánh dấuvii hay là có biểu thức thức zêrô (ứ). Đáng chú ý là kiểu câu trình bày cho thấy rõ nhất sự gần gũi của cấu trúc thức với cấu cú pháp của câu nói chung, mặc dù chúng khác hẳn nhau. Mối quan hệ này được dẫn ra trong ví dụ (G), với sự phân tích như trong Hình 15.
(G) Giáp tặng 77 quyển sách ấy.
CTCP Chủ ngữ Vị tố
Tân ngữ gián tiếp Tân ngữ
c r
thức
Phần dư
Biểu thức thức (ứ)
Hình 15 Cấu trúc cú pháp và cấu trúc của thức trình bày (G) 3.2.4 Các yếu tố tình thái nằm ngoài biểu thức thức Trong câu, ngoài biểu thức thức là yếu tô' tình thái tạo thức
cho câu, còn có những yếu tố tình thái (tình thái tố) khác diễn đạt những giá trị tình thái khác nhau. Các tình thái tố này trong câu tiếng Việt có thể tiếp cận từ hai phương diện: phương diện yếu tố cấu tạo trong câu và phương diện nghĩa (giá trị diễn đạt),
a. Tinh thái tố vói tư cách yếu tô cấu tạo trong câu Xét trong tư cách yếu tố cấu tạo trong câu, các tình thái tố tiếng Việt được phân biệt như sau:
- Những yếu tố chỉ xuất hiện ở bậc câu, như đấy, đây, kia, cơ (mà),... Các yếu tố tình thái chỉ xuất hiện ở bậc câu giữ chức năng biệt tố tình thái trong câu.
Ví dụ (tình thái tô' được in đậm):
30
(A) Giáp về rồi đấy.
(B) Ai hỏi Giáp đấy?
(C) Tôi đi đây.
(D) Họ mua dược năm vé bóng đá kia.
- Những yếu tô' chỉ xuất hiện ở bậc cụm từ, nhu đã, đang, sẽ, hông, chưa, vừa, mới,... xong, rồi,... thường, hay, nâng, ít,... ti kèm động từ, kể cả động từ tình thái; rất, khí, hơi, quá, lắm,... ti kèm động từ chỉ hiện tượng tâm lí và tính từ.
Ví dụ (yếu tố có liên quan được gạch dưới):
(E) Các bạn ấy không đến. (Đi kèm động từ)
(F) Họ vừa đến lúc nãy. (Đi kèm động từ)
(G) Năng nhăt chặt bị. (Tục ngữ) (Đi kèm động từ) (H) Họ rất muốn về quê. (Đi kèm động từ tình thái) (I) Khúc nhạc đang ha\ (mà họ lại cắt mất). (Đi kèm tính từ) - Những yếu tố xuất hiện ở bậc câu, nhưng có quan hệ chặt
hẽ với những từ ngữ cụ thể, như chỉ, những, đã, rồi,... Ví dụ (yếu tố có liên quan được gạch dưới):
(K) Họ chỉ mua sách (, không làm gì khác). (Gắn với động từ nua)
(L) Họ mua chỉ môt quyển sách (, không phải nhiều quyển). Gắn với cụm danh từ một quyển sách)
Câu (L) có thể có một dạng khác:
(M) Họ chỉ mua môt quyển sách (, không phải nhiều quyển). Trong (M), tiếng chỉ vể mặt hình thức thì gắn với động từ ■ma, nhưng về mật ý nghĩa lại gắn với cụm danh từ một quyển ách.
(N) Đ ã ba neà\ rồi mà bọn họ vẫn chưa trở lại. (Gắn với cụm anh từ)
31
(O) Ba neàV rồi mà bọn họ vẫn chưa trở lại. (Gắn với cụm danh từ)
b. Phương diện nghĩa của các yếu tố tình thái
bị Phàn biệt yếu tố tinh thái với gia ngữ và liên tố vé mặt nghĩa và ngữ pháp
Về mặt ý nghĩa, các yếu tô' tình thái là những yếu tô' cùng với biểu thức thức tạo nên toàn bộ phần thức đối lập với phần nghĩa biểu hiện (nghĩa kinh nghiệm) trong câu. Các yếu tố tình thái cần được phân biệt với các yếu tô' mang nghĩa biểu hiện chỉ cảnh huống và các yếu tố nối kết câu. v ề mặt ngữ pháp, yếu tố mang nghĩa tình thái tách được ra khỏi nghĩa sự việc ở bậc câu thì giữ chức năng biệt tố, yếu tố mang nghĩa cảnh huống giữ chức năng gia ngữ, yếu tố nối kết câu giữ chức năng liên tố.
Ví dụ (chức năng ngữ pháp của yếu tô' in đậm được ghi ở cuối mỗi câu):
(P) Tuần trước, TỊ đi Đà Nằng à? (Gia ngữ chỉ nghĩa biểu hiện)
(Q) Có lẽ, Tị đi Đà Nắng thật. (Biệt tố tình thái)
(R) Vì vậy, TỊ phải đi Đà Nẵng. (Liên tố)
Cấu trúc thức chung của câu được làm thành từ một bên là phần thức gồm có biểu thức thức và yếu tố tình thái (tương đương với Modus của Ch. Balli), với bên kia là phần diễn đạt nghĩa biểu hiện (tương đương với Dictum). Theo đó, các yếu tô' vừa nêu được định vị trong cấu trúc thức và trong cấu trúc cú pháp (hiểu hẹp) như ở Bdng 1.1.
Bảng 1.1 định vị gia ngữ, biệt tố tình thái và liên tố trong quan hệ với cấu trúc thức và cấu trúc cú pháp của câu
32
Loại yếu tô' Chức năng
Định vị trong CT thức
Định vị trong CT cú pháp
Yếu tố cảnh huống
Yếu tố tình thái
Biểu hiện nằm trong phần dư
Liên nhân nằm trong phần thức
nằm trong CT cú pháp (gia ngữ)
nằm ngoài CT cú pháp (biệt tố)
Yếu tô' nối kết Văn bản không nằm trong CT thức
b2 Các kiểu tình thái xét theo nghĩa
nằm ngoài CT cú pháp (liên tố)
Về mặt nghĩa, các yếu tô' tình thái diễn đạt những kiểu nghĩa khác nhau, vừa phức tạp vừa tinh tế. Sự phức tạp thể hiện ở các kiểu nội dung nghĩa khác nhau phân định được theo những bậc khái quát cao thấp: càng xuống thấp (chi tiết hoá) càng phức tạp. Sự tinh tế thể hiện ở sự chuyển biến bên trong từng kiểu nghĩa và cũng tăng dần khi đi sâu vào chi tiết.
Cơ sở của các kiểu nghĩa là hai kiểu tạo nghĩa: tình thái hoá (modalization) và biến điệu hoá (modulation). Kiểu tình thái hoá gồm có tính khả năng (probality) và tính thường thường (hay hằng tính - usuality). Kiểu biến điệu hoá gồm có sự bát buộc (obligation) và sự mong muốn (inclination)viii.
Kiểu tạo nghĩa tình thái hoá diễn đạt tính khả năng và tính thường thường; kiểu tạo nghĩa biến điệu hoá diễn đạt sụ bắt buộc và sự mong muốn. Hệ thống hai kiểu tình thái này và các kiểu nghĩa khái quát của chúng được nêu trong Hình 16.
33
''(1) tình thái (i) tính khả năng (‘có thể’)
kiểu hoá (ii) tính thường thuờng (“thinh tình thái* thoảng”>
(2) biến điệu (i) sụ bắt buộc (‘được cần đến’)
h°á (ii) sự mong muốn (‘muốn gì đó’)
Hình 16 Hệ thống tình thái và các kiểu nghĩa cụ thể (Lược dẫn theo [21, tr. 357])
Cơ sở của sự chuyển biến nghĩa là tính phân cực (polarity) với hai cực: cực dương tính (positive) và cực âm tính (negative). Tính phân cực được áp dụng vào cả hai cách tạo nghĩa tình thái hoá và biến điệu hoá, tạo ra những bậc khác nhau có thể chia khái quát thành ba bậc "cao", "vừa", "thấp" nằm giữa hai cực như được minh hoạ trong Hình 17.
tình thái hoá
[thường thường][tính khả
năng]
có
khẳng địnl'
[sự bắt buộc]
biến điệu hoá [sự mong muốn]
làm !
chắc chắn
phảĩ^ ^thụờrờng xuyên
quyết/xin
rất có Thường/hay / thường thể
có thể có lẽ/ ít thinh thoảng không
khuyên phủ định
muốn đưọ
:n hi vọng không làm!
Hình 17 Lược đồ chỉ mối quan hệ của tính tình thái với tính phàn cực và với phần thức.
34
[Lược dẫn theo M. A. K. Halliday 1994, An Introduction to Functional Grammar, tr. 357]
Sau đây là một số ví dụ minh hoạ các kiểu nghĩa tương ứng theo các thang độ trong lược đồ trên, tình thái tố được in đậm, tiếng trong ngoạc đơn có thể xuất hiện.
(1) Tinh thái hoá:
(1) Tính khả năng
(Sị) Tị có đi Đà Nắng.
(S2) Tị chắc chắn đi Đà Nằng.
(83) Tị rất có th ể đi Đà Nẵng.
(54) Tị có lẽ đi Đà Nắng.
(55) Tị không (hề) đi Đà Nắng.
(ii) Tính thường thường
(Tị) Tị có đi Đà Nắng.
(T2) Tị thường xuyên đi Đà Nắng.
(T3) Tị hay đi Đà Nấng.
(T4) Tị ít đi Đà Nẵng.
(T5) Tị không (bao giờ) đi Đà Nang.
(2) Biến điệu hoá
(i) (Sựbắt buộc [Trong các ví dụ này Tị là người nhận lệnh!] (U,) 7 7 nhất thiết phải đi Đà Nằng đấy!
(U2) Tị phải đi Đà Nắng!
(U3) Tị cần đi Đà Nấng!
(U4) Tị nên đi Đà Nang!
(U5) Tị khổng được đi Đà Nang!
(ii) S ự mong muốn [Trong các ví dụ này Tị là ngôi thứ ba!] (V|) TỊ yêu cầu (hay đòi) đi Đà Nang.
(V2) Tị xin đi Đà Nổng.
(V,) Tị muốn (được) đi Đà Nang.
35
(V4) TỊ hi vọng (được) đi Đà Nẵng.
(V5) Tị không (hê) muốn đi Đà Nằng.
(Các tiếng yêu cầu, xin, muốn (dược), hi vọng trong các ví dụ này là những động từ tình thái).
3ể3. Chức năng vãn bản: cấu trúc đề-thuyết
3.3.1. Câu trúc đề- thuyết
Khi đưa câu vào vãn bản, vào tình huống sử dụng, người nói phải chọn từ ngữ làm điểm xuất phát cho việc tổ chức câu. Những từ ngữ làm điểm xuất phát cho câu được coi là phần khởi đề (theme), phần còn lại được coi là phần trần thuyết (rheme), gọi gọn là phần đề và phần thuyết. Quan hệ giữa phần đề với phần thuyết làm thành cấu trúc đề-thuyết. Phần đề giới thiệu sự có mặt của phần thuyết; phần thuyết nêu điều có quan hệ về phương diện nào đó với phần đề. Quan hệ giữa phần đề và phần thuyết lấy cái được chọn làm xuất phát điểm và phần còn lại làm cơ sở, không quan tâm đến việc hai phần này có mang cùng một kiểu nghĩa hay không. Hai phần này có thể quan hệ với nhau trên cùng một kiểu nghĩa: đề nêu sự vật và thuyết nói về sự vật ở đề. Chúng cũng có thể không cùng một kiểu nghĩa: đề nêu yếu tô' diễn đạt thái độ, cách nhìn của người nói, còn thuyết nêu cái được phản ánh trong lời nói; hoặc để chỉ ra quan hệ nối kết nghla-lôgic của câu chứa nó với câu khác, hoặc nối kết nghĩa của câu chứa nó với tình huống bên ngoài lời, còn thuyết nêu sự việc được phản ánh trong câu chứa nó.
Tuỳ theo loại nội dung của phần đề xét trong quan hệ với phần còn lại của câu, có thể phân biệt ba loại đề:
- Đề - đề tài (Topical Theme), nêu thực thể hay sự việc có quan hộ về nghĩa biểu hiện với phần thuyết của câu; - Đề tình thái (Modal Theme), nêu thái độ của người nói đối với người nghe hoặc cách nhìn của người nói đối với cái được
36
nói đến trong câu (tức là trong quan hệ với phần nghĩa sự thể); - Đề vãn bản (Textual Theme), chỉ ra mối quan hệ nghĩa lôgic của câu với lời trước đó (kể cả lời của người khác), hay với tình huống.
Cấu trúc cú pháp và các loại đề-đề tài (ĐT), đề tình thái (TT), đề văn bản (VB) trong cấu trúc đề-thuyết của các ví dụ (A, B) thuộc kiểu câu trình bày (câu không được đánh dấu về cấu trúc thức) được phân tích trong các Hình 18,19.
(A) Bọn trẻ học toán.
CT Chủ ngữ Vị tố Tân ngữ
CP
CT đề Đ ềĐT Thuyết
Hình 18 Cấu trúc cú pháp và đề-thuyết của câu (A)
(B) Có lẽ mưa đấy.
CTCP Biệt tố Vị tố Biệt tố
CT đề ĐềTT Thuyết
Hình 19 Cấu trúc cú pháp và đề-thuyết của câu (B) Các loại để có thể cùng tồn tại trong một câu, làm thành một bội đề (Múltiple Theme, hay đề chung) trong cấu trúc đề-thuyết, như trong các ví dụ (C - G) phân tích ở các Hình 20 - 24. (C) T h ế là có xe con.
CTCP Liên tô' Vị tố Bổ ngữ
Đề VB Đề
CT đề
ĐT Thuyết
Bội đề
Hình 20 Cấu trúc cú pháp và để-thuyết của câu (Q - câu tồn tại 37
(D) Thế là bọn trẻ rủ Tị đi học. CT Liên Chủ ngữ Vị Tân ngữ Bổ ngữ CP tố tô'
Đề VB ĐềĐT
CT đề Bội đề Thuyết Hình 21 Cấu trúc cú pháp và đề-thuyết bội đề của câu (D)
(E) Lát nữa có lẽ mưa.
CTCP Gia tô' Biệt tô' Vị tố
ĐềĐT ĐềTT
CT đề
Bội đề Thuyết
Hình 22 Cấu trúc cú pháp và đề-thuyết bội đề của câu (E)
(F) Thể thì có lẽ bọn trẻ học buổi chiều. CTCP Liên tô' Biệt tố Chủ ngữ Vị tố Gia ngữ Đề VB ĐềTT ĐềĐT
CTđề
Bội đề Thuyết
Hình 23 Cấu trúc cú pháp và đề-thuyết bội đề của câu (F)
(G) Thế thì có lẽ bây giờ nó học toán. CTCP Liên tố Biệt tô' Gia tố Chủ ngữ Vị tố Tàn ngữ Đề VB ĐềTT ĐềĐT
CTđề
Bội đề Thuyết
Hình 24 Cấu trúc cú pháp và đề-thuyết bội đề của câu (G) Trong kiểu câu trình bày, nếu đề-đề tài trùng với chủ ngữ (ví dụ A, D, F) thì đó là đề không đánh dấu, nếu đề-đề tài không trùng với chủ ngữ (ví dụ E, G) thì đó là đề đánh dấu.
38
Cấu trúc đề cũng hiện diện trong các kiểu câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán, bên cạnh cấu trúc thức (CTT). Đường phân giới bên trong của kiểu cấu trúc đề có thể không trùng với kiểu cấu trúc thức. Một số ví dụ về cấu trúc thức và cấu trúc đề của kiểu câu nghi vấn, cầu khiến“, cảm thán được phân tích qua các ví dụ (H - O) trong các H ìn h 25 - 32. (Trong hình: BT = biểu thức).
(H) Anh tìm cái gì? c r r Phần du BT thức nghi vấn CT đề Đề ĐT (không đánh dấu) Thuyết
Hình 25 Cấu trúc thức nghi vấn và để-thuyết của câu (H)
(I) Họ về à?
c c r Phần dư BT thức nghi vấn CTđề Đề ĐT (không đánh dấu) Thuyết
Hình 26 Cấu trúc thức nghi vấn và đề-thuyết của câu (I)
(K) Hãy di tìm Giáp đi!
Phần dư
CTT BT thức cầu khiến
CT đề
Đề TT
ĐềĐT
Bội đề Thuyết
Hình 27 Cấu trúc thức cầu khiến và đề-thuyết của câu (K)
(L) Tìm Giáp đi!
CTT Phần dư BT thức cầu khiến
CT đề ĐềĐT Thuyết
Hình 28 Cấu trúc thức cầu khiến và đề-thuyết của câu (L) 39
(M) Anh tìm Giáp đi!
c cr Phần dư BT thức cầu khiến
CT đề Đề ĐT * Thuyết
Hình 29 Cấu trúc thức cầu khiến và đề-thuyết của câu (M) * Câu cầu khiến tiếng Việt có thể không chứa hoặc có chứa chủ ngữ. Khi có mặt chủ ngữ thì chủ ngữ là đề-đề tài (đối chiếu với câu không chủ ngữ (L) trên đây).
(N) Đi đi thôi!
c cr Phần dư BT thức cầu khiến
CT đề ĐềĐT Thuyết
Hình 30 Cấu trúc thức cầu khiến và đề-thuyết của câu (N)
(O) Lão già tệ lắm!
CTT Phần dư BT thức cảm thán
CT đề ĐềĐT Thuyết
Hình 31 Cấu trúc thức cảm thán và đề-thuyết của câu (O)
(P) Thương thay cũng một kiếp người. CTT BT thức cảm
thán
Phần dư
CT đề Để ĐT (+ yếu tố cảm thán)
Thuyết
Hình 32 Cấu trúc thức cảm thán và đề-thuyết của câu (P) Ngoài cấu trúc đề-thuyết, câu trong chức năng văn bản còn được xem xét ở phương diện cấu trúc tin. Cấu trúc tin được hiểu là sự phân bố các bộ phận mang phần nội dung "cho sẩn" và phần nội dung "mới". Phần cho sẩn được hiểu là phần nội
40
dung đã được biết, hoặc ít ra là cũng dễ nhận biết trong tình huống cụ thể đó, phần mói là phần nội dung chưa xuất hiện trước đây. Hai bộ phận này của cấu trúc tin không có vị trí ổn định trong câu, thông thường phần cho sẵn nằm ở phần đề, phần mối nằm ở phần thuyết, tuy nhiên không phải bao giờ cũng vậy. Việc tách cấu trúc tin ra khỏi cấu trúc đề-thuyết giúp tránh được những lúng túng khi phân tích cấu trúc của câu trong chức nâng tạo văn bản. Chẳng hạn có thể thấy sự khác nhau trong quan hệ giữa cấu trúc tin và cấu trúc đề-thuyết của hai ví dụ (Q, R) dưới đây. Hai câu này giống nhau về từ ngữ và cú pháp, nhung được dùng trong hai tình huống khác nhau như chúng được phân tích trong các Hình 33,34.
Giả định rằng câu (Q) trả lời câu hỏi Giáp về chưa? (Q) Giáp về rồi.
CT tin Cho sẵn Mới
CT đề Đề Thuyết
Hình 33 Cấu trúc tin và cấu trúc đề của câu (Q)
Giả định rằng câu (R) trả lòi câu hỏi Ai vê' rồi (còn ai chưa về?) (R) Giáp về rồi.
CT tin Mới Cho sẩn
CT đề Đề Thuyết
Hình 34 Cấu trúc tin và cấu trúc đề của câu (R)
3.3.2. Câu không có cấu trúc đề-thuyết: câu thứ Trên đây chúng ta đã khảo sát các kiểu câu có thể phân chia được thành phần đề và phần thuyết, tức có cấu trúc đề-thuyết. Trong ngôn ngữ còn có những câu không thể phàn chia được thành hai phần đề và thuyết, tức là không có cấu trúc đề-thuyết. (Ở đây không xét cấu trúc cú pháp của chúng, tức là không xét
41
xem các chức năng cú pháp như chủ ngữ, vị tố, tân ngữ,... có mặt hay là tỉnh lược). Những câu có cấu trúc đề-thuyết được gọi là câu trưởng (major clause), những câu không có cấu trúc đề thuyết được gọi là câu thứ (minor clause)x.
Các câu thứ thường hoạt động trong các chức năng sau đây: a. Lời gọi - đáp
Lời gọi là lời người nói thứ nhất hướng về phía người đối thoại nhằm thu hút chú ý của người đối thoại và thiết lập quan hệ giao tiếp. Lời đáp là lời của người nói thứ hai báo hiệu sự chấp nhận cộng tác. Nếu người được gọi vì lẽ gì đó không có lời đáp (hay không có dấu hiệu đáp lời) thì tức là người này không cộng tác trong cuộc thoại đó.
b. Lòi chào gặp mặt, lời chào chia tay và lời đáp Lời chào cũng thuộc loại lời bộc lộ tình cảm, hướng đến người nghe xác định và thường có lòi đáp thích đáng. Lời chào được phân biệt theo trường hợp dùng là lời chào gặp mặt và lời chào chia tay, với những lời đáp thích hợp.
c. Lời cấp báo
Lời cấp báo thường dùng trong những tình huống cấp bách và tin đưa cần ngắn gọn. Lời cấp báo có thể chia thành hai kiểu: lời cảnh báo và lời kêu la.
Lời cảnh báo
Lời cảnh báo được dùng để lưu ý người nghe trước một nguy cơ nào đấy, mà người nghe cần đề phòng. Những câu thứ cảnh báo thường gặp là: Ế, ê! Coi chừng kìa! Ngã đấy! Khéo bỏng đấy! Xe kìa! Tránh, tránh!...
Lời kêu la
Lời kêu la thường dùng để thu hút sự chú ý của người nghe chưa xác định đến một sự thể cần quan tâm hoặc đến một dịch
42
vụ cần hỗ trợ cấp bách (phân biệt với lời kêu gọi trong lời gọi đáp). Những câu thứ kêu la thường gặp là: Cháy! Rắn! Nước! (trong ý: "Cho tôi nước"), v.v...
d. Nhãn hiệu, biển hiệu
Các nhãn hiệu, tên sách báo, tên cơ quan, biển hiệu,... cũng thường được cấu tạo theo kiểu câu thứ, không có cấu trúc đề. e. Một sô câu có cấu tạo đặc biệt
Tiếng Việt không biến hình từ, nên ngoài kiểu câu thứ nêu trên, cũng tồn tại những câu thứ với các chức năng trình bày - nhất là xác nhận sự tồn tại hiển hiện của vật, hiện tượng - , chức nãng cầu khiến. Một sô' từ trong những câu này có khi khó phân biệt về từ loại, đó là những từ chỉ hiện tượng thời tiết như gió,
mưa,...
f. Lời cảm thán
Lời cảm thán trước hết là led người nói tự bộc lộ một cảm xúc mạnh của mình, nó thường không hướng đến người nghe xác định, mặc dù vẫn có thể có người nghe, vì vậy không nhất thiết phải có lòi đáp. Lời cảm thán làm thành câu thứ trong tiếng Việt thường do các yếu tô' sau đây làm thành.
- Từ ngữ cảm thán đích thực là những yếu tô' có tính chất ngôn ngữ thấp nhất, những yếu tố làm thành giới hạn bên dưới của hệ thống các yếu tô' ngôn ngữ. Đó là những yếu tô' không có nội dung rõ rệt như a, ôi, ái chà,... và hình thức âm thanh của chúng một mật không thật xác định, mặt khác lại có thể gặp trong nhiều ngôn ngữ vốn rất khác nhau (gần như ngôn ngữ nào cũng có những tiếng cảm thán như A!, Ớằ'...).
- Loại từ ngữ cảm thán thứ hai là những yếu tô' có ý nghĩa từ vựng nhưng ý nghĩa đó không được sử dụng làm nghĩa biểu hiện mà chỉ được dùng như một thứ tiếng kêu của con người có ngôn
43
ngữ, kiểu như trời ơi, trời đất ơi, cha mẹ ơi,...
- Loại từ ngữ cảm thán thứ ta là những yếu tô' có ý nghĩa từ vựng rõ rệt và ý nghĩa đó cũng được dùng như một phần giải thích lí do của sự cảm thán. Câu cảm thán sử dụng loại từ ngữ thứ ba này không chỉ đơn thuần chứa sự cảm xúc mạnh mà còn kèm hành động nhận định.
4. Cấu trúc thực hiện chức năng và cấu trúc cú pháp 4.1ẳ Phân biệt các kiểu cấu trúc trong một câu
Câu vốn là một đơn vị phức tạp, và nó càng trở nên rắc rối hơn khi chưa phân biệt rõ các kiểu cấu trúc tồn tại trong nó. Câu được sử dụng với ba siêu chức năng như đã nêu. Mỗi chức năng được thực hiện bàng một kiểu cấu trúc riêng: cấu trúc nghĩa biểu hiện (cấu trúc chuyển tác) thực hiện chức năng biểu hiện (tạo nghĩa biểu hiện, nghĩa kinh nghiệm); cấu trúc thức thực hiện chức năng của lời trao đổi (diễn đạt quan hệ liên nhân); cấu trúc đề thực hiện chức năng văn bản (diễn đạt cách tổ chức câu với tư cách một thông điệp, cách tổ chức câu trong văn bản). Để tiện làm việc, ba cấu trúc trên dược gọi là ba cấu trúc thực hiện chức nãng.
Hiểu cấu trúc cú pháp là cấu trúc của sự kết hợp, ngữ pháp chức năng tích hợp việc miêu tả cấu trúc cú pháp vào trong việc miêu tả các cấu trúc thực hiện chức năng: miêu tả ba kiểu cấu trúc trên cũng là đồng thời miêu tả cấu trúc cú pháp. Trong cách hiểu hẹp của ngữ pháp truyền thống, cấu trúc cú pháp có quan hệ nhiêu hơn với cấu trúc nghĩa biểu hiện (câu không có cấu trúc cú pháp là "câu cảm thán", chỉ sử dụng từ ngữ cảm thán, như Ôi! là một ‘phát ngôn đặc biệt’). Trên thực tế, việc miêu tả tách riêng cấu trúc cú pháp trong nghĩa hẹp có tầm quan trọng nhất định đối với việc dạy-học ngôn ngữ nói chung và dạy-học các ngôn ngữ cụ thể, bản ngữ cũng như ngoại ngữ.
44
Cấu trúc cú pháp cho thấy cách tổ chức chung của các kiểu câu có thể có trong một hệ thống ngôn ngữ cụ thể, giúp làm rõ các đặc điểm về cú pháp của ngôn ngữ đó. Cơ sở chung của các yếu tố trong cấu trúc cú pháp là nghĩa ngữ pháp, như nghĩa của chủ ngữ, bổ ngữ,... (các thuật ngữ này không bao giờ là những phạm trù thuần tuý hình thức cả, đó là những hình thức của các quan hệ nghĩa, tức là có cơ sở trong nghĩa). Cấu trúc cú pháp của câu có hai thuộc tính cơ bản sau đây:
- Tính hợp quy tắc ngữ pháp của một ngôn ngữ: Cấu trúc cú pháp cho thấy những khả năng tạo câu theo quy tắc ngữ pháp của một ngôn ngữ, nên các cấu trúc cú pháp có tính ổn định cao (điều này dễ nhận ra trong việc người bản ngữ dùng cấu trúc cú pháp của bản ngữ để diễn đạt cấu trúc cú pháp của ngoại ngữ, tạo nên hiện tượng "giao thoa" tiêu cực). Thuộc tính này là cơ sở của tính ổn định đồng đại.
- Giói hạn của tính đúng ngữ pháp: Cấu trúc cú pháp là những giới hạn của tính đúng ngữ pháp của một ngôn ngữ cụ thể ỏ lĩnh vực cú pháp. Những cách tổ chức câu vượt ra ngoài khuôn khổ các cấu trúc cú pháp cho phép ở một giai đoạn phát triển cụ thể của ngôn ngữ đều phải có lí do đầy đủ (không phải bao giờ chúng cũng đều là sai ngữ pháp). Trong đó có lí do của sự phát triển của ngôn ngữ đó. Sự biến đổi ở lĩnh vực này chừng nào được cộng đồng ngôn ngữ thừa nhận thì mới trở thành chuẩn ngữ pháp chung. Thuộc tính này là cơ sở của tính biến động lịch đại.
Với tính chất hợp quy tắc và với tư cách giới hạn của tính đúng ngữ pháp đối với một ngôn ngữ cụ thể, cấu trúc cú pháp có mật trong các cấu trúc thực hiện chức năng của một ngôn ngữ cụ thể.
Cấu trúc cú pháp được làm thành từ mối quan hệ giữa các yếu tô mang chức năng cú pháp. Các yếu tô' này gồm có ba nhóm:
45
- Các chức năng cú pháp là những yếu tô' gần gũi với nghĩa biểu hiện, tức sự thể được diễn đạt trong tâu. Mỗi yếu tô' loại này mang một chức năng cú pháp (thành phần câu) trong cấu trúc cú pháp của câu (Clause syntactic structure). Các chức năng cú pháp gồm có chủ ngữ (Subject), vị tô' (Predicator), các loại bổ ngữ (Complements), đề ngữ (Theme-complement) và gia ngữ (Adjuncts).
- Các biệt tô (Disjuncts - phần biệt lập) là những yếu tố nằm ngoài cấu trúc cú pháp, không liên quan trực tiếp đến sự thể được diễn đạt trong câu. Các biệt tố gồm có biểu thức tình thái (Modal Expressions, kể cả biểu thức thức và tình thái tố), phần gọi-đáp (Vocatives), phần phụ chú (Parenthesis), phẩn cảm thán (Exclamation).
- Liên tô (Conjunct) là yếu tố có chức năng nối kết nghĩa của câu chứa nó với câu khác hoặc với ngữ cảnh bên ngoài vãn bản. Cần chú ý rằng trong câu dù chỉ có một yếu tố trong cấu trúc cú pháp, thì câu đó cũng thực hiện được các chức năng biểu hiện, liên nhân, vãn bản. Chẳng hạn một câu như Mưa!, về cú pháp chỉ chứa vị tố, và vẫn diễn đạt chức năng biểu hiện (chỉ hiện tượng "mưa"), chức nãng liên nhân (thông báo về hiện tượng đó), chức năng văn bản (gắn với tình huống bẽn ngoài văn bản). Tóm lại, về phương diện tổ chức ngữ pháp, trong câu có bốn kiểu cấu trúc:
Cấu trúc - Cấu trúc nghĩa biểu h iện (chức năng biểu hiện) thực hiện - Cấu trúc thức (chức năng liên nhân)
chức năng -'Cấu trúc đề (chức năng văn bản) (và cấu trúc tin) - Cấu trúc cú pháp
46
4.2. Phân tích phối hợp ba kiểu cấu trúc trong câu Sự phân tích phối hợp cả ba loại cấu trúc cú pháp, cấu trúc nghĩa biểu hiện, cấu trúc đề - thuyết, giúp làm rõ thêm mối quan hệ giữa chúng và sự khác biệt giữa chúng (cấu trúc thức khó kết hợp vào đây). Cách phân tích này được thực hiện qua các ví dụ (A - C) trong các Hình 35 - 37.
(A) Giáp tặng Tị quyển sách ấy. CTCP Chủ ngữ Vị tố Tân ngữ g. tiếp Tân ngữ CTNBH Động thể Động Tiếp thể Đích thể CTđể Đề Thuyết
Hình 35 Phân tích phối hợp ba loại cấu trúc trong câu (A)
(B) Quyển sách ấy Giáp tặng Tị. CTCP Đề ngữ Chủ ngữ VỊ tố Tân ngữ gt CTNBH Đề tài (Đích thể) Động thể Động Tiếp thể CT đề Đề Thuyết
Hình 36 Phân tích phối hợp ba loại cấu trúc trong câu (B) (C) Tị được Giáp tặng q. sách ấy.
CTCP
Chủ
ngữ,
Trợđ. từ bđ
V ỊÌSi
Vị t ố ,
CTNBH Tiếp thể Tác tô' Động thể Động Đích thể CT đề Đề Thuyết
Hình 37 Phân tích phối hợp ba loại cấu trúc trong câu (C)
4.3. Phân biệt ba thứ chủ thê trong câu
Sự nhận biết cấu trúc cú pháp và các cấu trúc thực hiện chức 47
nãng của câu có liên quan đến sự phân biệt ba thứ chủ thể có mặt trong câu và nằm ở những bình diện khác nhau: - chủ thể ngữ pháp, thường gọi là chủ ngữ,
- chủ thể lôgic, và
- chủ thể tâm lí.
Chủ ngữ gắn vói cách tổ chức cú pháp của câu, và có thể có những nét riêng trong từng ngôn ngữ cụ thể. Chủ thể lôgic gắn với cách tổ chức một mệnh đề lôgic nếu nó có mặt trong câu, tức là gắn với nghĩa biểu hiện của câu. Chủ thể tâm lí gắn với ý muốn của người dùng câu trong một trường hợp cụ thể (chọn cách tổ chức câu trong văn bản hoặc trong tình huống), tức là gắn với việc chọn điểm xuất phát cho câu, liên quan đến chức năng văn bản.
Trong một câu, ba thứ chủ thể này có thể cùng có mặt, và chúng có thể cùng nhau tổn tại trong một yếu tô' ngôn ngữ mà cũng có thể tồn tại dưới ba yếu tô' ngôn ngữ tách rời nhau. Cách diễn đạt các kiểu chủ thể này được trình bày qua sự phân tích các ví dụ (A - D) trong các Hình 3 8 -4 1 .
Giáp tặng Tị quyển sách ấy.
Chủ ngữ
Chủ thể lôgic
Chủ thể tâm lí
Hình 38 Phân tích các kiểu chủ thể trong câu (A)
Quyển sách ấy Giáp tặng Tị.
Chủ thể tâm lí Chủ ngữ
Chủ thể lôgic
Hình 39 Phân tích các kiểu chủ thể trong câu (B) 48
(C) TỊ được Giáp tặng q. sách ấy.
Chủ ngữ]
Chủ thể tâm lí
Chủ ngữ2
Chủ thể lôgic
Hình 40 Phân tích các kiểu chủ thể trong câu (C)
Trong tủ có chuột.
Chủ thể tâm lí Chủ thể lôgic
Hình 41 Phân tích các kiểu chủ thể trong câu (D), câu tồn tại, không có chủ ngữ
Về lí thuyết, việc phân biệt ba chức năng khác nhau của ba chủ thể cho thấy rằng trong câu có ba tuyến nghĩa (three lines of meaning) khác nhau xuất phát từ chúng. Mỗi tuyến nghĩa hình thành một phần của một cấu hình (configuration) chức năng khác biệt, như là một tao bện thành cái sợi dây ý nghĩa tổng thể của câu. Trên cơ sở đó mà phân biệt ba chức năng khác nhau của một câu: câu hoạt động như một thông điệp, như một lời trao đổi, như sự biểu hiện kinh nghiệm.
Về mặt thực tiễn, sự phân biệt ba loại chủ thể góp phần làm rõ vai trò của các yếu tô hữu quan trong việc phân tích các phương diện khác nhau: cấu trúc cú pháp, cấu trúc nghĩa biểu hiện, cấu trúc thức, cấu trúc đề-thuyết. Nó cũng giúp tránh được những cách hiểu như cái gì là chủ thể lôgic thì cái đó là chủ ngữ (chủ thể ngữ pháp), tránh được việc đồng nhất phần đề (chủ thể tâm lí) với chủ thể lôgic và chủ ngữ, v.v.
CHÚ THÍCH
'Trong việc nghiên cứu tiếng Việt, người đầu tiên dùng tẽn gọi cáu nhằm phân biệt thuật ngữ mệnh đề của ngôn ngữ học với thuật ngữ mệnh đề của
49
lôgic học là các nhà nghiên cứu Trương Vãn Chình - Nguyễn Hiến Lê 1963 [10].
Hai nhà nghiên cứu này dã định nghĩa câu thông qua thuật ngữ sự tình, vậy muốn hiểu câu phải tìm hiểu sự tình.
“Sự tình tức là một việc xảy ra hay là ta nhận thấy, mà trong mỗi việc (hay sự tình) có sự vật làm chù thể.
“Tôi là chù thể việc “tôi di coi hát”; áo anh là chủ thể việc “áo anh dài quá”; mồng mười tháng ba là chủ thể việc mồng mười tháng ba là ngày giỏ tổ”. Ta cũng gọi tôi, áo anh, mồng mười tháng ba, là “chù sự””, (ư. 477)'
(Cần chú ý rằng “chủ thể” là thuật ngữ dùng trong việc phân tích nghĩa, không dùng trong viộc phân tích cú pháp; trong cú pháp, các nhà này dùng thuật ngữ cliù từ. Như vậy, về thực chất, định nghĩa cảu ờ đây vẫn thiên vẻ phía ngữ nghĩa lôgic.)
Câu được dùng phân biệt VỚI câu như trong cách xác định sau đây: “Trong cùng một câu diễn tà nhiều sự tình, thì mỗi tổ hợp dùng để diễn tả một sự tình, chúng tôi gọi là câu.
Câu diễn tả một sự tình là câu đơn câu, câu diễn tả nhiều sự tình là cáu phức câu, chúng tói gọi tắt là câu đơn và càu pliức." (tr. 479). Các chú thích cuối ưang (tr. 479) đi kèm từ cáu đầu tiên trong mấy dòng trích vừa dẫn đáng đuợc quan tâm:
a. - Hai tiếng N. (tức Nôm - DQB) càu và HV. (Hán Việt) câu trong ngôn ngữ thông thường vốn đồng nghĩa với nhau. Riềng về ngữ pháp, và cũng vì thấy khó đặt ra được tiếng mói, chúng tôi dùng hai tiếng theo hai nghĩa khác nhau. Nhu vậy, cũng là một cách khòi phải tạo tiếng mới, mà diễn được thêm một ý niệm mới.
Pháp ngữ cũng có cách dùng tiếng nhu thế. A. Dauzat dản trong cuốn Le génie de la langue franoaise (Payot, Paris, 1954) tr. 101 tỉ dụ bón tiếng anse, baie, golfe và rade. Bốn tiếng này vốn đồng nghĩa nhau. Anse và baie nguyên là thổ âm miền Tây và Tây Nam nước Pháp. Golfe mượn cùa ngôn ngữ ý-đại lợi, rade mượn của ngôn ngữ Nhật-nhĩ-man: Nhưng hiện nay bốn tiếng dùng trong Pháp ngữ theo nghĩa khác nhau: golfe tức là vịnh biển, baie nhỏ hơn golfe, anse nhò hơn baie\ còn rade là golfe kín gió, tàu thuyén có thể đỗ được.
50
b. - So sánh với danh từ dùng trong sách ngữ pháp của Pháp và Anh, thì cáu tđv (đọc là “tương dương với” - DQB) p. phrase hay A. sentense, mà câu tđv P. proposition hay A. clause.
P. proposition là một danh từ vừa dùng về môn luận lí học (tức lôgic học - DQB) vừa dùng về môn ngữ pháp học. Chúng tôi tưởng ta nên đặt ra hai danh từ cho hai trường hợp ấy, cũng như người Anh dùng proposition (luận lí học) và clause (ngữ pháp học), v ề luận lí học, trong cuốn Danh từ triết học (Đai Học, Huế, 1958) đã dùng mệnh đề. v é ngữ pháp học, chúng tôi đê nghị dùng câu.
Mã Kiến Trung dùng câu (do ấn loát chúng tôi tạm bỏ qua phần chữ Hán tương dưong - DQB) tđv A. sentence và đậu tđv A. clause. Nhưng trong một câu chỗ nào phải đọc ngắt ra, gọi là đậu, vậy đậu có thể chỉ là một từ kết (tức là cụm từ - DQB). Nên hiện nay nhiẻu nhà viết ngữ pháp Hán dùng cáu tử và tử cáu, để gọi tổ hợp mà chúng tôi gọi là câu và cáu.
Hiện nay có người gọi câu là tiểu cáu, xét ra đó cũng là sự mô phỏng các nhà ngữ pháp Hán gọi câu là tử câu, như hai nhà Trương Văn Chình Nguyễn Hiến Lê đã chú thích trên kia.
Cách định nghĩa câu như là cái diễn đạt một sự tình (sự việc), xét ra chi là định nghĩa căn cứ vào mặt nghĩa, bỏ qua mặt ngữ pháp, và có thể coi là một bước lùi so với hai nhà ngữ pháp dược dẫn ở đây.
Thực ra việc định nghĩa câu cho đến ngày nay cũng chưa tránh khỏi những khó khăn gặp phải như trong việc định nghĩa cáu trước đây. Trong phần lớn trường hợp người ta mặc nhiên thừa nhận và miêu tả nó về mặt cấu trúc ngữ pháp. Riêng Halliday có phân biệt ba kiểu cấu trúc khác nhau trong câu ứng vói ba chức năng của câu (x. sách này, phần Mờ đẩu, Mục: 1.3
Chức năng và cấu trúc thực hiện chức năng; X. thêm trong [DQB bài báo]). " Dẫn theo Bácli klioa tliư ngôn ngữ và ngôn ngữ liọc 1994 do R. E. Asher làm tổng chủ biên và J. M. Y. Simpson chủ biên điều phối, T. 10 Phần Chú giãi tliuật ngữ.
■" Trong Dẩn nhập Ngữ pliáp chức năng 1996, Geoff ThompÀn — người theo lí thuyết ngữ pháp chức năng cùa M. A. K. Halliday, đã đề nghị một dịnh nghĩa vể câu (một cách tiềm tàng) như là một khúc đoạn ngôn ngữ tập trung chung quanh một nhóm động từ (tr. 16). Tuy nhiên, một câu có thể
51
không chứa động từ, mà vị tố cùa nó có thể là một danh từ. Trương Vãn Chình-Nguyễn Hiến Lê 1963 và cả Halliday 1994 đều đưa khả nãng diễn đạt một sự thể vào định nghĩa VỂ câu, nhung Halliday chỉ nói đến việc diẻn đạt sự thể khi bàn về câu ở chức năng diễn đạt kinh nghiệm, tức chức năng biểu hiện. Sự kết hợp các định nghĩa về câu và về câu này lại cho ta một định nghĩa về câu đơn hoặc câu có cả các mặt định vị nó trong hệ thống ngôn ngữ, mặt cấu tạo ngữ pháp và mặt nghĩa sự việc, và những mặt này không mâu thuẫn nhau mà có tính chất bổ sung cho nhau. Tuy nhiên định nghĩa như trên vẫn là định nghĩa tách câu ra khỏi các chức năng sử dụng cùa nó. Trong đường huớng quan tãm đến ba chức nãng mà câu thực hiện, Halliday đã định nghĩa cảu với tư cách là tliông điệp (clause as message), cáu với tư cácli là lởi trao đổi (clause as exchange) vả cảu với tư cách sự biểu hiện (clause as representation).
Cũng cần nói thêm rằng hai cách định nghĩa sau đây về câu không giúp được nhiều cho việc giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa hai tên gọi “câu” và “câu”:
Câu là: 1 Một đơn vị cú pháp gồm có một chủ ngữ và một vị ngữ, một mình dơn vị này làm thành một câu đơn và khi kết hợp với các đơn vị tương tự khác thì làm thành câu ghép hoặc câu phức.
2 Trong các ngữ pháp hiện đại, có khi được diễn tả nhu là một đơn vị rộng hơn một cụm từ nhưng lại nhỏ hơn một câu, nhằm biện hộ cho những câu không lọt được vảo cái khuôn hình cổ truyền ‘chù ngữ, vị ngữ’.
(Bácli klioa thư Iigôn ngữ và lìgôn ngữ học, 1994, do R. E. Asher làm Tổng chủ biên, J. M. Y. Simpson là chủ biên điều phối, T. 10, Phần Chú giải thuật ngữ)
lv Thông điệp (message) là lời nói hay lời viết được gửi đi từ nơi này dến nơi khác, không tính đến ý định của người nói. v ề phương diện chức nàng phát ngôn (hay lời trao đổi - utterance) khác thông điệp chính là ờ chỗ phát ngôn bao giờ cũng được xét chủ yếu ờ phương diện ý định cùa người nói.
v Phần nêu đặc ưưng hoặc quan hệ cùa tham thể trong sự việc được gọi bằng những thuật ngữ khác nhau. Trong Ngữ pháp chức năng cùa s. Dik, nó được gọi là sự thể, như vậy là thuật ngữ sự thể ở đấy được dùng trong hai nghĩa: (1) sự việc được nói đến trong câu; (2) phần chi đặc trưng hay quan
52
hệ, với sự phân biệt thành hành động, quá trình, tư thế, ưạng thái. Trong Ngữ pMp chức năng của Halliday (1994), nó dược gọi lả quá trình, ở đây, để tránh hiểu quá trình theo kiểu cùa Dik, phần đó đuợc gọi là sự thể, hoặc gọi theo kiểu miêu tả là phần nêu đặc trưng hay quan hệ ở những chỗ có thể khó hiểu do có sự trùng lặp với sự thể là sự việc được phản ánh trong câu. Tên gọi sự thể dùng cho phần đang bàn có lẽ là hợp lí hơn, vì kiểu loại của một sự thể không chi do phần đó quyết định, mà còn chịu sự chi phối của kiểu quan hệ với các tham thể. Trên cơ sờ đó có thể nói đến loại hình các sự thể (Types of SoA); trong hệ thống cùa Halliday thì đó là loại hình các quá trình.
" Trong nghĩa rộng, cú pháp là “kết hợp”, cho nên mọi sự kết hợp có quy tắc đều là cấu trúc cú phấp. Theo đó thì cấu trúc thức, cấu trúc đề-thuyết cũng là cấu trúc cú pháp. Cách hiểu cấu trúc cú pháp theo nghĩa hẹp, gắn với các yếu tố mang nghĩa từ vựng phản ánh sự việc dược nói đến trong câu. Theo đó các cấu ưúc có mặt trong câu như cấu trúc thức, cấu trúc đề
thuyết... có thể gọi chung là cấu trúc ngữ pháp, để phân biệt chúng với cấu trúc cú pháp trong cách hiểu hẹp vốn có trong ngữ pháp truyền thổng. vii Cách gọi thức trình bày là thức không đánh dấu là chỉ xét ở mặt hình thức cấu tạo. Xét về mặt giá trị sử dụng thì không thể coi thức trình bày là có tính chất cơ bản hơn các thức khác, tức là coi nó là thức khòng đánh dấu. Vì việc coi thức trình bày là cơ bản sẽ kéo theo cách nhìn nhận ngôn ngữ về thực chất là công cụ để diễn dạt ý tưởng mệnh đề (the instrument for the expression of prepositional thought - Lions 1982, p. 103; dẫn theo F. Kiefer, 1994. (Trong [64. Vol. 5. p. 2516])
Theo một số nhà nghiên cứu về tình thái, thì sự bắt buộc và sự mong muốn có nhiều khả năng thuộc về công việc của dụng học. Theo đó, ngữ pháp chức nãng cùa Halliday có sự phân biệt trong ngữ pháp phần tình thái hoá liên quan đến mật nghĩa học và phần biến điệu hoá Liên quan đến dụng học. Cách quan niệm tình thái của hành động nói thuộc về dụng học có thể va chạm với vấn đề câu ngôn hành tường minh: chẳng lẽ trong một câu như Tôi xin hỏi anh bây giờ là mấy giờ rồi? lại không có phần cùa nghĩa học? Động từ hỏi dùng ờ đây chảng lẽ không thuộc nghĩa học?
ix Động từ tiếng Việt không biến hình nên cấu trúc thức cầu khiến được đánh dấu bằng các phó từ như háy, đỉmg, chớ, không được (như trong: Không được làm
53
ổn!) hoặc các ngữ thái từ như đi, thôi, nào. Động từ không mang hình thái cùa thức như các ngôn ngữ biến hình từ. Một câu cầu khiến không chứa phó từ hoặc ngữ thái từ được coi là không được đánh dấu vê thức (kiểu như: Im ').
* L. Thompson (Second printing, 1967) cũng đã dùng thuật ngũ câu tiuớng (Major sentences) và câu thứ (Minor sentences) như là những thuật ngữ quan hộ đến mặt tổ chức ngữ pháp cùa câu, chứ không phải chức nâng văn bản như cách dùng câu trường, câu thứ cùa M. A. K. Halliday.
54
DẠNG BỊ ĐỘNG VÀ VẤN ĐỂ
CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG VIỆT
NGUYỄN HỒNG C ổ N
BÙI THỊ DIÊN
Dạng bị động (passive voice), và cùng với nó là khái niệm câu bị động (passive sentence), là một hiện tượng ngữ pháp điển hình của các ngôn ngữ Ấn - Âu. Mặc dù xét vể mặt chức nãng, khái niệm này đề cập trực tiếp đến mối quan hệ ngữ pháp giữa động từ và các thành tố ngữ pháp nòng cốt là chủ ngữ và bổ ngữ, nhưng ngữ pháp truyền thống châu Âu, dựa vào phương thức biểu hiện của nó, thường quy dạng bị động về phạm trù hình thái học của động từ (phạm trù dạng - voice). Trong các công trình ngữ pháp hiện đại, dạng bị động nói chung và câu bị động nói riêng được xem xét và kiến giải theo nhiều hướng khác nhau (phổ niệm, loại hình, chức nãng). Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều vấn đề liên quan đến dạng/câu bị động trong các ngôn ngữ vẫn chưa được làm sáng tỏ, chẳng hạn: Bị động là một hiện tượng có tính phổ quát hay có tính loại hình? Dạng/câu bị động có những đặc điểm gì giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ?
Trong tiếng Việt, bị động cũng là một vấn đề ngữ pháp gây nhiều tranh cãi. Một sô nhà Việt ngữ học cho rằng tiếng Việt không có dạng bị động hay câu bị động vì tiếng Việt không biến đổi hình thái. Một sô' khác cho rằng mặc dù tiếng Việt không có dạng bị động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp của động từ
55
nhưng vẫn có thể nói đến kết cấu/câu bị động trong tiếng Việt cần cứ vào sự tồn tại của các cấu trúc có vị ngữ gồm được/ bị kết hợp với một động từ ngoại động.
Để góp phần trả lời những câu hỏi trên đây, trong bài viết này chúng tôi sẽ điểm luận lại một số vấn đề liên quan đến hiện tượng bị động trong các lí thuyết ngữ pháp và thảo luận thêm về vấn đề câu bị động trong tiếng Việt. Nội dung của bài viết bao gồm 2 phần: 1. Dạng bị động trong các lí thuyết ngữ pháp; 2. Vấn đề câu bị động trong tiếng Việt.
1. Dạng bị động trong các lí thuyết ngữ pháp
1.1. Dạng bị động trong Ngữ pháp truyền thống Thuật ngữ “dạng” (có người gọi là “thái”) được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh tương ứng là "voice" vốn bắt nguồn từ danh từ La Tinh vox có nghĩa là "âm thanh, từ" (Asher 1994: 4938). Theo ngữ pháp truyền thống, dạng là một trong số các phạm trù ngữ pháp điển hình của động từ (như: ngôi, thời, thể, v.v), trước hết là của các động từ ngoại động. Từ điển ngôn ngữ học và ngữ âm học của David Crystal định nghĩa về dạng như sau: “Dạng là một phạm trù được dùng trong việc mô tả cấu trúc câu hoặc mệnh đề chủ yếu liên quan đến động từ, để thể hiện cách mà các câu có thể lựa chọn mối quan hệ giữa chủ ngữ và bổ ngữ của động từ, mà không làm thay đổi nghĩa của câu.” (David Crystal 1998: 413). Hình thức biểu hiện của dạng trong các ngôn ngữ không giống nhau. Ở những ngôn ngữ có phạm trù hình thái học rõ ràng như tiếng La Tinh hay Hi Lạp, dạng luôn gắn liền với hình thái của động từ. Ví dụ, trong tiếng Hi Lạp - một ngôn ngữ có ba dạng là chủ động, trung gian và bị động, các dạng của động từ “dạy” chia ở ngôi thứ nhất số ít chẳng hạn, luôn được phân biệt bằng sự biển đổi đuôi của động từ: epaideusamen
56
(“dạy” ở dạng chủ động), epaideusametha (“dạy” ở dạng trung gian), epaideuthemen (“dạy” ở dạng bị động). Tuy nhiên, ở các ngôn ngữ có phạm trù hình thái học không rõ ràng như tiếng Anh hay tiếng Hán, phạm trù dạng được biểu hiện bằng những phương tiện khác nhau và thường gắn liền với cấu trúc cú pháp. Chẳng hạn trong tiếng Anh, các hình thức đối lập của dạng không chỉ biểu hiện bằng sự biến đổi hình thái của động từ (phụ tố hay nội biến tố) mà còn bằng phương tiện cú pháp như trợ động từ (auxiliary), trật tự từ, và tất cả các phương tiện này đồng xuất hiện trong cùng một cấu trúc cú pháp.
Trong các ngôn ngữ có phạm trù dạng, mà phần lớn là các ngôn ngữ đối cách (accusative languages), khi đề cập đến phạm trù dạng của động từ, mà chủ yếu là động từ ngoại động, người ta thường phân biệt hai hình thái đối lập của dạng là hình thái chủ động (active forms) và hình thái bị động (passive forms), cũng thường được gọi là dạng chủ động (active voice) và dạng bị động (passive voice). Sự đối lập giữa dạng chủ động và dạng bị động về mặt cú pháp được biểu hiện trước hết ở sự thay thế trật tự của chủ ngữ và bổ ngữ (hay nói đúng hơn là sự thay thế các vai nghĩa của chủ ngữ và bổ ngữ) xét trong mối quan hệ với động từ. Có thể minh hoạ về sự phân biệt này qua ví dụ sau đây:
(1 a) The cat chased the mouse. (Mèo đuổi chuột.) (1 b) The mouse was chased by the cat. (Chuột bị mèo đuổi.) Trong câu (la), động từ ở dạng chủ động, chủ ngữ ngữ pháp
của câu đồng thời cũng là tác thể. Trong câu (lb), động từ ở dạng bị động, chủ ngữ ngữ pháp là đối thể của hành động (đối tượng chịu tác động của hành động). Hai câu khác nhau vẻ dạng này mặc dù cũng biểu thị một nội dung hiện thực mà ngữ nghĩa học hiện đại gọi là đồng nghĩa biểu hiện, nhưng có sự khác biệt
57
nhau về cấu trúc cú pháp, giá trị phong cách, chức năng thông tin và chức Mãng liên kết văn bản. Câu (la), có động từ được dùng ở dạng chủ động được gọi là câu chủ động. Câu (lb) có động từ được dùng ở dạng bị động gọi là câu bị động. Như vậy, dạng bị động mặc dù là một phạm trù hình thái học, nhưng xét về bản chất nó phản ánh mối quan hệ cú pháp của các thành tố trong câu. Tương tự, về mặt hình thức, dạng bị động không chi bị giới hạn ở hình thái của động từ, mà có thể được biểu hiện bằng cả các phương tiện hình thái - cú pháp khác. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, dạng bị động vừa biểu hiện riêng bằng hình thái của động từ (động từ có đuôi -sa) vừa được biểu hiện bằng sự kết hợp giữa một trợ động từ (byt’) với hình thái của động từ ngoại động (động tính từ).
Quan niệm truyền thống coi dạng bị động như một phạm trù hình thái học của động từ, chủ yếu là của động từ ngoại động, có nhiều điểm bất cập. Thứ nhất, nó hàm ý rằng dạng bị động chỉ được biểu hiện ở động từ và bằng các phương tiện hình thái, điều này trái với thực tế của nhiều ngôn ngữ như đã nói ở trên. Thứ hai nó giả định rằng bất kì một động từ nào ở dạng chủ động cũng có một dạng bị động tương ứng. Thực tế cho thấy nhiều động từ tiếng Anh, thậm chí là động từ ngoại động (ví dụ động từ to have - có, to weigh - nặng, to cost - giá,...) không có các hình thái bị động tương ứng. Ví dụ:
(2a) John has a lot o f property.
(John có nhiều của cải.)
(2b) * A lot o f property is h a d by John.
* (Nhiều của cải được có bởi John.)
(3a) The potatoes weighed five kilos.
(Khoai tây nặng năm kilo.)
58
(3b) * Five kilos were weighed by the potatoes.
(Năm kilo được cân bởi khoai tây.) (Palmer 1994: 119).
Thứ ba, việc gắn dạng bị động vói hình thái của động từ ngoại động luôn giả định rằng chủ ngữ ở dạng bị động luôn luôn chỉ đối thể/bị thể (tương ứng với các khái niệm bổ ngữ trực tiếp). Thực tế cho thấy trong các ngôn ngữ, chủ ngữ của câu bị động có thể biểu thị những vai nghĩa khác như nhận thể, công cụ, vị trí (Givón 1990: 566, Diệp Quang Ban & Nguyễn Thị Thuận 2000). Để khắc phục những hạn chế của quan niệm truyền thống coi dạng bị động như là một phạm trù hình thái học thuần tuý (strict morphological passive), các nhà nghiên cứu ngữ pháp hiện đại đã cố gắng xem xét vấn đề dạng bị động dưới những góc nhìn mới, trong đó đáng chú ý là các cách tiếp cận của ngữ pháp cải biến tạo sinh, loại hình học cú pháp và ngữ pháp ngữ nghĩa - chức nãng.
1Ễ2. Dạng bị động trong Ngữ pháp cải biến - tạo sinh Nếu như ngữ pháp truyền thống gắn bị động với phạm trù "dạng" - một phạm trù hình thái học của động từ, thì ngữ pháp cải biến - tạo sinh lại coi bị động là một hiện tượng ngữ pháp phổ quát gắn liền với phép cải biến bị động (passive transformation) hay quá trình "bị động hoá" (passivization) trong các ngôn ngữ. Ngữ pháp cải biến - tạo sinh ở thời kì đầu (Chomsky 1957, 1962) giải thích các đặc trưng cú pháp của câu bị động như là kết quả của sự cải biến từ các cấu trúc chủ động tương ứng. Mặc dù cả cấu trúc chủ động và cấu trúc bị động ỏ đây đều là cấu trúc nổi, nhưng trong quan niệm của hầu hết các nhà ngữ pháp cải biến - tạo sinh thì cấu trúc chủ động được coi là gần gũi với sự biểu hiện của cấu trúc sâu còn cấu trúc bị động
59
được phái sinh từ cấu trúc chủ động nhờ “phép cải biến bị động” (passive transformation). Chomsky đã lí giải về điều này như sau: "Nếu ngữ pháp chứa trong cơ sở của nó cả câu chủ động và bị động thì sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều so với khi câu bị động được đưa ra khỏi bộ phận cơ sở và được miêu tả bằng cải biến" (Chomsky 1962: 488). Trong tiếng Anh “phép cải biến bị động” này diễn ra như sau:
+ Bổ ngữ của câu chủ động xuất hiện ở vị trí chủ ngữ của câu bị động và mang những thuộc tính cuả chủ ngữ (chi phối sự tương hợp của động từ vị ngữ về ngôi, số).
+ Chủ ngữ của câu chủ động xuất hiện như là một bổ ngữ có giới từ by trong câu bị động; hơn thế nữa, bổ ngữ giới từ này có thể không bắt buộc phải có mặt.
+ Động từ vị ngữ trong càu bị động xuất hiện như là một phân từ quá khứ (Ven) trong câu bị động, kèm theo một trợ động từ (be) biểu hiện ý nghĩa về thời và sự tương hợp của động từ với chủ ngữ về ngôi, số.
Phép cải biến bị động này được biểu diễn như sau (NP là các danh ngữ, V là động từ, Aux là các trợ động từ biểu thị quan hệ tương hợp giữa V và NP chủ ngữ):
(4a) NP1 -Aux -V - NP2
The police arrested the students.
(Cảnh sát bắt các sinh viên.)
-> (4b) NP2-AUX + be + en -V - by - NP1
The students were arrested by the police.
(Các sinh viên bị cánh sát bắt.)
Theo cách hiểu này thì phép cải biến bị động chỉ tác động đến cấu trúc bề mặt của câu, nên không làm thay đổi ý nghĩa của
60
câu. Nói cách khác, câu bị động tuy khác với câu chủ động về mật cú pháp nhưng không khác biệt về nghĩa YÌ cùng có chung một cấu trúc sâu.
Cách giải thuyết của ngữ pháp cải biến giai đoạn 1 về câu bị động và phép cải biến bị động có nhiều điểm bất cập. Thứ nhất, việc quy phép cải biến bị động về sự biến đổi bề mặt đã không giải thích được những khác biệt ngữ nghĩa giữa câu bị động và câu chủ động trong các ngôn ngữ: chẳng hạn, trong ví dụ tiếng Anh nêu trên, câu chủ động đề cập đến cảnh sát (the police) với tư cách là chủ thể của hành động, trong khi câu bị động lại đề cập đến sinh viên (the students) là bị thể của hành động. Thứ hai, trái với giả thuyết của phép cải biến bị động, có nhiêu câu chủ động trong các ngôn ngữ không thể chuyển đổi thành các câu bị động tương ứng. Nhằm khắc phục những hạn chế trên đây, Lí thuyết chuẩn (Standard theory) - ngữ pháp cải biến giai đoạn 2 (Chomsky 1965), xem câu bị động cũng là một loại cấu trúc sâu như các kiểu câu khẳng định, chủ động. Theo đó phép cải biến bị động được coi chỉ là một trong những quy tắc bộ phận cấu tạo nên các kiểu câu, bên cạnh các quy tắc bộ phận khác như khẳng định, phủ định, hỏi, mệnh lệnh, nhấn mạnh, phản thân, v.v. Tuỳ thuộc vào sự phối hợp của các quy tắc bộ phận này mà các kiểu câu nhất định được hình thành. Chẳng hạn, sự phối hợp giữa quy tắc bị động (Pass - Pasive) với các quy tắc khẳng định (Aff- afirmative), phủ định (Neg-negation), hỏi (Q - question),... cho tiếng Anh các kiểu câu sau đây:
(5a) Aff + Pass: The cup was broken by John. (5b) Aff + Neg + Pass: The cup wasn't broken by John. (5c) Q + Pass: Was the cup broken by John?
61
(5d) Q + Neg + Pass: This house was built by his uncle, wasn't it?
Tuy nhiên, việc đưa phép cải biến bị động cũng như các quy tắc bộ phận khác vào cấu trúc sâu vẫn không giúp Lí thuyết chuẩn giải thích được những hiện tượng ngữ nghĩa như tiền giả định hay tiêu điểm. Do đó, Chomsky đã phát triển Lí thuyết chuẩn thành Lí thuyết chuẩn mở rộng Extended Standard Theory), với sự thừa nhận rằng ngữ nghĩa của câu không chì được quyết định bởi cấu trúc sâu mà cả cấu trúc nổi.
Khác với ở Lí thuyết chuẩn, trong Lí thuyết chuẩn mở rộng, các quy tắc bộ phận như phép cải biến “bị động” đã bị hạn chế về khả năng hành chức của chúng. Hơn nữa, những điều kiện áp dụng các quy tắc đã làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề khác nhau về khả năng phát sinh của câu bị động. Vì vậy, Chomsky đề xuất một lí thuyết mới, lí thuyết Quy tắc và Giới hạn (Principles and Parameters), trong đó tất cả các phép cải biến được quy gọn thành một quy tắc chuyển di phạm trù (move category). Phân tích câu bị động (22b), Chomsky (1981) đã gán cho nó cấu trúc chìm (hay cấu trúc - D) như sau:
(6) E were arrest + ed the students.
Chomsky đã đưa ra một điều kiện hình thức hợp lí mà ông gọi là tiêu chí theta. Điều kiện này nói rõ rằng ở bất kì vị trí nào có một tham tô' được điền thì đều được ấn định chính xác một vai nghĩa, và các vai nghĩa chỉ có thể được ấn định cho những vị trí được điền bởi các tham tố. Theo đó, vì vị trí chủ ngữ không chứa đựng một tham tô nên không có vai nghĩa nào được ấn định cho nó. Trong sơ đồ cấu trúc sâu (6) vị trí này được kí hiệu bằng chữ E (Empty), hàm ý rằng danh ngữ làm bổ ngữ có thể di chuyển tới đó. Những điều kiện chung về sự di chuyển đảm bảo rằng vị
62
trí chủ ngữ là vị trí có giá trị duy nhất, trong đó các đặc điểm chủ yếu của câu bị động được phát sinh từ sự tương tác của các điều kiện chung hữu quan. Mặc dù cách phân tích trên đây của Chomsky cho phép giải thích cơ chế hình thành cấu trúc bị động nhưng vẫn có một điểm hạn chế liên quan đến vai nghĩa tác thể. Theo Chomsky (1981) thì vai nghĩa này được coi là bị loại bỏ (suspended) trong cấu trúc bị động, nhưng có những chứng cứ cho thấy nó vẫn có mặt, bằng chứng là các phụ ngữ nhạy cảm với sự hiện hữu của tác thể vẫn xuất hiện trong các câu bị động (7):
(7a) The students were purposefulli arrested.
(Các sinh viên đã bị bắt một cách có chủ ý.)
(7b) The students were arrested to avoid a fuss. (Asher: 2961)
(Các sinh viên đã bị bắt đ ể tránh rắc rối.)
Điều đó cho thấy trong câu bị động có chủ ngữ tác thể bị tỉnh lược, tác thể vẫn có mặt như một vai nghĩa tiềm ẩn chứ không phải bị loại bỏ hoàn toàn. Tóm lại, mạc dù có sự khác biệt trong cách giải thuyết về câu bị động ở các giai đoạn khác nhau, nhưng điểm thống nhất chung trong quan niệm của Chomsky là vẫn gắn câu bị động với phép cải biến bị động vói tư cách là một phổ niệm hình thức của các ngôn ngữ.
1.3Ễ Dạng bị động trong Loại hình học cú pháp Nếu như ngữ pháp cải biến - tạo sinh coi bị động là một hiện tượng phổ quát của các ngôn ngữ gắn liền với phép cải biến bị động, thì các công trình nghiên cứu ngữ pháp theo hướng loại hình (đặc biệt là loại hình học cú pháp) lại coi bị động là hiện tượng đặc thù, phản ánh đặc trưng loại hình vể mật cú pháp của các ngôn ngữ. Theo đó, sự tồn tại và thể hiện của dạng bị động
63
trong các ngôn ngữ có liên quan chặt chẽ với với sự phân biệt loại hình học cú pháp điển hình giữa các figôn ngữ "thiên chủ ngữ" (subject - prominent) và các ngôn ngữ "thiên chủ đề" (topic - prominent). Sự phân biệt các ngôn ngữ "thiên chủ ngữ" và các ngôn ngữ "thiên chủ đề" do Li và Thompson đề xuất lần đầu trong công trình “Subject and Topic: a new typology of language” (1976). Cơ sở của sự phân loại loại hình học này là sự phân biệt hai chức năng "chủ ngữ" và "chủ đề" của câu với hàng loạt các thuộc tính khác nhau về mặt ngữ pháp (như tính xác định của chủ ngữ và chủ đề, mối quan hệ lựa chọn giữa chủ ngữ và chủ đề với động từ vị ngữ, khả năng của chủ ngữ và chủ đề trong việc biểu hiện các vai nghĩa, quan hệ hợp dạng giữa động từ vị ngữ vói chủ ngữ và chủ đề, V.V.). Dựa trên sự có mặt và thể hiện của chủ ngữ và/hoặc chủ đề trong câu, hai tác giả đã phân chia các ngôn ngữ thành hai nhóm cơ bản là các ngôn ngữ thiên chủ ngữ (La Tỉnh, Hi Lạp, Nga, Anh...) và các ngôn ngữ thiên chủ đề (Việt, Hán, Lahu,...), và cho rằng dạng bị động là hiện tượng ngữ pháp điển hình của ngôn ngữ "thiên chủ ngữ" chứ không phải là của các ngôn ngữ thiên chủ đề. Như vậy, trái với giả thuyết của ngữ pháp cải biến - tạo sinh cho rằng câu bị động, sản phẩm của phép cải biến bị động, là một phổ niệm ngôn ngữ, các lí thuyết loại hình học cú pháp lại coi bị động là một hiện tượng có tính loại hình: nếu như ở ngôn ngữ "thiên chủ ngữ", bị động là hiện tượng phổ biến, điển hình thì ở các ngôn ngữ "thiên chủ đề" bị động là một hiện tượng ít gặp, ngoại lệ.
1.4. Dạng bị động trong Ngữ pháp ngữ nghla - chức năng Những công trình nghiên cứu ngữ pháp theo hướng ngữ nghĩa - chức năng sau Chomsky (Givón 1990, Dixon 1992, Palmer 1994), có khuynh hướng kết hợp cả hai cách tiếp cận phổ niệm
64
và loại hình khi xem xét hiện tượng bị động. Trái với giải thuyết của ngữ pháp cải biến - tạo sinh coi bị động như một phổ niệm hình thức của tất cả các ngôn ngữ và quan niệm của loại hình học cú pháp coi bị động như là đặc trưng riêng của các ngôn ngữ "thiên chủ ngữ" hay "đối cách", các nhà nghiên cứu ngữ pháp theo hướng ngữ nghĩa chức năng cho rằng bị động là một hiện tượng ngữ pháp vừa có tính phổ quát vừa có tính loại hình. Đề cập đến vấn đề này, Palmer đã viết như sau: "Nếu bị động là một phạm trù có giá trị về mặt loại hình học, thì cũng như các phạm trù khấc, nó phải được nhận diện qua (1) ý nghĩa hoặc chức năng mà nó có chung ở các ngôn ngữ, và (2) qua các dấu hiệu hình thức của nó trong các ngôn ngữ cụ thể". (Palmer 1994: 117). Như vậy, theo Palmer tính phổ quát của dạng/câu bị động thể hiện qua các đặc điểm ngữ nghĩa - chức năng, còn tính loại hình thể hiện qua các đặc điểm về hình thái - cú pháp của nó. Trong cách tiếp cận này, dạng bị động nói chung và câu bị động nói riêng thường được xem xét đồng thời trên cả ba bình diện là chức năng dụng học, cấu trúc ngữ nghĩa và đặc điểm hình thái cú pháp.
l ễ4.1. Về chức năng dụng học của dạng/câu bị động Theo nhiều nhà nghiên cứu (Leech 1989, Dixon 1992, Palmer 1994), có những lí do dụng học nhất định khiến cho các ngôn ngữ sử dụng các câu bị động thay thế cho câu chủ động trong một sô' tình huống giao tiếp.
a) Trước hết, câu bị động được sử đụng trong những tình huống mà người nói không muốn đề cập đến tác thể (agens). Các lí do của việc tránh đề cập đến tác thể được mô tả trong các công trình nghiên cứu khá phong phú. Đó có thể là vì: - Người nói không biết rõ tác thể.
65
(8) He was killed in the war. (Anh ấy bị giết trong chiến tranh.)
- Người nói biết nhưng không muốn đề cập đến tác thể (vì muốn giữ bí mật, vì lịch sự, V.V.):
(9) The police was informed that a lot o f money is missing (Cảnh sát được thông báo rằng một lượng tiền lớn đã biến mất.)
- Tác thể đã được nhắc đến ở câu trước hoặc sau đó. (lOỴThe soldiers invaded the village. The entire place was burned down.
(Bọn lính ập vào làng. Toàn bộ khu vực bị thiêu huỷ.) - Tác thể có thể được người nghe ngầm hiểu nhờ tình huống: (11) The plane was brought down safety.
(Máy bay đã (được) hạ xuống an toàn.)
- Tác thể được hiểu là mọi người hay dư luận nói chung: (12) It is rumored that he will get marriage
(Người ta đồn rằng anh ấy sắp cưới vợ.)
b) Lí do thứ hai khiến các ngôn ngữ sử dụng câu bị động là người nói không muốn đề cập đến bản thân hành động mà chỉ muốn nhấn mạnh đến kết quả do hành động đó mang lại đối với bị thể:
(13) The document have been thrown away.
(TàI liệu đã bị quang hết đi rồi.)
c) Việc sử dụng câu bị động trong các ngôn ngữ còn liên quan đến phép liên kết chủ đề và hiện tượng "đề hoá" trong diễn ngôn. Nhờ phép cải biến bị động, người nói có thể biến một phát ngôn thiếu liên kết chủ đề như (14a) thành một phát ngôn có liên kết chủ đề như (14b), thậm chí là một câu với một chủ đề duy nhất (14c):
66
(14a) The child ran into the wad. A car hit him.
(Đứa trẻ chạy xuống đường. Một chiếc xe ô tô đâm phải nó.)
(14b) The child ran into the road. He was hit by a car. (Đứa trẻ chạy xuống đường. Nó bị một chiếc xe ô tô đâm phải.)
(14c) The child ran into the road and was hit by a car.
(Đứa trẻ chạy xuống đường và bị một chiếc xe ô tô đâm phải.)
Ở đây, việc sử dụng cấu trúc bị động không chỉ tạo cho câu có được sự liên kết chặt chẽ, lô gích về chủ đề mà còn loại bỏ bót các thông tin trùng lặp, dư thừa trong phát ngôn.
d) Một lí do nữa của việc sử dụng câu bị động trong các ngôn ngữ là nhằm đáp ứng nguyên tắc tiêu điểm - cuối (end focus). Theo A. Downing & p. Locke (1995), trong những tình huống mà tác thể là tiêu điểm thông báo, thì việc dùng câu bị động cho phép người nói đưa tác thể - tiêu điểm xuống vị trí cuối câu - vị trí điển hình của tiêu điểm thông báo, như trong ví dụ tiếng Anh dưới đây:
(15a) A: Where did you get that siver bangle?
(Cậu kiếm được cái vòng bạc ở đâu vậy?)
(15b) B: It was given to me by my boy-friend.
(Bạn trai tớ cho tớ đấy.)
e) Việc sử dụng câu bị động không chỉ thoả mãn nguyên tắc ưu tiên đưa tiêu điểm về cuối mà trong nhiều trường hợp còn đáp ứng nguyên tắc hài âm đặt tham tố có độ dài lớn ở cuối câu (end - weight). Các tác thể - tiêu điểm mới được đưa vào văn bản cần được mô tả và xác định đầy đủ hơn những tham tố đã
67
biết nên thường có độ dài lớn. Vì vậy, việc người nói dùng câu bị động để đưa các tác thể - tiêu điểm có độ dài lớn về cuối câu như ở những ví dụ sau là hợp với nguyên tắc hài âm:
(16) The front seat were filled by members o f the families o f the victims. (Hàng ghế trước đã đầy ắp những người nhà cùa các nạn nhân.)
(17) The goal was scored by Barry Lee, the player with most goals to his credit this season. (Bàn thắng đã được ghi bởi Barry Lee, cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong mùa bóng này.)
f) Trong một vài ngôn ngữ, câu bị động còn được sử dụng để khắc phục một vài hạn chế cú pháp liên quan đến khả năng làm chủ ngữ của các vai nghĩa tác thể đối vối một số động từ chủ động (Palmer 1994: 137).
1.4.2. Về cấu trúc ngữ nghĩa của càu bị động
Chúng ta biết rằng một câu chủ động điển hình, xét vể mặt ngữ nghĩa, là một cấu trúc có “tính ngoại động”, gắn liền vói ba tham tô' ngữ nghĩa của cấu trúc ngoại động điển hình là tác thể, bị thể và bản thân động từ. Trong cấu trúc ngoại động (biểu thị hành động chuyển tác) các tham tố ngữ nghĩa này được minh định như sau (theo Givón 1990: 565):
a) Tác thể: là thực thể chủ động, có tính chủ ý, có khả năng quyết định, khởi xướng và chịu trách nhiệm về biến cố. Tác động là tính chất nổi bật của tác thể.
b) Bị thể: là thực thể không chủ động, không có tính chủ ý, không có khả năng quyết định, nhưng lại cho thấy những biến đổi về trạng thái của biến cố. Bị tác động là tính chất nổi bật của bị thể.
68
c) Động từ (vị ngữ): là động từ cô' kết, đoản thời, hữu kết, hiện thực, và có tình thái thời - thể, biểu hiện một biến cô' xảy ra nhanh, hoàn tất và hiện thực, nghĩa là nổi bật về phương diện tri giác và nhận thức.
Khi chuyển một câu từ cấu trúc chủ động sang cấu trúc bị động điển hình, đặc điểm ngữ nghĩa của câu bị động sẽ phụ thuộc vào sự thay đổi của ba tham tố ngữ nghĩa trên đây. Quá trình thay đổi này đối với mỏi tham tô' diễn ra như sau:
a) Giáng cấp tác thể: Trong các câu bị động điển hình, tác thể của hành động ngoại động về mặt ngữ nghĩa bị dời khỏi vị trí điển hình của nó là vị trí của chủ ngữ hay chủ đề, để chuyển đến vị trí sau hoặc bị lược bỏ hoàn toàn.
Một điều cần lưu ý là mạc dù bị giáng cấp khỏi vị trí chủ ngữ bằng cách tỉnh lược hay chuyển đến một vị trí khác, vai trò của tác thể vẫn không hoàn toàn bị loại bỏ trong cấu trúc bị động. Bằng chứng là ở những cấu trúc bị động điển hình, các trạng ngữ hướng tác thể (agent - oriented adverbs) vẫn hiện diện như trong cấu trúc chủ động (x. ví dụ 7 ở trên).
b) Thăng cấp một thành tố phi tác thể: Khi tác thể bị dời khỏi vị trí chủ ngữ, một tham tô phi tác thể được thăng cấp thành chủ ngữ. Trong tất cả các ngôn ngữ, tham tố phi tác thể có khả năng thăng cấp thành chủ ngữ/chủ đề trong câu bị động là các vai nhận thể (dative/beneficent), bị thể (patient). Givón (1990: 566) đã khái quát hoá các khả năng làm chủ ngữ/chủ đề của các vai nghĩa (phi tác thể) ở câu bị động trong sự đối lập với các vai nghĩa của chủ ngữ/chủ đề ở câu chủ động như sau:
Chủ động: (TÁC THỂ) > NHẬN THỂ > BỊ THỂ > CÁC VAI KHÁC
Bị động: NHẬN THE > BỊ THỂ > CÁC VAI KHÁC 69
c) Trạng thái hoá động từ: Quá trình thứ ba có liên quan đến ngữ nghĩa của câu bị động là quá trình trạng thái hoá “động từ ngoại động”. Nếu như ở câu chủ động, xét về mặt ngữ nghĩa, động từ phải biểu hiện một biến cô' đoản thời, hữu kết, chịu sự điều khiển của một tác thể, thì ở câu bị động điển hình, động từ ở dạng bị động có khuynh hướng tái lập biến cô' đó như một trạng thái có tính kết quả và điều này được thực hiện trước hết nhờ hai quá trình (a) giáng cấp tác thể khỏi vị trí chủ ngữ, và (b) thãng cấp một vai nghĩa phi tác thể lên vị trí chủ ngữ, như đã đề cập ở trên.
Bản chất trạng thái - kết quả của động từ trong câu bị động có thể được kiểm chứng bằng nhiều phép thử ngữ nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, có thể sử dụng một kết cấu cầu khiến (manipulative constructions), một loại kết cấu luôn đòi hỏi phải có một động từ [+ chủ ý] là bổ ngữ, để kiểm chứng. So sánh các ví dụ sau:
(18a) They asked John to leave Mary alone.
(Họ đề nghị John đ ể cho Mary yên.)
(18b) * They asked Mary to be left by John.
(* Họ đề nghị Mary được đ ể cho yên bởi John.) (Givón 1994: 572)
Trong câu (18a), to leave là động từ ở dạng chủ động, biểu hiện một hành động [+ chủ ý] nên có thể xuất hiện sau mệnh đề cầu khiến They asked John... Ngược lại trong câu (18b) to be left là dạng bị động của động từ, biểu thị một trạng thái [- chủ ý], nên không thể xuất hiện sau mệnh đề cầu khiến kiểu They asked John...
Như vậy, xét trong quan hệ với câu chủ động, ngữ nghĩa của câu bị động có liên quan đến quá trình chuyển đổi chức năng ba tham tô' ngữ nghía cùa câu chủ động: a) giáng cấp tác thể khòi
70
chủ ngữ/chủ đề của câu, b) thăng cấp một vai nghĩa phi tác thể vào vị trí chủ ngữ/chủ đẻ, c) “trạng thái hoá ” biến cô' (hành động chuyển tác) do động từ vị ngữ biểu thị. Tuy nhiẽn, câu bị động phân biệt với câu chủ động chủ yếu không phải ở đạc điểm ngữ nghĩa mà là ở đặc điểm cú pháp.
1.4.3. Về dặc điểm hình thái- cú pháp của câu bị động Đặc điểm hình thái - cú pháp của câu bị động biểu hiện chủ yếu ở phương thức mã hoá (đánh dấu) ba tham tố ngữ nghĩa của cấu trúc bị động là: (a) giáng cấp tác thể, (b) thăng cấp vai phi tác thể, (c) trạng thái hoá động từ. Theo Givón (1990: 574-575), sự ứng xử về mặt cú pháp đối với mỗi tham tố ngữ nghĩa trên thể hiện khá đa dạng ở các ngôn ngữ, nhưng tuân theo một quy luật chung như sau:
a) Đối với tác thể bị giáng cấp: Tác thể của câu bị động, nếu không bị tỉnh lược, thì sẽ bị giáng cấp theo trình tự thang độ của các vai cú pháp từ CHỦ NGỮ> B ổ NGỮ TRỰC TIẾP > B ổ NGỮ GIỚI TỪ và được mã hoá từ chỗ giống như chủ ngữ của câu chủ động điển hình đến chỗ được mã hoá giống như các vai cú pháp nằm ở cuối thang độ.
b) Đối với vai phi tác thể được thăng cấp: Chủ đề phi tác thé (The non-agent topic) của câu bị động được thăng cấp theo trình tự ngược lại thang độ của các vai cú pháp, và được mã hoá từ chỗ giống như một vai phi chủ ngữ trong câu chủ động tới chỗ giống như chủ ngữ điển hình của một câu ngoại động chủ động.
c) Đối với động từ vị ngữ của câu bị động: Sự ứng xử cú pháp của các ngôn ngữ đi từ chỗ duy trì ở động từ dạng bị động nhiều đăc điểm ngữ pháp của động từ ngoại động chủ động điển hình đến chỗ ngược lại, bằng nhiểu cách khác nhau, thể hiện nhiều hơn hình thức cú pháp của một động từ nội động - trạng thái.
71
Sở dĩ ba đặc điểm trên có vai trò đặc biệt quan trọng đối với dạng/câu bị động bởi vì với tư cách là các phương thức- mã hoá, mỗi đặc điểm trên đều nằm trong mối quan hệ đồng hình với một trong ba bình diện ngữ nghĩa - chức năng của câu bị động là: giáng cấp tác thể, thăng cấp đối thể và trạng thái hoá động từ. Cứ liệu vẻ hiện tượng bị động trong các ngôn ngữ chì ra ràng các phương thức mã hoá cấu trúc bị động về mặt hình thái - cú pháp diễn ra khác nhau giữa các ngôn ngữ. Theo Givón (1990: 574- 575), đặc trưng hình thái - cú pháp của câu bị động trong các ngôn ngữ có thể thay đổi khác nhau tuỳ thuộc vào bình diện đuợc mã hoá và phương tiện dùng để mã hoá (đánh dấu) như sau:
a) Một ngôn ngữ cụ thể có thể mã hoá chỉ một bình diện ngữ nghĩa - chức năng của dạng bị động, thậm chí chỉ một bộ phận của một bình diện. Nhưng cũng có những ngôn ngữ lựa chọn cách mã hoá nhiều bình diện.
b) Một cấu trúc cụ thể có thể mã hoá chỉ theo một bình diện, nhưng cũng có thể mã hoá xuyên theo nhiều bình diện ngữ nghĩa - chức năng phức tạp.
c) Mức độ mã hoá có thể khác biệt từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, kể cả trong phạm vi một bình diện hay phạm vi giao thoa nhiều bình diện ngữ nghĩa - chức năng phức tạp.
d) Tuỳ thuộc vào mức độ mã hoá các bình diện ngữ nghĩa chức năng của dạng bị động, kết cấu bị động trong các ngôn ngữ có sự khác biệt nhau về mặt hình thái - cú pháp.
Để minh họa, có thể lấy sự khác biệt trong cách đánh dấu các bình diện ngữ nghĩa - chức năng của dạng/câu bị động trong một vài ngôn ngữ làm ví dụ. Trong các ngôn ngữ biến hình điển hình như tiếng La Tinh và tiếng Hi Lạp, "dạng bị động" được dánh dấu chủ yếu bằng sự biến đổi hình thái của động từ vị ngữ: động
72
từ ở dạng bị động có hình thái khác với động từ ở dạng chủ động hoặc dạng trung gian. Keenan (1985: 250) gọi 4ây là kiểu" bị động thuần tuý hình thái " (strict morphological pasive). Thuật ngữ "dạng bị động" thoạt tiên được dùng để chỉ kiểu bị động này. Tuy nhiên, trong nhiều ngôn ngữ khác như tiếng Anh và tiếng Pháp, vị ngữ bị động không được đánh dấu bằng hình thái của động từ mà bằng các trợ động từ (auxiliary) đi kèm với một động tính từ hay một động từ ngoại động. Palmer (1994) gọi đây là bị động "trợ động từ" hay bị động "phân tích tính" (periphrastic pasives) và cho rằng cần phải mở rộng phạm vi khái niệm dạng bị động để có thể bao quát không chỉ kiểu "bị động thuần tuý hình thái" mà cả kiểu bị động "phân tích tính" này. Nằm trung gian giữa hai cực - tiếng Hi Lạp, một ngôn ngữ tổng hợp tính - và tiếng Anh, một ngôn ngữ phân tích tính, các ngôn ngữ Slave như tiếng Nga, tiếng Tiệp,.ễ. có cả hai kiểu bị động nói trên: kiểu bị động hình thái được đánh dấu bằng dạng động từ có đuôi -sa, và kiểu bị động phân tích tính được biểu hiện bằng một trợ động từ + một động tính từ. (x. Kacala 1989: 186). Cũng cần lưu ý thêm rằng, bên cạnh sự khác biệt vẻ phương thức đánh dấu vị ngữ, các ngôn ngữ trên còn khác biệt trong phương thức đánh dấu các vai ngữ nghĩa - cú pháp của câu bị động. Với các ngôn ngữ tổng hợp tính điển hình như tiếng La Tinh, tiếng Hi Lạp và tiếng Nga, phương thức dánh dấu chủ yếu là các hình thức biến cách của danh từ hay danh ngữ, còn với các ngôn ngữ phân tích tính như tiếng Anh thì trật tự từ và hư từ là phương tiện chủ yếu đề đánh dấu các vai ngữ nghĩa - cú pháp của câu bị động.
Tóm lại, xét theo phương thức mã hoá các bình diện ngữ nghĩa chức -năng của phạm trù bị động (động từ vị ngữ và các
73
vai ngữ nghĩa - cú pháp cần yếu) của các ngôn ngữ, có thể phân biệt hai loại bị động: 1) bị động tổng hợp tính, hay bị động - thuần tuý hình thái (stric morphological passive), được biểu hiện chủ yếu bằng hình thái của từ; 2) bị động phân tích tính, hay bị động hình thái - cú pháp (periphrastic passive), được biểu hiện chủ yếu bằng hư từ và trật tự từ. Sự khác biệt của hai loại bị động này trong các ngôn ngữ điển hình được trình bày qua bảng sau:
Kiểu bị
động Tổng hợp
tính
Phân tích
tính
74
Phương thức ngữ pháp biểu hiện quan hệ bị động
Hình thái (của từ)
(Thuần tuý hình thái)
Hình thái + Hư từ + Trật tư từ
(Hình thái - cú pháp)
Ngôn ngữ
Hi Lạp Nga
Anh
Ví dụ
Epaideusamen. (Tôi dạy.)
>
Epaideuthemen. (Tôi đươc day dỗ.)
Rabotcie
stroili dom. > Dom stroilsa rabochimi.
Rabotchie
postroili dom. > Dom byl postroen
rabotchimi.
W orkers built the houseể > The house was build by w orkers.
Chúng tôi sẽ làm rõ thêm sự khác biệt giữa hai kiểu bị động này ở phần dưới đây khi đẻ cập đến vấn đề câu bị động trong tiếng Việt.
2. Vấn đề câu bị động trong tiếng Việt
2.1Ễ Các quan niệm khác nhau về câu bị động trong tiếng Việt
Từ trước đến nay vấn đề dạng bị động nói chung và câu bị động trong tiếng Việt là một vấn để gây nhiều sự tranh cãi nhất trong giới Việt ngữ học. Mặc dù hầu hết các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng tiếng Việt không có dạng bị động với tu cách là một phạm trù hình thái học như trong các ngôn ngữ châu Âu, nhưng ý kiến của họ lại khác nhau khi nói đến sự tồn tại của câu bị động trong tiếng Việt. Tựu trung, có thể quy các ý kiến khác nhau về hai quan niệm: phủ nhận và thừa nhận sự có mặt của câu bị động trong tiếng Việt.
2ễl .l . Quan niệm cho rằng tiếng Việt không có câu bị động
Một sô' nhà nghiên cứu (G. Cardier, M.B. Emeneau, Trần Trọng Kim,...) cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, phân tích tính, động từ tiếng Việt không có các chỉ tố đánh dấu về ngôi, thời, thức, dạng,... nên không tồn tại câu bị động như các ngôn ngữ biến hình (tiếng Anh, tiếng Pháp, V.V.). Để chuyển được một câu từ dạng chủ động sang dạng bị động thì các ngôn ngữ biến hình phải dùng đến sự biến đổi hình thái của động từ. Tiếng Việt vốn là một ngôn ngữ không có hiện tượng biến hình từ nên không thể đáp ứng được tiêu chí hình thái học khắt khe này của dạng bị động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp. Chủ trương không có sự đối lập của dạng chủ động và bị động trong các ngôn ngữ này, L.c. Thompson (1965:
75
217) cũng cho rằng những cấu trúc có được và bị chỉ là sự chuyển dịch tương đương từ những cấu trúc t* động trong ngôn ngữ Châu Âu. L .c . Thompson gọi đó là cách diễn đạt bị động logic chứ không coi chúng là một phạm trù ngữ pháp tách biệt.
Ngoài tiêu chí hình thái học một số tác giả còn dựa vào đặc điểm tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề chứ không phải thiên chủ ngữ để phủ nhận sự có mặt của phạm trù bị động trong tiếng Việt. Họ cho rằng trong các ngôn ngữ thiên chủ đề thì không thể xuất hiện bị động bởi bị động là đặc trưng của các ngôn ngữ thiên chủ ngữ. Ý kiến này xuất phát từ luận điểm của Ch.N. Li và S.A. Thompson (1976) về sự đối lập giữa hai loại hình ngôn ngữ “thiên chủ ngữ” và “thiên chủ đề”. Các tác giả này cho rằng cấu trúc bị động rất phổ biến trong các ngôn ngữ thiên chủ ngữ, còn ở những ngôn ngữ thiên chủ đề thì bị động thường vắng mặt hoặc ít gặp. Nếu xuất hiện, nó thường mang một nghĩa đặc biệt, giống như bị động nghịch cảnh (adversity) trong tiếng Nhật. Dựa vào ý kiến của Ch.N. Li và S.A. Thompson (1976) một sô' tác giả (Nguyễn Thị Ảnh 2000, Cao Xuân Hạo 2001) cũng cho rằng tiếng Việt không có thái bị động, do đó không có câu bị động. Theo các tác giả, tiếng Anh và các thứ tiếng Châu Âu khác là những ngôn ngữ "thiên chù ngữ", còn tiếng Việt có đù những thuộc tính của một ngôn ngữ "thiên chủ đề", vì thế rất khó có thể có cấu trúc bị động.
Những tác giả ủng hộ quan điểm tiếng Việt không có dạng bị động và câu bị động còn dựa trên quan niệm rằng các động từ bị và được là những động từ ngoại động chính danh, nên không thể coi chúng là dấu hiệu ngữ pháp biểu hiện quan hệ bị động. Nguyễn Kim Thản (1977) cho rằng các động từ bị, được là những động từ độc lập đóng vai trò chính trong bộ phận vị ngữ
76
của câu chứ không phải là hư từ biểu thị dạng bị động của động từ. Về ý nghĩa, được có nghĩa như tiếp nhận hoặc chịu đựng một cách thích thú, còn bị biểu thị ý nghĩa chịu đựng một sự không may (chết, thất bại, v.v.) hay cũng có thể nói rằng biểu thị trạng thái rủi ro của chủ thể. v ề đặc điểm ngữ pháp, khác với bị và được trong tiếng Hán hiện đại, bị và được trong tiếng Việt vẫn còn được dùng như một thực từ chân chính, có khả nãng kết hợp rất phong phú. Từ đó, Nguyễn Kim Thản đã đi đến kết luận rằng: trong tiếng Việt hiện đại "xét về mặt lịch sử cũng như thực tế thì ý nghĩa của những động từ này (bị và được - N.H.C) vẫn giữ nguyên vẹn trong mỗi trường hợp, đặc điểm ngữ pháp của nó trước sau vẫn là đặc điểm của một động từ độc lập chứ không phải là đặc điểm của một hư từ, còn những thành phần đứng sau nó đều là bổ ngữ của nó cả.” Nói cách khác Nguyễn Kim Thản không công nhận bị/được là dấu hiệu của dạng bị động của động từ tiếng Việt và động từ tiếng Việt không có dạng bị động. Quan điểm của Nguyễn Kim Thản được Nguyễn Minh Thuyết (1986,1998) ủng hộ và làm sáng rõ thêm. Tuy nhiên, dù không thừa nhận tiếngViệt có dạng bị động như các ngôn ngữ châu Âu, nhưng cả hai tác giả đều cho rằng tiếng Việt có cách biểu hiện ý nghĩa bị động riêng của mình, đó là cách biểu hiện bằng cấu trúc cú pháp (Nguyễn Kim Thản) hay phương tiện từ vựng (Nguyễn Minh Thuyết). Theo Nguyễn Thị Ảnh (2000), thái bị động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp được biểu đạt bằng các phuơng tiện hình thái học bắt buộc tuyệt đôi chỉ có ở các ngôn ngữ “thiên chủ ngữ”, còn tiếng Việt là một ngôn ngữ “thiên chủ để” thì ý nghĩa bị động không có một hình thức biểu đạt riêng như thế. Để khẳng định tiếng Việt không có thái bị
77
động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp, tác giả đã đưa ra nhiều ví dụ chứng minh răng được, bị là những vị từ ngoại động chính danh chứ không phải là các hư từ đánh dấu "thái bị động". Quan niệm này cũng nhận được sự đồng tình của Cao Xuân Hạo
(2002).
2.1.2. Quan niệm thừa nhận tiếng Việt có câu bị động Ngược với quan niệm trên, một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng trong tiếng Việt mặc dù không có phạm trù bị động với tu cách là một phạm trù hình thái học nhưng vẫn có cấu trúc bị động hay câu bị động. Nguyễn Phú Phong (1976) thừa nhận "bị động" như là một phạm trù ngữ pháp tách biệt trong tiếng Việt. Ông biện luận rằng có thể xác lập một cặp câu chủ động - bị động tiếng Việt tương ứng về mặt chuyển dịch với cặp câu chủ động - bị động trong tiếng Pháp, và chỉ rõ mối quan hệ hình thức giữa các thành phần của mỗi cặp câu trong những thuật ngữ chung. Ông cũng cho được, bị, do là những trợ từ bị động. Hoàng Trọng Phiến (1980) quan niệm “trong tiếng Việt phương thức đôi lập bị động và chủ động không phải bằng con đường ngữ pháp thuần tuý mà bằng con đường từ vựng - ngữ pháp”. Theo tác giả, quan hệ cú pháp trong câu bị động tiếng Việt được biểu hiện như sau:
- Bổ ngữ đôi tượng trong câu chủ động trở thành chủ ngữ trong câu bị động tương ứng.
- Vị ngữ bao gồm các từ bị, được, do kèm theo động từ ngoại động.
- Chủ thể ở câu chủ động không bắt buộc phải xuất hiện trong câu bị động tương ứng.
78
Theo đó, tiếng Việt có các dạng biến đổi câu bị động từ câu chủ động dưới đây:
(la) D, Đ D2 Mẹ chiều con gái. —>
(lb) D2 Đp D, Đ Con gái được mẹ chiều.
(2a) D| Đ D2 DJ Mẹ tặng con gái quyển sách. —> (2b) D2 Đp D| Đ Dị Con gái được mẹ tặng quyển sách. (2c) D3 Đp D, Đ D2 Quyển sách được (do) mẹ tặng con gái. (3a) Dị Đ (D2 Đ2) Thầy bảo các em làm việc này. -> (3b) (D2 Đ2) Đp D| Đ Các em làm việc này do thầy bảo. (Hoàng Trọng Phiến 1980: 166 - 167).
Lê Xuân Thại (1989) cũng tán đồng một quan điểm tương tự, khi cho rằng tiếng Việt mặc dù không có các câu bị động hoàn toàn giống như câu bị động trong các ngôn ngữ châu Âu nhưng cũng có loại câu có thể gọi là câu bị động với những đặc điểm sau:
- Chủ ngữ của câu biểu thị đối tượng hành động chứ không phải là chủ thể hành động.
- Vị ngữ của câu bị động do các động từ bị, được đảm nhận. - Sau vị ngữ là một cụm chủ - vị. Ví dụ:
(4) Em học sinh này được cô giáo khen.
(5) Thành phốVinh bị máy bay giặc tàn phá.
Ngoài ra, tác giả cũng thừa nhận các câu bị động có những biến thể vắng bị/được, kiểu:
(6) Bữa cơm đã dọn ra.
(7) Ngôi nhà này xây bằng gạch.
Diệp Quang Ban và Nguyễn Thị Thuận (2000) cũng bênh vực cho sự tồn tại của câu bị động trong tiếng Việt. Theo hai tác giả, dạng (thái) bị động trong tiếng Việt không phải là dạng của động từ mà là dạng của một kiến trúc riêng với những đặc trưng
79
ngữ pháp và ngữ nghĩa xác định. Các tác giả lập luận rằng động từ trong tiếng Việt không biến hình từ, mà phạm trù dạng bị động theo cách hiểu của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Ân - Âu thì gắn liền với dạng thức biến hình của động từ trong các ngôn ngữ có biến hình từ. Kết luận hiển nhiên là động từ tiếng Việt, nếu theo cách nhìn hình thái học đó, thì không thể có dạng bị động. Tuy nhiên, các tác giả lưu ý rằng việc xem xét dạng bị động như vậy mới chỉ là kết luận về hình thái của động từ, chứ không phải nói về phạm trù ý nghĩa của thái bị động và cách biểu hiện ngữ pháp tính của nó trong tiếng Việt. Phạm trù dạng bị động của tiếng Việt theo họ vẫn có đủ tư cách một phạm trù ngữ pháp với điều kiện "bắt buộc" của ngữ pháp là sự có mặt cùa ý nghĩa ngữ pháp phải được thể hiện (đánh dấu) bằng phương tiện hình thức theo lối ngữ pháp, nghĩa là hoặc bằng phụ tố, hoặc bằng hư từ, trật tự từ hay các phương thức ngữ pháp khác, và những phương thức ngữ pháp đó có thể được dùng tách riêng hoặc dùng phối hợp với nhau. Theo đó, các tác giả đã xác định đặc điểm của kết cấu bị động tiếng Việt như sau:
- Phương thức ngữ pháp thích hợp với việc diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp bị động trong tiếng Việt là hư từ và trật tự từ. - Tính chất của động từ tham gia kết cấu bị động là động từ ngoại động và có quan hệ nghĩa với thực thể nêu ở danh từ làm chủ ngữ của toàn câu, đứng trước từ bị, được.
- Cấu trúc nghĩa của câu bị động:
+ Các vai nghĩa có khả nãng tham gia vào chức vụ chủ ngữ ngữ pháp của cáu bị động là thể đối tượng, thể tiếp nhận, thể đích, thề được lợi, thể bị hại, thể vị trí.
+ Loại hình sự thể của câu bị động là hành động với hai đặc trưng [+động\ và [+chủ ý].
80
- Xét về mặt cú pháp, câu bị động là câu có hai kết cấu chủ vị, kiểu: C- V [C-V].
Tóm lại, theo hai tác giả dạng bị động trong tiếng Việt không phải là dạng của động từ, mà là dạng của một kiến trúc riêng vói những đặc trưng ngữ pháp và ngữ nghĩa xác định.
2.2. Thảo luận thêm về câu bị động trong tiếng Việt 2.2.1. Tiếng Việt có câu bị động không?
Các điểm luận trên đây cho thấy để chứng minh sự tồn tại của cấu trúc bị động trong tiếng Việt cần làm rõ ba loại ý kiến sau đây:
- Tiếng Việt không có các phạm trù hình thái học do đó không có cấu trúc bị động.
- Tiếng Việt là một ngôn ngữ “thiên chủ đề” nên không có cấu trúc “bị động”, hoặc bị động không phải là hiện tượng cú pháp cần xem xét.
- Được/bị không phải là hư từ (trợ động từ), mà có vai trò như các động từ tình thái hay động từ thực nên không thể là dấu hiệu đánh dấu quan hệ bị động.
a) Về loại ý kiến thứ nhất, chúng tôi đã trình bày rõ trong các mục trước rằng không nên đồng nhất “dạng bị động” với tư cách là một phạm trù hình thái học với cấu trúc bị động. Ý kiến này cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến từ những góc độ khác nhau (Nguyễn Kim Thản 1977, Hoàng Trọng Phiến 1980, Lê Xuân Thại 1989, Diệp Quang Ban và Nguyễn Thị Thuận 2000). Các chứng cứ về câu bị động trong các ngôn ngữ khác cũng cho thấy, dạng của động từ chỉ là một trong nhiều phuơng thức mã hoá về mặt hình thái - cú pháp các bình điện ngữ nghĩa - chức năng khác nhau của phạm trù bị động. Nếu tuyệt đối hoá tiêu chí hình thái học, thì ngay cả trong những ngôn ngữ như tiếng
81